intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lịch sử y học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

3
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài học về Lịch sử y học này sẽ giúp người học nắm rõ được những nét khái quát về một số danh nhân y học, đồng thời giúp người học trình bày được những nét chính của quá trình phát triển y học Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo để biết thêm những nội dung chi tiết!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lịch sử y học

  1. LỊCH SỬ Y HỌC MỤC TIÊU 1. Trình bày được những nét khái quát về một số danh nhân y học. 2. Trình bày được những nét chính của quá trình phát triển y học Việt Nam. NỘI DUNG Y học là khoa học và nghệ thuật chữa bệnh, bao gồm nhiều phương pháp chăm sóc sức khỏe nhằm duy trì, hồi phục cơ thể từ việc phòng ngừa và chữa bệnh. Cho đến nay, nhiều tác giả cho rằng lịch sử y học có thể đã ra đời cùng với lịch sử phát sinh bệnh tật và lịch sử người thầy thuốc. Y học thời tiền sử dùng thảo mộc, thể tạng động vật hay khoáng chất để chữa trị mà nhiều khi chúng được người chữa trị (như tu sĩ, thầy thuốc) mô tả như là những chất thần diệu.Y học hiện đại ứng dụng các ngành khoa học sức khỏe, y sinh học, công nghệ y học để chẩn đoán và chữa trị bệnh tật bằng thuốc, phẫu thuật hoặc bằng phương pháp trị liệu khác. Sự phát triển y học thế giới và của Việt nam gắn liền với tên tuổi của các danh y như Hypocrates, Galen, Louis Pasteur, Lê Hữu Trác…. 1. MỘT SỐ DANH NHÂN Y HỌC THẾ GIỚI 1.1. Hypocrates (460-377 trước công nguyên) Ông là thầy thuốc Hy Lạp, được thừa nhận là ông tổ của ngành Y. Người ta cho rằng ông sinh ra ở đảo Cos, một hòn đảo nằm ven bờ biển Tiểu Á, gần Rhodes. Ông đã học nghề y từ người cha, vốn là một thầy thuốc. Ông đã từng đi một số nơi, có lẽ là Athen, để nghiên cứu, và sau đó ông trở lại đảo Cos để thành nghề, giảng dạy và viết sách. Trường phái Hypocrates, hay trường phái Cos hình thành xung quanh ông đã đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tách y học ra khỏi những suy luận mê tín và triết học, đưa y học thành phạm trù khoa học chính xác dựa trên quan sát khách quan và lập luận suy diễn chặt chẽ. Mặc dù Hypocrates theo quan niệm thời bấy giờ cho rằng bệnh tật là hậu quả của sự mất cân bằng của bốn loại thể dịch, ông kiên trì quan điểm rằng sự rối loạn chịu sự ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài cơ thể và thể dịch là chất tiết ra từ các tuyến. Ông tin rằng mục đích của y học là bồi đắp sức khoẻ cho bệnh nhân thông qua chế độ ăn hợp lý và các biện pháp vệ sinh, và chỉ nên sử dụng các biện pháp điều trị quyết liệt hơn khi các triệu chứng bắt buộc phải làm như vậy. Quan niệm này trái ngược với trường phái Cnidus cùng thời, nhấn mạnh đến việc chuẩn đoán chi tiết và phân loại mà bỏ qua bệnh nhân. Có lẽ Hypocrates đã có ý niệm mơ hồ về các yếu tố Mendel và bộ ghen trong di truyền, vì ông không chỉ chú ý đến dấu hiệu của bệnh, mà còn đến các triệu chứng biểu hiện trong gia đình hoặc trong cộng đồng, thậm chí biểu hiện qua nhiều thế hệ liên tiếp. Trong bộ sách đồ sộ gồm những tác phẩm viết tắt bắt nguồn từ trường phái Cos, chỉ một số ít được cho là do chính Hypocrates viết ra, mặc dù người ta có thể cảm nhận 130
  2. được ảnh hưởng xuyên suốt của ông. Trong số này, cuốn “Cách ngôn”, tóm tắt những quan sát và suy luận của ông, cùng với cuốn “Không khí, Nước và Nơi sống”, thừa nhận mối liên quan giữa môi trường và bệnh tật, được xem là quan trọng hơn cả. Bộ sách này đã được dịch thành một số văn bản, trong đó nổi tiếng là bản dịch của Littré. Mặc dù lời thề Hypocrates không trực tiếp mang lại danh tiếng cho ông, song không nghi ngờ gì nữa, nó tiêu biểu cho những tư tưởng và nguyên tắc của ông. Vẫn chi phối việc thực hành y đức của bác sỹ ngày nay, lời thể Hypocrates thường vang lên tại lễ tốt nghiệp của các trường y. Lời thề quy đinh chi tiết quyền được giữ bí mật của bệnh nhân, yêu cầu người thầy thuốc phải có cuộc sống riêng tư và nghề nghiệp đáng kính trọng và đòi hỏi họ điều trị chỉ với mục đích chữa khỏi bệnh. Lời thề Hypocrates Tôi xin thề trước Apollon thần chữa bệnh, trước Es – culape thần y học, trước thần Hygie và Panacée, và trước sự chứng giám của tất cả các nam nữ thiên thần, là tôi sẽ đem hết sức lực và khả năng để làm trọn lời thề và lời cam kết sau đây: Tôi sẽ coi các thầy học của tôi ngang hàng với các bậc thân sinh ra tôi. Tôi sẽ chia sẻ với các vị đó của cải của tôi. Tôi sẽ coi con của thầy như anh em ruột thịt của tôi, và nếu họ muốn học nghề y thì tôi sẽ dạy cho họ không lấy tiền công mà cũng không hề giấu nghề. Tôi sẽ truyền đạt cho họ những nguyên lý, những bài học truyền miệng và tất cả vốn hiểu biết của tôi cho các con tôi, các con của thầy dạy tôi và cho tất cả các môn đệ cùng gắn bó bởi một lời thề đúng với Y luật mà không truyền cho một ai khác. Tôi sẽ chỉ dẫn mọi chế độ có lợi cho người bệnh tuỳ theo khả năng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ tránh mọi điều xấu và bất công. Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu và cũng không tự mình gợi ý cho họ; cũng như vậy, tôi cũng sẽ không trao cho bất cứ người phụ nữ nào thuốc sảy thai. Tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và thân thiết. Tôi sẽ không thực hiện những phẫu thuật mở bàng quang mà dành công việc đó cho những người chuyên. Dù vào bất cứ nhà nào, tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh, tránh mọi hành vi xấu xa, cố ý và đồi bại nhất là tránh cám dỗ phụ nữ và thiếu niên tự do hay nô lệ. Dù tôi có nhìn hoặc nghe thấy gì trong xã hội, trong và cả ngoài lúc hành nghề của tôi, tôi sẽ xin im lặng trước những điều không bao giờ cần để lộ ra và coi sự kín đáo trong trường hợp đó như là một nghĩa vụ. Nếu tôi làm trọn lời thề này và không có gì vi phạm tôi sẽ được hưởng một cuộc sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự quý trọng mãi mãi của mọi người. Nếu tôi vi phạm lời thề này hay tôi tự phản bội, thì tôi sẽ phải chịu một số phận khổ sở ngược lại. 1.2. Louis Pasteur Louis Pasteur sinh ngày 27/12/1821 ở Dole, một vùng của Jura, Pháp. Khám phá của ông cho rằng hầu hết các bệnh nhiễm trùng là do những mầm bênh, mang tên “lý thuyết về mầm bệnh”, là một trong sự khám phá quan trọng nhất trong lịch sử y học. 131
  3. Sự nghiệp của ông trở thành nền móng cho ngành vi sinh, và là cột mốc đánh dấu bước ngoặt của y học hiện đại. Tóm tắc những đóng góp to lớn của Louis Pasteur cho vi sinh và y học: Thứ nhất, ông đấu tranh đòi thay đổi thực hành trong bệnh viện để giảm thiểu lây lan do bệnh vi khuẩn. Thứ hai, ông phát hiện ra rằng có thể dùng dạng vi khuẩn đã làm yếu để chủng ngừa chống lại dạng vi khuẩn độc. Thứ ba, Louis Pasteur thấy rằng bệnh dại lây nhiễm nhờ một tác nhân rất nhỏ không nhìn thấy dưới kính hiển vi, nhờ đó mở ra thế giới các virut. Kết quả là ông đã triển khai được kỹ thuật tiêm vaccin cho chó chống bệnh dại và điều trị người bị chó dại cắn. Thứ tư, Pasteur đã phát triển phương pháp “tiệt trùng kiểu Pasteur”, một quy trình dùng sức nóng để tiêu diệt vi khuẩn có hại trong các loại thực phẩm dễ thiu thối mà không làm hỏng thực phẩm. Sự nghiệp của Pasteur Mỗi khám phá trong sự nghiệp của Pasteur đều là những mắt xích của một chuỗi không tách rời bắt đầu bằng tính bất đối xứng phân tử và kết thúc bằng phòng bệnh dại, theo con đường nghiên cứu trên men, tằm, bệnh của rượu và bia, vô trùng và vaccin. Từ tinh thể học tới phân tử bất đối xứng Năm 1847 ở tuổi 26, Pasteur tiến hành công trình đầu tiên về tính bất đối xứng phân tử, nêu lên cùng một lúc các nguyên lý của tinh thể học, hoá học và quan học. Ông đã đề ra định luật cơ bản: tính bất đối xứng phân chia thế giới hữu cơ với thế giới vô cơ. Nói một cách khác, các phân tử bất đối xứng luôn là sản phẩm của sinh thể sống. Công trình của ông trở thành cơ sở cho một ngành khoa học mới-ngành khoá học lập thể. Nghiên cứu sự lên men và sự tự sinh Theo yêu cầu của một nhà sản xuất rượu tên là Bigo ở miền bắc nước Pháp, Pasteur bắt đầu nghiên cứu xem tại sao rượu lại bị nhiễm những chất ngoài ý muốn trong quá trình lên men. Ông đã sớm chứng minh được rằng mỗi giai đoạn của quá trình lên men đều liên quan với sự tồn tại của một loại vi sinh vật đặc thù hay con men - một sinh vật mà người ta có thể nghiên cứu bằng cách nuôi cấy trong môi trường vô trùng thích hợp. Nhận định sáng suốt này là cơ sở của ngành si vinh. Pasteur đã giáng một đòn quyết định vào thuyết tự sinh, học thuyết đã từng tồn tại trong 20 thế kỷ cho rằng cuộc sống có thể tự nảy sinh từ những chất liệu hữu cơ. Ông cũng phát triển lý thuyết mầm bệnh. Cùng thời gian này, ông khám phá ra sự tồn tại của sự sống trong điều kiện không có oxy. “Lên men là hậu quả của sự sống không có không khí”. Khám phá về sự sống yếm khí đã mở ra con đường nghiên cứu những mầm bệnh gây nhiễm trùng huyết và bệnh hoại thư, cùng với nhiều bệnh nhiễm trùng khác. Nhờ Pasteur, người ta có thể phát minh ra những kỹ thuật tiêu diệt vi khuẩn và kiểm soát ô nhiễm. Kỹ thuật tiệt trùng kiểu Pasteur Hoàng đế Napoleon III đề nghị Pasteur nghiên cứu những bệnh ảnh hưởng đến rượu đang gây thiệt hại cho ngành sản xuất rượu. Năm 1864, Pasteur tới khu vườn nho ở Arbois để nghiên cứu vấn đề này. Ông đã chứng minh rằng bệnh của rượu là do vi sinh vật gây ra, những vi sinh vật này có thể bị tiêu diệt bằng cách đun nóng rượu đến 132
  4. nhiệt độ 550C trong vài phút. áp dụng cho bia và sữa, cách xử lý này, được đặt tên là “tiệt trùng kiểu Pasteur” đã nhanh chóng thông dụng trên khắp thế giới. Nghiên cứu bệnh nhiễm trùng ở người và động vật Năm 1865, Pasteur bắt đầu nghiên cứu những bệnh của tằm đang làm lụi bại ngành tằm tơ ở Pháp. Ông đã tìm ra tác nhân gây bệnh và cách lan truyền những tác nhân này- theo quy luật lây và di truyền- và cách ngăn ngừa bệnh. Bổ xung thêm nghiên cứu về sự lên men, giờ đây ông có thể khẳng định mỗi bệnh là do một vi khuẩn đặc trưng gây ra và những vi khuẩn này là những yếu tố ngoại lai. Với hiểu biết này, Pasteur có thể đặt ra những quy tắc cơ bản của tiệt trùng. Ngăn ngừa được lây nhiễm, phương pháp tiệt trùng của ông đã cách mạng hoá ngành ngoại khoa và sản khoa. Từ năm 1877-1887, Pasteur vận dụng cơ sở vi sinh học vào cuộc chiến chống các bệnh nhiễm trùng. Ông tiếp tục tìm ra ba vi khuẩn gây bệnh cho người: tụ cầu, liên cầu và phế cầu. Điều trị và phòng ngừa bệnh dại Louis Pasteur đã tìm ra phương pháp làm yếu các vi sinh vật độc là cơ sở cho chủng ngừa. Ông đã phát triển các vaccin chống bệnh tả ở gà, bệnh than và bệnh lợn đóng dấu. Sau khi nắm vững phương pháp chủng ngừa, ông đã áp dụng khái niệm này vào bệnh dại. Ngày 6/7/1885, lần đầu tiên Pasteur đã thử phương pháp điều trị bệnh dại của mình cho người: bé Joseph Meister đã được cứu sống. Thành lập viện Pasteur Ngày 1/3/1886, Pasteur trình bày kết quả phương pháp điều trị bệnh dại của ông trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và kêu gọi thành lập một trung tâm vaccin dại. Đông đảo dân chúng và cộng đồng quốc tế đã vận động cho việc xây dựng Viện Pasteur, một viện nghiên cứu tư đầu tiên được Tổng thống Pháp Jules Gresvy công nhận năm 1887 và được người kế nhiệm là ông Sadi Carnot khánh thành năm 1888. Theo mong ước của Pasteur, Viện được xây dựng thành một cơ sở điều trị bệnh dại, một trung tâm nghiên cứu các bệnh nhiễm trùng và một trung tâm giảng dạy. Nhà khoa học 66 tuổi đã dành trọn 7 năm cuối cùng của cuộc đời cho Viện nghiên cứu vẫn mang tên ông. Trong thời gian này, Pasteur cũng được hưởng niềm vui của danh tiếng và được tôn vinh khắp thế giới bằng những huân, huy chương có uy tín. Sự nghiệp của ông được tiếp tục và được mở rộng trên khắp thế giới nhờ lớp lớp học trò. Con người của tự do và nghiêm ngặt Sự nghiệp của Pasteur không đơn thuần là phép cộng những khám phá của ông. Nó còn tiêu biểu cho cuộc cách mạng phương pháp luận khoa học. Pasteur đặt lên trên hết hai nguyên tắc không thể bàn cãi của nghiên cứu hiện đại: tự do sáng tạo nhất thiết phải đi với thử nghiệm nghiêm ngặt. Ông đã dạy các học trò của mình: “Đừng có đưa ra điều gì mà không thể chứng minh bằng thực nghiệm”. Louis Pasteur là người theo chủ nghĩa nhân văn, luôn luôn làm việc theo hướng cải thiện địa vị của con người. Ông là một người tự do chưa bao giờ ngập ngừng khi nhận những vấn đề mà trong thời đại của ông người ta vẫn thường cho rằng chúng sẽ thất bại. 133
  5. Ông đặc biệt coi trọng việc phổ biến kiến thức và ứng dụng nghiên cứu. Trong cuộc đời của một nhà khoa học, lý thuyết và phương pháp của Pasteur đã được đưa vào thực tiễn vượt xa khỏi biến giới nước Pháp. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng quốc tế của sự nghiệp ông, các học trò của Pasteur đã đi khắp thế giới tới bất cứ nơi nào cần đến sự giúp đỡ của họ. Năm 1881, Viện Pasteur ngoài nước Pháp đầu tiên được thành lập ở Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam), mở đầu cho mạng lưới các Viện Pasteur quốc tế. Vì ông đã làm thay đổi vĩnh viễn thế giới, tổ quốc quê hương ông và cả thế giới luôn coi ông là một ân nhân của nhân loại. Sự tiến bộ của nhân loại “Tôi cầu khẩn các bạn dành sự quan tâm cho những lãnh địa thiêng liêng rất nhạy cảm có tên là các phòng thí nghiệm. Mong sao những lãnh địa này sẽ nhiều hơn và chúng sẽ được tô điểm trở thành những ngôi đền của tương lai, của thịnh vượng và sức khoẻ. Đây là nơi nhân loại sẽ lớn lên, vững mạnh và hoàn thiện. Ở đây, loài người sẽ học cách đọc được sự phát triển và sự hài hoà cá nhân trong những công việc của tự nhiên, trong khi công việc của chính loài người lại thường man rợ, cuồng tín và phá hoại:- Louis Pasteur. 1.3. Alexandre-émile-John Yersin Cuộc đời Alexandre Yesin, tên gọi đầy đủ Alexandre-émile-John Yersin, sinh năm 1863 ở Vaul-Morger, Thuỵ Sỹ. Năm 1882 ông nhận bằng tú tài văn khoa. Năm 1888, sau khi tốt nghiệp trường y Paris, ông đã chính thức nhập quốc tịch Pháp. Cũng thời gian này, ông tham gia nhóm nghiên cứu của bác sỹ Louis Pasteur. Sau đó, bác sỹ Yersin trở nên nổi tiếng qua nhiều công trình tiên phong do nhóm nghiêm cứu của Pasteur tiến hành. Niềm say mê du lịch đã đưa ông tới Việt Nam. Tháng 7/ 1891, khi tới thám hiểm những cao nguyên ở Việt Nam, ông đã phát hiện ra Đà Lạt và sau đó là nhiều nguồn nước khu vực này. Ông cũng nổi tiếng vì đã khám phá ra nhiều bí ẩn của vùng cao nguyên phía tây Việt Nam. Mặc dù Yersin yêu Đà Lạt, nhưng ngôi nhà của ông lại nằm ở Nha Trang. Tại Nha Trang, Yersin đã xây dựng Viện Pasteur, mang tên người thầy của ông. Bác sỹ Yersin cũng có một nông trại ở Nha Trang. Ông nuôi ngựa để tiến hành nghiên cứu về miễn dịch. Ông cũng có đóng góp to lớn cho ngành cao su Việt Nam. Vì chính ông là người đưa cây cao su Braxin vào Việt Nam. Alexander Yersin cũng là người xây dựng những đồn điền canh ki na đầu tiên ở Việt Nam, từ đây người ta sản xuất ra quinin. Bác sỹ Yersin sống giản dị ở Nha Trang. Ông được người dân địa phương yêu mến vì đức khiêm tốn và sự chăm sóc mà ông dành cho mọi người. Ông mua một khu trang trại bỏ hoang và sơn nó thành màu trắng. Đây vừa là nhà vừa là phòng thí nghiệm của ông. Dân địa phương thân mật gọi ngôi nhà là Lầu Ông năm hay Tháp Ngà. Năm 1940, sức khoẻ đã giảm sút, Alexander Yersin về Pháp lần cuối. Năm 1941, ông trở lại ngôi nhà thân thương ở Nha Trang, ở đây ông đã sống những ngày còn lại và trút hơi thở cuối cùng vào ngày 3/1/1943, thọ 80 tuổi. Trong di chúc, ông yêu cầu được 134
  6. chôn cất tại Nha Trang, gần gũi những người mà ông yêu mến. Vì kính trọng và biết ơn những đóng góp của ông cho mảnh đất này, hàng năm vẫn có nhiều người lớn viếng thăm ngôi mộ của ông ở Nha Trang. Sự nghiệp Alexander Yersin là một trong những người đã tìm ra vi khuẩn dịch hạch Pasteurella pestis, nay được gọi là Yersinia persin. Yersin đã nghiên cứu y học tại trường Đại học Marburg và Paris và nghiên cứu vi khuẩn học cùng với Esmile Roux ở Paris và Robert Koch ở Berlin. Năm 1888 ông và Roux đã phân lập được độc tố của vi khuẩn bạch hầu và chứng minh rằng chính độc tố- chứ không phải vi khuẩn-làm tăng triệu trứng của bệnh. Năm 1890 Yersin rời Châu Âu để làm một thầy thuốc trên tàu thuỷ hoạt động ở vùng bờ biển Đông Dương, ngay sau đó ông bắt đầu chuyến thám hiểm kéo dài bốn năm ở miền Trung. Ông đã tìm ra thượng nguồn sông Đồng Nai và khám phá ra cao nguyên Lâm Viên, nơi ông đề nghị xây dựng một thành phố và đó chính là Đà Lạt ngày nay. Năm 1892 ông vào làm ở Sở Y tế thuộc địa và năm 1894 được cử sang Hồng Kong, tại đây ông và Kitasato Shibasaburo đã độc lập tìm ra vi khuẩn bạch hầu trong khi nghiên cứu dịch bạch hầu ở Trung Quốc. Năm tiếp theo Yersin thiết lập một phòng thí nghiệm tại Nha Trang. Ở đây ông điều chế huyết thanh chống bệnh bạch hầu cho người khoẻ và gia súc, nghiên cứu nhiều bệnh gia súc, uốn ván, tả và đậu mùa. Để có tiền cho phòng thí nghiệm, mà năm 1903 được đặt tên là Viện Paster Nha Trang, ông đã tiến hành trồng ngô, lúa, cà phê và đưa cây cao su (Hevea brasiliensis) vào Đông Dương. Năm 1903-1904 ông sáng lập Trường Y ở Hà Nội nhưng lại quay về sống ở Nha Trang. Năm 1920-1923 ông đưa đến đây cây Cinchona Iedgertana, một nguồn quinin. Năm 1933 ông được phong làm giám đốc danh dự của Viện Paster ở Paris. 2. CÁC DANH Y VIỆT NAM 2.1. Hải Thượng Lãn Ông-Lê Hữu Trác (1720-1791) Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào (nay là huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Dương). Ông là nhà y học có học vấn uyên bác, nhà dược học nổi tiếng, nhà thơ, nhà văn xuất sắc, nhà tư tưởng tiến bộ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo, có ý trí độc lập sáng tạo trong nghiên cứu. Phát huy truyền thống của Tuệ Tĩnh, ông đã sưu tầm phát hiện thêm 300 vị thuốc nam (Lĩnh Nam bản thoả) đồng thời tổng hợp thêm 2854 phương thuốc kinh nghiệm phổ biến cho nhân dân áp dụng “Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng”. Ông cũng đã có những sáng tạo đặc sắc trong việc vận dụng lý luận y học vào thực tiễn Việt Nam. Cái quý nhất trong việc đào tạo lớp lương y mới, Lãn Ông chú trọng xây dựng y đức người thầy thuốc, ông thường nói “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình không nên cầu lợi kể công”. Những lời răn của Hải Thượng Lãn Ông 135
  7. “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình không nên cầu lợi kể công...” “Thường thấy kẻ làm thuốc, hoặc nhân bệnh cha mẹ người ta ngặt nghèo, hoặc bắt bí người ta lúc đêm tối, trời mưa, có bệnh nguy cấp; bệnh dễ chữa bảo là khó chữa, bệnh khó chữa bảo là không chữa được, giở lối quỉ quyệt ấy nhằm thoả mãn yêu cầu, rắp tâm như thế là bất lương. Chữa cho nhà giàu sang, thì tỏ tính sốt sắng, mong được lợi nhiều, chữa cho nhà nghèo hèn thì ra ý lạnh nhạt, sống chết mặc bay.Than ôi, đem nhân thuật làm chước lừa dối, đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn không thể tha thứ được... “Nghề làm thuốc là nhân thuật, thầy thuốc hẳn lấy việc giúp người làm điều hay. Cứu được một người thì khoa chân múa tay cho mọi người biết, nhỡ có thất bại thì dấu đi. Thường người ta hay dấu các điều xấu của mình mà không đem sự thực nói với người khác. Riêng tôi dám nói là thoát khỏi những thói đó chăng, là vì tôi không theo con đường khoa cử nối dõi nghiệp nhà, chuyển hướng ra làm thuốc nên chỉ muốn hết sức làm những việc đáng làm, may ra khỏi hổ thẹn với đất trời, đâu dám e ngại sự chê khen, để phải hối hận với bổn phận... “Nghĩ thật sâu xa, tôi hiểu rằng thầy thuốc là người bảo vệ sinh mạng con người, sống chết trong tay mình nắm, hoạ phúc trong tay mình giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm hồn không rộng lớn, hành động không thận trọng mà làm liều lĩnh học đòi cái nghề cao quý đó chăng”. Tám tội người thầy thuốc cần tránh: - Có bệnh xem xét đã rồi mới cho thuốc,vì ngại đêm mưa vất vả không chịu thăm mà đã cho phương, đó là tội lười. - Có bệnh cần dùng thứ thuốc nào đó mới cứu được nhưng sợ con bệnh nghèo túng không trả được tiền vốn nên chỉ cho thuốc rẻ tiền, đó là tội bủn xỉn. - Khi thấy bệnh nhân chết đã rõ, không bảo thực lại nói lơ mơ để làm tiền đó là tội tham lam. - Thấy bệnh nhân dễ chữa nói là khó chữa, doạ người ta sợ để lấy nhiều tiền đó là tội lừa dối. - Thấy bệnh nhân khó đáng nhẽ nói thật rối hết lòng cứu chữa nhưng lại sợ mang tiếng không biết thuốc, vả lại chưa chắc chắn đã thành công, không được hậu lời nên không chịu chữa đến nỗi người ta bó tay chịu chết, đó là tội bất nhân. - Có trường hợp người bệnh ngày thường có bất bình với mình khi mắc bệnh phải nhờ đến mình liền nghĩ ra ý nghĩ oán thù không chịu chữa hết lòng, đó là tội hẹp hòi. - Thấy kẻ mồ coi goá bụa, người hiền, con hiếm mà nghèo đói ốm đau cho là chữa mất công vô ích không chịu hết lòng, đó là tội thất đức. - Lại như xét bệnh còn lơ mơ, sức học còn non đã cho thuốc chữa bệnh, đó là tội dốt nát. Hải Thượng Lãn Ông đã đề ra 9 điều dạy trong “Y huân cách ngôn” để dăn dạy người thầy thuốc mà hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, thí dụ: 136
  8. - Phàm người mời đi thăm bệnh, nên tuỳ bệnh kíp hay không mà sắp đặt thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hay nghèo hèn mà nơi trước đến sau, chỗ tới sau hoặc bốc thuốc lại phân biệt hơn kém. - Khi đến xem bệnh ở nhà nghèo túng, hay những người mồ côi, goá bụa hiếm hoi, càng nên chăm sóc đặc biệt, vì những người giàu sang không lo có người chữa; còn người nghèo hèn, thì không đủ sức đón được thày giỏi, vậy ta để tâm một chút, họ sẽ được sống một đời, còn những người con thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc mà không có ăn, thì vẫn đi đến chỗ chết. - Khi chữa bệnh cho ai khỏi rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí thất thường mà mình cầu cạnh thường hay bị kinh rẻ. Còn việc tâng bốc người ta để cầu lợi thường hay sinh chuyện. Cho nên nghề thuốc là nghề thanh cao, ta càng phải giữ khí tiết cho trong sạch. 2.2. Tuệ Tĩnh Tuệ Tĩnh chính tên là Nguyễn Bá Tĩnh đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (cũng gọi là Tuệ Tĩnh). Ông xuất thân từ một gia đình bần nông, cha là Nguyễn Công Vỹ, mẹ là Hoàng Thị Ngọc ở Nghĩa Lư, Huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (nay là thôn Phú Nghĩa, xã Cầm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng). Theo truyền thuyết ở địa phương, ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông (thế kỷ XIV), lúc 6 tuổi cha mẹ đều mất. Ông được nhà sư chùa Hải Triều ở Yên Trang gần đấy đưa về nuôi cho ăn học (chùa Hải Triều sau gọi là chùa Nghiêm Quang tức chùa Giám ở xã Cẩm Sơn cùng huyện Cẩm Bình). Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chao Giao Thuỷ ở Sơn Nam (Nam Định) đưa về cho ở học với nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. Ở đây ông được học văn và học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa. Đến năm 22 tuổi ông đi thi hương trúng bảng những vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. Ông tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân ở chùa này và phát triển thêm một số cơ sở chữa bệnh ở một số chùa lân cận như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá). Năm 30 tuổi ông trở về trụ trì chùa Yên Trang. Ông đã tu bổ chùa này với một số chùa khác (24 ngôi) ở hạt Sơn Nam và quê hương, huấn luyện y học cho các tăng ni để mở rộng việc chữa bệnh làm phúc. Năm 45 tuổi, ông thi đình đậu Hoàng Giáp. Năm ông 55 tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc, ông được nhà Minh giữ lại làm việc ở Thái Y Viện rồi mất ở bên đó không rõ năm nào. Sự nghiệp trước tác: về phật học ông đã giải nghĩa bằng chữ nôm sách Thiền tông khoá hư lục của vua Trần Thái Tông soạn. Về y học ông đã soạn các sách Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm (theo Hải Dương phong vật chí) nhưng nguyên tác của Tuệ Tĩnh không còn trọn vẹn do binh hoả, cụ thể các thư tịch của ta đã bị quân nhà Minh phá huỷ hồi đầu thế kỷ XV khi chúng sang xâm chiếm nước ta. Những tác phẩm còn lại đến nay đều do người đời sau biên tập lại với tài liệu thu thập trong nhân dân. Hiện có: 137
  9. 1. Bộ Nam dược thần hiệu, do hoà thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc ở Trung Đô (phố Hoè Nhai, dốc Hàng Than Hà Nội ngày nay) biên tập bổ sung và in lại năm 1761, gồm bản thảo dược tính 499 vị, (bằng thơ) và 10 khoa chữa bệnh, với 3932 phương thuốc nam ứng trị 184 loại bệnh, kèm theo môn thuốc chữa gia súc. 2. Nam dược chính bản, do Triều Lê Dụ Tông đổi tên là Hồng Nghĩa giác tư y thư và in lại năm 1717 quyển thượng gồm: Nam dược quốc ngữ phú (danh từ được học 590 vị thuốc nam). Trực giải chỉ nam dược tính phú (220 vị thuốc nam và một thiên Y luận về lý luận cơ bản, âm dương ngũ hành, tạng phủ, kinh mạch (thiên này xuất hiện ở bản in lại năm 1723:AB.288)). 3. Thập tam phương gia giảm, phụ Bổ âm đơn và Dược tính phú (242 vị) bằng chữ Hán, gồm 13 cổ phương đông y và phương Bổ âm đơn do tác giả sáng chế cùng phương pháp. 4. Thập tam phương gia giảm và Bổ âm đơn đã được đời sau diễn dịch ra ca nôm và in ở Hồng Nghĩa giác tư y thư quyền hạ năm 1723 (AB 306). 5. Một bài Nhân thân phú (tương truyền của Tuệ Tĩnh), khái quát về lý luận cơ bản người tương ứng với thiên nhiên, cơ năng sinh lý, tạng phủ khí huyết và đường hướng dưỡng sinh chú trọng giữ gìn tinh khí thần để nâng cao tuổi thọ. Tuệ Tĩnh đã xây dựng nền móng của y học nước nhà với truyền thống chữa bệnh bằng thuốc nam, theo phương trâm “Thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt”. Ông đã gây phong trào trồng thuốc ở gia đình, vườn đền chùa và thu trữ thuốc theo thời vụ để có sẵn thuốc chữa bệnh kịp thời. Truyền thống của Tuệ Tĩnh đã được đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân và phát triển y học dân tộc. Hoàng Đôn Hoà, Lương dược hầu dưới chiều Lê Thế Tông, quê ở Đa sỹ (xã Kiến Hưng, tỉnh Hà Tây) đã chữa bệnh rộng rãi và cứu cho nhân dân qua khỏi vụ dịch năm 1533 với thuốc nam trồng kiếm tại địa phương và chữa cho quân đội triều Lê khỏi dịch sốt rét và thổ tả ở Thái Nguyên năm 1574 với thuốc Tam Hoàng gồm Hoàng nàn, Hoàng lực do Tuệ Tĩnh đã phát hiện ở Nam dược thần hiệu và Hùng hoàng đã được dùng để chống khí độc lam chướng ở Thập tam phương gia giảm. Đường lối dưỡng sinh của Tuệ Tĩnh nói ở Bổ âm đơn về phòng bệnh hư lao, đã được Hoàng Đôn Hoà cụ thể bằng thuyết “ Thanh tâm tiết dục” với phép “Tịnh công hô hấp” ở sách Hoạt nhân tất yếu. - Hải Thượng Lãn Ông (thế kỷ XVIII) đã thừa kế 496 bài thơ được tính của Nam dược thần hiệu chép vào sách Lĩnh nam bản thảo, với nhiều phương thuốc nam của Tuệ Tĩnh chép vào các tập Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng. Đường hướng dưỡng sinh của Tuệ Tĩnh về giữ gìn tinh khí thần để sống lâu cũng được Lãn Ông phụ hoạ thêm ở thiên Khởi cư của tập “Vệ sinh yếu quyết”. - Đặc biệt truyền thống thuốc nam của Tuệ Tĩnh đã đề cập lại tập quán trong nhân dân: trồng một số cây ở vườn, đền, chùa vừa làm cảnh vừa làm thuốc, và ở gia đình, mọi người ít nhiều đều biết dùng một số cây gia vị, rau quả hay các vị thuốc thường có quanh mình, cùng các phép xông hơi, chườm nóng, xoa bóp...để chữa một số bệnh ban đầu khi mới xảy ra rất tiện lợi. 138
  10. Truyền thống y học của Tuệ Tĩnh đã phục vụ đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ông đã giữ một vị trí trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam. Vì vậy, nhân dân ta đã lập đền thờ ông: Đền Thánh thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn Văn Thai, xã Cẩm Văn, miếu Nghè ở chùa Giám, xã Tâm Sơn, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng. Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành Hoàng ở xã Yên Lư, huyện Thuỷ Nguyên, ngoại thành Hải Phòng (có sắc phong là Thượng thượng đẳng phúc thần năm 1572, theo thần phả do Nguyễn Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn). Ngày nay, các di tích nói trên đã được Bộ Văn hoá xếp hạng là di tích lịch sử để tưởng nhớ công đức của vị Đại danh y Tuệ Tĩnh đối với sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ dân tộc ta. 3. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH Y TẾ XHCN 3.1. Quá trình phát triển Ngày 16/8/1945. Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) đã thông qua mười chính sách lớn của Việt Minh, thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa, Quyết định Quốc kỳ, Quốc ca và bầu ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Trung ương do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ngày 19/8/1945 Cách mạng thành công Ngày 27/8/1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban dân tộc giải phóng được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm 15 Bộ trong đó có Bộ Y tế. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã làm lễ ra mắt tại Quảng trường Ba Đình-Hà Nội Bộ Y tế Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được hình thành trên cơ sở bộ máy và nhân viên của Tổng Thanh tra Y tế Đông Dương cũ, trụ sở tại số 7 phố Résident Morel- nay là phố Bà Huyện Thanh Quan. Sau đó trụ sở Bộ Y tế được chuyển về khu vực nhà hai tầng ở bên cạnh bệnh viện Đồn Thuỷ (nay là Viện Quân Y 108) đầu phố Trần Hưng Đạo ngày nay. Tầng trên là cơ quan Bộ Y tế, tầng dưới là cơ quan Nhà Y tế Bắc Việt. Ngày 1/1/1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời được hình thành gồm 17 Bộ nhằm mở rộng khối đoàn kết toàn dân, ổn định tình hình bên trong, tập trung đối phó với sự xâm lược của nước ngoài. Trong Chính phủ liên hiệp lâm thời có sự tham gia của một số phần tử trong Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh đồng chí hội. Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra trên đất nước Việt Nam, ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá I đã tiến hành kỳ họp thứ nhất tại Hà Nội và Quyết định việc thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến thay thế Chính phủ liên hiệp lâm thời, gạt bỏ Chính phủ những phần tử thuộc các tổ chức chính trị đi ngược lại quyền lợi của dân tộc, chuẩn bị cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bộ Y tế được lệnh rời khỏi Hà Nội, sơ tán về Hà Đông. Chiến tranh lan rộng, Bộ Y tế di chuyển lên Phú Thọ và chia thành hai bộ phận. Một bộ phận lên an toàn ở Tuyên Quang, một bộ phận ở lại Phú Thọ rồi di chuyển sang Vĩnh Yên. Đến năm 1949 cả hai bộ phận lại nhập thành và đóng 139
  11. ở Sơn Dương, Chiêm Hoá (xã Yên Nguyên) và sau đó chuyển về xã Tân Long (huyện Yên Sơn) cho đến ngày trở về Hà Nội vào tháng 10 năm 1954. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, bộ máy Bộ Y tế gồm có văn phòng với 3 phòng: phòng 1 (Hành chính- Quản trị), phòng 2 (Kế toán-Tài vụ), phòng 3 (Nhân sự) do một Đổng Lý Văn phụ trách. Các công việc chuyên môn do một Đổng Lý Sự vụ phụ trách. Năm 1953 mới thành lập hai vụ là Vụ Phòng bệnh chữa bệnh và Vụ Bào chế. Tháng 10/1954, khi về Hà Nội đóng trụ sở tại một bệnh viện tư ở góc đường Trần Hưng Đạo (nhà số 15) và đường Phan Huy Chú. Năm 1972, cơ quan Bộ y tế được chuyển về 138A đường Giảng Võ cho đến nay. Thời gian từ 1954-2000, tổ chức Bộ máy Bộ Y tế đã có nhiều lần thay đổi, một số Vụ, Cục, Văn phòng được thanh lập để đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của ngành: chức năng nhiệm vụ ngày càng được quy định rõ ràng hơn và cho đến ngày 31/12/2000 cơ quan Bộ Y tế gồm có 16 Cục, Vụ, Thanh tra, Văn phòng và khoảng 80 đơn vị trực thuộc đóng rải rác từ Bắc vào Nam gồm các Viện, Bệnh viện, Điều dưỡng, Khu điều trị Phong, Trường Đại Học, Cao đẳng, Trung học, các Tổng công ty Dược và trang thiết bị y tế, Nhà xuất bản Y học, Trung tâm tuyên truyền giáo dục sức khoẻ, Bảo hiểm Y tế, Trung tâm kiểm định vaccin, Trung tâm sản xuất vaccin, Báo sức khoẻ đời sống... Bên cạnh Bộ Y tế còn có Công đoàn Y tế Việt Nam, Hội đồng khoa học công nghệ, các Hội chữ thập đỏ, Hội Y học cổ truyền và Tổng Hội Y dược học Việt Nam... Năm 1976, sau khi nước nhà thống nhất, căn cứ vào đặc điểm của nước ta trải dài trên 2.000km từ Bắc vào Nam nên Bộ Y tế đã tổ chức một cơ quan thứ hai tại thành phố Hồ Chí Minh (51 Phạm Ngọc Thạch) để tiện cho việc chỉ đạo hoạt động của ngành ở phía Nam. Cơ sở cũ của Bộ Y tế chính quyền nguỵ Sài Gòn được bàn giao lại làm trụ sở Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh. Những năm đã qua, một chặng đường ngắn so với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhưng Ngành Y tế cách mạng Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn rất đáng tự hào trong sự nghiệp xây dựng và phát triển mặc dầu vẫn còn những yếu kém và những thách thức cần được giải quyết. Nhìn một cách tổng quát ở mọi góc độ khác nhau, Ngành Y tế cách mạng Việt Nam đã làm biến đổi một cách sâu sắc về tất cả các mặt, từ nhận thức tư tưởng cho đến tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động từ y tâm, y thuật cho đến y đức. Tháng 8/1945, nhân dân ta giành được chính quyền, nhưng đến tháng 12/1946, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ khắp trên cả nước. Trước muôn vàn khó khăn thiếu thốn, Ngành Y tế đã tập trung toàn bộ khả năng về nhân tài, nhân lực phục vụ cho tiền tuyến. Cuộc sống và sức khỏe của nhân dân chưa có gì thay đổi so với thời kỳ trước năm 1945. Đói nghèo, bệnh tật, thất học, sinh đẻ nhiều vẫn là cái vòng luẩn quẩn của người Việt Nam. Trước tình hình đó, Ngành Y tế đã xác định được hướng đi của ngành: tất cả phục vụ cho tiền tuyến, tổ chức hoạt động của ngành phải hướng về nông thôn nơi sinh sống của 90% dân số, phòng bệnh là chính, tự lực cánh sinh và dựa vào dân. Trong cuộc chiến 140
  12. tranh đầy khó khăn, gian khổ kéo đai suốt 9 năm, Ngành Y tế cách mạng vẫn duy trì và không ngừng phát triển các hoạt động chuyên môn, động viên nhân dân tham gia các phong trào vệ sinh phòng bệnh, sử dụng nhiều hình thức thích hợp để tuyên truyền giáo dục cho nhân dân những kiến thức trong việc giữ gìn sức khỏe. Các Viện vi trùng học tiếp tục sản xuất các loại vaccin phòng bệnh tả, đậu mùa, thương hàn, đảm bảo tiêm trùng cho toàn dân các vùng tự do,vùng sau lưng dịch. Các bệnh viện, Trường Đại học, Trung học được di chuyển vào sâu trong rừng, sơ tán phân tán vào nhà dân hoặc được xây dựng trong các hang động để không làm gián đoạn công tác cấp cứu, khám bệnh, công tác đào tạo cán bộ. Các phòng bào chế vẫn tiếp tục sản xuất thuốc thông thường bằng nguyên liệu tại chỗ và các loại thuốc tê, thuốc mê góp phần đáng kể vào việc xử lý vết thương chiến tranh. Một số cơ sở tự sản xuất được bơm kim tiêm, kìm, kẹp....Năm 1950 lần đầu tiên những lọ pennicilin được sản xuất từ phòng bào chế Trường Đại học Y khoa ở Việt Bắc đã mang lại nhiều kết quả trong việc chống nhiễm trùng các vết thương. ở chiến trường miền Nam xuất hiện phương pháp trị liệu Filatov, toa thuốc nam căn bản góp phần to lớn vào việc giải quyết khó khăn về thuốc. Điều có ý nghĩa lớn hơn là y tế cách mạng đã gây cho nhân dân lòng tin tưởng vào chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ coi trọng sức khoẻ con người, tạo dựng được mối quan hệ mang tính nhân văn cao cả giữa thầy thuốc và người bệnh, một nền y học khác biệt hoàn toàn với nền y tế của chế độ cũ trước cách mạng. Năm 1954, sau chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ, hiệp định Giơnevơ được ký kết, hoà bình được lập lại ở Việt Nam nhưng đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền. Ở miền Bắc, Ngành Y tế cách mạng bắt tay xây dựng lại, khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước vững vàng đi lên. Trong 10 năm từ 1954-1964, Ngành Y tế đã tập trung xây dựng và phát triển y tế ở nông thôn và làm cho bộ mặt nông thôn ở miền Bắc thay đổi rõ rệt, giải quyết vấn đề phân, nước, rác. Nhiều loại hố xí, giếng nước, nhà tắm được xây dựng tại mỗi hộ gia đình, đặc biệt là loại hố xí hai ngăn ủ phân tại chỗ được nhân dân chấp nhận và được các nhà y học các nước đang phát triển đánh giá cao. Năm 1961 lần đầu tiên chúng ta sản xuất được vaccin sabin phòng bệnh bại liệt, rồi BCG để đến ngày nay chúng ta có quyền tự hào đã thanh toán được bệnh đậu mùa (1987) bệnh bại liệt (2000). Nhưng năm 1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại không quân ở miền Bắc vô cùng ác liệt. Trước tình hình đó Ngành Y tế đã xác định được con đường đi thích hợp là phải chuyển hướng và hoạt động của ngành từ thời bình sang thời chiến, làm thế nào để công việc cấp cứu, mổ xẻ được tiến hành ngay tại chỗ. Cơ sở y tế cũng nằm trong mục tiêu đánh phá của máy bay Mỹ nên phải sơ tán, phân tán về nông thôn. Phòng mổ, nhà hộ sinh phải đưa xuống hầm hoà dưới mặt đất hoặc trở vào các hang đá. Đế quốc Mỹ doạ sẽ đưa miền Bắc Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá và nhân loại thế giới cũng hồi hộp lo âu vì số lượng bom đạn khổng lồ được các pháo đài bay hiện đại nhất ném xuống sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của nhân dân Việt Nam, nhưng thực tế thì các hoạt động ấy vẫn diễn ra bình thường liên tục không một giây gián đoạn. 141
  13. Để làm được việc đó, Ngành Y tế đã tăng cường cán bộ, phương tiện đã đưa những kỹ thuật cơ bản về cho xã, sản xuất dịch truyền tại huyện, phát động phong trào vệ sinh yêu nước chống Mỹ trong cả nước. Miền Bắc vừa lo giải quyết các vấn đề cấp cứu phòng không, chống chiến tranh phá hoại, vừa hết lòng chi viện cho miền Nam về cán bộ, thuốc men, trang thiết bị. Rất nhiều cán bộ y tế miền Nam tập kết ra Bắc, tình nguyện trở về Nam phục vụ quê hương, nhiều khoá sinh viên mới tốt nghiệp cũng xung phong vượt Trường Sơn vào phục vụ các chiến trường Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ. Hàng trăm nghìn tấn thuốc men, bông băng, dụng cụ y tế được vận chuyển vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh trên đất liền cũng như trên biển cả. Lực lượng y tế cach mạng ở miền Nam, sau một thời gian dài hoạt động bí mật đã xuất hiện công khai sau khi chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập. Với tinh thần tự lực tự cường, với sự chi viện của miền Bắc, mặc dầu phải chịu những hi sinh, tổn thất to lớn về cán bộ và cơ sở vật chất, y tế cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh và phát triển rộng khắp và đã góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà ngày 30/4/1975. Bước vào thời kỳ đổi mới, Ngành Y tế phải đối phó với những tác động của nền kinh tế thị trường, từng bước tháo gỡ khó khăn để thích ứng với cơ chế thị trường, đáp ứng được mong muốn của người dân ngày càng nhiều và càng cao về chăm sóc sức khoẻ đã bị giảm sút sau 30 năm chiến tranh. Do xác định được phương trâm: Đa dạng hoá các hoạt động của Ngành, xã hội hoá công tác y tế, nên công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã tiến một bước dài, bao gồm một hệ thống các cơ sở y tế nhà nước, y tế tư nhân hướng tới việc phục vụ nhân dân với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn và công bằng hơn. Phương pháp quản lý các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước cũng thay đổi bằng cách thu một phần viện phí của người bệnh, xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế với định hướng bảo hiểm y tế toàn dân, cho phép mở rộng bệnh viện tư. Nhiều tổ chức cá nhân đứng ra thành lập quỹ hỗ trợ bệnh nhân nghèo, Nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cấp thuốc miễn phí cho người nghèo.. Các chỉ tiêu sức khoẻ của nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt, năm sau tiến bộ hơn năm trước. Theo đánh giá của cơ quan phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), nước ta đứng vào hàng các nước có số thành tựu nổi bật về y tế so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Sáu bệnh truyền nhiễm ở trẻ em trước đây đứng đầu danh sách các bệnh có tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao, nay nhờ việc tiêm chủng rộng rãi chúng ta đã thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế được bệnh uốn ván sơ sinh, ho gà, bạch hầu. Từ việc tiêm phòng 6 loại vaccin do ta tự sản xuất: viêm gan siêu vi trùng và viêm não Nhật Bản, các chương trình phòng chống nhiễm bệnh sốt rét, bệnh lao, bướu cổ, bướu cổ do thiếu iốt, nhiễm HIV/AIDS, thanh toán bệnh phong đạt kết quả khả quan. Tỷ lệ giường bệnh so với dân số được tăng hơn, chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh không ngừng được nâng cao, ở các tỉnh, thành phố, bệnh viện đều được trang thiết 142
  14. bị các loại máy móc dùng trong chuẩn đoán và điều trị rất hiện đại như máy móc cộng hưởng từ, máy CT Scaner, máy chụp mạch máu, máy tán sỏi ngoài cơ thể, máy cô ban, máy siêu âm màu, máy xét nghiệm nhanh…các công nghệ mũi nhọn của y học thế giới cũng đang được ứng dụng ở nước ta như ghép tạng, mổ nội soi, mổ tim, mổ tách trẻ song sinh, thụ tinh nhân tạo… Bên cạnh các cơ sở y tế nhà nước thì hệ thống y tế tư nhân, bệnh viện tư có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đã góp phần làm giảm bớt sự quá tải ở các bệnh viện Nhà nước. Về đào tạo chúng ta đã có một hệ thống các Trường Đại học Y được phân bổ trên cả nước. Mỗi năm có khoảng 2.500 bác sỹ, 200 dược sỹ Đại học tốt nghiệp ra trường. Chúng ta đã mở trường đạo tạo kỹ thuật viên Trung học y, dược, nha và trong vòng mấy năm trở lại đây đã đào tạo ở trong nước cán bộ có trình độ cử nhân, chuyên khoa I và II, bảo vệ luận án thạc sỹ và tiến sỹ. Việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại cũng đạt được nhiều thành tựu, trước hết là quan điểm chỉ đạo của Ngành xuyên xuốt trong những năm qua trong mọi lĩnh vực hoạt động. Chúng ta kế thừa và phát huy được nhiều bài thuốc, phương thuốc dân gian có hiệu quả, trồng và di thực được nhiều cây thuốc quý, đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các nước trên thế giới Ngành dược là ngành trang thiết bị cũng đã trở thành Ngành kinh tế kỹ thuật. Chúng ta đã có những nhà máy sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn GMP, thị phần thuốc trong nước tăng nhanh. Về sản xuất trang thiết bị, các nhà máy của ta đã liên doanh liên kết với các nước sản xuất dụng cụ y tế thông thường, dụng cụ bằng cao su, chất dẻo và lắp ráp một số máy móc hiện đại. Nhưng thành tựu có ý nghĩa nhất là chúng ta xây dựng được mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp cả nước, từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã, từ đồng bằng đến trung du, các vùng xa xôi hẻo lánh đến tận biên giới hải đảo và đang được mở rộng khắp thôn xóm bản làng với hơn 10.000 trạm y tế xã, y tế cơ quan xí nghiệp, trong đó có tỷ lệ lớn trạm Y tế đạt trạm chuẩn quốc gia, nhờ mạng lưới đó nước ta đã thực hiện được mục tiêu phục vụ chăm sóc sức khoẻ cho người dân Nền y tế cách mạng còn làm biến đổi nhận thức tư tưởng cán bộ, những người cán bộ y tế của chế độ chủ nghĩa xã hội đang mang hết tâm trí nghị lực để chăm lo sức khoẻ cho người dân, thương yêu quý trọng người bệnh và sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình vì sức khoẻ của nhân dân. Đạt được những thành tựu to lớn trong những năm qua, trước hết là do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta đã đưa ra những quan điểm về y tế đã trở thành những phương châm nguyên tắc chỉ đạo của ngành; sự giúp đỡ và ủng hộ to lớn của nhân dân vì Ngành Y luôn gắn bó mật thiết với dân, mang đến cho nhân dân những kiến thức cơ bản về y học và những lợi ích thiết thực trong việc chăm sóc sức khoẻ, những cố gắng vượt bậc, hy sinh to lớn của các thế hệ cán bộ y nước nhà. Một bài học kinh nghiệm quý báu nữa đó là Ngành Y tế đã định ra được nhiệm vụ chiến lược của ngành phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của đất nước, sự phối hợp chặt chẽ với 143
  15. Công đoàn Y tế Việt Nam, với các hội chữ thập đỏ, Hội Y học cổ truyền, Tổng hội Y Dược học Việt Nam, sự kết hợp với Quân y... Con đường mà Ngành Y tế đã đi trong những năm qua cũng là con đường mà dân tộc ta đã trải qua, nó không phải là con đường thẳng tắp chỉ toàn là hoa hồng và cỏ xanh mà phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn nhọc nhằn, phải đổ mồ hôi nước mắt và cả sương máu nữa mới có thể giành được những thành tựu ngày hôm nay. Chúng ta vô cùng biết ơn nhiều chiến sĩ áo trắng đã ngã xuống trong hai cuộc chiến tranh mà tên tuổi của họ còn được lưu danh đến mãi muôn đời sau. Hiện nay một bia tưởng niệm khắc tên các đồng chí đã hy sinh ở chiến trường miền Nam được đặt tại đồi 82, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh và ở trong đền tưởng niệm liệt sĩ ở Bến Dược, Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Chúng ta không quên công lao của các thế hệ đi trước đã xây dựng nền móng cho Ngành Y tế cách mạng trong những ngày đầy khó khăn và gian khổ để có được những di sản quý giá mà thế hệ hôm nay và mai sau được thụ hưởng. Bước vào thế kỷ XXI, nền y tế cách mạng nước ta có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn và thách thức, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu của người dân về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ với khả năng của nền kinh tế còn hạn hẹp, là phải giải quyết vấn đề công bằng trong việc chăm sóc sức khoẻ và hiệu quả đạt được trong nền kinh tế thị trường có sự phân tầng xã hội, vấn đề phục vụ sức khoẻ cho nhân dân các vùng sâu, vùng xa. Chúng ta phải tìm cho ra con đường đi thích hợp, biết đón trước những thành tựu về khoa học công nghệ trong khu vực, hội nhập với nền y tế của thời đại xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân đã giành cho Ngành Y tế cách mạng Việt Nam. 3.2. Thư của Hồ Chủ Tịch gửi Hội nghị Cán bộ Y tế ngày 27/2/1955 Gửi Hội nghị Cán bộ Y tế Bác thân ái chúc các cô (nghe nói có nữ bác sỹ ở Nam về?) các chú vui mạnh khoẻ, hăng hái trao đổi kinh nghiệm, bàn định kế hoạch cho thiết thực, và làm việc cho tiến bộ. Bác góp vài ý kiến sau đây giúp các cô các chú thảo luận: - Trước hết là phải thật thà đoàn kết: Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết thì vượt được mọi khó khăn, giành được nhiều thành tích. Đoàn kết giữa các cán bộ cũ và mới. Đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành Y tế từ các Bộ trưởng, Thứ trưởng, bác sỹ, dược sỹ cho đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành Y tế, trong việc phục vụ nhân dân. - Thương yêu người bệnh: Người bệnh phó thác tính mệnh của họ nơi các cô các chú. Chính phủ phó thác cho các cô các chú việc chữa bệnh tật và giữ sức khoẻ của đồng bào. Đó là một nhiệm vụ rất vẻ vang. Vì vậy, cán bộ cần phải thương yêu săn sóc bệnh nhân như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. “Lương y phải như từ mẫu”, câu nói ấy rất đúng. - Xây dựng một nền y học của nước ta: Trong những năm ta bị nô lệ, thì y học cũng như các ngành khác đều bị kìm hãm. Nay chúng ta độc lập tự do cán bộ cần giúp 144
  16. đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta. Y học càng phải dựa trên nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng. Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc “ Đông” và thuốc “Tây” Mong các cô chú cố gắng thi đua, làm tròn nhiệm vụ. 145
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2