Loét dạ dày - tá tràng và những
biến chứng nguy hiểm
Loét dạ dày - tá tràng là do mất cân bằng giữa các yếu
tố bảo vệ như: niêm mạc, lớp nhày, bicacbonat... và
các yếu tố tấn công như: axít, pepsin. Axít và pepsin
trong dịch dạ dày phá hủy niêm mạc của dạ dày và tá
tràng gây loét dạ dày - tá tràng.
Ở Việt Nam ước tính 7-10% dân số bị loét dạ dày - tá
tràng. Tỷ lệ nam và nữ trong loét dạ dày là 1/1, còn đối với
loét hành tá tràng là 2/1.
Những thủ phạm gây loét dạ dày -
tá tràng
Nguyên nhân hàng đầu phải kể tới
do vi khuẩn Helicobacter pylori. Đây
là một xoắn khuẩn có khả năng
sống trong lớp nhày của dạ dày. Mặc dù từ lâu người ta
đã phát hiện được vi khuẩn này trong dạ dày của các tử
thi, nhưng tận tới năm 1983, hai nhà khoa học người Úc
Warren và Marshall chính thức công bố về Helicobacter
pylori. Chính nhờ phát hiện này mà hai ông đã được nhận
giải thưởng Nobel Y học 2005. Vi khuẩn Helicobacter
pylori có thể lây truyền từ người này qua người khác bằng
con đường thức ăn và nước uống hoặc đôi khi do thầy
thuốc gây ra như dùng máy nội soi dạ dày không được tiệt
khuẩn tốt chính là đường lây nhiễm giữa các bệnh nhân.
Ở các nước phát triển: như Mỹ, châu Âu, tỷ lệ nhiễm
Helicobacter pylori khoảng 30% dân số, còn ở Việt Nam
và các nước đang phát triển tỷ lệ này khoảng 70-80% dân
số.
Các thuốc chống viêm không steroid như aspirin dùng
trong bệnh tim mạch, các thuốc: diclofenac, indomethacin,
ketoprofen, piroxicam... dùng điều trị các bệnh lý về khớp,
các thuốc corticoid: prednisolon, dexamethason... dùng để
điều trị ức chế miễn dịch... cũng là những nguyên nhân
dẫn đến loét dạ dày - tá tràng.
Những người có thói quen dùng nhiều gia vị chua cay,
thường xuyên uống rượu, hút thuốc lá cũng dễ mắc bệnh
này. Ngoài ra còn gặp loét dạ dày - tá tràng trong bỏng
nặng, chấn thương nặng...
Các triệu chứng bệnh thường gặp
Biểu hiện thường gặp nhất là đau vùng thượng vị. Triệu
chứng đau thường liên quan tới bữa ăn từ 30 phút - 2 giờ,
đau có thể xuất hiện khi đói hoặc nửa đêm về sáng. Có
khi chỉ biểu hiện bằng cồn cào, ăn vào thì dịu đi. Đau bụng
có thể xuyên ra sau lưng, đau lan sang phải.
Đau còn có tính chu kỳ: đau khoảng 2-8 tuần kể cả không
điều trị gì thì triệu chứng đau cũng giảm, sau đó sẽ có đợt
đau tái phát.
Có những bệnh nhân xuất hiện ợ hơi, ợ chua, nóng rát
vùng thượng vị. Khoảng 20% bệnh nhân bị loét dạ dày - tá
tràng nhưng không hề có triệu chứng, mà người bệnh vào
viện vì các biến chứng như: xuất huyết tiêu hóa, thủng dạ
dày, hẹp môn vị hoặc nội soi kiểm tra mới phát hiện ra
bệnh.
Các biến chứng của loét dạ dày - tá tràng
Đây là căn bệnh nhiều người mắc nhưng chưa được quan
tâm đúng mức, nhiều người đến bệnh viện khi đã xuất
hiện nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí là quá muộn
để cho kết quả điều trị tốt. Các biến chứng đó là:
Xuất huyết tiêu hóa: Người bệnh đau bụng nhiều, nôn ra
máu, đại tiện phân đen như nhựa đường.
Hẹp môn vị làm bệnh nhân nôn nhiều, không thể ăn được,
ăn vào gây nôn và đau bụng, khiến cơ thể bị suy nhược.
Thủng dạ dày hoặc tá tràng: Đột ngột người bệnh thấy
đau bụng dữ dội, bụng căng cứng, nôn ra máu, nếu không
cấp cứu kịp thời dễ bị tử vong.
Ung thư dạ dày: Trong loét hành tá tràng thì không gây
ung thư nhưng loét dạ dày là một nguyên nhân quan trọng
dẫn đến ung thư. Nhiều người đau dạ dày hàng chục năm
không điều trị triệt để, đến khi sức khỏe giảm sút nhiều đi
khám thì đã thành ung thư.
Trước kia thường chụp Xquang để chẩn đoán loét dạ dày
- tá tràng nhưng phương pháp này tỏ ra kém chính xác và
không xác định được bản chất ổ loét là lành tính hay ác
tính. Ngày nay, nội soi dạ dày - tá tràng bằng ống mềm
cho phép thầy thuốc quan sát trực tiếp được tổn thương,
đồng thời sinh thiết giúp chẩn đoán người bệnh có bị
nhiễm Helicobacter pylori hay không. Trong trường hợp
nghi ngờ ổ loét dạ dày ác tính cho phép sinh thiết để chẩn
đoán trên vi thể giúp tìm được tế bào ác tính. Nội soi còn
giúp theo dõi quá trình liền sẹo và khỏi của ổ loét.
Điều trị và dự phòng
Loét dạ dày - tá tràng là bệnh có thể điều trị khỏi bằng
thuốc. Các thuốc điều trị như thuốc trung hòa axít trong dạ
dày; thuốc giảm tiết axít; các thuốc kháng sinh có tác dụng
diệt Helicobacter pylori: dùng 7-10 ngày kháng sinh phối
hợp 2 trong 4 loại sau: amoxillin, metronidazol, tetraxiclin,
clarithromycin kết hợp với thuốc ức chế bơm proton.
Đối với người bệnh có triệu chứng của loét dạ dày - tá
tràng cần đến chuyên khoa tiêu hóa để xác định chính xác
và điều trị, tránh tự ý dùng thuốc bởi những lý do sau:
- Phần lớn bệnh nhân có triệu chứng giống như loét dạ
dày - tá tràng nhưng thực tế trên nội soi hoàn toàn không
có loét.
- Bệnh nhân bị ung thư dạ dày có triệu chứng giống loét
dạ dày - tá tràng.
- Dùng thuốc không đúng dẫn tới kháng thuốc tràn lan của
vi khuẩn Helicobacter pylori.
- Điều trị không có hệ thống dẫn tới bệnh tái phát và xảy
ra các biến chứng.
Để phòng bệnh, mọi người cần có chế độ ăn uống hợp vệ
sinh, không nên sử dụng quá nhiều các gia vị chua cay,
không nên uống nhiều rượu, không để cho cơ thể trong
tình trạng đói quá mới ăn, nên sử dụng thức ăn mềm,
chín, dễ tiêu hóa. Khi có những dấu hiệu bệnh cần được
thăm khám và điều trị sớm.