BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
PHẠM THỊ THU HẰNG
VËN DôNG T¦ T¦ëNG Hå CHÝ MINH
VÒ GI¸O DôC TRONG QU¸ TR×NH §æI MíI C¡N B¶N,
TOµN DIÖN GI¸O DôC VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 92 29 001
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Phạm Văn Đức 2. PGS.TS. Cao Thu Hằng
HÀ NỘI – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
của thầy GS. TS. Phạm Văn Đức và cô PGS. TS. Cao Thu Hằng. Các số liệu, tài
liệu tôi đã sử dụng trong luận án là hoàn toàn trung thực, đảm bảo tính khách quan.
Các tài liệu tham khảo d ng trong luận n c nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tác giả
Phạm Thị Thu Hằng
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu luận án tiến sĩ với đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay”,
tác giả luận án xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với GS. TS. Phạm Văn Đức và PGS.
TS. Cao Thu Hằng đã trực tiếp hướng dẫn, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận án này.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Gi m đốc Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Khoa Triết học, cảm ơn tập thể các nhà khoa học tại Khoa Triết học đã đ ng
góp những ý kiến quý b u để tôi hoàn thiện luận án này, cảm ơn Ph ng Quản lý
khoa học và Ph ng Đào tạo sau Đại học đã giúp đỡ tôi về thủ tục hành chính trong
quá trình tôi học tập và bảo vệ luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày th ng năm 2021
Tác giả
Phạm Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận n .......................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận n ....................................................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương ph p nghiên cứu của luận án .......................................... 5
5. Đ ng g p mới về khoa học của luận án .................................................................. 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ................................................................. 5
7. Kết cấu luận án ........................................................................................................ 5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ................................................................................................................... 6
1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và tầm
quan trọng của việc vận dụng tư tưởng đ trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục Việt Nam hiện nay ................................................................................................ 6
2. Những nghiên cứu về thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
để xây dựng, đổi mới giáo dục Việt Nam ................................................................. 15
3. Những nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay ............... 19
4. Đ nh gi kết quả những công trình nghiên cứu trước đ đã đề cập và những
nội dung luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu .................................................................... 20
Chƣơng 1: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC
TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC
VIỆT NAM HIỆN NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .................................... 23
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục: Cơ sở hình thành và một số nội
dung cơ bản .............................................................................................................. 23
1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ................................ 23
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục: một số nội dung cơ bản .................... 31
1.2. Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá trình đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay – Một số khái niệm cơ bản ...................... 53
1.3. Tính tất yếu của việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.......... 59
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ......................................................................................... 67
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINHVỀ
GIÁO DỤC TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CĂN BẢN,TOÀN DIỆN
GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................... 68
2.1. Những thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay và
nguyên nhân của nó ................................................................................................ 68
2.1.1. Thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục
trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay ..................... 68
2.1.2. Thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục
trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay ..................... 74
2.1.3. Thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc và phương
pháp giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay ............. 86
2.2. Những hạn chế trong vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay và
nguyên nhân của nó ................................................................................................ 98
2.2.1. Hạn chế trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh khi thực hiện mục tiêu giáo
dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay ............... 98
2.2.2. Hạn chế trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung gi o dục
trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam hiện nay ........... 103
2.2.3. Hạn chế trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc và
phương ph p gi o dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam hiện nay .............................................................................................. 111
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay ............ 115
2.3.1. Nhận thức của các chủ thể về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục còn
có hạn chế. .......................................................................................................... 115
2.3.2. Việc đ nh giá, tổng kết công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn
chưa được tiến hành thường xuyên và đồng bộ. ................................................. 116
2.3.3. Công tác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
còn hạn chế .......................................................................................................... 119
2.3.4. Sự phối kết hợp vai trò của gia đình – nhà trường – xã hội chưa đạt
hiệu quả cao trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ............... 120
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ....................................................................................... 122
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN
DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 123
3.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ..... 123
3.2. Thường xuyên đánh giá, tổng kết công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay . 129
3.3. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay ................................................................................................................... 138
3.4. Tăng cƣờng hơn nữa vai trò của gia đình, nhà trƣờng và xã hội trong
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam ................................................... 140
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ....................................................................................... 150
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ............................ 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 154
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ GD & ĐT : Bộ Gi o dục và Đào tạo
QĐ : Quyết định
NQ : Nghị quyết
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại quốc tế hóa, toàn cầu hóa với sự bùng nổ của khoa học công
nghệ và thông tin, khi mà trí tuệ của con người trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện
quyền lực và sức mạnh của quốc gia, là nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh giữa
các nền kinh tế trên thế giới, thì khi đ gi o dục càng đ ng vai tr quan trọng. Hiện
nay, giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà còn là nguồn “của cải nội sinh” và là
động lực để phát triển kinh tế - xã hội của bất kì một quốc gia nào. C c nước muốn
phát triển nhanh và bền vững thì phải quan tâm đến giáo dục, bởi nhờ giáo dục và
thông qua giáo dục, những kinh nghiệm và tri thức nhân loại tích lũy trong thực tiễn
cuộc sống được trao truyền lại cho nhau, con người ngày càng được hoàn thiện hơn
về nhân c ch và được phát triển một cách toàn diện.
Việt Nam đang tiến hành đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
liền với phát triển nền kinh tế tri thức nhằm theo kịp bước tiến của c c nước trên thế giới.
Muốn thành công, chúng ta phải c được nguồn nhân lực chất lượng cao, bởi con người
là yếu tố đ ng vai tr quyết định trong lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, giáo dục cần
phải được hết sức chú trọng và coi đầu tư cho gi o dục chính là đầu tư cho ph t triển.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, lãnh tụ vĩ đại
của cách mạng Việt Nam, đồng thời là nhà gi o, nhà văn ho lớn của thế giới đã từng
khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [92, tr.7] và “Xã hội càng đi tới, công
việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo” [101, tr.333]. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [100, tr.528]. Qua đ
cho thấy, Người đ nh gi rất cao vai trò của giáo dục nhằm đào tạo những công dân hữu
ích, vừa có tài vừa c đức cho xã hội; đồng thời, thể hiện mong muốn phát triển con
người Việt Nam một cách toàn diện. Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh chính là người đã
đặt nền móng cho sự ra đời của nền giáo dục cách mạng Việt Nam với nhiều tư tưởng có
giá trị. Những tư tưởng đ , cho đến nay, vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu
sắc, thể hiện được tầm nhìn xa vượt thời đại của Người. Điều đ thể hiện ở c ch x c định
mục tiêu giáo dục là để làm người, để phát triển nhân c ch người học; về nội dung giáo
dục toàn diện, là c c phương châm gi o dục gắn liền với thực tiễn. Đ c n là c c phương
2
pháp giáo dục hiện đại như tr nh lối dạy nhồi sọ sao cho dễ hiểu dễ nhớ, nhanh chóng và
thiết thực, học suốt đời, không học gạo… Đặc biệt, khi hoàn cảnh trong nước và thế giới
có sự thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đưa ra nhắc nhở về việc sửa đổi chế độ giáo
dục cho hợp với hoàn cảnh mới mới. Người cũng là người sớm đề cập đến tư tưởng coi
giáo dục là giải ph p hàng đầu để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của một quốc gia.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn
chú trọng vai trò của giáo dục, cũng như đưa vấn đề đổi mới giáo dục lên hàng
đầu trong tiến trình phát triển của đất nước. Tinh thần coi trọng vai trò của giáo
dục được Đảng ta khẳng định từ đầu thời kỳ đổi mới và qua c c kì đại hội. Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng kh a VII đã ra Nghị quyết số
04-NQ/HNTW ngày 14-1-1993 “về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo” và đặc biệt, Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996), giáo
dục đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Tại Đại hội này, Đảng ta nhấn mạnh việc
coi giáo dục và đào tạo là quốc s ch hàng đầu nhằm mục tiêu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Trong nhiệm kì khóa VIII, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai tập trung bàn và ra Nghị quyết số 02-
NQ/HNTW ngày 24-12-1996 “về định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Trong c c kì
đại hội gần đây, đặc biệt từ Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006), Đại hội XI (2011) và
Đại hội XII (2016) vấn đề này vẫn luôn được Đảng ta coi trọng. Trong đ , Đại hội XI
đã đặt vấn đề về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Vấn đề này đã được
nhấn mạnh trong Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04 th ng 11 năm 2013 của Hội nghị
Trung ương 8 kh a XI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đ p ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục x c định một trong các
nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng” [37, tr. 218].
3
Trên thực tế, kể từ khi Nghị quyết 29 ra đời và đi vào thực hiện, mặc d Đảng và
Nhà nước đã c nhiều chủ trương, chính s ch về đổi mới song gi o dục Việt Nam vẫn
chưa thực sự trở thành nền tảng và động lực cho ph t triển đất nước và đang đứng
trước rất nhiều đ i hỏi, th ch thức lớn lao. Chất lượng c n thấp, chương trình học tập
c n nặng về lý thuyết, ít chú trọng đến gi o dục kĩ năng sống, tình trạng mua bằng,
chạy điểm, đua theo thành tích ảo c n diễn ra ở nhiều địa phương trên cả nước, chất
lượng đội ngũ gi o viên c n hạn chế,... Theo nhiều nhà khoa học, gi o dục Việt Nam
hiện đang trong giai đoạn khủng hoảng, thậm chí đang đi “lạc”. Từ đ , yêu cầu đổi mới
văn bản, toàn diện gi o dục nước ta đang trở thành yêu cầu bức thiết nhằm mục tiêu
nâng cao chất lượng nguồn lực con người. Để đạt được mục tiêu đ , chúng ta cần phải
xem xét, tham khảo, kế thừa những tư tưởng gi o dục trước đ . Trong qu trình này, c
thể thấy, với những tư tưởng gi o dục vượt thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o
dục, cho đến nay, vẫn c n gi trị trong vận dụng qu trình đổimới căn bản, toàn diện
gi o dục Việt Nam hiện nay. Qu n triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục
trong đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam c ý nghĩa quan trọng trong việc
quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới, nâng cao nhận thức về mục tiêu và
vai tr của gi o dục đối với sự ph t triển đất nước theo hướng bền vững, giúp chúng ta
c được cơ sở lý luận quan trọng g p phần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền
gi o dục Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những thành tựu đ ng ghi nhận thì gi o dục
Việt Nam vẫn c n tồn tại rất nhiều hạn chế. Với thực trạng gi o dục nước ta hiện nay
cho thấy cần c một sự đ nh gi tổng thể, chuyên sâu và c hệ thống để tìm ra nguyên
nhân, đề xuất giải ph p nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
gi o dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện nền gi o dục.
Xuất ph t từ những nhận thức trên, t c giả lựa chọn vấn đề “Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt
Nam hiện nay” làm đề tài luận n tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và thực trạng vận dụng
tư tưởng này trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, luận án
4
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài; qua đ , đ nh gi
gi trị của c c công trình nghiên cứu trước đ và những vấn đề mà luận n tiếp tục triển
khai nghiên cứu.
Thứ hai, làm rõ một số vấn đề lý luận về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đ nh gi thực trạng, nguyên nhân của thực trạng trong vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra từ quá trình này.
Thứ tư, đề xuất một số giải ph p chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề đổi mới giáo dục được song hành cùng với qu trình đổi mới của
Việt Nam từ năm 1986. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chủ yếu xem
xét việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục Việt Nam từ năm 2013, với sự ra đời của Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 04
th ng 11 năm 2013 của Hội nghị Trung ương 8 kh a XI, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đ p ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại h a trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
5
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa M c - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; c c quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục; về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận n sử dụng c c phương ph p nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; trong đ chủ yếu là phương ph p lịch sử và logic, phân tích
và tổng hợp, phương ph p hệ thống, phương ph p so s nh…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay.
- Luận án góp phần làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam và một số
vấn đề đặt ra từ quá trình này.
- Luận n đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần vào việc làm rõ nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và việc vận dụng tư tưởng đ trong qu trình đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói
chung và vấn đề về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong qu trình đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục Việt Nam nói riêng. Luận n cũng c ý nghĩa khuyến nghị trong
việc nâng cao hiệu quả việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
6
lục, luận án gồm 3 chương, 10 tiết.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Những nghiên cứu liên quan đến tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục và tầm
quan trọng của việc vận dụng tƣ tƣởng đó trong đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một nội dung quan trọng trong hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên thực tế từ trước đến nay đã c rất nhiều công
trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục của các học giả, nhà khoa
học, nhà triết học dưới c c g c độ khác nhau. Về cơ bản, có thể kể đến một số công
trình tiêu biểu sau.
“Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục” (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1990)
đã đưa ra một hệ thống quan điểm, lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
rất đa dạng, phong phú. Các tác giả cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là
một hệ thống c c quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về những vấn đề
cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân chủ nhân dân tiến lên giáo dục xã
hội chủ nghĩa. Đ là tư tưởng về vai trò, vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung,
phương ph p gi o dục.v.v.. Theo các tác giả, mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư
tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng con người
mới. Mục đích cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh – mục đích mà Người nguyện suốt
đời phấn đấu – là nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Cùng là một trong những cuốn s ch đi sâu giới thiệu các bài viết, bài nói của
Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, cuốn “Bách khoa toàn thư Hồ Chí Minh” do
Phan Ngọc Liên biên soạn, Nguyễn An bổ sung (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội,
2000),một mặt, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo; mặt khác, tìm
hiểu nội dung và phương ph p dạy học bộ môn văn học, lịch sử về Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh trong nhà trường.
Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của Đào Thanh Hải, Minh Tiến
(Nxb Lao động,Hà Nội, 2005) lại đi sâu tìm hiểu vị trí, vai trò của giáo dục và đào
7
tạo ở Việt Nam cũng như những tư tưởng, quan điểm phát triển nền giáo dục của
Bác Hồ. Công trình cũng tập hợp một số bài thơ, thư, bài n i chuyện về phát triển
giáo dục và đào tạo của Bác Hồ.
Bài viết “Mấy vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”của
Nguyễn Quang Hoài (Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, 2002) đã khẳng định, Hồ Chí
Minh là một nhà giáo dục vĩ đại. Tư tưởng giáo dục nổi bật của người là tư tưởng
“trồng người”. Theo tác giả, cái cốt lõi nhất, bao trùm nhất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục là tình thương yêu con người, niềm tin sâu sắc vào bản chất tốt
đẹp, bản thiện của con người. Tác giả cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là
chủ nghĩa nhân văn cao cả và triệt để, giáo dục do mọi người, vì mọi người và cho
mọi người, thực sự dân chủ, lấy dân làm gốc, là sự phát triển toàn diện con người, coi
trọng cả đức lẫn tài, cả dạy chữ và dạy người, lấy xây dựng đạo đức, phát triển tính
thiện làm nền tảng cho xây dựng nhân cách; là giáo dục gắn chặt với thực tiễn, với
cuộc sống, chống mọi kinh viện gi o điều, bệnh thuộc làu, mọt sách và thói hợm chữ,
huênh hoang bằng nọ bằng kia, không lấy thực tiễn làm mục đích, không d ng học
vấn để giúp ích cho đời, mà chỉ lo chạy vạy vun vén cho cái tôi cá nhân nhỏ bé, ích
kỷ, thấp hèn. Đặc biệt, phương châm “học đi đôi với hành, lý luận đi đôi với thực tế,
nhà trường gắn liền với xã hội” được coi là đặc trưng tiêu biểu nhất của phong cách
Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định, phương ph p gi o dục Hồ Chí Minh là phương
pháp tiếp cận sâu sắc với con người, vì sự tiến bộ và phát triển của con người. Đặc
biệt, Người luôn đề cao phương ph p lấy phần thiện ngay trong chính từng con người
để đẩy lùi và chiến thắng phần c, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, tiến bộ.
Trong bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – Những nội dung cơ
bản” (Tạp chí Giáo dục, số 114, 2005), tác giả Hoàng Trang đã nhận định, tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các
tiền đề: Một là, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn ho , gi o dục và tinh thần nhân
ái Việt Nam; Hai là, triết lý giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của
Nho, Phật, Lão; Ba là, những tư tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan
trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là
chủ nghĩa M c - Lênin. Trên cơ sở đ và c ng với quá trình hoạt động thực tiễn cách
mạng sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức sâu
8
sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội dung và phương ph p gi o dục.
Cuốn “Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục” của tác giả Nguyễn Khánh Bật,
Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Thị Huyền (Bộ Giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 2007)
gồm 5 phần: Phần 1 giới thiệu những bức thư, điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
ngành giáo dục, giáo viên, học sinh, sinh viên; Phần 2 là những tác phẩm, bài nói,
bài viết tiêu biểu của chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục; Phần 3 là biên niên sự kiện
Hồ Chí Minh về giáo dục; Phần 4 là những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; Phần 5 là lược trích một số văn bản chỉ đạo của Chủ tịch Hồ
Chí Minh với ngành giáo dục. Với nội dung 5 phần trên các tác giả đã kết hợp giữa
nghiên cứu tìm hiểu tình cảm và sự quan tâm đặc biệt của B c đối với ngành giáo
dục với việc học tập, vận dụng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đồng
thời, qua đ thể hiện lòng kính trọng sâu sắc của các thầy giáo, cô giáo, cán bộ quản
lý giáo dục, học sinh, sinh viên đối với Bác.
Ngoài c c công trình trên, công trình “Hồ Chí Minh: về giáo dục đào tạo”
(PGS.TS Lê Văn Tích, TS. Nguyễn Thị Kim Dung, CN. Trần Thị Nhuần, Nxb Lao
động xã hội, Hà Nội, 2007) cũng đã g p phần vào công tác nghiên cứu tư tưởng và
kinh nghiệm Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo để “tạo được chuyển biến cơ bản về
giáo dục đào tạo”như Nghị quyết Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ X đã chỉ ra.
Cuốn sách bao gồm 3 phần tương ứng với 3 nội dung lớn: Phần thứ nhất: Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo là phần tổng luận gồm một số bài của những nhà
quản lý, nhà nghiên cứu có nhiều kinh nghiệm về Hồ Chí Minh với giáo dục và đào
tạo; Phần thứ hai: Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo là phần trích dẫn những bài
nói, bài viết của Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, lấy từ bộ Hồ Chí Minh, toàn
tập, xuất bản lần thứ hai; Phần thứ ba: Nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng
Hồ ChíMinh về giáo dục – đào tạo gồm các bài viết, bài nói của c c đồng chí lãnh
đạo Đảng, Nhà nước, các cán bộ làm công tác giáo dục – đào tạo qua các thời kỳ và
bài viết của các nhà nghiên cứu về chủ đề này. Trong đ , tập sách còn kế thừa kinh
nghiệm của nhiều tác giả trước đ , đặc biệt là của GS.TS Phan Ngọc Liên – Nguyễn
An với công trình “Hồ Chí Minh với giáo dục – đào tạo” và GS. TS Phan Ngọc
Liên (chủ biên) với công trình: “Hồ Chí Minh về giáo dục”. Cuốn sách không chỉ
9
phục vụ cho chiến lược giáo dục – đào tạo, xây dựng con người mới ở nước ta, mà
c n c ý nghĩa tích cực góp phần phục vụ cuộc vận động Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh do Đảng ta ph t động.
Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của PGS.TS Đặng Quốc Bảo (
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008) gồm có 2 phần: Phần một - “Hồ Chí Minh: Anh
hùng dân tộc – danh nhân văn h a thế giới”; Phần hai -“Tư tưởng cơ bản của Hồ
Chí Minh về giáo dục”. Trong công trình này, t c giả đã làm rõ tư tưởng giáo
dục vĩ đại của Hồ Chí Minh qua các luận điểm sâu sắc của Người: Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu; Xây dựng nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những
năng lực sẵn có của học sinh Việt Nam; Kế hoạch giáo dục phải gắn liền với kế
hoạch kinh tế; Vì lợi ích trăm năm thi phải trồng người, Nhà trường Việt Nam –
“Học đi với lao động – Lý luận đi với thực hành – Cần c đi với tiết kiệm”, Gi o
dục lòng nhân ái, các phẩm cách của con người Việt Nam mới, Con đường tự
học. Từ đ , t c giả chỉ ra mô hình biểu thị sự gắn kết 3 phạm tr “Con người –
Cách mạng – Giáo dục” qua lời dạy của Bác Hồ và chỉ ra ba vấn đề “Tu thân –
Xử thế - Dưỡng sinh” trong sự phát triển nhân c ch theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuối cùng, tác giả tổng hợp một số tứ thơ tiêu biểu thể hiện tinh thần “Dục thành
đại sự nghiệp” của Hồ Chí Minh. Cuốn s ch được tác giả coi là kim chỉ nam
trong việc thực hiện qu trình đổi mới giáo dục Việt Nam.
Trong công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
(Nguyễn Hữu Công, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010), tác giả cũng cho rằng,
tư tưởng giáo dục, đào tạo của Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa những giá trị tư tưởng
giáo dục, đào tạo của lịch sử dân tộc ta. Đ là kế thừa một số phạm tr , đạo lý làm
người, một số nội dung tích cực trong phương ph p gi o dục, đào tạo,… Cuốn sách
đề cập đến quan điểm giáo dục, đào tạo toàn diện của Hồ Chí Minh với vai trò là một
trong những con đường hình thành và phát triển con người toàn diện.
Cuốn: “Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục đào tạo” được Phạm Văn Đồng, Lê
Khả Phiêu, Phạm Minh Hạc.v.v… (Nxb Lao động xã hội, 2013) trình bày nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo và phát triển giáo dục, đào tạo theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời giới thiệu c c văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước
10
và Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo.
Ngoài các công trình trên, còn có các công trình của các tác giả sau: Hoàng
Ngọc Di với “Học tập quan điểm của đồng chí Hồ chủ tịch” (Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 1962); GS. Nguyễn Lân với cuốn “Hồ Chủ tịch – Nhà giáo dục vĩ đại”
(Nxb Khoa học và xã hội Hà Nội, 1990) là một công trình nghiên cứu những luận
điểm lớn, ý kiến lớn của Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam; “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp phát triển giáo dục” của
Vũ Văn Gầu (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Nguyễn Như Ý – Nguyễn Thị
Tình “Bác Hồ với giáo dục” (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006); “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục” của Lê Văn Yên (chủ biên) – Nxb Lao động, Hà Nội, 2006;v.v..
Sau này còn có một số các cuốn s ch như “Hồ Chí Minh với ngành giáo dục” của
Nguyễn Vũ tuyển chọn (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2009, PGS. Hoàng Linh với “Có
một giáo dục học Hồ Chí Minh” – Kỷ yếu hội thảo liên khoa, Học viện chính trị Hà
Nội, 2009; “Tư tưởngHồ Chí Minh về giáo dục” (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội,
2012) của GS,TS. Phan Ngọc Liên và TS Bùi Thu Hà biên soạn, tuyển chọn không
chỉ những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về giáo dụcmà còn phân tích quá trình
hình thành, phát triển và những nội dung cơ bản trong tư tưởng giáo dục của Người.
Bên cạnh đ c n c c c bài viết tiêu biểu như: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
- đào tạo" của TS Nguyễn Khánh Bật, Tạp chí Giáo dục, số 4 (tháng 5-2001); GS
Phan Ngọc Liên với bài: "Hồ Chí Minh với việc xây dựng một nền giáo dục mới của
Việt Nam", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11 - 2003; Nguyễn Thị Thúy với bài viết “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” - Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, 2006; bài
viết:“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của Trịnh Doãn Chính -Tạp chí Giao
thông vận tải số 11, 2007; Nguyễn Th i Sơn với bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục thanh niên”- Tạp chí Triết học số 5, 2008; PGS,TS B i Đình Phong với
bài viết "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, giá trị toàn cầu và ý nghĩa
thời đại", Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4-2012; v.v... Về cơ bản, các công trình này
đều đã trích dẫn các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về giáo dục: nguồn gốc hình
thành, mục đích, nội dung, phương ph p gi o dục của tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục, giáo dục thanh niên, bồi dưỡng chăm lo thế hệ trẻ cho đời sau.
Giai đoạn những năm gần đây, khi gi o dục Việt Nam đứng trước yêu cầu
11
phải đổi mới tư duy gi o dục, quan điểm về "triết lý giáo dục" được đưa ra bàn luận,
đ nh gi rất nhiều. Cùng với đ là sự nghiên cứu tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh và
triết lý giáo dục của Người. Đây là một vấn đề mới mẻ nên mới chỉ có một số ít bài
viết tiêu biểu đi sâu tìm hiểu như: "Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh" của GS, TSKH
Phạm Minh Hạc, Tạp chí Cộng sản, số 828 (tháng 10 - 2011) hay "Triết lý giáo dục
Hồ Chí Minh" của GS Song Thành, Tạp chí lý luận chính trị, số 6-2014... Các bài
viết nhìn chung đã bước đầu đã c những quan điểm kh i qu t, định hướng và đưa
ra những đề xuất trong nghiên cứu về nội dung triết lý giáo dục Hồ Chí Minh.
Cùng nội dung này, trong công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và
vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay (Hoàng Anh chủ biên, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2013), các tác giả khẳng định, gia đình, quê hương, v ng đất giàu truyền
thống và hiếu học đã hun đúc những giá trị sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục. Tư tưởng giáo dục của Người còn là sự tiếp nhận từ dân tộc Việt Nam một
triết lý giáo dục sâu sắc – chú trọng đạo làm người, phương c ch ứng xử trong đời
sống, trong quan hệ xã hội, gia đình, bạn bè, tôn sư trọng đạo. Đ c n là tinh hoa gi o
dục phương Đông, phương Tây, chủ nghĩa M c – Lênin; là chính bản thân nhân cách
Hồ Chí Minh. Cụ thể hơn, trong công trình này, c c t c giả cũng trình bày qu trình
hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Theo các tác giả, quá
trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có thể phân thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: thời kỳ 1890-1910 là thời kỳ Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của môi
trường gia đình và nhà trường; Giai đoạn 2: thời kỳ 1911-1930 là thời kỳ Hồ Chí
Minh đến với tư tưởng giáo dục của chủ nghĩa M c – Lênin. Giai đoạn 3: thời kỳ
1930-1945 là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục tiếp tục phát triển, phục vụ
đắc lực cho cuộc đấu tranh giành chính quyền; Giai đoạn 4: thời kỳ 1945-1969 là thời
kỳ hình thành một triết lý Hồ Chí Minh về giáo dục.
Đặc biệt gần đây, Cuốn sách "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2017 do tác giả Lý Việt Quang (chủ biên) cũng phân tích làm rõ những nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trên c c phương diện về vị trí,
vai trò, mục tiêu, nội dung, phương châm, phương ph p gi o dục...
Nhìn chung, tất cả các công trình và bài viết trên đây đều có một điểm chung
12
đ là đã tổng hợp và phân tích được những nội dung căn bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục. Hầu hết các tác giả đều khẳng định, tư tưởng giáo dục của
Người, sự chỉ đạo hành động thực tiễn của Người, một mặt, kế thừa tinh hoa văn
hóa của dân tộc; mặt khác, lại thâu g p tinh hoa văn h a của thời đại hướng tới việc
xây dựng và phát triển một nền giáo dục Việt Nam toàn dân quán triệt các mục tiêu
dân chủ, nhân văn, hiện đại; một nền giáo dục làm “ph t triển hoàn toàn những
năng lực sẵn c ” của thế hệ trẻ Việt Nam. Có thể nói, di sản mà Người để lại là kim
chỉ nam cho việc thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục và chiến lược giáo dục,
chiến lược phát triển con người. Đây là những tài liệu tham khảo hữu ích cho
nghiên cứu sinh trong quá trình triển khai viết luận án.
Thứ hai, những nghiên cứu về tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, tư tưởng của Hồ Chí Minh về
giáo dục lại ngày càng được chú ý, khi Đảng ta đang bàn vấn đề đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng khẳng định: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương ph p dạy và học,
phương ph p dạy và học, phương ph p thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền
thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kĩ năng thực hành,
tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Đã c những công trình bàn về
tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức vừa "hồng", vừa chuyên cho thanh
niên trí thức”- bài viết của Lâm Quốc Tuấn, Trần Văn Toàn (Tạp chí Lý luận chính trị,
số 10, tr.9-10; tr. 16, 2005) đã phân tích làm rõ nội dung cũng như tầm quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh trong việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Các tác giả
khẳng định, Người đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, để xứng đ ng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế
hệ cha anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở thanh niên là sự trung thành tuyệt đối với lý
tưởng, ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách mạng để làm
gương lôi cuốn quần chúng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho thanh
13
niên là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập, làm cho chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên tổ quốc ta và trên thế giới.
Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo
đức cách mạng. Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không
đủ sức vượt qua những thăng trầm, kh khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến
c ng cho lý tưởng. Trong Di chúc, Người lưu ý: “Đảng cần phải chăm lo gi o dục đạo
đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Cuốn sách“Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo: Hưởng ứng cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Viện Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ của Đảng biên soạn - Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2007 gồm 3 phần:
Phần thứ nhất, là phần tổng luận gồm một số bài của những nhà quản lý, nhà nghiên
cứu có nhiều kinh nghiệm về Hồ Chí Minh với giáo dục và đào tạo; Phần thứ hai là
phần trích dẫn những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, lấy
từ bộ Hồ Chí Minh, toàn tập, xuất bản lần thứ hai; Phần thứ ba gồm các bài viết, bài
nói của c c đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cán bộ làm công tác giáo dục –
đào tạo qua các thời kì và bài viết của các nhà nghiên cứu về chủ đề quan trọng này.
Cuốn s ch được biên soạn với mục đích g p phần đưa những tư tưởng giáo dục –
đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự nghiệp giáo dục – đào tạo con người Việt
Nam phục vụ cho sự nghiệp công cuộc cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta, thực hiện lời kêu gọi của Người là “Phải làm cho dân tộc Việt Nam trở
thành một dân tộc thông th i”. Qua đây cũng cho thấy vị trí, vai trò và tầm quan
trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn của việc vận dụng tư tưởng của Người về giáo
dục vào trong thực tiễn nước ta. Cùng chủ đề giáo dục – đào tạo, trong công trình
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay, các
tác giả khẳng định, trong bối cảnh giáo dục Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề
cần phải xem xét, như nội dung giáo dục, mục đích gi o dục, phương ph p gi o
dục, thì việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có tầm quan
trọng đặc biệt, nhằm khắc phục những hạn chế của giáo dục Việt Nam.
Trong bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với việc phát triển nền
giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỉ XXI” (Nguyễn Thị Nga, Tạp chí
14
Triết học, số 12, 2010), tác giả đã kh i qu t tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo
dục trên những khía cạnh như mục tiêu, nội dung, phương ph p gi o dục. Trên cơ sở
đ , t c giả khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục không chỉ là ánh sáng soi
đường, mà còn là kim chỉ nam cho chiến lược phát triển con người Việt Nam trong
thập niên đầu thế kỉ XXI. Ở g c độ cụ thể hơn, cuốn sách“Xây dựng và phát triển
Đại học Nguyễn Tất Thành theo Tư tưởng Hồ Chí Minh về Giáo dục – Đào tạo” của
TS. Nguyễn Mạnh Hùng (Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2013) bên cạnh việc
giới thiệu những nội dung căn bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo
qua nghiên cứu những tư liệu, bài viết quý giá của Người về giáo dục, tác giả đi sâu
làm rõ giá trị thực tiễn và sức thuyết phục của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và
đào tạo. Đồng thời, tác giả cho thấy sự phù hợp trong tư tưởng đ của Người đối với
quy luật phát triển của dân tộc, nhân loại trong hiện tại và tương lai. Đặc biệt là tính
cấp thiết và vai trò quyết định của tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới toàn diện sự
nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước bằng việc gắn việc vận dụng tư tưởng của
Hồ Chí Minh vào việc xây dựng ngôi trường mang tên thời trẻ của Người.
Ngoài các công trình trên, cụ thể hơn, c n c một số công trình kh c cũng đề
cập đến tầm quan trọng của sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục ở Việt
Nam hiện nay. Đ là Đỗ Văn Thắng với bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lí
tưởng cách mạng cho thanh niên” - Tạp chí Giáo dục số 138 - tr.2-3, 2006; Lê Thị
Ngọc Lan với bài: “Tìm hiểu vài nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức cho học sinh”- Tạp chí Giáo dục số đặc biệt tháng 12, 2007; Ngô Thị Thu Ngà
với bài viết“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên”
(Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, 2007);… C c công trình này đều khẳng định tầm
quan trọng của sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, nhưng ở mức độ cụ
thể hơn – giáo dục đạo đức. Tuy nhiên, những nội dung trong các bài viết này cũng là
tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả khi triển khai nghiên cứu đề tài luận án.
Có thể thấy, các công trình và bài viết trên đây đã phần nào nêu bật được tầm
quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trên các khía cạnh,
như gi o dục đạo đức, giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục lí tưởng cho thanh
niên, phát triển con người, v.v.. Tuy vậy, chưa c một công trình, hay bài viết nào
đề cập đến tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng của Người về giáo dục trong
15
việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
2. Những nghiên cứu về thực trạng vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo
dục để xây dựng, đổi mới giáo dục Việt Nam
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện
đại h a nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Điều này đ i hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề lớn, trong đ việc đẩy mạnh ph t
triển gi o dục đào tạo được coi là quốc s ch hàng đầu, là động lực để thúc đẩy đất nước
ph t triển, nhanh, mạnh, ổn định, bền vững. Trong bối cảnh đ , việc nghiên cứu và vận
dụng đúng đắn, s ng tạo những tư tưởng gi o dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực
tiễn tổ chức, xây dựng nền gi o dục Việt Nam hiện nay càng là vấn đề c ý nghĩa cực
kỳ quan trọng.
Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự vận dụng của Đảng cộng
sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới” của TS. Nguyễn Văn Chung, Nxb Quân đội
nhân dân, 2010 đã phân tích toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với cách
tiếp cận khá mới mẻ. Tác giả trình bày từ nguồn gốc, quá trình hình thành và phát
triển, nội dung cơ bản và sự vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong tình hình mới. Đặc biệt, trong chương 3 tác giả đã chỉ rõ thực trạng vận dụng
tư tưởng gi o dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong đổi mới gi o dục - đào tạo ở
Việt Nam hiện nay.
GS Song Thành trong cuốn sách “Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng lỗi lạc”, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 đã đề cập đến những giá trị nổi bật của tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh. Từ đ vận dụng vào công cuộc xây dựng, đổi mới nền giáo
dục Việt Nam trong điều kiện mới với những thời cơ và thách thức.
Cuốn “Chủ tịch Hồ Chí Minh với giáo dục nhà trường” do Bùi Thị Thu Hà bổ
sung, tuyển chọn (Nxb Từ điển Bách khoa, 2012) lại đi sâu giới thiệu tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục nhà trường. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục
lý luận chính trị trong nhà trường; công tác dạy học; đào tạo bồi dưỡng giáo viên; tổ
chức đời sống mới trong nhà trường; giáo dục cho học sinh phổ thông và tư tưởng dân
chủ Hồ Chí Minh trong giáo dục.
Trong cuốn“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học
hiện nay”- Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tác giả Hoàng Anh đã dành hẳn một
16
chương bàn về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo đại học hiện nay. Bên cạnh việc đưa ra những thời cơ và th ch thức trong
công t c đào tạo đại học khi Việt Nam hội nhập quốc tế, chỉ ra những thành tựu và hạn
chế trong đào tạođại học, tác giả đưa ra những nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trên những khía cạnh cụ thể nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay.
Tháng 10/2013, Nxb trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản cuốn kỷ yếu:
“Xây dựng và phát triển Đại học Nguyễn Tất Thành theo tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục và đào tạo” do TS. Nguyễn Mạnh Hùng, hiệu trưởng trường Đại học
Nguyễn Tất Thành giới thiệu. Cuốn sách là minh họa sinh động cho việc “HỌC và
HÀNH” Tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần “Tiếp tục thực hiện cuộc vận động Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Theo tinh thần Chỉ thị 03 của Bộ
Chính trị BCHTW (Khóa XI). Tiếp bước con đường của chủ tịch Hồ Chí Minh,
trường Đại học Nguyễn Tất Thành bước vào thiên niên kỉ mới với chiến lược xây
dựng trường đại học theo định hướng đổi mới sáng tạo trong bối cảnh thuận lợi và
kh khăn, trong đ cũng tổng kết những công việc đã triển khai và kết quả ban đầu
trong quá trình thực hiện mục tiêu của nhà trường.
Trên cơ sở làm rõ tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, cuốn sách "Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện
nay". Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017 do tác giả Lý Việt Quang (chủ biên) đã
phân tích một cách khái quát thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt nam hiện nay, nguyên
nhân của những thành tựu và hạn chế. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ phân tích sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam trên những nguyên lý chung, không đi sâu vào từng cấp học, ngành học.
Bên cạnh những công trình trên còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên
ngành cũng đề cập đến việc vận dụng tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh vào trong thực
tiễn giáo dục Việt Nam nói chung. Tiêu biểu có tác giả Văn T ng với bài viết “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên” (Nxb
Thanh niên, 2009) đã kh i qu t về tình hình thanh niên nước ta trong mấy năm đầu
bước vào thế kỷ XXI, tính toàn diện và hệ thống về giáo dục và bồi dưỡng đạo đức
cách mạng trong tư tưởng của Bác Hồ, Bác Hồ với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng
17
cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên; Ngoài ra, còn có bài viết: “Nhận thức và quán triệt
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong học tập, nghiên cứu một số nhân tố có ý nghĩa
quyết định để nâng cao chất lượng giáo dục” của Nghiêm Đình Vỳ - Tạp chí Giáo Dục
số 76, tr.4-5, 14, 2004; bài viết: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận
chính trị vào giảng dạy trong các trường chính trị hiện nay” của Võ Thị Bích Diễm,
Tạp chí giáo dục lý luận số 2 từ trang 57- 60, 2008; Nguyễn Trọng với bài “Thực hành
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục hiện nay”, Tạp chí Tư tưởng văn h a, số 9, 2003;
bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề đổi mới giáo dục Việt Nam” của TS Đặng
Huỳnh Mai, Tạp chí Giáo dục, số 260 (kì 2, tháng 4,2011); “Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh vào quá trình đổi mới nền giáo dục – đào tạo ở nước ta hiện nay” của PGS,
TS Trịnh Đình T ng – Nghiên cứu sinh Lê Đình Năm đăng trên Đặc san Hồ Chí Minh
học, số 1, 2013; “Bốn mươi lăm năm thực hiện bức thư cuối cùng Hồ Chí Minh gửi
cho ngành giáo dục” của PGS, TS Phạm Ngọc Anh, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4,
2013; “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh” của PGS, TS B i Đình Phong, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4 – 2013; “Đổi
mới giáo dục nhằm phát huy nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh” của ThS
Trần Thị Hợi, Đặc san Hồ Chí Minh học, số 4, 2013. Bên cạnh đ c n c c c bài viết
đề cập đến việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào một số khía cạnh cụ thể của giáo
dục như: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phương pháp dạy học của
người thầy trong giáo dục lý luận chính trị” của Nguyễn Tiến Hùng, Tạp chí Giáo dục
lý luận, số 1 và 2, 2007; PGS, TS Lê Văn Yên với bài viết “Quán triệt quan điểm của
Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 8, 2012.
Ngoài các công trình nghiên cứu, còn có một số luận án tiến sĩ đề cập đến
nội dung này. Tiêu biểu là Luận án Tiến sĩ Triết học (2000): “Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo thanh niên ở nước ta hiện nay” của tác giả Đoàn
Nam Đàn đã trình bày tương đối có hệ thống tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về
giáo dục đào tạo thanh niên, khái quát giá trị lý luận và những tư tưởng chỉ đạo thực
tiễn của Người nhằm phục vụ cho công tác giáo dục và đào tạo, cung cấp những tư
liệu về thành công và hạn chế của việc giáo dục đào tạo thanh niên. Trên cơ sở đ ,
đ nh gi thực trạng việc vận dụng tư tưởng của Người vào thực tiễn công tác giáo
18
dục đào tạo, đề ra các giải pháp chủ yếu mang tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
việc giáo dục đào tạo thanh niên nước ta hiện nay. Đặc biệt, tác giả luận n đã đ nh
giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo thanh niên ở
nước ta hiện nay trên c c phương diện: về thực hiện quan điểm giáo dục toàn diện;
thực hiện phương châm học đi đôi với hành lý luận gắn với thực tiễn; về sự kết hợp
giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục – đào tạo thanh niên; công
t c đoàn kết, tập hợp thanh niên vào trong các tổ chức đoàn thể để giáo dục. Tác giả
còn chỉ ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo thanh niên Việt Nam.
Luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử (2001) của tác giả Nguyễn Văn Thắng với
với đề tài: “Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ ở đơn vị cơ sở
trong quân đội hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh” nhằm nghiên cứu nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, quan
niệm về chất lượng và tiêu chí đ nh gi chất lượng giáo dục lý luận chính trị. Đ nh
gi đúng thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm nâng cao chất lượng giáo dục lý luận.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ ở
đơn vị cơ sở trong quân đội. Ưu điểm của luận n là đã coi trọng tính toàn diện của
công tác giáo dục lý luận chính trị theo nhận thức của Hồ Chí Minh, từ nội dung,
chương trình, phương ph p đến đội ngũ những người làm công tác giáo dục lý luận
chính trị. Công trình bước đầu đã đ nh gi thực trạng công tác giáo dục lý luận chính
trị hiện nay, từ đ đặt ra yêu cầu cần tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Một
trong những giải pháp mà tác giả nhấn mạnh đ là vận dụng các giá trị tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục, gồm cả nội dung và phương ph p gi o dục nhằm định hướng
cho toàn Đảng toàn dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội.
Tác giả Lê Thị Hương với luận án Tiến sĩ Triết học (2014)“Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người, về xây dựng con người và sự vận dụng tư tưởng đó trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” đã trình bày và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và xây dựng con người, phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và xây dựng con người trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay và
nêu ra một số định hướng và giải pháp tiếp tục phát triển con người trong công cuộc
đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
19
Có thể thấy, tất cả các công trình, bài viết trên đây chỉ dừng lại ở việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong việc giáo dục đào tạo một đối tượng
cụ thể, như đối tượng thanh niên, con người Việt Nam, v.v… mà chưa đ nh gi
được thực trạng vận dụng tư tưởng đ đối với sự đổi mới giáo dục căn bản, toàn
diện của nước ta hiện nay như thế nào.
3. Những nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về giáo dục trong việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay
Ngày nay, khi giáo dục Việt Nam đã và đang đứng trước những thời cơ và
thách thức mới thì việc tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, đặc biệt trong bối
cảnh giáo dục đặt ra yêu cầu cần được đổi mới căn bản và toàn diện như hiện nay.
Hiện nay, đã c một số công trình bàn về giải pháp cho việc vận dụng tư tưởng giáo
dục của Hồ Chí Minh như sau.
PGS. TS Nguyễn Thị Nga với bài:“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với việc
phát triển nền giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí Triết
học, số 12, 2010. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một c ch kh i qu t tư tưởng
cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục trên những khía cạnh, như mục tiêu, nội dung và
phương ph p gi o dục. Từ đ , c c t c giả khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục không chỉ là nh s ng soi đường, mà còn là kim chỉ nam cho chiến lược phát triển
con người Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI. Tác giả Lê Thị Hương cũng c bài
viết “Một số phẩm chất cơ bản cần có và định hướng phát huy nhân tố con người theo
tư tưởng Hồ Chí Minh” được đăng trên tạp chí Lý luận và truyền thông. Bài viết đã chỉ
ra một số phẩm chất của con người trong quan điểm Hồ Chí Minh như cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, tinh thần lao động quên mình, vì lối sống lành mạnh văn minh và
chỉ ra một số định hướng cơ bản về phát huy tiềm năng và s ng tạo con người theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Trong cuốn“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại
học hiện nay”- Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tác giả Hoàng Anh từ việc phân
tích một số vấn đề trong công t c đào tạo đại học như chất lượng sinh viên, đội ngũ
20
giảng viên, nội dung, chương trình đào tạo, phương ph p giảng dạy, tác giả đã đề xuất
những giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng
đào tạo đại học Việt Nam.
Ở một g c độ khác, tác giả Võ Văn Nam đã làm luận án tiến sĩ Gi o dục học
(2008) với đề tài: “Tư tưởng tự học Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao việc tự học
cho sinh viên Đại học sư phạm đã phân tích, hệ thống hoá và khẳng định tư tưởng
Hồ Chí Minh về việc tự học; Tìm hiểu thực trạng nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh
trong sinh viên Đại học sư phạm; Làm rõ tính đặc thù của sinh viên sư phạm trong
việc tự học; đề xuất và thử nghiệm các biện ph p để nâng cao việc tự học cho sinh
viên Đại học Sư phạm.
4. Đánh giá kết quả những công trình nghiên cứu trƣớc đó đã đề cập và những
nội dung luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu
4.1. Đánh giá kết quả những công trình nghiên cứu trước đó đã đề cập
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu c c công trình liên quan đến tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục và sự vận dụng tư tưởng đ trong gi o dục Việt Nam hiện
nay, tác giả nhận thấy những công trình nghiên cứu đã đạt được những giá trị sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã
tập trung vào đi sâu phân tích, làm rõ những nội dung căn bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục như nguồn gốc hình thành, mục đích, nội dung, phương ph p
giáo dục… đồng thời cho thấy tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh trên các khía cạnh cơ bản như: gi o dục đạo đức, giáo dục đạo đức
cách mạng, giáo dục lý tưởng cho thanh niên, phát triển con người…
Thứ hai, đã c một số công trình nghiên cứu thực trạng vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục trong việc giáo dục và đào tạo ở Việt Nam nhưng chỉ
chuyên sâu vào một đối tượng cụ thể nào đ như con người Việt Nam, thanh niên
Việt Nam…
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trước đ đã đề xuất nhiều giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong các cấp học,
một trường học hay một đối tượng người học cụ thể nhưng chưa c công trình nào
nghiên cứu các giải pháp nói chung nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt
21
Nam, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Các công trình nghiên cứu đi trước là tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả
trong triển khai nghiên cứu đề tài.
4.2. Một số nội dung cơ bản luận án sẽ tiếp tục triển khai nghiên cứu
Thứ nhất: Luận án làm rõ một số khái niệm liên quan đến đề tài, làm rõ tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đ là tư tưởng về mục tiêu, nội dung, phương
pháp giáo dục. Đề tài cũng làm rõ quan niệm “vận dụng tư tưởng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay”, phân tích tầm quan trọng của sự vận dụng này.
Thứ hai: Làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong
quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay ở c c phương diện
chủ thể, mục tiêu, nội dung, phương ph p gi o dục ở cả hai khía cạnh: ưu điểm và
hạn chế; qua đ , chỉ ra nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế của sự vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam hiện nay.
Thứ ba: Đề xuất một số giải ph p cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung, về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí
Minh n i riêng là đề tài đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa
học. Nhìn một cách tổng quát, trong các công trình nghiên cứu đi trước, các tác giả
đã luận giải, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục qua nhiều khía cạnh.
Những công trình đều đã nêu và phân tích cũng như kh i qu t được những đặc điểm
chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người, về đào tạo con người
mới xã hội chủ nghĩa,v.v... Đây cũng chính là tài liệu tham khảo quan trọng để tác
giả luận án có những cơ sở nền tảng lý luận khi triển khai, phân tích những nội dung
mà luận n đề cập đến.
Nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào trong thực
tiễn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay là một vấn đề mới mẻ,
chưa c t c giả nào đi sâu nghiên cứu với tư c ch là một công trình khoa học độc
lập. Do khuôn khổ chung của việc nghiên cứu những tư tưởng Hồ Chí Minh nói
22
chung, hoặc do giới hạn của một bài nghiên cứu, những công trình trước đây chưa
đi sâu vào đ nh gi những ưu điểm và hạn chế trong sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục của các chủ thể giáo dục trong đối mới căn bản, toàn diện giáo
dục Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công
trình đi trước, tác giả sẽ tiếp tục triển khai, nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng đ của
Người trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở Việt Nam hiện nay; từ
đ , đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam
trong thời gian tới.
23
Chương 1
VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC TRONG QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN
NAY: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục: Cơ sở hình thành và một số nội dung
cơ bản
1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
1.1.1.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất: Truyền thống giáo dục Việt Nam
C ng với ảnh hưởng của c c tư tưởng gi o dục trên thế giới thì những gi trị
truyền thống Việt Nam n i chung và truyền thống gi o dục Việt Nam n i riêng c
vai tr to lớn đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục.
Việt Nam c truyền thống hiếu học từ lâu đời. Bàn về điều này, Hồ Chí Minh
c nhận định: “Người An Nam rất hiếu học. Trong c c tầng lớp xã hội, người sĩ phu
chiếm địa vị hàng đầu. C con học giỏi là một vinh hạnh cho cha mẹ. Cho nên, d
c nghèo đ i đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm c ch cho con c i được học hành. "Nửa
bụng chữ bằng một hũ vàng" là một câu tục ngữ biểu hiện nhiệt tình ham muốn c
học thức của dân tộc An Nam. Ở làng xã nào cũng c trường công và trường tư.
Chữ nho rất kh học thế mà hầu hết người An Nam đều biết "ký tên bằng chữ H n".
Nạn m chữ hầu như không c n… H n học c thể đưa vào An Nam những tư tưởng
tiến bộ phương Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản” [89, tr. 423]. Gi o dục
truyền thống Việt Nam chú trọng nhiều đến nội dung gi o dục đạo đức, c ch đối
nhân xử thế trong đời sống, trong quan hệ với xã hội, với gia đình, bạn bè,…
Nhắc đến gi o dục truyền thống của dân tộc Việt Nam phải kể đến tư tưởng
gi o dục của một số nhà gi o dục tiêu biểu. Đ là Nguyễn Trãi (1380 – 1442) với
nội dung gi o dục đạo lý làm người, phép ứng xử, trong đ ông rất chú trọng đến
đạo đức nhân dân [61, tr. 36]; Lê Quý Đôn (1726 – 1784) đưa ra phương châm
gi o dục là: học nhiều nhưng phải nắm lấy c i chính, học phải c c suy luận,
không câu nệ vào s ch vở; học phải hành, phải giúp con người c năng lực để làm
những việc c ích cho xã hội; chú trọng việc tự học [61, tr. 37]; Nguyễn Trường
Tộ (1828 – 1871) được coi là một trong những nhà cải c ch lớn của Việt Nam. Về
24
gi o dục, ông phê ph n lối tầm chương trích cú, thuộc làu Tứ thư Ngũ kinh để thi
ra làm quan. Về nội dung và mục đích gi o dục, ông nêu rõ: “Gi o dục cho nhân
dân biết làm ăn, biết yêu quý lao động, trừ bỏ c danh lợi địa vị, biết yêu nước,
không nên lén lút làm tay sai cho giặc. Đối với những kẻ gian tà bất chính, nền
gi o dục mới phải c t c dụng giúp họ quay về con đường chính nghĩa: việc sửa kẻ
tà đem họ về con đường chính, đ là một việc đại sự, c n c i học nào hơn, sao ta
không học” [139, tr. 105]. Ông cũng đưa ra phương châm học gắn liền với hành,
học thực dụng, học khoa học, học để phục vụ thực tế. Về nội dung gi o dục, ông
chủ trương gi o dục thiên văn, to n học, kỹ thuật, chính trị, lịch sử, địa lý, địa chất,
ph p lý, ngoại ngữ. Ông c n đề nghị d ng chữ viết riêng của nước mình (quốc âm)
trong việc dạy học, làm s ch và c c giấy tờ [61, tr. 40-41]. T m lại, truyền thống
gi o dục là một nhân tố quan trọng g p phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh
về gi o dục. Không chỉ kế thừa, tiếp thu, mà Người c n ph t triển những tinh hoa
trong nền gi o dục truyền thống dân tộc trên c c khía cạnh mục đích, nội dung,
phương ph p, tạo tiền đề cho việc hình thành những tư tưởng của Người về nền
văn h a gi o dục mới sau này.
Thứ hai, tư tưởng giáo dục phương Đông
Đối với văn h a phương Đông, Hồ Chí Minh chắt lọc lấy những gì tinh túy
nhất trong c c học thuyết triết học, hoặc trong tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử, Quản
Tử… Người tiếp thu những mặt tích cực của Nho gi o. Đ là c c triết lý hành động,
tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, đ là ước vọng về một xã hội bình trị, h a
mục, h a đồng, là triết lý nhân sinh; tu thân dưỡng tính; đề cao văn h a lễ gi o, tạo
ra truyền thống hiếu học. C thể n i, Nho gi o với lịch sử hơn 2500 năm là một triết
thuyết lớn trong lịch sử phương Đông, là một học thuyết chính trị - đạo đức. Nho
gi o c tầm ảnh hưởng lớn đến nhiều nước trên thế giới trong đ c Việt Nam bởi
Nho gi o rất chú trọng đến vấn đề gi o dục đào tạo con người. Theo họ, việc gi o
h a con người vừa là công cụ của nhà cầm quyền vừa là phương tiện để đưa xã hội
từ loạn lạc thành th i bình, thịnh trị.
Người s ng lập Nho gi o và cũng là một nhà gi o dục tiêu biểu là Khổng
Tử. Theo ông, mọi người đều cần được gi o dục và nội dung chính của gi o dục đ
chính là gi o dục đạo đức và nhân c ch con người. Đ là một quan điểm rất tiến bộ
của Khổng Tử khi ông luôn mong muốn tạo ra những c i tiến bộ nhằm cải tạo chế
độ xã hội c n nhiều bất công kh khắc phục. Cũng chính bởi vậy mà đối tượng chủ
25
yếu trong gi o dục của Nho gi o n i chung và Khổng Tử n i riêng là đào tạo
những người thuộc giai cấp thống trị; đào tạo những người thuộc giai cấp kh c
nhưng c thể bổ sung cho giai cấp thống trị.
Ngoài ra, Khổng Tử c n được biết đến như là người đầu tiên trong lịch sử
nêu lên chủ trương gi o dục không phân biệt chủng tộc, giàu nghèo, sang hèn,
thiện c. Trong xã hội phân chia giai cấp, tầng lớp lúc bấy giờ, tư tưởng “hữu gi o
vô loại” của Khổng Tử mang lại c ch nhìn nhận mới cho gi o dục. Về mặt nội
dung gi o dục, Nho gi o n i chung và Khổng Tử n i riêng rất chú trọng đến vấn
đề đạo đức,, đề cao đạo đức của người cầm quyền, nhấn mạnh tu thân để làm
gương, để gi o h a dân, gi o dục học tr c ý thức tr ch nhiệm đối với quốc gia,
đối với vua, đối với mẹ, anh em, bạn bè.Về mặt nguyên tắc và phương ph p gi o
dục, Khổng Tử gi o dục học tr theo phương ph p học kết hợp với suy nghĩ tức là
học đi đôi với hành, học đi đôi với nêu gương, đàm thoại, gợi mở, nêu gương trong
dạy học. Ông đưa ra tư tưởng “Học mà thường xuyên thực tập, chẳng cũng vui
sao?” [13, tr. 1].
Về Phật gi o, Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc c c tư tưởng
vị tha, từ bi b c i, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; là nếp
sống c đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình
đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống lười biếng
“nhất nhật bất t c, nhất nhật bất thực”; là chủ trương sống không xa l nh việc đời
mà gắn b với dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhândân
chống kẻ th dân tộc…
Những nội dung tư tưởng trên đã được Hồ Chí Minh kế thừa và tiếp thu, như
đề cao vai trò của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức; về phương ph p gi o dục,
như phương ph p nêu gương; Song, Người không hề sao chép một cách rập khuôn
máy móc mà hấp thụ nó một cách mới mẻ, khoa học và nhân văn.
Thứ ba, tư tưởng giáo dục phương Tây
C ng với những tư tưởng triết học phương Đông, Hồ Chí Minh c n tiếp thu
nền văn h a dân chủ và c ch mạng phương Tây. Người sớm làm quen với văn h a
Ph p, tìm hiểu c c cuộc c ch mạng ở Ph p và ở Mỹ.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nền gi o dục phương Tây đã c nhiều tiến
bộ, đặc biệt từ khi chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Xuất ph t từ những đ i hỏi về lực lượng sản xuất cho nền công
nghiệp hiện đại, nhân tố con người trở thành yêu cầu căn bản t c động đến nhà
26
trường và gi o dục. Những nhà gi o dục lớn c ng với c c tư tưởng tiến bộ cũng từ
đ xuất hiện, trong đ chú trọng nhiều đến nội dung gi o dục con người toàn diện
c c mặt đức, trí, thể, mỹ,… Nội dung gi o dục đươc đưa ra cũng xuất ph t từ yêu
cầu của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội và mang tính thực tế nhằm chuẩn bị cho
người lao động vốn tri thức và trang bị kỹ năng để mang lại năng suất lao động và
lợi nhuận cao nhất cho nhà tư bản. Do đ ,triết lý gi o dục Tây Âu cũng xuất ph t từ
cơ sở kinh tế - xã hội của một quốc gia và trở thành động lực thúc đẩy sự ph t triển
của xã hội.
Với mục đích ph t triển sản xuất, trong chừng mực nào đ , vấn đề con người
vẫn luôn được đặt ở vị trí trọng tâm và nền gi o dục của họ cũng đều chú trọng
hướng đến đào tạo ra hình mẫu con người mà xã hội cần đến. Việc đào tạo theo
hướng gi o dục toàn diện từ khoa học tự nhiên xã hội đến chú trọng rèn luyện thể
lực, trí lực, đến việc nâng cao thực hành, thí nghiệm, ph t huy tính tích cực của học
sinh… cũng chính là c c bước hoàn thiện về nội dung và hình thức gi o dục. C thể
nói, tính thực tế trong gi o dục đào tạo luôn chi phối c c triết lý của nền gi o dục
phương Tây. Đây là những tư tưởng ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o
dục sau này, như việc coi con người là trung tâm của gi o dục, gi o dục nhằm ph t
triển toàn diện con người… Quan tâm đến sự ph t triển toàn diện của con người, Hồ
Chí Minh đã g p phần mang một diện mạo mới cho nền gi o dục dân tộc, đưa gi o
dục Việt Nam tiến thêm một bước tiến quan trọng.
Thứ tư, tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục
Cả C.M c và Ph.Ăngghen đều coi gi o dục - đào tạo là chìa kho , là động
lực đối với sự ph t triển của xã hội, đặc biệt là đối với qu trình xây dựng Chủ
nghĩa xã hội của một quốc gia, một dân tộc. Do vậy, hai ông đều đã nghiên cứu về
gi o dục một c ch khoa học. Ph.Ăngghen cho rằng: “nền công nghiệp do toàn xã
hội thực hiện một c ch tập thể và c kế hoạch lại càng cần c những con người c
năng lực ph t triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất” [86, tr.
474]. Và cũng theo C.M c, gi o dục - đào tạo là tạo ra cho nền kinh tế của một dân
tộc những nhà khoa học, chuyên gia, kỹ sư trên c c lĩnh vực kinh tế và nhờ đ
những tri thức ấy mới c thể s ng tạo ra những kỹ thuật tiên tiến, những công nghệ
mới. Nếu chúng ta không c đội ngũ ấy thì sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội
chỉ là lời n i huênh hoang, rỗng tuếch. Như vậy c thể thấy, mục đích của nền gi o
dục cộng sản là: “Làm cho những thành viên trong xã hội đ c khả năng sử dụng
27
một c ch toàn diện năng lực ph t triển toàn diện của mình” [86, tr. 475]. Sau hết,
c c nhà kinh điển M cxít đều hướng mục đích của nền gi o dục xã hội chủ nghĩa là
đào tạo nên những con người xã hội chủ nghĩa – những người lao động c trình độ
văn h a, c đạo đức, c kỹ năng, c c thẩm mỹ, c sức khỏe tốt- những con người
ph t triển toàn diện. Trong những ngày đầu c ch mạng th ng Mười Nga thắng lợi,
trên cơ sở kế thừa c c quan điểm gi o dục của C.M c và Ph.Ăngghen và nghiên cứu
thực trạng gi o dục – đào tạo của nước Nga, V.I.Lênin cũng đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của gi o dục – đào tạo nhằm đưa nước Nga tho t khỏi nghèo nàn lạc
hậu, nâng cao năng suất lao động và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khi tiếp cận với chủ nghĩa M c – Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ của một nền gi o dục kiểu mới dân chủ và nhân đạo –bảo đảm cho sự
ph t triển hoàn toàn những năng lực sẵn c của con người. Người xây dựng tư
tưởng gi o dục về con người, xây dựng con người lên tầm cao mới một c ch linh
hoạt và s ng tạo. Cũng giống như mộtsố học thuyết kh c trên thế giới, học thuyết
của chủ nghĩa M c-Lênin mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Nhưng với phương
ph p biện chứng và duy vật về lịch sử, điều mà c c học thuyết kh c không c , chủ
nghĩa M c-Lênin đã đặt được một cơ sở triết học và nhận thức khoa học tiên tiến,
chính vì vậy, n c tính chất thực tiễn, nhân đạo, nhân văn cao cả. Họ đều cho rằng,
gi o dục c vai tr quan trọng trong việc hình thành và ph t triển nhân c ch con
người, qua đ gi o dục cũng g p phần quyết định sự vận động và ph t triển xã hội.
Ngoài ra, các nhà Mác xít cũng chỉ rõ nền gi o dục xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo
học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, gi o dục gắn liền với lao động,
sản xuất. Hơn nữa nền gi o dục mới phải đảm bảo sự kết hợp giữa nhà trường, gia
đình và xã hội trong việc thực hiện c c nhiệm vụ gi o dục, dạy học phải lấy người
học làm trung tâm nhằm ph t huy tối đa tính độc lập, s ng tạo và tích cực của người
học. Phương ph p gi o dục là sự tổng hợp c c phương ph p dạy và học. Dạy phải
đảm bảo đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, kết hợp học tập với vui chơi.
Phương ph p dạy học trong nền gi o dục xã hội chủ nghĩa cần linh hoạt cho từng
đối tượng học dựa theo lứa tuổi, cấp học, bậc học của từng học sinh, gi o dục phải
kết hợp với tự gi o dục, học tập thường xuyên và học tập suốt đời.
Hồ Chí Minh đã luôn khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải
c con người xã hội chủ nghĩa” [101, tr. 604]. Cũng xuất ph t từ lý do đ mà trong
qu trình lãnh đạo c ch mạng, Người luôn vận dụng và ph t triển một c ch s ng
28
tạo c c quan điểm của chủ nghĩa M c – Lênin, nêu bật tính dân chủ và khoa học.
Nền gi o dục mới phải là nền gi o dục mang tính dân tộc, tính đại chúng, tính hiện
đại. Đ là một nền gi o dục phải thật sự khoa học, c ch mạng và triệt để. Trong đ
phải đặc biệt chú trọng cả hai mặt “đức” và “tài”, “đức” làm nền m ng, cơ sở cho
tài năng ph t triển.
Nhìn chung, những quan điểm của chủ nghĩa M c-Lênin về gi o dục c gi
trị sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng, ph t triển một nền gi o
dục không chỉ đối với c c nước đi lên CNXH mà với tất cả c c quốc gia và dân tộc
trên thế giới. Hồ Chí Minh chính là người đã tiếp thu, vận dụng những quan điểm
đ vào gi o dục Việt Nam một c ch s ng tạo và ph t triển.
1.1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là một giai đoạn lịch sử c nhiều sự kiện và
chuyển biến quan trọng trên thế giới. Lúc này, giai cấp tư sản đã p dụng khoa học
– kĩ thuật vào trong qu trình sản xuất, thúc đẩy nền sản xuất ph t triển nhanh
ch ng và làm thay đổi diện mạo của đời sống xã hội. Nền kinh tế hàng h a ph t
triển mạnh đã đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đ là nguyên nhân sâu xa dẫn
đến việc c c nước thực dân châu Âu đi xâm lược c c quốc gia phong kiến phương
Đông, Mỹ Latinh, châu Phi nhằm biến c c quốc gia này thành thị trường tiêu thụ
sản phẩm hàng h a, mua b n nguyên vật liệu, khai th c sức lao động và xuất khẩu
tư bản của c c nước đế quốc. Điều này đã tạo nên sự thay đổi sâu sắc c c mặt của
đời sống xã hội, như kinh tế, chính trị, văn h a, xã hội… của c c dân tộc thuộc địa,
tiêu biểu như đời sống của nhân dân ở c c nước thuộc địa hết sức kh khăn và cực
khổ. Chính điều đ đã t c động rất lớn đến nhà tư tưởng ở c c nước thuộc địa lúc
bấy giờ; đ là làm thế nào để giải ph ng nhân dân lao động ra khỏi p bức b c lột,
bất công, đưa nhân dân lao động đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Năm 1858, trong trào lưu xâm lược thuộc địa, Việt Nam – một quốc gia
phong kiến bé nhỏ ở phương Đông bị thực dân Pháp nổ súng xâm lược. Triều đình
nhà Nguyễn chống cự yếu ớt và sớm đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân
Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Kể từ đ , thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị
thực dân và tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên,
bóc lột nhân công rẻ mạt, đất nước ta phải đối mặt với những biến đổi to lớn trên
nhiều phương diện.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chính trị chuyên chế với bộ
m y đàn p nặng nề. Bên cạnh chính s ch đàn p dã man phong trào c ch mạng,
29
chúng c n d ng chính s ch chia để trị thâm độc, chia nước ta thành ba miền với ba
tên gọi khác nhau, ba hình thức cai trị khác nhau nhằm dễ bề chia rẽ và gây thù hằn
dân tộc. Trong đ , mọi quyền hành cai trị Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ đều thâu tóm
trong tay các viên quan cai trị người Pháp, vua quan Nam triều chỉ là bù nhìn, tay sai.
Về kinh tế - xã hội, sau khi chiếm được nước ta, từ năm 1897, thực dân Pháp
tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 –
1918) chúng lại tiếp tục tiến hành chương trình khai th c thuộc địa lần thứ hai ở Đông
Dương với quy mô lớn và tốc độ nhanh hơn. Dưới ảnh hưởng của sự u nhập phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã c những biến chuyển rõ rệt
như quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nhiều khu đô thị, trung tâm kinh
tế mới… Song bên cạnh phương thức sản xuất mới du nhập, thực dân Pháp vẫn duy
trì các quan hệ kinh tế của chế độ phong kiến nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch từ hai
phương thức bóc lột tư bản và phong kiến. Do đ , nền kinh tế của Việt Nam bị kìm
kẹp trong vòng lạc hậu, trì trệ, phụ thuộc hoàn toàn vào kinh tế Pháp.
Về văn hóa, thực dân Ph p thi hành chính s ch văn h a nô dịch nhằm gây
tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, cấm đo n c c
hoạt động yêu nước của nhân dân ta, đồng thời tìm mọi c ch ngăn chặn sự du nhập
của các nền văn h a tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam. Thâm độc hơn, chúng thi
hành chính sách ngu dân nhằm hủy hoại giống n i, đầu độc nhân dân ta để dễ bề
thống trị. Có thể nói, những hệ lụy về chính trị, xã hội và con người trong chính
s ch “ngu để trị” của Ph p đối với nhân dân Việt Nam đã là nguyên nhân chính thôi
thúc Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt cho việc khôi phục, xây dựng và phát
triển một nền giáo dục cáchmạng hay nói cách khác, khởi đầu cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân của Người là trên lĩnh vực giáo dục. Theo đ , “tuy chúng tôi
thiếu trường học, nhưng nước Ph p đã ban cho chúng tôi rất nhiều nhà thổ, tiệm hút
thuốc phiện và ty rượu [90, tr. 106]. “Lúc đ c một nghìn năm trăm ty rượu và
thuốc phiện cho một nghìn làng trong khi chỉ c mười trường học cũng cho bấy
nhiêu làng" [89, tr. 38]. Trong bối cảnh “Người Pháp không tổ chức một nền giáo
dục mới thay thế cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng một số
ít trường học để đào tạo ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và
thiếu cả kiến thức phổ thông” [89, tr. 424].
C ch mạng th ng T m thành công là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
c ch mạng Việt Nam. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành những người làm
chủ và c quyền xây dựng một xã hội mới, tiến bộ cho mình. Tuy vậy, nền giáo
30
dục lạc hậu, chịu nhiều sự t c động của lịch sử và chính trị chưa c sự thống nhất
về mục tiêu, nội dung, phương ph p đ i hỏi cần c một cuộc c ch mạng nhằm thay
đổi toàn diện nền gi o dục. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính
phủ, phần công bố “Những nhiệm vụ cấp b ch của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng h a”, Hồ Chí Minh đã xếp gi o dục lên vị trí thứ hai trong ba nhiệm vụ trọng
tâm là “diệt giặc đ i, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Sau Bình dân học vụ, một
kỉ nguyên mới của nền gi o dục c ch mạng do dân, của dân và vì dân đã được hình
thành và những cố gắng của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng h a trong lĩnh vực
gi o dục lúc bấy giờ cũng đã g p một phần không nhỏ trong việc tạo nên nền tảng
cho sự ra đời của những tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh về sau.
Chính những hoàn cảnh lịch sử như trên, sự xâm lược của thực dân Ph p,
trình độ dân trí chưa cao, văn h a xã hội Việt Nam c n những hạn chế nhất định -
những điều đ đã ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục, đến quan
niệm về nhiệm vụ, nội dung, phương ph p gi o dục trong tư tưởng của Người.
1.1.1.3. Quá trình hoạt động cách mạng và phẩm chất nhân cách Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình Nho học yêu nước, lớn lên trong một
gia đình coi trọng đạo lý truyền thống, coi trọng học vấn và gi o dục con ch u, từ
khi c n nhỏ. Người đã được lớn lên từ những lời ru tiếng h t, từ những bài học
giản dị về tình yêu thương con người, về tấm gương cần c , hiếu học, về gi o dục
đạo đức và về l ng yêu nước thương dân… từ chính gia đình của mình.
Ngoài yếu tố gia đình, quê hương Nam Đàn, Nghệ An cũng đã c t c động
không nhỏ tới tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục. Đây là một v ng đất rất giàu
truyền thống hiếu học và anh dũng trong lao động, đấu tranh. Mảnh đất ấy đã hun
đúc nên những gi trị gi o dục trong tư tưởng của Người bởi đây được coi là nơi
“núi cao sông rộng, phong tục trọng hậu, cảnh tượng tươi s ng, gọi là đất danh
tiếng hơn cả Nam Châu. Người thì thuần hậu mà chăm học… Được khí tốt của núi
sông, nên sinh ra nhiều bậc danh hiền” [18, tr. 65].
Luôn được coi là một người thông minh, hiếu học, có khát vọng và lý tưởng
đúng đắn, từ nhỏ khi còn trong lứa tuổi thanh niên, Hồ Chí Minh đã rất ham đọc thơ
ca yêu nước, thích nghe những câu chuyện kể về những người anh hùng dân tộc.
Qua những câu chuyện thời cuộc đ đã hình thành nên một con người có tinh thần
yêu nước, thương n i, hình thành nên lý tưởng, khát vọng giải phóng dân tộc một
cách triệt để ở Người.
Nhắc đến Hồ Chí Minh, chúng ta còn cảm phục Người bởi ý chí tự lực, quyết
31
tâm vươn lên không ngừng trong học tập. Người là tấm gương s ng ch i về tinh
thần tự học. Ngay từ khi còn trẻ tuổi, Người đã ý thức được việc tự bồi dưỡng, nâng
cao kiến thức văn h a, xã hội cho bản thân mình thông qua nhà trường, qua sách
b o, kiên trì đi tìm con đường cứu nước bằng phương ph p tự học trong sách vở,
trong thực tế nghiên cứu lý luận cách mạng của thời đại. Quá trình tự học của Hồ
Chí Minh không phải chỉ dừng lại ở một giai đoạn nhất thời mà nó gắn liền với cả
quá trình hoạt động cách mạng của Người. Khi x c định đến Ph p, Người đã đã đặt
ra kế hoạch cho mình phải học và thông thạo ngôn ngữ của nước này. Sau này, là
tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, hay tiếng Nga,… Tự học đã trở thành phương châm
giáo dục hay như một triết lý sống của Hồ Chí Minh. Người cũng đã từng kể lại:
“lúc tuổi thanh niên, Bác hoạt động ở Ph p, cũng vừa lao động, vừa học tập, nhưng
lúc đ lao động là lao động nô lệ cho đế quốc. Bác phải làm thế để tự kiếm sống,
nhưng vẫn dành thì giờ để học tập, ngày lao động, đêm học tập, chứ Bác không
được đến trường học đâu” [102, tr. 437].
Trong cách học và hành, Hồ Chí Minh luôn tạo cho mình tâm thế chủ động
trong tiếp thu và vận dụng những lời dạy của người đi trước. Thêm vào đ , sự hiếu
học, tôn sư trọng đạo cũng là một trong những minh chứng ở Hồ Chí Minh mà thế
hệ học sinh, sinh viên ở bất kì thời đại nào cũng cần phải noi gương.
Như vậy, không chỉ tư tưởng mà cả cuộc đời hoạt động cách mạng vì nước vì
dân của Hồ Chí Minh cũng là một minh chứng rõ ràng của sự kết hợp những tinh
hoa văn h a Đông Tây, dân tộc và thế giới, truyền thống và hiện đại. Bằng trí tuệ
thiên tài, tư chất thông minh, một phong c ch tư duy độc lập, sáng tạo, tự chủ, Hồ
Chí Minh đã kh i qu t gi trị tư tưởng dân tộc, tìm hiểu tất cả những học thuyết lớn
như Nho gi o, Phật giáo, chủ nghĩa nhân văn phương Tây. Người không chỉ đ nh
giá những mặt tích cực mà còn chỉ ra những hạn chế của các học thuyết đ . C thể
n i, đ chính là sự kế thừa có chọn lọc, là sự vận dụng sáng tạo và phát triển tư
tưởng về giáo dục lên một tầm cao mới. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh không
ngừng được bồi đắp trong suốt chặng đường hoạt động cách mạng của Người và giá
trị của n cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục: một số nội dung cơ bản
1.1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo dục
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục không chỉ là một bộ phận trong tư tưởng Hồ
Chí Minh mà còn là kết quả của việc vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của
32
chủ nghĩa M c – Lênin về giáo dục vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta, là sự kế thừa phát
huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc về giáo dục và tiếp thu tinh hoa văn h a
giáo dục của nhân loại. Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của giáo dục, luôn đề cao
tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển của đất
nước. Cụ thể, tư tưởng của Người về vị trí, vai trò của giáo dục thể hiện qua các khía
cạnh sau:
Thứ nhất, giáo dục là làm cho đất nước vững mạnh
Trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vốn
được coi là một triết lý giáo dục cách mạng, một tư tưởng chỉ đạo xây dựng một nền
giáo dục của nước Việt Nam độc lập. Người đặc biệt nhấn mạnh đến vị trí, vai trò
của giáo dục không chỉ đối với sự nghiệp cách mạng, mà c n đối với sự phát triển
của đất nước và bản thân mỗi con người.
Trước sự thống trị phản động của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã vạch trần
bộ mặt hà khắc, đê tiện, dã man của chúng đằng sau cái gọi là “khai h a văn minh”
trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Ph p” năm 1925: “… hàng ngàn trẻ em
đành chịu ngu dốt vì nạn thiếu trường” [90, tr. 107], "Chính phủ thuộc địa lại tìm đủ
mọi c ch để ngăn cản không cho thanh niên An Nam sang du học bên Pháp, vì sợ
nhiễm phải chủ nghĩa cộng sản”, "Làm cho dân ngu để dễ trị", đ là chính s ch mà
các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ta ưa d ng nhất" [90, tr. 108]. Từ chỗ
lên án gay gắt chính sách ngu dân của bọn thực dân, với tinh thần văn minh chống
dã man, đưa đất nước đi lên c ng công lý và chính nghĩa, trong “Ch nh cương vắn
tắt của Đảng” do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo có ghi: trong cách mạng tư sản dân
quyền, về mặt xã hội phải “phổ thông giáo dục theo công nông h a” [91, tr. 1]. Do
vậy, từ rất sớm, Người đã coi việc “gi o dục cho mọi người” chính là điều kiện tiên
quyết nhằm tạo sức mạnh cho nhân dân đứng lên làm cách mạng giải phóng khỏi
ch đô hộ thực dân để từ đ xây dựng nước Việt Nam độc lập.
Muốn giành được độc lập, tự do, muốn mang lại hạnh phúc cho nhân dân thì
trước hết cần có sự khai sáng, khai trí cho dân tộc và giáo dục đ ng vai tr to lớn
đ . Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn
độc lập, ngày 3/9/1945, với tiêu đề “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng h a”, Hồ Chí Minh đã đề cập “Vấn đề thứ hai, nạn dốt - Là một
33
trong những phương ph p độc ác mà bọn thực dân d ng để cai trị chúng ta. Hơn
chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần ba th ng là đủ để
học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” [92, tr. 7]. Người
đưa ra lời hiệu triệu:
“Quốc dân Việt Nam!
Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và
trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Những người đã biết chữ hãy dạy
cho những người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, như c c anh chị
em trong sáu, bảy năm nay đã gây phong trào truyền bá quốc ngữ, giúp đồng bào
thất học” [92, tr. 40]. Tại thời điểm đ , nạn “dốt” được coi là một thứ “giặc” xếp
sau “giặc đ i”, c ng với “giặc ngoại xâm” trở thành ba yếu tố có thể tiêu diệt cả dân
tộc. Hồ Chí Minh luôn x c định vị trí, vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục; đặc
biệt là vai trò truyền thụ kiến thức cho mọi người dân. Bởi lẽ phải học, phải có tri
thức thì mới giữ được độc lập, mới xây dựng được đất nước giàu mạnh.
Từ diệt được “giặc dốt”, Hồ Chí Minh đưa ra mục tiêu: dân tộc ta phải trở
thành một dân tộc thông th i. Người cho rằng: “Chúng ta c nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân ta”, vì bọn thực dân đã “d ng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa
dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói
xấu khác. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm,
yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đ ng với nước Việt Nam độc lập”. “Tôi
đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện:
CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH” [92, tr. 7]. Như vậy, muốn diệt được “giặc dốt” phải
phát huy tinh thần nhân dân, đồng nghĩa với việc phải nhận rõ trí tuệ có vai trò mấu
chốt trong đời sống tinh thần hay còn gọi là “lực lượng tinh thần”, “sức mạnh tinh
thần”. Khẳng định vai trò của giáo dục, trong ngày 14/11/1945, khi mới giành được
độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã n i:
34
“Chúng ta cần nhất bây giờ là:
Kiến thiết ngoại giao
Kiến thiết kinh tế
Kiến thiết quân sự
Kiến thiết giáo dục” [92, tr. 114].
Thứ hai, giáo dục là nhằm khắc phục những tàn dư của chế độ cũ.
Xuất phát từ nhận thức sâu sắc về vai trò không thể thiếu của giáo dục trong
sự nghiệp cách mạng cũng như trong việc giành lại quyền độc lập, tự do cho dân
tộc, bằng tinh thần yêu nước chân chính, nhiệt thành của mình, Hồ Chí Minh đã nỗ
lực suốt đời để hồi sinh lại sức sống của dân tộc cả về vật chất và tinh thần. Người
nêu rõ quan điểm mỗi người cần phải thẳng thắn đấu tranh, kiên quyết xóa bỏ nền
giáo dục thực dân và những tàn dư của chế độ cũ, đặc biệt là những quan điểm lỗi
thời, lạc hậu: “phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót
lại, như: Th i độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của
nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng: Dạy
và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân” [98, tr. 185].
Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, người dân Việt Nam không chỉ bị đày
đọa về thể xác mà còn bị tha hóa về tinh thần. Hậu quả của n là căn bệnh dốt nát
và những th i hư tật xấu như rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện... Thậm chí, những
người đến trường thì được “đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một
bọn thực dân người Ph p” [92, tr. 34] bởi mục tiêu của nền giáo dục thực dân là kìm
hãm nhân dân ta trong vòng nô lệ: “Trường học lập ra không phải để giáo dục cho
thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát
triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích
giáo dục để đào tạo tuỳ phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ
cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy
hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính
nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng "trung thực" giả dối, chỉ dạy cho họ
biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không
phải là Tổ quốc của mình và đang p bức mình” [89, tr. 424]. Không chỉ có vậy,
35
“nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó
làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc. Điều gì có thể rèn luyện được cho học
sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở nhà trường” [89, tr. 424-
425]. Rõ ràng, với một nền giáo dục đặt dưới sự cai trị phản động, thâm độc thì nhà
trường không thể trở thành nơi rèn luyện, phát triển nhân c ch con người và càng
không thể trở thành một nhà trường giáo dục cho con người chủ nghĩa yêu nước
chân chính. Do vậy, sau Cách mạng th ng T m năm 1945, Hồ Chí Minh đã khẳng
định về một nền giáo dục mới nhằm khắc phục những tàn dư của chế độ cũ: “dân
tộc giải phóng; giáo dục được giải phóng thì giáo dục bây giờ phải khác giáo dục
phong kiến” [98, tr. 344].
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục ở Việt Nam, một nền giáo dục
mới ra đời đã làm thay đổi toàn bộ hệ thống, mục tiêu và nội dung giáo dục của các
nhà trường phong kiến, tư sản để nhằm hình thành những nhân cách mới, một nền
giáo dục giúp định hướng và tạo điều kiện cho tất cả mọi người được phát huy tối
đa năng lực của mình. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Về mọi mặt, trường học của chúng ta
phải hơn hẳn trường học của thực dân và phong kiến” [98, tr. 185]. Đ không chỉ là
một nền giáo dục hướng vào các giá trị dân tộc, mang tính hiện đại, mà còn là một
nền giáo dục mang đậm tính nhân văn cao cả hướng đến phát triển con người toàn
diện và phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Thứ ba, giáo dục là nhân tố quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển
đất nước và hoàn thiện nhân cách con người
Con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất
bại của sự nghiệp cách mạng, quyết định sự hưng thịnh hay tồn vong của một quốc
gia. Giáo dục giúp cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới. Giáo dục chính là
nhân tố đắc lực trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, bởi chỉ từ
giáo dục thì mới có những con người mang tố chất xã hội chủ nghĩa như Hồ Chí
Minhđã từng khẳng định: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải c : người xã hội chủ nghĩa.
Muốn c người xã hội chủ nghĩa, phải c tư tưởng xã hội chủ nghĩa” [100, tr. 595].
Hồ Chí Minh vốn rất coi trọng việc “trồng người”, việc bồi dưỡng những con người
xã hội chủ nghĩa chính là công việc trọng đại của đất nước, dân tộc. Cũng chính vì
36
vậy, trong ngày 13/9/1958 tại Hội nghị cán bộ giáo dục toàn quốc trong bối cảnh
miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà,
Người chỉ ra thông điệp: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt
cho nước nhà” [100, tr. 528].
Giáo dục có vị trí và vai tr hàng đầu không chỉ trong sự nghiệp cách mạng
mà còn trong công cuộc xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn, văn minh hơn. Sản phẩm
của giáo dục tạo ra chính là đội ngũ đông đảo các nhà bác học, các chuyên gia trên
tất cả c c lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội và từ những con người đ họ sẽ tiếp
thu, sáng tạo ra những kĩ thuật khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến mang lại
những hiệu quả kinh tế cao cho xã hội. Giáo dục giúp nâng cao trình độ học vấn,
năng lực nhận thức thực tiễn của người lao động – lực lượng sản xuất trực tiếp của
xã hội. Xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, phát triển sẽ tạo điểu kiện,
định hướng cho tất cả mọi người được học tập, được phát huy toàn bộ khả năng của
mình. Từ đ g p phần tạo ra một thế hệ công dân c đạo đức, c năng lực, có trình
độ, có sức khỏe để tiếp tục kế tục được sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc,
xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, công bằng, tiến bộ, sánh vai với
bạn bè khắp năm châu.
1.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục
Thứ nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của giáo dục
Trong mọi hoàn cảnh, học tập là hoạt động đ i hỏi phải nhận thức rõ ràng
tính mục đích. Trong việc xây dựng nền giáo dục, việc x c định mục tiêu của giáo
dục là vấn đề tiên quyết, có vai trò chủ đạo trong việc x c định nội dung giáo dục,
phương ph p gi o dục và hình thức giáo dục phù hợp. Hồ Chí Minh luôn chú trọng
giải thích tại sao phải học, học để làm gì? Theo Hồ Chí Minh: “Học để làm việc,
làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại” [94, tr. IX]. bởi theo Người: “Chế độ khác thì giáo dục cũng phải kh c…
Mục đích gi o dục bây giờ là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp
người, lớp cán bộ mới” [98, tr. 344]. Mục tiêu của giáo dục được Người cụ thể hóa
trên các khía cạnh sau:
37
Một là, phát triển con người toàn diện
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục không chỉ có nhiệm vụ truyền bá tri thức, nâng
cao trình độ văn h a, mà c n c nhiệm vụ cải tạo con người, góp phần rèn luyện
con người, hình thành nên nhân cách tốt đẹp cho mỗi người. Giáo dục đồng thời là
phương tiện định hướng con người theo một chủ đích nhất định, hướng con người
đến với Chân, Thiện, Mỹ. Mục tiêu trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục là vì con người, cho con người, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Cũng vì lẽ đ mà Hồ Chí Minh đã bắt đầu sự nghiệp khai sáng cho dân tộc
Việt Nam bằng một nền giáo dục toàn diện với mục tiêu xây dựng và phát triển con
người toàn diện. Đ là những con người mang thế giới quan khoa học và nhân sinh
quan cách mạng, những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, vừa c đủ sức vừa có
đủ tài, bởi: “C tài phải c đức. C tài không c đức, tham ô hủ hoá có hại cho
nước. C đức không c tài như ông bụt ngồi trong ch a, không giúp ích gì được ai”
[98, tr. 345-346]. Như vậy, cần phải chú trọng giáo dục toàn diện, cần xây dựng cho
người học tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Theo đ ,
giáo dục có nhiệm vụ đào tạo nên những công dân có ích, những cán bộ tốt cho dân
tộc. Dân muốn giàu, nước muốn mạnh thì dân trí phải cao, phải c đủ năng lực,
phẩm chất để làm chủ cuộc sống của bản thân và vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Giáo dục phải làm sao tiếp tục phát huy giá trị truyền thống dân tộc, bồi
dưỡng hình thành giá trị mới, đẩy lùi cái xấu, cái yếu kém. Người nhấn mạnh: “cốt
nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương n i. Phải dạy cho họ có chí tự
lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”, “trong
lúc dạy, chớ nên làm cho học tr c tư tưởng vị quốc như bọn phát xít, vị quốc
nghĩa là chỉ biết yêu trọng nước mình mà khinh ghét nước người… Phải tẩy sạch óc
kiêu ngạo, tự phụ, mà giáo dục thực dân c n để lại” [93, tr. 120]. Trong tư tưởng
của Người, con người với những nhân tố như hiểu biết, năng lực, đạo đức có vai trò
quan trọng, có tính chất quyết định đối với sự thành công của cách mạng, sự tiến bộ
của xã hội và hạnh phúc của nhân dân.
Hai là, tạo cơ hội công bằng trong phát triển cho mỗi người
Nền giáo dục mới mà Hồ Chí Minh hướng đến đ là một nền giáo dục của
38
một nước độc lập, tự do và dân chủ. Nền giáo dục này đã đoạn tuyệt quan hệ thuộc
địa với đế quốc, với những tư tưởng quân chủ, gia trưởng thời phong kiến. Người
chủ trương xây dựng một nền giáo dục dân chủ, hiện đại và đặc biệt là công bằng
cho mọi người.
Tháng 9/1945, Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh, bức thư cũng chính là
cương lĩnh của nền giáo dục mới: “…từ giờ phút này giở đi c c em bắt đầu được
nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam. Trước đây, cha anh c c em, và mới
năm ngo i cả các em nữa, đã phải chịu nhận một nền học vấn nô lệ, nghĩa là n chỉ
đào tạo nên những kẻ làm tay sai, làm tôi tớ cho một bọn thực dân người Pháp.
Ngày nay, c c em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục
của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người
công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn
những năng lực sẵn có của c c em” [92, tr. 34]. Về mặt tổ chức, nền giáo dục mới là
một nền giáo dục duy nhất chung cho toàn thể nhân dân. Có thể n i, đây là một chủ
trương gi o dục mới mẻ, mang tính khai sáng dựa trên cơ sở tôn trọng, tin tưởng
con người. Đ là tạo sự công bằng về cơ hội cho mỗi người trong phát triển bản
thân; dân chủ hóa về mục tiêu phát triển, mỗi người được ph t huy năng lực, sở
trường, cá tính riêng, họ hoàn toàn bình đẳng với nhau về giáo dục. Một khi nền
giáo dục dân chủ chắc chắn sẽ tạo ra sản phẩm là những con người dân chủ c đủ
năng lực làm chủ bản thân và làm chủ xã hội.
Thứ hai: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục
Theo Hồ Chí Minh, một nền giáo dục toàn diện trước hết phải là một nền
giáo dục kết hợp chặt chẽ văn h a, khoa học kĩ thuật với chính trị. Người cũng cho
rằng, giáo dục phải có tính toàn diện trên các mặt đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục
để đào tạo những con người vừa c đức vừa c tài. Tư tưởng này được thể hiện qua
rất nhiều bài nói, bài viết của Người như trong “Thư gửi lớp chuẩn bị tổng phản
công” trường trung học lục quân Trần Quốc Tuấn ngày 09/11/1949; “Gửi tướng
Nguyễn Sơn” th ng 3 năm 1948; “Nhiệm vụ của người làm tướng” (8/1948) và đặc
biệt ngày 24/10/1955, trong thư “Gửi các em học sinh” đăng trên b o Nhân dân
nhân ngày mở trường, Người nhắn nhủ c c em: “Việc giáo dục gồm có:
39
- Thể dục: Để làm thân thể mạnh khoẻ, đồng thời cần giữ gìn vệ sinh riêng
và vệ sinh chung.
- Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.
- Mỹ dục: Để phân biệt c i gì là đẹp, c i gì là không đẹp.
- Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu
trọng của công” [98, tr. 175].
Như vậy, nội dung giáo dục toàn diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh có thể tóm
gọn trong những mặt cơ bản sau:
Một là, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
Có thể n i, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, giáo dục chính trị tư tưởng
là một nội dung quan trọng, đ ng vai tr quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách
mạng ở bất kì một giai đoạn lịch sử nào. Bởi theo Người, chỉ khi thống nhất về tư
tưởng thì mới có thể thống nhất trong hành động, muốn làm tròn nhiệm vụ, phải cải tạo
tư tưởng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bồi dưỡng tư tưởng mới để đ nh thắng tư tưởng cũ,
đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới” [96, tr. 300].
Giáo dục chính trị tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thực tiễn
của mỗi người, không chỉ giúp họ khắc phục những tư tưởng lạc hậu mà còn nâng
cao tinh thần tự giác và tính tích cực trong quá trình cải tạo, xây dựng con người
mới. Việc nâng cao trình độ chính trị là cơ sở giúp cho người học nắm bắt được các
chủ trương, chính s ch, ph p luật của Nhà nước, qua đ thêm tin tưởng vào Đảng,
vào nhân dân. Vai trò quan trọng đ của giáo dục chính trị cũng đã được Hồ Chí
Minh khẳng định: “cần phải tăng cường giáo dục chính trị kết hợp với văn ho , làm
cho mọi người có ý thức học để phục vụ chủ nghĩa xã hội” [101, tr. 605].
Bên cạnh việc khẳng định tầm quan trọng của giáo dục chính trị, để nâng cao
nhận thức về giáo dục chính trị tư tưởng cho người dân, Hồ Chí Minh đưa ra nội dung
giáo dục chính trị đ là phải dạy lý luận, dạy chủ nghĩa Mác – Lênin. Người yêu cầu
cán bộ, đảng viên “phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin. Có học tập lý luận Mác -
Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu
biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt công t c Đảng giao phó cho mình. Học tập
chủ nghĩa M c - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối
40
với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa M c - Lênin để áp
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi
đôi với thực tiễn” [100, tr. 611]. Nội dung giáo dục chủ nghĩa M c – Lênin là truyền bá
chủ nghĩa M c – Lênin, c c đường lối, chủ trương, chính s ch của Đảng và Nhà nước
tới đông đảo quần chúng từ đ tạo ra sự thống nhất về mặt tư tưởng, nhận thức chính
trị, nâng cao khả năng hoạt động thực tiễn và vận dụng lý luận đã học vào trong cuộc
sống. Theo đ , học tập các môn học lý luận chủ nghĩa M c – Lênin là học các môn học
như “chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học,
lịch sử phong trào công nhân quốc tế, lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, v.v...”
[104, tr. 715]. Muốn công tác giáo dục chính trị tư tưởng đạt hiệu quả thì: “Chúng ta
phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa M c – Lênin để dùng lập trường, quan điểm,
phương ph p chủ nghĩa M c – Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta,
phân tích một c ch đúng đắn những đặc điểm của nước ta. C như thế, chúng ta mới có
thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được
những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích
hợp với tình hình nước ta” [100, tr. 92].
Cùng với giáo dục chính trị tư tưởng, Hồ Chí Minh rất coi trọng giáo dục đạo
đức và luôn coi đây là nền tảng của chiến lược giáo dục. Đối với nền giáo dục mới
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Người đ i hỏi mỗi người dưới chế độ mới phải có cả
đức lẫn tài, trong đ đức là gốc, là nền tảng cho sự phát triển lành mạnh và toàn
diện. Đồng thời, Người nêu quan điểm: “C tài mà không c đức ví như một anh
làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm
được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu c đức mà không có
tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người” [100,
tr. 399]. Trong quan niệm của Người, “đạo đức” giống như c i gốc của cây, cái
nguồn của sông, c n “tài” không c nghĩa là kiến thức hoàn chỉnh, tuyệt đối mà là
kiến thức mở, “dĩ bất biến ứng vạn biến”, luôn phải được bổ sung và không ngừng
phát triển qua thực tiễn sinh động. Bởi theo Hồ Chí Minh: “Giải phóng cho dân tộc,
giải ph ng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không c đạo đức,
không c căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì” [93, tr. 292].
41
Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức không phải là cái sẵn có trong mỗi con
người, mà do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mới có. Hồ Chí Minh coi đạo
đức là cái gốc của người cách mạng và là vấn đề tiên quyết trong việc xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa. Muốn làm cách mạng thì con người trước hết phải có
c i tâm trong s ng và đạo đức cao đẹp. Bởi vậy, Người n i: “Trong gi o dục, không
những phải có tri thức phổ thông mà phải c đạo đức cách mạng” [98, tr. 345].
Người cũng nhấn mạnh vấn đề này tại Hội nghị tổng kết phong trào thi đua dạy tốt,
học tốt th ng 8/1963: “Nội dung giáo dục cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục.
Dạy cho c c ch u đạo đức cách mạng, biết yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu
khoa học, yêu lao động và người lao động, thật thà, dũng cảm, sẵn sàng tham gia
lao động và bảo vệ Tổ quốc” [103, tr. 746]. Việc giáo dục đạo đức phải được dành
ưu tiên trong nội dung chương trình, thời gian, kết hợp giáo dục đạo đức trong các
môn học, trong cuộc sống sinh hoạt và công t c hàng ngày để hoàn thiện nhân cách
con người.
Đối với từng đối tượng khác nhau, Hồ Chí Minh nêu lên nội dung giáo dục
đạo đức phù hợp. Đối với cán bộ, Đảng viên, Người chỉ rõ: “c ch tu dưỡng của
người cách mạng là phải giữ vững đạo đức cách mạng, nắm vững lập trường và
quan điểm của giai cấp vô sản, ra sức tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng, phải
nghiên cứu chính trị, phải rèn luyện và tu dưỡng về mọi mặt, phải cải tạo tư tưởng
và lề lối làm việc” [94, tr. 586]. Đối với học trò, Người chú trọng dạy cho chúng
“biết yêu nước, thương n i. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không
chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” [93, tr. 120]. Nội dung giáo dục đạo
đức, rèn luyện nhân cách được Người định hướng chính là việc xây dựng đạo đức
công dân theo các mục tiêu là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa
học, phải thực hiện đức tính trong sạch, chất ph c, hăng h i, cần kiệm. Đồng thời,
Người thường xuyên khích lệ, động viên giáo viên và những cán bộ giáo dục phải
bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tình cảm tốt đẹp, ý thức tập thể, lối sống thật thà, khiêm
tốn, trung thực; biết xử sự c văn h a. Người chỉ rõ: “Lợi ích chung của nước nhà
và lợi ích riêng của người dân là nhất trí; quyền lợi của công dân và nghĩa vụ của
công dân là nhất trí; đã là người chủ của nước nhà thì phải phụ tr ch đối với Tổ
42
quốc” [97, tr. 259]. Giáo dục có nhiều cách khác nhau, theo Hồ Chí Minh, hình thức
giáo dục hiệu quả nhất là kết hợp xây đi với chống, “giúp quần chúng giáo dục quần
chúng bằng cách tự phê bình và phê bình để dạy dỗ lẫn nhau” [97, 259]. Bởi mỗi
người đều có mặt tốt, mặt xấu, giáo dục là để loại bỏ dần cái xấu, hướng đến những
cái tiến bộ hơn.
Bên cạnh những nội dung đạo đức trên đây, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt nhấn
mạnh đến công tác chống lại chủ nghĩa c nhân và những biểu hiện của n . Người
chỉ rõ: “Chủ nghĩa c nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè
phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó,
những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị
cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Chủ nghĩa
cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội” [100, tr. 611]. Những con
người theo chủ nghĩa c nhân, đ là những con người “tự cho mình c i gì cũng giỏi,
họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần
chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Họ mắc
bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng
không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì” [100, tr. 609]. Theo đ ,
giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ góp phần “quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, nâng cao đạo đức cách mạng” [104, tr. 507].
Hai là, giáo dục tri thức
Trong nội dung giáo dục toàn diện trên tất cả các mặt, bên cạnh việc tăng
cường giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức thì giáo dục tri thức hay nói
cách khác là giáo dục văn h a, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ khoa học kĩ
thuật cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã coi
văn h a là một trong những mục tiêu căn bản trong nhiệm vụ xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa. Xuất ph t điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, muốn đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội đ i hỏi Việt Nam phải ph t huy được sức mạnh của toàn
dân tăng gia sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Người cho rằng: “Muốn tăng gia sản xuất tốt thì phải có kỹ
thuật cải tiến. Muốn sử dụng tốt kỹ thuật thì phải c văn h a” [101, tr. 361], “C ch
43
mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát
triển văn h a của nhân dân” [101, tr. 371]. Muốn nâng cao trình độ văn h a, trước
hết mọi người phải được phổ cập giáo dục.
Để thực hiện mục tiêu xây dựng con người mới toàn diện thì không thể
không chú trọng đến việc đào tạo và nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn. Nâng
cao trí dục là một trong những nội dung then chốt nhằm thực hiện mục tiêu ấy.
Theo Hồ Chí Minh: “Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức
mới” [98, tr. 175]. Đối với mỗi cấp học, bậc học, Người đưa ra những nhiệm vụ
kh c nhau: “- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập
lý luận và khoa học tiên tiến của c c nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để
thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. - Trung học thì cần đảm bảo
cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và
tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực
tế. - Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu
lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò
ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khoẻ của
c c ch u.” [98, tr. 186].
Có thể thấy, tư duy Hồ Chí Minh về giáo dục hết sức hiện đại. Người viết:
“Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa
học tự nhiên do đ mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội.
Khoa học xã hội do đ mà ra” [93, tr. 275]. Tuy nhiên, nếu như chỉ dừng lại sự hiểu
biết ở trong sách vở thì đó mới chỉ là “trí thức một nửa”, “muốn thành một người trí
thức hoàn toàn, thì phải đem c i trí thức đ p dụng vào thực tế” [93, tr. 275]. Theo
Người, việc giáo dục chuyên môn phải luôn gắn liền với thực tế dựa trên nguyên tắc
phải “làm thế nào cho việc học tập thiết thực, vui vẻ; không nên câu nệ, hình thức,
tuyệt đối tránh cách nhồi sọ. Lý luận và thực hành phải đi đôi với nhau” [97, tr.
146].
Ngoài ra, muốn ph t huy được giáo dục trí thức trong nhà trường thì không
thể không n i đến vai trò của đội ngũ giáo viên. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh
vai trò của đội ngũ gi o viên trong sự nghiệp giáo dục nói chung và trong việc phát
44
triển con người mới, con người xã hội chủ nghĩa n i riêng. Quan điểm của Người về
gi o viên cũng được thể hiện có hệ thống, toàn diện và sâu sắc. Theo Người, vai trò
của giáo viên là sự kế thừa và phát huy truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của
dân tộc Việt Nam. Đầu tiên đ là vai tr đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp
cách mạng của Đảng, dân tộc. Để đào tạo những người cán bộ vừa c đức vừa có tài
thì vai trò nòng cốt thuộc về phía nhà trường và người trực tiếp thực hiện là giáo
viên. Người giáo viên không chỉ cần phải mang hiểu biết, năng lực của mình truyền
đạt lại cho người học mà còn phải dùng cả những phẩm chất đạo đức tốt đẹp để
hướng dẫn, dìu dắt họ để giúp họ lĩnh hội được tri thức, ph t huy được năng lực vốn
có, trở thành những con người phát triển toàn diện cả mặt đức dục, trí dục, thể dục,
mỹ dục.
Ba là, giáo dục thể chất
Tư tưởng giáo dục về thể chất không phải ngẫu nhiên được xem là một biểu
hiện của tính nhân đạo, tiến bộ của nền giáo dục, bởi nó không chỉ góp phần bồi
dưỡng thể lực, mà còn góp phần cải tạo nòi giống, phát triển hài h a, cân đối các
phẩm chất, năng lực của con người, là điều kiện tiên quyết để thực hiện tốt các nhiệm
vụ giáo dục khác. Vì lẽ đ , gi o dục chỉ có thể thực hiện được mục tiêu một cách cân
đối, hài hòa khi và chỉ khi giáo dục thể chất được coi trọng.
Hồ Chí Minh luôn coi sức khỏe là vốn quý nhất, là hạnh phúc của cả dân tộc.
Bàn về tầm quan trọng của sức khỏe, Người ví: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân
được đảm bảo thì tinh thần càng hăng h i. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng
chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công” [96, tr. 154]. Cùng với
tinh thần toàn dân tích cực rèn luyện thể dục thể thao, Người kêu gọi: “Luyện tập thể
dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước. Việc đ không tốn
kém, kh khăn gì. G i trai, già trẻ ai cũng nên làm và ai cũng làm được. Mỗi ngày lúc
ngủ dậy, tập một ít thể dục. Ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy
đủ, như vậy là sức khỏe” [92, tr. 241].
Xuất phát từ nhận thức về vai trò tiền đề của giáo dục thể chất với các nội dung
giáo dục khác, Hồ Chí Minh chủ trương đưa gi o dục thể chất vào trong trường học từ
rất sớm. Người đưa ra lời khuyên: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải lao động
45
tốt. Muốn lao động tốt thì phải có sức khỏe. Muốn có sức khỏe thì phải giữ gìn vệ sinh,
tức là phải ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch để khỏi ốm đau” [101, tr. 610]. Hồ Chí
Minh chính là tấm gương s ng về tinh thần kiên trì, bền bỉ trong luyện tập thể dục, thể
thao, là minh chứng về sức làm việc sáng tạo không mệt mỏi, chống lại bệnh tật. Nâng
cao sức khỏe của bản thân chính là giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà bởi mỗi một
người dân yếu ớt là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước
mạnh khỏe. Đây cũng chính là nhiệm vụ và trách nhiệm của toàn xã hội.
Bốn là, giáo dục thẩm mỹ
Cùng với các nội dung giáo dục khác, giáo dục thẩm mỹ cũng là một trong
những nội dung giáo dục quan trọng. Giáo dục thẩm mỹ, về bản chất của nó là hình
thành mỗi con người một quan hệ thẩm mỹ nhất định đối với hiện thực, đ p ứng
nhu cầu hướng thiện, nhu cầu thưởng thức c i đẹp của nghệ thuật và cuộc sống,
nâng cao năng lực cảm thụ và sáng tạo ở con người. Một khi làm tốt công tác giáo
dục thẩm mỹ sẽ giúp thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành nhân cách, đạo đức ở con
người, hướng con người đến cái thiện, c i đẹp để không ngừng phấn đấu, rèn luyện
bản thân mình. Theo Hồ Chí Minh, nội dung giáo dục thẩm mỹ là một trong những
nội dung giáo dục quan trọng “phải chú ý giáo dục toàn diện trên các mặt đạo đức,
trí dục, mỹ dục và thể dục, đ p ứng yêu cầu dần nâng cao về trình độ qua các bậc
tiểu học, trung học và đại học, gắn học với hành, để đào tạo và phát triển con người
toàn diện vừa c đức, vừa có tài” [99, tr. XV].
Quan điểm về nội dung giáo dục thẩm mỹ, Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỹ dục:
để phân biệt c i gì đẹp, c i gì không đẹp” [98, tr. 175]. Theo đ , gi o dục thẩm mỹ
chính là bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn h a thẩm mỹ, nâng cao nhu cầu xây dựng
cuộc sống theo c i đẹp, c i đẹp ở trong sự cân bằng, hài hòa trong lối sống, trong
tinh thần trách nhiệm của mỗi con người.
Xuất phát từ nhận thức các chức năng của giáo dục thẩm mỹ là hình thành
định hướng thẩm mỹ của nhân cách và chức năng ph t triển những tiềm năng s ng
tạo, Hồ Chí Minh đã hướng việc hình thành nhân cách của người học theo tinh thần
của những giá trị thẩm mỹ đích thực.Nhiệm vụ của giáo dục là cần phải đ nh thức
những tiềm năng s ng tạo của tuổi trẻ, làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn
46
có của c c em, đi sâu vào tâm lý người học để vun đắp nên những tình cảm lớn như
yêu nước, nhân văn, yêu c i thiện, ghét sự bất công,… Việc bồi dưỡng trình độ văn
hóa thẩm mỹ và nhu cầu xây dựng cuộc sống theo c i đẹp cần làm mọi lúc, mọi nơi.
Thứ ba: Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc và phương pháp giáo dục
Trong lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều nguyên tắc và phương
pháp giáo dục hiện đại nhằm xây dựng nền giáo dục mới cho dân tộc. Trên thực tế,
những phương ph p đ vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn cho đến ngày
nay. Có thể kể đến một số nguyên tắc và phương ph p gi o dục tiêu biểu sau:
Một là, nguyên tắc "học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn"
Học đi đôi với hành chính là một nguyên tắc giáo dục vừa c ý nghĩa lý luận
vừa c ý nghĩa thực tiễn. Để đạt được mục tiêugiáo dục con người phát triển toàn
diện vừa c đức vừa có tài trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục thì
Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải gắn học với hành. Người chỉ rõ: “Học phải suy
nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành
phải kết hợp với nhau” [103, tr. 402]. Theo quan điểm của Người, không thể học mà
không hành và ngược lại. Hai quá trình này phải luôn luôn tiến hành song song và
đồng thời cùng nhau, bổ trợ cho nhau. Học là quá trình cung cấp cho con người
những tri thức khoa học căn bản, còn hành lại mang lại cho con người những kĩ
năng cần thiết để phục vụ cho cuộc sống. Hành giúp hiện thực hóa những gì mà học
c được, biến những kiến thức, chân lý khoa học thành những năng lực hoạt động
của từng người. Khi hai quá trình học và hành kết hợp với nhau thì sẽ tạo nên hiệu
quả cao nhất trong hoạt động thực tiễn của con người. Theo đ , trong qu trình dạy
học, việc gắn nội dung giáo dục với hoạt động thực tiễn, gắn lý thuyết với thực hành
là rất quan trọng. Người học không chỉ được trang bị kiến thức mà c n được vận
dụng kiến thức đã học vào trong học tập, trong lao động, từ đ giúp đạt được những
mục tiêu giáo dục to lớn.
Tuy nhiên, không vì thế mà coi nhẹ lý thuyết. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở
việc coi trọng lý luận, coi lý luận là kim chỉ nam cho hành động thực tế. Người nói:
“Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi…Vì kém lý luận cho nên gặp
mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết
47
nhận rõ điều kiện hoàn cảnh kh ch quan, ý nghĩ mình thế nào làm thế ấy. Kết quả
thường thất bại” [93, tr. 274]. Trong mọi hoàn cảnh, cả lý luận và thực hành cần
song hành với nhau bởi: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa M c - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [100,
tr. 95]. Lý luận chân chính “là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong
các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi
lại đem n chứng minh với thực tế” [93, tr. 274]. Như vậy, theo quan điểm của
Người, không nên coi thường lý luận và đồng thời cần phải biết đưa lý luận vào
trong thực tế cuộc sống, vì nếu không lý luận đ sẽ bị chôn vùi và mất đi gi trị mãi
mãi bởi lẽ: “D xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem
ra thực hành, thì khác nào một c i h m đựng s ch” [93, tr. 274]. Minh chứng cho
điều này, Hồ Chí Minh đã c sự liên hệ sâu sắc với vấn đề trí thức: “Một người học
xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm
công, không biết đ nh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc
thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức
học s ch, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn,
thì phải đem c i trí thức đ p dụng vào thực tế” [93, tr. 275]. Cuối c ng, Người
đưa ra kết luận chung: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo
lý luận. Lý luận cũng như c i tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như c i đích để
bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không c tên. Lý luận cốt
để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc l ng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng
vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành” [93, tr. 275].
Hai là, nguyên tắckết hợp các hình thức giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội
Hồ Chí Minh luôn đ nh gi cao vai tr của ba lực lượng đ là nhà trường, gia
đình và xã hội trong giáo dục. Tại buổi lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân Việt
Nam vào ngày 19/1/1955 Người đã chỉ rõ: “Trường đại học, gia đình và đoàn thể
thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên” [97, tr. 266].
Ở mỗi môi trường đều diễn ra quá trình giáo dục con người và đều có nội
dung, phương ph p gi o dục kh c nhau. Trong đ , Hồ Chí Minh rất chú trọng đến
48
vai trò giáo dục của gia đình, bởi gia đình c vai tr đặc biệt quan trọng đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách của con người ngay từ thuở ấu thơ. Gi o dục gia
đình sẽ có sự ảnh hưởng với chiều hướng tích cực hay tiêu cực về nhân cách, lối
sống, đạo đức, các giá trị xã hội đối với mỗi cá nhân. Xã hội chỉ phát triển lành
mạnh, vững chắc trên nền tảng gia đình vững chắc, lành mạnh.
Cùng kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình chính là gi o dục nhà trường, nơi
có chức năng chuyên tr ch về giáo dục, tại đây người học được tiếp thu những tri
thức văn h a, khoa học kĩ thuật, được nghe giáo viên giảng dạy và hướng dẫn. Bên
cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng một nền giáo dục toàn diện “gắn liền giáo
dục của nhà trường với gia đình và xã hội, học suốt đời, kết hợp tự học với học
trong nhà trường, học trong sách vở và học trong cuộc sống” [89, tr. XXVI] song
Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa một mặt nào. Người n i: “gi o dục trong nhà
trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để
giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Gi o dục trong nhà trường dù
tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không
hoàn toàn” [98, tr. 591].
Giáo dục xã hội cũng là một yếu tố đ ng vai tr quan trọng trong việc thúc
đẩy giáo dục gia đình và gi o dục nhà trường ngày một hoàn thiện hơn. Trong gi o
dục xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến vai trò của c c đoàn thể, bởi lẽ
“mỗi đoàn thể lại phải theo công việc, nghề nghiệp của mình, mà làm đời sống mới
cho hợp với hoàn cảnh” [93, tr. 115]. Hoạt động của c c đoàn thể, tổ chức sẽ có tác
động to lớn tới nhận thức của mọi người dân đặc biệt là thế hệ trẻ.
Như vậy, trong giáo dục luôn luôn đ i hỏi sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình
và xã hội thành một thể thống nhất để tạo ra mối liên hệ chặt chẽ giữa mục tiêu, nội
dung, phương ph p gi o dục. Mỗi một lực lượng giáo dục đều có vị trí và vai trò nhất
định, đ i hỏi sự kết hợp chặt chẽ với nhau, không được lơi lỏng, xao nhãng ở bất cứ
khâu nào. C như vậy mới mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất góp phần xây dựng một
nền giáo dục phát triển và toàn diện.
Ba là, phương pháp phát huy tính chủ động, sáng tạo và tích cực của người học
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người học phải luôn được đặt vào vị trí
49
trung tâm, theo đ qu trình gi o dục sẽ trở thành quá trình tự giáo dục. Đây là một
quan điểm rất mới mẻ và hiện đại, rất phù hợp với nền giáo dục còn nhiều hạn chế
như Việt Nam. Người nhấn mạnh phương ph p học tập kích thích tư duy s ng tạo
của người học và đưa ra lời khuyên: “C c ch u học sinh không nên học gạo, không
nên học vẹt. Bác không cần giải thích học gạo, học vẹt là thế nào vì các cháu biết cả
rồi” [103, tr. 402]. Trong mối quan hệ giữa người dạy và người học, Người đưa ra
quan điểm mới, tr i ngược hoàn toàn với lối dạy học mang tính kinh viện, hàn lâm
trước kia. Đ là phương ph p dạy học dựa trên nền tảng dân chủ giữa giáo viên và
học sinh, giữa thầy và tr : “Đối với mọi vấn đề, thầy và tr c ng „nhau thảo luận, ai
có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông
suốt. Dân chủ nhưng tr phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “c đối
bằng đầu”. Đồng thời thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ cho nhà
trường” [97, tr. 266].
Hồ Chí Minh luôn đặc biệt đề cao tinh thần tự học. Bởi chỉ có tự học thì mới
ph t huy được tính chủ động và sáng tạo của người học, tự học đ i hỏi người dạy
cũng phải không ngừng tìm tòi, suy nghĩ đến những phương ph p dạy học mới hơn,
hiệu quả hơn. Người nhắc nhở: “Phải nêu cao t c phong độc lập suy nghĩ và tự do
tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng
câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho
vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ
càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không
nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn”
[100, tr. 98-99]. Vậy học ở đâu? Người yêu cầu cả người dạy và người học đều phải
học ở mọi lúc, mọi nơi, học trong lao động, học trong thực tiễn: “Học ở trường, học
ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất
lớn” [94, tr. 361]. Người cũng đ i hỏi mỗi người cần phải có sự chủ động, cố gắng
học tập với tinh thần học hỏi, “không nên tưởng mình có vài kinh nghiệm là giỏi
lắm rồi, phải học lẫn nhau” [98, tr. 280]. C như vậy mới có thể thảo luận và thông
suốt các nội dung kiến thức, từ đ mới vận dụng hiệu quả vào trong thực tiễn.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ, giáo dục phải theo hoàn cảnh, theo điều kiện,
50
phải ra sức làm nhưng không được vội vã, mà phải làm từng bước một. Đối với người
dạy, cách thức tốt nhất là phải biết dạy từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, phải biết kết
hợp học tập với vui chơi. Người luôn lưu ý những người dạy, những nhà giáo phải
chú ý tới đặc điểm đối tượng dạy học tức là phải t y vào đặc điểm, trình độ, khả năng
của từng đối tượng người học để đưa ra phương ph p dạy cho phù hợp.
Đối với người học, việc tạo tâm lý học tập tốt sẽ giúp phát triển tối đa tư duy,
tính chủ động, sáng tạo.Hồ Chí Minh cho rằng trong quá trình dạy học người giáo
viên phải luôn tạo được tâm lý học mà chơi, chơi mà học để tạo được sự hứng thú
cho học sinh, tránh tâm lý chán nản, mệt mỏi. Người đưa ra lời khuyên: “Khi gi o
dục phải thiết thực không được làm cho các cháu thành những "con vẹt", làm sao cho
c c ch u khi chơi là được học, mà trong khi học vui vẻ như được chơi” [101, tr. 77].
Bốn là, phương pháp nêu gương
Hồ Chí Minh là một tấm gương s ng về cả cuộc đời và sự nghiệp. Trong mọi
hành động và việc làm, Người luôn là quy chuẩn để mọi người noi theo. Người nói:
“Để khuyên người ta làm, thì mình phải làm gương trước” [100, tr. 237]. Phương
ph p nêu gương được Người đề cao bởi đây là một phương ph p hữu hiệu trong
việc thống nhất giữa lời nói với việc làm. Lý giải cho điều này, Người chỉ rõ: “Trẻ
em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách, v.v… phải gương mẫu từ lời
n i đến việc làm. Nếu các cô các chú bảo: "Các em phải siêng làm" nhưng c c cô
các chú lại đi ngủ, hoặc dạy "các em phải thật thà", nhưng c c cô c c chú lại nói sai,
hay bảo "các em phải giữ vệ sinh chung", nhưng c c cô c c chú bẩn, như thế là
không được. Dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ là một phần, cái chính là phải
cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn
dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt” [101,
tr. 77]. Theo Người, mỗi một người thầy, người cô phải làm kiểu mẫu cho học trò,
để học trò nhìn vào và noi theo. C như vậy mới có thể đạt được mục tiêu giáo dục,
bởi lẽ: “Khi trông thấy hiệu quả tốt tươi, thì chắc những nơi kh c sẽ hăng h i làm
theo. Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa,
ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một
trăm năm cũng vô ích” [93, tr. 126].
51
Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới giáo dục thế hệ trẻ - thế hệ tương lai của
đất nước. Cũng vì lẽ đ , Người coi đ là việc chung của cả gia đình, nhà trường, xã
hội. Vấn đề đạo đức người thầy, người làm cha, làm mẹ có vai trò to lớn đối với sự
hình thành nhân cách con trẻ. Người n i: “Bố mẹ, thầy giáo và những người lớn
khác phải cùng nhau phụ tr ch, trước hết là phải làm gương mẫu cho các em về mọi
mặt” [98, tr. XV], bởi “bây giờ các cháu tốt thì sau này n cũng tốt, bây giờ xấu thì
sau này cũng xấu” [100, tr. 116]. Trong công tác và trong sinh hoạt, Người luôn
nhắc nhở sự phối hợp giáo dục từ gia đình đến cả xã hội, những tấm gương tốt sẽ
góp phần làm cho thiếu niên, nhi đồng được thấm nhuần tư tưởng, đặc biệt là lòng
yêu nước, tinh thần yêu lao động. C như vậy, các em sẽ trở thành những công dân
tốt, những người cán bộ tốt trong tương lai.
1.1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đội ngũ gi o viên
trong sự nghiệp giáo dục nói chung và trong việc phát triển con người mới, con
người xã hội chủ nghĩa n i riêng. Quan điểm của Người về gi o viên cũng được thể
hiện có hệ thống, toàn diện và sâu sắc. Trong các hoàn cảnh và điều kiện cụ thể
khác nhau, Hồ Chí Minh sử dụng nhiều thuật ngữ kh c nhau như: “gi o viên”, “thầy
gi o”, “thầy dạy học”, “thầy”, “thầy học” ; hoặc khi gắn với số đông: “anh chị em
gi o viên”, “nam nữ gi o viên”, “cô gi o, thầy gi o”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được vai trò của người giáo viên ở rất nhiều
khía cạnh kh c nhau. Đầu tiên đ là vai tr đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp
cách mạng của Đảng, dân tộc. Để đào tạo những người cán bộ vừa c đức vừa có tài
thì vai trò nòng cốt thuộc về phía nhà trường và người trực tiếp thực hiện là giáo viên.
Tháng 9/1958, tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc, Người
n i: “Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân
dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho c c cô, c c chú.
Đ là một trách nhiệm nặng nề, nhưng rất vẻ vang [100, tr. 528]. Để hoàn thành trách
nhiệm nặng nề nhưng vẻ vang đ , người giáo viên không chỉ cần phải mang hiểu biết,
năng lực của mình truyền đạt lại cho người học mà còn phải dùng cả những phẩm
chất đạo đức tốt đẹp để hướng dẫn, dìu dắt họ để giúp họ lĩnh hội được tri thức, phát
huy được năng lực vốn có, trở thành những con người phát triển toàn diện cả mặt đức
dục, trí dục, thể dục, mỹ dục. Cũng chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn x c định giáo
52
viên là người chiến sĩ trên mặt trận văn h a gi o dục, chứ không chỉ là người lao
động làm công ăn lương bình thường như trong chế độ xã hội cũ.
Theo Hồ Chí Minh, giáo viên còn có vai trò là nhân tố quyết định quá trình
vận hành của hệ thống giáo dục cũng như chất lượng giáo dục. Bởi lẽ, quá trình
giáo dục diễn ra như thế nào, đặc điểm ra sao phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ gi o
viên. Người đã nhấn mạnh: “Không c thầy giáo thì không có giáo dục… không c
giáo dục, không có cán bộ thì cũng không n i gì đến kinh tế, văn h a” [93, tr. 335].
Xuất phát từ vai trò không thể thiếu như vậy, nên muốn đổi mới một nền giáo dục
phải bắt đầu từ việc đổi mới tư duy cũng như t c phong của người vận hành nên nền
giáo dục đ chính là người thầy gi o. Người giáo viên bằng c c phương ph p giảng
dạy, phương tiện dạy học truyền tải nội dung giáo dục tới người học theo những
mục tiêu chung. Bất kì một ngành nghề nào trong xã hội cũng cần có thầy giáo và
chỉ khi nào quá trình giáo dục được vận hành thì c c ngành cũng như c c lĩnh vực
khác mới c cơ sở để tồn tại và phát triển. Điều này Hồ Chí Minh cũng đã khẳng
định trong quan điểm của mình: “Cần đào tạo cán bộ cho mọi ngành hoạt động, cho
nên cần có thầy gi o” [95, tr. 71].
Bên cạnh những vai trò chủ chốt và không thể tách rời cho sự nghiệp xây
dựng nền giáo dục mới thì người giáo viên còn có ảnh hưởng to lớn và giữ vai trò
quyết định đến việc hình thành nhân cách của học sinh. N i c ch kh c, đây chính là
thước đo chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo dục. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng:
“Từ tiểu học, trung học, cho đến đại học là nơi rèn luyện nhi đồng và thanh niên. Óc
những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh.
Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ” [93, tr. 120]. Do vậy, “học trò tốt hay xấu là do thầy giáo,
cô giáo tốt hay xấu” [101, tr. 269]. Minh chứng cho những quan điểm về việc khẳng
định vai tr đ , trong Thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc tại Việt Bắc năm 1948,
Người chỉ ra biện ph p cơ bản để xây dựng nền giáo dục mới đ là : “Chúng ta phải
đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ theo tôn chỉ kháng chiến và kiến quốc”
[93, tr. 575]. Như vậy, theo chủ tịch Hồ Chí Minh, việc xây dựng nền giáo dục mới
của dân, do dân và vì dân không thể tách rời yêu cầu xây dựng một đội ngũ gi o
viên có chất lượng cả về chuyên môn nghiệp vụ, c năng lực thực hành, c đạo đức
nghề nghiệp để vận hành hệ thống giáo dục quốc dân. Không những vậy, Người
cũng chỉ rõ trong việc kiến thiết nước nhà về mọi mặt “ta thiếu rất nhiều cán bộ như
kỹ sư, chuyên gia, thợ lành nghề, thầy dạy học…” [98, tr. 273].
53
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, vai trò của giáo viên còn là sự kế thừa và
phát huy truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam. Từ xa xưa,
nghề dạy học luôn được nhân dân ta tôn vinh và dành sự quan tâm đặc biệt. Với tinh
thần “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, một dân tộc văn hiến phải là một dân tộc
có nền giáo dục phát triển, có tinh thần hiếu học, chuộng nhân tài. Bởi ông cha ta đã
c câu: “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, b n tự vi sư”, “Muốn sang
thì bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, “trọng thầy mới được làm
thầy”… để nói về tầm quan trọng không thể phủ nhận của người thầy giáo.
Có thể n i, theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đội ngũ gi o
viên là một bước đi đầu tiên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Nếu như con người là mục tiêu và là nguồn động lực quan trọng nhất để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội thì việc bồi dưỡng những con người xã hội chủ nghĩa
là việc làm cần thiết hơn cả. Đ là nhiệm vụ xây dựng cho được đội ngũ những con
người làm nhiệm vụ giáo dục đào tạo, những người có trách nhiệm “trồng người”.
1.2. Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay – Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm “giáo dục”
Theo Từ điển tiếng Việt thì giáo dục có nghĩa là “hoạt động nhằm t c động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đ ,
làm cho đối tượng ấy dần dần c được những phẩm chất năng lực như yêu cầu đề
ra”. Hai là: “Hệ thống các biện ph p và cơ quan giảng dạy – giáo dục của một
nước” [143, tr.394].
Theo Từ điển Giáo dục học (Nxb. Từ điển Bách khoa, 2001), thuật ngữ giáo
dục được định nghĩa là: “hoạt động hướng tới con người thông qua một hệ thống các
biện ph p t c động nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng
và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và
phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho
đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội” [59, tr. 105].
Trong Từ điển Bách khoa, giáo dục cũng được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ
nhất là “qu trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con
người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, n được thực hiện bằng
cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội loài
người. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục
54
nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành một chức năng sinh hoạt không thiếu
được và không bao giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Giáo dục mang
tính lịch sử cụ thể, tính chất, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương ph p và tổ chức
giáo dục biến đổi theo c c giai đoạn phát triển của xã hội, theo các chế độ chính trị -
kinh tế của xã hội”. Nghĩa thứ hai là: “hệ thống các biện pháp, các tổ chức đào tạo
và giáo dục của một nước” [67, tr. 120].
Từ điển Văn hóa giáo dục Việt Nam lại cho rằng: “Qu trình đào tạo con
người có mục đích, c hệ thống, c phương ph p, nhằm chuẩn bị cho con người
tham gia vào đời sống xã hội, lao động sản xuất bằng cách tổ chức việc truyền thụ
và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người. Theo nghĩa hẹp, giáo dục
là sự bồi dưỡng, rèn luyện về ý thức, thế giới quan, phẩm chất đạo đức cho con
người” [72, tr. 111].
Như vậy, có thể thấy rằng, dù có những quan niệm khác nhau, song các quan
niệm đều coi giáo dục là một qu trình t c động có mục đích của các chủ thể giáo
dục đến đối tượng giáo dục thông qua các mục tiêu, nội dung và hình thức, biện
pháp giáo dục khác nhau. Đây là một nhu cầu không thể thiếu đối với sự phát triển
của nhân loại. Chừng nào con người còn tồn tại, giáo dục còn tồn tại. Giáo dục, có
thể nói, là một loại hình, lĩnh vực hoạt động xã hội rộng lớn được hình thành do nhu
cầu phát triển của đời sống kinh tế - xã hội thông qua quá trình truyền thụ tri thức
và kinh nghiệm xã hội của các thế hệ trước cho các thế hệ sau.
Về cơ bản, nói tới giáo dục là nói tới một số nội dung sau:
Mục tiêu của giáo dục: Được x c định bởi chế độ, quan điểm của các nhà
lãnh đạo đất nước. Mỗi quốc gia, trong quá trình phát triển, đều cần x c định mục
tiêu giáo dục của mình. Đây là vấn đề quan trọng bởi việc x c định mục tiêu giáo
dục sẽ quyết định nội dung, phương ph p giáo dục. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi chế
độ khác nhau, mục tiêu giáo dục được x c định là khác nhau.
Nội dung giáo dục: Từ mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục được xác lập.
Trên cơ sở nội dung giáo dục chung, trong một quốc gia, mỗi đối tượng, cấp học lại
có những nội dung giáo dục khác nhau. Về cơ bản, các nội dung giáo dục đều tập
tập trung vào c c lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nhân văn và thể
chất. Song, liều lượng, cách thức phân bổ những môn học thuộc các các ngành khoa
học này ở mỗi quốc gia lại khác nhau.
55
Phương pháp giáo dục: Trên thế giới, người ta đã x c định được nhiều
phương ph p gi o dục, như phương ph p đàm thoại, lấy học sinh làm trung tâm…
Mục tiêu, nội dung, đối tượng giáo dục khác nhau sẽ quyết định c c phương ph p
giáo dục kh c nhau. Phương ph p gi o dục đ ng vai tr quan trọng trong việc
truyền tải nội dung giáo dục và quyết định việc hoàn thành mục tiêu giáo dục.
Đối tượng giáo dục: Hiện nay, với quan điểm giáo dục suốt đời thì ai cũng được
coi là đối tượng giáo dục. Nhưng về cơ bản, đối tượng giáo dục chủ yếu của nền giáo
dục quốc gia là thế hệ trẻ. Đây là đối tượng được tập trung giáo dục nhiều nhất.
Chủ thể giáo dục: Về cơ bản, các chủ thể giáo dục chính là gia đình, nhà
trường, xã hội và chính bản thân đối tượng giáo dục. Mỗi một lứa tuổi khác nhau,
các chủ thể giáo dục đóng vai trò quan trọng khác nhau. Song, giáo dục nhà trường,
với tính chất thường quy của nó, có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình
thành nên thế giới quan và nhân sinh quan cho đối tượng giáo dục, đặc biệt là thế hệ
trẻ, dù ngày nay, có nhiều biện ph p kh c nhau để người ta có thể tiếp cận tri thức
nhân loại, phát triển bản thân.
* Khái niệm “vận dụng”
Theo Từ điển Tiếng Việt, “vận dụng” c nghĩa là: đem tri thức lý luận dùng
vào thực tiễn” [144, tr. 1402]. Như vậy, “vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay” là đưa tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục vào trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Việt Nam hiện nay.
* Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một hệ thống c c quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân chủ nhân dân
tiến lên giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đ là tư tưởng về vai trò, vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ,
nội dung, phương pháp giáo dục…
* Khái niệm “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được coi là yêu cầu cấp bách
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Muốn thành công chúng ta cần phải
tiến hành đổi mới giáo dục và đào tạo một c ch căn bản, toàn diện trên tất cả các khía
cạnh như đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung giáo dục, đổi mới phương ph p
dạy và học, đổi mới cơ chế quản lý, xây dựng đội ngũ gi o viên…
56
Trước tiên, bàn về khái niệm “đổi mới”. Khái niệm “đổi mới” được hiểu theo
nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt
hơn, tiến bộ hơn so với trước” [145, tr. 675]
Theo Từ điển Giáo dục học: “Đổi mới gi o dục là thay đổi từng phần, cục bộ
hoặc toàn bộ c c mặt, c c cấp của hệ thống gi o dục quốc dân. Đổi mới gi o dục
diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt qu trình hoạt động của hệ thống gi o dục
cho tới khi những thay đổi đạt tới quy mô và trình độ vượt ra ngoài khuôn khổ quy
định của hệ thống gi o dục hiện hành thì cần phải c chủ trương, chính s ch tập
trung tổng kết, đ nh gi và đề xuất những giải ph p đồng bộ, toàn diện thay thế hệ
thống cũ bằng hệ thống mới tiến bộ hơn để đ p ứng tốt hơn nhu cầu ph t triển của
xã hội” [62, tr. 93-94].
“Đổi mới” theo Nguyễn Duy Quý “đổi mới gi o dục ở Việt Nam là qu trình
thử nghiệm, trong qu trình này c i mới và c i cũ xen kẽ nhau, c i cũ không mất đi
ngay mà l i dần, c lúc, c nơi c n chiếm ưu thế hơn c i mới, nhưng xu hướng
chung là c i mới dần dần được khẳng định và đưa tới thành công” [151].
Như vậy, đổi mới c nghĩa là thay c i cũbằng c i mới tiến bộ hơn; là từ bỏ
c ch nghĩ và c ch làm cũ không c n ph hợp, đưa ra c ch nghĩ và c ch làm mới ph
hợp với yêu cầu của tình hình mới, là qu trình thay đổi từ thấp đến cao, từ thay đổi
bộ phận đến thay đổi căn bản, từ thay đổitừng mặt đến thay đổi toàn diện, là sự thay
đổi c tính chất bước ngoặt của qu trìnhvận động; là sự kế thừa những yếu tố tích
cực, những kết quả đã đạt được trước đây.
Thứ hai, kh i niệm “đổi mới căn bản” là đổi mới “c i gốc rễ, c i cốt yếu tạo
nên bản chất của sự vật” [145, tr. 269]. Đổi mới căn bản là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương ph p, cơ chế, chính s ch, điều kiện bảo đảm thực hiện. Đổi mới căn bản là
đổi mới những thuộc tính cơ bản hợp thành bản chất của sự vật.
Theo Trần Quốc Toản, đổi mới căn bản gi o dục và đào tạo là “qu trình đổi
mới động chạm tới tầng sâu bản chất của hệ thống gi o dục, để đưa hệ thống gi o
dục lên một trình độ mới, hiệu quả hơn chất lượng hơn” [5, tr. 57]. Đổi mới căn bản
57
gi o dục và đào tạo phải là đổi mới mà từ đ , c thể thay đổi căn bản nền gi o dục
và đưa nền gi o dục ph t triển lên một trình độ mới cao hơn.
Thứ ba, kh i niệm “đổi mới toàn diện gi o dục và đào tạo” được hiểu là đổi
mới mọi mặt gi o dục. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, “toàn diện” c nghĩa là “đầy đủ
c c mặt, về mọi mặt” [145, tr. 1657]. Xét từ g c độ triết học, toàn diện được xem
như một chỉnh thể của tất cả c c mặt, c c thuộc tính, c c mối liên hệ bên trong và
bên ngoài, c i chung và c i riêng, nội dung và hình thức của c c sự vật, hiện tượng.
Thực chất là trong khi chú ý xem xét tất cả c c mặt của sự vật, tư duy phải ph t hiện
được, phản nh được những mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng nhất của sự vật một
c ch sâu sắc nhất. Từ đ , giúp chúng ta nhìn thấy mối liên hệ tương quan, hỗ trợ
giữa c c sự vật, hiện tượng với nhau. Như vậy, đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo
là đổi mới mọi mặt của nền gi o dục quốc dân, cũng như sự lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước đối với nền gi o dục đ . Nếu đứng ở g c độ cấu trúc hệ thống
thì có thể n i rằng, đổi mớitoàn diện gi o dục và đào tạo là đổi mới tất cả c c yếu tố
cấu thành hệ thống gi o dục.
Theo ý nghĩa đ , đổi mới toàn diện phải được xem xét ở những vấn đề sau
đây: về mục tiêu gi o dục và đào tạo; về nội dung, chương trình gi o dục và đào
tạo; về phương ph p gi o dục và đào tạo; về hình thức, phương ph p thi kiểm tra;
về hệ thống gi o dục; về công t c quản lý gi o dục và đào tạo, về chính s ch, cơ chế
tài chính…
T m lại, chúng ta c thể hiểu đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục và đào tạo
là sự thay đổi tích cực và mạnh mẽ trên tất cả c c mặt nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả gi o dục và đào tạo; đ p ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của mọi người. Đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục
và đào tạo là một qu trình c ch mạng liên tục diễn ra từ trình độ thấp lên trình độ
cao hơn; là sự kế thừa, sự đổi mới của những giai đoạn trước đ và đưa qu trình
của sự nghiệp đổi mới đ ph t triển lên trình độ cao hơn về mọi mặt.
Quan điểm về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục” cũng đã được Đảng ta cụ
thể hóa lần đầu tiên trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung
ương 8 kh a XI, ngày 7/11/2013. Nghị quyết nêu rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
58
dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương ph p, cơ chế, chính s ch, điều kiện bảo đảm
thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
quản trị của c c cơ sở giáo dục – đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã
hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học” [33]. Đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là sự đổi
mới của toàn bộ các mặt, các khía cạnh của giáo dục như quan điểm chỉ đạo, mục
tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương ph p gi o dục… Qu trình này đồng thời
đ i hỏi sự tham gia của tất cả các chủ thể giáo dục bao gồm Đảng, Nhà nước, nhà
trường, gia đình, xã hội và bản thân người học.
* Khái niệm “vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay”
Từ các khái niệm đã phân tích trên đây, “vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay” chính là
đem tri thức lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào trong qu trình đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam. Trong đ , chủ thể vận dụng, mục tiêu vận
dụng, nội dung vận dụng, phương ph p vận dụng được x c định như sau:
Về chủ thể vận dụng: Về cơ bản, các chủ thể vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục chính là Đảng và Nhà nước, nhà trường, gia đình, bản thân người học.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi phân tích sự vận dụng tư tưởng giáo dục Hồ Chí
Minh của các chủ thể trên ở ba khía cạnh chính là mục tiêu giáo dục, nội dung giáo
dục và phương ph p gi o dục để thấy được các thành tựu và hạn chế trong quá trình
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong các cấp học, bậc học ở Việt
Nam. Các chủ thể vận dụng chủ yếu được xem xét là Đảng, Nhà nước, nhà trường...
Về mục tiêu vận dụng: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá
trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay cũng chính là nhằm
giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào, sống tốt và làm việc có hiệu quả, đ p ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất
nước; trong đ đặc biệt nhấn mạnh tới mục tiêu phát triển toàn diện năng lực và
phẩm chất của người học qua từng cấp học, bậc học.
59
Về nội dung vận dụng: Nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đi sâu làm rõ trên c c khía cạnh chính là giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức; giáo
dục tri thức, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mĩ. Đây cũng chính là c c nội dung
giáo dục toàn diện theo tư tưởng của Ngườivề giáo dục. Trong quá trình này, các
chủ thể vận dụng các nội dung giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong quá
trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
1.3. Tính tất yếu của việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong
quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục Việt Nam là nhằm thực hiện được mục tiêu như đã đề ra.
Trong giai đoạn hiện nay, cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh làm biến đổi sâu sắc c c lĩnh
vực của đời sống xã hội. Những thành tựu mới được ph t minh như vi mạch, kỹ
thuật số hóa, công nghệ từ xa và thông tin số… đã thâm nhập sâu rộng và làm biến
đổi nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ những biến đổi về khí hậu, những thay
đổi theo chiều hướng ngày càng đ ng b o động của tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh th i đến những biến động chính trị, quân sự
khôn lường đã đặt ra yêu cầu phải trang bị cho các thế hệ tương lai năng lực thích
ứng cao trước mọi biến động của thời cuộc cả về tự nhiên và xã hội. Đây là những
nhân tố t c động trực tiếp đ i hỏi đổi mới giáo dục toàn diện tạo ra thế hệ tương lai,
thích ứng và làm chủ được sự biến đổi nhanh chóng của thời đại.Bên cạnh đ , yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo chiều sâu và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chất lượng,
hiệu quả, có sức cạnh tranh cao đ i hỏi giáo dục phải đ p ứng nhu cầu học tập đa
dạng của người dân, nhanh chóng góp phần tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao.
Việt Nam muốn phấn đấu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có vị
thế vững chắc trên trường quốc tế thì buộc phải nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân, mặt khác cần khai thác có hiệu quả các nguồn lực nói chung và nguồn
nhân lực nói riêng.
Nhắc tới nguồn nhân lực là nhắc tới yếu tố tiên quyết trong lực lượng sản
xuất. Người lao động chính là chủ thể của quá trình sản xuất, các nguồn lực khác
60
như nguồn lực đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ, các nguồn
lực phi vật chất như văn h a, truyền thống dân tộc… muốn được sử dụng có hiệu
quả đều cần phải thông qua nguồn nhân lực. Nói cách khác, nguồn nhân lực vừa là
nguồn lực đ ng vai tr quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội vừa là chủ
thể trong việc sử dụng các nguồn lực khác. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực
lại phụ thuộc vào chất lượng giáo dục. Yêu cầu của thực tiễn đặt ra cho thấy việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao
chính là tiêu chí quan trọng cho sự phát triển giáo dục. Đ không chỉ là sự thay đổi
một vấn đề cụ thể mà cần phải đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục của một
quốc gia.
Qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước ta, bên cạnh những thành
công, còn nhiều kh khăn, bất cập, hạn chế. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
h a đất nước và hội nhập quốc tế đ i hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao,
trong khi nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho gi o dục của Nhà nước và
phần đông gia đình c n hạn chế. Khoảng cách giàu nghèo giữa c c nh m dân cư, sự
phát triển không đều giữa c c địa phương vẫn tiếp tục là nguyên nhân dẫn đến thiếu
bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục và khoảng cách chất lượng giáo dục giữa các
đối tượng người học và các vùng miền. Tư duy bao cấp, sức ì trong nhận thức, tác
phong quan liêu trong ứng xử với giáo dục của nhiều cấp, nhiều ngành, của nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục, không theo kịp sự phát triển nhanh của kinh tế - xã
hội và khoa học công nghệ; bệnh thành tích, hư danh, chạy theo bằng cấp trong cán
bộ và người dân chậm được khắc phục. Do đ , nếu không đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục thì nhân lực sẽ là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước. Đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam chính là việc làm tất yếu nhằm đạt được
những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
Với những nội dung trình bày liên quan đến đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục Việt Nam, để đạt được mục tiêu đã đề ra trong giáo dục, chúng ta cần nhiều
nhân tố, cần tiếp thu kế thừa c c tư tưởng về giáo dục trước đ . Trong đ , tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục, về mục tiêu giáo dục, về nội dung giáo dục, về phương
pháp giáo dục cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Không chỉ là người đầu tiên đặt
nền móng xây dựng nền giáo dục mới ở Việt Nam sau năm 1945, Hồ Chí Minh còn
61
là người đã tiếp tục phát triển những tư tưởng giáo dục truyền thống dân tộc, kế
thừa c phê ph n tư tưởng giáo dục phương Đông kết hợp với lý luận về giáo dục
của chủ nghĩa M c - Lênin vào xây dựng nền giáo dục mới ở nước ta một cách phù
hợp. Chúng ta có thể tìm thấy trong tư tưởng của Người những gợi ý để tháo gỡ
những vướng mắc về vị trí, vai trò, mục tiêu của giáo dục, về nội dung và các
phương ph p gi o dục hiện đại. Đồng thời, những vấn đề của nền giáo dục Việt
Nam đã được Người giải quyết trước đây rất gần với những gì mà ngành giáo dục
nước ta hiện nay đang mắc phải. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đ i hỏi chúng ta phải nghiên cứu, lấy đ làm cơ sở lý luận cho
những chiến lược, chính s ch đổi mới giáo dục, tránh những bước đi sai lầm, chủ
quan, nóng vội. Mặc dù trên thế giới có rất nhiều những tư tưởng, phương ph p gi o
dục kh c nhau nhưng chúng ta hoàn toàn c thể tin tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh
vềgiáo dục sẽ luôn phù hợp và sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong bối cảnh đất nước
đang trên đà đổi mới và hội nhập quốc tế. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục chính
là cơ sở lý luận quan trọng trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện
nay. Cũng vì những lý do trên, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay là hoàn toàn
cần thiết.
Trong bối cảnh hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu
giáo dục, về việc xây dựng những con người “vừa hồng, vừa chuyên”, về phương
pháp giáo dục đa dạng, phù hợp với c c đối tượng khác nhau; về nội dung giáo dục
toàn diện,… sẽ giúp cho công cuộc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam
được thành công, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Ph t triển giáo dục và đào tạo
cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc s ch hàng đầu; đầu tư cho gi o
dục và đào tạo là đầu tư ph t triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào
tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn
62
diện giáo dục Việt Nam còn là nhằm xây dựng những con người Việt Nam mới
nhằm đào tạo con người phục vụ nhân dân, Tổ quốc và bảo vệ thể chế chính trị xã
hội chủ nghĩa. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn coi con người
là vấn đề hàng đầu, là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Cho đến cuối đời,
Người vẫn căn dặn trong "Di chúc": "Đầu tiên là công việc đối với con người" [101,
tr. 447]. Sự nghiệp đổi mới tiếp tục mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển của
con người Việt Nam song bên cạnh đ không thể tránh khỏi những thách thức như
chênh lệch giàu nghèo, sự hạn chế trong trình độ dân trí của người dân, hạn chế về y
tế và chăm s c sức khỏe nhân dân, hạn chế trong việc nâng cao đời sống tinh thần
cho nhân dân... Do vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục cũng chính là
nhằm mục tiêu củng cố vai trò của con người Việt Nam để con người trở thành
động lực cho sự phát triển xã hội. Đó là những con người c đạo đức, có trí tuệ, có
sức khỏe, có ý thức thẩm mỹ - những con người phát triển toàn diện.
Thứ hai, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục Việt Nam là nhằm khắc phục hạn chế về nội dung, chương trình,
giáo dục hiện nay
Theo Hồ Chí Minh, nội dung, chương trình giảng dạy ở các cấp học phải là
cần có sự liên thông, kế tiếp, đáp ứng được nhu cầu người học và xã hội. Trong khi
đ , hiện nay, nội dung chương trình, gi o trình giảng dạy ở các cấp học, bậc học chưa
thống nhất và chất lượng chưa cao; chưa gắn chặt lý luận với thực tiễn, tính logic,
tính khoa học chưa cao, thường không thỏa mãn nhu cầu của người học và nhu cầu
của thị trường lao động; nội dung đào tạo ít phù hợp với sự thay đổi nhanh công nghệ
sản xuất của doanh nghiệp. Trình độ năng lực của đội ngũ gi o dục biên soạn chương
trình, gi o trình cũng chưa tương xứng với vị trí cũng t c động ảnh hưởng đến đến
chất lượng đào tạo.
Giáo dục bao giờ cũng là một quá trình nhằm làm cho người học lĩnh hội
những giá trị trong nội dung giáo dục, biến nó thành nguyên tắc, định hướng chi
phối suy nghĩ và hành động của họ phù hợp với yêu cầu của cuộc sống. Song, ở
nước ta hiện nay, giáo dục, ở mức độ nào đ , c n chưa hình thành nên những con
người đ p ứng được mục tiêu phát triển xã hội. Hệ thống giáo dục còn cứng nhắc,
thiếu tính liên thông giữa c c trình độ đào tạo và c c phương thức giáo dục, chưa
63
phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Chưa gắn kết đào tạo
với sử dụng và nhu cầu của thị trường lao động.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, tư tưởng về sự gắn kết giữa
đào tạo và nhu cầu phát triển đất nước, nhu cầu phát triển bản thân người học; về
nội dung giáo dục “ít mà tinh” của Người sẽ khắc phục được những hạn chế về nội
dung chương trình gi o dục Việt Nam hiện nay. Đ là sự lạc hậu, chậm đổi mới, là
tính xa rời thực tế, không gắn với đời sống xã hội và nghề nghiệp; là sự thiếu chặt
chẽ giữa đào tạo với yêu cầu sử dụng lao động của xã hội; là cấu trúc chương trình
hiện nay vẫn đ ng theo c c môn, không mở theo hướng liên môn dẫn đến trùng lặp
và thiếu hiệu quả trong việc hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của học
sinh; là chương trình gi o dục phổ thông hiện hành vẫn chưa đạt được mục tiêu
phân luồng bởi nội dung học thiếu tính định hướng nghề nghiệp; là bậc giáo dục đại
học chưa tạo được sự liên thông giữa đại học trong nước và quốc tế do có sự khác
biệt về mục tiêu, nội dung và phương ph p gi o dục; là nội dung giáo dục ôm đồm
nhưng hiệu quả chưa cao…
Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản
toàn diện giáo dục Việt Nam là nhằm khắc phục hạn chế về phương pháp giáo dục
hiện nay
Một trong những điều kiện cần và đủ nhằm nâng cao chất lượng dạy và học
đ là việc sử dụng c c phương ph p gi o dục. Thế nhưng, phương ph p dạy và học
ở nước ta còn chậm đổi mới, chưa ph t huy được tính chủ động, sáng tạo và vận
dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Dạy học hiện nay nhìn chung vẫn còn mang
nặng lối dạy truyền thống, lối truyền thụ p đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Cùng
với đ , phương ph p và hình thức đ nh gi kết quả học tập còn lạc hậu và thiếu
thực chất. C c phương tiện giảng dạy cho giáo viên còn thiếu thốn, nhiều nơi không
được đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại, chủ yếu phương tiện dạy học chỉ được
đầu tư ở c c trường thành phố, đô thị lớn, còn ở nông thôn và miền núi thì vẫn chưa
được đầu tư thích đ ng, c c phương tiện dạy học hiện đại như m y tính, m y chiếu,
bảng tương t c vẫn còn khá mới mẻ với các thầy cô ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
c điều kiện kh khăn. Phía người dạy cũng mắc phải nhiều hạn chế như chưa chủ
động, sáng tạo trong việc thiết kế và sử dụng đồ dùng để dạy học dẫn đến việc nội
64
dung giảng dạy chưa tạo được nhiều hứng thú cho người học, người học bị động và
thiếu tích cực hơn trong qu trình học tập. Từ thực trạng trên, yêu cầu cần phải đổi
mới phương ph p gi o dục, phương ph p dạy và học, phương ph p kiểm tra đ nh
gi để phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là vô cùng cần thiết.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người yêu cầu phải lấy nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng c c phương ph p
về giáo dục. Dạy và học phải gắn tri thức lý luận với thực tiễn cuộc sống. Học và
hành phải luôn đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, học phải suy nghĩ, học
phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Quan điểm của Hồ Chí
Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc dạy và học của chúng ta hiện nay. Việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương ph p gi o dục có thể thay đổi tích cực
những hạn chế, yếu kém của giáo dục Việt Nam nói chung và những hạn chế, yếu
kém trong phương ph p gi o dục nói riêng.
Thứ tư, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay là nhằm khắc phục những hạn chế trong đội
ngũ các nhà làm công tác giáo dục
Với vai trò là chủ thể trực tiếp trong quá trình thực hiện việc giáo dục căn
bản và toàn diện thì đội ngũ những người làm công tác giáo dục bao gồm đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chính là yếu tố cơ bản quyết định đến thành
công hay thất bại của qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay. Thông
qua hoạt động giảng dạy của đội ngũ nhà gi o t c động đến chất lượng và hiệu quả
của việc thực hiện giáo dục toàn diện. Đội ngũ nhà gi o c trình độ chuyên môn, có
tư c ch đạo đức, lối sống trong sáng sẽ có ảnh hưởng tích cực tới người học. Họ là
hình mẫu để người học vươn tới, truyền thụ ý tưởng xây dựng niềm tin và hành
động cho một xã hội tốt đẹp, càng phải luôn phấn đấu xứng đ ng là một mẫu mực
về phẩm chất, nhân cách và trí tuệ. Ngược lại, nếu đội ngũ nhà gi o không đủ năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm kém đứng lớp, đặc biệt là đối với những nhà
giáo có biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống, có những hành vi sai trái, nếu
không được ngăn chặn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhân cách của
người học, làm suy giảm niềm tin của họ đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước và làm hạn chế công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
65
Đối với các nhà quản lý giáo dục – những người xây dựng chiến lược và quản lý
việc thực hiện chiến lược giáo dục đ , đ i hỏi phải c năng lực quản lý, tư duy dài
hạn và tầm nhìn chiến lược. Có thể n i, đây là yếu tố gốc t c động đến cả quá trình
đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo tính đến năm 2017, số lượng các
cơ sở đào tạo giáo viên trên cả nước gồm c : 58 trường đại học, 57 trường cao
đẳng, 40 trường trung cấp c ngành đào tạo gi o viên. Trong đ c 14 trường đại
học sư phạm, 33 trường cao đẳng sư phạm và 02 trường trung cấp sư phạm. Trong
số 49 trường sư phạm đã thống kê thì gần như tất cả 155 cơ sở đào tạo giáo viên ở
nước ta ngoài đào tạo gi o viên c n đào tạo các ngành khác. Qua thống kê trên có
thể thấy, chất lượng đào tạo của c c trường sư phạm và trường cán bộ quản lý giáo
dục còn nhiều hạn chế và bất cập. Việc đào tạo tràn lan, không tập trung vào đào tạo
c c gi o viên sư phạm cốt cán dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, từ đ năng
lực thực tiễn của một số bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục c n chưa
tương xứng với bằng cấp được đào tạo, chưa đ p ứng và bắt kịp được yêu cầu của
đổi mới giáo dục trong nước và xu thế của thế giới. Trong thực tiễn, kỹ năng sư
phạm của một bộ phận nhà giáo còn yếu, các nhà giáo còn làm việc chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm, chưa thực sự đổi mới phương ph p, c ch đ nh gi , chưa gắn kết
hoạt động giảng dạy với thực tiễn đời sống và sản xuất, từ đ dẫn đến việc tổ chức
các hoạt động giáo dục, dạy học chưa thực sự hiệu quả. Số lượng nhà giáo có khả
năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tin học còn rất hạn chế. Công tác triển khai,
đ nh gi đội ngũ nhà gi o và cán bộ quản lý giáo dục theo chuẩn nghề nghiệp, thực
hiện bồi dưỡng thường xuyên vẫn chưa phản nh được đúng thực chất. Vẫn còn một
bộ phận nhỏ nhà giáo và cán bộ quản lý có biểu hiện thiếu tâm huyết với nghề, thiếu
trách nhiệm, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, có lối sống gây ảnh hưởng xấu đến hình
ảnh và uy tín của nhà giáo trong xã hội…
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, về vị trí của người làm công tác
giáo dục sẽ cho chúng ta thấy được vai trò của họ, từ đ , c những chiến lược nhằm
xây dựng đội ngũ những nhà giáo, nhà quản lý giáo dục vừa có tâm, vừa có tầm. Bởi,
muốn giáo dục người kh c thì người giáo dục cũng cần phải được giáo dục.
Có thể n i, qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta hiện nay
66
không chỉ là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, mà là yêu cầu cấp thiết đối với
ngành giáo dục trước những đ i hỏi của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại h a đất nước và hội nhập quốc tế. Nhằm khắc phục được những hạn chế trong
giáo dục Việt Nam thì điều kiện cần và đủ là cần phải có một tư tưởng giáo dục là
kim chỉ nam chỉ đường cho việc nhận thức và nhận diện các nhân tố nói chung và
nhân tố trong nước nói riêng. Qua việc tìm hiểu những nội dung căn bản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, chúng ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cả về lý luận và thực tiễn. Do đ , việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục Việt Nam hiện nay là một việc làm rất quan trọng và c ý nghĩa to
lớn, góp phần thực hiện thành công việc đổi mới giáo dục toàn diện ở nước ta hiện
nay, đạt được mục tiêu mà Nghị quyết Trung ương 8 (kh a XI) về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo đề ra: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất
lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đ p ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng s ng tạo của mỗi cá
nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả” [35].
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một việc làm không phải một sớm
một chiều. Chúng ta vận dụng tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là vận dụng các nội
dung dạy và học toàn diện theo quan điểm của Người: từ giáo dục chính trị tư tưởng
đến giáo dục đạo đức, chuyên môn, thẩm mỹ cho đến c c phương ph p dạy và học,
hình thức và phương ph p kiểm tra, đ nh gi kết quả giáo dục. Trên cơ sở đ , chúng
ta có cái nhìn toàn diện về thực trạng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay cả về ưu điểm và hạn chế.
67
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng. Giáo
dục là bước đầu tiên, phải được ưu tiên trước hết, không có giáo dục thì cũng không
n i gì đến kinh tế, văn h a; giáo dục còn giúp mở mang và nâng cao dân trí, bồi
dưỡng nhân tài; giáo dục giúp khắc phục những tàn dư của chế độ xã hội cũ và gi o
dục là nhân tố quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước, hoàn thiện
nhân c ch con người, góp phần nhằm phát triển toàn diện con người, giải phóng
triệt để con người. Để làm được điều này, theo Hồ Chí Minh, cần chú trọng giáo
dục chính trị tư tưởng và đạo đức, giáo dục tri thức, giáo dục thể chất, giáo dục
thẩm mỹ. Các nội dung giáo dục có sự gắn bó chặt chẽ với nhau và bổ trợ cho nhau.
Cùng với việc x c định mục tiêu và nội dung giáo dục, Hồ Chí Minh đã đưa
ra c c phương ph p gi o dục hiện đại, góp phần xây dựng nền giáo dục mới cho dân
tộc. Hệ thống c c phương ph p gi o dục trong tư tưởng của Người đều nhằm truyền
tải các nội dung giáo dục một cách hiệu quả nhất tạo điều kiện cho mọi người được
học tập và phát huy tối đa tính năng động, sáng tạo trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
Có thể thấy rằng, với những tư tưởng mang tầm thời đại, tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Vì thế, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
có tầm quan trọng đặc biệt, nhằm thực hiện được mục tiêu đã đề ra, nhằm khắc phục
hạn chế về nội dung, chương trình, phương ph p gi o dục và hạn chế của đội ngũ c c
nhà làm công tác giáo dục.
68
Chương 2
THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIÁO DỤC TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CĂN BẢN,
TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá
trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó
2.1.1. Thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
Nhận xét về bức tranh giáo dục Việt Nam sau hơn 7 năm đổi mới căn bản, toàn
diện, có thể thấy được một số kết quả bước đầu quan trọng trong mục tiêu của ngành giáo
dục đã đạt được. Đầu tiên, đ là sự chuyển biến rõ nét trong nhận thức của các cấp, các
ngành và toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đổi mới giáo dục đào tạo đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại hội XI nêu rõ: “…Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ h a; đổi mới chương trình, nội dung,
phương ph p dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ gi o
viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành.
Đẩy mạnh đào tạo nghề đ p ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội;
xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập
suốt đời” [36].
Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Gi o dục là quốc s ch hàng đầu. Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi
trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo
dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học: yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả.
Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục
mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở
69
giáo dục, đào tạo gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực và thị trường lao động. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục,
đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm
xã hội của c c cơ sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục; đổi mới chính s ch, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả mọi
nguồn lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [37, tr. 26-27].
Trên thực tế, cùng với việc vận dụng mục tiêu giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng ta đã cụ thể hóa mục tiêu giáo dục vào trong từng cấp học, từng bậc học
từ giáo dục mầm non cho tới giáo dục đại học.
Đối với giáo dục mầm non
Theo thống kê của Bộ GD & ĐT, năm 2013 mới có 11/63 tỉnh/thành phố
được công nhận đạt chuẩn thì năm 2017 đã c 63/63 tỉnh, đạt 100%; Về mạng lưới
cơ sở vật chất của c c cơ sở giáo dục mầm non trên cả nước cũng được đầu tư ph t
triển và chuẩn h a: Năm 2013 cả nước c 13.734 trường mầm non đến năm 2017 là
15.394 (tăng thêm 1660 trường), năm 2013 c 148.878 ph ng học, đến năm 2017 là
197.104 ph ng (tăng 48.226 ph ng học), trong đ tỉ lệ phòng học kiên cố năm 2013
là 59,8%, năm 2017 là 72,17%; Số lượng và chất lượng đội ngũ gi o viên mầm non
cũng ngày càng được nâng cao, tổng số giáo viên mầm non tăng 98.184 người, tất
cả giáo viên mầm non được hưởng đầy đủ chế độ chính s ch như gi o viên c c cấp
học khác; Số trẻ đến trường tăng nhanh (tổng số trẻ đến trường năm 2017 là
5.633.122 trẻ, tăng 1.144.620 trẻ so với năm 2013 [156]. Hiện nay, các chính sách
đối với trẻ mầm non được Chính phủ ngày càng quan tâm, chú trọng, thể hiện qua
sự đổi mới các hoạt động chăm s c, gi o dục theo hướng phát triển toàn diện đức,
trí, thể, mỹ cùng với mục tiêu giáo dục lấy trẻ làm trung tâm và với phương châm
học bằng chơi, chơi mà học. Những thành tựu đã đạt được của giáo dục mầm non đã
bám sát mục tiêu mà Hồ Chí Minh đã nêu rõ trong tư tưởng của Người, đặc biệt
trong mục tiêu giáo dục vì con người, cho con người, xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa cũng như mục tiêu giáo dục góp phần vào việc rèn luyện và hình
thành nhân c ch con người.
Lứa tuổi mầm non là lứa tuổi bắt đầu tiếp xúc với môi trường xã hội, mục tiêu
70
giáo dục đối với lứa tuổi này là giúp cho trẻ phát triển đồng đều cả về thể chất, tình
cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, dần dần hình thành nhân cách, phẩm chất tốt, trang bị cho các
em nền tảng tri thức, các kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, nuôi dưỡng và
khơi gợi những khả năng tiềm ẩn, làm cơ sở ban đầu cho việc giáo dục ở các cấp học
tiếp theo. Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, sau khi triển khai chuyên đề liên quan đến
giáo dục mầm non, c c cơ sở giáo dục mầm non đã tích cực trong điều chỉnh các kế
hoạch giáo dục, thay đổi c c phương ph p gi o dục trẻ, đã c những bước tiến mới
trong nhận thức của các cán bộ quản lý và giáo viên mầm non… nhằm mục tiêu chung
lấy trẻ làm trung tâm trong công t c chăm s c và gi o dục trẻ. Cùng với sự phát triển
đa dạng các hình thức tuyên truyền trên c c phương tiện thông tin đại chúng, sự phối
kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội ngày càng góp phần nâng cao vị trí và vai
trò của giáo dục mầm non. Theo đ , nhà trường và phụ huynh c cơ hội hiểu nhau hơn,
cha mẹ học sinh được tham gia nhiều hơn vào c c hoạt động tại trường lớp của con em
mình. Công t c chăm s c và gi o dục trẻ mầm non ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có
hoàn cảnh kh khăn cũng từ đ được chú trọng và phát huy.
Đối với giáo dục phổ thông: Ở cấp phổ thông, chúng ta đã và đang vận dụng
một cách triệt để hai mục tiêu giáo dục mà Hồ Chí Minh đã đã nêu ra đ là: ph t triển
con người toàn diện và tạo cơ hội công bằng trong phát triển cho mỗi người. Cụ thể
như sau:
Giáo dục tiểu học: Theo thống kê vào năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành
xuất sắc mục tiêu x a m chữ và phổ cập gi o dục tiểu học. Bên cạnh đ , với chính
s ch gi o dục linh hoạt và ph hợp với thực tiễn ngày nay, trình độ dân trí của đồng
bào c c dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng từng bước được nâng lên.Chất lượng phổ
cập gi o dục tiểu học được giữ vững và nâng cao, tính đến năm 2014 c 63/63 tỉnh,
thành phố đều đạt chuẩn phổ cập gi o dục tiểu học đúng độ tuổi cấp độ 1, hoàn
thành trước kế hoạch với mục tiêu về phổ cập gi o dục tiểu học của Nhà nước ta. Số
trẻ em đi học lớp 1 đúng độ tuổi là 1.317.083/ 1.325.132 em (chiếm tỉ lệ là 99,39%),
số trẻ em 11 tuổi hoàn thành chương trình tiểu học là 1.056.664/1.115.010 em
(chiếm tỉ lệ 94,76%), trong đ tỉ lệ học sinh lưu ban chỉ c n 0,96%, học sinh bỏ học
còn 0,16% [157].
71
Theo thống kê của Bộ GD & ĐT, gi o dục tiểu học đã đạt được nhiều kết
quả nổi bật trong khu vực Đông Nam Á: Tỷ lệ huy động trẻ vào lớp 1 đứng thứ hai
khu vực ASEAN chiếm tỷ lệ 99%; tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình
tiểu học sau 5 năm đứng ở tốp đầu của khối ASEAN đạt tỷ lệ 92,8% [170]; học sinh
tiểu học tham gia kỳ đ nh gi quốc tế PASEC 10 năm 2011, c c cuộc thi trong khu
vực và quốc tế như: Thi to n APMOS, IMC, thi Robotics, Cờ vua… đều đạt kết quả
rất cao. Có thể thấy, giáo dục tiểu học ở nước ta đã và đang đảm bảo được các mục
tiêu giáo dục, là nền tảng vững chắc cho các cấp học tiếp theo.
Giáo dục THCS và THPT: Năm học 2018 – 2019 cả nước c 27.723 trường phổ
thông, trong đ c : 9.551 trường THCS với 5.455.875 học sinh, 2.386 trường THPT
với 2.563.431 học sinh [159]. Chất lượng phổ cập giáo dục THCS được đ nh gi là
bền vững khi 63/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1, một số tỉnh
đạt chuẩn THCS mức độ 2 và 3 theo Nghị định 20/2014/NĐ-CP. Theo đ , cơ hội
tiếp cận giáo dục được tăng cao, đặc biệt đối với học sinh đồng bào các dân tộc
thiểu số, vùng sâu vùng xa. Theo các thống kê từ Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD &
ĐT hàng năm, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT ở các tỉnh thành đều rất cao (năm 2018 là
97,57%, năm 2019 là 94,06%) [170].
Nằm trong mục tiêu giáo dục phổ thông nói chung và mục tiêu giáo dục theo
tư tưởng Hồ Chí Minh n i riêng, đối với bậc trung học, Bộ GD & ĐT đã c nhiều
công văn hướng dẫn đ nh gi học sinh theo định hướng phát triển phẩm chất và
năng lực, coi trọng sự tiến bộ của mỗi học sinh, chú trọng đ nh gi thường xuyên,
kết hợp đ nh gi gi o viên, tự đ nh gi và đ nh gi lẫn nhau của học sinh, đ nh gi
của phụ huynh và cộng đồng, quy định 4 mức độ đ nh gi đ là nhận biết, thông
hiểu, vận dụng và vận dụng cao trong kiểm tra, đ nh gi đối với bậc Trung học. Từ
năm 2015, kì thi THPT quốc gia được tổ chức với nhiều đổi mới và ưu điểm như
chỉ tổ chức một đợt thi duy nhất, địa điểm tổ chức thi tại các cụm địa phương, hình
thức thi chủ yếu là trắc nghiệm khách quan (trừ môn Ngữ văn), giảm tải tối đa tình
trạng học tủ, học lệch, giảm bớt được áp lực tài chính cho phụ huynh và xã hội và
tăng cơ hội trúng tuyển vào c c trường đại học, cao đẳng cho học sinh phổ thông.
Điều này được duy trì và khẳng định qua kết quả của kì thi THPT quốc gia năm
2019 với kết quả tốt nghiệp THPT của cả nước đạt 94,06% [166].
72
Không chỉ có vậy, chất lượng giáo dục phổ thông ngày càng được nâng cao
qua một loạt c c thành tích đ ng ghi nhận của học sinh Việt Nam tại các kì thi
Olympic quốc tế và khu vực. Năm 2019 c tối đa 100% học sinh tham dự đều đạt
giải, trong đ phần lớn là huy chương vàng và bạc. Lần đầu tiên Việt Nam giành
điểm tuyệt đối trong phần thi thực hành tại Olympic Hóa học quốc tế và cũng lần
đầu tiên Việt Nam có thí sinh vừa đoạt huy chương vàng, vừa đoạt giải đặc biệt nữ
sinh có thành tích cao nhất Olympic Vật lý quốc tế. Bên cạnh đ , theo kết quả PISA
2018 được OECD công bố vào ngày 03/12/2019, học sinh Việt Nam c điểm số
vượt trội ở cả 3 lĩnh vực là Đọc hiểu, Toán học và Khoa học. Học sinh Việt Nam
được đ nh gi cao về tinh thần, th i độ tích cực làm bài, tỷ lệ có mặt tham gia cao,
tỷ lệ trả lời hết các câu hỏi thuộc nhóm cao nhất thế giới [167]. Đây đều là những
kết quả đ ng tự hào, chứng minh được sự thành công to lớn cho qu trình đầu tư
cho giáo dục của Đảng và Nhà nước ta nói chung, ngành giáo dục nói riêng.
Đối với giáo dục trung học chuyên nghiệp: C c trường trung cấp chuyên nghiệp
với mục tiêu là tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kĩ năng, tr ch nhiệm nghề
nghiệp nhằm góp phần phát triển hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đào tạo nghề,
đ p ứng nhu cầu nhân lực cho c c lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, dịch
vụ và xuất khẩu lao động. Theo số liệu thống kê năm 2015 – 2016, tổng số trường
trung cấp chuyên nghiệp là 303 trường với quy mô học sinh là 315.000 học viên với
số học sinh tuyển mới là 170.000 học viên (tăng 608 em so với năm trước) [163].
Số học sinh tốt nghiệp hằng năm đều kh cao. Năm 2015-2016 là 153.846 em (giảm
1,75 em so với cùng kỳ năm trước). Nhiều học sinh tốt nghiệp tìm được việc làm
sau khi tốt nghiệp, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng đang dần được củng
cố và phát triển. Ngoài ra, một số c c đối tượng như lao động nông thôn, người
khuyết tật, c c gia đình chính s ch, hộ nghèo, con em c c gia đình thương binh liệt
sĩ c hoàn cảnh khó khăn… được Nhà nước hỗ trợ học nghề giúp họ cải thiện đời
sống, ổn định công ăn việc làm góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Đối với giáo dục đại học: Xét về mặt quy mô, c c cơ sở gi o dục đại học đang
ngày càng ph t triển và đ p ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội. Năm học 2018-
2019 cả nước c 237 trường đại học, trong đ c 172 trường công lập và 65 trường
73
ngoài công lập (tăng 01 trường so với năm học 2017 - 2018). Số lượng sinh viên năm
học 2018-2019 là 1.526.111 (giảm 180.914 sinh viên so với c ng kì năm học trước)
[164]. Nhìn chung, đội ngũ giảng viên đại học đ p ứng được yêu cầu của thực tiễn
đào tạo đại học nước ta hiện nay về cả phẩm chất chính trị, đạo đức và về năng lực
chuyên môn nghiệp vụ, tri thức khoa học, năng lực nghiên cứu khoa học. Đa số giảng
viên đều yêu nghề, yêu ngành, yêu người, 100% giảng viên đại học được đào tạo từ
trình độ đại học trở lên ở nhiều ngành và chuyên ngành kh c nhau. Cũng theo thống
kê, tính đến năm học 2018 – 2019 c 73.312 giảng viên được phân theo trình độ
chuyên môn kh c nhau, trong đ c 21.106 tiến sĩ, 44.705 thạc sĩ, trình độ Đại học là
7.489 giảng viên [159]. C thể n i, mạng lưới c c trường đại học đã phủ kín hầu hết
c c tỉnh, thành phố trên cả nước. Cũng xuất ph t từ những thay đổi tích cực trên đây
mà số người tiếp cận với gi o dục bậc cao ngày càng nhiều hơn, tạo điều kiện hơn
cho sự ph t triển toàn diện của mỗi c nhân.
Năm 2019, lần đầu tiên 3 đại học Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng tốt nhất toàn
cầu qua bảng xếp hạng của tuần san Times Higher Education (THE). Đây là bảng xếp
hạng rất c uy tín được THE công bố thường niên. Ba cơ sở đại học của Việt Nam c
tên trong bảng xếp hạng đ là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh và Đại học B ch khoa Hà Nội [166]. Đến ngày 27/11/2019, theo kết
quả chính thức do QS công bố tại Hội thảo QS APPLE Conference 2019 tại Fukuoka,
Nhật Bản, Việt Nam c thêm 08 cơ sở gi o dục đại học nằm trong top 500 của bảng
xếp hạng c c trường đại học châu Á của QS năm 2020 đ là: Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Cần Thơ, Đại học Huế, Đại học
Đà Nẵng, Đại học B ch khoa Hà Nội, Đại học Tôn Đức Thắng và Đại học Duy Tân.
Có thể thấy, việc ngày càng c nhiều c c cơ sở gi o dục đại học của nước ta c tên
trong bảng xếp hạng đại học quốc tế c uy tín vừa là tín hiệu tích cực vừa là động lực
cho c c cơ sở gi o dục đại học kh c trong nước tiếp tục ph t triển, tạo bước đột ph
chiến lược trong việc gi o dục đào tạo.
Công bằng giáo dục là một mục tiêu mà Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chú ý.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục trong đổi mới căn bản toàn diện gi o
dục Việt Nam, trong những năm qua, chúng ta đã thực hiện tương đối tốt vấn đề này.
Sự ưu tiên của Nhà nước cho gi o dục thể hiện qua việc duy trì mức chi khoảng 20%
74
tổng ngân s ch cho gi o dục đào tạo (năm 2015 tổng số chi ngân s ch Nhà nước cho
gi o dục và đào tạo là 217.826 tỷ đồng trong đ 33.756 tỷ là chi cho xây dựng cơ bản
và 184.070 tỷ chi thường xuyên. Đến năm 2019 con số chi thường xuyên cho giáo
dục và đào tạo này lên tới 244.835 tỷ đồng) [159]. Nhờ sự đầu tư trên, c thể n i,
Nhà nước ta đã thành công trong việc xây dựng một hệ thống gi o dục với quy mô
rộng lớn trên khắp c c v ng, miền với đa dạng c c loại hình đào tạo, đ p ứng được
nhu cầu học tập của học sinh c c cấp. Hiện nay, hầu hết c c tỉnh thành trên cả nước
cả c c xã, phương, thị trấn đều c trường học từ trường tiểu học, THCS và THPT, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho tất cả c c em được tham gia gi o dục đúng độ tuổi nhằm
ph t huy khả năng, trí tuệ của mình. Ở c c tỉnh thành v ng sâu v ng xa, v ng miền
núi c đồng bào c c dân tộc thiểu số, hầu hết đã c c c trường phổ thông dân tộc b n
trú, trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng,… Đặc biệt, thời gian qua, Nhà nước
ta đã thực hiện nhiều chính s ch nhằm thực hiện công bằng trong gi o dục theo mục
tiêu mà Hồ Chí Minh đã đặt ra, như c c chính s ch miễn, giảm học phí cho học sinh
nghèo, hỗ trợ về cơ sở vật chất cho c c trường học miền núi, điều động gi o viên từ
miền xuôi lên miền ngược để giảng dạy cho con em c c dân tộc,… Trong năm 2015
c 1,3 triệu hộ gia đình và 1,5 triệu học sinh, sinh viên được vay vốn học tập và lập
nghiệp với số tiền 26.984 tỷ đồng [170]. Những việc làm trên không chỉ giúp cho c c
em được học tập trong điều kiện gi o dục tốt hơn mà c n thể hiện sự quan tâm s t sao
của Nhà nước ta trong việc thực hiện mục tiêu gi o dục toàn diện trên cơ sở vận dụng
mục tiêu gi o dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.1.2. Thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, về giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
Trong giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức: Đảng và Nhà nước ta không chỉ
vận dụng các luận điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với lý luận giáo dục
hiện đại làm cơ sở lý luận cho những chiến lược, mà c n đưa ra c c chủ trương s t
sao với các luận điểm đ . Đ là các chủ trương về tăng cường giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống; tăng cường giáo dục công dân; giáo dục lòng yêu nước;
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt chủ trương đưa
các nội dung giáo dục này vào trong nhà trường phù hợp với từng cấp học, bậc học.
75
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI x c định: “Ph t triển giáo dục
là quốc s ch hàng đầu… Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng
giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập
nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo
dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội” [36, tr. 131-132].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định: “Gi o
dục là quốc s ch hàng đầu... Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản
của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người
học” [37, tr. 114-115].
Ngày 04/12/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 31/Ct-TTg
về tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, trong đ yêu cầu
Bộ GD & ĐT tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên thông qua các
hoạt động giáo dục, đào tạo và trải nghiệm. Chỉ thị yêu cầu các trường cần xây
dựng các bài giảng, video clip, hình ảnh và bài viết về giáo dục đạo đức, lối sống
cho phù hợp với từng cấp học; xây dựng môi trường học đường an toàn, lành mạnh,
thân thiện; cùng phối hợp chặt chẽ với các nhà trường, gia đình tăng cường tuyên
truyền, vận động toàn xã hội tích cực tham gia công tác giáo dục đạo đức lối sống
cho học sinh, sinh viên cũng như chịu trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện
Chỉ thị. Qua đây có thể thấy sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong
công tác giáo dục đạo đức, chính trị tư tưởng cho học sinh, sinh viên.
Trên cơ sở c c quan điểm của Đảng, Nhà nước, Bộ GD & ĐT, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt
Nam, c c cơ sở giáo dục đã đặc biệt chú trọng đến giáo dục đạo đức cho học sinh,
sinh viên.
Đối với giáo dục mầm non: Đối với lứa tuổi mầm non thì giáo dục đạo đức là
một qu trình t c động có mục đích giúp trang bị cho trẻ những nhận thức cơ bản các
chuẩn mực hành vi trong các mối quan hệ ứng xử xung quanh trẻ để từ đ giúp trẻ hình
thành nên các hành vi, thói quen, tình cảm đúng đắn. Trong đ , gi o dục đạo đức cho
lứa tuổi mầm non chính là giúp trẻ hình thành những nhận thức đúng đắn về các chuẩn
76
mực hành vi đạo đức, phát triển ở trẻ những tình cảm lành mạnh đối với mọi người và
môi trường sống xung quanh, trẻ được tập thói quen vệ sinh, ngăn nắp, thật thà… trong
sinh hoạt và học tập, vui chơi. Từ đ thúc đẩy trẻ có những hành vi, việc làm tốt, gia
tăng tình yêu thương con người, yêu quê hương, đất nước.
Nhận thức được ảnh hưởng của giáo dục đạo đức đối với việc phát triển nhân
cách trẻ, c c cơ sở giáo dục mầm non hiện nay đã luôn chú trọng đến việc giáo dục
và rèn luyện cho trẻ có những nhận thức, hành vi, th i độ đúng đắn ngay từ khi còn
nhỏ qua các bài học, câu chuyện, lời khuyên… để trẻ có thể phân biệt được cái gì
tốt, cái gì xấu, điều gì nên làm, điều gì không nên làm… trong mối quan hệ với
người thân, bạn bè, đồ vật và thiên nhiên. Bản thân mỗi cán bộ, giáo viên mầm non
luôn phấn đấu rèn luyện t c phong, đạo đức, có phẩm chất chính trị vững vàng.
Nội dung giáo dục chính trị đạo đức cho học sinh lứa tuổi này được thể hiện
chủ yếu qua các nội dung dạy học về đạo đức, lối sống, qua các hoạt động văn h a,
sinh hoạt tập thể bổ ích, qua các cuộc thi kể chuyện, đọc thơ về Bác Hồ… giúp cho
học sinh mầm non từng bước nhận thức và noi theo những thói quen, hành vi tốt
ngay từ khi còn nhỏ. Chương trình gi o dục mầm non, bên cạnh các yếu tố giáo dục
thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, đã chú trọng giáo dục đạo đức nhằm hình thành
những yếu tố đầu tiên của nhân c ch, năng lực, phẩm chất làm nền tảng, đặt nền
móng cho các cấp học tiếp theo.
Đối với giáo dục phổ thông: Nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục
đạo đức, chính trị, thời gian vừa qua, Bộ GD & ĐT cũng đã ban hành Văn bản số
3964/BGDĐT-GDCTHSSV hướng dẫn cụ thể việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục
chính trị, tư tưởng cho học sinh, sinh viên năm học 2018 – 2019. Theo đ , c c
trường THPT trên địa bàn cả nước không chỉ đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mà còn không ngừng nâng cao chất
lượng công tác giáo dục tư tưởng, lối sống, kĩ năng sống cho học sinh.
C c cơ sở giáo dục hiện nay đều chú trọng xây dựng và chuẩn hóa nội dung
giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, giảm tải, tích hợp kiến thức liên môn giữa các
môn học, tăng số lượng các môn học, chủ đề và hoạt động tự chọn đồng thời giảm một
số các môn học bắt buộc. Hiện nay, giáo dục chính trị, đạo đức được thể hiện thành
môn học ở Tiểu học và Giáo dục công dân ở THCS và THPT, thậm chí, năm 2017, lần
77
đầu tiên môn Giáo dục công dân được đưa vào một trong những môn thi tốt nghiệp
THPT và xét tuyển Đại học buộc các em học sinh phải có sự rèn luyện đạo đức, chính
trị tư tưởng song song với sự rèn luyện tri thức. Giáo dục chính trị, đạo đức, học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thực hiện tích hợp với các bộ môn
Văn, Gi o dục công dân và bộ số bộ môn khác. Bên cạnh đ , hầu hết c c trường phổ
thông hiện nay đều rất chú trọng đến công tác xây dựng văn h a trường học, môi
trường giáo dục an toàn, lành mạnh, các hoạt động nhằm phòng, chống bạo lực học
đường… Công t c tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật,giáo dục phòng chống
tham nhũng, tuyên truyền về biển đảo, bảo vệ tài nguyên môi trường, an toàn giao
thông,.. cũng được c c nhà trường đẩy mạnh qua các buổi sinh hoạt toàn trường hay
các buổi sinh hoạt ngoại khóa, qua các cuộc thi giúp cho học sinh được thường xuyên
học tập, rèn luyện. Một số địa phương như Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã và đang
xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện Đề n “Xây dựng văn h a ứng xử trong
trường học giai đoạn 2018 – 2025”. C c hoạt động giáo dục kĩ năng sống và giáo dục
ngoài giờ lên lớp cũng lần lượt được triển khai ở hầu hết c c cơ sở giáo dục phổ thông.
Đặc biệt, việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội trong giáo
dục chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh đã và đang được đẩy mạnh đã tạo nhiều
chuyển biến tích cực nhằm mục tiêu xây dựng thế hệ trẻ trong tương lai ph t triển toàn
diện, c đủ phẩm chất và năng lực đ p ứng yêu cầu đổi mới của đất nước.
Đối với giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học: Nhận thức được tầm
quan trọng của công t c gi o dục đạo đức, chính trị tư tưởng cho sinh viên, c c
trường trung học chuyên nghiệp và đại học luôn chú trọng vào nội dung và chương
trình giảng dạy c c môn học nhằm ph t triển gi o dục đạo đức cho sinh viên cũng
như chú trọng về tỉ lệ khối lượng kiến thức, về thời gian, thiết kế dung lượng môn
học sao cho ph hợp, trong đ c c c môn học khoa học xã hội và nhân văn, chủ
nghĩa M c – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung giảng dạy hiện nay không
ngừng được cải tiến theo hướng tinh gọn và thiết thực hơn. Giảng viên giảng dạy
c c môn học này không chỉ c nhiệm vụ truyền đạt nội dung kiến thức môn học mà
c n phải gi o dục đạo đức, nhân c ch, rèn luyện phẩm chất chính trị, hình thành thế
giới quan duy vật biện chứng, gi o dục chính trị tư tưởng, gi o dục đạo đức lối
sống, văn h a đạo đức. Thông thường, mỗi cơ sở gi o dục trung học chuyên nghiệp
78
và đại học lại xây dựng một nội dung, chương trình gi o dục c c môn khoa học Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kh c nhau và trong chương trình dạy học hàng
năm c c trường đều c chương trình chính kh a và ngoại kh a dành cho việc học
tập, nghiên cứu c c chuyên đề chính trị, cuộc vận động, c c cuộc thi tìm hiểu, c c
phong trào thi đua đặc biệt là c c phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức, phong c ch Hồ Chí Minh” được diễn ra thường niên trong c c nhà trường.
Ngoài việc thường xuyên thay đổi, biên soạn, đổi mới gi o trình, nội dung giảng
dạy c c môn khoa học xã hội và nhân văn n i chung, c c môn đạo đức n i riêng,
trong qu trình giảng dạy, giảng viên c n kết hợp lồng ghép gắn giữa kiến thức lý
luận chính trị với thực tiễn đời sống xã hội, đặc biệt là thực tiễn chuyên ngành mà
sinh viên đang theo học.
Nhằm tăng cường chất lượng nội dung gi o dục chính trị tư tưởng, đạo đức
theo hướng cập nhật kiến thức thực tiễn vào trong chương trình, nhiều trường đã cử
giảng viên đi thực tế hoặc mời c c chuyên gia đầu ngành về giảng dạy c c chuyên
đề chuyên sâu hay tăng cường trang bị c c phương tiện dạy học hiện đại, sử dụng
phần mềm phục vụ học tập, cung cấp đầy đủ tài liệu, s ch b o, tạp chí, c c Văn kiện
đại hội Đảng, c c s ch tham khảo cần thiết cho công t c gi o dục c c môn khoa học
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều trường c n c Tạp chí khoa học và
website riêng thu hút sự đ ng g p của đông đảo c n bộ, giảng viên trong và ngoài
nhà trường để viết bài, đăng tin. Những việc làm trên đây chính là cơ sở để nâng
cao chất lượng giảng dạy n i chung và gi o dục đạo đức, chính trị tư tưởng n i
riêng cho sinh viên c c trường trung học chuyên nghiệp và đại học trên cả nước.
Thứ hai, về giáo dục tri thức
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung gi o dục n i chung và gi o dục
tri thức n i riêng, thời gian qua ở tất cả c c cơ sở gi o dục từ mầm non đến đại học
đều không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học, thực hiện nội dung gi o dục theo
lời dạy của Người.
Đối với giáo dục mầm non: Gi o dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi mầm non
được c c trường tiến hành qua c c hoạt động đa dạng, phong phú như: giao tiếp,
hoạt động với đồ vật ở lứa tuổi nhà trẻ hay qua c c hoạt động vui chơi, tìm hiểu thế
giới xung quanh ở lứa tuổi mẫu gi o. Hiện nay, xu hướng chuyên nghiệp h a gi o
79
dục mầm non đang ngày càng được lan rộng do đ c c nhà trường mầm non không
ngừng nâng cao chất lượng gi o dục trẻ qua sự đổi mới c c chương trình dạy và học
cho học sinh.
Theo thống kê, toàn quốc c 99,8% cơ sở giáo dục mầm non triển khai
chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” [166], việc làm này
đã t c động tích cực thúc đẩy việc đổi mới phương ph p chăm s c gi o dục trẻ, theo
đ đội ngũ gi o viên được nâng cao về chuyên môn, được chủ động, sáng tạo trong
việc tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ; chất lượng chăm s c gi o dục trẻ được
nâng lên. Trên cơ sở phù hợp với tình hình thực tế của c c địa phương, c c cơ sở
giáo dục mầm non n i chung trên địa bàn các tỉnh thành trên cả nước đã không
ngừng tiếp tục nghiên cứu các giải ph p để thực hiện các nội dung của chuyên đề
gắn với việc nâng cao chất lượng thực hiện chương trình một cách linh hoạt. Qua đ
mới có thể đ nh gi , rút kinh nghiệm nhằm thực hiện những nội dung giáo dục mầm
non đã đề ra.
Trên cơ sở thực hiện mục tiêu đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh
giản, hiện đại, nhằm phát triển năng lực người học, hài h a đức, trí, thể, mỹ, trong
giáo dục phổ thông, giáo dục tri thức được c c trường tập trung vào truyền đạt cho
học sinh các kiến thức về tự nhiên, văn h a, xã hội thông qua các môn học như
Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Tiếng Anh, Lịch sử, Địa lý, Sinh học,… Hiện
nay, nhiều trường THPT trên cả nước đã thực hiện thường xuyên chương trình dạy
học tự chọn đối với 3 môn To n, Văn và Tiếng Anh cho cả 3 khối lớp 10, 11, 12
giúp cho người học b m s t được nội dung chương trình s ch gi o khoa vừa phù
hợp với chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp. Các bộ môn được tích hợp một
cách phù hợp về mặt nội dung, ví dụ như tổ chức dạy học, giáo dục sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả ứng dụng tốt trong bộ môn Vật lý; các nội dung về bảo
vệ môi trường, đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên, giáo dục về tài nguyên và
môi trường biển, hải đảo, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ
thiên tai… được tích hợp có hiệu quả trong các bộn môn Sinh học, Vật lý, Giáo dục
công dân, Địa lý,… Nội dung dạy học đã và đang theo hướng đảm bảo cho học sinh
những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, phù hợp với yêu cầu của đất nước,
lược bỏ những nội dung không cần thiết, chú trọng giáo dục cho người học tình yêu
80
Tổ quốc, yêu lao động, yêu khoa học,.... Đ cũng chính là những kết quả tích cực
đ ng ghi nhận trong việc vận dụng tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh.
Đối với giáo dục trung học nghề nghiệp và đại học: Theo Hồ Chí Minh, ở cấp
học đại học cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, kết hợp khoa học nước mình
với nước bạn, kết hợp với thực tiễn nước ta để giúp ích cho công cuộc xây dựng đất
nước. Do vậy, giáo dục tri thức với bậc học trung học chuyên nghiệp và đại học là
một trong những yếu tố nhằm hoàn thiện tri thức, kỹ năng nghề nghiệp. Ở nước ta,
những nội dung cơ bản của cấp học này chính là các hoạt động về nhiệm vụ giảng
dạy, nghiên cứu, thực tập, kết hợp với hoạt động phụng sự xã hội đào tạo của c c cơ
sở; nội dung giáo dục đa số chú trọng đến các ngành nghề đào tạo con người trong xã
hội. Ngoài ra, nội dung giáo dục còn xoay quanh những kiến thức về khoa học, nhân
văn, nghệ thuật cùng những kiến thức xã hội. Nội dung giảng dạy kết hợp giữa lý
thuyết và thực hành, giữa phương ph p giảng dạy về các ngành kinh tế, kỹ thuật cùng
với khoa học công nghệ đào tạo những ngành phát triển của đất nước.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, chương trình, nội dung giảng
dạy ở cấp học này cũng tập trung theo hướng tinh giản, hiện đại, phù hợp với ngành
nghề đào tạo, tăng cường thực hành, đặc biệt nội dung được xây dựng theo hướng
tích hợp kiến thức, kỹ năng, t c phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng
lực nghề nghiệp cho người học, đồng thời giúp phát triển được năng lực sáng tạo,
kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận
trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Để thực hiện mục tiêu đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục n i chung và đổi mới giáo dục đại học n i riêng, đa số
c c trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học trên cả nước đã xây dựng
triển khai dự án và các hoạt động khởi nghiệp, đẩy mạnh công t c hướng nghiệp, tư
vấn việc làm, hỗ trợ kiến thức khởi nghiệp cho sinh viên, bên cạnh đ c n hỗ trợ, tư
vấn cho sinh viên các kiến thức và kĩ năng xã hội để đ p ứng được yêu cầu thực tiễn
của công việc sau khi tốt nghiệp.
Thứ ba, về giáo dục thể chất
Bên cạnh nội dung gi o dục chính trị, đạo đức, gi o dục tri thức, c c nhà
trường c n cần phải quan tâm đến vấn đề thể lực cho người học nhằm đảm bảo yếu
tố gi o dục toàn diện. Không phải ngẫu nhiên Hồ Chí Minh chủ trương đưa gi o
81
dục thể chất vào trong nhà trường từ sớm. Theo Người: “Nhi đồng được chính phủ
săn s c đặc biệt về thể dục và trí dục” [91, tr. 631], “Phải rèn luyện thân thể cho
khỏe mạnh. Khỏe mạnh thì mới c đủ sức để tham gia một c ch dẻo dai, bền bỉ
những công việc ích nước, lợi dân” [98, tr. 440]. Vận dụng tư tưởng của Người về
nội dung gi o dục thể chất, ở c c cấp học môn học này được thực hiện ở một số
môn như thể dục, sinh học, công nghệ, c c hoạt động thể thao, trải nghiệm s ng
tạo… Trong thời gian qua, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục thể
chất đã đạt được nhiều thành tựu, cụ thể:
Đối với giáo dục mầm non: Ở cấp học này, gi o dục thể chất cho lứa tuổi nhà
trẻ vô c ng quan trọng bởi gi o dục thể chất gắn liền với gi o dục trí tuệ cho trẻ.
Khi cơ thể trẻ được khỏe mạnh thì hệ thần kinh, c c gi c quan mới ph t triển cân
bằng và ph t triển sẽ giúp cho trẻ tích cực hoạt động và tham gia làm quen với môi
trường xung quanh hơn. Trên thực tế, c c cơ sở gi o dục mầm non đều tập trung
vào nhiệm vụ này qua việc nuôi dưỡng và chăm s c trẻ qua chế độ ăn uống sao cho
đủ chất, đủ lượng, hợp vệ sinh và theo một chế độ sinh hoạt khoa học, chăm s c
hợp lý qua việc ăn, ngủ, chơi, học tập, vệ sinh, quần o… và rèn luyện thể chất cho
trẻ qua c c bài tập vận động, tr chơi…
Đối với giáo dục phổ thông: Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh, mỗi một
người dân mạnh khỏe là cả nước mạnh khỏe. Do vậy, gi o dục thể chất là môn học
bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, đảm nhiệm một trong bốn mặt gi o dục Đức, Trí, Thể,
Mỹ trong nhà trường nước ta. Môn học được x c định với mục tiêu g p phần hình
thành c c phẩm chất chủ yếu và năng lực chung cho học sinh. Thông qua việc trang
bị kiến thức về sức khoẻ, quản lý sức khỏe và rèn luyện, học sinh biết thích ứng với
c c điều kiện sống, lạc quan và chia sẻ với mọi người, c cuộc sống khoẻ mạnh về
thể lực và tinh thần.
Gi o dục thể chất là nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng ph t triển thể lực, sức
khoẻ bằng những hoạt động thể chất đa dạng như rèn kỹ năng vận động cơ bản, đội
hình, đội ngũ; c c bài tập thể dục và bài tập ph t triển tố chất thể lực; c c môn thể thao:
bơi lặn, võ, vật và c c hoạt động thể thao cổ truyền, thể dục nghệ thuật, khiêu vũ thể
thao...; phương ph p ph ng chống chấn thương trong hoạt động thể dục thể thao. Hình
thức tổ chức và phương ph p dạy học môn gi o dục thể chất trong nhà trường chủ yếu
82
là tổ chức c c hoạt động vận động, tập luyện và thi đấu thể dục thể thao cho học sinh;
kết hợp đ nh gi năng lực theo yêu cầu cần đạt về kiến thức, kỹ năng, tố chất thể lực
ph hợp (cấp học, lứa tuổi và giới tính), đ nh gi th i độ hoạt động thể dục thể thao
trong và ngoài nhà trường của học sinh.
Tại c c trường trung học chuyên nghiệp và đại học, gi o dục thể chất đã g p
phần rèn luyện không chỉ về mặt thể lực cho sinh viên một c ch nghiêm túc, c chất
lượng mà c n g p phần quan trọng vào kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên
cũng như chất lượng đào tạo đội ngũ sinh viên của nhà trường. Hiện nay, tại c c
trường trung học chuyên nghiệp và đại học, công t c gi o dục thể lực, sức khỏe cho
sinh viên đã và đang được c c nhà trường đẩy mạnh. Đối tượng sinh viên chính là
lực lượng lao động c sức khỏe, c tri thức, khả năng s ng tạo, làm chủ khoa học kĩ
thuật. Gi o dục thể chất là môn học bắt buộc cho sinh viên ngay từ năm thứ nhất.
Thông thường, khi bắt đầu nhập học, c c tân sinh viên sẽ được trường sắp xếp lịch
học hoặc c trường thì sinh viên tự đăng kí tín chỉ học theo thời gian sắp xếp hợp lý
của bản thân. C c trường sẽ sắp xếp môn học t y theo điều kiện nhà trường và văn
h a. Điển hình như Hà Nội là nơi tập trung số lượng lớn c c trường trung học
chuyên nghiệp và đại học của cả nước. Hầu hết c c trường triển khai công t c gi o
dục thể chất theo quy định chung của Bộ GD & ĐT. T y theo điều kiện cơ sở vật
chất và nguồn nhân lực, c c trường sẽ lựa chọn môn thể thao bắt buộc cho sinh
viên. Ví dụ trường Đại học Thủy lợi bắt buộc sinh viên phải học môn bơi lội, trường
Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội thì tổ chức cho sinh viên học môn
B ng đ và khiêu vũ, trường Đại học B ch Khoa sinh viên được học môn b ng đ
và b ng rổ, trường Học viện B o chí và Tuyên truyền tổ chức cho sinh viên được
học bài học về 12 động t c trước khi sinh viên được học về môn b ng chuyền vào
năm thứ 2, trường Đai học Luật Hà Nội lại cho sinh viên rèn luyện trí lực thể chất
qua môn học cờ vua và yoga,… [168]. Ngoài ra, c c hoạt động thể dục thể thao, c c
giải thi đấu được tổ chức giữa c c trường và trong phạm vi trường cũng được diễn
ra thường niên, như c c Đại hội thể dục thể thao, c c giải thể thao nội bộ, thi đấu
giao hữu nhân dịp c c ngày lễ lớn…
Thứ tư, về giáo dục thẩm mỹ
Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về gi o dục thẩm mỹ là bồi dưỡng,
83
nâng cao trình độ văn h a thẩm mỹ, nâng cao nhu cầu xây dựng cuộc sống theo c i
đẹp, trong tinh thần tr ch nhiệm của mỗi con người. Và để đ p ứng nhu cầu văn
h a, vui chơi giải trí, thưởng thức c c sản phẩm văn h a và tham gia s ng tạo văn
h a của học sinh, trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5
(kh a VIII), Đảng ta đã nhấn mạnh c c hoạt động văn h a phải hướng đến việc
“quan tâm, gi o dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn h a cho thế hệ trẻ”. Điều đ
thể hiện qua việc mở rộng thời lượng cũng như đa dạng h a c c nội dung, hình thức
đối với c c chương trình văn h a nghệ thuật tại hệ thống c c đài ph t thanh truyền
hình, cơ quan b o chí, c c nhà xuất bản; qua c c hoạt động nghệ thuật chuyên
nghiệp và quần chúng làm cho khối lượng và chất lượng sản phẩm văn h a được
tăng nhanh và c tính định hướng, ngày càng trở nên hấp dẫn, đ p ứng được nhu
cầu và thị hiếu của học sinh hiện nay, c t c dụng tuyên truyền gi o dục nhận thức
về văn h a thẩm mỹ của học sinh. Vì thế, học sinh Việt Nam hiện nay c nhiều điều
kiện sinh hoạt văn h a, thỏa mãn nhu cầu về nghệ thuật, về c i đẹp hơn so với thời
kỳ trước.
C ng với việc nâng cao nội dung gi o dục thẩm mỹ trong nhà trường theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhìn chung, c c cơ sở gi o dục trên cả nước đã nhận thức được
vai tr , vị trí và tầm quan trọng của việc gi o dục thẩm mỹ cho học sinh là một
nhiệm vụ quan trọng trong nhiệm vụ gi o dục n i chung. Từ nhận thức đ , c c
trường đã và đang cố gắng xây dựng và ph t triển hài h a c c chương trình, kế
hoạch ngoại kh a nhằm ph t triển đời sống tinh thần cho học sinh; bước đầu gắn
việc gi o dục thẩm mỹ vào chương trình dạy học c c bộ môn, đặc biệt là c c bộ
môn nghệ thuật như âm nhạc, mỹ thuật; xây dựng và nâng cao c c mối quan hệ phối
hợp với c c ngành chức năng trong việc gi o dục người học. Một trong những thành
tựu nổi bật trong việc gi o dục thẩm mỹ ở nước ta thời gian qua là việc đa dạng h a
c c hình thức gi o dục thẩm mỹ cho học sinh. Bên cạnh việc gi o dục theo lối
trường quy, qua c c trường lớp, c c môn học, việc gi o dục thẩm mỹ cho học sinh
c n được tiến hành qua c c phương tiện truyền thông nhất là qua c c hoạt động
nghệ thuật.
Đối với giáo dục mầm non, trong c c cơ sở gi o dục mầm non, gi o viên
thường gi o dục thẩm mỹ cho trẻ thông qua việc dạy cho trẻ sự hiểu biết đúng đắn
84
thế nào là đẹp, xấu đến sự hình thành th i độ tích cực, ủng hộ c i đẹp, loại trừ c i
xấu để từ đ c hành vi thích hợp với bản thân để tạo ra c i đẹp cho bản thân và c i
đẹp trong cuộc sống xung quanh. Đa phần trẻ mầm non đều rất yêu thích c i đẹp
thông qua những đồ d ng, đồ chơi ngộ nghĩnh và vui sướng, hứng thú khi được tiếp
xúc với những sự vật sống động, nhiều màu sắc, âm thanh. C c nhân vật cổ tích,
qua lời ru ngọt ngào, giọng n i âu yếm, âm điệu du dương của một bản nhạc… cũng
đều giúp khơi gợi cho trẻ những cảm xúc tốt đẹp khi được tiếp xúc với c i đẹp. Đa
phần c c trường mầm non hiện nay đều c xu hướng gi o dục thẩm mỹ cho trẻ qua
việc dạy trẻ quan s t, cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên với c ch bài trí g c học tập
sinh động, g c chăm s c cây cối, g c vui chơi giải trí nhiều màu sắc…; gi o dục vẻ
đẹp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày trong mối quan hệ với những người thân
(dạy trẻ biết chào hỏi lễ phép, biết xin lỗi, biết cảm ơn đúng nơi đúng chỗ…), trong
những hành vi văn h a – vệ sinh (lễ phép với người lớn, thân thiện với bạn bè, th i
quen rửa tay trước khi ăn, ăn mặc sạch sẽ, đầu t c gọn gàng,…), trong mối quan hệ
với thế giới đồ vật xung quanh (biết sử dụng đồ vật theo đúng chức năng của n ,
cảm nhận được vẻ đẹp của n ,…); gi o dục trẻ bước đầu làm quen với nghệ thuật
như âm nhạc (lời ru, cho trẻ h t và vận động theo nhạc), gi o dục vẻ đẹp trong thơ
ca, khúc h t đồng dao qua nhiều bài thơ, bài vè dễ thuộc, dễ nhớ.. gi o dục c i đẹp
cho trẻ trong hoạt động tạo hình (qua quan s t c c bức tranh, tô tượng, dạy trẻ tô
màu, cắt d n, xếp hình, vẽ…).
Gi o dục thẩm mỹ là một trong những nhiệm vụ của giáo dục phổ thông các
cấp từ tiểu học đến THPT. Gi o dục thẩm mỹ trong nhà trường là qu trình gi o dục
nhằm bồi dưỡng cho học sinh sự hiểu biết, cảm thụ, ph t hiện, đ nh gi đúng c i
đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống, trong nghệ thuật; hình thành ở học sinh nhu
cầu và năng lực s ng tạo c i đẹp trong cuộc sống. Trên thực tế hiện nay, nhà trường
ít nhiều đã c gi o dục thẩm mỹ, thông qua c c môn như âm nhạc, mỹ thuật, gi o
dục công dân… Ở c c môn này, học sinh phần nhiều được trang bị những kiến thức
và kỹ năng cụ thể, như c ch đọc nhạc phổ của một bản nhạc, c ch vẽ một bức tranh
đơn giản, biết một số kỹ năng cần thiết trong ứng xử, giao tiếp, cơ bản biết đâu là
điều nên làm, đâu là điều nên tr nh…
Gi o dục thẩm mỹ cho học sinh c nhiều lợi ích thiết thực. Một trong những
85
lợi ích lớn nhất là định hướng thẩm mỹ cho học sinh, để c c em nhận ra đâu là c i
đẹp, đâu là c i bản thân mình hướng tới, thay vì để trào lưu, số đông lôi cuốn. Qua
công t c gi o dục thẩm mỹ, việc ph t hiện sở thích âm nhạc (thực chất, không theo
đ m đông) của học sinh, gi o viên c thể phần nào hiểu thêm về tâm tính, xu hướng
ph t triển của học sinh đ . Thông qua gi o dục thẩm mỹ, học sinh tôn trọng và hiểu
c c nền văn h a, c c gi trị kh c nhau của xã hội đa dạng, không cảm thấy kỳ thị với
c c biểu hiện văn h a kh c nhau, không tự ti với bản sắc văn h a thuộc nh m thiểu số
của mình, không tự đại với một nền văn h a c nhiều sản phẩm đại diện. Đặc biệt,
trong bối cảnh toàn cầu h a, hội nhập ngày càng sâu rộng, học sinh được gi o dục
thẩm mỹ thấy rằng cần tiếp thu với những tinh hoa văn h a, những nét đặc sắc của
c c nền văn minh nhưng đồng thời gìn giữ và ph t huy c c bản sắc văn h a của dân
tộc mình, đất nước mình. Qua đ , giúp c c em c nền tảng tích cực để c một tâm thế
hội nhập ph hợp, chủ động, thay vì để qu trình hội nhập cuốn vào, bắt đầu từ việc
chịu ảnh hưởng thụ động đối với c c biểu hiện văn h a nước ngoài, hoặc trở nên tự
coi thường nền văn h a của dân tộc mình là lạc hậu, tầm thường.
Hiện nay, hầu hết c c trường trung học chuyên nghiệp và đại học đã và đang
chú trọng đến cơ sở vật chất, đầu tư xây dựng cảnh quan môi trường khang trang,
sạch đẹp, c hệ thống thiết chế văn h a cơ bản như nhà đa năng, hội trường, sân vận
động, thư viện điện tử hiện đại… Được tạo điều kiện tốt về môi trường học tập,
nghiên cứu bước đầu hình thành ở sinh viên ấn tượng tốt đẹp về nhà trường. C c
trường hiện nay đa số đều c khu nhà ăn, nhà nghỉ cho học sinh ăn b n trú, nghỉ
trưa tại trường để tiện cho việc học tập của c c em; sinh viên cũng được nhà trường
quan tâm tối đa đến vấn đề môi trường mỹ quan, vệ sinh tại c c khu kí túc x , điển
hình như khu kí túc của Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học B ch khoa,
Đại học kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại ngữ, Đại học Y Hà Nội, Đại học Nông
nghiệp Hà Nội… được xây mới khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi cho sinh
viên lưu trú. Đây cũng là một điểm tích cực trong công t c gi o dục thẩm mỹ cho
sinh viên.
Như vậy, công t c vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung gi o dục trên
c c phương diện chính trị tư tưởng, đạo đức, gi o dục tri thức, gi o dục thể chất,
gi o dục thẩm mỹ đã đạt được những thành tựu đ ng ghi nhận ở từng cấp học, bậc
86
học, g p phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng dạy và học nhằm mục tiêu
đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam. Điều này càng khẳng định gi trị của
tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2.1.3. Thành tựu trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc và phương
pháp giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện
nay
Cùng với những quan điểm về đổi mới nội dung giáo dục, Đảng và Nhà nước
ta cũng đã và đang chỉ đạo sự chuyển hướng, đổi mới về phương ph p gi o dục. Để
xây dựng nền giáo dục mới cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những
phương ph p gi o dục mang tính chỉ đạo. Người yêu cầu phải tuyệt đối tránh lối
dạy “nhồi sọ”, trong dạy học cần “dạy dần dần từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó, từ
thấp đến cao” [96, tr. 467]… Trên tinh thần đ , gi o dục Việt Nam đang thực hiện
những nội dung về đổi mới giáo dục từ phương ph p chuyển từ tiếp cận nội dung
sang tiếp cận năng lực của người học, tức là từ mục tiêu giúp cho học sinh học được
gì sang mục tiêu học sinh làm được gì thông qua việc học, lấy học sinh làm trung
tâm và thầy cô giáo giữ vị trí vai tr là người triển khai các phương ph p dạy, tổ
chức các hoạt động cho học sinh
Sinh thời, Hồ Chí Minh quan tâm đến phương ph p dạy và học. Theo Người, với
mỗi đối tượng kh c nhau, với những điều kiện lịch sử kh c nhau, chúng ta cần c
phương ph p, hình thức gi o dục kh c nhau. Trong đổi mới căn bản, toàn diện gi o
dụcViệt Nam hiện nay, chúng ta đã và đang cố gắng xây dựng một nền gi o dục theo
hướng hiện đại, khuyến khích học sinh tự học, tạo cơ sở để người học cập nhật và thay
đổi tri thức, kĩ năng, ph t triển c c năng lực vốn c của bản thân. Những năm gần đây,
Bộ GD & ĐT đã không ngừng triển khai những phương ph p và hình thức dạy học mới
cho c c cấp học, bậc học, ngành học trên cơ sở vận dụng những phương ph p gi o dục
của tư tưởng Hồ Chí Minh và đã c những kết quả bước đầu đ ng ghi nhận.
Đối với giáo dục mầm non: Việc đổi mới phương ph p gi o dục mầm non đã
và đang được c c nhà trường mầm non đẩy mạnh vì tầm quan trọng của n .
Vận dụng c c nguyên tắc, phương ph p gi o dục trong hệ thống nguyên tắc,
phương ph p gi o dục của Hồ Chí Minh như “ph t huy tính chủ động, s ng tạo và
tích cực của người học”, phương ph p “nêu gương, làm kiểu mẫu để học trong học
87
tập, noi theo” và đặc biệt là nguyên tắc gi o dục “học đi đôi với hành”, phương
ph p dạy hiệu quả nhất được p dụng trong c c cơ sở gi o dục mầm non là dạy cho
trẻ học một c ch tự nhiên, không gượng ép nhằm g p phần giúp trẻ c thể tự kh m
ph , tìm hiểu thế giới xung quanh bằng chính sự s ng tạo của mình một c ch tự
nhiên nhất, tạo sự hứng thú cho trẻ, trẻ c thể hỏi hỏi qua những kh m ph và trải
nghiệm của chính bản thân mình. Trong xu hướng hiện nay, nhiều trường mầm non
chất lượng cao đã đưa phương ph p gi o dục mầm non hiện đại hướng đến việc để
trẻ chơi mà học, học mà chơi. Trẻ sẽ được dạy c ch tự lập và tự gi c, tự đi giàu, tự
mặc quần o, tự rửa tay, tự vệ sinh c nhân… Bên cạnh đ , phương ph p dạy học
cho trẻ mầm non ngày nay c n được sự hỗ trợ đắc lực từ c c trang thiết bị hiện đại,
vận dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học giúp cho gi o viên cập nhật được
thông tin một c ch chính x c, hiệu quả, truyền tải kiến thức nhanh nhất tới trẻ. Bài
giảng được vận dụng công nghệ thông tin với c c phần mềm ứng dụng bổ ích ph
hợp lứa tuổi không chỉ giúp gi o viên nâng cao hiệu quả bài dạy mà c n giúp cho
trẻ hứng thú, kích thích sự t m kh m ph của trẻ nhiều hơn. Với phương n cho
trẻ vừa học vừa chơi, nhiều trường mầm non đã c sự đổi mới về chương trình gi o
dục giúp trẻ được tiếp nhận kiến thức thông qua c c đồ chơi, c c mô hình, c c dụng
cụ bằng gỗ hay thậm chí qua các bài h t, c c câu chuyện… Nhờ đ , trẻ được ph t
triển một c ch tự nhiên và toàn diện nhất.
Trong giáo dục đạo đức, t y theo lứa tuổi nhà trẻ và mẫu gi o lại c phương
ph p ph hợp. Ở lứa tuổi nhà trẻ, c c gi o viên mầm non sẽ ph t triển cho trẻ những
xúc cảm lành mạnh như âu yếm, vỗ về, dạy trẻ làm quen với mọi người, giúp đỡ trẻ
giao lưu cảm xúc, biết vui mừng khi thỏa mãn nhu cầu, biết c m ơn khi được người
kh c làm cho việc tốt, cho quà, cho đồ chơi, tạo điều kiện cho trẻ bộc lộ tình cảm
với người thân, dạy trẻ biết yêu quý bạn bè và nghe lời người lớn. C n ở lứa tuổi
mẫu gi o thì sẽ được gi o dục l ng nhân i, hình thành những th i quen đạo đức
đúng đắn như tính tự lập, tính mạnh dạn, tính ngăn nắp, tính kỉ luật qua c c bài học
và việc làm trên lớp, đặc biệt thông qua c c câu chuyện, c c hình ảnh thực tế giúp
trẻ nhận thức và được tiếp thu một c ch hiệu quả nhất. Đây vừa là sự kết hợp của
phương ph p nêu gương, phương ph p học đi đôi với hành đồng thời gi o viên
mầm non chính là tấm gương để trẻ học tập, noi theo.
88
Trong giáo dục tri thức, sự ph t triển trí tuệ của trẻ phụ thuộc vào tính chất
của tri thức mà trẻ lĩnh hội. Chính vì lẽ đ , muốn ph t triển tư duy và hoạt động trí
tuệ cho trẻ thì gi o viên cần thiết kế trong c c nội dung dạy học c c hoạt động c
mối liên hệ giữa c c sự vật hiện tượng như mối liên hệ giữa hình d ng bên ngoài
của đồ vật với công dụng của chúng, giữa hình thức bên ngoài với chức năng của đồ
vật, mối liên hệ giữa cấu tạo của động vật với môi trường sống… giúp cho trẻ nắm
bắt được mối liên hệ nhân – quả của sự vật, hiện tượng. Những năng lực trí tuệ chủ
yếu cần hình thành và ph t triển cho trẻ mầm non là năng lực quan s t, phân tích, so
s nh, kh i qu t h a, năng lực suy luận… Đây cũng chính là phương ph p “học phải
đi đôi với hành” được Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh. Thực tế, gi o viên mầm
non hiện nay đã và đang thường xuyên p dụng c c phương ph p trực quan giúp trẻ
quan s t những hiện tượng tự nhiên, những biến đổi của môi trường xã hội,...;
phương ph p phân tích giúp trẻ biết gọi tên c c sự vật, hiện tượng dựa trên c c dấu
hiệu bên ngoài của sự vật, hiện tượng mà trẻ quan s t được để hình thành biểu
tượng và kh i qu t h a về chúng; phương ph p so s nh nhằm giúp trẻ ph t hiện
được sự giống và kh c nhau giữa c c sự vật, hiện tượng qua c c dấu hiệu đặc trưng
để phân biệt,… Ngoài ra, gi o viên mầm non hướng dẫn trẻ dựa trên những cơ sở
thực tiễn, mối quan hệ giữa c c sự vật, hiện tượng để suy luận những điều c thể
xảy ra, khuyến khích trẻ vận dụng những tri thức, kĩ năng đã biết vào trong cuộc
sống, tự giải quyết những nhiệm vụ trong cuộc sống và những nhiệm vụ nảy sinh
trong qu trình học tập, vui chơi.
Trong giáo dục thể chất, sự ph t triển vận động của trẻ không chỉ thể hiện sự
trưởng thành của cơ thể và c n là sản phẩm của việc dạy dỗ n i chung và gi o dục
mầm non n i riêng. Dạy trẻ dưới 3 tuổi những vận động cơ bản như lẫy, b , ngồi,
đi, chạy, nhảy… là những nhiệm vụ cơ bản. C c cơ sở gi o dục mầm non và gi o
viên mầm non rất chú trọng đến nhiệm vụ này. Từ đ c c c chương trình tập luyện,
ph t triển vận động cho trẻ qua c c phương ph p dạy học cụ thể. Bên cạnh việc tăng
cường sức khỏe cho trẻ qua chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt (ăn, ngủ, chơi) hơp
lí, tích cực ph ng bệnh ph ng tai nạn, làm tốt công t c vệ sinh môi trường, không
để trẻ mệt mỏi vì hoạt động qu sức hoặc thần kinh căng thẳng thì gi o viên c n tổ
chức rèn luyện cho trẻ một c ch hợp lý qua c c bài tập thể dục và c c tr chơi vận
89
động nhằm tăng cường khả năng thích nghi của trẻ với những thay đổi của môi
trường bên ngoài như n ng, lạnh, ẩm ướt, hanh khô,… Ngoài ra, trẻ mầm non hiện
nay c n được rèn luyện c c kĩ năng, kĩ xảo vận động cơ bản và những phẩm chất
vận động, được gi o dục nếp sống, kĩ năng và th i quen vệ sinh giúp trẻ ăn ngon,
ngủ tốt, hoạt động thể chất tích cực, nhanh nhẹn, tăng cường đề kh ng và thể lực
cho trẻ. Qua việc lựa chọn c c bài tập, tr chơi vận động phong phú, đa dạng, ph
hợp với lứa tuổi và đặc điểm của trẻ mẫu gi o như thể dục buổi s ng, thể dục theo
nhạc, c c tr chơi thể thao, đi dạo, c c hoạt động ngoài trời, trẻ được rèn luyện và
ph t triển toàn diện. C thể thấy, phương ph p ph t huy tính chủ động, s ng tạo và
tích cực của người học trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được vận dụng triệt để,
người gi o viên mầm non đồng thời luôn là người nêu gương, “làm kiểu mẫu” để
trẻ noi theo.
Trong giáo dục thẩm mĩ, vận dụng c c phương ph p gi o dục Hồ Chí Minh
vào trong thực tiễn gi o dục mầm non không chỉ trong gi o dục đạo đức, gi o dục tri
thức, gi o dục thể lực và cả trong gi o dục thẩm mỹ cũng được c c nhà trường mầm
non vận dụng kh hiệu quả. Hầu hết c c cơ sở gi o dục mầm non đều hướng mục tiêu
cho trẻ được ph t triển khả năng cảm nhận c i đẹp, hình thành xúc cảm thẩm mỹ,
ph t triển khả năng s ng tạo, khả năng hoạt động nghệ thuật qua c c hoạt động dạy và
học. Từ c c nội dung gi o dục thẩm mĩ cho trẻ như dạy trẻ quan s t và cảm thụ vẻ
đẹp thiên nhiên, gi o dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, gi o dục vẻ đẹp
trong mối quan hệ với những người thân xung quanh, dạy trẻ hành vi văn h a hay
gi o dục cho trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với đồ vật, bước đầu cho trẻ làm quen với
nghệ thuật như văn học, âm nhạc, hội họa…, gi o viên mầm non sẽ thực hiện c c
phương ph p ph hợp để cho trẻ cảm nhận được c i đẹp ở xung quanh từ đ khơi gợi
cho trẻ nguồn cảm hứng với c i đẹp. Thông qua việc cho trẻ tiếp xúc với c c t c
phẩm nghệ thuật ph hợp với lứa tuổi, giúp trẻ làm quen với c i đẹp, tổ chức cho trẻ
tham gia vào c c hoạt động nghệ thuật như kể chuyện, múa h t, đọc thơ, thi vẽ
tranh… nhằm kích thích khả năng tư duy s ng tạo của trẻ, g p phần quan trọng trong
việc gi o dục trẻ một c ch toàn diện nhất. C thể thấy phương ph p “học đi đôi với
hành” được vận dụng tối đa trong gi o dục thẩm mỹ ở bậc học mầm non.
Sự kết hợp giữa tam gi c nhà trường – gia đình – xã hội đang ngày càng được
90
đẩy mạnh và quan tâm của toàn thể xã hội. Vì lẽ đ , phương ph p “kết hợp c c hình thức
gi o dục nhà trường, gia đình và xã hội” trong tư tưởng Hồ Chí Minh c ý nghĩa thực
tiễn to lớn. Không chỉ nhà trường chú trọng, xã hội quan tâm mà c c gia đình đặc biệt là
cha mẹ học sinh hiện nay rất chú trọng đến chất lượng nội dung và phương ph p giảng
dạy cho con trẻ. C c phương ph p gi o dục này đều rất ph hợp với tiêu chí học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, lấy người học làm trung tâm, từ đ ph t huy tính
chủ động, s ng tạo và tích cực của người học trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sau chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn
2016 – 2020, năm 2018 – 2019, Bộ GD & ĐT tiếp tục chỉ đạo c c địa phương chú
trọng triển khai thực hiện chủ đề: “Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành
mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực và tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp
với điều kiện của địa phương, trường, lớp, khả năng và nhu cầu của trẻ, tăng cường
cho trẻ thực hành, trải nghiệm phát triển toàn diện trong c c cơ sở giáo dục mầm
non”. Những chính sách, chủ trương trên đã không chỉ giúp cho nhận thức của các
cán bộ quản lý giáo viên mầm non, cha mẹ trẻ về quan điểm giáo dục được nâng lên
mà còn góp phần nâng cao hiệu quả trong việc giáo dục và chăm s c trẻ, đặc biệt là
giáo dục trẻ dân tộc thiểu số và trẻ có hoàn cảnh kh khăn.
Đối với giáo dục phổ thông:
Đổi mới phương ph p dạy học trong đổi mới giáo dục phổ thông theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức; tập trung
dạy cách học, c ch nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học cập nhật và
đổi mới tri thức, kĩ năng, ph t triển năng lực chính là mục tiêu hướng tới của tất cả
c c nhà trường n i chung và nhà trường phổ thông n i riêng. Đây đồng thời cũng
chính là những phương ph p gi o dục hiện đại mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra
trong định hướng xây dựng nền giáo dục mới cho dân tộc. Đ là: phương ph p
“ph t huy tính chủ động, sáng tạo và tích cực của người học”, phương pháp “nêu
gương”, “làm kiểu mẫu” để học trò học tập, noi theo”; phương ph p “học phải đi
đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn”; phương ph p “kết hợp các hình thức
giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội”;
Hiện nay, c c cơ sở giáo dục phổ thông đều thực hiện thường xuyên đổi mới
phương ph p dạy và học theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo và tích cực
91
của người học. Việc đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải quyết vấn đề, c c phương
pháp thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học, tích cực ứng dụng công
nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học; khắc phục lối truyền thụ p đặt một
chiều thụ động, ghi nhớ máy móc; tập trung dạy cách học, c ch nghĩ, phương ph p
tự học, bảo đảm cân đối giữa trang bị kiến thức và rèn luyện kỹ năng; định hướng
th i độ, hành vi cho người học, khơi gợi tư duy s ng tạo, chủ động; chú ý việc tổ
chức dạy học phân ho theo năng lực của học sinh dựa theo chuẩn kiến thức chính
là sự vận dụng phương ph p gi o dục Hồ Chí Minh và đã đạt được những thành
công nhất định. Với phương ph p dạy học như trên, người học luôn được đặt vào vị
trí trung tâm, tr nh được lối dạy nhồi sọ, vừa ph t huy được tính chủ động, sáng tạo,
tích cực của người học mà c n đ i hỏi người giáo viên phải không ngừng thay đổi
trong cách dạy, giúp cho học sinh tự học một cách hiệu quả nhất. Việc xây dựng các
chủ đề dạy học tích hợp, liên môn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
c c phương ph p và hình thức tổ chức dạy học tích cực phù hợp với đối tượng và
điều kiện dạy học nhằm phát triển năng lực và phẩm chất của người học... Điều đ
được thể hiện qua Quyết định số 404/QĐ - TTg ngày 27/3/2015 về phê duyệt Đề án
đổi mới chương trình gi o dục phổthông. Theo đ , chương trình gi o dục phổ thông
được xây dựng, biên soạn theo Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 09 th ng 12 năm
2000 của Quốc hội về đổi mới chương trình gi o dục phổ thông được thực hiện ở
Việt Nam từ năm học 2002 – 2003 đến nay.
Trong giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức: Nếu như trước kia, các môn học
nhằm giáo dục đạo đức cho học sinh thường là môn Đạo đức ở tiểu học và môn
Giáo dục công dân ở THCS và THPT thường được giảng dạy theo phương ph p dạy
học thụ động, chủ yếu là phương ph p thầy giảng – trò nghe, thầy hỏi – trò trả lời,
thầy đọc – trò ghi chép và học thuộc, có rất ít gi o viên đầu tư tìm t i c c phương
pháp dạy học mới nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn học nhưng những năm
gần đây, phương ph p dạy học các môn học này ngày càng được đổi mới theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Nhiều gi o viên đã
áp dụng những phương ph p dạy học tích cực với nhiều hình thức đa dạng, phong
phú như trực quan, đàm thoại, thảo luận nh m, động não, sử dụng kiến thức liên
môn, kết hợp đ nh gi của thầy và tự đ nh gi của trò, thông qua việc tổ chức các
92
hoạt động học tập cho học sinh, sử dụng phiếu học tập, sơ đồ tư duy trong dạy học,
áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quá trình dạy học kiến thức của các môn
học như Đạo đức hay Giáo dục công dân. Nhờ vậy, học sinh không những được
tham gia nhiều vào quá trình học tập, tiếp thu bài tốt hơn, tự mình lĩnh hội và chiếm
lĩnh tri thức mà c n khơi dậy cho học sinh sự hứng thú, đam mê với môn học và có
thể vận dụng những kiến thức được học vào trong thực tiễn cuộc sống và học tập
của mình, góp phần nâng cao nhận thức và giáo dục nhân cách cho học sinh một
cách hiệu quả hơn.
Trong giáo dục tri thức: Vận dụng các nguyên tắc và phương ph p gi o dục
Hồ Chí Minh, đặc biệt là nguyên tắc “học đi đôi với hành”, học sinh là trung tâm,
được phát huy tối đa năng lực của mình, người giáo viên trở thành tấm gương, làm
kiểu mẫu để học sinh học tập và noi theo, c c phương ph p gi o dục, hình thức tổ
chức dạy học mới, hiện đại lần lượt được các nhà trường áp dụng và triển khai trong
những năm gần đây mang lại nhiều ưu thế đã và đang được áp dụng và thực hiện
một c c thường xuyên một cách phù hợp ở từng cấp học, môn học và phù hợp với
điều kiện ở c c trường, c c địa phương. Một số phương ph p dạy học mới như
phương ph p dạy học E – Learning (phương ph p dạy học được tích hợp các ứng
dụng và qu trình, như học qua Web – wab, học qua m y tính, qua điện thoại thông
minh, lớp học ảo và sự liên kết số, là một chuỗi c c qu trình đầy đủ về đào tạo, tại
đây khâu bài giảng điện tử được chuẩn bị kĩ lưỡng gồm cả giáo trình, dàn dựng,
thực hiện và triển khai), phương ph p gi o dục giáo dục VNEN (là mô hình dạy học
chú trọng phát triển năng lực học sinh như năng lực tìm t i kh m ph , năng lực xử
lý thông tin, năng lực vận dụng và giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác và làm việc
theo nh m thông qua c c nh m kĩ năng như kĩ năng tự định hướng, kĩ năng về nhận
thức, kĩ năng về học, kĩ năng về xã hội,,,), phương ph p “Bàn tay nặn bột” (phương
pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm tìm tòi, nghiên cứu để học sinh tự tìm ra
câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí
nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu,…, phương ph p p dụng cho việc giảng dạy
các môn khoa học tự nhiên, coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức dưới
sự hướng dẫn của giáo viên), Giáo dục STEM (giáo dục trang bị cho người học
những kiến thức và kĩ năng cần thiết liên quan đến c c lĩnh vực khoa học, công
93
nghệ, kĩ thuật và toán học với các chủ đề lồng ghép theo hướng tích hợp và bổ trợ
cho nhau, là một phương ph p dạy học phát triển năng lực), thực nghiệm… Việc
đưa c c hoạt động tham quan, khám phá, trải nghiệm thế giới tự nhiên, cuộc sống
lao động, sản xuất vào trong chương trình học tập của học sinh c ý nghĩa vô cùng
quan trọng, c ý nghĩa thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. Việc nhà trường tổ chức
chương trình, hoạt động thực tế, tăng cường các hoạt động ngoại khóa giúp cho học
sinh tăng cường kĩ năng thực hành, nâng cao hiệu quả học tập và rèn luyện. Phần
lớn giáo viên, học sinh biết và sử dụng các dịch vụ trên mạng Internet tương đối
thành thạo, các cuộc thi giải Toán và Tiếng Anh qua mạng Internet cho học sinh
tiểu học, THCS, THPT được lan rộng trên khắp các tỉnh thành cả nước, được đẩy
mạnh và mang lại được hiệu quả ngày càng cao.
Trong giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ: Hiện nay hầu hết các nhà
trường phổ thông đều được trang bị những cơ sở vật chất cơ bản, thiết yếu cho việc
thực hiện c c phương ph p dạy học nhằm hướng tới mục tiêu “học đi đôi với hành”,
“lý luận gắn liền với thực tiễn” trong không chỉ nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục
tri thức mà còn cả trong giáo dục thể chất, thẩm mỹ cho học sinh. Nhìn chung, các
phương ph p giáo dục đều phù hợp với nội dung phương ph p giảng dạy trong tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phù hợp với nhu cầu của đối tượng giáo dục, hướng
tới xây dựng mối quan hệ nhân ái, dân chủ giữa thầy và trò.
Đối với giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học:
Xuất ph t từ nhận thức được vị trí, vai tr của việc đổi mới phương ph p gi o
dục đối với việc nâng cao chất lượng dạy và học cho sinh viên. Đặc biệt là nhận thức
được tầm quan trọng của việc vận dụng c c phương ph p dạy học theo tư tưởng Hồ
Chí Minh vào trong thực tiễn giảng dạy, c c trường trung học chuyên nghiệp và đại
học trên cả nước những năm gần đây, một mặt, đã quan tâm, xây dựng, nâng cao
năng lực, chất lượng đội ngũ giảng viên c đủ năng lực, phẩm chất đ p ứng yêu cầu
đổi mới gi o dục;mặt kh c, c n chú trọng đến công t c đổi mới phương ph p gi o
dục ngay từ những khâu ban đầu như chuẩn bị nội dung chương trình, gi o trình, c c
tài liệu bổ trợ, tổ chức đa dạng c c phương thức giảng dạy, tiếp cận thông tin, tổ chức
c c buổi hội thảo, sinh hoạt chuyên môn đến c c phương ph p dạy học hiện đại nhằm
94
đ nh gi khả năng thích ứng của sinh viên, phân tích những thuận lợi và kh khăn khi
p dụng những phương ph p dạy học mới, đồng thời triển khai rộng rãi những
phương ph p dạy học hiệu quả vào thực tế giảng dạy trên lớp; trong đ , bao gồm c c
phương ph p gi o dục đạo đức, phương ph p gi o dục tri thức, phương ph p gi o dục
thể chất và gi o dục thẩm mỹ cũng được giảng viên thực hiện một c ch nhất qu n
theo hướng chuyển từ c ch thức truyền đạt thụ động, một chiều “thầy giảng, tr ghi”
sang phương ph p dạy học tích cực “thầy hướng dẫn, tr tư duy” trong qu trình học
tập. Theo đ , đa số c c giảng viên hiện nay đều hướng đến tăng cường c c hình thức
đàm thoại, thảo luận nh m, đặt và nêu vấn đề, giải quyết và xử lý tình huống nhằm
ph t huy tính độc lập suy nghĩ, tính năng động, s ng tạo của sinh viên, nhất là trong
c c buổi tọa đàm, hội thảo khoa học của trường, của khoa tổ chức. Thêm vào đ , hầu
hết c c trường trung học chuyên nghiệp và đại học hiện nay đều đã trang bị cho
ph ng học c c trang thiết bị hiện đại cho giảng viên c thể sử dụng m y chiếu, bảng
tương t c, sơ đồ tư duy, biểu đồ, ph ng học đa chức năng… để đạt hiệu quả cao nhất
cho tiết dạy học trên lớp. Nhiều trường kết hợp giảng dạy c c chuyên đề về đạo đức
thông qua c c hoạt động ngoại kh a của sinh viên như tham quan c c bảo tàng, di
tích lịch sử, tổ chức c c hội thi như Olympic c c môn khoa học M c – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, c c cuộc thi tìm hiểu, hội diễn văn nghệ, hội thi tuyên truyền
viên trẻ, chiến dịch m a hè xanh, sinh viên tình nguyện tiếp sức m a thi, hoạt động
hiến m u nhân đạo… luôn thu hút mạnh mẽ một lực lượng lớn sinh viên cả nước.
Vận dụng phương ph p “ph t huy tính chủ động, s ng tạo và tích cực của
người học” trong tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm khắc phục những hạn chế của
phương ph p dạy học truyền thống - phương ph p độc thoại, một số trường trung
học chuyên nghiệp và đại học ở nước ta đã và đang p dụng c c phương ph p dạy
học mới mang lại hiệu quả cao, như phương ph p dạy học dựa trên vấn đề, phương
ph p giảng dạy tích cực…
Dạy học dựa trên vấn đề là phương ph p gi o dục hướng sinh viên trở thành
trung tâm của quá trình giáo dục, giúp cho họ tự làm chủ và có trách nhiệm với việc
học của mình, từ đ tự mình quyết định những nội dung cần phải học. Mục tiêu cơ
bản của dạy học giải quyết vấn đề nhằm rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề cho
người học, trong đ cần bao gồm khả năng nhận biết, phát hiện, phân tích vấn đề
95
cho đến khi vấn đề được giải quyết… Theo nh m gi o viên khoa Điều dưỡng –
Trường Đại học Y Dược Huế: Ở Việt Nam, nhiều cơ sở đại học đã được biết đến
phương ph p dạy học này, tuy nhiên bắt tay vào áp dụng trực tiếp và dạy học thì rất
ít. Tại trường Đại học Y Dược Huế, xuất phát từ nhu cầu đào tạo điều dưỡng ngày
càng tăng nhằm đ p ứng nhu cầu thiếu hụt về đội ngũ điều dưỡng có chất lượng và
trình độ chuyên môn cho khu vực miền Trung và cả nước… trường đã tiến hành xây
dựng thí điểm chương trình “Giảng dạy dựa trên vấn đề” đối với môn học Điều
dưỡng và áp dụng và giảng dạy trực tiếp cho đối tượng sinh viên Điều dưỡng năm
thứ 2. Sau quá trình ứng dụng phương ph p này, đã ghi nhận những tín hiệu tích
cực đối với quá trình học tập của sinh viên. Cụ thể, sinh viên được tiếp xúc với
nhiều kiến thức được lồng ghép với nhau; đã tiếp thu vấn đề nhanh hơn, tốt hơn,
chủ động hơn và nhớ lâu hơn. Ngoài ra, c c em đã học tập được từ các bạn xung
quanh, tìm hiểu vấn đề sâu hơn và đặc biệt có thể nhớ bài ngay trên lớp. Dưới góc
độ áp dụng, sinh viên được thảo luận và tìm hiểu vấn đề kĩ càng ở những buổi thảo
luận trước khi thực hành nên phần thực hành dễ dàng hơn và c thể làm thành thạo.
Các tình huống gắn với thực tế kh ch quan, sinh động để có thể ứng dụng khi bản
thân gặp những tình huống tương tự, những tình huống thực tế này ít được chú ý
đến khi chỉ học lý thuyết, giúp hiểu rõ và quen thuộc với các dụng cụ cần thiết. Khi
xử lý ở hiện trường, giảm bớt lúng túng nếu thực sự thực hành.
Quá trình ứng dụng phương ph p giảng dạy dựa trên vấn đề tại Trường Đại
học Y Dược Huế cũng đã tạo cơ hội cho tất cả các thành viên phát biểu, đưa ra ý
kiến cá nhân; rèn luyện sự tự tin và kĩ năng trình bày trước đ m đông; rèn luyện kĩ
năng n i, viết, sắp xếp những nội dung cần trình bày, trình bày vấn đề trước đ m
đông, kĩ năng đưa ra vấn đề, kĩ năng phản biện, sử dụng m y vi tính. C ng đ , được
phát biểu tích cực giúp cho mỗi cá nhân mạnh dạn; tự tin nói lên ý kiến; suy nghĩ
của bản thân; tư duy độc lập cao. Phương ph p giảng dạy dựa trên vấn đề đặc biệt
mang lại hiệu quả khi tăng cường khả năng tự tìm kiếm thông tin phục vụ bài học qua
sách, báo, mạng internet. Th i độ của sinh viên cũng kh tích cực vì đã chủ động học,
chủ động hoàn toàn trong việc tìm kiếm thông tin, thầy cô chỉ đ ng vai tr là người
hướng dẫn và giải đ p thắc mắc những vấn đề mà sinh viên còn mập mờ.
Trong môi trường học tập, phương ph p giảng dạy dựa trên vấn đề còn tạo ra
96
sự thoải m i hơn khi học. Mỗi buổi học không c n căng thẳng, gò bó như trước, rất
vui vẻ và cởi mở với các sinh viên có thể tự do nêu ra quan điểm của mình. Mặt
khác, sinh viên còn dễ dàng h a đồng với bạn bè, tạo nên tính đoàn kết giữa các
thành viên, hiểu hơn và giúp đỡ nhau trong học tập. Có sự tương t c giữa giáo viên
và sinh viên và các bạn trong lớp. Tạo mối quan hệ gần gũi giữa thầy cô hướng dẫn
với sinh viên.
Nhìn chung, nếu như trước kia, học sinh phải tiếp nhận kiến thức một chiều,
thụ động theo kiểu “thầy đọc, tr chép” thì ngày nay, từ sự thay đổi của phương pháp
giáo dục, c c nhà trường đã g p phần chuyển hướng tiếp cận các nội dung giáo dục
từ chỗ thụ động sang chủ động, nâng cao khả năng vận dụng kiến thức đã học vào
trong thực tiễn, ph t huy được tối đa phẩm chất và năng lực của người học. Những sự
điều chỉnh tích cực này được thể hiện rõ nét qua sự biến động sâu sắc về chất lượng
dạy và học tại c c trường qua c c năm.
Cùng với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục, nhằm
giải quyết vấn đề “làm thế nào để mỗi học sinh được tham gia vào hoạt động giáo
dục, qua đ hình thành và ph t triển những năng lực vốn có và trải nghiệm hoạt động
giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh” thì nhiều trường đã thực
hiện giảng dạy kiến thức chung song song với kết hợp các hoạt động mang tính định
hướng phát triển năng lực cá nhân.
Cũng theo yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, việc tổ chức các hoạt
động trải nghiệm cho học sinh đã và đang được c c nhà trường ngày một tăng
cường, đặc biệt là các hoạt động định hướng dạy học và trải nghiệm sáng tạo với
nhiều hoạt động bổ ích như: Hoạt động câu lạc bộ, tổ chức tr chơi, diễn đàn, sân
khấu h a, tham quan, dã ngoại, tổ chức sự kiện, hoạt động giao lưu, hoạt động chiến
dịch, lao động công ích, hoạt động nhân đạo. C c hoạt động trải nghiệm thường
được gắn với chủ đề học tập, từng nội dung bài học, tích hợp được nội dung gi o
dục c c môn giúp học sinh hiểu bài nhanh và sâu hơn. Trong gi o dục đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, c thể thấy, đa phần đội ngũ giảng viên đều c tinh
thần cầu thị, nhạy bén trong việc p dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy.
Việc thay đổi phương ph p dạy học truyền thống sang việc sử dụng phương ph p
hiện đại trong qu trình giảng dạy đã c t c động tích cực đến qu trình học tập của
97
sinh viên, giúp cho bài giảng sinh động hơn, hấp dẫn hơn và thu hút sinh viên hơn.
Ngoài ra, những năm gần đây, cuộc thi nghiên cứu khoa học kỹ thuật là sân
chơi s ng tạo, giúp học sinh nói chung phát triển đam mê, ứng dụng những kiến
thức đã học vào cuộc sống, tạo ra các sản phẩm thiết thực, c ý nghĩa đối với cộng
đồng. Đây chính là một hoạt động bổ ích mà c c nhà trường đã và đang hướng tới
nhằm nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, phát huy sở trường, đưa lý thuyết
vào trong hoạt động thực tiễn đồng thời nằm trong mục tiêu giáo dục toàn diện cho
học sinh, sinh viên nói chung.
* Nguyên nhân của những thành tựu trên
Có thể khẳng định, những ưu điểm bước đầu trong quá trình vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
nước ta trên các khía cạnh nêu trên được chủ yếu bắt nguồn từ những nguyên nhân
cơ bản sau:
Thứ nhất, nhận thức ngày càng tăng lên của các chủ thể giáo dục về những
giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Trong qu trình lãnh đạo nhân dân xây dựng, phát triển kinh tế, văn h a – xã
hội, bằng tư duy năng động, sáng tạo, Đảng và Nhà nước nhận thức được tầm quan
trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, tầm quan trọng của sự nghiệp giáo
dục nên đề ra chiến lược giáo dục đúng đắn, luôn coi giáo dục là quốc sách hàng
đầu, là nhân tố chủ yếu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại h a đất nước. Theo
tinh thần ấy, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo ngành giáo dục, các cấp ủy Đảng, chính
quyền, c c đoàn thể, c c địa phương thực hiện tương đối có hiệu quả chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước. Đồng thời, Đảng đã kịp thời đề ra những chủ
trương, chính s ch ph hợp với thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục. Các chủ trương, chính s ch đ đã qu n triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về
giáo dục vào tình hình thực tiễn nước ta hiện nay, được thể hiện rất rõ trong các nghị
quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước. Từ đ , c c cấp ủy Đảng, chính quyền,
đoàn thể đã nhận thức rõ hơn vai tr của giáo dục đào tạo trong bối cảnh phát triển
đất nước, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giáo dục – đào tạo.
Thứ hai, đa phần giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ Đoàn, c n bộ
98
Hội đã c nhiều cố gắng, nỗ lực, phần lớn trong số họ đều có tâm huyết với nghề,
chuyên môn vững vàng và có phẩm chất đạo đức tốt, có những tấm gương hi sinh
tận tụy vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, xứng đ ng là tấm gương cho học sinh noi
theo. Nhà trường, các tổ chức đoàn thể xã hội đã thể hiện ý thức và trách nhiệm
nhiều phụ huynh quan tâm sâu s t đến việc học tập đã đầu tư nhiều công sức, trí tuệ,
tiền của, phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc giáo dục toàn diện đức- trí –
thể - mỹ cho con em mình. Cho dù trong hoàn cảnh kh khăn vẫn động viên, chăm
lo vun trồng cho sự nghiệp giáo dục thế hệ tương lai của đất nước.
Thứ ba, truyền thống hiếu học từ ngàn xưa, mặc dù còn nhiều kh khăn trở
ngại nhưng nhân dân ta đã và đang ngày một quan tâm, chăm s c, vun trồng và tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho con em mình được đến trường học tập, sẵn sàng đ ng
góp sức người sức của để xây dựng cơ sở vật chất cho sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Nhờ vậy, người học tự nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập, từ
đ c ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, nâng cao trình độ của bản thân để hướng
đến xây dựng tương lai tốt đẹp hơn.
Thứ tư, công cuộc đổi mới đã mang lại những thay đổi căn bản, tích cực trên
mọi phương diện về kinh tế - xã hội của đất nước ta đã tạo ra cơ sở vật chất và tinh thần
quan trọng để ngành giáo dục c điều kiện thực hiện nhiệm vụ quan trọng của mình là
đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa “hồng” vừa “chuyên” như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã hằng mong đợi.
2.2. Những hạn chế trong vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong quá
trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó
2.2.1. Hạn chế trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh khi thực hiện mục tiêu giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
Đối với giáo dục mầm non: Tuy gi o dục mầm non là một phần trong hệ
thống gi o dục quốc dân được Đảng và Nhà nước rất quan tâm nhưng trên thực tế
quy mô ph t triển của gi o dục mầm non vẫn c n chênh lệch giữa c c v ng miền.
Thực tế hiện nay, từ cơ hội đến trường, chất lượng chăm s c gi o dục của trẻ mầm
non đến cơ sở vật chất, chất lượng gi o viên c c cơ sở gi o dục mầm non ở c c
v ng sâu, v ng xa, v ng miền núi, v ng c c dân tộc thiểu số… c n chênh lệch đ ng
99
kể so với c c v ng đồng bằng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng gi o dục.
Tình trạng thiếu cơ sở gi o dục mầm non tại một số c c khu công nghiệp vẫn c n
tồn tại. Học sinh mầm non ở một số v ng miền c hoàn cảnh kh khăn phải học
trong điều kiện thiếu thốn, vẫn c n nhiều nơi c c em phải học trong c c ph ng học
tạm, học nhờ… Ngoài ra, mặc d số lượng dân cư lớn nhưng lại thiếu c c cơ sở
mầm non công lập so với nhu cầu của xã hội.
Đối với giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học:
Bên cạnh những thành tựu đ ng ghi nhận trong công tác xóa mù chữ và phổ
cập giáo dục của nước ta trong những năm qua nhằm đạt được mục tiêu phát triển
về số lượng, nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ em, học sinh, sinh viên cả nước
thì đối với các học sinh dân tộc thiểu số ít người, con em các dân tộc vùng sâu, vùng
xa vẫn còn tình trạng học sinh bỏ học, nhiều học sinh chưa được đến trường, chưa
được quan tâm tạo điều kiện để đi học, đặc biệt là các làng, bản có dân tộc thiểu số
rất ít người cư trú xa trung tâm xã và xa trung tâm huyện, các hộ nghèo, cận nghèo,
học sinh THCS và THPT không được đi học mà phải đi làm để phụ giúp gia đình.
Tỉ lệ người dân tộc thiểu số rất ít người c trình độ đại học, thạc sĩ c n rất thấp, có
dân tộc thiểu số chưa c người học đại học như dân tộc Mảng, Brâu, Rơ Măm
[155].
So với việc thực hiện mục tiêu gi o dục Hồ Chí Minh nhằm ph t triển con
người toàn diện đức – trí – thể - mỹ g p phần ph t huy đầy đủ những năng lực sẵn
c của c c em, vẫn c n nhiều lúng túng từ phía c c chủ thể gi o dục, đặc biệt là
khía cạnh gi o dục đạo đức, gi o dục lối sống cho học sinh, sinh viên.
Những năm qua, gi o dục Việt Nam nhìn chung mới chỉ quan tâm nhiều đến
dạy chữ, mà chưa thực sự quan tâm sâu s t đến khía cạnh dạy người. Thời gian gần
đây, thực trạng gi o dục, chính trị tư tưởng, đạo đức của học sinh, sinh viên đang
rơi vào tình trạng đ ng b o động. Theo số liệu nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và
Ph t triển Gi o dục Việt Nam, tỉ lệ học sinh n i dối cha mẹ tăng dần c ng lứa tuổi,
đặc biệt là trong lứa tuổi vị thành niên. Trong đ , tỉ lệ học sinh Tiểu học n i dối cha
mẹ là 22%, THCS là 50%, THPT là 64% [176]. Tình trạng gi o viên, học sinh c
hành vi ứng xử thiếu văn h a gây bức xúc trong xã hội vẫn c n diễn ra. Bên cạnh
đ , sự gia tăng ch ng mặt của bạo lực học đường trong những năm gần đây cũng
100
minh chứng cho sự xuống cấp nghiêm trọng của c c gi trị đạo đức xã hội n i
chung và trong môi trường sư phạm n i riêng. Theo kết quả khảo s t năm 2014 của
Viện Tâm lý học (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) thực hiện với hơn
1.100 học sinh THPT tại một số trường khu vực phía bắc và miền trung cho thấy:
24,6% số học sinh từng là nạn nhân của bạo lực học đường; 7,2% số học sinh là thủ
phạm của bạo lực, 43,8% vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của bạo lực học đường.
Thống kê gần đây của Bộ GD & ĐT cho thấy trung bình trong một năm học, trên cả
nước xảy ra gần 1.600 vụ học sinh đ nh nhau ở trong hoặc ngoài trường học
(khoảng năm vụ/ngày); hơn 5.200 học sinh có một vụ đ nh nhau; hơn 11.000 học
sinh có một học sinh bị buộc thôi học vì đ nh nhau; chín trường thì có một trường
có học sinh đ nh nhau. Trong giai đoạn 2010-2018, có 7.735 học sinh, sinh viên vì
đ nh nhau bị xử lý kỷ luật; so với 10 năm trước, số vụ bạo hành tại trường học tăng
gấp 13 lần [153]. Cùng với bạo lực học đường, các biểu hiện kh c như lăng mạ, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm, quấy rối, xâm hại tình dục… cũng ngày một gia tăng về
số lượng, nghiêm trọng về mức độ ở tất cả các cấp học khiến cho môi trường học
đường ở một số nơi trở nên mất an toàn, suy giảm niềm tin của gia đình, xã hội với
nhà trường và thầy, cô giáo.
Cũng giống như học sinh phổ thông, sinh viên c c trường trung học chuyên
nghiệp và đại học vốn được coi là cấp học n ng cốt trong hệ thống gi o dục quốc
dân, nhưng vẫn c n nhiều hạn chế, yếu kém kéo dài gây nhiều bức xúc trong xã hội,
chưa được tập trung lãnh đạo và chỉ đạo giải quyết. Cụ thể, trong mục tiêu gi o dục
toàn diện thì dạy làm người, dạy nghề được đ nh gi là yếu kém nhất, trong đ
“gi o dục về lý tưởng sống, phẩm chất đạo đức yếu, học sinh thiếu hiểu biết về
truyền thống văn h a, lịch sử của dân tộc, của Đảng, về quyền lợi và nghĩa vụ công
dân, ngoại ngữ, tin học, khả năng tư duy độc lập, s ng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ
năng giao tiếp yếu dẫn đến tình trạng nhiều sinh viên ra trường không đ p ứng được
yêu cầu công việc của c c cơ quan nơi họ làm việc. Cơ cấu hệ thống gi o dục không
hợp lý giữa c c lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; thành lập qu nhiều trường đại học
trong một thời gian ngắn trong khi đội ngũ c n bộ giảng dạy và quản lý, cơ sở vật
chất chưa được chuẩn bị kỹ; lĩnh vực đào tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức,
101
ph t triển qu chậm trong khi thực tiễn đ i hỏi rất cao. Chương trình, nội dung,
phương ph p dạy và học c n lạc hậu, chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với yêu
cầu sử dụng lao động của xã hội. Quy mô gi o dục, số lượng học sinh, sinh viên
tăng nhanh nhưng chất lượng gi o dục c mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là gi o
dục đạo đức, lối sống. Đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên c nhiều biểu hiện
rất đ ng lo ngại, những hiện tượng tiêu cực trong gi o dục – đào tạo c n nhiều, khắc
phục c n chậm” [36, tr. 36-37]. Đặc biệt, gi o dục đại học Việt Nam hiện nay mang
nặng tính tự gi c, nghề thừa, nghề thiếu, mất cân đối. Hàng năm c hơn 1 triệu học
sinh tốt nghiệp THPT, trong đ c 80% số này tiếp tục thi lên đại học, cao đẳng, c c
trường trung cấp chuyên nghiệp tuy nhiên phần lớn sinh viên lựa chọn những ngành
nghề nhàn hạ để học, chỉ c ít sinh viên chọn những ngành nghề phải sử dụng nhiều
sức lao động, phải xuống xí nghiệp hay ra công trường. Đa phần sinh viên sau khi
tốt nghiệp đều muốn tìm việc làm ở c c đô thị và thành phố lớn do đ tình trạng thất
nghiệp của sinh viên ngày càng gia tăng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm
2013 cả nước c 101.000 sinh viên c bằng đại học ở độ tuổi 21-29 tuổi ra trường
không c việc làm, chiếm 9,89% tổng số thất nghiệp trong độ tuổi từ 21 – 29 tuổi
[154].
Về mục tiêu và chất lượng gi o dục trung học chuyên nghiệp và đại học
những năm gần đây bị giảm sút, chất lượng thiếu sự đồng đều, c n thấp so với yêu
cầu bồi dưỡng nguồn nhân lực trình độ cao để thúc đẩy ph t triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Số trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp trên cả nước
tuy nhiều nhưng quy mô c n nhỏ, tỷ lệ sinh viên so với số dân c n c khoảng c ch
lớn, chất lượng đào tạo c n non yếu, kinh phí đào tạo cho sinh viên c n chưa cao cụ
thể năm 2017, chi bình quân mỗi năm học cho một sinh viên của Việt Nam là 16,2
triệu đồng (gần 700 USD) trong khi con số này ở c c nước ph t triển OECD con số
này năm 2014 đã trên 16.000 USD [177]. Ngoài ra, cơ cấu gi o dục giữa c c lĩnh
vực, ngành nghề đào tạo không hợp lý, công t c tuyển sinh của c c trường đại học
ngày càng kém hiệu quả, chất lượng đầu vào thấp. Năng lực của đội ngũ nhà gi o
và c c c n bộ quản lý vừa thừa, vừa thiếu cục bộ, vừa không đồng bộ về cơ cấu
chuyên môn, cơ cấu gi o viên giữa c c lĩnh vực, c c ngành không cân đối, tỉ lệ nhà
102
gi o c trình độ sau đại học c n chưa cao. Theo đ , chất lượng nguồn nhân lực n i
chung và nguồn nhân lực chất lượng cao n i riêng chưa đ p ứng được yêu cầu ph t
triển của đất nước. Cơ chế, chính s ch về tự chủ đại học đã được thực hiện nhưng
vẫn c n thiếu và chưa đồng bộ.
Công bằng trong giáo dục vẫn là vấn đề mà qu trình đổi mới căn bản, toàn
diện gi o dục Việt Nam hiện nay chưa thực hiện được hoàn toàn theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Trước hết, đ là sự chênh lệch cơ hội đến trường giữa học sinh c c v ng
miền với nhau. Theo kết quả điều tra năm 2014, tỷ lệ số người chưa từng đi học từ
15 tuổi trở lên trên toàn quốc là 5,3%, trong đ nhiều nhất là v ng trung du và miền
núi phía Bắc chiếm 11,1%, v ng Tây Nguyên chiếm 10%, v ng đồng bằng sông
Cửu Long là 7,3%, v ng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung là 4,7%, v ng
Đông Nam bộ là 3% và v ng đồng bằng sông Hồng chỉ c 1,9% [148]. C thể thấy,
tỷ lệ trẻ em, học sinh được đến trường ở v ng đồng bào c c dân tộc thiểu số, v ng
sâu, v ng xa c n chưa cao so với khu vực thành thị. Chưa kể ở c c v ng như miền
núi phía Bắc và Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, một bộ phận trẻ em phải đi lao động
sớm từ khi c n nhỏ dẫn đến tỷ lệ học sinh ở những v ng này bỏ học cấp tiểu học và
THCS c n nhiều.
Sự bất công, chênh lệch trong việc tiếp cận nền gi o dục chất lượng cao cũng
thể hiện sự bất công bằng trong gi o dục nước ta. Hiện nay, hầu hết c c cơ sở gi o
dục chất lượng cao, c c trường quốc tế từ c c trường phổ thông đến c c trường
trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đều tập trung ở c c thành phố, khu đô
thị lớn, ngược lại ở c c v ng nông thôn, c c tỉnh lân cận thì rất ít, kéo theo đ là đội
ngũ gi o viên giỏi cũng thường tập trung giảng dạy ở c c thành phố, c c trường c
địa hình thuận lợi, c điều kiện tốt dẫn đến việc thiếu hụt cả về số lượng và chất
lượng đội ngũ gi o viên cũng như cơ sở đào tạo cho c c v ng kh khăn.
Vấn đề thứ ba đ là sự bất công bằng giữa hệ đào tạo công lập và tư thục ở c c
cấp học. Theo thống kê mới nhất của Bộ GD & ĐT năm học 2018-2019 trên cả nước:
Gi o dục mầm non: Cả nước c 15.476 trường, trong đ c 3.026 trường ngoài công
lập (tư thục) chiếm tỷ lệ 15,5%; Gi o dục tiểu học c 27.723 trường, trong đ c 118
trường tư thục chiếm 0,42%; Gi o dục THCS c 9551 trường, trong đ c 15 trường
103
tư thục, chiếm tỷ lệ 0,15%; Gi o dục THPT c 2386 trường, trong đ c 264 trường
tư thục, chiếm 11%; Gi o dục đại học c số trường là 237 gồm 65 trường tư thục,
chiếm tỷ lệ 27,4%. Số sinh viên là 1.526.111, trong đ tư thục là 264.528 chiếm
17,3% [159]. Theo số liệu trên cho thấy, c c trường tư thục hay c c trường ngoài
công lập chỉ chiếm tỉ lệ ít so với c c trường công lập. Mặc d Nhà nước ta đã mở
rộng hệ thống c c trường tư thục nhưng trên thực tế thì việc học c c trường công lập
học sinh phải đ ng học phí thấp, được học đội ngũ gi o viên chất lượng tốt và được
Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất c n c c trường tư thục thì học phí kh cao, chất lượng
gi o dục ở một số trường không cao dẫn đến kh khăn cho đối tượng học sinh c
hoàn cảnh kh khăn phải học trường tư thục.
Như vậy, thực trạng trên đây chính là bài to n đặt ra cho Đảng và Nhà nước
ta trong việc điều chỉnh chế độ, chính s ch nhằm đảm bảo sự công bằng trong gi o
dục n i chung và đảm bảo mục tiêu công bằng gi o dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh
nói riêng.
2.2.2. Hạn chế trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục trong
quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta nhận định: “gi o dục và đào tạo chưa
thực sự trở thành quốc s ch hàng đầu, thành động lực phát triển. Chất lượng, hiệu
quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa c c trình độ và
giữa c c phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo
thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị
trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kĩ
năng làm việc” [37, tr.113-114]. Theo đ , công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về nội dung giáo dục trong các cấp học, bậc học còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém.
Thứ nhất, về giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
Bên cạnh những mặt tích cực, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
nói chung và trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho người học nói
riêng hiện nay còn nhiều vấn đề tồn đọng, hạn chế. Nhiều cơ sở giáo dục ở các cấp còn
bộc lộ, tồn tại những hạn chế như: nội dung giáo dục đạo đức, chính trị tư tưởng chưa
thiết thực, xa rời thực tế; công tác quản lý ở một số trường học còn bấp cập; người
104
đứng đầu chưa sâu s t, tr ch nhiệm c n chưa cao; công t c phối hợp giữa nhà trường
và gia đình, xã hội trong giáo dục học sinh chưa chặt chẽ.
Trong một vài năm gần đây, số vụ bạo hành trẻ em mầm non khiến cho dư
luận xã hội và người dân vô cùng bức xúc và không khỏi lo ngại. Tuy đã c nhiều
biện pháp xử lý đối với những giáo viên mầm non có hành vi vi phạm đạo đức nghề
nghiệp, bạo hành trẻ em nhưng dường như c c cơ sở mầm non vẫn chưa đủ răn đe
dẫn đến tình trạng này vẫn còn tiếp diễn khiến cho các bậc phụ huynh không khỏi lo
lắng cho con em mình mỗi khi con em họ đến tuổi phải tới trường. Ngoài ra, tình
trạng học sinh, sinh viên sa sút về đạo đức, chính trị tư tưởng cũng đang ngày một gia
tăng. Kéo theo đ nhiều học sinh, sinh viên ngày nay có lối sống thích hưởng thụ, ỷ lại,
lười lao động; còn không ít những học sinh, sinh viên rơi vào tình trạng nghiện game,
nghiện điện thoại di động dẫn đến tình trạng sống; vẫn còn những học sinh, sinh viên bị
lôi kéo vào các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, ma túy… gây nhiều hậu quả
nghiêm trọng. Không những vậy, tình trạng bạo lực học đường vẫn xảy ra và chưa
được chấm dứt triệt để. Cụ thể theo thống kê, hàng năm c đến hàng trăm vụ bạo lực
học đường trên toàn quốc, tập trung chủ đạo ở lứa tuổi THCS và THPT. Bên cạnh đ ,
một số học sinh, sinh viên vẫn chưa nhận thức được rõ vai trò, trách nhiệm của bản
thân trong học tập và cuộc sống. Thời gian gần đây, đã c nhiều vụ bạo lực học đường
gây chấn động dư luận như vụ việc vào ngày 29/3/2019 nữ sinh lớp 9 tại trường THCS
Phù Ủng (Ân Thi, Hưng Yên) bị 5 bạn nữ sinh cùng lớp lột đồ đ nh hội đồng, gây
thương tích nghiêm trọng; vụ việc vào tháng 3/2016, một học sinh lớp 1 tại trường tiểu
học xã Phìn Ngan (B t X t, Lào Cai) đã bị cô giáo chủ nhiệm đ nh tím bầm mặt mũi vì
lí do viết chậm, viết sai chính tả; hay vụ việc xảy ra tại trường Đại học Kinh doanh và
Công nghệ hà Nội vào ngày 19/12/2015, nạn nhân là 1 sinh viên năm thứ 3 khoa Kiến
trúc của trường đã bị nh m 4 sinh viên c ng trường xông vào giảng đường đâm chết
chỉ vì cho rằng nạn nhân đã nhìn đểu mình…. C thể thấy, các vụ bạo lực học đường
với chiều hướng ngày một gia tăng với tính chất phức tạp và nguy hiểm. Đây cũng
chính là biểu hiện sự hạn chế trong hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho
giới trẻ ở nước ta hiện nay.
Đối với việc học tập lý luận của chủ nghĩa M c – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh trong c c cơ sở giáo dục mặc d được diễn ra thường xuyên nhưng vẫn còn tình
105
trạng học với tính chất đối phó, hình thức, đặc biệt là sinh viên. Một số giảng viên tuổi
đời còn trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều khi giảng dạy các bộ môn lý luận chính trị gặp
phải nhiều kh khăn. Do đ , chưa tạo được niềm tin và chưa đủ sức thuyết phục người
học cũng là một sự hạn chế lớn trong công tác giáo dục đạo đức, chính trị tư tưởng cho
học sinh, sinh viên.
Thứ hai, về giáo dục tri thức
Đối với giáo dục mầm non: Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội
dung giáo dục tri thức ở cấp học này còn nhiều hạn chế. Đầu tiên phải kể đến hệ
thống cơ sở vật chất tại c c trường mầm non trên địa bàn cả nước vẫn chưa c sự
đầu tư và ph t triển mạnh mẽ. Ngoài những trường có nguồn vốn đầu tư lớn từ
trong nước và nước ngoài thì hầu hết c c trường mầm non trên cả nước còn nhiều
thiếu thốn trong vấn đề hoàn thiện cơ sở vật chất. Cũng vì lẽ đ , c c chương trình
giáo dục theo mô hình mới vừa học vừa chơi cũng trở nên hạn chế khi áp dụng
trong c c trường học. Một kh khăn và hạn chế lớn trong việc đổi mới chương trình
giáo dục mầm non đ là đa số đội ngũ gi o viên mầm non vẫn chưa được tiếp cận
đầy đủ với mô hình giảng dạy mới. Tại nhiều trường đại học đào tạo chuyên ngành
sư phạm mầm non hầu như không c một chương trình nào đào tạo phương n dạy
mới một cách khoa học và bài bản nhất. Việc áp dụng mô hình giáo dục mầm non
vừa học vừa chơi vừa học trên phạm vi cả nước là rất kh khăn.
Đối với giáo dục phổ thông:
Ngoài những thành tựu nổi bật trong việc thay đổi chương trình, nội dung dạy học ở
cấp học phổ thông theo quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh, chương trình phổ thông
hiện hành vẫn c n nhiều hạn chế, bất cập. Những năm qua, c c nhà trường tiểu học
trên địa bàn cả nước vẫn đang thực hiện c c môn học bắt buộc theo chương trình
gi o dục phổ thông hiện hành và thực hiện c c môn học bắt buộc. Cụ thể: Khối lớp 1,
2, 3 c 10 môn là Tiếng việt, To n, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội, Âm nhạc, Mỹ thuật,
Thủ công, Thể dục, Gi o dục tập thể, Gi o dục ngoài giờ lên lớp. Trong đ , lớp 1 c 23
tiết/ tuần, lớp 2 và lớp 3 là 24 tiết/ tuần. Khối lớp 4, 5 c 11 môn bao gồm c c môn như
khối 1,2,3 và thêm c c môn: Khoa học, Lịch sử - Địa lý, bớt môn Tự nhiên và Xã hội;
lớp 4, 5 c 26 tiết/ tuần chưa kể tiết tự chọn. C c môn học tự chọn gồm Tiếng Anh, Tin
học và Tiếng dân tộc. C thể thấy, chương trình gi o dục tiểu học hiện hành vẫn c n
106
nặng về c c tiết học lý thuyết, ít c tiết thực hành, chủ yếu chú trọng c c môn văn h a
như To n, Tiếng việt, c n c c môn giúp ph t triển phẩm chất, kĩ năng như Đạo đức, Tự
nhiên xã hội, Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục… lại thường bị coi nhẹ và ít được học trong
tuần. Thậm chí c tình trạng đến tiết học c c môn phụ, nhiều thầy cô chủ nhiệm c n xin
tiết để ôn luyện To n và Tiếng việt cho học sinh. Vài năm trở lại đây, môn học kĩ năng
sống đã được giảng dạy trong nhiều trường tiểu học tuy nhiên chỉ chiếm 1 tiết/ tuần. Học
sinh tiểu học thiếu hụt trầm trọng những kĩ năng mềm, đây cũng là một điểm hạn chế lớn
trong chương trình gi o dục tiểu học cần được khắc phục trong tương lai. Trên thực tế,
tình trạng dạy thêm, học thêm, chạy trường, chạy lớp chọn vẫn c n rất phổ biến ở cấp
tiểu học. Học sinh phải học qu nhiều môn một lúc, nhiều bài tập về nhà dẫn đến qu tải
vẫn thường xuyên xảy ra ở c c trường tiểu học. Bên cạnh đ , p lực thành tích thi đua,
giải thưởng vẫn c n rất nặng nề trong c c nhà trường.
Chương trình gi o dục THCS và THPT hiện hành gồm c c môn học bắt buộc
như sau: Khối 6,7 gồm 13 môn To n, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Vật lý, Sinh học,
Công nghệ, Thể dục, Tin học, Ngoại ngữ, Gi o dục công dân, Mỹ thuật, Âm nhạc.
Khối 8, 9 thêm môn H a học. Khối 10,11, 12 cũng bao gồm c c môn học như trên
(bớt môn Âm nhạc) nhưng học sinh được chọn c c khối thi theo tổ hợp thi 3 môn
trong kì thi tốt nghiệp THPT quốc gia bao gồm 2 nh m đ là nh m truyền thống
gồm c c khối A, B, C, D và nh m năng khiếu gồm c c khối H, K, M, R… Mỗi khối
được t c ra làm nhiều khối nhỏ tạo điều kiện cho c c thí sinh c thể lựa chọn đa
ngành, đa nghề hơn. Nhìn vào chương trình gi o dục trung học gồm THCS và
THPT hiện hành của nước ta c thể thấy chương trình vẫn c n mang tính truyền thụ
kiến thức một chiều, nền gi o dục nặng về dạy chữ. Học sinh THCS bị p lực về
mặt điểm số, thành tích và p lực thi cử vào cấp 3 đè nặng. Học sinh THPT do được
chọn khối thi ngay từ lớp 10 dẫn đến tình trạng học lệch, học tủ, chỉ chú trọng học 3
môn thi đại học mà không tập trung c c môn học c n lại. Nội dung chương trình
không nhất qu n, chất lượng c c môn học không đồng đều giữa c c lớp là thực
trạng phổ biến ở c c trường trung học nước ta. Mặc d đặt ra mục tiêu gi o dục toàn
diện đức, trí, thể, mỹ cho học sinh n i chung nhưng trên thực tế hầu hết c c nhà
trường vẫn chỉ đầu tư cho c c môn học chính, c c môn học chủ đạo mà không đầu
tư, ít quan tâm đến c c môn học c n lại như Gi o dục công dân, Thể dục hay Công
107
nghệ, vẫn c n tư tưởng coi đ là môn học phụ. Việc học lệch không chỉ từ người
học mà c n từ phía người dạy và từ phía c c nhà quản lý gi o dục.
Nhìn chung, nội dung gi o dục của Việt Nam ở c c cấp học, ngành học hiện
nay c n nặng về tính lý thuyết, nội dung dàn trải, thiếu tính thực tế. Việc đổi mới c c
chương trình dạy học c n chưa đồng bộ, chưa mang lại hiệu quả cao. Học sinh tiểu
học ngay một lúc phải tiếp cận qu nhiều kiến thức khiến c c em bị cho ng ngợp khi
mới lần đầu chạm ngõ tri thức, học sinh THCS và THPT thì bị nhồi nhét những kiến
thức khoa học nhưng lại thiếu những kiến thức về gi o dục lối sống trong khi giai
đoạn này học sinh cần được gi o dục một c ch toàn diện giúp cho sự hoàn thiện nhân
c ch và hình thành nên những phẩm chất đạo đức cơ bản của một người công dân tốt,
c tr ch nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Thêm vào đ , một số chủ đề trong
chương trình môn học c n mang tính hàn lâm với phần đông học sinh, phần thực
hành và rèn luyện kĩ năng c n ít. Không những vậy, yêu cầu chương trình c n chưa
c sự phân loại giữa c c đối tượng học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh c học lực
yếu kém, học sinh dân tộc thiểu số, c hoàn cảnh kh khăn. Vẫn c n một số môn học
kiến thức bị ôm đồm, dàn trải hoặc tr ng lặp nội dung với nhau. Nội dung c c môn
học c quan hệ mật thiết với nhau nhưng c n chưa thực sự hỗ trợ cho nhau. Việc thực
hiện chương trình gặp kh khăn lớn khi dung lượng kiến thức và thời lượng giảng
dạy không tương thích, mâu thuẫn giữa chương trình gi o dục với điều kiện cơ sở vật
chất của nhà trường, với năng lực của một bộ phận gi o viên. Bên cạnh đ , c n tình
trạng thiếu đồng bộ giữa c c chính s ch trong nhà trường. Chương trình gi o dục
cũng chưa thực sự đảm bảo tính liên thông giữa gi o dục phổ thông với gi o dục
nghề nghiệp. Thực trạng trên đây đi ngược lại với những quan điểm về gi o dục tri
thức mà Hồ Chí Minh đã đưa ra.
Đối với giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học: Ở cấp học này, việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục tri thức thể hiện nhiều hạn chế trong
nội dung, chương trình gi o dục, đặc biệt ở hệ thống gi o trình, s ch gi o khoa, c c
công trình khoa học tham khảo của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên theo từng
ngành mà sinh viên theo học. Trong đ , nội dung kiến thức được truyền đạt nhiều
khi vẫn c n chưa đạt được yêu cầu ph t triển, đặc biệt ở một số nội dung thuộc c c
ngành lý luận chính trị c n mang nặng tính kinh viện, chưa cập nhật được kiến thức
108
thực tiễn, thiếu sức thuyết phục đối với người học. Không chỉ c vậy, hàm lượng
khoa học chuyển tải trong mỗi giờ học, mỗi môn học chưa cao. Nội dung chủ yếu
trong c c môn học cung cấp tri thức, đặc biệt là tri thức c c môn khoa học M c –
Lênin ở một bộ phận vẫn bị đ nh gi là mang tính mờ nhạt, không thu hút. Bên
cạnh đ , nhiều vấn đề được đưa ra c n chưa c sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận
và thực tiễn do đ chưa c sức thuyết phục.; không ít những nội dung được giảng
dạy mang nặng tính kinh viện, trích dẫn, gi o điều, chưa chứng minh được ý nghĩa
lý luận và thực tiễn của chúng. Nhiều môn học chưa cập nhật được c c thông tin và
lý thuyết hiện đại. Thực trạng sinh viên lại không được chú trọng đào tạo nghề,
c ng một lúc phải học nhiều những môn học không liên quan đến chuyên ngành đào
tạo, đôi khi là những môn cơ bản mang tính gi o dục nhân c ch mà đ ng lẽ ra phải
được chú trọng đầu tư ở cấp học dưới. Hơn nữa, gi o dục đại học, cao đẳng c n
chưa gắn chương trình gi o dục với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa
ph t huy được tính s ng tạo, năng lực thực hành, khả năng tự học, tự nghiên cứu
hay chưa nâng cao được kỹ năng sống của học sinh, sinh viên. Do vậy, c không ít
người học sau khi hoàn thành kh a học không đ p ứng được yêu cầu của xã hội và
không đào tạo được thợ lành nghề, người học không tìm được việc làm hoặc làm
không đúng chuyên ngành được đào tạo. Tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” cũng từ
đ mà ngày càng gia tăng.
Thứ ba, về giáo dục thể chất
Đối với giáo dục mầm non: Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục thể chất ở cấp học này còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong vấn đề đảm bảo sức
khỏe cho học sinh mầm non. Thực tế trong thời gian vừa qua, công t c đảm bảo vệ
sinh, an toàn thực phẩm trong c c cơ sở giáo dục mầm non trở nên đ ng b o động
bởi tại một số cơ sở giáo dục trên địa bàn cả nước vẫn để xảy ra tình trạng học sinh
bị ngộ độc thực phẩm, nhiễm kí sinh trùng, các bệnh lây qua đường tiêu hóa làm
ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần của học sinh khiến cho phụ huynh học sinh lo
lắng, gây hoang mang dư luận và gây bức xúc trong xã hội. Với thực tế học sinh
mầm non ăn b n trú 100% tại trường, việc đảm bảo sức khỏe, thể chất cho các em là
trách nhiệm và nghĩa vụ của c c cơ sở giáo dục. Đây chính là hạn chế cũng là th ch
thức lớn đối với hệ thống giáo dục mầm non nói riêng và hệ thống giáo dục của
109
nước ta nói chung bởi chắc chắn ngoài những vụ việc đã bị phơi bày thì vẫn còn
những vụ việc khác bị rơi vào g c khuất khó có thể đưa ra nh s ng được. Cần phải
có những biện ph p răn đe từ phía Trung ương và chính quyền địa phương nhằm
ngăn chặn và khắc phục tình trạng này.
Đối với giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và đại học: Bên cạnh
những thành tựu đã đạt được trong công t c vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
gi o dục thể chất cho học sinh, sinh viên thì vẫn c n tồn tại nhiều hạn chế. Hiện
nay, gi o dục thể chất trong trường học n i chung vẫn c n chưa được quan tâm
đúng mức.
Theo thống kê, cả nước hiện đang c gần 80.000 gi o viên giảng dạy môn học
này, trong đ c khoảng 74% gi o viên chuyên tr ch và 26% gi o gi o viên b n
chuyên tr ch, riêng bậc tiểu học chỉ c 20% số trường c gi o viên chuyên tr ch [178].
Điều này cho thấy tỷ lệ gi o viên chuyên tr ch môn học gi o dục thể chất ở c c trường
phổ thông hiện nay c n rất hạn chế về số lượng.
Về chương trình môn học gi o dục thể chất được đ nh gi chưa cân đối về
mặt cấu trúc, c n nhiều nội dung nặng về lý thuyết và nghèo nàn, chưa thu hút được
đông đảo học sinh tham gia luyện tập thể dục, thể thao. Ngoài ra, c c hoạt động thi
đấu thể thao ngoại kh a cho học sinh, sinh viên đặc biệt trong nhà trường phổ thông
cũng c n đơn điệu, không được diễn ra thường xuyên, hình thức thi đấu c n sơ sài.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của nhiều trường c n thiếu thốn. Cụ thể, theo
thống kê cả nước c tới 80% số trường tiểu học, THCS, THPT thiếu nhà tập thể
dục, thể thao, c tới 99,6% c c trường phổ thông thiếu bể bơi cho học sinh, thống
kê này ở đại học là 36% số trường thiếu nhà tập luyện thể dục thể thao và 87% số
trường không c bể bơi cho sinh viên [179]. C thể thấy, cơ sở vật chất chưa được
đầu tư, không đ p ứng đủ nhu cầu học tập đa dạng của học sinh, sinh viên cho môn
học dẫn đến hiệu quả gi o dục thể chất ở c c nhà trường không cao, chưa tăng
cường được kĩ năng cho cả người dạy, người học n i chung.
Thứ tư, về giáo dục thẩm mỹ
Giáo dục thẩm mỹ là một trong bốn nội dung giáo dục quan trọng mà chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng đề cập nhằm mục tiêu phát triển toàn diện đức, trí, thể,
mỹ cho người học. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đã đạt được thì công tác
vận dụng tư tưởng của Người về giáo dục thẩm mỹ cho người học ở nước ta trong
110
thực tiễn hiện nay vẫn còn nhiều bất cập ở các cấp học, bậc học.
Đối với giáo dục mầm non: Trên thực tế, một số giáo viên còn hạn chế trong
nhận thức về giáo dục thẩm mỹ và chưa thấy được đầy đủ vai trò và trách nhiệm
của mình trong việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Các nội dung và phương ph p giảng
dạy của giáo viên còn rập khuôn, máy móc, thiếu sáng tạo, chưa thu hút được trẻ
hoạt động tích cực. Phía nhà trường mầm non vẫn c n chưa thực sự sâu sát và quan
tâm tới việc bồi dưỡng kĩ năng gi o dục thẩm mỹ cho giáo viên một c ch thường
xuyên. Ngoài ra, nhiều phụ huynh còn có quan niệm chỉ chú trọng cho con trẻ học
chữ, học to n mà lơ là gi o dục thẩm mỹ dẫn đến chất lượng giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ ở cấp học này nhìn chung chưa cao và chưa thực sự hiệu quả.
Đối với giáo dục phổ thông: Nhìn chung, trong hệ thống chương trình phổ
thông ở nước ta hiện nay, không có bộ môn hay bài giảng nào liên quan trực tiếp đến
nội dung giáo dục thẩm mỹ. Vẫn còn nhiều giáo viên có nhận thức sai khi đồng nhất
giáo dục thẩm mỹ với các môn học nghệ thuật như âm nhạc, mỹ thuật… Việc tích
hợp nội dung giáo dục thẩm mỹ qua các môn học khác còn nhiều hạn chế, thực tế
mới chỉ dừng lại nhiều ở việc nghiên cứu lý thuyết, theo đ c c tài liệu giảng dạy cho
môn học cũng chưa đa dạng và c n nghèo nàn, chưa tập trung đi sâu vào vấn đề giáo
dục thẩm mỹ cho học sinh. Không những vậy, về phía học sinh, còn không ít học sinh
gặp kh khăn trong việc tìm sự định hướng về thẩm mỹ. Dưới t c động của kinh tế thị
trường, xu hướng thị hiếu thẩm mỹ của học sinh phổ thông có nhiều thay đổi theo
hướng tiêu cực, nhiều em c xu hướng hòa mình với sở thích của số đông mà không
quan tâm xem nó có phù hợp với bản thân mình không, ví dụ đua đ i c ch ăn mặc,
đầu tóc của nước ngoài, học hỏi c ch ăn n i phản cảm theo trào lưu trên mạng, chạy
theo những cái hình thức bên ngoài mà ít chú ý đến những cái bên trong… gây ảnh
hưởng rất lớn đến đạo đức, nhân cách của học sinh nói chung.
Đối với giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học: Có thể thấy, đội ngũ
giảng viên giảng dạy môn học giáo dục thẩm mỹ còn thiếu về số lượng, đa phần là
dạy các môn khoa học khác kèm theo môn mỹ học chứ không có giảng viên chuyên
dạy môn học này. Bản thân nhiều giảng viên cũng c n chưa nhận thức rõ được tầm
quan trọng của môn học, thiếu sự đầu tư vào môn học dẫn đến thực trạng sinh viên
chỉ coi môn mỹ học là môn phụ, không thực sự cần thiết nên học lơ là. Do vậy, bản
thân người học không thể nâng cao trình độ nhận thức cũng như năng lực thẩm mỹ
111
của bản thân. Về mặt đổi mới nội dung giảng dạy cũng hầu như rất ít vì giáo trình
môn Mỹ học hầu như không được xếp vào danh sách cần phải đổi mới. Nội dung
gi o trình được sử dụng qua nhiều năm, nhiều lí thuyết, ít thực tiễn, chủ yếu là các
nội dung lý luận khô cứng, m y m c. Thêm vào đ , phương ph p giảng dạy môn
học chủ yếu là giảng viên thuyết trình một chiều, ít có sự vận dụng c c phương
pháp tích cực vào trong môn học. Tất cả những yếu tố trên đã làm suy giảm chất
lượng và hiệu quả của môn học và không tạo được hứng thú cho người học. Ngoài
ra, mạng Internet, truyền hình và c c phương tiện thông tin đại chúng với những bất
cập đã c t c động tiêu cực đến giá trị chân, thiện mỹ cho thế hệ trẻ nói chung và
sinh viên n i riêng. Theo đ , một số phần tử xấu đã truyền bá những văn h a phẩm
đồi trụy, những góc nhìn phản động gây ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức và lối sống
của họ trong xã hội dẫn đến những hành vi sai lệch, thậm chí dẫn đến những hậu
quả nghiêm trọng. Thực trạng trên đ i hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu từ phía
nhà trường, c c đoàn thể xã hội cũng như Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên nhằm
khắc phục thực trạng này.
2.2.3. Hạn chế trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc và phương pháp
giáo dục trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
Những năm qua, việc đổi mới phương ph p dạy học được các cấp, các ngành
giáo dục đề cập rất nhiều qua các hội nghị, tập huấn, bồi dưỡng dành cho cán bộ
quản lý, đội ngũ gi o viên và c c nhà trường đã đi vào triển khai thực hiện, bước
đầu thu được những thành tựu đ ng ghi nhận. Tuy nhiên, tính hiệu quả, việc đổi
mới phương ph p dạy học vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế, bấp cập và nhiều khó
khăn, trở ngại, đặc biệt là những hạn chế trong việc vận dụng c c phương ph p gi o
dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể:
Trong vận dụng nguyên tắc “học phải đi đôi với hành” theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong gi o dục c c cấp, trong thực tế ở
c c bậc học, c c lớp, c c môn học, c n một số thầy cô dạy phương ph p dạy học
mới mang tính đối ph và nặng thành tích, chỉ chuẩn bị kĩ khi c người dự giờ, thao
giảng hay thi gi o viên dạy giỏi c c cấp… c n trong c c tiết dạy thường ngày thì lại
trở về với th i quen giảng dạy truyền thống. Điều này ảnh hưởng đến tính đồng bộ
trong đổi mới phương ph p dạy học không cao, t c động của n c n mờ nhạt, chưa
hình thành được ở học sinh nếp học tập, làm việc theo phương ph p mới một c ch
112
thường xuyên, c lề lối.
Thứ hai, vẫn còn hiện tượng giáo viên dạy chay, chỉ dạy những điều trong
giáo trình, mà ít liên hệ kiến thức thực tế; hiện tượng gi o viên ít đọc sách tham
khảo, ít tham gia nghiên cứu khoa học, ít tìm t i đổi mới phương ph p giảng dạy
dẫn tới hiệu quả dạy học còn nhiều hạn chế là những điều bất cập trong c c cơ sở
giáo dục các cấp n i chung. Đây chính là đi ngược với phương ph p gi o dục “nêu
gương, làm kiểu mẫu để học trò học tập, noi theo” mà Hồ Chí Minh đã đặt ra.
Thứ ba, “ph t huy tính chủ động, s ng tạo và tích cực của người học” là một
phương ph p đ i hỏi sự hợp t c của cả người dạy và người học. Tuy nhiên, về phía
người học, nhiều em có thói quen lười làm bài tập, lười tư duy trong qu trình học,
học tập còn thụ động, thiếu tích cực, học bắt buộc, học cho qua là thực trạng không
hiếm thấy. Sự thiếu tích cực trong học tập của học sinh, sinh viên đồng thời cũng
làm giảm sự nhiệt tình của người dạy và hiệu quả của việc áp dụng phương ph p
dạy học mới cũng giảm đi hiệu quả đ ng kể, nhiều khi chỉ mang tính đối phó.
Nhìn chung, sau nhiều năm cải c ch và đổi mới, nền gi o dục nước nhà vẫn
chưa thực sự trở thành “quốc s ch hàng đầu”, chưa trở thành “động lực quan trọng
nhất cho ph t triển” như Đảng ta đã nhấn mạnh tại c c kỳ Đại hội. Thực tế cho thấy,
hiệu quả thực hiện c c chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới gi o dục, đào tạo
được nêu từ Nghị quyết trung ương 2 kh a VII đến nay vẫn c n nhiều hạn chế, bất
cập. Những yếu kém về quy mô và cơ cấu, về chất lượng và hiệu quả, về kỷ cương
trong gi o dục, về thực hiện công bằng xã hội, về đội ngũ gi o viên của gi o dục và
đào tạo nước ta đã nêu ra vẫn chưa được khắc phục cơ bản. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã chỉ rõ mặt hạn chế, yếu kém trong vấn đề ph t
triển nguồn nhân lực của nước ta: “Chất lượng gi o dục, đào tạo, nhất là gi o dục
đại học và đào tạo nghề cải thiện c n chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ
thống gi o dục c n thiếu tính liên thông, chưa chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ.
Công t c phân luồng và hướng nghiệp c n hạn chế. Đổi mới gi o dục, đào tạo c
mặt c n lúng túng. Tình trạng mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào
tạo khắc phục c n chậm, công t c đào tạo chưa gắn chặt chẽ với nhu cầu xã hội. Cơ
chế, chính s ch c mặt chưa ph hợp; xã hội h a c n chậm và gặp nhiều kh khăn,
chưa thu hút được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước cho ph t triển gi o dục, đào tạo.
Cơ sở vật chất vẫn c n thiếu và lạc hậu. Chất lượng dạy và học ở v ng sâu, v ng
113
xa, v ng dân tộc thiểu số c n thấp. Đội ngũ nhà gi o và c n bộ quản lý chưa đ p
ứng yêu cầu” [37, tr. 248-249].
* Nguyên nhân của những hạn chế trên
Những hạn chế trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay là do những nguyên
nhân cơ bản sau:
Thứ nhất: Sự nhận thức việc thể chế h a c c quan điểm, chủ trương của Đảng
và Nhà nước còn khá chậm và lúng túng từ các chủ thể giáo dục, đặc biệt, trong nhận
thức quan điểm “gi o dục là quốc s ch hàng đầu”. Không những vậy, quá trình xây
dựng, thực hiện các chiến lược, c c định hướng, giải pháp nhằm đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục Việt Nam trên cơ sở vận dụng tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh
chưa thực sự đ p ứng được yêu cầu của xã hội và hiệu quả đạt được chưa cao.
Thứ hai: Tư duy gi o dục của c c cơ sở giáo dục còn chậm được đổi mới,
mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng làm hạn chế tính
năng động, sáng tạo. Ngoài ra, tư duy bao cấp còn nặng nề, chủ nghĩa hình thức, hư
danh, chạy theo bằng cấp… chậm được khắc phục, vẫn ảnh hưởng và chi phối đến
cách dạy học và thi cử, làm hạn chế các khả năng huy động các nguồn lực xã hội
đầu tư cho gi o dục nói chung.
Thứ ba: Mục tiêu giáo dục toàn diện ở nước ta chưa được triển khai đầy đủ
và hiệu quả, chưa chú trọng giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống cũng như năng lực
và kĩ năng thực hành, chưa coi trọng tự học và đảm bảo điều kiện cho mọi người
được học tập suốt đời. Ngoài ra, chưa c sự phù hợp giữa cơ chế quản lý giáo dục
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Ngoài ra,
hệ thống các chính sách về giáo dục cũng chưa hoàn chỉnh nên chưa tạo được động
lực mạnh mẽ đối với những người làm công tác giáo dục.
Thứ tư: Trong c c cơ sở giáo dục, sự phân định giữa quản lý Nhà nước và
hoạt động quản trị chưa rõ ràng. Đồng thời, các công tác thanh tra, kiểm tra, giám
s t cũng chưa thực sự được chú trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia
đình, xã hội và bản thân người học chưa chặt chẽ. Qu trình đổi mới diễn ra chưa
đồng bộ và còn chậm so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng
như xu hướng phát triển của thế giới.
Thứ năm, xuất phát từ khoảng cách giàu nghèo giữa c c nh m dân cư, sự
114
phát triển không đồng đều giữa c c địa phương, c c v ng miền dẫn đến sự bất bình
đẳng trong giáo dục cũng như sự khác biệt về chất lượng giáo dục giữa c c địa
phương trên cả nước. Đồng thời, khoảng cách phát triển giữa nước ta với c c nước
trong khu vực và trên thế giới còn rất lớn, đặc biệt là khoảng cách về phát triển kinh
tê – xã hội, khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo. Trong cơ chế hội nhập kinh tế
quốc tế, nguy cơ xâm nhập của các yếu tố văn h a không lành mạnh, gây xói mòn
bản sắc văn h a dân tộc hay các dịch vụ giáo dục kém chất lượng mang lại nhiều rủi
to ngày càng gia tăng.
Thứ sáu, chất lượng đội ngũ nhà gi o và c n bộ quản lý giáo dục có nhiều hạn
chế, bất cập. Tinh thần tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ và tinh thần đổi mới
trong giáo dục của một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý ngành giáo dục và đào tạo
c n chưa cao, nhiều giáo viên còn thụ động, thiếu đầu tư cho ph t triển nghề nghiệp.
Thứ bảy, Việc áp dụng phương ph p dạy học mới còn mang tính hình thức,
nhiều trường chủ yếu thực hiện đổi mới theo công văn hay chỉ thực hiện trong các
đợt thi đua của trường để đạt thành tích. Hơn nữa, nhiều học sinh, sinh viên phần
nhiều ảnh hưởng lớn của c c phương ph p dạy học cũ nên khi c sự đổi mới thì
ngại suy nghĩ, ngại làm việc cá nhân dẫn đến thiếu tích cực, giờ học trở nên nhàm
chán, kém hiệu quả.
Những nguyên nhân cũng đồng thời là thách thức đặt ra trên đây đ i hỏi Đảng,
Nhà nước, trước hết là c c cơ quan quản lý giáo dục, đặc biệt là Bộ GD & ĐT, sau đ
đến nhà trường, gia đình, c c đoàn thể xã hội cần phải mạnh dạn đổi mới tư duy, tìm
hiểu những giải ph p mang tính đột ph trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục vào thực tiễn đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện
nay. Đồng thời, trong qu trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát
triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên
quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Cùng với đổi mới phải bảo đảm
tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải
pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi ph hợp. Do bối
cảnh kinh tế xã hội hiện nay có nhiều thay đổi, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu
lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, đ i hỏi giáo
dục phải đổi mới để góp phần xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đ p ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại h a đất nước và hội nhập quốc tế ngày
115
càng sâu rộng. Do vậy, việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo là một đ i hỏi
cấp thiết nhằm tạo nên những chuyển biến c tính đột phá của giáo dục Việt Nam trong
thời kỳ mới, thực hiện sứ mạng nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng nền văn h a, con
người Việt nam.
Để ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo Việt Nam nói chung,
việc đề ra một hệ thống các giải pháp khắc phục những hạn chế trong giáo dục nước
ta, đặc biệt là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào qu trình đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục nước ta là một yêu cầu cấp bách cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
2.3.1. Nhận thức của các chủ thể về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục còn có
hạn chế.
Một trong những yếu tố cốt lõi để vận dụng được tư tưởng giáo dục Hồ Chí
Minh vào sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam thành công đ là
cần phải có sự nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, nếu không nhận thức đúng tư tưởng giáo dục Hồ Chí
Minh thì sẽ không thể thực hiện đúng và hiệu quả tư tưởng đ vào trong sự nghiệp
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam. Hơn nữa, ngày nay giáo dục đã
không c n đi theo nghĩa hẹp thuộc phạm vi thuộc ngành giáo dục, đào tạo mà còn
được xét theo nghĩa rộng gắn liền với văn h a gi o dục vốn là bản chất con người
xã hội. Chính vì lẽ đ , đời sống tinh thần xã hội, trình độ nhận thức của con người
trong xã hội có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và giáo
dục nói riêng.
Trước những biến động của kinh tế hội nhập đa dạng hóa quốc tế, trình độ
nhận thức của các chủ thể xã hội về tầm quan trọng của tư tưởng giáo dục Hồ Chí
Minh còn bộc lộ những hạn chế. Đ là hạn chế trong việc “trồng người”, lúng túng
trong việc đề ra những chính sách giáo dục thích hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa trong ph t triển kinh tế - xã hội và văn h a n i chung. Tư duy gi o dục trong
quần chúng nhân dân còn chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của đất
nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế dẫn đến việc vận dụng tư tưởng giáo dục Hồ
Chí Minh còn kém hiệu quả và chưa đi vào thực tế trong nhân dân. Đường lối của Đảng nói chung và các chính sách giáo dục của Nhà nước nói
116
riêng đều đã được xây dựng dựa trên nền tảng của chủ nghĩa M c – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh đều mang tính chiến lược phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Tuy vậy, việc thể chế h a c c quan điểm,
chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo còn chậm và
lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chương trình
phát triển giáo dục – đào tạo của Đảng và Nhà nước vẫn chưa đ p ứng được yêu cầu
của xã hội.
Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục đ p ứng đ i hỏi của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại h a đất nước, phát triển kinh tế theo chiều sâu trí thức với công
nghệ tiên tiến và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu
tư cho gi o dục của Đảng, Nhà nước ta còn nhiều hạn chế. Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong việc đầu tư ph t triển giáo dục và đào tạo song việc huy động các nguồn
lực trong nhân dân để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cũng như tạo sự đồng
thuận trong phát triển giáo dục còn hạn chế. Các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng
khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý c n chưa
hiệu quả. Vẫn còn thiếu thầm trọng các viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ với c c trường đại học công lập,
các công trình nghiên cứu khoa học về giáo dục còn kém chất lượng. Những điều
này sẽ tạo nên sức ép đối với phát triển giáo dục.
Sự phối hợp giữa c c cơ quan Nhà nước với các tổ chức xã hội và gia đình chưa
thật sự chặt chẽ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát vẫn chưa
được coi trọng đúng mức. Do vậy, nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền và c c cơ quan
chức năng chưa nhận thức sâu sắc và thực hiện đầy đủ quan điểm “ph t triển giáo dục
là quốc s ch hàng đầu” và “đầu tư cho gi o dục – đào tạo là đầu tư ph t triển”.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một qu trình kh khăn, phức tạp,
gian khổ và luôn tiềm ẩn những sai lầm thất bại đ i hỏi cần phải nắm vững quan
điểm, đường lối, mục tiêu giáo dục và cả những nội dung giáo dục cốt lõi. Để có thể
đổi mới giáo dục theo nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những thách
thức với người dân và để nhận thức một cách rõ ràng, thấu đ o tư tưởng giáo dục
của Người cũng không thể thực hiện trong một sớm một chiều.
2.3.2. Việc đánh giá, tổng kết công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn chưa được
tiến hành thường xuyên và đồng bộ. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, việc đ nh
117
giá, tổng kết công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việcthực hiện mục tiêu,
nội dung, phương ph p gi o dục là vô cùng quan trọng. Những năm gần đây, Bộ Giáo
dục và Đào tạo nước ta liên tục có sự đổi mới trong giáo dục các cấp, các ngành học
tuy nhiên chúng ta mới chỉ quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng.
Về việc thực hiện mục tiêu giáo dục: Theo như thực trạng đã tìm hiểu, việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế. Thực tế, giáo dục Việt Nam hiện
nay mới chỉ quan tâm nhiều đến dạy chữ trong khi đ việc dạy “người” và dạy
“nghề” c n ít được chú trọng. Một trong những nguyên nhân chính là do công tác
đ nh gi , tổng kết việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu giáo dục trong
qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước ta hiện nay vẫn c n chưa được
tiến hành thường xuyên và đồng bộ. Từ đ , những hạn chế, tồn đọng khi thực hiện
mục tiêu giáo dục vẫn còn lặp đi lặp lại, chưa được giải quyết đồng bộ và hiệu quả.
Trong thực tế, nội dung, chương trình, phương ph p gi o dục của chúng ta hiện
nay còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại h a, chưa gắn chặt với đời sống xã hội
và lao động nghề nghiệp; chưa ph t huy cao được tính sáng tạo, năng lực thực hành,
khả năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng sống của người học. Trong giáo dục đại học
còn tồn tại thực trạng các môn học quá nhiều, có nhiều môn không phù hợp với thực tế.
Trong chương trình, nội dung và phương ph p giảng dạy còn nặng về lý thuyết
suông, yếu kém về giáo dục văn h a, tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, lịch sử
dân tộc. Thực tế là vậy nhưng công t c đ nh gi , tổng kết qu trình “dạy người” vẫn
còn là những con số ảo, mang bệnh thành tích và chưa s t với tình hình thực tiễn.
Theo đ , c c cấp ủy Đảng, chính quyền, toàn thể địa phương cũng như c c chủ thể
giáo dục kh c như gia đình, nhà trường chưa phối hợp chặt chẽ trong việc theo sát
và thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra. Do vậy, cần phải có các giải pháp nhằm
nâng cao hơn nữa việc đ nh gi , tổng kết công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục nói chung và về việc thực hiện mục tiêu giáo dục nói riêng trong quá
trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
Về việc thực hiện nội dung giáo dục
Trước thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục trong
qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay qua từng cấp học,
ngành học với nhiều hạn chế, tồn đọng chúng ta có thể thấy công tác tổng kết, đ nh
giá việc thực hiện đổi mới nội dung giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh toàn diện,
từ giáo dục đạo đức đến giáo dục chuyên môn, giáo dục thể chất, thẩm mỹ là yếu tố
118
vô cùng quan trọng.
Trong công t c gi o dục chính trị, đạo đức, việc đ nh gi , tổng kết những kết
quả đạt được đặc biệt là qua c c tiêu chí về đảm bảo an ninh, an toàn, ph ng, chống
bạo lực học đường chưa được diễn ra thường xuyên, liên tục; sự phối kết hợp giữa
tam gi c gia đình – nhà trường – xã hội vẫn chưa thật sự hiệu quả; việc đ nh gi
tình trạng vi phạm đạo đức trong học sinh, sinh viên qua từng năm chưa được thực
hiện triệt để. Trong đ , việc tổng kết, đ nh gi cũngchưa thông qua c c kết quả của
việc thực hiện c c Đề n của Thủ tướng Chính phủ ban hành và phối hợp với c c
Bộ, ngành, địa phương về gi o dục lý tưởng c ch mạng, đạo đức, lối sống cho
thanh, thiếu niên và nhi đồng, hay c c Đề n về việc xây dựng văn h a ứng xử trong
trường học; kết quả của việc đẩy mạnh công t c tuyên truyền nâng cao nhận thức,
tr ch nhiệm của c n bộ, gi o viên, học sinh, gia đình học sinh và cộng đồng về gi o
dục đạo đức, lối sống cũng như kết quả của công t c ph ng, chống bạo lực học
đường và c c hành vi bạo lực học đường thời gian vừa qua chưa được cập nhật
chính x c và thường xuyên.
Thời gian qua, việc thực hiện c c hoạt động dạy học c c môn học trong
chương trình gi o dục phổ thông hiện hành, chương trình gi o dục phổ thông mới,
đặc biệt thông qua c c chương trình lồng ghép, tích hợp c c chương trình môn học
và hoạt động gi o dục n i chung và gi o dục tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí
Minh nói riêng tuy đã c sự tổng kết nhưng chưa đ nh gi được cụ thể việc thực
hiện của từng cơ sở gi o dục, mới chỉ là những đ nh gi chung chung. Việc liên tục
thay đổi chương trình s ch gi o khoa, thay đổi nội dung giảng dạy c c cấp thể hiện
sự lúng túng, chưa nhất qu n, nhiều nội dung chương trình đặc biệt là chương trình
s ch gi o khoa lớp 1 vấp phải nhiều ý kiến tr i chiều từ trong dư luận đ i hỏi Bộ
GD&ĐT cũng như ban biên soạn s ch gi o khoa cần c sự tổng kết, đ nh gi kĩ
càng về mặt nội dung gi o dụcnhằm đảm bảo nội dung gi o dục toàn diện đức, trí,
thể, mỹ như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ.
Về việc thực hiện phương pháp giáo dục
Công t c tổng kết, đ nh gi việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương
ph p gi o dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam hiện
nay c n nhiều hạn chế. Cụ thể, c c thành tựu đã đạt được trong việc vận dụng c c
119
phương ph p dạy học tiên tiến, hiện đại ở c c cơ sở gi o dục mới chỉ phản nh được
ở một số những tiết học dạy dự giờ, thao giảng hay c c cuộc thi gi o viên dạy giỏi
các cấp… c n trong c c tiết dạy thường ngày thì việc vận dụng c c phương ph p
dạy học mới này vẫn c n rất hạn chế. Công tác tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng
cho giáo viên tuy nhiều nhưng hiệu quả chưa cao. C n tồn tại tình trạng đi tập huấn
như đi “chơi” ở nhiều cấp, nhiều bậc học. Do vậy, việc đ nh gi , tổng kết c n phiến
diện và chưa phản nh được chính x c chất lượng của việc vận dụng c c phương
ph p dạy học mới trong thực tiễn. Trong tổng kết, đ nh gi vẫn c n mang tính chất
b o c o chung chung, lấy thành tích ở nhiều cơ sở gi o dục. Xuất ph t từ thực tiễn
như vậy đ i hỏi cần c c c giải ph p nhằm khắc phục tình trạng trên nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy và tạo tiền đề cho mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài và
mục tiêu đổi mới của giáo dục Việt Nam.
2.3.3. Công tác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay còn hạn chế
Mặc dù việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh đã trở thành việc làm thường xuyên, liên tục trong qu trình đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay nhưng trên thực tế việc thực hiện vấn đề này
còn rất nhiều hạn chế. Nhiều cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức đứng đầu các
cơ sở giáo dục vẫn chưa thực sự nêu cao trách nhiệm, chưa trở thành tấm gương
trong công tác và sinh hoạt, từ đ dẫn đến mất niềm tin của nhân dân nói chung và
của c c đối tượng giáo dục nói riêng.
Trong quá trình vận dụng, việc cụ thể hóa các mục tiêu giáo dục, nội dung
giáo dục, phương pháp giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều cơ sở giáo dục
còn mang tính chất chống đối, làm qua loa, theo đ công t c tuyên truyền về vấn đề
này cũng chưa thực sự sinh động, thu hút, chưa tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong
gia đình, nhà trường và xã hội.
Công tác kiểm tra, giám sát việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục còn nặng về mặt hình thức, báo cáo số liệu, chưa thường xuyên, liên
tục. Khẩu hiệu, thi cử thì nhiều nhưng việc kiểm tra người học nhận thức đến đâu,
nhận thức được gì, thể hiện như thế nào, c c tiêu chí để đ nh gi thì c n thiếu.
120
Như vậy, để công tác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
thực sự hiệu quả cần phải có những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, làm
sao cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người phải đi
vào thực chất, mang lại hiệu quả vận dụng cao trong c c lĩnh vực của đời sống xã
hội nói chung và giáo dục nói riêng.
2.3.4. Sự phối kết hợp vai trò của gia đình – nhà trường – xã hội chưa đạt hiệu
quả cao trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Gia đình, nhà trường và xã hội chính là ba môi trường phát triển cơ bản và
toàn diện của học sinh. Tuy rằng mỗi môi trường đều có vị trí, vai trò và chức năng
kh c nhau nhưng đều cùng một mục tiêu chung đ là g p phần giúp cho thế hệ trẻ
phát triển toàn diện cả đức, trí, thể, mĩ. Muốn đạt được mục tiêu đ thì cả gia đình,
nhà trường và xã hội đều cần có sự thống nhất, gắn kết và chia sẻ tạo nên sự phát
triển tốt nhất cho mọi cá nhân nói chung và thế hệ trẻ nói riêng. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường
và xã hội còn bộc lộ rất nhiều những hạn chế, yếu kém. Có những gia đình c n chưa
nhận thức được hết vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng giáo
dục Hồ Chí Minh vào trong giáo dục con em mình. Nhiều gia đình c n lý do hoàn
cảnh, công việc bận rộn nên không có thời gian quan tâm s t sao đến tâm lý, tình
cảm và những nhu cầu của con cái trong cả cuộc sống lẫn học tập. Mặt khác, có một
bộ phận c c gia đình cho rằng việc học tập và rèn luyện cho con em họ là trách
nhiệm của nhà trường và các thầy cô gi o… Những quan điểm và suy nghĩ như vậy
khiến cho cha mẹ và con cái xa cách, thiếu đi sự gắn kết, chia sẻ đồng thời kéo theo
những hệ lụy mà bản thân c c gia đình và trẻ em là người phải gánh chịu: nhiều trẻ
bị mắc bệnh tự kỉ, trầm cảm, bỏ nhà ra đi, là nạn nhân của xâm hại tình dục, bị lôi
kéo vào các tệ nạn xã hội…
Bên cạnh đ , sự lơi lỏng, thiếu trách nhiệm của các tổ chức, trường học cũng
khiến cho việc giáo dục n i chung và đổi mới giáo dục nói riêng gặp nhiều trở ngại.
Bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh suy dinh dưỡng, bệnh gian dối là bốn “trọng
bệnh” của nền giáo dục Việt Nam đều xuất phát từ phía trường học. Bệnh thành tích
đặc biệt rất nặng nền ở khối phổ thông, tình trạng hiếu danh hơn hiếu học, học giả
bằng thật rất nhiều. Bệnh cào bằng thấy rõ qua tình trạng mở trường theo phong
trào, đào tạo tràn lan mà chất lượng thấp. Bệnh gian dối thể hiện trong những con số
121
tốt nghiệp cao ch t v t, điểm thi không phản nh đúng lực học của học sinh, nhiều
phong trào hữu danh vô thực, c i gì cũng c nhưng không c chất lượng thực sự.
Bệnh suy dinh dưỡng từ đ được sinh ra. Trường nào cũng tìm mọi c ch để tăng
thêm ngành, hệ đào tạo, tăng số lượng sinh viên và học sinh để gia tăng học phí.
“Từ bốn bệnh này sinh ra đủ mọi hậu quả tệ hại: Chất lượng giáo dục xuống cấp,
đạo đức học đường xuống cấp, nguồn nhân lực do hệ thống giáo dục cung cấp cho
xã hội thiếu tính sáng tạo, khả năng nghiên cứu hạn chế nên khoa học công nghệ trì
trệ, năng lực thực hành thấp” [152].
122
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục trong qu trình đổi mới căn
bản, toàn diện gi o dục Việt Nam đã và đang được thực hiện hết sức sâu rộng và
mạnh mẽ trên tất cả c c yếu tố, c c mặt cấu thành của gi o dục nhằm đ p ứng được
yêu cầu đặt ra của thực tiễn đất nước và hội nhập quốc tế. C thể n i, trong những
năm qua, tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục tiêu, nội dung, phương ph p gi o dục
luôn soi s ng sự nghiệp trồng người, từ đ gi trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh
về gi o dục ngày càng được khẳng định.
Có thể thấy rằng, nhờ vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trong
những năm qua, gi o dục Việt Nam c đạt được những thành tựu quan trọng trong
thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam ở tất cả các cấp học, bậc
học trong hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông đến
giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đã đạt được, quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn đọng những hạn chế nhất đinh.
Điều đ là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng và hiệu quả giáo dục
nước ta còn ở mức thấp, chưa tương xứng với sự đ i hỏi ngày càng cao của sự phát
triển đất nước trong thời đại mới.
Xuất ph t từ những thành tựu và hạn chế trong qu trình vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về gi o dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt
Nam thời gian qua, cần phải c c c giải ph p nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục trong đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt
Nam hiện nay.
123
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢVẬN DỤNG
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤCTRONG QUÁ TRÌNHĐỔI
MỚICĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Ở nước ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục và đường lối, chủ trương,
chính s ch của Đảng, Nhà nước không t ch rời nhau, mà c mối quan hệ biện
chứng, gắn b mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau. Điều này được khẳng định
trong Luật Gi o dục của nước ta, cụ thể điều 3 Luật Gi o dục 2019 quy định: “Nền
gi o dục Việt Nam là nền gi o dục xã hội chủ nghĩa c tính nhân dân, dân tộc, khoa
học, hiện đại, lấy chủ nghĩa M c – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng”
[180]. Để hướng tới ph t triển nền gi o dục mới, bên cạnh việc ph t huy c c gi trị
gi o dục truyền thống, tiếp thu tinh hoa gi o dục thế giới thì chúng tcần phải đặc
biệt được soi s ng bởi tinh hoa tư tưởng Hồ Chí Minhvề gi o dục. Trong tinh hoa tư
tưởng đ , Hồ Chí Minh đã đưa ra những mục tiêu, nội dung và những phương thức
cụ thể, từ đ gi o dục Việt Nam được xây dựng trên nền tảng mới với những biến
đổi về chất, đ p ứng được yêu cầu, đ i hỏi của nền gi o dục mới trong thời kì hội
nhập. C thể n i, tư tưởng Hồ Chí Minh n i chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o
dục n i riêng là tư tưởng đổi mới, ph t triển và đầy s ng tạo trong việc định hướng
cho sự ph t triển nền gi o dục của Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay, mặc d qu trình hấp thụ, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh đã c những bước ph t triển cả về nội dung và hình
thức, song bên cạnh những kết quả đạt được vẫn c n những hạn chế do rất nhiều
nguyên do, một trong số đ là do sự hạn chế trong nhận thức của nhiều người dân về
vị trí, vai tr và tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục.
Chính bởi lẽ đ , công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam muốn thực
hiện thành công thì cần thiết phải c sự nâng cao về mặt nhận thức của c c chủ thể xã
hội bao gồm Đảng và Nhà nước, nhà trường, gia đình và bản thân người học về tư
tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục cả về lý luận và thực tiễn. Hay n i c ch kh c, chỉ khi
nào nhận thức đúng được tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh thì chúng ta mới thực hiện
đúng và c hiệu quả sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện gi o dục. Do vậy:
124
Một là, quan điểm về đổi mới gi o dục n i chung, cũng như đổi mới căn bản,
toàn diện gi o dục Việt Nam n i riêng cần được xem xét, qu n triệt thường xuyên
trong Đảng và Nhà nước; đồng thời, phải gắn với nhiệm vụ xây dựng chỉnh đốn
Đảng, xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và c c đoàn thể nhân dân, bởi c
như vậy mới tạo nên sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, tạo nền tảng cho sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữa ý chí và hành động trong toàn
Đảng, toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Đảng và Chính
phủ phải giúp bằng c ch gi o dục, để trí thức c lập trường vững vàng, quan điểm
đúng đắn, tư tưởng s ng suốt, t c phong dân chủ. N i t m lại: giúp đỡ c c bạn trí
thức chính tâm và thân dân” [98, tr. 378]. Theo Người, c c cấp lãnh đạo cần phải đi
s t hơn nữa, thiết thực hơn nữa thì công t c đổi mới gi o dục của nước nhà mới c
thể sâu rộng hơn, hiệu quả hơn ph t triển hơn. Để làm được điều đ , cần thiết phải:
Nâng cao nhận thức của c c cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể về vai tr
của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục, đặc biệt trong qu trình đổi
mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam hiện nay, thì ở đây, c c cấp ủy Đảng và
chính quyền tại c c địa phương cần phải tiếp tục thể chế h a tư tưởng Hồ Chí Minh
về gi o dục, c c chủ trương của Đảng, chính s ch, ph p luật của Nhà nước về gi o
dục theo tư tưởng của Người cũng cần được cụ thể h a thành c c chương trình, kế
hoạch, cơ chế, chính s ch để thực hiện. Hơn nữa, nền gi o dục nước ta là nền gi o
dục xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng của dân, do dân và vì dân. Chính
vì vậy, trong qu trình thực hiện thực hiện công t c gi o dục, cần tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, ngoài ra cần giữ vững được mục tiêu
gi o dục theo tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh. Muốn vậy, việc cần thiết đ là qu n
triệt c c quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như c c giải ph p đổi mới căn bản,
toàn diện nền gi o dục và đào tạo không chỉ ngành gi o dục mà c n trong hệ thống
chính trị và toàn xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới tư duy về gi o dục theo hướng ph t
triển một nền gi o dục dân tộc, khoa học và đại chúng theo tư tưởng gi o dục Hồ
Chí Minh ph hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nền gi o dục của Việt Nam
trong tương lai đang hướng đến là nền gi o dục ph t triển, đ p ứng được yêu cầu,
đ i hỏi của qu trình công nghiệp h a, hiện đại h a gắn liền với ph t triển kinh tế tri
125
thức, nền gi o dục được mở rộng quốc tế h a, toàn cầu h a tạo tiền đề cho sự ph t
triển con người Việt Nam toàn diện. Gi o dục Việt Nam cần c sự đổi mới mạnh
mẽ hơn trên tất cả c c phương diện. Cụ thể, về mặt nội dung, cần tr nh tình trạng
chỉ chú trọng dạy chữ, mà coi nhẹ dạy người mà chú trọng hơn đến nội dung gi o
dục toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”. Theo đ , mục tiêu đặt ra của c c cấp học,
ngành học chính là trang bị cho người học hệ thống tri thức, kĩ năng, th i độ, đồng
thời người học phải c tư duy và hành động ph hợp, đ p ứng được yêu cầu ph t
triển của xã hội mới, con người mới… Việc x c định đúng mục tiêu, nội dung,
phương ph p gi o dục cần phải theo s t mục tiêu gi o dục nhằm đảm bảo cho gi o
dục Việt Nam đi đúng hướng.
C c cấp ủy Đảng, chính quyền, địa phương cần thường xuyên kiểm tra việc
thực hiện c c chủ trương về gi o dục, xây dựng nề nếp, kỉ cương trong c c trường
học thuộc c c cấp học, ph t hiện và giải quyết dứt điểm c c biểu hiện tiêu cực trong
gi o dục. Theo từng giai đoạn nhất định, các cơ sở gi o dục phải b o c o kết quả
triển khai công t c gi o dục trước cấp ủy Đảng để qua đ chỉ đạo ph t triển, nâng
cao chất lượng gi o dục của đơn vị và địa phương mình. Trong Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ XII, Đảng ta đã x c định đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục chính là
kế s ch và quốc s ch hàng đầu giúp ph t triển nguồn nhân lực quốc gia trong tương
lai. Đây vừa là yêu cầu và đồng thời cũng chính là giải ph p giúp cho gi o dục Việt
Nam vượt qua kh khăn, th ch thức và vươn lên ph t triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dễ mười lần không dân cũng
chịu, Kh trăm lần dân liệu cũng xong” [104, tr. 280] để n i về vai tr của quần
chúng nhân dân. Trong gi o dục cũng vậy, để làm tốt công việc “vì lợi ích trăm
năm” của dân tộc thì c c cấp ủy Đảng, chính quyền và địa phương cần tích cực tăng
cường phối hợp trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của quần chúng nhân
dân về vị trí, vai tr cũng như tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về gi o dục trong qu trình đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục nước ta.
Ngoài ra, cần thường xuyên đẩy mạnh đến vấn đề thông tin về c c chủ trương,
chính sách xã hội h a gi o dục của Đảng và Nhà nước trong nhân dân cũng như sử
dụng c c nguồn lực xã hội để tạo được niềm tin, sự đồng thuận của toàn xã hội
trong công cuộc đổi mới và ph t triển gi o dục.
126
Nhà nước và c c cơ quan ban ngành, nhất là Bộ GD & ĐT cần tiếp tục chú
trọng đổi mới gi o dục theo hướng coi trọng ph t triển phẩm chất và năng lực của
người học. Bên cạnh việc x c định rõ mục tiêu đổi mới gi o dục, Bộ GD & ĐT cần
x c định rõ mục tiêu và chuẩn đầu ra của từng từng môn học cũng như chương
trình, các chuyên ngành đào tạo ở c c cấp học, bậc học. Đặc biệt, đổi mới nội dung
gi o dục cần hướng đến việc xây dựng nội dung tinh giản, hiện đại, tăng cường nội
dung thực hành, giảm lý thuyết, khuyến khích kĩ năng vận dụng vào thực tiễn, ph
hợp với c c lứa tuổi, trình độ, ngành nghề. Ngoài ra, c c nội dung gi o dục cần đi
sâu hơn trong việc gi o dục đạo đức, lối sống cho học sinh, tăng cường gi o dục thể
chất, gi o dục quốc ph ng, an ninh và cả công t c hướng nghiệp. Công t c dạy
ngoại ngữ, tin học, dạy tiếng n i và chữ viết của c c dân tộc thiểu số, dạy tiếng Việt
và tryền b văn h a dân tộc Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài cũng cần được
tiến hành đồng bộ, theo hướng chuẩn h a.
Nhằm khắc phục những hạn chế trong nội dung, chương trình dạy học, Bộ
GD & ĐT cần đặc biệt chú trọng tới công t c biên soạn s ch gi o khoa, gi o trình,
tài liệu dạy học của từng bậc học, ngành học theo hướng đa dạng h a, cập nhật
được những tri thức mới nhằm đ p ứng được yêu cầu đặt ra của đổi mới gi o dục.
C ng với đ , việc đổi mới c c hình thức và phương ph p thi, kiểm tra, đ nh gi kết
quả theo hướng kh ch quan, trung thực cũng rất cần thiết. Theo đ , phương thức thi
và công nhận kết quả tốt nghiệp THPT cần được đổi mới sao cho giảm p lực và tốn
kém cho xã hội song vẫn đ nh gi được đúng năng lực của học sinh, tạo tiền đề cho
việc tuyển sinh gi o dục nghề nghiệp và gi o dục đại học.
Đặc biệt, Đảng và Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống gi o dục
quốc dân theo mô hình gi o dục mở, hướng đến xây dựng xã hội học tập. Muốn
vậy, trước hết cần ổn định hệ thống gi o dục phổ thông kết hợp với việc phân luồng
sau THCS, tập trung cho việc hướng nghiệp ở cấp THPT. Đối với gi o dục phổ
thông, cần tiếp tục đổi mới sao cho ph hợp với thực tiễn và điều kiện cụ thể của
gi o dục trong nước đồng thời bắt kịp xu thế ph t triển của c c mô hình gi o dục
tiên tiến trên thế giới. Đối với gi o dục đại học, cần đẩy mạnh hướng nghiên cứu,
ứng dụng và thực hành. Đối với mạng lưới c c cơ sở gi o dục quốc dân, cần hoàn
thiện quy hoạch. Đối với c c đơn vị sự nghiệp công lập, tiếp tục đẩy mạnh việc giao
127
quyền tự chủ, tự chịu tr ch nhiệm về tài chính, nhân sự. Nhằm khuyến khích, tạo cơ
hội cho người dân được nâng cao trình độ, tiếp cận khoa học kĩ thuật, p dụng hình
thức gi o dục từ xa,… thì cần mở thêm nhiều hình thức gi o dục bên cạnh c c
trường công lập thì c c loại hình trường ngoài công lập như trường lớp b n công,
dân lập, tư thục cũng cần được chú trọng, nhất là tại c c địa phương, c c v ng kinh
tế c điều kiện thuận lợi.Qua đ , Nhà nước cần tạo ra môi trường ph p lý, sử dụng
c c công cụ kế hoạch, c c thiết chế tài chính,… đề ra c c chính s ch, cơ chế cần
thiết cho sự quản lý Nhà nước trong công t c gi o dục nhằm đảm bảo quyền lợi,
nghĩa vụ học tập cho học sinh. Đặc biệt, trong bối cảnh mở cửa hội nhập như hiện
nay, Nhà nước cần c thêm nhiều c c chương trình quốc gia về gi o dục, trên cơ sở
kế hoạch h a và cân đối nguồn vật chất trong kế hoạch hàng năm và dài hạn để đưa
công t c gi o dục vào chương trình hành động của từng ngành, từng địa phương
giúp cho học sinh c thêm nhiều thuận lợi trong học tập.
Tăng cường gi m s t việc thực hiện c c nội quy, quy chế gi o dục của c c
cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương cũng là việc làm cần thiết. Thực tế
cho thấy, ngoài thời gian quản lý ở trên lớp thì số thời gian c n lại học sinh thiếu sự
quản lý của nhà trường, của Đoàn thể mặc d đã c quy chế tự học tự nghiên cứu.
Do vậy, việc thực hiện quản lý quy chế học tập của học sinh những năm qua ở nước
ta c n kh lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ đã dẫn đến những hệ quả nhất định trong chất
lượng gi o dục – đào tạo, nhiều em học sinh bị lôi cuốn vào c c tệ nạn xã hội và
tình trạng suy tho i đạo đức trong học sinh ngày càng trở nên nổi cộm. Hồ Chí
Minh đã từng căn dặn: “Đối với những người c th i hư tật xấu, trừ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta phải giúp họ tiến bộ bằng c ch làm cho c i phần
thiện trong con người nảy nở để đẩy l i phần c, chứ không phải đập cho tơi bời.
Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày gi o dục lẫn nhau là một trong những
c ch để xây dựng con người mới” [104, tr. 672]. Theo đ , Đảng và Nhà nước không
chỉ cần phải huy động sự tham gia đ ng g p của đông đảo người dân trong việc đổi
mới chính s ch, cơ chế tài chính mà c n cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm
ph t triển gi o dục. C như vậy mới đảm bảo được kinh phí hoạt động chuyên môn
cho c c cơ sở gi o dục công lập trên cả nước. Đồng thời, công t c quản lý, giao
tr ch nhiệm cho c c nhà trường trong việc tự chủ tài chính, nhân sự cũng cần được
128
tiếp tục đổi mới nhằm ph t huy được thế mạnh của quản lý, điều hành, sử dụng c c
nguồn lực từ đ sẽ hiệu quả hơn, g p phần nâng cao uy tín chất lượng gi o dục n i
chung và của c c nhà trường n i riêng. Cuối c ng, cần đẩy mạnh hơn nữa việc qu n
triệt thực hiện Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc chỉ đạo
ph t triển, đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại h a đất nước.
Xuất ph t từ thực trạng của nền gi o dục Việt Nam những năm qua, từ
những bài học kinh nghiệm trong qu khứ và đặc biệt là từ những lời chỉ dẫn quan
trọng của chủ tịch Hồ Chí Minh về việc xây dựng một nền gi o dục mới đã thôi
thúc chúng ta phải quyết tâm đi tìm nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế đang
tồn tại, từ đ mới đi đến cải c ch, đổi mới gi o dục. Trên thực tế, chúng ta đã mất
một thời gian dài xa rời vấn đền c tính chất nguyên tắc đ là gi o dục đào tạo phải
gắn liền với thực tiễn xã hội, xuất ph t từ thực tiễn và gắn liền với thực tiễn. Chính
bởi lẽ đ mà đường lối của Đảng n i chung và đường lối về gi o dục n i riêng cần
phải được xây dựng dựa trên cơ sở thực tế Việt Nam, tôn trọng thực tế kh ch quan,
đ p ứng được kh t vọng của l ng dân và ph hợp với xu thế của thời đại. Đây chính
là điểm mấu chốt làm cho mỗi người dân và toàn xã hội tập trung đ ng g p đối với
sự ph t triển của gi o dục.
Hai là, các chủ thể giáo dục khác
Gia đình, nhà trường hay chính bản thân người học cần phải trang bị cho
mình một quan điểm gi o dục đúng đắn để thấy được tính ưu việt của tư tưởng gi o
dục Hồ Chí Minh so với c c tư tưởng gi o dục mang tính lỗi thời, lạc hậu kh c để
từ đ trang bị cho mình thêm kiến thức và củng cố thêm niềm tin vào những quan
điểm gi o dục mang tính thời đại của Người về mục tiêu, về vai tr , về tính chất, về
mô hình nhân c ch ph t triển toàn diện con người, về phương ph p gi o dục,…
Đồng thời, khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục chính là cơ sở lý luận
quan trọng để nền gi o dục Việt Nam xây dựng cho mình một triết lý gi o dục riêng
ph hợp với công cuộc đổi mới căn bản toàn diện gi o dục và đào tạo hiện nay, đ p
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp h a, hiện đại h a đất nước cũng như hội
nhập quốc tế.
Ngoài ra, để g p phần nâng cao nhận thức của người dân về vị trí, vai tr và
129
tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục cần phải tăng cường công t c
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công t c xã hội h a gi o dục. Là một nền gi o
dục xã hội chủ nghĩa, nền gi o dục của dân, do dân và vì dân, c c chủ trương, chính
s ch xã hội h a gi o dục của nước ta c ảnh hưởng sâu rộng đến quyền và lợi ích
của cả người dạy và người học. Vì vậy, việc tăng cường sự lãnh đạo của c c cấp ủy
Đảng, sự quản lý của Nhà nước là vô c ng cần thiết nhằm giữ vững được mục tiêu
gi o dục và đào tạo theo tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh. Theo đ , chúng ta cần coi
gi o dục và đào tạo là quốc s ch hàng đầu, tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội
trong việc thực hiện c c quan điểm, mục tiêu cũng như c c giải ph p nhằm đổi mới
căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam. Để đảm bảo được vai tr của Nhà nước, nhất
thiết cần xây dựng được cơ sở ph p lý, thực hiện xã hội h a gắn với việc thực hiện
công bằng trong gi o dục; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện c c văn bản, chính s ch xã
hội hội h a gi o dục; khuyến khích c c nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung
đầu tư cho ph t triển gi o dục; tăng cường c c công cụ quản lý Nhà nước trong việc
kiểm tra, gi m s t; cải c ch hành chính; bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ c n
bộ, công chức Nhà nước; thường xuyên đổi mới, hoàn thiện hệ thống thông tin
trong quản lý Nhà nước; p dụng c c thành tựu khoa học – công nghệ hiện đại,…
Bên cạnh đ , việc đầu tư ngân s ch cho ph t triển gi o dục cũng là điều kiện cần và
đủ song song với c c biện ph p tuyên truyền, phổ biến ph p luật, thu hút c c nguồn
lực đầu tư cho gi o dục.
Nhìn chung, trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, việc đổi
mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và không ít
những th ch thức mới. Để xây dựng thành công một nền gi o dục bền vững, ph t
triển đ p ứng được yêu cầu của thời đại thì việc tiếp tục vận dụng và ph t triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục là một nhiệm vụ quan trọng. C ng với đ , chúng ta
phải c những giải ph p đồng bộ, toàn diện trên tất cả c c mặt đồng thời cần c sự
tham gia, đ ng g p nhiệt thành từ c c chủ thể gi o dục.
3.2. Thƣờng xuyên đánh giá, tổng kết công tác vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
C thể thấy rằng, trong những năm qua, công t c vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về gi o dục trong đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam đã được
130
Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Việc làm này đã đạt được những kết quả
đ ng khích lệ, song bên cạnh đ , c n c những hạn chế nhất định. Do vậy, để công
t c vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc đổi mới gi o dục nước ta đi vào
chiều sâu và c hiệu quả hơn, bên cạnh việc nâng cao nhận thức về vai tr , tr ch
nhiệm của c c cấp ủy Đảng, lãnh đạo chính quyền đối với công t c gi o dục thì cần
phải thường xuyên đ nh gi , tổng kết công t c vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
gi o dục trong đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam hiện nay. Cụ thể cần
đ nh gi , tổng kết trên c c khía cạnh:
Thứ nhất, về thực hiện mục tiêu giáo dục: Trong mục tiêu gi o dục theo tư
tưởng gi o dục Hồ Chí Minh, gi o dục không chỉ là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài mà quan trọng là phải tạo ra những con người ph t triển toàn diện
có đạo đức, c tri thức, c sức khỏe, thẩm mỹ, trong đ “dạy người” được coi là mục
tiêu chủ đạo. Do vậy, việc đ nh gi qu trình “dạy người” ra sao, kết quả thế nào phải
trở thành việc làm xuyên suốt, là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân chứ
không chỉ của riêng c c thầy cô gi o hay cha mẹ học sinh. Vì vậy, hệ thống kiến thức
gi o dục và đào tạo cần phải được thực hiện theo phương châm cơ bản, hiện đại, thiết
thực, b m s t yêu cầu ph t triển kinh tế, xã hội của đất nước và xu thế tiến bộ của thời
đại. Ngoài ra, cần phải đảm bảo được tính toàn diện của gi o dục (đức, trí, thể, mỹ);
phải đổi mới con người khoa bảng thành con người thực tế, thay vì nhồi nhét kiến thức
hàn lâm phải chuyển thành nâng cao năng lực làm chủ cuộc sống. Mục tiêu gi o dục
cần được điều chỉnh sao cho hướng đến việc đề cao tính hiệu quả thiết thực, sản phẩm
của gi o dục phải đ p ứng được yêu cầu ph t triển kinh tế - xã hội của đất nước trong
điều kiện kinh tế thị trường, quốc tế h a, toàn cầu h a hiện nay. Dựa theo c c văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc mới nhất, c c số liệu thống kê của Bộ GD & ĐT, thông qua
c c b o c o tổng kết hàng năm về tình hình gi o dục c c cấp của c c tỉnh thành trên cả
nước c thể đ nh gi , tổng kết cơ bản phần nào những mục tiêu gi o dục đã và chưa
đạt được qua từng giai đoạn, từng năm, đặc biệt là việc thực hiện c c mục tiêu tổng
qu t và mục tiêu cụ thể. Theo đ , c c cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể địa
phương cần phối hợp chặt chẽ trong việc theo s t và thực hiện mục tiêu gi o dục đã đề
ra, tiếp tục ph t huy những mục tiêu gi o dục đã đạt được đồng thời tiếp tục thực hiện
những mục tiêu gi o dục c n dang dở.
131
Thứ hai, về việc thực hiện nội dung giáo dục
Trong những năm qua, mặc dù Bộ GD & ĐT đã liên tục đưa ra những phương
n thay đổi nội dung dạy học ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân
nhưng thực tế các nội dung giáo dục được đưa ra vẫn còn tồn đọng rất nhiều điểm hạn
chế. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục như đã biết hết sức toàn diện, từ giáo
dục đạo đức đến giáo dục chuyên môn, giáo dục thể chất, thẩm mỹ. Những nội dung đ
vừa có tính bao quát chung vừa đi vào cụ thể từng đối tượng, lứa tuổi, các bậc học.
Như vậy, để tổng kết, đ nh gi việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo
dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay một cách hiệu quả
nhất thì cần phải xem xét, đ nh gi qua việc thực hiện vận dụng nội dung giáo dục
trong tư tưởng Hồ Chí Minh của các chủ thể giáo dục trên c c phương diện.
Trong công t c gi o dục chính trị, đạo đức, Đảng, Chính phủ cũng như Bộ
GD & ĐT bên cạnh việc tăng cường những giải ph p đẩy mạnh công t c gi o dục
chính trị, đạo đức cho học sinh, sinh viên thì cần c sự thường xuyên đ nh gi , tổng
kết những kết quả đạt được qua c c tiêu chí về đảm bảo an ninh, an toàn, ph ng,
chống bạo lực học đường; mức độ phối hợp giữa ba môi trường “gia đình – nhà
trường – xã hội”; đ nh gi tình trạng vi phạm đạo đức trong học sinh, sinh viên qua
từng năm. Đặc biệt, việc tổng kết, đ nh gi sẽ s t sao hơn khi được thông qua c c
kết quả của việc thực hiện c c Đề n của Thủ tướng Chính phủ ban hành và phối
hợp với c c Bộ, ngành, địa phương về gi o dục lý tưởng c ch mạng, đạo đức, lối
sống cho thanh, thiếu niên và nhi đồng, hay c c Đề n về việc xây dựng văn h a
ứng xử trong trường học, qua kết quả của việc đẩy mạnh công t c tuyên truyền nâng
cao nhận thức, tr ch nhiệm của c n bộ, gi o viên, học sinh, gia đình học sinh và
cộng đồng về gi o dục đạo đức, lối sống cũng như kết quả của công t c ph ng,
chống bạo lực học đường và c c hành vi bạo lực học đường thời gian vừa qua.
Bộ GD & ĐT cần thường xuyên tổng kết, đ nh gi , kiểm tra c c cơ sở gi o dục
trong việc thực hiện c c hoạt động dạy học c c môn học trong chương trình gi o dục
phổ thông hiện hành, chương trình gi o dục phổ thông mới, đặc biệt thông qua các
chương trình lồng ghép, tích hợp c c chương trình môn học và hoạt động gi o dục n i
chung và gi o dục tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh n i riêng. Công t c
đ nh gi cần phải được phối hợp giữa c c Bộ, ngành liên quan và Trung ương Đoàn
132
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh c ng với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong việc tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên và toàn xã hội tham gia vào
công t c gi o dục, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Vấn đề ph ng, chống tham nhũng, gi o dục an toàn giao thông, gi o dục c c
vấn đề về giới, bình đẳng giới, gi o dục bảo vệ môi trường được đ nh gi , tổng kết
qua c c hoạt động lao động sản xuất, lao động tập thể, lao động văn h a, thể dục,
thể thao, c c hoạt động vui chơi giải trí và thông qua vai tr nêu gương của cha mẹ,
thầy cô gi o, những tấm gương đạo đức tiêu biểu trong cả nước.
Hiện nay, nội dung gi o dục đạo đức ngày càng được quan tâm, chú trọng
trong c c nhà trường, đặc biệt là c c nhà trường phổ thông. Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh, phẩm chất đạo đức n i chung đ là “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao
động, yêu khoa học, yêu trọng của công” [98, tr.175]. Do đ , để tổng kết, đ nh gi
được việc vận dụng nội dung gi o dục trên phương diện gi o dục đạo đức của học
sinh, sinh viên Việt Nam hiện nay cũng cần phải dựa trên những tiêu chí trong nội
dung gi o dục phẩm chất cụ thể.
Đ là gi o dục chí khí c ch mạng, l ng yêu nước, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào. Yêu nước c n cần phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần đoàn kết, tương
thân tương i với cộng đồng. Trong xã hội ngày nay, yêu nước chính là học tập tốt,
phấn đấu làm người công dân c ích g p phần làm giàu cho đất nước, x a bỏ nỗi
nhục nghèo nàn, lạc hậu, c ng nhau xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, tươi
đẹp, s nh ngang với c c cường quốc năm châu như lời B c Hồ dạy. Đ là gi o dục
ý thức công dân, ý thức tập thể - cộng đồng, ở th i quen ứng xử văn h a, tôn trọng
và bảo vệ lẽ phải. Đây là yếu tố cần thiết đối với lớp người trẻ tuổi – tương lai của
dân tộc. Một dân tộc thịnh hay suy, c thể ph t triển đi lên hay không phụ thuộc rất
lớn vào ý thức và tr ch nhiệm công dân, của tuổi trẻ. Theo đ , học sinh, sinh viên
cần c sự tích cực trong việc tham gia xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh ph p luật của Nhà nước. Ngoài ra, cần
chống lại c c hành vi thiếu văn h a, coi thường luật ph p, lên n lối sống buông thả,
ích kỉ th i vụ lợi, bệnh gi o điều, thực dụng, giả dối. Một công dân đúng mực cần
phải biết phân biệt giữa c i đúng c i sai, c i nên và c i không nên để biết đâu là tốt,
đâu là xấu cho hoạt động thực tiễn của mình.
133
Đ là yêu lao động, yêu khoa học thông qua việc gi o dục tinh thần, th i độ
và th i quen học tập đúng đắn. Đạo đức của người học sinh, sinh viên ngày nay
được thông qua tinh thần thi đua và thực hành dân chủ trong học tập, gắn với t c
phong tự học, độc lập suy nghĩ, ham học hỏi, học mọi lúc mọi nơi, học bạn, học
nhân dân, học đi đôi với hành với tinh thần cầu tiến, khiêm tốn thật thà trong học
tập. Thấm nhuần lời dạy của Người đối với thanh niên: “Không c việc gì kh . Chỉ
sợ l ng không bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt làm nên” [94; 440], người học
n i chung cần c tinh thần hăng h i, kiên quyết, không ngại kh khăn, gian khổ,
siêng học, siêng làm, quyết tâm thực hiện những mục tiêu đã đặt ra. Mỗi nhà trường
cần gi o dục cho học sinh, sinh viên thấm nhuần sâu sắc lời dạy của B c để bất cứ ở
đâu họ cũng phải c tinh thần gan dạ và s ng tạo, ý chí tiến thủ, vượt mọi kh khăn,
gian khổ. Phía nhà trường cần tạo ra môi trường học tập, lao động và rèn luyện cho
học sinh gắn lý luận với thực tiễn, không ngừng đổi mới, s ng tạo về nội dung dạy
học; Phía người học cần c tinh thần ham học hỏi, tr nh th i quen lười biếng, thụ
động, ỷ lại, vô tổ chức, vô kỉ luật, sợ kh , sợ khổ trong học tập và lao động đặc biệt
mỗi học sinh cần c tinh thần tự nguyện, tự gi c, nêu gương theo tinh thần n i đi
đôi với làm, tự gi c trong rèn luyện tu dưỡng đạo đức, c tinh thần tr ch nhiệm cao.
Đ c n là yêu trọng của công thông qua gi o dục cho học sinh, sinh viên biết
quý trọng thời gian, công sức, tiền bạc của mình và của người kh c. Bên cạnh đ ,
người học cần phải tr nh lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của
Nhà nước và của cả bản thân mỗi người. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng
chính là yêu trọng của công,
Đổi mới nội dung gi o dục là một yếu tố trọng tâm trong nội dung vận dụng
tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh vào qu trình đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục
Việt Nam hiện nay. Hệ thống gi o dục Việt Nam hiện nay c c c cấp học từ thấp
đến cao bao gồm: gi o dục mầm non (nhà trẻ, mẫu gi o), gi o dục phổ thông (tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông), gi o dục nghề nghiệp (sơ cấp, trung cấp,
cao đẳng và c c chương trình đào tạo nghề nghiệp kh c), gi o dục đại học (đại học,
thạc sĩ, tiến sĩ). Trong đ , chương trình và nội dung c c cấp học, ngành học được
Bộ GD&ĐT qui định, việc qui định và tổ chức biên soạn lại được thông qua hội
đồng c c nhà khoa học, quản lý bằng c c đề n ph hợp với từng lĩnh vực chuyên
134
môn, chuyên ngành kh c nhau. Do vậy, để đ nh gi , tổng kết được việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục trong gi o dục văn h a, trình độ chuyên môn trước
hết cần phải xem xét việc chuẩn h a và đổi mới nội dung gi o dục của từng cấp học
thông qua mục tiêu đổi mới gi o dục tổng qu t và mục tiêu cụ thể của c c cấp c
thẩm quyền được nêu rõ trong Nghị quyết 29 – NQ/TW về “đổi mới căn bản, toàn
diện gi o dục và đào tạo” theo hướng coi trọng ph t triển phẩm chất, năng lực của
người học.
Trước tiên, Bộ GD & ĐT cũng như ban biên soạn s ch gi o khoa cần xem
xét, đ nh gi việc đổi mới chương trình, nội dung s ch gi o khoa và c c tài liệu
giảng dạy, học tập cho những năm học sắp tới theo hướng cập nhật h a nội dung để
nội dung mang tính thiết thực và hữu ích, không nên qu dàn trải nhiều vấn đề. Cần
loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo
hướng bảo đảm kiến thức khoa học cơ bản, khoa học cơ sở, toàn diện, cập nhật về
những tiến bộ khoa học, công nghệ, tăng cường nội dung khoa học, công nghệ ứng
dụng và năng lực thực hành ở bậc học phổ thông, kỹ năng hành nghề ở khối đào tạo
chuyên nghiệp, ph hợp với yêu cầu ph t triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa
ph hợp với xu thế tiến bộ của thời đại, tiến tới h a nhập với chương trình đào tạo
của c c nước trong khu vực. Trong đ c những kiến thức tiên tiến, hiện đại về
khoa học, công nghệ; kiến thức về chủ nghĩa M c – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
c c gi trị nhân văn cần phải được tăng cường và c vị trí xứng đ ng trong c c
chương trình gi o dục – đào tạo. Bên cạnh đ , tính thực tiễn của nội dung gi o dục
– đào tạo phải được tăng cường thường xuyên, làm cho kiến thức được học trong
nhà trường phải luôn gắn liền với cuộc sống.
Hai là, thường xuyên đ nh gi , tổng kếtnội dung dạy và học đã thực hiện tốt
gi o dục một c ch toàn diện hay chưa. Từ xưa đến nay ở nhiều quốc gia, dân tộc,
chúng ta đều biết đến gi o dục toàn diện là n i đến gi o dục nhiều mặt cả đức, trí,
thể, mỹ nhưng trong những mục tiêu đ thì đức và tài luôn được xem là nội dung cơ
bản. N i về vấn đề này, tại lớp học chính trị của gi o viên, Hồ Chí Minh đưa ra
quan điểm: “N i t m lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài. C tài mà không c
đức là hỏng. C đức mà chỉ i tờ thì dạy thế nào? Đức phải c trước tài” [101, tr.
269]. Như vậy, cần phải xem xét việc gi o dục người học đã thấm nhuần lý tưởng,
135
đạo đức c ch mạng, nâng cao chất lượng gi o dục văn h a, gi o dục đạo đức, gi o
dục thẩm mỹ, thể lực đến đâu. Đồng thời, cần đ nh gi việc kết hợp giữa gi o dục
văn h a phổ thông với gi o dục kĩ thuật, nghề nghiệp và đẩy mạnh gi o dục hướng
nghiệp cho học sinh, sinh viên. Mặt kh c, cần xem xét việc đổi mới nội dung dạy
học trong c c nhà trường theo hướng tinh giản, hiện đại, ph hợp với lứa tuổi, trình
độ và ngành nghề. Đ nh gi qua kết quả gi o dục toàn diện dạy người, dạy chữ, dạy
nghề hài h a đức, trí, thể, mỹ và c c tiêu chí cần đạt được trong gi o dục nhân cách,
đạo đức, lối sống, tri thức ph p luật và ý thức công dân theo tư tưởng gi o dục Hồ
Chí Minh cụ thể ở từng cấp học:
Đối với gi o dục mầm non: Nội dung quan trọng nhất của cấp độ gi o dục
này đ là dạy trẻ làm người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví “trẻ em như búp trên cành.
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”. Việc đ nh gi , tổng kết sự vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong gi o dục mầm non sẽ được đ nh gi qua nội dung gi o dục c
ph hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý cũng như tập trung vào ph t triển thể lực và
hình thành nhân c ch cho trẻ như thế nào.
Đối với gi o dục phổ thông: Nội dung dạy học cần được xem xét, đ nh gi
dựa trên mức độ ph hợp với từng cấp học, nội dung cần phải cơ bản, thiết thực, kết
hợp được truyền thống với hiện đại theo hướng tinh giản c c môn học xa rời thực
tế, nhiều lý thuyết thay vào đ sẽ nghiên cứu bổ sung, tăng cường giờ học c c môn
học mới đ p ứng được yêu cầu của đổi mới gi o dục theo xu thế toàn cầu h a, quốc
tế h a.
Đối với gi o dục nghề nghiệp: Nội dung dạy học được đ nh gi , xem xét dựa
trên tiêu chí về việc chú trọng kĩ năng, tính chuyên nghiệp trong làm việc, hình
thành năng lực và bản lĩnh nghề nghiệp theo tư tưởng Hồ Chí Minh theo tư tưởng
Hồ Chí Minh đ là làm nghề gì cũng phải học và thông thạo nghề đ .
Đối với gi o dục đại học: Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cấp
học này cần được tổng kết, đ nh gi , xem xét dựa trên việc đổi mới nội dung theo
hướng hiện đại, thể hiện ở khả năng tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên
tiến của khu vực và trên thế giới. Ngoài ra với cấp học này, nội dung dạy học cần c
sự kết hợp lý luận khoa học với thực tiễn, kết hợp được 4 yêu cầu: năng lực s ng
tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội.
Thứ ba, việc thực hiện phương pháp giáo dục
136
C ng với việc x c định mục tiêu, nội dung gi o dục đúng đắn, ph hợp thì
việc cần phải c một phương ph p dạy học hợp lý, hiệu quả là một yêu cầu vô c ng
quan trọng. Bởi trong thực tế, khi đã x c định được mục tiêu, phương hướng, nội
dung tốt nhưng hiệu quả gi o dục lại không cao do không c một phương ph p
đúng đắn và khoa học. Một trong những nguyên nhân cốt lõi của những hạn chế
trong việc vận dụng tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh vào trong đổi mới căn bản,
toàn diện gi o dục Việt Nam hiện nay nằm ở phương ph p gi o dục. Công t c đ nh
gi , tổng kết việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này chính là điều kiện
cần và đủ cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam hiện nay.
Ngày 21/10/1964 tại buổi n i chuyện với c n bộ giảng dạy và sinh viên Đại học sư
phạm Hà Nội, Người đưa ra lời khuyên: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với
thực tế, phải c thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau” [103,
tr. 402]. Muốn vây, chúng ta phải tổng kết, đ nh gi xem xét việc vận dụng tư
tưởng của Người về phương ph p gi o dục trên c c khía cạnh:
Một là, đổi mới việc thiết kế và chuẩn bị bài dạy học. Trong việc thiết kế bài
dạy hay chính là khâu soạn giáo án, giáo viên cần x c định rõ mục tiêu dạy học
(kiến thức, kĩ năng, th i độ) có thể đạt được của học sinh một c ch rõ ràng, đồng
thời x c định rõ c c năng lực như năng lực phương ph p, năng lực xã hội, năng lực
cá thể bên cạnh kiến thức kỹ năng chuyên môn. Cần thiết kế phương ph p dạy học
từ chỗ x c định c c quan điểm, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng cấp
học, bậc học, với những đối tượng giảng dạy kh c nhau.Để giúp người học có thể
hiểu sâu nội dung và vận dụng được nội dung bài học vào trong thực tiễn đ i hỏi
mỗi giáo viên cần phải làm tốt khâu thiết kế và chuẩn bị bài dạy học theo hướng gắn
kết giữa học với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, lời n i đi đôi với việc làm,
đồng thời kết hợp với việc sử dụng c c phương tiên, kĩ thuật dạy học hiện đại, các
phương tiện dạy học trực quan nhằm nâng cao chất lượng cho bài dạy và tăng sức
hấp dẫn, thu hút người học vào trong bài giảng.
Hai là, cải tiến c c phương ph p dạy học truyền thống, sử dụng linh hoạt các
phương ph p dạy học trong đ chú trọng sử dụng c c phương ph p dạy học tích
cực: C c phương ph p dạy học truyền thống như phương ph p thuyết trình, phương
ph p đàm thoại… vẫn là những phương ph p quan trọng trong dạy học tuy nhiên
137
cần đổi mới làm sao để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của những
phương ph p này. Muốn vậy, giáo viên cần nắm vững yêu cầu và sử dụng thành
thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp. Mỗi
phương ph p đều c ưu nhược điểm riêng do vậy tùy thuộc vào các hình thức tổ
chức dạy học kh c nhau mà người dạy lựa chọn c c phương ph p dạy học cho phù
hợp với đặc điểm người học, điều kiện dạy học. Ngoài ra, người giáo viên cần chủ
động khơi gợi, ph t huy được tính tích cực của người học, khuyến khích người học
tăng cường đối thoại, tranh luận với bạn học và gi o viên qua đ giải quyết được
những điều bản thân mình c n đang thắc mắc, chưa hiểu rõ để hiểu đúng, sâu, rộng
về những kiến thức được học. Do nội dung và phương ph p dạy học có mối liên
quan mật thiết với nhau vì vậy mà việc sử dụng c c phương ph p dạy học đặc thù sẽ
có vai trò quan trọng đối với việc dạy học bộ môn. Ngoài các phương ph p chung
được sử dụng phổ biến cho các bộ môn kh c nhau thì c c phương ph p dạy học đặc
th được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn cũng cần được chú trọng.
Ba là, vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục, trong đổi mới
phương ph p dạy học chúng ta cần đổi mới phương ph p dạy học nhằm phát triển
năng lực của học sinh. Phương ph p dạy này là phương ph p chuyển từ phương
pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng
kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho người học. Để
vận dụng tốt phương ph p này thì cần phải tăng cường việc học tập trong nh m, đổi
mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác. Song song với việc học tri
thức chuyên môn thì cần tích hợp với các chủ đề học tập liên môn giúp cho học sinh
phát triển năng lực giải quyết các vấn đề. Ngoài ra, giáo viên cần sử dụng linh hoạt
c c phương ph p chung và phương ph p truyền thống đặc thù của môn học kết hợp
với c c phương ph p dạy học tích cực như phương ph p dạy học giải quyết vấn đề,
dạy học theo tình huống, dạy học định hướng hành động nhằm phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động của người học, từ đ hình thành và ph t triển năng lực tự học
của họ như sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông tin,... Trong quá
trình giảng dạy, mặc dù có thể sử dụng nhiều phương ph p dạy học khác nhau
nhưng cần đảm bảo nguyên tắc đ là học sinh phải tự mình hoàn thành các nhiệm
vụ học tập dưới sự quan s t, hướng dẫn của giáo viên.
138
Bốn là, giáo viên cần kết hợp giữa tổ chức cho học sinh thực hiện các nhiệm vụ
học tập ở trên lớp cùng với việc hướng dẫn cho học sinh làm việc ở nhà và ở ngoài nhà
trường sao cho hiệu quả nhất. Trong đ , đặc biệt phát huy các hoạt động ngoài giờ lên
lớp như nghiên cứu khoa học, xây dựng tủ sách lớp học, phát triển văn h a đọc cho học
sinh, tăng cường rèn luyện kĩ năng sống, mở rộng các hoạt động giao lưu, tìm hiểu về
các giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa văn h a nhân loại,… Bên cạnh đ , gi o
viên phải là người khuyến khích, tạo điều kiện cho học sinh tham gia vào các hoạt động
học tập một cách tự nguyện trên cơ sở tạo ra môi trường học tập thân thiện, bổ ích giúp
thu hút học sinh, nâng cao khả năng tự học, ph t huy được năng lực sở trường của mỗi
em nhằm đ p ứng yêu cầu ngày càng cao của đổi mới giáo dục cũng như của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Năm là, Hồ Chí Minh cho rằng, cốt lõi của việc học tập là tự học. Năm 1947,
trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người khẳng định: “Lấy tự học làm cốt. Do
thảo luận và chỉ đạo giúp vào” [93, tr. 312]. Khi nói về công tác huấn luyện học tập
năm 1950, Người lại nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học” [94, tr.
360], “phải nêu cao t c phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng” [100, tr. 98]. Do
vậy, cần phải đổi mới phương ph p dạy học theo hướng lấy người học làm trung
tâm, khuyến khích người học tự học và tự đ nh gi qu trình học tập, rèn luyện của
bản thân: Trong quá trình dạy học, quan điểm dạy học này vẫn chưa được thực hiện
một cách triệt để. Do đ , trong thời gian tới cần phải chú trọng đến việc tổ chức cho
học sinh hoạt động độc lập hoặc theo nh m để giúp cho học sinh có thể tự mình tiếp
nhận được các tri thức và kĩ năng, tự mình rèn luyện phương ph p tự học và bắt đầu
làm quen với c c phương ph p nghiên cứu. Về phía giáo viên, cần lập chương trình
dạy học hiệu quả nhất, xây dựng và thiết kế giáo án sao cho phù hợp với từng nội
dung giảng dạy bằng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mình. Theo đ , mỗi giáo
viên cũng cần phải đưa c c hoạt động dạy học phân h a theo trình độ và năng lực
của học sinh để có thể tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của các em.
Ngoài ra, gi o viên cũng cầnrèn luyện cho người học khả năng tự đ nh gi kết quả
học tập, rèn luyện; tự giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình.
3.3. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
139
Chí Minh trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh đã và đang là nền
tảng quan trọng giúp Đảng và Nhà nước ta hoạch định c c chiến lược gi o dục của
nước nhà. Điều này đã được khẳng định trong c c chủ trương, chính s ch, chiến
lược ph t triển con người của Đảng ta. Tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh vừa là cơ sở
lý luận vừa là cơ sở thực tiễn sinh động, thiết thực đối với ngành gi o dục n i
chung. Thực tiễn ph t triển gi o dục Việt Nam hiện nay đã khẳng định gi trị và vai
tr to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục trong việc xây dựng và ph t triển
con người mới, con người xã hội chủ nghĩa. Chính vì lẽ đ , trong giai đoạn hiện
nay, đặc biệt theo tinh thần từ Chỉ thị 03 đến Chỉ thị 05/TC-TW của Bộ Chính trị về
việc “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh”,
chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương của Người. Đây
là việc làm tất yếu và cần thiết không phải của riêng ai mà đối với mỗi tổ chức
Đảng, cơ quan, đơn vị, c n bộ, Đảng viên, quần chúng.
Trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của c c cấp ủy Đảng, chính quyền
trong việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí
Minh trong đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam hiện nay. Một trong những
nhiệm vụ căn bản của công t c xây dựng Đảng trong mỗi tổ chức Đảng, cơ quan, đơn
vị là gi o dục và rèn luyện c n bộ, Đảng viên, quần chúng. C c cấp ủy Đảng, chính
quyền chính là nhân tố quyết định việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
c ch Hồ Chí Minh vào trong đời sống sao cho chất lượng và hiệu quả nhất. Theo đ ,
việc tăng cường sự lãnh đạo của c c cấp ủy Đảng, chính quyền trong thực hiện việc
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh là vô
c ng quan trọng, g p phần rèn luyện tư tưởng, bản lĩnh chính trị cũng như đạo đức
c ch mạng, lối sống trong quần chúng n i chung, c c đối tượng gi o dục n i riêng.
Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh cần
được phổ biến thường xuyên trong c c Đảng bộ từ trung ương đến địa phương. Các
hoạt động sinh hoạt tập thể, c c chuyên đề học tập về tấm gương Hồ Chí Minh cần
được triển khai nghiêm túc, sâu rộng trong từng tổ chức cơ sở Đảng, trong c c đoàn
thể quần chúng, c c tổ chức chính trị, xã hội, trong đ c đặc biệt chú trọng đến c c
cơ sở gi o dục và đào tạo trong hệ thống gi o dục quốc dân.
Công t c lãnh đạo, chỉ đạo của c c cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của
140
chính quyền c c cấp cũng như nội dung hoạt động của c c tổ chức đoàn thể c c cấp
đối với c c chủ thể gi o dục như gia đình, nhà trường cần c sự đổi mới, s ng tạo,
hướng về cơ sở, chăm lo đến lợi ích của người học, g p phần quản lý gi o dục c n
bộ, đảng viên ngày một tiến bộ hơn. Việc học tập cần được tiến hành thống nhất,
tập trung từ trên xuống, vừa phải mang tính kế hoạch vừa phải đảm bảo tính s ng
tạo.
Cần ph t huy cao độ vai tr của c c hệ thống tổ chức, cấp ủy Đảng và chính
quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trong đ , cần phải vận dụng linh
hoạt, s ng tạo về mặt mục tiêu gi o dục, nội dung gi o dục, phương ph p gi o dục
trong việc thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ
Chí Minh, tr nh việc vận dụng hình thức, n i nhiều làm ít. Đặc biệt, công t c tuyên
truyền, gi o dục, động viên ý thức tự gi c tu dưỡng, rèn luyện, tính tích cực của c c c n
bộ, Đảng viên, đoàn viên, thanh niên trong c c cơ sở gi o dục cũng cần được đẩy mạnh
và duy trì đều đặn, thường xuyên. Việc làm này đ i hỏi cần c sự nỗ lực, cố gắng của
cả phía c nhân c nhân c n bộ, Đảng viên, quần chúng và phía c c cấp lãnh đạo, tổ
chức, chính quyền. Mỗi chủ thể gi o dục cần phải luôn tự đấu tranh với chính mình để
c thể tự rèn luyện, không để bản thân bị ảnh hưởng của những mặt xấu trong xã hội
t c động nhằm g p phần nâng cao hiệu quả của việc học tập tư tưởng gi o dục của
Người và vận dụng tư tưởng đ vào trong thực tiễn gi o dục nước ta.
3.4. Tăng cƣờng hơn nữa vai trò của gia đình, nhà trƣờng và xã hội trong đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam
Gia đình – nhà trường – xã hội chính là ba chủ thể chính trong việc đ nh gi ,
tổng kết công t c vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục trong đổi mới căn bản,
toàn diện gi o dục ở nước ta hiện nay. Tại buổi lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân
Việt Nam vào ngày 19/1/1955, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Trường đại học, gia đình
và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc gi o dục thanh niên” [97, tr.
266]. Nhằm tạo ra cho đất nước những con người ph t triển toàn diện với nguồn
nhân lực chất lượng cao, đ p ứng được yêu cầu của thời kì hội nhập quốc tế h a,
toàn cầu h a thì đ i hỏi cần c sự đảm bảo hiệu quả giữa dạy chữ, dạy nghề và dạy
người. Muốn vậy, cần phải c c c giải ph p cụ thể nhằm ph t huy vai tr của gi o
dục gia đình, gi o dục nhà trường và gi o dục xã hội.
141
Trong gia đình: Hồ Chí Minh cho rằng: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng vì
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Xã hội tốt thì
gia đình càng tốt hơn. Hạt nhân của xã hội là gia đình” [101, tr. 300]. Từ đ , Người
đưa ra yêu cầu đối với người làm cha, làm mẹ phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dạy con
c i trên một quan điểm mới, nhận thức mới và trên tinh thần, th i độ mới. Để ph t
huy được tối đa vai tr của gi o dục gia đình theo tư tưởng của Người, cần phải:
Một là, bản thân cha mẹ phải không ngừng hoàn thiện nhân c ch của mình,
trở thành tấm gương s ng về mọi mặt đối với con c i. Sự gương mẫu về đạo đức
của cha mẹ và những người lớn tuổi đối với con c i chính là một đ i hỏi quan trọng
trong việc gi o dục gia đình. Chỉ khi c sự gương mẫu đ thì mới tạo nên uy tín,
danh dự của cha mẹ đối với con. Đồng thời, sự nghiêm khắc của cha mẹ đối với con
c i cần phải gắn với sự chân thành, tôn trọng nhân c ch của con c i. Nếu không như
vậy thì uy tín, niềm tin của cha mẹ đối với con c i sẽ bị giảm sút theo thời gian và
kéo theo tác dụng của gi o dục gia đình sẽ trở nên kém hiệu quả.
Hai là, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đã là đại gia đình thì sự săn s c dạy dỗ
không chỉ nhằm làm cho con ch u của mình khỏe và ngoan mà phải cố gắng giúp
đỡ tất cả c c ch u đều ngoan và khỏe” [103, tr. 312]. Như vậy,để tổ chức tốt việc
gi o dục con c i ở gia đình, c c bậc cha mẹ luôn phải thể hiện tr ch nhiệm cao
trong việc không ngừng tự nâng cao kiến thức của bản thân, trang bị cho mình
những hiểu biết cần thiết để gi o dục con c i theo từng lứa tuổi. Bởi lẽ, gi o dục
con c i là một nghệ thuật tổng hợp, phức tạp và cần sự tinh tế.
Ba là, mỗi gia đình cần ưu tiên việc học hành và sự tiến bộ của con c i, luôn
phối hợp chặt chẽ với nhà trường, thầy cô gi o trong việc quản lý và gi o dục con
em mình. Từ đ , gi o dục con c i tôn trọng lợi ích và những nguyên tắc của đời
sống xã hội, nâng cao ý thức lao động, tạo th i quen tốt trong sinh hoạt, tính độc lập
tự chủ và ý thức làm chủ cuộc sống của mình.
Bốn là, mỗi gia đình cần kế thừa những kinh nghiệm gi o dục từ xưa đến nay
để từ đ hình thành phương ph p gi o dục mới ph hợp với điều kiện xã hội ngày
nay, đồng thời phải biết phê ph n, khắc phục những lối gi o dục lạc hậu, nạn gia
trưởng, độc đo n, bạo lực gia đình hay việc qu đề cao quan hệ lợi ích cục bộ của
gia đình, quan hệ huyết thống làm xâm hại đến quyền lợi của c c thành viên trong
gia đình gây ảnh hưởng sâu rộng đến cộng đồng và xã hội.
142
Năm là, trong mỗi gia đình, mỗi d ng họ, mỗi v ng, miền đều cần phải nỗ
lực gi o dục cho thanh niên học sinh hiểu biết về cội nguồn của mình, khơi dậy
trong họ l ng tự hào, kêu hãnh đối với truyền thống d ng họ, quê hương; bên cạnh
đ cần phải tr nh sự coi thường, đả kích những d ng họ kh c, v ng quê kh c tạo
nên tình trạng độc tôn, gây nên th i vị kỷ, hẹp h i trong học sinh, sinh viên.
Việc xây dựng môi trường văn h a gia đình trong s ng, lành mạnh chính là
một trong những biện ph p cơ bản để gi o dục đạo đức cho học sinh, sinh viên, g p
phần làm lành mạnh môi trường xã hội ngày nay.
Trong nhà trường: C ng với gia đình thì đây là chủ thể đ ng vai tr trực tiếp
quản lý, gi o dục học sinh, sinh viên tại trường học cũng như định hướng, gi o dục
và ph t triển nhân c ch, đạo đức cho người học. Trong Thư gửi c c trường nhân
ngày khai giảng năm học 1968 – 1969, Hồ Chí Minh đã viết: “Gi o dục nhằm đào
tạo những người kế tục sự nghiệp c ch mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta. Do
đ , c c ngành c c cấp Đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn
nữa đến sự nghiệp này, phải chăm s c nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp gi o
dục của ta lên những bước ph t triển mới” [104, tr. 508]. Để nâng cao chất lượng và
hiệu quả của gi o dục nhà trường theo quan điểm Hồ Chí Minh, cần phải:
Một là, nhà trường phải đ ng vai tr tổ chức c c hoạt động theo nguyên tắc
sư phạm để gi o dục đạo đức, hình thành nhân c ch cho học sinh, sinh viên. Qua
đ , nhà trường phải luôn theo dõi s t sao, khơi dậy và uốn nắn theo mục tiêu gi o
dục đã được đề ra, tạo nhiều hoạt động phong phú đa dạng nhằm thu hút người học
tham gia đông đảo, tự gi c. Nhà trường phải luôn đ ng vai tr trung tâm trong việc
tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội và luôn c tr ch
nhiệm làm cho gia đình nắm bắt được c c yêu cầu của mình, phối hợp với gia đình
và xã hội trong việc quản lý và gi o dục học sinh, sinh viên.
Hai là, Hồ Chí Minh trong nhiều bài viết đã nhắc nhở: “Phải mật thiết liên hệ
với gia đình học tr . Bởi vì gi o dục trong nhà trường, chỉ là một phần, c n cần c
sự gi o dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc gi o dục trong nhà
trường được tốt hơn. Gi o dục trong nhà trường d tốt mấy nhưng thiếu gi o dục
trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” [98, tr. 591]. Như
143
vậy, để tăng cường vai tr của mình, c c nhà trường cần phải không ngừng nâng
cao phẩm chất, năng lực và đời sống cho đội ngũ gi o viên; tăng cường cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học; cải tiến và đổi mới nội dung, chương trình, phương ph p gi o
dục – đào tạo. Để tạo được sự t c động liên tục, đa dạng và nhiều phía đến việc hình
thành và ph t triển nhân c ch của thanh niên học sinh thì c c nhà trường cần tăng
cường thêm hoạt động thực hành, thực tập, c c hoạt động xã hội cho người học
nhằm tạo ra một môi trường sư phạm tốt.
Ba là, đội ngũ gi o viên cần thường xuyên tiếp xúc, dạy dỗ, khuyên bảo,
động viên, c t c động tích cực đến từng học sinh. Đồng thời, gi o viên phải hội tủ
đủ những gi trị, tiêu chuẩn về nhân c ch, c năng lực sư phạm vững vàng, c tinh
thần tr ch nhiệm cao và đặc biệt phải là tấm gương s ng về đạo đức cho học sinh,
sinh viên tin yêu và noi theo. Tại lớp học chính trị của gi o viên cấp II, cấp III toàn
miền Bắc, diễn ra vào th ng 9/1958, Hồ Chí Minh n i: “Chúng ta phải đào tạo ra
những công dân tốt và c n bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao
c c nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đ là một tr ch nhiệm
nặng nề, nhưng rất vẻ vang” [100, tr. 528]. Muốn vậy, người gi o viên phải đem sự
hiểu biết, năng lực và phẩm chất của mình truyền đạt cho người học, hướng dẫn, dìu
dắt cho người học, giúp người học chiếm lĩnh tri thức, ph t huy được năng lực vốn
c , ph t triển đồng đều và toàn diện c c mặt đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục
hướng đến trở thành những công dân c ích cho xã hội g p phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhà trường cũng phải c kế hoạch
cụ thể cho việc nâng cao nhận thức cho tất cả c c c n bộ nhằm thống nhất trong
việc nhận thức và phối hợp trong việc gi o dục đạo đức cho học sinh; phải thiết lập
được cơ chế tr ch nhiệm giữa Ban gi m hiệu, gi o viên chủ nhiệm, gi o viên bộ
môn, c c tổ chức Đảng, Đoàn thanh niên, Công đoàn… trong sự nghiệp gi o dục
cho học sinh, sinh viên.
Bốn là, c c nhà trường cần thực hiện nghiêm túc chỉ thị của Bộ Chính trị về
việc soạn thảo gi o trình giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là c c chương
trình giảng dạy về tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh trong hệ thống gi o
dục quốc dân n i chung và c c trường đại học, học viện, c c trường chính trị… sao
144
cho ph hợp với từng cấp học, ngành học và ph hợp với yêu cầu của nền gi o dục
hiện hành. Trong đ , nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong c ch
Hồ Chí Minh của học sinh c c trường phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề thường gắn với môn học gi o dục công dân và đạo đức nghề nghiệp. Do vậy,
c c trường học trong hệ thống gi o dục quốc dân bao gồm c c cấp và trình độ đào
tạo cần đưa nội dung tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh gắn với học tập
và làm theo lời B c dặn về việc giảng dạy và học tập trước đ . C c trường cần tiếp
tục b m s t việc triển khai thực hiện c hiệu quả c c văn bản chỉ đạo của Bộ GD &
ĐT và của Tỉnh ủy địa phương để triển khai c c nội dung sao cho ph hợp. Ngoài
ra, cần c sự hướng dẫn cụ thể về việc tích hợp nội dung, hình thức, phương ph p,
dung lượng tích hợp sao cho c sự thống nhất trong toàn tỉnh và đảm bảo được sự
ph hợp với từng cấp học và đối tượng học sinh. Mặt kh c, cần tiếp tục tập trung
chỉ đạo và hướng dẫn tổ chức gi o dục bằng nhiều hình thức phong phú, ph hợp.
Đồng thời, khuyến khích gi o viên và học sinh cần tích cực, tự gi c trong việc tìm
hiểu về B c Hồ, về tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh thông qua c c cuộc
thi, hội thi, lồng ghép trong c c hoạt động ngoại kh a sinh hoạt đoàn, đội, sinh hoạt
lớp hay chào cờ đầu tuần…
Năm là, c c nhà trường phải hết sức chú trọng việc xây dựng một môi trường
sư phạm tốt đẹp cho học sinh, sinh viên. Bởi lẽ môi trường sư phạm chính là yếu tố
t c động trực tiếp, thường xuyên và sâu sắc đến việc gi o dục và rèn luyện đạo đức
cho người học. Môi trường này bao gồm: Môi trường văn h a vật chất là yếu tố
cảnh quan trường, lớp, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhà vệ sinh…; môi trường tâm
lý xã hội bao gồm nội quy, quy chế, c ch thức quản lý, c c điều hành trong nhà
trường… Muốn vậy, nhà trường cần thường xuyên quan tâm, tu sửa, nâng cấp, hoàn
thiện môi trường văn h a vật chất và đồng thời cần chú ý tới tổ chức đời sống, sinh
hoạt, hoạt động cho học sinh, sinh viên. Từ đ tạo cho học sinh c tâm lý yêu
trường yêu lớp, c sự thoải m i, tự gi c và tôn trọng lẫn nhau.
Ngoài ra, việc kết hợp giữa người dạy và người học cũng rất quan trọng.
Theo Hồ Chí Minh: “Thầy và tr thật thà đoàn kết và dung c ch dân chủ (thật thà tự
phê bình và phê bình) để giúp nhau tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi” [95, tr. 400]. Mối
145
quan hệ giữa thầy và tr c t c động nhanh và hiệu quả nhất đến việc hình thành
nhân c ch, đạo đức của người học. Bởi lẽ, thầy cô gi o không chỉ là người truyền
đạt tri thức, rèn luyện kĩ năng và c n là hình mẫu nhân c ch đối với học sinh của
mình. Sự t c động và c hiệu quả tích cực hay tiêu cực đến công t c gi o dục đạo
đức cho học sinh một phần lớn nằm ở vai tr của người gi o viên. Do vậy, việc
củng cố, xây dựng tốt mối quan hệ thầy – tr là một việc làm vô c ng quan trọng.
Trong xã hội: Môi trường gi o dục xã hội tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực là do
chính con người tạo nên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “…muốn gi o dục c c ch u
thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với
nhau” [101, tr. 77]. Nếu không làm như vậy, lỗi c c ch u một phần thì lỗi của người lớn
chúng ta là mười phần. Vậy, để ph t huy được vai tr của xã hội trong gi o dục cho học
sinh, sinh viên trên cơ sở quan điểm, tư tưởng của Người thì cần những giải ph p sau:
Một là, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính s ch, ph p luật của Nhà
nước phải hướng tới việc định hướng, xây dựng hệ gi trị nhân c ch đúng đắn cho
người học. Đồng thời những chủ trương, chính s ch đ không chỉ phải thể hiện sinh
động và kh i qu t c c gi trị đ trên nền tảng thang gi trị, chuẩn gi trị của xã hội
ta mà c n phải đồng bộ, nhất qu n, tr nh mâu thuẫn, tr ng lặp để tạo nên một hệ
thống gi trị ổn định, tiến bộ, làm nền tảng, định hướng đối với qu trình gi o dục
cho thế hệ trẻ.
Hai là, nên triển khai nhiều mô hình, c c trung tâm tư vấn về c c vấn đề xã
hội để đến đây, người học được tư vấn về những vấn đề như sức khỏe, giới tính,
t c hại của ma túy, cờ bạc, mại dâm và cả những băn khoăn, vướng mắc của tuổi
học tr .... Từ đ phần nào giúp định hướng cho họ c những suy nghĩ tích cực và
giúp họ giải quyết được những vấn đề nan giải trong cuộc sống, ph ng tr nh được
hiện tượng suy tho i đạo đức đang ngày một gia tăng.
Ba là, cần c sự hợp t c chặt chẽ với c c lực lượng học sinh, sinh viên như
Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong việc tổ chức c c hình thức ph t động c c phong
trào lôi cuốn học sinh, sinh viên tham gia như “Học tập vì ngày mai lập nghiệp”,
“Phong trào sinh viên tình nguyện” … nhằm ph t huy tinh thần tương thân tương i,
phát huy sức trẻ và khơi dậy tình yêu thương, l ng nhân i trong mỗi người.
146
Bốn là, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở những người làm công t c gi o dục
phải nhận thức đúng đắn “gi o dục là sự nghiệp của quần chúng”. Bởi kết quả của
gi o dục tốt hay xấu phụ thuộc phần nhiều vào sự tham gia, đ ng g p và giúp đỡ
của c c cấp ủy Đảng, chính quyền, c c ban ngành, của c c tầng lớp, lực lượng xã
hội cũng như của cha mẹ học sinh. Vì lẽ đ , Người yêu cầu gia đình, toàn thể c c
ngành, c c giới, c c cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm
đến sự nghiệp gi o dục. Người căn dặn trường học, gia đình, đoàn thể thanh niên
cần chú ý đến việc gi o dục tư tưởng, đạo đức trong hoạt động và sinh hoạt hàng
ngày của thanh niên để kịp thời uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm. Gi o dục học sinh,
sinh viên là nhiệm vụ của trường học, gia đình và xã hội cho nên phải c sự kết hợp
toàn diện, đồng bộ giữa c c ngành khoa học, c c tổ chức, c c môi trường và c c quy
mô gi o dục…. nhằm xây dựng và hoàn thiện môi trường gi o dục lành mạnh cho
thế hệ trẻ. Bởi lẽ nếu thiếu sự kết hợp này sẽ làm cho qu trình gi o dục không
tr nh khỏi những hạn chế, phiến diện.
Năm là, để tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong
việc gi o dục đào tạo thì cần phải làm cho lãnh đạo nhà trường và gi o viên nhận
thức sâu sắc về sự cần thiết phải tổ chức c c hoạt động phối hợp trên cơ sở thống
nhất mục đích, nhiệm vụ. Bên cạnh đ , cần xây dựng mối quan hệ tr ch nhiệm giữa
nhà trường, gia đình và c c tổ chức đoàn thể xã hội bằng c ch đặt ra c c yêu cầu đối
với mỗi thiết chế, phân công tr ch nhiệm của từng thiết chế trong qu trình giải
quyết nhiệm vụ chung, tạo ra sự hiểu biết, hỗ trợ, kiểm tra đôn đốc lẫn nhau. Phía
nhà trường cũng cần phải chủ động lôi cuốn gia đình và xã hội c ng tham gia vào
công t c gi o dục đào tạo bằng c ch thuyết phục, vận động trên cơ sở c c chủ
trương xã hội h a gi o dục của Đảng. Để hướng dẫn, tham mưu cho gia đình và c c
tổ chức đoàn thể xã hội đ i hỏi nhà trường phải lập chi tiết kế hoạch tổ chức, kiểm
tra và có thông b o kịp thời kết quả học tập, rèn luyện của mỗi học sinh, sinh viên
và đi đến thống nhất mục tiêu gi o dục chung. Từ đ x c định những nhiệm vụ
chung phải giải quyết, phân công nhiệm vụ riêng cho từng tổ chức thực hiện ph
hợp với điều kiện, khả năng đặc th của từng nơi, tạo ra sự t c động thống nhất từ
phía gia đình đến nhà trường và xã hội để hỗ trợ nhau c ng thực hiện.
Sáu là, thực hiện tốt công t c tuyên truyền để mọi người dân, mọi gia đình và
147
toàn xã hội c tr ch nhiệm thực sự đối với công t c gi o dục – đào tạo. Cần tạo môi
trường gi o dục lành mạnh, trong đ c c bậc cha mẹ, thầy cô gi o, c c c n bộ quản
lý gi o dục phải là những tấm gương s ng về cả tài và đức, kiên quyết đẩy l i mọi
tiêu cực trong gi o dục – đào tạo, nhận thức đúng tr ch nhiệm của mình, sống c nề
nếp, kỉ luật, kỉ cương nhằm đưa người học vào vị trí trung tâm, là cầu nối giữa gia
đình và nhà trường. Cần c những hình thức khen thưởng động viên những tổ chức
làm tốt, phê ph n những tổ chức làm chưa tốt để vừa nhắc nhở vừa khuyến khích
toàn xã hội tham gia tích cực vào công t c gi o dục – đào tạo. Quan trọng hơn cả,
để xây dựng tốt mối quan hệ chặt chẽ thống nhất giữa gia đình, nhà trường và c c tổ
chức đoàn thể xã hội cần phải đưa người học vào cầu nối giữa gia đình và nhà
trường, đồng thời duy trì và đảm bảo tốt mối quan hệ này trong qu trình gi o dục
họ trở thành những con người ph t triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ như Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng khẳng định.
Để mỗi đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, cần thiết phải c sự kết hợp
giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Việc củng cố nâng cao tính thống nhất và xây
dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội chính là giải ph p hữu
hiệu nhất cho vấn đề này. Muốn vậy, cần phải tìm kiếm con đường tổ chức phối hợp
chặt chẽ giữa c c lực lượng gi o dục này và phải làm cho quan hệ giữa họ c chiều sâu,
đem lại hiệu quả, khắc phục tình trạng hình thức, hời hợt đang phổ biến hiện nay. Bên
cạnh đ , cần huy động nhà trường, gia đình và xã hội tham gia tích cực vào công t c
gi o dục học sinh, sinh viên nhằm xây dựng nên một môi trường gi o dục lành
mạnh, g p phần làm cho mọi người c ng tự gi c, tích cực tham gia vào sự nghiệp
“trồng người”. Từ đ , c c cấp, c c ngành, c c tổ chức đoàn thể xã hội, gia đình đều
phải nâng cao nghĩa vụ, tr ch nhiệm trong việc đ ng g p sức lực, trí tuệ, tiền của
vào việc chăm lo gi o dục – đào tạo, tạo mọi điều kiện cho c c em được học tập
nâng cao trình độ mọi mặt và tích cực tham gia xây dựng đất nước. Ngoài ra, cần
khắc phục hoàn toàn tình trạng thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa c c cấp học, c c bộ phận
c ng chịu tr ch nhiệm trong gi o dục thế hệ trẻ. Bởi sự ph t triển con người là liên tục,
gi o dục với tư c ch là qu trình hướng dẫn sự ph t triển của con người cũng phải liên
tục. Sự phân chia c c cấp học như phổ thông, cao đẳng, đại học bộ phận này ph t huy kết
quả của bộ phận gi o dục kia và bổ sung những chỗ c n thiếu s t, g p phần làm cho nền
148
gi o dục của đất nước bao gồm c c cấp, c c ngành, trường học, gia đình, xã hội c ng tiến
hành đồng bộ và c hiệu quả trong công t c gi o dục n i chung, đổi mới gi o dục căn
bản, toàn diện n i riêng.
Việc củng cố vị trí, chức năng của c c chủ thể gi o dục nhằm xây dựng mối
quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cũng rất cần thiết. C c chủ thể
gi o dục bao gồm: nhà trường, đội ngũ gi o viên, gia đình, c c tổ chức gi o dục xã
hội. Muốn vậy, chúng ta cần phải giải quyết vấn đề kết hợp và thống nhất từ c c chủ
thể gi o dục này, đảm bảo từ c c chủ thể sự thống nhất về nhu cầu, mục tiêu gi o
dục qua việc tổ chức c c qu trình gi o dục. Đồng thời, việc thực hiện c c nhiệm vụ
trên cần được tiến hành trên cơ sở nâng cao ý thức tr ch nhiệm và trình độ sư phạm
cũng như đi đôi với việc giải quyết những vấn đề thuộc về điều kiện thực hiện.
Cần x c định rõ vị trí trung tâm của nhà trường trong mối quan hệ giữa gia
đình – nhà trường – xã hội. Trong nhiệm vụ gi o dục thì nhà trường đ ng vai tr
n ng cốt, do vậy, phải xây dựng nhà trường trở thành trung tâm văn h a sư phạm
của cộng đồng, một thiết chế gi o dục của cộng đồng để ở đ , mỗi học sinh – sinh
viên sau khi rời ghế nhà trường đều c thể trở thành những người công dân hữu ích
cho xã hội, trở thành nơi dạy nghề và dạy người hiệu quả nhất. Ngoài ra, cần xây
dựng cũng như củng cố mối quan hệ gi o dục thống nhất với gia đình và xã hội, lôi
cuốn họ vào c c hoạt động sư phạm và giúp đỡ họ c kiến thức cần thiết để tham
gia vào thực hiện nhiệm vụ chung.
Ngoài những giải ph p trên đây, bên cạnh việc tăng đầu tư cho gi o dục, hiện
đại h a chương trình nội dung đào tạo, cần phải chú trọng hơn nữa đến cơ cấu, c ch
thức đ nh gi kết quả học tập, rèn luyện của người học bằng chế độ thi cử, tuyển chọn
khoa học. Bởi lẽ mục tiêu chiến lược của ngành gi o dục đào tạo nước ta là tạo ra cho
đất nước những con người ph t triển toàn diện và nguồn nhân lực c chất lượng cao,
đ p ứng yêu cầu ph t triển của đất nước trong thời kỳ mới. Mà trên thực tế, nội dung
thi cử là vấn đề cực kỳ quan trọng, c t c dụng to lớn định hướng qu trình học tập rèn
luyện của học sinh, sinh viên.
Tăng cường công t c kiểm tra, gi m s t việc đưa nội dung học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong c ch Hồ Chí Minh vào giảng dạy trong c c trường
học. Qua đ , kịp thời ph t hiện, biểu dương những tấm gương điển hình, những
149
c ch dạy c ch học hay, s ng tạo; kịp thời phê bình, chấn chỉnh những trường học
thực hiện không nghiệp túc, không hiệu quả để tr nh việc thực hiện mang tính
chống chế, tổ chức hình thức. Đồng thời, cần đặc biệt quan tâm, khuyến khích đội
ngũ c n bộ, gi o viên trong việc tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu vươn lên, trở thành
tấm gương s ng cho học sinh, sinh viên noi theo. C như vậy, công cuộc đổi mới
căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam mới giành được thắng lợi và nhiệm vụ bảo
vệ, xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh mới thành công.
150
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Hiện nay, bức tranh toàn cảnh giáo dục thế giới và giáo dục Việt Nam đã c
nhiều thay đổi nhưng những tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục vẫn còn nguyên
giá trị. Việc vận dụng đến đâu, vận dụng những gì và vận dụng như thế nào để
nhằm loại bỏ những “căn bệnh” tồn đọng trong giáo dục nước ta lâu nay, khắc phục
những yếu kém, bất cập, bảo đảm thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục chính là nhiệm vụ đặt ra đối với những người làm công tác giáo dục nói
riêng và đối với ngành giáo dục Việt Nam n i chung. Để giáo dục thực sự trở thành
“quốc s ch hàng đầu”, nước ta cần có sự thay đổi tích cực và mạnh mẽ trên tất cả
các cấp học, bậc học, ngành học tại tất cả các tỉnh thành trên địa bàn cả nước nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đ p ứng ngày càng tốt hơn công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như nhu cầu học tập của mọi người dân. Để nâng
cao hiệu quả việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong qu trình đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay, cần thiết phải nâng cao nhận
thức của các chủ thể về tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục; thường xuyên tổng kết,
đ nh gi công t c vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục; tiếp tục học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người đồng thời tăng cường sự phối
hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục là một quá trình cách mạng diễn ra từ
trình độ thấp đến trình độ cao, có sự kế thừa, phát huy những thành tựu của giai
đoạn trước và khắc phục những nhược điểm, hạn chế để từ đ đưa qu trình gi o
dục phát triển lên một trình độ mới cao hơn về mọi mặt.
151
KẾT LUẬN
Bên cạnh những thành tựu và bước ph t triển đ ng ghi nhận, qu trình công
nghiệp h a, hiện đại h a ở Việt Nam đã và đang đứng trước những kh khăn, th ch thức
bởi những yếu tố kh ch quan và nhân tố chủ quan, trong đ yếu tố gi o dục đ ng vai tr
then chốt. Đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam chính là mục tiêu cao nhất
nhằm ph t huy nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước trong tương lai đồng thời
thực hiện tốt công t c gi o dục chính là động lực để chúng ta nắm bắt được c c thành tựu
về khoa học công nghệ trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục là sự kết tinh của những gi trị gi o dục
truyền thống dân tộc, gi trị gi o dục phương Đông, phương Tây, chủ nghĩa M c –
Lênin… Tư tưởng gi o dục của Người cho đến nay vẫn c n nguyên gi trị. Về mặt lý
luận, tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục đã trở thành cơ sở quan trọng để c c chủ thể
gi o dục xây dựng nên c c chiến lược trong đổi mới mục tiêu gi o dục, nội dung gi o
dục, phương ph p gi o dục, từ đ vận dụng c c chiến lược này vào trong qu trình đổi
mới căn bản, toàn diện gi o dục Việt Nam ở tất cả c c cấp học, bậc học trong hệ thống
gi o dục quốc dân. Về mặt thực tiễn, tư tưởng gi o dục Hồ Chí Minh đã chỉ đạo qu
trình đổi mới gi o dục xuyên suốt từ năm 1945 khi Việt Nam bắt đầu xây dựng nền gi o
dục mới cho đến nay. Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục đồng thời là
cơ sở cho việc đề xuất, xây dựng triết lý gi o dục Hồ Chí Minh n i riêng và triết lý gi o
dục Việt Nam n i chung để từ đ làm căn cứ và phương ph p luận cho gi o dục Việt
Nam đi đúng hướng, tr nh được những hạn chế, sai lầm.Ngoài ra, trên cơ sở định hướng
chiến lược ph t triển gi o dục và đào tạo trong thời kì đổi mới, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã đề ra Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện gi o dục
và đào tạo khẳng định gi o dục và đào tạo là quốc s ch hàng đầu, đây được coi là bước
ngoặt quan trọng, c ý nghĩa to lớn trong việc mở ra một thời kì mới cho sự ph t triển
của gi o dục Việt Nam. Những nội dung được đưa ra trong Nghị quyết không chỉ là định
hướng cho nền gi o dục quốc dân mà c n trở thành nhiệm vụ bắt buộc cho toàn Đảng,
toàn dân ta phải thực hiện và làm theo. C như vậy mới tạo được sự đồng thuận cao
trong xã hội, thúc đẩy sự ph t triển chung của đất nước. Công cuộc đổi mới chỉ c thể
thành công khi c cơ sở lý luận và thế giới quan khoa học, đúng đắn. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về gi o dục chính là cơ sở lý luận quan trọng ấy.
152
Những gi trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục không chỉ là kim chỉ nam cho
việc x c định c c chiến lược đào tạo con người, chủ trương đường lối chỉ đạo ph t triển nền
gi o dục của Đảng ta qua c c thời kỳ c ch mạng, mà c n là những bài học, những kinh
nghiệm thực tiễn gi o dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công
t c gi o dục n i riêng và ngành gi o dục n i chung. Nhờ sự nhận thức ngày càng tăng lên
của c c chủ thể gi o dục về tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục, sự quan
tâm, nỗ lực không ngừng của c c c n bộ quản lý, gi o viên, c c nhà trường, tổ chức, c c
đoàn thể xã hội mà công cuộc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới căn bản, toàn
diện gi o dục Việt Nam thời gian qua đã đạt được nhiều ưu điểm nổi bật ở tất cả c c cấp học,
bậc học, từ mầm non cho đến đại học trên c c phương diện về mục tiêu gi o dục, nội dung
gi o dục và phương ph p gi o dục. Đ đồng thời là kết quả của sự kết hợp giữa bản chất ưu
việt của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng với bề dày truyền thống văn h a lâu đời
của dân tộc ta. Tuy nhiên, qu trình vận dụng tư tưởng gi o dục của Người vẫn c n không ít
những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện mục tiêu, nội dung, phương ph p gi o dục và
thực hiện công bằng xã hội ở c c cấp học trong hệ thống gi o dục quốc dân. Nguyên nhân
của những hạn chế xuất ph t từ sự nhận thức việc thể chế h a c c quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước; từ tư duy gi o dục của c c cơ sở gi o dục, từ chất lượng của đội ngũ nhà
gi o và quản lý gi o dục …
Trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, việc đổi mới căn bản, toàn
diện gi o dục Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và không ít những th ch thức mới.
Để xây dựng thành công một nền gi o dục bền vững, ph t triển đ p ứng được yêu cầu
của thời đại thì việc tiếp tục vận dụng và ph t triển tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục là
việc làm tất yếu. C ng với đ , chúng ta phải c những giải ph p đồng bộ, mang tầm
chiến lược, dài hơi và toàn diện trên tất cả c c mặt, c c yếu tố liên quan, đồng thời cần c
sự tham gia, đ ng g p nhiệt thành từ c c chủ thể gi o dục nhằm khắc phục những hạn
chế, yếu kém của gi o dục Việt Nam thời gian qua. C như vậy, chúng ta mới c thể đào
tạo thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước trở thành những công dân vừa c
đạo đức, vừa c trí tuệ, c sức khỏe, c nhận thức thẩm mỹ vừa “hồng” vừa “chuyên”
như lời dặn của Người. Nếu như chủ nghĩa M c - Lênin là một học thuyết mở thì tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục n i riêng cũng luôn
cần bổ sung những yếu tố thời đại để ph t huy ý nghĩa là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của toàn Đảng và toàn dân ta.
153
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌCCỦA TÁC GIẢ
1. Phạm Thị Thu Hằng (2014). Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh – một số nội dung
cơ bản, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 219, 2014. ISSN: 0868 - 3492.
2. Phạm Thị Thu Hằng (2017). Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và ý nghĩa đối
với giáo dục, đào tạo ở nước ta hiện nay, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc
biệt tháng 10, 2017. ISSN: 1859 - 3917.
3. Phạm Thị Thu Hằng (2018). Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhà giáo,
Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt kỳ 2, tháng 5/2018. ISSN: 1859 - 3917.
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2005), "Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào giảng dạy c c môn khoa học M c –
Lênin hiện nay", Tạp chí Giáo dục chính trị, số (5).
2. Hoàng Anh (2007), "Vận dụng phương ph p gi o dục Hồ Chí Minh vào
đổimới phương ph p gi o dục đại học hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị và
Truyền thông, số (7).
3. Hoàng Anh (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào
tạo đại học hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh (2013), "Bốn mươi lăm năm thực hiện bức thư cuối cùng
Hồ Chí Minh gửi cho ngành giáo dục", Đặc san Hồ Chí Minh học, số (4).
5. Ban Tuyên gi o Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viện nghiên cứu phát triển
phương Đông (2014), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.57
6. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nghệ An (1989), Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb Sự
thật, Hà Nội, tr. 18.
7. Bộ Giáo dục và đào tạo (2007), Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
8. Đặng Quốc Bảo (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
9. Đặng Quốc Bảo (2011), Phát triển sự nghiệp giáo dục dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
10. Lê Khánh Bằng (1980), Hồ chủ tịch với việc giáo dục con người mới Việt
Nam, Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, Hà Nội.
11. Nguyễn Khánh Bật (2007), Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
12. Nguyễn Văn Chung (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và sự vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
13. Phan Văn C c (chú dịch): Luận ngữ - Học nhi
14. Chỉ thị số 40 – CT/TW của Ban Bí thư về việc xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà gi o và c n bộ quản lý giáo dục.
155
15. Chiến lược phát triển Giáo dục 2001 – 2010, (Ban hành kèm theo Quyết định
số 201/2001/QĐ – TTG ngày 28/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ)
16. Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020, Nxb Lao động, Hà Nội, 2010.
17. Trịnh Doãn Chính (2007), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục", Tạp chí
Giao thông vận tải, số (11).
18. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí (dư địa chí, bản dịch),
Nxb Sử học, Hà Nội, tr.65.
19. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện, LATS Triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
20. Nguyễn Thị Kim Dung (2013), "Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục lý
luận", Đặc san Hồ Chí Minh học, số (3).
21. Đào Xuân Dũng (2013), "Quan điểm của Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng
lý luận cho cán bộ, đảng viên", Tạp chí Lịch sử Đảng, số (8).
22. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đoàn Nam Đàn (2000), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào
tạo thanh niên ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
24. Đoàn Nam Đàn (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2,
khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.12.
29. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, 8, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013
về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện hội nghị Trung ương 8 khóa XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp
hành Trung ương khoá XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp
hành Trung ương khoá XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Trần Minh Đoàn (2002), Giáo dục đạo đức cho thanh niên theo tư tưởng Hồ
Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
39. Lã Quý Đô (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đối với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Phạm Văn Đồng (2010), Học Hồ Chí Minh chúng ta học gì, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
41. Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Phạm Minh Hạc… (2013), Bác Hồ với sự
nghiệp giáo dục đào tạo, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
42. Phạm Gia Đức, Phạm Quang Định, Đặng Văn Lâm (2003), Giáo dục, rèn
luyện thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb Quân đội, Hà Nội.
43. Vũ Văn Gầu – Nguyễn Anh Quốc (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự
nghiệp phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
44. Nguyễn Tĩnh Gia (2000), Tư tưởng triết học về con người trong chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh, Chương 5 - cuốn " Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh",
Nxb Lao động, Hà Nội.
157
45. Ninh Viết Giao – Trần Minh Tâm (1989), Quê hương Nam Đàn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46.
Võ Nguyên Giáp (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người mới- In trong cuốn "Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản
kiên cường...", Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
47. Phạm Minh Hạc (2001), Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh, Tạp chí cộng sản, số 828
48. Phạm Minh Hạc (Chủ nhiệm) (2003), Báo cáo tổng hợp đề tài: “Cơ sở triết
học của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (2010), Một số vấn đề giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI, 49.
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Phạm Minh Hạc (2011), "Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản,
số (828).
51. Phạm Minh Hạc (2011), "Triết lý giáo dục Việt Nam trong thời kỳ đổi mới",
Tạp chí Giáo dục, số (259).
52. Phạm Minh Hạc - Phan Văn Kha (chủ biên) (2013), Bàn về triết lý giáo dục
Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. – cùng tên tac sgiar, sắp xếp theo
năm xuất bản
53. Phạm Minh Hạc (2013), Triết lý giáo dục Thế giới và Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
54. Đào Thanh Hải, Minh Tiến sưu tầm, tuyển chọn (2005),Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục, Nxb Lao động, Hà Nội.
55. Cao Thu Hằng (2008), "Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa M c về
giáo dục và ý nghĩa của n đối với vấn đề đổi mới giáo dục ở nước ta hiện
nay", Tạp chí Triết học, số (11).
56. Mai Trung Hậu (2000), Về vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
Chương 5 - cuốn" Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh", Nxb Lao động, Hà Nội.
57. Đặng Vũ Hiệp, Phạm Minh Hạc (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
trong lĩnh vực quân sự, Quân đội nhân dân.
58. Đỗ Đức Hinh (2006), "Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
một nền giáo dục Việt Nam hiện đại", Tạp chí Cộng sản, số (18).
59. Bùi Hiền (2001), Từ điển Giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội,
60. Bùi Hiền (2004), "Chất lượng giáo dục, chưa thể vừa ý nhưng cần tự tin",
Tạp chí Khoa giáo, số (8), tr.23.
158
61. Bùi Minh Hiền (2005), Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội
62. Khổng Khang Hoa và Lương Vị Hùng (2008), Triết học giáo dục hiện đại,
63.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr.93-94
Lê Thị Thanh Hoa (2008), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào
việc đổi mới giáo dục cao đẳng ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Hà Nội.
64. Nguyễn Quang Hoài (2002), "Mấy vấn đề cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục", Tạp chí Lý luận chính trị, số (5).
65. Lê Quang Hoan (2001), “Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân
tố con người trong Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”,
Luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
66. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
67. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2002): Từ
điển bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr.120.
68. Nguyễn Đắc Hưng (2005), Tri thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Tiến Hùng (2007), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng
phương ph p dạy học của người thầy trong giáo dục lý luận chính trị", Tạp
chí Giáo dục lý luận, số 1 + 2.
70. Hoàng Thị Hương (2014), "Tăng cường liên hệ thực tế trong dạy học các
môn lý luận chính trị nhằm đ p ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo", Tạp chí Giáo dục, số (331).
71. Phan Văn Khải (2006), Đổi mới sâu rộng, phát triển đất nước nhanh và bền
vững, tiến cùng thời đại của, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Vũ Ngọc Kh nh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Thu Hà (2010): Từ điển Văn
hóa giáo dục Việt Nam, Nxb Văn h a thông tin, Hà Nội, tr.111.
73. Vũ Khiêu (1990), “Trồng cây và trồng người”, Tạp chí Triết học, số (4).
74. Hoàng Kiếm (2009), Công nghệ thông tin – động lực cho đổi mới và tăng
trưởng Giáo dục Đại học Việt Nam, Hội thảo ngành giáo dục Việt Nam.
75. Hoàng Văn Kiếm (4/2012), Công nghệ thông tin – động lực cho đổi mới và
tăng trưởng Giáo dục Đại học và Sáng tạo, Hội thảo đổi mới căn bản và toàn
diện GDĐH Việt Nam, ĐH Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
159
76. Đặng Xuân Kỳ (Tổng chủ biên), 2006, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77.
Lê Thị Ngọc Lan (2007), Tìm hiểu vài nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức cho học sinh, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 12.
78. Nguyễn Lân (1990), Hồ Chủ tịch - nhà giáo dục vĩ đại, Nxb Khoa học và xã
hội Hà Nội.
79. Phan Ngọc Liên – Nguyễn An (2002), Bách khoa thư Hồ Chí Minh: Tư liệu -
Sơ giản, Hồ Chí Minh với giáo dục đào tạo, tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
80. Phan Ngọc Liên (2007), Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Từ điển B ch khoa,
Hà Nội.
81. Phan Ngọc Liên (2009), Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường,
Nxb Từ điển B ch khoa, Hà Nội.
82. Phạm Văn Linh (2014), Đổi mới căn bản, toàn diện nền Giáo dục Việt Nam.
Thời cơ, thách thức và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hoàng Linh (2009), Có một giáo dục học Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo liên
khoa, Học viện Chính trị, Hà Nội.
84. Vương Công Lý (2014), Giáo dục – Đào tạo với việc phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay, LATS Triết học, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
85. Luật Giáo dục (2005), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
86. C.M c và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4.
87. Đặng Huỳnh Mai (2011), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đổi mới gi o
dục Việt Nam", Tạp chí Giáo dục, số (260).
88. Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (2006), Tập 1, 1890 – 1929, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội, tr.63
89. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93.
94. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160
97. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 10, Lời giới thiệu tập 10 của Nhóm xây
dựng bản thảo (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. XV.
100. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Phạm Xuân Nam (2005), Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
106. Võ Văn Nam (2008), Tư tưởng tự học Hồ Chí Minh và biện pháp nâng cao
việc tự học cho sinh viên Đại học Sư phạm, LATS Giáo dục học, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
107. Phạm Thanh Nghị (2000), Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội
108. Nguyễn Chương Nhiếp, Nguyễn Ngọc Thu, Trần Thúy (1996), Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ, Nxb Khoa học xã hội.
109. Nguyễn Khắc Nho (2008), Hồ Chí Minh – đỉnh cao truyền thống nhân – trí –
dũng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
110. B i Đình Phong (1994), Giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho mọi
người - cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 3.- năm
xuất bản trước thì đặt trước
111. B i Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. B i Đình Phong (2012), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về gi o dục - đào tạo, gi
trị toàn cầu và ý nghĩa thời đại", Đặc sanHồ Chí Minh học, số (4).
113. Phùng Hữu Phú (1990), "Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội", Tạp chí Thông tin lý luận, số (7).
114. Lý Việt Quang (2017), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với vấn đề đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
161
115. Hồ Sĩ Quý (2005), "Nghiên cứu con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước", Tạp chí Cộng sản, số (17), tr.43-46.
116. Tô Huy Rứa (2006), "Đổi mới tư duy lý luận phục vụ sự nghiệp ph t triển
đất nước", Tạp chí lý luận chính trị, số (5).
117. Trương Văn Tài (2004), Tìm hiểu về công tác đổi mới giáo dục và đào tạo ,
Nxb Lao động xã hội.
118. Đỗ Thị Thạch (2008), "Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước
và hội nhập quốc tế", Tạp chí lý luận chính trị, số (6), tr. 53-58.
119. Hoàng Thị Tuyết Thanh (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận
dụng vào xây dựng xã hội học tập ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sỹ triết học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.
120. Song Thành (1997), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược
trồng người" , Tạp chí Công tác khoa giáo, tháng 12.
121. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
122. Song Thành (2014), "Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính
trị, số (6).
123. Đỗ Quang Thắng (2003), "Phương châm, phương ph p gi o dục thế hệ trẻ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Giáo dục, số (49).
124. Lê Sĩ Thắng (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã
hội , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Mạnh Quang Thắng (2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội
126. Nguyễn Thị Thúy (2006), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Tạp chí
Giáo dục lý luận, số (5), tr. 3-5.
127. Nguyễn Thị Thúy (2017), Vai trò của giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay, số 4 (311), 4/2017.
128. Hoàng Thu Trang (2014), "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 kh a XI", Tạp chí Khoa
học chính trị, số (3).
162
129. Hoàng Trang (2005), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – Những nội dung
cơ bản", Tạp chí Giáo dục, số (114).
130. Trần Ngọc Trình (2014), "Nhận thức về đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế", Tạp
chí Khoa học Giáo dục, số (6).
131. Trần Đình Tuấn (2014), "Đổi mới mục tiêu giáo dục trong bối cảnh đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo", Tạp chí Khoa học Giáo dục, số (105).
132. Trịnh Đình T ng - Lê Đình Năm (2013), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào qu trình đổi mới nền giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay", Đặc san
Hồ Chí Minh học, số (1).
133. Thái Duy Tuyên (chủ biên) (2003), Cơ sở triết học của tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, B2001-49-16
134. Hoàng Tụy (2013), Giáo dục: Xin cho tôi nói thẳng, Nxb Tri thức, Hà Nội.
135. Từ điển tiếng Việt phổ thông (1987), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Từ điển tiếng Việt thông dụng (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
137. Từ điển Giáo dục học (2001), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
138. Nguyễn Thị Hồng Vân (2005), "Giáo dục với phát triển nguồn nhân lực phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí phát triển giáo dục, số (4), tr 7-
9.
139. Đăng Huy Vận, Chương Thâu (1961), Những đề nghị cải cách của Nguyễn
140.
Trường Tộ cuối thế kỷ XIX, Hà Nội
Nguyễn Vũ (2009), Hồ Chí Minh với ngành giáo dục, Nxb.Thanh niên, Hà
Nội.
141. Nghiêm Đình Vỳ (2008), Hồ Chí Minh về giáo dục toàn thư, Nxb. Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
142. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2007), “Hồ Chí Minh về giáo
dục đào tạo”, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội
143. Viện Ngôn ngữ học (2006): Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội, tr.394.
144. Viện Ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên) (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb
Hồng Đức.
145. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NxbVăn hóa Thông tin, Hà Nội.
146. Nguyễn Như Ý - Nguyễn Thị Tình (chủ biên) (2006), Bác Hồ với giáo dục,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
147. Lê Văn Yên (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb Lao động, Hà Nội.
163
Trang Web:
148. Hồ Sỹ Anh (2017), "Công bằng và chất lượng giáo dục đang bị ảnh hưởng",
https://thanhnien.vn/giao-duc/cong-bang-va-chat-luong-giao-duc-dang-bi-anh-
huong-908487.html
149. Thảo Anh (2019), "Ngăn chặn từ gốc tình trạng bạo lực học đường",
https://nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/39791102-ngan-
chan-tu-goc-tinh-trang-bao-luc-hoc-duong.html
150. Bá Hải (2018), "Chủ động nâng cao năng lực đội ngũ gi o viên đ p ứng
Chương trình, s ch gi o khoa mới", https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/chu-
dong-nang-cao-nang-luc-doi-ngu-giao-vien-dap-ung-chuong-trinh-sach-giao-
khoa-moi-3948331-b.html
151. B o Đảng Cộng sản Việt Nam, http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-
lieu-ve-dang/sach-ve-cong-tac-dang/books-10520153565356/index
1052015351515676.html
152. B o Lao động (2012), "Bốn trọng bệnh của nền giáo dục Việt Nam",
https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/bon-trong-benh-cua-nen-giao-
duc-viet-nam-1351299644.htm
153. B o Nhân dân (2019), "Ngăn chặn từ gốc tình trạng bạo lực học đường",
https://nhandan.com.vn/chinhtri/binh-luan-phe-phan/item/39791102-ngan-
chan-tu-goc-tinh-trang-bao-luc-hoc-duong.html
154. Bích Diệp (2013), “Hơn 100.000 sinh viên đại học thất nghiệp trong năm
2013",
báo Dân
trí điện
tử,
số
ra
ngày
23-12-2013
https://dantri.com.vn/kinh-doanh/hon-100000-sinh-vien-dai-hoc-that-nghiep-
trong-nam-2013-1388272237.htm
155. Bộ Giáo dục và Đào tạo, https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-
dan-toc/Pages/Default.aspx?ItemID=6182
156. https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-mam-
non/Pages/Default.aspx?ItemID=5941
157. https://moet.gov.vn/Pages/tim-kiem.aspx?ItemID=4552
164
158. Bộ Giáo dục và Đào tạo, https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tt-gddt-hang-
quy.aspx?ItemID=5620
159. https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/to-gap.aspx?ItemID=6638
160. Bộ Giáo dục và Đào tạo, https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ke-giao-
duc-mam-non.aspx
161. Bộ Giáo dục và Đào tạo,https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ke-giao-
duc-tieu-hoc.aspx
162. Bộ Giáo dục và Đào tạo,https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/Thong-ke-giao-
duc-thuong-xuyen.aspx
163. Bộ Giáo dục và Đào tạo,https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ke-Giao-
duc-chuyen-nghiep.aspx?ItemID=4046
dai-hoc.aspx
165. Bộ Giáo dục và Đào tạo,https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tt-gddt-hang-quy.aspx
164. Bộ Giáo dục và Đào tạo,https://moet.gov.vn/thong-ke/Pages/thong-ko-giao-duc-
166. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tt-gddt-hang-quy.aspx?ItemID=6297
167. https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tt-gddt-hang-quy.aspx?ItemID=6458
168. Bộ Văn h a Thể thao và Du lịch (2018), "Công tác giáo dục thể chất và
thể thao trong trường học tại c c trường Cao đẳng, Đại học trên địa bàn
Hà Nội",
https://tdtt.gov.vn/chuyen-nganh/giao-duc-%C4%91ao- tao/cong-tac-
giao-duc-the-chat-va-the-thao-trong-truong-hoc-tai-cac-truong-cao- dang-
dai-hoc-tren-dia-ban-ha-noi
169. Hiếu Nguyễn (2018), "Cơ bản đạt mục tiêu xóa mù chữ đến năm 2020",
https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/co-ban-dat-muc-tieu-xoa-mu-chu-den-
nam-2020-3957721-v.html
170. Tân Long (2019), "Quyền được giáo dục ở Việt Nam: Từ chinh s ch đến
thành tựu", https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/quyen-duoc-giao-duc-o-viet-
nam-tu-chinh-sach-den-thanh-tuu-3778364.html
171. Luật số 08/2012/QH13 của Quốc hội: Luật giáo dục Đại học (Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18.06.2012),
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban
172. Luật số 44/2009/QH12 của Quốc hội Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
165
dục Luật giáo số 38/2005/QH11,
http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban
173. Trần Văn Nhung, "Hồ Chí Minh: Nhà gi o dục đi trước thời đại", văn-
hoanghean.com.vn.../ho-chi-minh-nha-giao-duc-di-truoc-thoi-dai
174. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai BCHTƯ Đảng (khóa VIII) về định hướng
chiến lược phát triển Giáo dục và Đào tạo trong thời kỳ công nghiêp hóa hiện
đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000,
http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/de-tails
175. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET
176. Trần Văn Phúc, Nguyễn Kim Chuyên (2014), Tạp chí khoa học, th ng
12, số 16, tr.61, "Gia đình - yếu tố quan trọng trong gi o dục đạo đức
cho học sinh, sinh viên",
https://tckh.tvu.edu.vn/sites/default/files/magazine-dfs/tapchiso16_pdf_10.pdf
177. Dương Tâm (2018), "Việt Nam chi 700 USD mỗi năm cho một sinh viên",
https://vnexpress.net/viet-nam-chi-700-usd-moi-nam-cho-mot-sinh- vien-
3794416.html
178. Phạm Thảo (2019), "Gi o dục thể chất trong trường học: Cần đi vào thực
chất", https://laodongthudo.vn/giao-duc-the-chat-trong-truong-hoc-can-di-
vao-thuc-chat-89200.html
179. Tổng cục Thể dục Thể thao (2019), "Công t c gi o dục thể chất và thể thao
trong trường học c n nhiều kh khăn", https://tdtt.gov.vn/en-us/chuyen-
nganh/cong-tac-giao-duc-the-chat-va-the-thao-trong-truong-hoc-con-
nhieu-kho-khan
180. Vụ Giáo dục Tiểu học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, "Thực trạng giáo dục tiểu
học và giải pháp triển khai chương trình gi o dục phổ thông mới",
https://bigschool.vn/thuc-trang-giao-duc-tieu-hoc-va-giai-phap-trien-khai-
chuong-trinh-giao-duc-pho-thong-moi