BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----------------------------

NGÔ THỊ MẾN

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH KINH TẾ HỌC

HÀ NỘI - 2025

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------------------------

NGÔ THỊ MẾN

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM

Chuyên ngành: KINH TẾ HỌC Mã số: 9310101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN KHẮC MINH

HÀ NỘI - 2025

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng năm 2025

Tác giả

Ngô Thị Mến

ii

LỜI CÁM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành nhất và sự tri ân sâu sắc nhất đến

GS.TS. Nguyễn Khắc Minh cho sự hướng dẫn nhiệt tình, những đóng góp và gợi ý quý

báu để tôi có thể hoàn thành luận án. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới GS.TS.

Nguyễn Khắc Minh cho cho những khích lệ và hỗ trợ về mọi mặt để tôi có thể vượt qua

những khó khăn trong suốt thời gian thực hiện luận án.

Tôi xin trân trọng cám ơn Ban Giám Hiệu Đại học Kinh tế Quốc dân, Khoa Kinh

tế học, Bộ Môn Kinh tế học Vĩ Mô cùng toàn thể các Thầy Cô trong Khoa đã giúp đỡ và

tạo điều kiện cho tôi được tiếp tục học tập và nghiên cứu tại Trường, Khoa và Bộ Môn.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Viện Đào tạo Sau đại học, đặc biệt là các

Thầy, Cô, các cán bộ của Bộ Phận Quản lý Nghiên cứu sinh, Phòng Thư Viện và các Phòng

Ban chức năng của Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân đã nhiệt tình giúp đỡ hết sức vô tư

và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường.

Tôi xin trân trọng cám ơn Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp

Nông thôn, VINAFOOD I và VINAFOOD II thuộc Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông

thôn, Vụ Thống kê Thương mại và Dịch vụ và Vụ Thống Kê Nông, Lâm nghiệp và Thủy

sản thuộc Tổng cục Thống kê, Bộ Công Thương và các Vụ, Viện đã cho phép tôi được

tiếp cận với những dữ liệu cũng như sẵn sàng chia sẻ các thông tin hữu ích cho bài

nghiên cứu.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình đã tạo điều kiện để tôi thực hiện điều mong

ước là được học tập và làm việc suốt đời.

Tôi xin trân trọng cám ơn!

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...........................................................................................................i

LỜI CÁM ƠN ............................................................................................................... ii

MỤC LỤC .................................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .............................................................................vi

DANH MỤC BẢNG ...................................................................................................... x

DANH MỤC HÌNH ......................................................................................................xi

LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1

1.1. Bối cảnh nghiên cứu .......................................................................................... 1

1.2. Sự cần thiết của nghiên cứu ............................................................................... 3

2. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 4

2.1. Mục tiêu chung .................................................................................................. 4

2.2. Mục tiêu cụ thể ................................................ Error! Bookmark not defined.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................... Error! Bookmark not defined.

3.1. Đối tượng nghiên cứu ...................................... Error! Bookmark not defined.

3.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................... Error! Bookmark not defined.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu ........... Error! Bookmark not defined.

4.1. Phương pháp nghiên cứu ................................. Error! Bookmark not defined.

4.2. Nguồn dữ liệu .................................................................................................... 6

5. Những đóng góp mới và hạn chế của luận án ..................................................... 7

5.1. Những đóng góp mới của luận án…………………………………………….7

5.2. Những hạn chế của luận án.............................. Error! Bookmark not defined.

6. Cấu trúc của luận án ................................................ Error! Bookmark not defined.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ THỰC NGHIỆM-THỊ TRƯỜNG GẠO QUỐC TẾ ............. 9

1.1. Gạo trong đời sống người dân thế giới .............................................................. 9

1.1.1. Gạo ở Châu Á ............................................................................................... 10

1.1.2. Gạo ở Châu Phi ............................................................................................. 12

1.2. Thị trường gạo quốc tế ..................................................................................... 13

1.2.1. Đặc điểm của thị trường gạo quốc tế ............................................................ 13

iv

1.2.2. Thị trường xuất khẩu quốc tế ....................................................................... 21

1.2.3. Thị trường nhập khẩu quốc tế ....................................................................... 22

1.2.3. Chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu theo châu lục .............................. 24

1.2.4. Giá gạo thế giới ............................................................................................ 25

1.3. Kết luận .............................................................................................................. 26

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............................................................ 28

2.1. Tổng quan lý thuyết ......................................................................................... 28

2.1.1. Lý thuyết về xuất khẩu trong thương mại quốc tế ........................................ 28

2.1.2. Xuất khẩu trong lý thuyết kinh tế học .......................................................... 34

2.1.3. Lý thuyết lực hấp dẫn ................................................................................... 35

2.2. Tổng quan thực nghiệm .................................................................................... 38

2.3. Khoảng trống nghiên cứu ................................................................................. 47

2.4. Kết luận .............................................................................................................. 48

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP LUẬN ...................................................................... 49

3.1. Phương pháp luận nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu ........... 49

3.2. Phương pháp luận ước lượng ảnh hưởng của các yếu tố đến xuất khẩu .... 51

3.2.1. Mô hình lực hấp dẫn cấu trúc cơ bản ........................................................... 51

3.2.3. Ước lượng: Thách thức, giải pháp và phương pháp tốt nhất ........................ 56

3.2.4. Ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc ..................................................... 60

3.2.5. Mô hình probit ước lượng biến nội sinh ....................................................... 62

3.3. Kết luận .............................................................................................................. 65

CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM, 1989-2021 .. 67

4.1. Vài nét về ngành lúa gạo ở Việt Nam .............................................................. 67

4.2. Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 1989-2021 ........................... 69

4.2.1. Các thành tựu của xuất khẩu gạo từ 1989 .................................................... 69

4.2.2. Xuất khẩu gạo trong giai đoạn 1989-2000 ................................................... 72

4.3. Xuất khẩu gạo của Việt Nam, giai đoạn 2001-2021 ....................................... 81

4.3.1. Biến động về lượng gạo xuất khẩu ............................................................... 83

4.3.2. Diễn biến giá gạo xuất khẩu ......................................................................... 87

4.4. Cơ hội cho xuất khẩu gạo của Việt Nam......................................................... 96

4.5. Thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam ........................................... 96

v

4.6. Kết luận .............................................................................................................. 97

CHƯƠNG 5: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM .......................................................... 99

5.1. Phương pháp phân tích .................................................................................... 99

5.2. Chỉ định mô hình và dữ liệu ........................................................................... 100

5.2.1. Chỉ định mô hình ........................................................................................ 100

5.2.2. Ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc ................................................... 107

5.3. Ước lượng hồi qui Poisson ............................................................................. 110

5.4. Kết quả ước lượng PPML .............................................................................. 111

5.4.1. Uớc lượng PPML không có biến công cụ .................................................. 111

5.4.2. Ước lượng PPML có biến công cụ ............................................................. 122

5.5. So sánh kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng PPML, PPMLHDFE và FGLS ................................................................................................................. 131

5.6. Kết luận ............................................................................................................ 136

CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP ............................................................ 139

6.1. Kết luận ............................................................................................................ 139

6.1.1. Kết quả phân tích mô tả và so sánh thống kê ............................................. 139

6.1.2. Kết quả phân tích định lượng vận dụng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc ...... 142

6.2. Đề xuất giải pháp............................................................................................. 143

6.2.1. Định hướng phát triển sản xuất lúa gạo phục vụ xuất khẩu ....................... 143

6.2.2. Một số hàm ý chính sách cho xuất khẩu gạo của Việt Nam ...................... 144

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 147

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 148

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 174

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AANZFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN, Úc và New Zealand

AHKFTA Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Hồng Kông

ACFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -Trung Quốc

AFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN

AMIS Hệ thống thông tin thị trường nông sản

AIFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN-Ấn Độ

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEAN + 3 ASEAN + Trung Quốc + Nhật Bản + Hàn Quốc

CC Tiêu dùng cuối cùng

c.i.f Tiền hàng. Bảo Hiểm. Cước phí

CES Độ co giãn thay thế không đổi

CGE Cân bằng tổng thể/chung khả toán

CPTPP Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

CSLT chính sách lương thực

CSNN chính sách nông nghiệp

CSTM Chính sách thương mại

DKL Sự khác biệt về tỷ lệ giữa vốn hiện vật và lao động (giữa hai nước)

ERS Dịch vụ nghiên cứu kinh tế

EU Liên minh Châu Âu

Eurostat Phòng Thống kê của Liên minh Châu Âu

EVFTA Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU

FOB “Giao hàng lên tàu”

FAO Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc

FE Ảnh hưởng/tác động cố định

FEM Mô hình ảnh hưởng cố định

vii

FGLS Bình phương Tối thiểu tổng quát Khả thi

FTA Hiệp định thương mại tự do

FTAhat Hiệp định thương mại tự do ‘mũ’

G2G Hợp đồng giữa Chính phủ với Chính phủ

GDP Tổng sản phẩm trong nước

GlobalGap Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu

GLS Bình phương nhỏ nhất tổng quát

GSO Tổng cục Thống kê

GSTP Hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển

HMR (Mô hình) Helpman, Melitz và Rubinstein

HDFE Hiệu ứng cố định nhiều chiều

H-O Theory Lý thuyết Heckscher – Ohlin

IMR Lực cản đa phương từ bên trong

IFPRI Viện Nghiên cứu chính sách lương thực Quốc tế

IRRI Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế

IRS Hiệu quả/lợi tức tăng theo quy mô

ITC Trung tâm Thương mại Quốc tế

IV Biến công cụ

IV HDFE Hiệu ứng cố định nhiều chiều với biến công cụ

IV PPML (Khả năng) Cực đại hóa tựa Poisson với biến công cụ

MHLHD Mô hình lực hấp dẫn

MHLHDCT Mô hình lực hấp dẫn cấu trúc

MOF Bộ Tài chính

MOIT Bộ Công Thương

MR Lực cản đa phương

OMR Lực cản đa phương từ bên ngoài

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

viii

Bình phương nhỏ nhất thường OLS

Xác suất P

Ảnh hưởng chung tương quan gộp PCCE

Bình phương nhỏ nhất thường gộp POLS

Ước lượng hợp lý cực đại tựa Poisson PPML

Thỏa thuận thương mại ưu đãi PTA

Phương pháp nghiên cứu PPNC

PTLHD Phương trình lực hấp dẫn

RCA Hệ số Lợi thế so sánh biểu lộ

RCEP Hiệp định Đối tác kinh tế Toàn diện vùng/khu vực

REM Mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên

RMM Điều phối Thị Trường gạo

ROW Thế giới còn lại/Phần còn lại của thế giới

TTGTN Tực túc gạo trong nước

RTA Hiệp định thương mại Vùng/Khu vực

SRP Sản xuất lúa/gạo bền vững

SX&TD Sản xuất và tiêu dùng

STP Hệ thống ưu đãi thương mại

T1 Thị hiếu về gạo trắng, hạt dài (Indica)

T2 Thị hiếu về gạo hạt ngắn/hạt tròn

TCHQ Tổng cục Hải quan

TMQT Thương mại quốc tế

TNT Thu nhập thấp

TNTB Thu nhập trung bình

TPF Lương thực được bảo hộ thương mại

TP/CSTM Chính sách thương mại

TTGQT Thị trường gạo quốc tế

ix

TTGTN Tự túc gạo trong nước

UKVFTA Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh

UN COMTRADE Cơ sở dữ liệu thống kê thương mại hàng hóa của Liên Hợp Quốc

UNCTAD Hội nghị Liên hợp quốc tế về Thương mại và Phát triển

USDA Bộ Nông nghiệp Mỹ

VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

VCFTA Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Chi Lê

VFA Hiệp hội Lương thực Việt Nam

VietGap Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam

VKFTA Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc

VINAFOOD I Tập đoàn (Tổng công ty) lương thực miền Bắc Việt Nam

VINAFOOD II Tổng Công ty Lương thực Miền Nam Việt Nam

VN-EAEU FTA Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh Kinh tế Á–Âu

WB Ngân hàng Thế giới

WTO Tổ chức thương mại thế giới

XK Xuất khẩu

YTAH Yếu tố ảnh hưởng

YTBN Yếu tố bên ngoài

YTBT Yếu tố bên trong

x

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Khối lượng gạo xuất khẩu theo châu lục, 1961-2021 ................................... 22

Bảng 1.2. Lượng gạo nhập khẩu theo châu lục, 1961-2021 .......................................... 22

Bảng 1.3. Cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu theo châu lục, 1961-2021 ................. 24

Bảng 2.1. Tóm tắt các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu ............................................... 44

Bảng 4.1. Đóng góp của xuất khẩu gạo vào nền kinh tế, 1989-2021 ............................ 71

Bảng 4.2. Thuế xuất nhập khẩu lúa gạo và số đầu mối xuất khẩu, 1989-2000 ............. 74

Bảng 4.3. Giá trị gạo xuất khẩu và thị phần trong thị trường EU năm 2019 ................ 95

Bảng 5.1. Các biến dùng cho mô hình lực hấp dẫn cấu trúc và các nguồn dữ liệu ..... 101

Bảng 5.2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình ..................................................... 107

Bảng 5.3. Ma trận tương quan giữa các biến ............................................................... 109

Bảng 5.4. Kết quả ước lượng MHLHDCT bằng thuật toán PPML không có biến công cụ ......................................................................................................................... 111

Bảng 5.5. Chuyển đổi các hệ số của mô hình lực hấp dẫn ước lượng (không có biến công cụ) thành tác động của các biến giả đến xuất khẩu gạo của Việt Nam ....................... 118

Bảng 5.6. Hồi quy probit ước lượng các biến công cụ ................................................ 123

Bảng 5.7. Kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc bằng thuật toán PPML có biến công cụ ................................................................................................................. 126

Bảng 5.8. So sánh kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng PPML và ước lượng FGLS ........................................................................................................................... 131

xi

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1. Sản xuất lúa trên thế giới, 1960-2021 ........................................................... 13

Hình 1.2. Tỷ lệ thương mại hóa của gạo, ngô và lúa mì 1961-2021 ............................. 15

Hình 1.3a. Diễn biến của giá thế giới đối với gạo, ngô và lúa mì (1961-2021) ............ 25

Hình 1.3b. Lượng và giá xuất khẩu gạo thế giới 1960-2021 ......................................... 26

Hình 4.1. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam, 1989-2021 ..................................... 68

Hình 4.3. Lượng và giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam, 1989-2000 ........................... 77

Hình 4.4. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và của ROW, 1989-2000 ......................... 79

Hình 4.5. Cơ cấu gạo xuất khẩu theo phẩm cấp của Việt Nam, 1989-2000 ................. 80

Hình 4.6. Diễn biến xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ 2001-2021 ................ 83

Hình 4.7. Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang một số nước nhập khẩu chủ chốt ........... 86

Hình 4.8. Cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam cho 4 nước nhập khẩu chủ chốt .......... 87

Hình 4.9. Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam, giai đoạn 2001-2021 ............................... 88

Hình 4.10. Giá gạo xuất khẩu gạo của Việt Nam và thế giới còn lại, 2001-2021 ......... 90

Hình 4.11. So sánh giá gạo xuất khẩu gạo 5% tấm và 25% tấm của Việt Nam và Thái Lan, 2001-2021 .............................................................................................................. 91

Hình 4.12. Biến động về số doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo ........................... 92

Hình 4.13. Tỷ trọng gạo xuất khẩu theo các hợp đồng chính phủ, 1992-2012 ............. 93

Hình 4.14. Cơ cấu gạo xuất khẩu theo chủng loại gạo 2011-2021 ............................... 94

Hình 4.15. Giá gạo thơm của Việt Nam, Thái Lan và Pakistan 2015-2021 .................. 94

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Bối cảnh nghiên cứu

Gạo là lương thực chính yếu của hơn nửa hay 2/3 dân số thế giới (Cantrell, 2000) nhất là của người dân Châu Á và châu Phi (FAO) và 75% số người nghèo trên thế giới (Zeigler, 2014). Gạo cung cấp khoảng từ 35 đến 80% tổng năng lượng cho người dân trên thế giới (Abdullah, et al., 2010; USDA, 2013).

Gạo có vị trí đặc biệt quan trọng đối với người dân Châu Á, nơi sản xuất ra trên 90%, tiêu thụ hơn 80% và cung ứng 82%-85% khối lượng gạo thương mại toàn cầu trong thập niên gần đây (FAO, 1961-2022). Ở châu Á, gạo mang nặng tính truyền thống, chính trị, xã hội, văn hóa, tín ngưỡng và tâm lý. Lãnh đạo nhiều quốc gia Châu Á coi gạo như là một biểu hiện của quyền lực, giúp nâng cao uy tín và giữ vững chủ quyền quốc gia.

Trung Quốc, nước sản xuất và tiêu dùng gạo lớn nhất thế giới cho rằng gạo “theo nghĩa đen là chỗ dựa của cuộc sống và cốt liệu của quốc gia” (USDA, 1997). Trong khi Indonesia, quốc gia sản xuất gạo lớn thứ ba thế giới coi gạo là “hàn thử biểu của nền kinh tế; gạo phản chiếu thực trạng của nền kinh tế” (White, 1994) và là “cội nguồn của niềm tự hào dân tộc” (Sulainman, 2017). Người Nhật xem gạo là “cái cốt của văn hóa” (Wojtan, 1993) vì “gạo là linh hồn, là tiền tinh túy, và trên hết, gạo là tự thân” (USDA, 1995). Với Philippines thì “... uy tín của một dân tộc được thiết lập qua tự túc gạo” (Bale, 1985). Ấn Độ cho rằng gạo có vai trò “định hình lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và lối sống” (Bishawajit, 2013). Bangladesh, quốc gia sản xuất gạo lớn thứ 4 thế giới cho rằng gạo “đan dệt nên văn hóa của Bangladesh và biểu tượng của của cải” (Banglapedia, 2009).

Tổng giám đốc Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), Robert Zeigler (2008) kết luận rằng “Tại châu Á, gạo không giống như những hàng hoá khác, gạo là văn hoá, là xã hội. Ở nhiều nơi, nó thậm chí còn giữ vai trò văn hoá, do đó, nó mang sức nặng tâm lý lớn hơn”.

Châu Phi là nơi sản xuất và tiêu dùng gạo lớn thứ 2 thế giới và gạo là lương thực

chính cung cấp tới 60% tổng năng lượng cho người dân. Tuy nhiên, cho tới nay châu Phi

mới tự túc được khoảng 50% gạo lương thực nên còn phải phụ thuộc vào gạo nhập từ bên

2

ngoài, chủ yếu từ châu Á. Gạo ở châu Phi cũng có ý nghĩa chính trị và xã hội cao. Bởi vậy,

lãnh đạo các chính phủ châu Phi luôn nhấn mạnh rằng “tự túc gạo là đích đến của chiến

lược lương thực vùng… là lựa chọn duy nhất cho các nước châu Phi trên con đường

dẫn đến tới mục tiêu phát triển” (Tijani, 2018). Đích đến của các nước Tây Phi là trước

năm 2025 (FAO, 2012, 2014; Tijani, 2016, 2018; Stygler và Traoré, 2017-2018) và của

các quốc gia tiểu vùng Saharan là năm 2030 (Arouna và cộng sự , 2016).

Do tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của gạo đối với đời sống của người dân

hầu hết các chính phủ ở Châu Á và châu Phi luôn tìm mọi cách để tự túc gạo trong nước

(TTGTN) và coi đây là điều bắt buộc, là mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong chính sách

nông nghiệp (CSNN) và chính sách lương thực (CSLT) của họ bất kể việc đối mặt với

những bất lợi thế tuyệt đối và tương đối trong sản xuất gạo.

Đây cũng là lý do để Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hợp Quốc

(FAO) đã xếp gạo là mặt hàng “đặc biệt” và “nhạy cảm” (Calp, 2004, 2006), một

mặt hàng được tới 76 quốc gia xếp gạo là mặt hàng được bảo hộ cao nhất, với các

rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao như được liệt kê ở Phụ lục 3 (FAO, 2006).

Việt Nam đã từng là một trong số ít nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới từ cuối

thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 như được ghi chép lại ở Phụ lục 1 (Đặng Phong, 1989;

Wailes, 2012, 2013). Tuy nhiên, chiến tranh và cơ chế kinh tế mệnh lệnh đã biến một

nước thừa gạo thành một quốc gia thiếu gạo trầm trọng từ những năm 1960. Sau khi

thống nhất đất nước, cả nước đã theo đuổi chính sách tự túc gạo bằng mọi giá (Nguyễn

Sinh Cúc, 1995; Nguyễn Tiến Thoả, 1996; Phan Văn Tiệm, 1996) và đã thành công nhờ

Khoán 10 năm 1988. Kể từ năm 1989, Việt Nam đã trở thành nhà sản xuất gạo lớn thứ

5 thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh và giữ vị trí thứ 3 trong các nước XKG hàng đầu thế giới chỉ sau Ấn Độ và Thái Lan1.

Cho tới năm 2019, gạo Việt đã được xuất sang tới 178 nước và vùng lãnh thổ trên

khắp các châu lục (ITC, 2019) với khối lượng và giá trị gạo xuất khẩu tăng khá liên tục

theo thời gian. Xuất khẩu gạo đã giúp tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng chục

triệu người nông dân, tạo nguồn thu cho ngân sách, góp phần đẩy mạnh việc chuyển đổi

cơ cấu kinh tế trong nước nhờ trang trải một phần chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị

cho hiện đại hóa nền kinh tế.

1 Xem thêm dữ liệu của FAO và USDA, và Tổng cục Thống kê (GSO) từ năm 1989 đến năm 2021.

Xuất khẩu gạo là việc bán gạo được sản xuất ở Việt Nam ra nước ngoài cho người tiêu dùng ở nước ngoài nghĩa là xuất khẩu bị tác động từ nhiều yếu tố bên trong nước

3

và từ bên ngoài, trong đó các yếu tố bên ngoài nhiều khi và chi phối cầu về xuất khẩu gạo. Vì thế, xuất khẩu gạo cho tới những năm gần đây mới chủ yếu tập trung khai thác các yếu tố bên trong tác động tới cung cho xuất khẩu, tìm mọi cách để tăng sản lượng mà không chú ý chất lượng gạo cho xuất khẩu. Cái giá đã phải trả cho điều đó là Việt Nam buộc phải bán đổ, bán tháo, với giá thấp nhất thế giới (Võ Trí Thọ, 2010; Võ Tòng Xuân, 2015) mà vẫn khó tiêu thụ hết gạo dư thừa. Wailes (2012) đã chỉ ra rằng “cho tới nay gạo không phải là mặt hàng kinh tế … các chính phủ không quan tâm tới giá”.

1.2. Sự cần thiết của nghiên cứu

Như đã trình bày ở trên, hiện đã có khá nhiều nghiên cứu về xuất khẩu gạo và về

các yếu tố ảnh hưởng (YTAH) tới xuất khẩu gạo của Việt Nam được thực hiện nhưng

hầu hết mới chỉ tập trung chủ yếu vào các yếu tố bên trong (YTBT) mà không/chưa quan

tâm đến các yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài (YTBN), là những yếu tố nhiều khi có tính

quyết định đến cầu về gạo xuất khẩu. Nghiêm trọng hơn, các nghiên cứu trên đều không

quan tâm tới việc tìm hiểu về TTGQT nên không thấu hiểu bản chất và các đặc trưng

của TTGQT, không nắm bắt được hành vi của các thành viên tham gia thị trường và đối

sách của họ khi điều kiện thị trường thay đổi. Do đó, hầu hết các nghiên cứu đều xem

xét xuất khẩu gạo như xuất khẩu một mặt hàng thông thường bất kỳ mà không đặt nó

trong một môi trường thể chế đặc thù nghĩa là bỏ qua việc xem xét cả một hệ thống

chính sách lúa gạo (CSLG) bao gồm cả chính sách sản xuất (CSSX), chính cách lương

thực (CSLT) và chính sách thương mại (CSTM) với mục tiêu TTGTN. Ngoài ra, không

nghiên cứu về TTGQT nên đã không thấy được các yếu tố tác động đến xuất khẩu như

sự khác biệt về thị hiếu đối với các chủng loại gạo ở các khu vực và phân khúc thị trường

cũng như dư địa của các thị trường khu vực để các nhà xuất gạo của Việt Nam có chiến

lược xuất khẩu và chiến lược thị trường phù hợp.

Thêm vào đó, các nghiên cứu đến nay hoặc chỉ vận dụng phương pháp phân tích

truyền thống (PPPTTT) hoặc chỉ áp dụng phương pháp phân tích định lượng (PPPTĐL)

với dữ liệu mảng bằng việc vận dụng mô hình lực hấp dẫn (MHLHD) truyền thống của

thương mại quốc tế (TMQT) mà hầu như không vận dụng kết hợp cả hai phương pháp

trong phân tích để hiểu thấu đáo và đánh giá chính xác ảnh hưởng của các yếu tố đã tìm

thấy. Bởi vậy, kết quả phân tích và giải pháp xuất phát chưa thực sự giúp thực hành xuất

khẩu có hiệu quả.

Các vấn đề nêu trên tạo nên khoảng trống nghiên cứu để luận án tiếp tục đi sâu

tìm hiểu các YTAH tới xuất khẩu gạo của Việt Nam và sử dụng các phương pháp phân

4

tich phù hợp hơn nhằm bao hàm được các yếu tố thực sự ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo

của Việt Nam và khắc phục những tồn tại của các nghiên cứu trước đây.

Khác với các nghiên cứu trước đây, khi bàn về “Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất

khẩu gạo của Việt Nam” luận án vận dụng cách tiếp cận mang tính lịch sử, hệ thống và

logic biện chứng để chỉ ra vai trò lịch sử, chính trị-xã hội và tâm lý của gạo nhằm luận

giải tính “nhạy cảm”, “đặc biệt” và “chiến lược quốc tế” của gạo tại hầu hết các quốc

gia sản xuất và tiêu dùng (SX&TD) gạo trên thế giới. Đây là yếu tố qui định hành vi của

những người bán và người mua trên TTGQT và từ đó để hiểu được bản chất và đặc trưng

của TTGQT. Nhờ vậy, luận án bổ sung thêm yếu tố thể chế vào phương pháp luận nghiên

cứu. Từ đó vận dụng kết hợp cả hai phương pháp là phương pháp phân tích truyền thống

và phân tích định lượng vận dụng MHLHD cấu trúc (MHLHDCT) vào việc xác định và

đánh giả các YTAH đến xuất khẩu gạo. Trong đó, MHLHDCT đã được chứng minh là

một mô hình hữu hiệu nhất dùng để phân tích chính sách thương mại trong môi trường

đa quốc gia vì nó bao hàm được các quan sát luồng thương mại có nhiều giá trị bằng 0

(Yotov và cộng sự, 2016). Ước lượng lực hấp dẫn được tiến hành thông qua việc vận

dụng phương pháp ước lượng cực đại hợp lý tựa Poisson (PPML) thay vì phương pháp

ước lượng bình phương tối thiểu (OLS), với lý do là OLS rất nhạy cảm với tính không

đồng nhất trong dữ liệu (UNCTAD, 2016).

Kỳ vọng rằng với cách tiếp cận trên, luận án có thể xác định được các YTAH

chính xác hơn và thu được kết quả ước lượng đáng tin cậy hơn để làm cơ sở cho các đề

xuất giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu chung

Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố tới xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo trong tương lai.

2.2. Mục tiêu cụ thể

Thứ nhất, hình thành khung lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu xuất phát từ cơ sở thực nghiệm là thị trường gạo quốc tế và kết quả nghiên cứu tổng quan lý thuyết và tổng quan thực nghiệm.

Thứ hai, xác định các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo nói chung từ nghiên cứu thực nghiệm thị trường gạo quốc tế và thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam;

5

Thứ ba là đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố được phát hiện đến xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ nghiên cứu;

Thứ tư là gợi ý giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai.

Luận án thực hiện nhằm tìm lời giải cho các câu hỏi sau:

1. Phương pháp nào được vận dụng để xác định các YTAH đến xuất khẩu gạo của Việt Nam và để đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đó?

2. Những yếu tố nào có ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo và những yếu tố nào tác động hạn chế xuất khẩu gạo từ Việt Nam?

3. Làm sao để phát huy ảnh hưởng tích cực trong khi hạn chế tác động tiêu cực đến xuất khẩu gạo nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai?

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các YTAH tới xuất khẩu gạo của Việt Nam sang 60

quốc gia và vùng lãnh thổ trong thời kỳ nghiên cứu.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Phạm vi về nội dung nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu tập trung vào việc phát hiện ra YTAH tới xuất khẩu và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố trên tới xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Nội dung nghiên cứu cụ thể bao gồm:

Thứ nhất là tiếp cận thị trường gạo quốc tế một cách có hệ thống theo thời gian và logic biện chứng để thấu hiểu được hành vi của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu gạo khi tham gia thị trường để từ đó xác định các YTAH đến xuất khẩu;

Thứ hai là nghiên cứu tổng quan lý thuyết và thực nghiệm để phát hiện khoảng

trống nghiên cứu;

Thứ ba là xác định phương pháp luận nghiên cứu và phương pháp phân tích phù

hợp để tìm ra các YTAH tới xuất khẩu gạo của Việt Nam;

Thứ tư là phân tích thực nghiệm kết hợp áp dụng cả phương pháp truyền thống và phương pháp định lượng vận dụng MHLHDCT và phương pháp ước lượng PPML trên cơ sở dữ liệu mảng để lượng hóa và bàn về ảnh hưởng của các yếu tố tới xuất khẩu gạo của Việt Nam;

6

Thứ năm là từ kết quả phân tích đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả

3.2.2. Phạm vi về không gian nghiên cứu

xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai.

Không gian nghiên cứu là Việt Nam và 60 nước đối tác nhập khẩu lớn nhất của

3.2.3. Phạm vi về thời gian nghiên cứu

Việt Nam trên khắp các châu lục.

Để có cái nhìn lịch sử và toàn diện về các yếu tố ảnh hưởng tới thương mại gạo

quốc tế nói chung, thời gian xem xét từ năm 1961 tới năm 2021.

Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu đối với xuất khẩu gạo và các YTAH tới xuất

khẩu gạo của Việt Nam được tập trung vào:

(1) từ năm 1989 đến năm 2021- xem xét và phân tích chung về thực trạng xuất khẩu gạo và các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam;

(2) từ năm 2001 đến năm 2021- phân tích định lượng ảnh hưởng của các yếu tố tới xuất khẩu gạo của Việt Nam vận dụng MHLHDCT và ước lượng PPML dựa trên các dữ liệu thu thập được.

4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận án vận dụng phương pháp hỗn hợp kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phân tích mô tả, thống kê so sánh, phân tích nhân quả và phân tích tổng hợp với phương pháp nghiên cứu định lượng vận dụng MHLHDCT của thương mại quốc tế.

4.2. Nguồn dữ liệu

Các dữ liệu được dùng trong nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp thu thập từ các nguồn tin cậy trong nước và quốc tế. Trong đó, các nguồn dữ liệu trong nước bao gồm Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN-PTNT), Hiệp Hội Lương thực Việt Nam (VFA), Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc (VINAFOOD I), Tổng Công ty Lương thực Miền Nam (VINAFOOD II); Bộ Công Thương (MOIT): Trung tâm WTO và Hội nhập -Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Vụ Thị trường Châu Âu-châu Mỹ; Tổng cục Thống kê (GSO), và Tổng cục Hải Quan (TCHQ). Các nguồn dữ liệu quốc tế bao gồm Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO), Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), Cơ sở Dữ liệu Thống kê thương mại hàng hóa của Liên Hợp Quốc (UN COMTRADE), Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), Phòng Thống Kê-Bộ Lao động Mỹ (BLS), Ngân hàng Thế giới (World Bank),

7

Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), Phòng Thống kê Lúa gạo thế giới (WRS), Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thông qua nghiên cứu tại bàn.

5. Những đóng góp mới và hạn chế của luận án

5.1. Những đóng góp của luận án

Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận

1. Bằng cách tiếp cận lịch sử, hệ thống và logic biện chứng, Luận án chỉ ra rằng, khác với thương mại các mặt hàng khác, thể chế có ảnh hưởng mạnh nhất đến luồng thương mại gạo. Điều này xuất phát từ đặc điểm “đặc biệt”, “nhạy cảm” và “chiến lược quốc tế” của mặt hàng gạo – những yếu tố mà các lý thuyết trước đây chưa làm sáng tỏ được.

2. Luận án gợi ý rằng, các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo nên:

Thứ nhất, vận dụng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc (MHLHDCT) thay vì mô hình lực hấp dẫn truyền thống trong phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo, vì MHLHDCT rất hữu hiệu cho việc phân tích chính sách thương mại trong môi trường đa quốc gia, đặc biệt khi mô hình có nhiều giá trị quan sát bằng 0.

Thứ hai, sử dụng phương pháp ước lượng Poisson Pseudo Maximum Likelihood (PPML) thay cho Ordinary Least Squares (OLS), do PPML dễ vận dụng, cho kết quả rõ ràng hơn, ít thiên lệch và đáng tin cậy hơn.

Những phát hiện, đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của Luận án Hầu hết các nghiên cứu trước đây: (i) chỉ xem gạo là một mặt hàng thông thường, nên đã bỏ sót yếu tố thể chế – yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ tới thương mại gạo quốc tế; (ii) ít quan tâm đến việc xác định các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo; (iii) thiếu sự kết hợp giữa các phương pháp phân tích truyền thống (mô tả, so sánh thống kê và nhân quả) với phân tích định lượng để có cái nhìn toàn diện về ảnh hưởng của các yếu tố.

Luận án đã chỉ ra các yếu tố mới có ảnh hưởng tích cực và có ý nghĩa thống kê đến xuất khẩu gạo của Việt Nam, bao gồm: (i) tiêu dùng cuối cùng về lương thực của nước nhập khẩu; (ii) GDP của Việt Nam, nếu xét theo GDP bình quân đầu người; (iii) thị hiếu của nước nhập khẩu đối với từng/chủng loại gạo xuất khẩu.

Các yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực bao gồm: (i) nước nhập khẩu coi gạo là mặt hàng đặc biệt; (ii) khoảng cách từ Thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô của các nước nhập khẩu.

Luận án đề xuất:

8

1. Tăng cường nghiên cứu chính sách thương mại và nhu cầu thị trường, đặc biệt ở các

nước nhập khẩu gạo;

2. Cải tiến và chuẩn hóa quy trình chuỗi cung ứng nhằm tạo ra sản phẩm gạo có chất lượng và giá trị cao, đáp ứng yêu cầu của các phân khúc thị trường khác nhau;

3. Tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống, đặc biệt là các thị trường trong khu vực; đồng thời mở rộng sang các thị trường châu Phi – nơi còn nhiều tiềm năng, và sang các thị trường thuộc phân khúc cao có nhu cầu tiêu dùng ổn định.

5.2. Những hạn chế của luận án

Tuy nhiên, luận án còn một số hạn chế chính như sau: Thứ nhất, ở một mức độ nhất định, một số yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam được phát hiện thông qua phân tích thực trạng giai đoạn 1989–2000 và 2001–2021 không trùng khớp với kết quả phân tích định lượng sử dụng MHLHDCT cho giai đoạn 2001–2021. Nguyên nhân là do môi trường kinh doanh đã thay đổi hoặc do một số yếu tố được phát hiện qua phân tích mô tả, so sánh và tổng hợp nhưng ảnh hưởng chưa đủ mạnh để được định lượng một cách có ý nghĩa thống kê. Thứ hai, nghiên cứu chỉ xác định các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo trong khoảng thời gian đến năm 2021, nên chưa bao quát được những yếu tố mới phát sinh sau thời điểm đó.

Để khắc phục các hạn chế trên, cần có những nghiên cứu sâu hơn trong tương lai.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án bao gồm 6 chương: Chương 1 trình bày cơ sở thực tiễn của nghiên cứu thông qua việc mô tả, phân tích và bàn luận về thị trường gạo quốc tế. Chương 2 tổng quan lý thuyết và thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu, từ đó xác định khoảng trống nghiên cứu. Chương 3 giới thiệu phương pháp luận nghiên cứu, bao gồm cơ sở lý luận về xuất khẩu và mô hình lực hấp dẫn, cùng với phương pháp ước lượng ảnh hưởng của các yếu tố đến xuất khẩu gạo của Việt Nam. Chương 4 phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 1989–2021 bằng các phương pháp phân tích truyền thống, định tính. Chương 5 trình bày quá trình phân tích thực nghiệm, vận dụng MHLHDCT và ước lượng PPML để định lượng ảnh hưởng của các yếu tố tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001–2021. Chương 6 tóm tắt kết quả nghiên cứu chính và đề xuất một số giải pháp nhằm đa dạng hóa sản phẩm lúa gạo theo hướng trú trọng về chất và nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai.

9

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ THỰC NGHIỆM-THỊ TRƯỜNG GẠO QUỐC TẾ

Vận dụng cách tiếp cận lịch sử, logic và hệ thống, Chương 1 bàn về tầm quan

trọng của gạo trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa và tâm lý của gạo trong các

nước sản xuất và tiêu dùng gạo, đặc biệt ở Châu Á và ở một số nước châu Phi để thấy

ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố thể chế tới thương mại gạo quốc tế- đặc biệt là luồng

xuất khẩu gạo. Chương này giúp đưa ra lời giải cho các câu hỏi: (i) Vì sao hầu hết

các nước sản xuất và tiêu dùng gạo (SX&TD) ở Châu Á và một số quốc gia Châu Phi

lại kiên trì theo đuổi chính sách tự túc (CSTT) gạo trong nước?; (ii) Vì sao FAO

(2006) lựa chọn gạo là mặt hàng “đặc biệt”, “nhạy cảm” và “mặt hàng chiến lược

quốc tế”; (iii) Hành vi của các nước (nhập khẩu và xuất khẩu) thể hiện như thế nào

khi tham gia thị trường của mặt hàng đặc biệt và nhạy cảm này trong thời kỳ 1961-

2021?; và (iv) Xu thế hội nhập thương mại quốc tế có ảnh hưởng thế nào tới TTGQT

và triển vọng của nó?

Việt Nam là một trong 5 quốc gia châu Á SX&TD gạo lớn trên thế giới và là một

trong 3 nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Gạo đối với Việt Nam đương nhiên cũng

mang ý nghĩa chính trị, xã hội, tâm lý và tinh thần to lớn bởi vậy các hành vi thị trường

của Việt Nam cũng có đặc điểm chung của các quốc gia sản xuất và xuất khẩu gạo ở

Châu Á và thế giới. Chương 1 giúp cung cấp cái nhìn toàn diện và thấu đáo về mặt hàng

gạo cùng TTGQT làm cơ sở thực tiễn đáng tin cậy để thực hiện đề tài nghiên cứu về

“Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam”.

1.1. Gạo trong đời sống người dân thế giới

Gạo là lương thực chính yếu của hơn nửa hay 2/3 dân số thế giới (Cantrell, 2000)

nhất là của người dân Châu Á (FAO) và 75% số người nghèo trên thế giới (Zeigler,

2014) sống chủ yếu ở Châu Á và Châu Phi. Số người nghèo sống ở Đông Á và Nam Á

chiếm tới 56% và ở tiểu vùng Saharan Châu Phi chiếm 24% số người nghèo toàn cầu

(WB, WDI, 2019). Người dân ở hầu hết các nước trên thế giới đều tiêu dùng gạo với

mức tiêu thụ gạo trung bình theo đầu người hàng năm rất khác nhau ở mỗi châu lục và

và các nước khác nhau do thói quen, thị hiếu hay sở thích và truyền thống văn hóa và lịch

sử. Gạo cung cấp cho người dân thế giới từ 35 đến 80% tổng năng lượng khi người dân

sử dụng gạo là lương thực chính (Abdullah et al., 2010; USDA, 2013). Đặc biệt, ở các

nước Đông Nam Á như Cambodia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và Nam Á như

Bangladesh tỷ lệ này là 56 đến 85% (IRRI, 2001, 2014; Timmer, 2010, 2013). Hàng trăm

10

triệu người nghèo ở châu Á phải chi từ một nửa đến ba phần tư thu nhập riêng cho gạo:

riêng ở Bangladesh, hơn một nửa số hộ gia đình ở dùng tới 50,7% tổng chi tiêu của họ chi

cho gạo (Fitrawaty, et.al., 2023). Đánh giá về tầm quan trọng của gạo với người nghèo,

nguyên tổng giám đốc IRRI, Cantrell (2000) kết luận rằng “Chỉ có gạo neo giữ được cuộc

sống bấp bênh của họ”.

Châu Á và Châu Phi là hai châu lục SX&TD gạo chính của thế giới tạo ra tới

95% tổng sản lượng gạo và hầu hết sản lượng được tiêu thụ tại đó.

1.1.1. Gạo ở Châu Á

Châu Á tạo ra khoảng 90% tổng sản lượng gạo toàn cầu và tiêu thụ 80% lượng

gạo được tạo ra ở đây (USDA và FAO, 1961-2022). Trung bình, châu Á cung ứng tới

82% tổng khối lượng gạo thương mại trên thị trường gạo quốc tế. Lúa gạo là ngành quan

trọng bậc nhất trong nông nghiệp Châu Á, cung cấp việc làm, tạo kế sinh nhai và nguồn

thu chính cho phần đông người dân sống ở nông thôn. Ở đa số các nước đang phát triển

tại Châu Á, gạo không chỉ là lương thực chính yếu mà còn là một hàng hóa “tiền công”

đối với công nhân làm việc trong các khu vực phi nông nghiệp (Thsuji, 1997; FAO,

2004, 2012; IRRI, 2012).

Ở châu Á, gạo mang đậm tính truyền thống, chính trị và xã hội, văn hóa, tinh thần

và tâm lý. Lãnh đạo nhiều quốc gia Châu Á coi gạo như là một yếu tố để ổn định chính

trị, giữ gìn, nâng cao uy tín và giữ vững chủ quyền quốc gia. Cantrell (2000) cho rằng ở

chính quyền sẽ không thể đứng vững lâu nếu không đảm bảo đủ gạo cho người dân.

Trung Quốc là nước sản xuất và tiêu dùng gạo lớn nhất thế giới, trung bình tạo

ra và tiêu thụ từ khoảng 1/3 sản lượng gạo toàn cầu và nắm giữ gần 2/3 tổng dự trữ gạo thế giới2 nhìn nhận “Gạo theo nghĩa đen là chỗ dựa của cuộc sống và cốt liệu của

quốc gia” (USDA, 1997), và “Những thứ quý giá không phải là ngọc ngà và châu báu mà là ngũ cốc... trong đó gạo là thứ tinh túy nhất” Zeigler3 (2014). Mao Trạch Đông

xem gạo là biểu hiện của quyền lực vì “Bạn không phải lo sợ gì khi bạn có gạo” (Yang

& Huang, 2000). Do vậy, Trung Quốc luôn đặt ra mục tiêu phải tự túc gạo và cho biết

rằng sẽ gần như tự túc được gạo vào năm 2025 (Donley, 2021).

Gạo đối với Indonesia, quốc gia sản xuất gạo lớn thứ ba thế giới, là “hàn thử biểu

2 Tính toán từ dữ liệu của USDA (1961-2021) 3 Tổng Giám Đốc Viện Nghiên Cứu Lúa Thế giới (IRRI) (2005-2015)

của nền kinh tế; gạo phản chiếu thực trạng của nền kinh tế”, là “hiện thân của Dewisri-

11

--người mẹ gạo---là chúa của sự sống và sự sinh sôi” (White, 1994) và là “cội nguồn

của niềm tự hào dân tộc” (Sulainman, 2017). Tự túc gạo trong nước là mục tiêu của

chính sách nông nghiệp và luôn được chính phủ tái khảng định. Năm 2020-2021

Indonesia đã tự túc được 90% nhu cầu về gạo (IRRI, 2022).

Nhật Bản coi gạo là “cái cốt của văn hóa” (Wojtan, 1993) vì “gạo là linh hồn, là

tiền tinh túy, và trên hết, gạo là tự thân” (USDA, 1995). Quốc gia này quyết theo đuổi

chính sách tự túc gạo trong nước bất kể chi phí sản xuất cao gấp 20 lần Việt Nam và

Thái Lan (Cantrell, 2000-2001) và giữ giá bán lẻ gạo cao gấp 18 lần Việt Nam và 17,5

lần Thái Lan (FAO, RMM 2016). Nhờ vậy, Nhật Bản duy trì được tỷ lệ tự túc gạo cao

trong suốt thời gian 2012-2021 và tỷ lệ này ở năm 2021 là 98% (Statista, 2022).

Philippines, một quốc gia với địa hình biển đảo đối mặt với vô vàn khó khăn

trong sản xuất lúa gạo đã luôn nỗ lực tìm mọi cách để tự túc gạo bởi vì với Philippines

“... uy tín của một dân tộc được thiết lập từ tự túc gạo” (Bale, 1985). Cuộc cách

mạng xanh đã giúp Philippines tự túc được gạo vào đầu thập niên 1980. Song, thời

tiết bất lợi, dân số tăng nhanh và bất ổn chính trị khiến Philippines thiếu gạo nghiêm

trọng và buộc phải nhập khẩu gạo trở lại. Hiện nay, Philippines là nhà nhập khẩu gạo

lớn nhất nhì thế giới (FAO, 2024). Để giảm sự phụ thuộc về gạo từ bên ngoài, chính

phủ gia tăng chi trợ cấp cho sản xuất trong nước với mục tiêu tự túc gạo vào năm

2016 (Angga và Sherman, 2016) nhưng thất bại nên gần đây đưa ra mục tiêu tự túc gạo

vào năm 2027 (Reuters, 18/04/2023).

Ở Việt Nam, tự túc gạo trong nước đã luôn là mục tiêu cao nhất trong chính sách

nông nghiệp. Nỗi khổ khi rơi vào cảnh thiếu đói gạo triền miên trong những năm 1960-

1988 đã buộc đất nước nỗ lực phấn đấu tự túc gạo bằng mọi giá (Nguyễn Tiến Thỏa,

Phan Văn Tiệm, 1996; Ngo Thi Men, 2003, 2022a). Từ năm 1989, Việt Nam đã tự túc

được gạo và có một lượng lớn gạo dư thừa cho xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam là một

trong 5 nước sản xuất lúa lớn nhất thế giới và là một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn

hàng đầu trên thế giới, chỉ sau Ấn Độ và Thái Lan (FAO). Gạo với Việt Nam có ý nghĩa

to lớn vì “Gạo không chỉ là nguồn lương thực chính yếu của người Việt mà còn là một

4Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Chủ tịch UBND TPHCM, đã chia sẻ tại lễ khai mạc đêm “Tinh hoa gạo Việt” vào tối ngày 07 tháng 09, năm 2022 tại TPHCM (Xem Vĩnh Tường, 2022).

trong những cội nguồn của văn minh và văn hóa Việt Nam. …dấu ấn trong nếp sống, thói quen, phong tục, tín ngưỡng. …là nguồn cội”4 (Phan Văn Mãi, 2022).

12

Đối với cả Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), gạo là biểu tượng cho

tình đoàn kết, sức mạnh và thành công của khu vực có nền văn hóa lúa nước lâu đời.

Robert Zeigler, tổng giám đốc Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI), sau nhiều năm làm việc trong ngành lúa gạo với các nước Châu Á đã nhận ra là: “Gạo không giống như những hàng hoá khác, tại châu Á, gạo là văn hoá, là xã hội. Ở nhiều nơi, nó thậm chí còn giữ vai trò văn hoá, do đó, nó còn mang sức nặng tâm lý to lớn hơn”.

Điều này giúp lý giải tại sao hầu hết các quốc gia Châu Á vẫn trước sau nhất quán theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước bất kể những bất lợi thế so sánh của mình trong sản xuất gạo.

1.1.2. Gạo ở Châu Phi

Gạo cũng là lương thực chính và nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho người

dân châu Phi. Châu Phi là nơi SX&TD thứ 2 trên thế giới. Các quốc gia châu Phi cũng

đặt mục tiêu tự túc gạo là lên vị trí ưu tiên hàng đầu trong chính sách nông nghiệp của

họ. Châu Phi hiện là khu vực nhập khẩu ròng về gạo, trung bình tạo ra khoảng 5% sản

lượng gạo thế giới nhưng tiêu thụ tới 8% lượng gạo toàn cầu (USDA, 2022). Vùng

Sahara châu Phi rộng lớn mới tự túc được 57% (Ndiane, 2022) thiếu hụt được nhập khẩu

chủ yếu từ các quốc gia xuất khẩu ở châu Á như Ấn Độ, Thái Lan và Việt Nam (Zeigler,

2008; FAO, 2000-2021).

Giống các quốc gia châu Á, tự túc gạo luôn được đặt ở vị trí ưu tiên vì “lựa chọn

duy nhất cho các nước châu Phi trên đường đến mục tiêu phát triển là giành được tự

túc trong sản xuất gạo” như lãnh đạo nông nghiệp vùng châu Phi, Tijani (2018) khảng

định và cho rằng “Thành công hay thất bại của các quốc gia châu Phi là … hiện thực

hóa việc “dừng” nhập khẩu gạo” (Clarete và Adriano, 2013). Các tổ chức lương thực

quốc tế như IRRI, FAO, IFPRI và các tổ chức lương thực vùng như Liên minh Phát triển

gạo Châu Phi (CARD), Ngân hàng phát triển Châu Phi (ADB) đã và đang tích cực giúp

đỡ và hỗ trợ các nước châu lục này mở rộng sản xuất lúa để đạt mục tiêu tự túc gạo toàn

vùng và an ninh lương thực toàn khu vực trước năm 2025 đối với Tây Phi (FAO, 2012,

2014; Tijani, 2016, 2018; Stygler và Traoré, 2017-18) và vào năm 2030 ở vùng Sahara

châu Phi.

Kiên trì theo đuổi TTG tại các quốc gia Châu Á và Châu Phi đã giúp sản lượng

tăng không ngừng theo thời gian cả về diện tích và năng suất lúa như được minh họa ở

Hình 1.1. Tốc độ tăng sản lượng gạo trung bình hàng năm là 2,1% đã vượt tốc độ tăng

dân số là 1,6% trong suốt thời kỳ 1961-2021 (Ngô Thi Mến, 2022c).

13

Hình 1.1. Sản xuất lúa trên thế giới, 1960-2021

Nguồn: FAO (2022)

1.2. Thị trường gạo quốc tế

1.2.1. Đặc điểm của thị trường gạo quốc tế

Vai trò và ý nghĩa quan trọng của gạo trong đời sống đa số người dân toàn cầu khiến các chính phủ can thiệp sâu vào các khâu sản xuất, cung ứng và thương mại gạo thông qua các chính sách nghiêm ngặt như CSSX để tự túc gạo, CSLT đảm bảo an ninh lương thực quốc gia (ANLTQG) và CSTM bảo hộ cao với nội dung sai lệch so với các lý thuyết của nền kinh tế thị trường. Bởi vậy, gạo đã được Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) chọn là mặt hàng “đặc biệt” và “nhạy cảm” và là “mặt hàng chiến lược quốc tế” (Calpe, 2006; FAO, 2006). Nghĩa là, khi xem xét gạo không nên đơn thuần coi gạo chỉ là một mặt hàng thiết yếu thông thường và thị trường gạo không phải là một thị trường hàng hóa thông thường mà mang đậm nét đặc trưng.

Tuy nhiên, thị trường gạo vẫn mang những điểm chung nhất của một thị trường, đó là một nhóm những người bán và người mua đối với một hàng hóa cụ thể (Mankiw, 2001), với cầu thể hiện hành vi của người mua và cung biểu hiện hành vi của người bán. Sự tương tác giữa cung và cầu tạo nên trạng thái cân bằng thị trường với giá cân bằng và lượng cân bằng. Với thị trường quốc tế (TTQT), các nước nhập khẩu quy định cầu về hàng hóa và các nước xuất khẩu quy định cung về hàng hóa trên thị trường. Bản thân cung và cầu đối với một mặt hàng bất kỳ đều chịu tác động của nhiều yếu tố chủ quan từ bên trong nước xuất/nhập khẩu và yếu tố khách quan không dễ kiểm soát đến từ bên

14

ngoài nước xuất/nhập khẩu là những yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới qui mô, cơ cấu và chất lượng của hàng hóa thương mại trên TTQT. Trong điều kiện một kinh tế hỗn hợp trên phạm vi toàn cầu, luôn hiện hữu sự can thiệp của chính phủ vào cung và/hoặc cầu ở mức độ nào đó đối với từng mặt hàng nhất định thông qua các chính sách kinh tế-xã hội và CSTM với những phương pháp quản lý cùng các biện pháp quản lý đặc thù.

Như đã trình bày ở phần trước, mục tiêu của chính sách lúa gạo ở hầu hết các nước SX&TD gạo ở Châu Á là tự túc gạo trong nước, đảm bảo ANLTQG nhằm ổn định chính trị và xã hội trong nước và chủ quyền quốc gia. Trong khuôn khổ đó, các nước chỉ tham gia vào TTGQT khi và chỉ khi có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu gạo ở trong nước nghĩa là có sự bất ổn về thị trường gạo và giá gạo trong nước. Các nước chỉ tham gia vào TTGQT với tư cách là nhà xuất khẩu khì có dư thừa gạo ở trong nước và với tư cách là nhà nhập khẩu gạo khi đối mặt với sự thiếu hụt gạo trong nước, đe dọa ANLTQG và bất ổn chính trị trong nước.

Tự túc gạo trong nước cũng có nghĩa là đóng cửa, cách ly thị trường và giá gạo trong nước với TTGQT và giá gạo thế giới. Hậu quả là các quốc gia SX&TD gạo không tận dụng và phát huy được lợi thế so sánh cũng như khắc phục được bất lợi thế so sánh của mình để phân bổ hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của họ vào sản xuất những mặt hàng họ có lợi thế nhằm nâng cao phúc lợi quốc gia và phúc lợi toàn cầu như các lý thuyết thương mại quốc tế chỉ ra.

Do vậy, xét về mặt về lịch sử, TTGQT cho tới nay có các đặc trưng nổi bật sau:

(i) Thị trường gạo quốc tế: một thị trường “mỏng”

Lịch sử hơn 60 năm TTGQT cho thấy rằng về bản chất nó là một “thị trường dư thừa-Residual market”, nên rất “mỏng-thin” (Siamwalla và Haykin 1983, Barker, et al., 1985; Tsujii, 1995; Calpe, 2004-2006; ERS USDA, 2011, …, vv.)5 và “nông-shallow” (FAO và IMA- Indonesian Ministry of Agriculture, 2015).

5 Xem thêm Ngo Thi Men (2003) và Ngô Thị Mến (2022c).

Mỏng vì tỷ trọng gạo thương mại trong tổng sản lượng gạo quốc tế rất thấp, trung bình, chỉ đạt 5,5% cho thời kỳ 1961-2021. Hơn nữa, nói thị trường gạo có tính mỏng và nông là xét trong mối quan hệ tương quan với các thị trường lương thực khác, đặc biệt là hai thị trường lương thực chủ yếu khác của thế giới như thị trường ngô và thị trường lúa mì. Trong đó, tỷ trọng thương mại trung bình của lúa mì là 20% ở và của ngô là 14% trong cùng thời kỳ xem xét như được minh họa ở Hình 1.2.

15

Hình 1.2. Tỷ lệ thương mại hóa của gạo, ngô và lúa mì 1961-2021

Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu của FAO (1961-2022).

Thực tế là xu thế hội nhập kinh tế quốc tế từ thập niên 1990 đã tác động tích cực đến thương mại gạo thế giới, nâng tỷ trọng gạo thương mại từ 4% trong những thập niên 60, 70 và 80 của thế kỷ 20 lên 7% vào thập niên 2000 và 8,6% ở thập niên 2010. Tỷ lệ này đã được nâng lên xấp xỉ 10% ở giai đoạn hậu đại dịch Covid-19 vào năm 2021; đó là do một phần vì các quốc gia thiếu hụt gạo gia tăng nhập khẩu để bù đắp dự trữ quốc gia bị cạn kiệt trong thời gian giãn cách xã hội và một phần do gạo tồn đọng ở các nước dư thừa gạo do gãy chuỗi cung ứng toàn cầu trong thời gian đại dịch. Mặc dù vậy, con số này còn thấp xa so với tỷ trọng thương mại của ngô là 16% và lúa mì là 26% (Ngô Thị Mến, 2022c).

(ii) Thị trường gạo quốc tế: một thị trường “bất ổn”

Bất ổn trước hết vì nó là một thị trường mỏng. Ngoài ra, tính “bất ổn” của nó còn

có các lý do khác.

Thứ nhất, các nước thừa gạo không phải lúc nào cũng nhất quán là nước xuất khẩu và nước thiếu gạo không phải luôn là nước nhập khẩu gạo. Thiên tai có thể biến một nước dư thừa gạo trở thành nước thiếu gạo, điển hình như trường hợp của Philippines (Bale, 1985; SOFA95, USDA, 1997) và Indonesia (Pearson, et al, 1991). Hai quốc gia này đã chuyển từ nước xuất khẩu gạo vào giữa thập niên 1980 sang thành các nước nhập khẩu gạo. Điều tương tự cũng xảy ra đối với Trung Quốc ở các năm 1989, 1995, 1996, và 2004; thiên tai đã biến Trung Quốc từ một nước xuất khẩu gạo lớn trở thành một nước nhập khẩu gạo lớn của thế giới sau mỗi vụ mùa/năm đối mặt với thời

16

tiết bất lợi (FAO, 1990-2005). Như vậy, cùng một quốc gia có thể là nước xuất khẩu ở năm này, song lại trở thành nước nhập khẩu gạo năm khác6.

Thứ hai, chỉ cần một nước SX&TD gạo chủ chốt có thay đổi nhỏ trong chính sách xuất khẩu (CSXK) hay chính sách nhập khẩu (CSNK), đột ngột tham gia hay rút khỏi thị trường cũng làm TTGQT. Hậu quả là cầu và cung gạo mất cân đối trầm trọng khiến giá gạo thế giới biến thiên mạnh (xem thêm Ngô Thị Mến, 2022c).

Thứ ba, tính khu vực cao của SX&TD và thương mại gạo. Thực tế là 90% tổng lượng gạo thế giới được sản xuất ở châu Á và hầu hết lượng gạo tạo ra được tiêu dùng tại chỗ. Là châu lục có dư thừa về gạo, trung bình châu Á cung ứng ra thị trường quốc tế tới 82% tổng lượng gạo thương mại toàn cầu7 và nhập khẩu vào khu vực tới 43-44% khối lượng này (Ngô Thị Mến, 2022c). Ở đây, thời tiết gió mùa thuận lợi có thể mang lại những vụ mùa bội thu, song, các hiện tượng thời tiết bất thường như hiện tượng El- Nino gây hạn hán hoặc La-Nina gây lũ lụt làm mất mùa lúa ở cả khu vực hay ở đa số các nước Châu Á (Xem thêm climate.gov/enso). Hậu quả là TTGQT càng trở nên bất ổn hơn so với các thị trường lương thực khác (Xem thêm, FAO, WB, 1961-2022).

(iii) Thị trường gạo quốc tế: một thị trường “méo mó”

Hầu như tất cả các chính phủ ở các nước SX&TD gạo trên khắp thế giới, bất kể là nước giàu hay nước nghèo đều can thiệp sâu sản xuất và thương mại gạo. Mục tiêu của các chính phủ là bảo hộ sản xuất trong nước, ổn định thị trường và ổn định giá gạo trong nước, và đảm bảo ANLTQG. Bởi vậy, Gulati và Narayanan (2003) và FAO chỉ ra rằng gạo là “một hàng hóa chiến lược quốc tế”.

Tuy nhiên, chính sách lúa gạo thực thi ở các nước giàu hay các nước phát triển

về cơ bản là khác chính sách lúa gạo ở các nước nghèo hay các nước đang phát triển.

6 Từ năm 2009 tới nay, mặc dù chính phủ Trung Quốc đẩy mạnh việc thực thi chính sách tự túc gạo trong nước, song, nước này luôn là nước nhập khẩu ròng lớn về gạo (Xem dữ liệu thống kê của FAO, FAOSTAT, ITC- COMTRADE, 1961-2021). 7 Tính toán từ các nguồn dữ liệu công bố bởi FAO và USDA, 1961-2022.

Các nước phát triển áp dụng chính sách giữ giá gạo cao nhằm duy trì thu nhập cao cho nông dân thông qua trợ giá và bảo hộ thương mại biên giới khi là nhà nhập khẩu hoặc thông qua trợ cấp xuất khẩu nếu là nhà xuất khẩu gạo. Đối với các nước giàu nhập khẩu gạo, bảo vệ thương mại biên giới được tiến hành thông qua các biện pháp như cấm nhập, áp thuế nhập khẩu cao và áp dụng đồng thời các rào cản phi thuế khắt khe. Ở đây, nhập khẩu gạo được thực hiện bởi các công ty thương mại nhà nước là phổ biến như được thấy ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh Châu Âu (EU).

17

Hai nước giàu và thiếu hụt gạo ở Châu Á là Nhật Bản và Hàn Quốc. Đối mặt với bất lợi thế so sánh về sản xuất gạo trong nước, cả hai nước đều cấm nhập khẩu gạo từ bên ngoài cho đến khi buộc phải mở cửa thị trường gạo theo Thỏa thuận Nông nghiệp ở vòng Đàm phán Uruguay (URAA)8 vào năm 1994. Hai nước này cũng chỉ thực hiện nhập theo cam kết hạn ngạch tối thiểu ---”Minimum Access Quota ---hạn ngạch xâm nhập tối thiểu”. Đối với gạo nhập ngoài hạn ngạch, Nhật Bản đánh thuế lên tới 491%, một hình thức thuế cấm nhập, và con số này ở Hàn Quốc cũng lên tới 89% vào năm 1999 (Elbehri, et. al, 1999). Ở cả Nhật Bản9 và Hàn Quốc các công ty độc quyền nhà nước kiểm soát toàn bộ hoạt động nhập khẩu gạo (Gulati, et.al, 2003).

Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ và EU đều hỗ trợ người sản xuất gạo thông qua can thiệp thị trường kết hợp với chi trả trực tiếp cho nông dân và bất kể các nước đó là nước nhập khẩu hay nước xuất khẩu, họ đều tìm cách duy trì giá gạo trong nước cao vì lợi ích của người sản xuất. Mặc dù đối mặt với bất lợi thế so sánh trong sản xuất gạo với chi phí sản xuất gạo ở Nhật Bản cao gấp 20 lần ở Việt Nam và Thái Lan và giá bán lẻ gạo trong nước ở Nhật Bản đắt gấp 18 lần Việt Nam và 17,5 lần Thái Lan (FAO, 2016), vì ý nghĩa chính trị và truyền thống của gạo đối với người dân quốc gia này mà Nhật Bản vẫn kiên trì theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước.

Mục tiêu của chính sách lúa gạo ở các nước đang phát triển là đảm bảo rằng luôn sẵn có gạo rẻ trên thị trường trong nước vì lợi ích của phần đông những người tiêu dùng nghèo. Cả sản xuất và thương mại gạo đều được nhà nước bảo hộ, đặc biệt ở các nước thiếu gạo phải nhập khẩu. Các rào cản thương mại bao gồm cả hàng rào thuế quan và phi thuế quan được áp dụng để điều tiết lượng gạo xuất khẩu ra khỏi biên giới quốc gia và nhập khẩu vào đất nước như được chỉ ra bởi FAO (2006) bởi Lançon and Benz (2007), McCulloch (2008), Kazuo (2008); Malabanan (2010); Aker, et. al (2011), Ramesh (2011), Sanderatne (2011); IPAR (2016); Galero et al. (2014); Simeon (2016),

Sulaiman (2017); Aminou, et.al (2021), Ndiame (2021), IRRI (2022), FAO (2000-2022) và nhiều nhà lương thực học quốc tế khác.

8 Tuy nhiên, năm 1993 thời tiết trở lạnh đột ngột, băng giá làm mất mùa lúa ở Nhật buộc Nhật Bản phải nhập gạo từ thị trường thế giới sau 45 năm cấm nhập (Reid, 1993). 9 Đại lý Lương thực Nhật (Japanese Food Agency) là một trong những đại lý nhập khẩu nhà nước lớn nhất thế giới (Gulati, et.al, 2003).

Giống như ở các nước phát triển, việc xuất khẩu hay nhập khẩu gạo qua biên giới được tiến hành trực tiếp hoặc điều phối bởi các doanh nghiệp độc quyền nhà nước hay các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, như: các Hiệp hội lương thực, Hiệp hội ngũ cốc hay Hiệp hội về gạo (Barker et al, 1985; Dawe, 2002; Gulati và Narayanan, 2003;

18

Chung và Tan, 2015; Sampaothong, 2016; Adrikari, et al., 2016; Kormawa, 2016; FAO, 1982-2018; IRRI, USDA, 1970-2016..., v.v). Với các doanh nghiệp độc quyền nhà nước, các chính phủ có thể dễ dàng kiểm soát và can thiệp vào thị trường trong nước nhằm cân đối cung cầu thị trường và tránh rủi ro cho an ninh lương thực quốc gia.

Ở hầu hết các nước xuất khẩu gạo và nhập khẩu gạo chủ chốt đều có sự can thiệp đôi khi thô bạo của các chính phủ, trong đó các nước xuất khẩu như Thái Lan10, Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia, và Myanmar; và một số quốc gia nhập khẩu gạo lớn như Trung Quốc11, Indonesia, Philippines,…, và một số nước Tây Phi (Xem thêm FAO, USDA, IFPRI, 1990-2022; VFA, 1994-2022; Ramesh, 2011; Reed và Singh, 2022; Reuters, 2022). Thực tế là chính phủ các nước xuất khẩu, trong một số trường hợp cực đoan, vì an ninh lương thực quốc gia, ổn định giá gạo và duy trì mức giá thấp cho người tiêu dùng trong nước đã ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo qua biên giới đúng vào những thời điểm cầu về gạo trên thị trường quốc tế tăng cao, giá gạo thế giới tăng vọt và lập đỉnh như năm 1998, 2008. Ấn Độ, Việt Nam, Campuchia và Myanmar đã áp dụng lệnh cấm xuất khẩu khiến khủng hoảng gạo và giá gạo toàn cầu bùng nổ như được thấy vào cuối năm 2007 đến giữa năm 2008 (Childs, 2009; ERS-USDA, 2009).

Cùng lúc đó, chính phủ các nước thiếu gạo như Philippines, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số quốc gia Châu Phi, nhất là các nước Tây Phi tăng cường bảo hộ sản xuất trong nước. Họ tăng cường trợ giá cho các yếu tố đầu vào như: cung cấp giống, trợ cấp giá phân bón, giá điện, hỗ trợ lãi suất vốn vay, hay cung cấp miễn phí các dịch vụ thủy lợi, dịch vụ khuyến nông. Họ chấp nhận chi phí sản xuất trong nước cao hơn nhiều so với giá nhập khẩu cộng với các chi phí vận chuyển và lợi nhuận cho doanh nghiệp nhập khẩu. Đối với người tiêu dùng trong nước, chính phủ các nước nghèo thực thi chính sách trợ giá gạo cho người tiêu dùng, cung cấp gạo qua tem phiếu, nhất là những người nghèo như Indonesia, Philippines, Bangladesh, Haiti, Bờ Biển Ngà…, (Wailes, 2003; WB, 2013; Hutapea, 2022). Theo Hutapea (2022), giá bán lẻ gạo tại các nước nhập khẩu chỉ bằng từ 72-80% chi phí gạo sản xuất trong nước.

10 Thái Lan đánh thuế vào gạo xuất khẩu trong khoảng thời gian 1952-1987 (Xem thêm, Siamwalle, 1975, Karunaratne, 1998 ---trích Ngo Thi Men, 2003; Forssel, 2009). 11 Trung Quốc luôn là nước vừa xuất khẩu vừa là nước nhập khẩu gạo (Xem FAO, UN COMTRADE –ITC, 1961-2022).

Mặt khác, chính phủ các nước nhập khẩu bất kể nước giàu hay nghèo đều luôn tìm cách cô lập giá gạo trong nước với giá thế giới, họ hạn chế nhập khẩu thông qua việc vận dụng các điều khoản: “Đối xử đặc biệt- Special Treatments”; “Tự vệ đặc biệt- Special Safeguards”; và “Tỷ suất thuế theo giá trị ràng buộc- Ad-valorem Bound rate”

19

với tỷ lệ trên 50% giá nhập khẩu12. Calpe (2006) và FAO (2006) đã công bố bảng danh sách 76 quốc gia áp dụng các điều khoản gây méo mó thị trường gạo quốc tế. Nhiều chính phủ áp thuế nhập khẩu gạo cao từ 100 đến 160%, và nhiều chính phủ vận dụng kết hợp đồng thời thuế cao và các rào cản phi thuế quan nghiêm ngặt khác như tự vệ đặc biệt và đối xử đặc biệt. Bởi vậy, ngay cả trong trường hợp các nước thiếu gạo phải nhập khẩu gạo thì “giá nội địa vẫn bị cô lập với giá biên giới” (Rock, 2016). Trước thực tế này Wailes (2013) đã chỉ ra rằng “lúa gạo là mặt hàng được bảo hộ cao nhất trong tất cả các mặt hàng”.

Sự can thiệp quá sâu của các chính phủ vào sản xuất và thương mại gạo làm thị trường không thể hoạt động và phân bổ các nguồn lực khan hiếm trong phạm vi quốc gia và quốc tế một cách hiệu quả. Thị trường gạo không thể hoạt động theo quan hệ cung cầu và với sự tương tác của cung và cầu. Gulati và Narayanan (2003) khảng định rằng “thị trường gạo là thị trường méo mó nhất trong các thị trường ngũ cốc”.

(iv) Thị trường gạo quốc tế: một thị trường “không đáng tin cậy”

Những năm thời tiết bất lợi, mất mùa lúa xảy ra ở hầu hết các nước xuất khẩu và nước nhập khẩu gạo khiến nguồn cung gạo trên thị trường quốc tế trở nên khan hiếm trong khi cầu về gạo tăng vọt ở các nước thiếu gạo. Giá gạo thế giới tăng nhanh.

Trái với kỳ vọng, các nước thừa gạo thay vì đẩy mạnh xuất khẩu để hưởng giá thị trường cao họ lại hạn chế xuất khẩu và thậm chí ban hành lệnh cấm xuất khẩu để ổn định thị trường và giá gạo trong nước và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. (Xem thêm Ngô Thị Mến, 2003; 2022a, 2022c; Ramesh, 2011); Reed và Singh (2022); FAO, IFPRI, USDA, 2008-2009, 2020-2022). Điều này làm tăng chi phí tìm kiếm nguồn gạo và chi phí giao dịch cho nhập khẩu gạo ở các nước nhập khẩu. Ngược lại, khi nguồn cung quốc tế dồi dào, giá gạo thế giới xuống thấp, để bảo hộ sản xuất và ổn định giá gạo trong nước, các nước thiếu gạo dừng nhập khẩu.

12 Xem thêm Table 4: Countries with URAA tariff schedules designating rice as subject to the Special Treatment or to the Special Safeguard and/or with rice tariff bound of at least 50 percent (Nguồn: Concepción Calpe, Rice International Profile, FAO, Markets and Trade Division, December 2006.

Như vậy, TTGQT luôn được coi “rất không đáng tin cậy” đối với cả người bán và người mua (Monke and Pearson, 1991; Tsujii,1995; FAO, 2008-2009, Childs và Kiawu, 2009) vì trong nhiều trường hợp, “chính phủ các nước chỉ quan tâm tới nhu cầu của người dân chứ không quan tâm tới giá” (Timmer, 2010; Wailes, 2013). Hơn nữa, do gạo là mặt hàng chiến lược quốc tế nên “Gạo chưa bao giờ là một mặt hàng kinh tế” (Abdullah et al, 2010; Chung & Tan, 2015).

20

(v) Thị trường gạo gạo quốc tế: một thị trường phân khúc cao

Khác với ngô và lúa mì, gạo không phải một mặt hàng thuần nhất mà rất đa dạng về phẩm cấp chất lượng và chủng loại. Cho đến cuối thế kỷ XX, gạo bao gồm 2 chủng loại chính là Indica (gạo hạt dài) chiếm 80-85% tổng lượng gạo thương mại toàn cầu và Japonica (gạo hạt ngắn) chiếm 15-20% còn lại. Từ đầu thế kỷ XXI, chủng loại Indica gạo được phân loại chi tiết hơn với gạo trắng hạt dài thường chiếm 70-80%, gạo thơm Jasmine và Basmati chiếm 10%, chủng loại Japonica chiếm tỷ lệ 10-12%, phần còn lại là gạo nếp (Gulati & Narayanan, 2003). Cung và cầu trên thị trường gạo quốc tế phụ thuộc rất lớn vào khả năng cung ứng các chủng loại gạo cụ thể và cầu về các chủng loại gạo theo thị hiếu tiêu dùng ở từng nước/từng vùng lãnh thổ.

Các nước thiếu gạo ở Đông Á như Nhật Bản và Hàn Quốc có nhu cầu nhập gạo Japonica đến chủ yếu từ Mỹ, Úc và Trung Quốc. Các nước Châu Phi ưa thích nhập gạo Indica từ Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam và Pakistan. Cầu về gạo của các nước Tây Á chủ yếu là gạo Basmati của Nam Á như từ Ấn Độ và Pakistan. Các nước châu Âu, nhất là khu vực EU có nhu cầu về gạo thơm và gạo chất lượng cao của Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Pakistan và phần nào từ Việt Nam trong thời gian gần đây. Các nước thiếu gạo ở Nam Mỹ nhập khẩu gạo chủ yếu từ Mỹ do có lợi thế về khoảng cách địa lý (FAO, USDA, 1961-2022).

Thực tế thương mại gạo quốc tế cho thấy rằng do thị hiếu và sở thích tiêu dùng và điều kiện sản xuất ở mỗi vùng, khả năng thay thế giữa các chủng loại gạo là rất hạn chế, kể cả trong sản xuất và trong tiêu dùng. Chính vì vậy mà mà thị trường gạo có tính phân khúc rất cao.

(vi) Thị trường gạo quốc tế: một thị trường độc quyền nhóm

13 Trong thời gian từ năm 1965 đến năm 1981, Mỹ nổi lên là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới và Campuchia rút khỏi thị trường gạo quốc tế. Khi đó, xuất khẩu gạo cũng chỉ tập trung chủ yếu vào năm nước; đứng đầu là Mỹ, Thái Lan, Trung Quốc, Myanmar và Pakistan (Wailes, 2002).

Lịch sử thương mại gạo từ giữa thế kỷ thứ 20 cho thấy thị trường gạo quốc tế mang tính chất của một thị trường độc quyền nhóm. Đó là do luôn chỉ có một nhóm nhỏ các nước xuất khẩu gạo (5-6 nước chủ chốt) tương tác với một số rất lớn các nước nhập khẩu (219 nước) (Workman, 2018). Trong giai đoạn 1950-1964, năm nước xuất khẩu hàng đầu thế giới Myanmar, Thái Lan, Mỹ13, Trung Quốc và Campuchia đã đóng góp trên 80% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn cầu (Tsujii, 1995; Dawe, 2002). Giai đoạn 1985-1998, lượng gạo xuất khẩu từ năm nước như Thái Lan, Mỹ, Việt Nam, Ấn Độ và Pakistan chiếm tới trên 72 % tổng lượng gạo thương mại thế giới (IRRI, 2012; FAO

21

and USDA, 1960-61-2022) và con số này là 80% vào năm 2021. Nếu tính cả Myanmar vào nhóm 5 nước trên thì riêng 6 nước xuất khẩu đã đóng góp tới 84% tổng lượng gạo xuất khẩu thế giới (FAO và USDA, 2022, Ngô Thị Mến, 2022c).

Trong khi xuất khẩu gạo chủ yếu tập trung chủ yếu ở châu Á, nhập khẩu gạo mang tính phân tán cao, diễn ra ở nhiều nước trên mọi châu lục. Trong giai đoạn 1961- 2017, mười nước nhập khẩu hàng đầu chỉ hấp thụ 30% tổng lượng nhập của thế giới (FAO, RMM, 1961-2018) và tổng lượng gạo nhập khẩu của 26 quốc gia nhập khẩu gạo chủ chốt của thế giới cũng chỉ đạt trên 60% trong giai đoạn 2007-2021 (USDA, 2022).

Nghĩa là về lý thuyết thì thị trường gạo quốc tế mang đặc trưng của một thị trường độc quyền nhóm mặc dù gần đây thị trường này ngày một trở nên cạnh tranh hơn do sự xuất hiện của những nước xuất khẩu gạo mới từ châu Á như Campuchia và Myanmar và Ấn Độ tăng cung do giảm lượng dự trữ quốc gia. Cung gạo ra thị trường gạo quốc tế tăng lên trong khi nhu cầu tiêu dùng gạo, một lương thực chủ chốt của thế giới, khá ổn định (WB, 2019).

1.2.2. Thị trường xuất khẩu quốc tế

Như đã trình bày ở trên, hầu hết cung về gạo ở thị trường quốc tế có nguồn gốc từ gạo dư thừa của các quốc gia sản xuất và tiêu dùng gạo chủ chốt trên thế giới, từ một số nước châu Á và Mỹ. Trong các thập niên 1960-1980, gạo xuất khẩu tới chủ yếu từ Thái Lan và Mỹ và tỷ trọng gạo thương mại chỉ chiếm trên dưới 4% sản lượng gạo toàn cầu. Cho tới cuối thập niên 1980, nhiều quốc gia châu Á đã tự túc được gạo, trong đó có quốc gia có lượng gạo dư thừa lớn, ví dụ như Việt Nam. Dư cung trong nước dẫn tới sự bất ổn thị trường và giá gạo trong nước, ảnh hưởng tiêu cực đối với người sản xuất. Giải pháp cho bình ổn giá và thị trường trong nước là “xuất khẩu” sự bất ổn này ra thị trường quốc tế. Lượng gạo thương mại do đó tăng lên nhanh chóng. Thêm vào đó là xu hướng tự do hóa thương mại từ đầu những năm 1990 cũng có ảnh hưởng tích cực tới phát triển thương mại gạo. Trừ Mỹ, gạo xuất khẩu chủ yếu đến từ châu Á, như Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam, Pakistan và Myanmar. Trong các năm ở thập niên 2011-2021, thị phần gạo xuất khẩu từ châu Á chiếm tới 82% trong khi cả thế giới còn lại đóng góp 18%. Phần còn lại của cung thế giới đến từ các châu lục khác như châu Mỹ bao gồm khu vực Bắc Mỹ nhất là từ Mỹ và các nước Mỹ La tinh, châu Âu, châu Phi và châu Đại Dương như được chỉ ra ở Bảng 1.1. Phần lớn gạo xuất khẩu của châu Mỹ đến từ nước Mỹ và phần còn lại đến từ Urugay, Brazil, và Bolovia. Mỹ từng là nhà xuất khẩu lớn nhất nhì thế giới cho tới đầu thập niên 1990 và gạo Mỹ

22

được xuất đi khắp các châu lục, chủ yếu vào các nước nhập khẩu thuộc thị trường phân khúc cao.

Bảng 1.1. Khối lượng gạo xuất khẩu theo châu lục, 1961-2021

(Đơn vị: Triệu tấn)

Thập niên Thế giới Châu Á Châu Phi Châu Mỹ Châu Âu Châu Đại Dương

1961-1970 7,6 4,9 0,5 1,7 0,3 0,1

1971-1980 7,7 4,6 0,2 2,1 0,6 0,2

1981-1990 11,9 7,7 0,1 2,8 1,0 0,4

1991-2000 20,5 14,2 0,3 4,0 1,4 0,6

2001-2010 30,0 22,2 1,0 5,0 1,6 0,2

2011-2021 44,3 36,4 - 5,7 2,2 0,2

Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ dữ liệu của FAO và USDA (1960-2022)

1.2.3. Thị trường nhập khẩu quốc tế

Trái với thị trường xuất khẩu tập trung, các nước nhập khẩu gạo nằm rải rác phân tán khắp các châu lục. Nói chung, các yếu tố quan trọng quyết định lượng gạo nhập khẩu vào châu lục đó là: qui mô dân số, điều kiện địa hình của đất nước, và thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia nhập khẩu. Khối lượng gạo nhập về các châu lục biến động mạnh theo thời gian phụ thuộc vào tầm quan trọng và ý nghĩa của gạo trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, thị hiếu của người tiêu dùng tại các nước nhập khẩu, và trong chừng mực nhất định là hiệu ứng của các hiệp định thương mại tự do (FTA). Tình hình nhập khẩu gạo trung bình hàng năm theo thập niên và châu lục được trình bày ở Bảng 1.2.

Bảng 1.2. Lượng gạo nhập khẩu theo châu lục, 1961-2021

(Đơn vị: Triệu tấn)

Thập niên Thế giới Châu Á Châu Phi Châu Mỹ Châu Âu Châu Đại Dương

1961-1970 7,6 5,3 0,6 0,4 1,1 0,1

1971-1980 7,7 4,6 1,1 0,6 1,3 0,1

1981-1990 11,9 5,2 2,9 1,2 2,4 0,2

1991-2000 20,5 9,4 4,6 3,3 2,8 0,4

2001-2010 30,0 13,1 8,9 4,1 3,5 0,5

23

2011-2021 44,3 19,1 15,1 5,4 4,3 0,4

Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ dữ liệu của FAO và USDA (1960-2022)

Bảng 1.2 chỉ ra rằng tất cả các châu lực đề nhập khẩu gạo và lượng gạo nhập khẩu vào tất cả các châu lục đều tăng lên theo thời gian. Tuy nhiên, châu Á và châu Phi là hai châu lục nhập khẩu nhiều gạo nhất từ thị trường thế giới. Trong đó, châu Á là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới, với thị phần trung bình chiếm tới trên 50% cho cả thời kỳ 1961-2021, giảm từ 70% vào những năm 1960 xuống 44 % trong ba thập niên gần đây. Tuy nhiên về số tuyệt đối, lượng gạo nhập vào châu Á đã tăng lên nhanh chóng theo thời gian, từ khoảng 5 triệu tấn trong ba thập niên 1960-1980 tăng lên 9,4 triệu tấn ở thập niên 1990, tới 13,1 triệu tấn ở thập niên 2000 và 19 triệu tấn ở thập niên gần đây. Các nước nhập khẩu gạo hàng đầu thế giới là Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Malaysia và Bangladesh. Như vậy, một phần lớn gạo xuất khẩu từ Châu Á (Bảng 1.1) được nhập trở lại châu lục này (Bảng 1.2). Các nước nhập khẩu nhiều gạo chủ yếu là các nước đông dân, có địa hình biển đảo và có thu nhập trung bình và trung bình thấp ở châu Á (World Bank, các năm).

Bảng 1.2 cũng cho thấy Châu Phi nhập khẩu gạo nhiều thứ hai thế giới và là châu luc nhập khẩu ròng lớn nhất thế giới. Lượng gạo nhập vào châu Phi tăng lên liên tục theo thời gian về số tuyệt đối. Thị phần nhập khẩu của châu Phi cũng tăng nhanh nhất, từ 8,4% trong thập niên 1960 lên 25% ở thập niên 1980; 30% ở thập niên 2000 và 34% ở thập niên 2011-2021 (Tính từ Bảng 1.2). Lý do là hiệu ứng thay thế -người dân châu Phi chuyển từ củ, quả là lương thực truyền thống sang gạo là lương thực chính- và một phần do dân số châu Phi tăng nhanh và một mặt là độ co giãn của cầu về gạo, mặt hàng thiết yếu, theo giá vì giá thực của gạo đã giảm và giảm mạnh tương đối so với giá các lương thực khác như ngô, lúa mì (Bàn ở phần sau). Các nước nhập khẩu gạo chủ yếu ở châu Phi là nước nghèo có thu nhập thấp như Nigeria, Angola, Bờ Biển Ngà, Keyna, Nambia, Senegal, Mozambique, Tanazia .... .Hầu hết gạo nhập vào châu Phi là gạo trắng thường, hạt dài có nguồn gốc từ các quốc gia xuất khẩu lớn của châu Á như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam (FAO).

Lượng gạo được nhập vào châu Châu Mỹ và châu Âu cũng tăng theo thời gian tuy khá chậm, một mặt là do gạo là mặt hàng được bảo hộ rất cao cả trong sản xuất và thương mại, đặc biệt ở các nước châu Âu (EU), thông qua hàng loạt các hàng rào thuế và phi thuế. Mặt khác, do gạo không phải là lương thực chính của người dân châu Âu. Nói chung, phần lớn gạo nhập vào hai châu lục này có nguồn cung tại chỗ và một phần còn lại là gạo chất lượng cao đến từ một số quốc gia xuất khẩu truyền thống của châu

24

Á như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan, Myanmar và một phần nhỏ đến từ Việt Nam. Khối lượng gạo nhập khẩu tăng lên trong thập niên gần đây một phần là do ưu thế vượt trội của gạo so với lương thực truyền thống của họ là lúa mì và khoai tây, xét về khia cạnh dinh dưỡng và về sự tiện lợi trong chế biến. Thêm vào đó là do sự gia tăng của bộ phận dân nhập cư đến từ các quốc gia dùng gạo lương thực chính ở châu Á và châu Mỹ La tinh.

1.2.3. Chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu theo châu lục

Chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu gạo của các châu lục (lượng gạo xuất khẩu ra thị trường quốc tế trừ lượng gạo nhập khẩu từ thị trường quốc tế) theo từng châu lục như được trình bày ở Bảng 1.3.

Bảng 1.3. Cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu theo châu lục, 1961-2021

(Đơn vị: Triệu tấn)

Thập niên Châu Á Châu Phi Châu Mỹ Châu Âu Châu Đại Dương

1961-1970 -0,4 -0,1 1,3 -0,8 0

1971-1980 0 -0,9 1,5 -0,8 0,1

1981-1990 2,4 -2,9 1,6 -1,3 0,2

1991-2000 4,8 -4,3 0,7 -1,4 0,2

2001-2010 9,2 -7,9 0,9 -1,9 -0,3

2011-2021 17,1 -15,1 0,3 -2,1 -0,2

Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ dữ liệu của FAO và USDA (1960-2022)

Bảng 1.3 cho phép nhận xét khái quát về thực trạng và xu hướng vận động của thị trường gạo quốc tế. Nó chỉ ta rằng châu Á và châu Mỹ là những châu lục có xuất khẩu ròng về gạo-châu Á mới chỉ trở thành có châu lục có xuất siêu về gạo từ những năm của thập niên 1980. Châu Mỹ là châu lục xuất khẩu ròng về gạo trong suốt thời kỳ nghiên cứu vì lượng gạo nhập khẩu nhỏ hơn lượng xuất khẩu. Châu Đại Dương nói chung ít phụ thuộc vào gạo từ bên ngoài tuy là châu lục nhập khẩu ròng, không đáng kể, trong hai thập niên gần dây. Gạo nhập vào châu Đại Dương là gạo chất lượng cao đến từ các nước xuất khẩu lớn có gạo nổi tiếng thơm ngon và sạch như Thái Lan, Pakistan và Ấn Độ.

Tóm lại, Bảng 1.3 cho thấy xu thế vận động của thị trường gạo quốc tế và các thị trường khu vực. Nó hàm chứa các thông tin về cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ cho các nước xuất khẩu và thông tin cho việc tìm kiếm nguồn hàng tiềm năng cho các nước

25

nhập khẩu. Các quốc gia châu Á dư thừa gạo có thể tiếp tục mở rộng xuất khẩu sang các quốc gia châu Phi nơi thị hiếu của người tiêu dùng là gạo trắng thường hạt dài.

1.2.4. Giá gạo thế giới

Tính mỏng và bất ổn của thị trường gạo quốc tế khiến giá gạo thế giới biến động mạnh hơn giá ngô và lúa mỳ cả về tần suất và mức độ. Sự biến động mạnh mẽ của giá gạo thể hiện rõ nét nhất ở hai cuộc khủng hoảng gạo toàn cầu vào các năm 1973-1974 và 2007-2008 do ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết El-Nino và La-Nina như được phản ánh ở Hình 1.3a (Ngô Thị Mến, 2022c).

Hình 1.3a. Diễn biến của giá thế giới đối với gạo, ngô và lúa mì (1961-2021)

Nguồn: World Bank (2022) và Ngô Thị Mến (2022c)

Cách mạng xanh từ những năm 1960 đã giúp tăng nhanh sản lượng lúa và do đó lượng gạo thương mại toàn cầu. Giá thực của gạo giảm liên tục -trừ thời gian diễn ra 2 hai cuộc khủng gạo toàn cầu như minh họa ở Hình 1.3b.

1600

60

n ấ t /

1400

50

n ấ t u ệ i r T

D S U

1200

40

1000

800

30

600

20

400

10

200

0

0

3 9 9 1

7 8 9 1

4 8 9 1

1 8 9 1

8 7 9 1

5 7 9 1

6 9 9 1

9 9 9 1

2 0 0 2

5 0 0 2

1 1 0 2

4 1 0 2

7 1 0 2

0 2 0 2

0 6 9 1

3 6 9 1

6 6 9 1

9 6 9 1

2 0 8 7 9 0 9 9 0 1 1 2 Giá gạo thế giới (USD/tấn-giá hiện hành) Giá gạo thế giới (USD/tấn 2010 USD) Lượng gạo xuất/nhập khẩu thế giới (Triệu tấn)

26

Hình 1.3b. Lượng và giá xuất khẩu gạo thế giới 1960-2021

Nguồn: FAO, USDA (2022) và Ngô Thị Mến 2022c.

Nếu chỉ xem xét 2 mặt hàng lương thực chính của thế giới là gạo và lúa mì trong

cả thời kỳ 1961-2021 thì sản lượng và qui mô của gạo thương mại có tốc độ tăng cao

hơn so với lúa mì. Do về bản chất, gạo thương mại chỉ là phần dư thừa nên giá gạo biến

động mạnh hơn so với giá lúa mì. Trong thời kỳ này, tốc độ tăng trung bình của gạo

thương mại là 3,5%/năm, trong khí con số này là 2,7% đối với lúa mì; điều này dẫn tới

giá gạo thế giới giảm trung bình 0,5%/năm trong khi giá lúa mì tăng 0,2%/năm. Vì thế

giá tương đối của gạo so với lúa mì đã giảm đáng kể theo thời gian, cụ thể từ 2,3 lần ở

thập niên 1960 xuống 1,8 lần ở thập niên 1980 và 1,7 ở thập niên 2000. Nghĩa là gạo đã

trở nên rẻ hơn tương đối đáng kể so với lúa mì.

1.3. Kết luận

Bằng cách tiếp cận lịch sử, hệ thống, và logic biện chứng, chương này đưa ra cái

nhìn tổng quan về thị trường gạo quốc tế, thị trường của một mặt hàng đặc biệt và nhạy

cảm, một mặt hàng chiến lược quốc tế có vai trò và ý nghĩa to lớn trong đời sống chính

trị, xã hội và văn hóa của đa phần người dân trên thế giới, nhất là ở Châu Á và châu Phi.

Ở đây, thị trường gạo quốc tế chỉ là một thị trường dư thừa với các đặc điểm sau: (i)

mỏng theo nghĩa là tỷ trọng gạo thương mại rất nhỏ so với tổng sản lượng gạo toàn cầu;

(ii) bất ổn vì một nước có thể là nước xuẩt khẩu năm này nhưng lại trở thành nước nhập

khẩu gạo ở năm khác; (iii) mang tính khu vực cao do hầu hết gạo được sản xuất ra và

tiêu dùng tại Châu Á; (iv) méo mó do chính phủ các nước xuất khẩu và nhập khẩu đều

can thiệp sâu vào thị trường thông qua chính sách thương mại bảo hộ và các hoạt động

27

xuất nhập khẩu gạo được tiến hành chủ yếu thông qua các công ty lương thực (độc

quyền) nhà nước; (v) không đáng tin cậy đối với cả các nước xuất khẩu và các nước

nhập khẩu gạo, đó là do (ii), (iii) và (iv); (vi) có tính phân khúc cao do thị hiếu khác

nhau ở các vùng địa lý đối với một mặt hàng không thuần nhất; và (vii) ít nhiều mang

tính độc quyền nhóm do xuất khẩu tập trung ở một số ít nước trong khi nhập khẩu phân

tán, được tiến hành bỏi từ hàng trăm nước.

Bởi vậy, trong phần lớn thời gian của thời kỳ 1961-2021, sản xuất và thương

mại gạo không xuất phát từ việc tận dụng lợi thế so sánh nên các lý thuyết thương

mại hầu như có ít ý nghĩa đối với thương mại gạo quốc tế; và thị trường gạo quốc tế

nhiều khi hoạt động không tuân theo quy luật cung cầu mà bị can thiệp bởi các chính

phủ. Tuy nhiên, sự mở rộng sản xuất gạo vì mục tiêu tự túc gạo trong ở các nước

thiếu gạo và việc đẩy mạnh sản xuất gạo ở các nước thừa gạo và xu thế tự do hóa

thương mại, thị trường gạo quốc tế cũng đã dần trở nên dày hơn và cạnh tranh hơn.

Từ nghiên cứu tổng quan về lịch sử tiến triển của thị trường gạo quốc tế có thể nhận thấy các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của một nước bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến từ các nước nhập khẩu như (i) chính sách sản xuất -tự túc gạo trong nước; (ii) chính sách lương thực- an ninh lương thực quốc gia; (iii) chính sách thương mại- bảo hộ thương mại bằng các hàng rào thuế và phi thuế để ổn định giá và thị trường gạo trong nước; (iv) tỷ trọng chi tiêu cuối cùng cho gạo/lương thực trong tổng chi tiêu; (v) thị hiếu của người tiêu dùng mang tính khu vực về phẩm cấp, chất lượng và chủng loại gạo; (vi) sự tồn tại của lương thực thay thế gạo; (vii) vị trí địa lý (châu lục, đất liền, biển đảo) của nước nhập khẩu gạo; (viii) thu nhập bình quân theo đầu người của nước nhập khẩu gạo; (ix) các hiệp định thương mại tự do mà cả nước nhập khẩu và nước xuất khẩu là thành viên; và [(x) đôi khi giá gạo thế giới và/hoặc giá gạo xuất khẩu của nước xuất khẩu khác và chính sách xuất khẩu của các nước xuất khẩu].

Và các yếu tố ảnh hưởng bên trong của nước xuất khẩu bao gồm (i) chính sách sản xuất lúa gạo; (ii) chính sách lương thực; (iii) chính sách thương mại gạo; (iii) qui mô lượng gạo dư thừa; và (iv) giá gạo trong nước.

28

CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Chương 2 trước hết tổng quan cơ sở lý thuyết cho xuất khẩu và cho mô hình lực hấp dẫn (MHLHD) của thương mại và tổng quan thực nghiệm nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng nông sản và gạo ở một số nước và Việt Nam vận dụng MHLHD gia tố từ mô hình cơ bản của Tinbergen (1962) cho tới mô hình lực hấp dẫn cấu trúc (MHLHDCT) do Yotov và các cộng sự (2016) giới thiệu. Hiện nay, MHLHD của thương mại đã trở thành một công cụ phân tích định lượng hữu hiệu các yếu tố ảnh hưởng tới luồng thương mại giữa các quốc gia và/hoặc giữa các khu vực kinh tế.

Tiếp theo là tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm vận dụng MHLHD vào việc xác định và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng hóa, nông sản và đặc biệt là xuất khẩu gạo của một số nước và của Việt Nam trong mấy thập niên gần đây. Phần cuối cùng là chỉ ra những khoảng trống được phát hiện từ nghiên cứu tổng quan mở đường tiếp tục cho luận án.

2.1. Tổng quan lý thuyết

2.1.1. Lý thuyết về xuất khẩu trong thương mại quốc tế

Trong một nền kinh tế mở, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ được sản

xuất ở trong nước ra nước ngoài/cho người nước ngoài. Đó là hoạt động bán hàng ra

nước ngoài có tính hệ thống và có tổ chức cả ở bên trong lẫn bên ngoài nhằm mục tiêu

thu về lợi ích kinh tế cho quốc gia. Xuất khẩu hàng hóa tạo ra thu nhập ngoại tệ cho đất

nước sản xuất và xuất khẩu hàng hóa và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Theo Luật Thương mại 2005 của Việt Nam thì “Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng

hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh

thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”.

Xuất khẩu là hết sức cần thiết đối với sự phát triển đất nước nói chung và các

doanh nghiệp nói riêng vì xuất khẩu thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng tổng sản phẩm

trong nước (GDP), mở rộng bán hàng và gia tăng lợi nhuận, đa dạng hóa các thị trường,

đẩy mạnh đổi mới nhờ tiếp cận các thị trường toàn cầu và các công nghệ mới.

Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, làm giàu dự trữ ngoại tệ cho đất nước,

cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Điều này có ý nghĩa to lớn nhất là đối với các nước

đang phát triển. Nó tạo điều kiện cho mở rộng nhập khẩu phục vụ công cuộc công nghiệp

hóa và hiện đại hóa nền kinh tế, giúp đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo

29

hướng mở rộng qui mô ngành và đa dạng hóa sản phẩm mà đất nước có lợi thế so sánh

và lợi thế cạnh tranh để nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội trong phạm vi ngành và

quốc gia. Mở rộng xuất khẩu giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm, giải quyết tình trạng

thiếu việc làm và giảm nhẹ tình trạng thất nghiệp ở trong nước, ổn định và từng bước

nâng cao mức sống của người dân.

Các lý thuyết thương mại quốc tế cổ điển và tân cổ điển gợi ý rằng một/các quốc

gia nên tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa mà quốc gia đó có

lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh để nâng cao phúc lợi kinh tế quốc gia đó và đồng thời

làm tăng phúc lợi kinh tế toàn cầu. Trái lại các quốc gia có bất lợi thế tuyệt đối và lợi

thế so sánh trong việc sản xuất các mặt hàng nào đó cần nhập khẩu những mặt hàng này

sẽ có lợi. Xuất phát từ ý tưởng trên, các nhà kinh tế đã tiếp tục nghiên cứu và phát triển

các lý thuyết thương mại quốc tế, hoàn thiện các lý thuyết này để chúng trở thành kim

chỉ nam cho nghiên cứu và phân tích luồng thương mại toàn cầu.

Đại diện cho các lý thuyết thương mại quan trọng thịnh hành từ cuối thế kỷ 18 là

các lý thuyết thương mại cổ điển như lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Smith (1776), lý

thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo (1817), lý thuyết thương mại tân cổ điển hay lý

thuyết về tỷ lệ các yếu tố sẵn có của Heckscher (1919) và Ohlin (1933); và các lý thuyết

thương mại mới nổi lên trong thập niên 1980 mà đại diện là Krugman (1979-1980) với

sự hiện diện của kinh tế theo qui mô, Porter (1980) với phân biệt hóa sản phẩm và Porter

(1990) với lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia hay Mô hình Kim cương.

Smith (1776) là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối trong hoạt

động ngoại thương trong tác phẩm bàn về “The Wealth of Nations – Của cải của các

quốc gia”. Trong đó, lợi thế tuyệt đối được hiểu là lợi thế có được trong trao đổi thương

mại quốc tế khi một quốc gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những

sản phẩm mà mình có thể tạo ra với chi phí thấp hơn hẳn các quốc gia khác và thấp hơn

chi phí trung bình quốc tế thì khi tất cả các quốc gia tham gia thương mại quốc tế đều

cùng có lợi. Ở đây, lợi thế tuyệt đối được xem xét cả từ hai phía, đối với nước sản xuất

có chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi hơn khi bán sản phẩm của mình trên thị

trường quốc tế; trong khi nước sản xuất sản phẩm với chi phí cao sẽ có được sản phẩm

mà nếu sản xuất trong nước tốn kém hơn. Do đó, tham gia vào thương mại quốc tế tạo

điều kiện cho cả hai quốc gia/nhóm quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu: mở rộng được

những ngành hàng có lợi thế và thu hẹp những ngành hàng bất lợi thế. Nghĩa là một

nước có lợi thế tuyệt đối về sản xuất mặt hàng nào thì cần tập trung vào sản xuất mặt

hàng đó và xuất khẩu ra thị trường thế giới sẽ có lợi. Bởi vậy, lý thuyết về lợi thế tuyệt

30

đối trong thương mại quốc tế có thể được coi là cơ sở lý luận cho việc chuyển đổi cơ

cấu kinh tế trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia.

Sau hơn 40 năm ra đời của lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Smith, từ những nghiên

cứu của mình, Ricardo (1817) đã chỉ ra hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối là không

giúp giải thích được tại sao thương mại quốc tế vẫn đem lại lợi ích cho một quốc gia

ngay cả khi quốc gia đó có bất lợi thế tuyệt đối trong sản xuất hầu hết các sản phẩm

hàng hóa. Ricardo (1817) khẳng định rằng chính lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế

tuyệt đối là nguyên nhân của thương mại quốc tế. Một quốc gia có lợi thế so sánh khi

quốc gia đó có khả năng sản xuất một hàng hóa với chi phí cơ hội thấp hơn so với các

quốc gia khác và quốc gia này nên tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng

có chi phí cơ hội thấp hơn tương đối và nhập khẩu những mặt hàng có chi phí cơ hội

cao hơn tương đối so với các quốc gia khác thì việc trao đổi hàng hóa sẽ đem lại lợi cho

cả hai quốc gia. Trên cơ sở đó, ông đã phát triển lý thuyết về lợi thế so sánh vào năm

1817 trong tác phẩm nổi tiếng: “On the Principles of Political Economy and Taxation-

--Về Những Nguyên lý Kinh tế Chính trị và Thuế khóa”.

Tuy nhiên, hai nhà kinh tế học người Thụy Điển là Heckscher (1919) và Ohlin

(1933) chỉ ra trong các nghiên cứu độc lập của họ rằng lý thuyết về lợi thế so sánh của

Ricardo còn hạn chế trong việc lý giải cho sự hình thành của thương mại quốc tế khi

cho rằng lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và lợi thế so sánh phát sinh từ những khác

biệt về năng suất lao động. Theo Heckscher và Ohlin thì lợi thế so sánh thực ra phát sinh

từ những sự khác biệt của các yếu tố sẵn có như lao động và vốn/tư bản trong quốc gia

chứ không chỉ từ lao động và năng suất lao động. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng

quốc gia càng dồi dào về các yếu tố sản xuất thì chi phí yếu tố càng thấp và do đó lợi

thế so sánh càng lớn. Từ đó, họ đã phát triển nên lý thuyết tỷ lệ yếu tố---Factor

Proportions Theory, hay còn gọi là Lý thuyết Heckscher - Ohlin (H-O), một lý thuyết

tân cổ điển của thương mại quốc tế. Theo lý thuyết H-O, các nước sẽ tập trung vào sản

xuất và xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa sử dụng nhiều các yếu tố dồi dào sẵn có tại

địa phương/quốc gia và nhập khẩu các hàng hóa sử dụng nhiều các yếu tố khan hiếm tại

địa phương sẽ có lợi trong trao đổi quốc tế.

Điều đáng lưu ý là cả lý thuyết thương mại cổ điển và tân cổ điển đều đưa ra giả

thiết phi thực tế rằng thương mại giữa các nước là hàng hóa được tiến hành tự do và chi

phí vận chuyển và chi phí bảo hiểm bằng không.

Từ những lý thuyết thương mại thịnh hành trước đó, Krugman (1979), người

được coi là “cha đẻ” của trường phái lý thuyết thương mại mới, phát triển ra một lý

31

thuyết thương mại mới nhấn mạnh tới lợi thế theo qui mô áp dụng trong quan hệ thương

mại nội bộ ngành. Lý thuyết này phát biểu rằng khi sản xuất được tiến hành trên quy mô

lớn sẽ giúp giảm được chi phí sản xuất nhờ chuyên môn hóa và qua đó gia tăng được lợi

nhuận cho ngành. Đây là cách tiếp cận mới so với các lý thuyết truyền thống cổ điển và

tân cổ điển. Kinh tế theo quy mô có thể gắn liền với tình trạng độc quyền và độc quyền

nhóm khi một hoặc nhóm các doanh nghiệp và nói rộng ra là quốc gia có thị trường tiêu

thụ rộng lớn. Ý nghĩa quan trọng của lý thuyết là nó chỉ ra rằng khi qui mô sản xuất đủ

lớn, các doanh nghiệp có thể tác động đến mức giá trên thị trường, thông qua việc định

giá cao---giá độc quyền để thu được lợi nhuận kinh tế cao.

Một trong các lý thuyết thương mại mới quan trọng khác đó là lý thuyết liên quan tới chi phí vận chuyển. Thương mại quốc tế được tiến hành thông qua việc di chuyển hàng hóa giữa các quốc gia và công việc này đòi hỏi phải trả phí bao gồm tất cả các chi phí như cước phí vận tải, cước phí bốc, xếp, và dỡ hàng hóa. Như vậy, giá hàng hóa bán tại nước ngoài sẽ bao hàm chi phí vận chuyển và giá ban đầu của hàng hóa hay là giá nếu hàng hóa này được bán tại thị trường nội địa, nghĩa là người tiêu dùng tại nước nhập khẩu sẽ phải trả giá cao hơn giá nội địa. Điều kiện để thương mại quốc tế diễn ra là chênh lệch giữa giá bán ở nước ngoài và giá bán trong nước phải lớn hơn chi phí vận chuyển để đảm bảo có lợi nhuận. Cho nên, để có chênh lệch lớn thì tiết kiệm chi phí vận chuyển là điều cần thiết. Muốn vậy, sản xuất cho xuất khẩu phải được bố trí ở nơi sao cho các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất và cả hệ thống kho tàng, bến bãi gần thị trường đầu ra của sản phẩm.

Một trong các lý thuyết thương mại mới quan trọng khác được Porter (1990) phát triển đó là lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia --- Competitive Advantage of Nations. Lý thuyết này đã chỉ ra các yếu tố góp phần đưa đến thành công trong phát triển sản xuất và xuất khẩu của quốc gia thể hiện qua Mô hình Kim cương---Diamond Shaped Model. Lý thuyết giúp giải thích tại sao một số quốc gia giành được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay tại sao một số quốc gia có năng lực cạnh tranh cao về một số sản phẩm trên phạm vi toàn cầu. Theo đó, năng lực cạnh tranh của một ngành thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Lý thuyết của Porter đã kết hợp được các cách giải thích khác nhau của các lý thuyết thương mại quốc tế trước đó và đồng thời mở ra một cách tiếp cận mới quan trọng: đó là khả năng cạnh tranh quốc gia được tạo ra nhờ sự liên kết và phối hợp của bốn nhóm yếu tố tạo nên mô hình kim cương. Bốn nhóm yếu tố này bao gồm: (1) điều kiện về các yếu tố sản xuất; (2) điều kiện về cầu đối với hàng hóa; (3) các ngành công nghiệp hỗ trợ/phụ trợ và có liên quan; và (4) chiến lược, cấu trúc và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành. Thêm vào đó, Porter còn

32

đưa vào hai yếu tố quan trọng có tác dụng chi phối cả bốn nhóm yếu tố nêu trên, đó là yếu tố cơ hội kinh doanh và chính phủ - sự can thiệp của chính phủ.

Nhóm yếu tố thứ nhất đề cập tới điều kiện về các yếu tố sản xuất được Porter tiếp tục chia ra thành hai phân nhóm là các yếu tố cơ bản và các yếu tố tiên tiến. Trong đó, các yếu tố cơ bản bao gồm: nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý, nguồn lao động chưa qua đào tạo hoặc đào tạo đơn giản và nguồn vốn. Đây là phân nhóm yếu tố được coi là nền tảng của những lý thuyết thương mại trước đây, điển hình là lý thuyết H - O. Trong điều kiện mới, các lý thuyết thương mại hiện hữu trước đó đã bộc lộ những hạn chế trong việc đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của thị trường quốc tế. Theo Porter, phân nhóm các yếu tố tiên tiến bao gồm các yếu tố như cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc viễn thông, kĩ thuật số hiện đại; nguồn nhân lực chất lượng cao, các thiết bị nghiên cứu hay bí quyết công nghệ. Ở đây, Porter đề cao phân nhóm yếu tố tiên tiến và coi nó là phân nhóm yếu tố cốt lõi, có tính quyết định đến khả năng cạnh tranh quốc gia vì chúng là “sản phẩm của đầu tư... theo nghĩa rộng... bao gồm đầu tư từ các cá nhân, đầu tư của các doanh nghiệp và đầu tư của chính phủ”. Trong khi đó, theo Porter phân nhóm các yếu tố cơ bản chỉ có thể đem lại lợi thế ban đầu hay lợi thế trong ngắn hạn.

Nhóm yếu tố thứ hai là các điều kiện về cầu cho biết tiềm năng của thị trường đối với sản phẩm của ngành. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia được xác định bởi thị trường và trước hết được nhấn mạnh là thị trường trong nước. Thỏa mãn được những đòi hỏi cao từ nhu cầu thị trường trong nước là điều kiện để nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu với những đòi hỏi cao của thị trường nước ngoài, ví dụ như yêu cầu về đổi mới mẫu mã hàng hóa, nâng cao chất lượng hàng hóa và các tính năng thương phẩm của hàng hóa. Thành công trong việc nâng cao lợi thế cạnh tranh quốc gia là điều kiện cực kỳ quan trọng để tạo dựng được vị trí vững chắc của ngành trên thị trường quốc tế.

Nhóm yếu tố thứ ba Porter nhấn mạnh tới vai trò của các ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành liên quan với nhiệm vụ cung cấp các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp hay ngành được xem xét. Sự phát triển của một ngành thường sẽ kéo theo sự liên kết và phát triển của các ngành khác theo cả chiều dọc và chiều ngang. Điều này giúp doanh nghiệp/ngành nâng cao khả năng thích ứng với các cơ hội và thách thức của thị trường. Việc liên kết giữa một ngành xem xét với các ngành phụ trợ là quá trình làm tăng thế chủ động và tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành và quốc gia trong dài hạn.

Nhóm yếu tố thứ tư bàn về các yếu tố liên quan tới chiến lược ngành, cấu trúc ngành và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành. Ở đây, Porter nhấn mạnh rằng chỉ khi ngành có chiến lược tốt, cấu trúc ngành hợp lý và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành cao

33

mới đảm bảo cho ngành hoạt động có hiệu quả cao và duy trì năng lực cạnh tranh của ngành trên thị trường quốc tế.

Bên cạnh 4 nhóm yếu tố nêu trên, Porter cho rằng cơ hội và chính phủ cũng có vai trò nhất định trong việc hình thành và phát huy năng lực cạnh tranh của ngành. Trong đó, cơ hội là yếu tố động, luôn thay đổi theo thời gian nên việc nắm bắt cơ hội kịp thời để điều chỉnh hoạt động xuất khẩu của ngành có nghĩa là làm tăng năng lực cạnh tranh của ngành/quốc gia. Chính phủ trong trường hợp này là bàn về vai trò can thiệp của chính phủ, thể hiện ở việc ban hành chính sách và kiểm soát việc thực thi các chính sách cũng như các công cụ điều tiết, ví dụ, như các chính sách về tỉ giá, lãi suất, thuế, trợ cấp … nhằm thực hiện các mục tiêu của chính phủ trong từng giai đoạn cụ thể. Hỗ trợ của chính phủ là cần thiết để phối hợp hài hòa các nhóm yếu tố, tận dụng tốt các cơ hội nhằm củng cố và nâng cao lợi thế cạnh tranh quốc gia.

Thực ra lý thuyết về cạnh tranh quốc gia của Porter được phát triển trên giác độ quản trị ngành nhưng nó hoàn toàn phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế hiện tại thông qua việc gắn kết các cấp độ tham gia thương mại từ doanh nghiệp, tới ngành và cho tới các quốc gia. Cái mới quan trọng trong lý thuyết của Porter là khẳng định rằng chính các yếu tố tiên tiến đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành hay quốc gia trong khi lý thuyết H-O chỉ đề cập đến sự khác biệt về nguồn lực hay sự khác biệt trong các yếu tố sản xuất cơ bản sẵn có giữa các quốc gia. Cách giải thích mới về các yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc gia làm cho lý thuyết của Porter có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng chiến lược của các chính phủ về phát triển ngành, phát triển cụm công nghiệp, các ngành công nghiệp liên quan và công nghiệp phụ trợ.

Mặc dù các lý thuyết thương mại mới có những tiến hóa theo thời gian, chúng mới dừng lại ở việc giúp lý giải tại sao một nước/quốc gia nên tập trung vào sản xuất và xuất khẩu sản phẩm được tiến hành theo qui mô lớn với qui trình chuỗi cung ứng14 và chuỗi giá trị hoàn chỉnh để hưởng lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế. Về cơ bản, các lý thuyết thương mại chủ yếu mới tập trung vào mặt cung của thị trường quốc tế mà chưa thực sự chú ý tới mặt cầu đối với xuất khẩu để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu.

Tóm lại, các lý thuyết thương mại thịnh hành cho biết nguyên nhân phát sinh của thương mại quốc tế -xuất khẩu và nhập khẩu- là do (i) những khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa các nước; (ii) những khác biệt về công nghệ và do đó dẫn tới khác biệt về

14 Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các hoạt động từ việc xây dựng kế hoạch trên cơ sở xác định nhu cầu chính xác, tổ chức sản xuất trên cơ sở nhu cầu, mua hàng đáp ứng kế hoạch cung cấp hàng theo nhu cầu, lưu kho hợp lý tránh thừa thiếu, tìm kiếm nguồn cung cấp tin cậy, phân phối hàng theo kế hoạch đúng về thời gian, địa điểm và đáp ứng yêu cầu của khách hàng, và vận chuyển hàng hóa từ nguồn cung cấp tới khách hàng.

34

năng suất; (iii) những khác biệt về nguồn lực sẵn có dẫn tới khác biệt về chi phí yếu tố; (iv) những khác biệt về cầu; (v) sự hiện diện của kinh tế theo qui mô; và (vi) sự hiện diện của các chính sách chính phủ và ở một mức độ nhất định năng lực phát hiện và nắm bắt cơ hội kiếm lời. Tuy nhiên, các lý thuyết thương mại vẫn chưa thể giải thích được đầy đủ hiện tượng thương mại quốc tế hiện hữu như qui mô của các luồng thương mại quốc tế (xuất khẩu, nhập khẩu) do chưa tính đến các yếu tố “bán kinh tế” như chính trị, lịch sử, ngôn ngữ, vị trí địa lý, nhất là vấn đề về khoảng cách giữa các đối tác thương mại thể hiện qua chi phí vận chuyển, hay chi phí giao dịch khi có các liên minh kinh tế/hiệp định thương mại tự do, và một số biến giải thích như qui mô như dân số, GDP, các biến về giá, hay mức độ tự túc ở mặt hàng thương mại từ các nước nhập khẩu.

2.1.2. Xuất khẩu trong lý thuyết kinh tế học

Các lý thuyết kinh tế học có đóng góp nhất định vào việc giải thích luồng thương mại quốc tế. Điều này có thể tìm thấy trong lý thuyết về cầu của Marshall (1890) khi đề cập tới hàm cầu của của người tiêu dùng và trong lý thuyết về cán cân thanh toán quốc tế của Mankiw (2001- 2014) ở các tác phẩm cùng tên “Principles of Economics---Các nguyên lý kinh tế học”15. Trong kinh tế học vi mô, theo hàm cầu tiêu dùng của Marshall (1890) thì lượng cầu về một hàng hóa đặc thù, phụ thuộc vào (i) giá của chính hàng hóa đó; (ii) thu nhập của người tiêu dùng, và (iii) giá của các hàng hóa liên quan (hàng thay thế và/hoặc hàng bổ sung); và Mankiw (2001- 2014) bổ sung thêm các yếu tố như (iv) thị hiếu của người tiêu dùng; (v) kỳ vọng của người tiêu dùng; (vi) số lượng người tiêu dùng; và trong phạm vi nhất định là độ co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập và sự lựa chọn tối ưu của người tiêu dùng. Trong khi đó, khi bàn về kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế mở Mankiw (2001-2014) chỉ ra các yếu tố tác động đến xuất khẩu và do đó tới cán cân thương mại của một quốc gia như: (i) thị hiếu của người tiêu dùng đối với hàng hóa sản xuất ở trong nước và ở nước ngoài; (ii) giá của hàng hóa ở trong nước và ở nước ngoài; (iii) tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền trong nước và đồng tiền nước ngoài; (iv) thu nhập của người tiêu dùng ở trong nước và nước ngoài; (v) chi phí vận chuyển hàng hóa giữa các nước; và (vi) chính sách thương mại.

Như vậy, cầu đối với xuất khẩu ở bất kỳ hàng hóa nào cũng sẽ phụ thuộc vào (1)

giá quốc tế của chính hàng hóa đó; (2) giá tương đối của hàng hóa đó ở nước nhập khẩu

và nước xuất khẩu; (3) thị hiếu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu, (4) thu nhập của

người tiêu dùng ở nước nhập khẩu, (5) số người tiêu dùng ở nước nhập khẩu; (6) tỷ giá

15 Xem thêm Marshall (1890) và Mankiw (2001, …, 2014) “Principles of Economics”.

hối đoái; (7) chi phí vận chuyển hàng hóa; và (8) chính sách thương mại đối với mặt

35

hàng nhập khẩu. Nghĩa là các lý thuyết kinh tế học giúp giải thích bổ sung phần nào về

qui mô của luồng thương mại dựa trên các yếu tố (1), (2), (3), (4), (5), (6), (7) và (8).

Thế nhưng cả các lý thuyết thương mại và lý thuyết kinh tế vẫn chưa giúp chỉ ra đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng tới luồng thương mại giữa các quốc gia. Chúng vẫn chưa tính đến một số yếu tố không thể lượng hóa trực tiếp như các yếu tố lịch sử, vị trí địa lý của quốc gia nhập khẩu, sự tồn tại của các liên minh kinh tế, hiệp định thương mại tự do trong đó cả nước nhập khẩu và nước xuất khẩu đều là thành viên, các yếu tố về thể chế như chính sách tự túc hàng hóa và các rào cản thương mại phi thuế cũng như vấn đề chính sách thương mại trong môi trường đa quốc gia mà mới đề cập tới luồng thương mại song phương. Hơn nữa, chúng mới dừng lại ở việc mô tả các yếu tố mà không thể giúp đánh giá được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế có thể lượng hóa như qui mô kinh tế (GDP), qui mô thị trường, chi tiêu dùng cuối cùng cho hàng hóa được nghiên cứu, khoảng cách địa lý giữa các đối tác thương mại và một số biến về giá như tỷ giá hối đoái hay giá quốc tế.

Các nghiên cứu thực nghiệm về TMQT, nhất là từ những năm 1990 trở lại đây đã chọn và áp dụng rộng rãi lý thuyết và MHLHD vào nghiên cứu các YTAH tới luồng thương mại quốc tế để bao hàm được một số yếu tố mà các lý thuyết thương mại và lý thuyết kinh tế nói chung chưa làm được. Tuy nhiên, MHLHD này vẫn còn những hạn chế nhất định khi dùng dữ liệu mảng do chưa thể hao hàm được hết các quan sát có giá trị bằng 0 trong mô hình. MHLHD cấu trúc (MHLHDCT) đã được giới thiệu tiếp theo để giải quyết các vấn đề tồn tại trên.

Vậy, Lý thuyết lực hấp dẫn (LTLHD) hay MHLHD và MHLHDCT hình thành và phát triển như thế nào và vì sao nó có ưu thế trong việc giải thích luồng thương mại quốc tế?

2.1.3. Tiến hóa của lý thuyết lực hấp dẫn qua thời gian

Nguồn gốc sơ khai của LTLHD là kết quả quan sát thực nghiệm của Newton, một học giả, một thiên tài về toán học, vật lý học, thiên văn học… người Anh. Newton (1687) đã phát triển Luật lực hấp dẫn trong vũ trụ. Luật này phát biểu rằng bất cứ một vật thể nhỏ nào trong vũ trụ cũng hấp dẫn các vật thể nhỏ khác nhờ một lực (Fij) có quan hệ tỷ lệ thuận với tích các khối lượng (Mi,Mj) và quan hệ tỷ lệ nghịch với khoảng cách (Dij) giữa chúng hay biểu bằng công thức: Fij = G * Mi * Mj / Dij, với G là hệ số hấp dẫn.

Vận dụng vào TMQT luật này hàm ý rằng các nước tiến hành thương mại với nhau theo tỷ lệ về qui mô thị trường tương ứng, đó là tổng sản phẩm trong nước (GDP, Y) và sự gần gũi về khoảng cách giữa các nước.

36

Ban đầu, luật lực hấp dẫn của Newton vận dụng vào kinh tế học còn mang tính lý thuyết. Đến năm 1860, Carey là người đầu tiên vận dụng luật lực hấp dẫn vũ trụ của Newton vào nghiên cứu hành vi con người và gọi nó là “mô hình lực hay MHLHD”. MHLHD sau đó được vận dụng rộng rãi trong khoa học xã hội. Ravenstein (1885) và Zipf (1946) đã sử dụng các khái niệm về lực hấp dẫn để nghiên cứu luồng di cư và phát triển mô hình về luồng di cư. Sau này các nhà nghiên cứu xã hội đã đưa MHLHD vào phân tích thực nghiệm các luồng thương mại quốc tế. Nhà kinh tế học Hà Lan, Tinbergen, là người đầu tiên đề xuất áp dụng MHLHD vào phân tích thương mại quốc tế vào năm 1962. Hoàn toàn độc lập với Tinbergen, Pöyhönen (1963) cũng đăng một công trình tương tự mang tiêu đề “Mô hình dự kiến về khối lượng thương mại giữa các nước” vận dụng cách tiếp cận lực hấp dẫn. Sau này, Linnemann (1966), công bố công trình nghiên cứu mở rộng phân tích và bàn luận về cơ sở lý thuyết cho MHLHD theo Mô hình Walras (1874) như một chuẩn mực cho MHLHD.

Trong những năm 1970, MHLHD đã được vận dụng phổ biến trong các nghiên cứu và phân tích thương mại quốc tế. Leamer và Stern (1970) mở rộng mô hình bằng việc bổ sung thêm thuật ngữ đối kháng (resistance) để biểu thị cho khoảng cách và các yếu tố hạn chế thương mại khác. Như vậy, từ phương trình ban đầu của Tinbergen (1962), MHLHD đã được vận dụng lặp lại qua thời gian trong phân tích thực nghiệm thương mại giữa các nước.

Năm 1979, Anderson là người đầu tiên cung cấp cơ sở kinh tế lý thuyết cho phương trình lực hấp dẫn (PTLHD) với các giả định về sự phân biệt sản phẩm theo xuất xứ và độ co giãn không đổi của chi tiêu thay thế (Constant Elassticity of Substitution (CES) expenditures). Tiếp theo là Bergstrand (1985) cũng có đóng góp vào lý thuyết lực hấp dẫn khi nhận định rằng: mặc dù các PTLHD thành công về mặt thực nghiệm trong việc “giải thích” các luồng thương mại, tiềm năng dự báo của mô hình còn bị hạn chế do thiếu các cơ sở lý thuyết mạnh bởi vì mô hình cân bằng chung về TMQT được xây dựng dựa vào những giả định nhất định như sản phẩm quốc tế có thể thay thế hoàn hảo. Vì thế, PTLHD PTLHD điển hình đã được đặc tả sai do thiếu một số biến về giá (Piermartini và Yotov, 2016).

Do đó, mô hình tiếp tục được phát triển và hoàn thiện về lý thuyết và hiệu năng thực nghiệm theo thời gian. Mãi cho tới cuối những năm 1990, MHLHD của thương mại mới thực sự được áp dụng phổ biến trong việc nghiên cứu và lý giải về luồng thương mại quốc tế. Leamer và Levinsohn (1995) cho biết rằng MHLHD có khả năng thể hiện gần đúng các luồng TMQT song phương và làm nó trở thành một trong các mối quan hệ thực nghiệm ổn định nhất trong kinh tế học. Điều này cũng đã được Deardorff (1998)

37

khảng định khi cho rằng MHLHD như “một con ngựa kéo (workhorse)” của TMQT và là “thực tế cuộc sống” (“fact of life”) trong lĩnh vực nghiên cứu này.

Trong bối cảnh các luồng TMQT hiện hữu, MHLHD phát biểu rằng quy mô của

các luồng thương mại giữa hai nước được xác định bởi các điều kiện về cung ở nơi xuất

xứ, các điều kiện về cầu ở nơi đích đến và các lực thúc đẩy hay cản trở liên quan đến các

luồng thương mại giữa hai nước. Về mặt thực nghiệm, MHLHD là mô hình thích hợp để

phân tích yếu tố thể chế như các chính sách thương mại. Bởi thế, nó được sử dụng rộng rãi

như một cơ sở ước lượng ảnh hưởng của nhiều vấn đề chính sách đối với các nhóm thương

mại vùng, các liên minh tiền tệ và những méo mó thương mại khác nhau như được chỉ ra

bởi Bouheas et al (1999), De Gauwe và Skudelny (2000), Glink và Rose (2002), và De

Sausa và Disdier (2002). Sau cùng, phương trình lực hấp dẫn được bổ sung thêm vào các

yếu tố chính trị hay bán kinh tế là các biến giả. Điều này có nghĩa là hàng hóa thương mại

được hưởng đối xử ưu đãi ở nước nhập khẩu nếu như chúng thuộc về các ưu đãi đơn

phương hay trong một hệ thống ưu đãi - System of Trade Preferences- STP nào đó, ví dụ

như Hiệp định thương mại ưu đãi vùng (Regional Preferential Trade Agreement- PTA)

hay Hệ thống ưu đãi toàn cầu giữa các nước đang phát triển (Global System of Trade Preferences among Developing Countries - GSPT)16. Đây là điều cần thiết để xem xét ảnh hưởng của các hiệp định thương mại ưu đãi tới luồng thương mại quốc tế.

Các biến giải thích cốt lõi được sử dụng để giải thích khối lượng thương mại giữa

hai nước là các thước đo quy mô kinh tế của các đối tác thương mại và khoảng cách giữa

các đối tác thương mại. Tiếp đó, các nghiên cứu thực nghiệm còn được đưa thêm vào các

biến đại diện cho ngôn ngữ chung, biên giới chung, khu vực thương mại tự do và tư cách

thành viên của liên minh tiền tệ. Về sau các nhà nghiên cứu thực nghiệm đã cải thiện

MHLHD cho phù hợp với thực tế thương mại quốc tế bằng việc bổ sung thêm các biến

giải thích như qui mô thị trường, thu nhập, giá cả, độ mở, tự túc và tỷ giá hối đoái.

Tuy nhiên, MHLHD truyền thống có những hạn chế nhất định vì nó là một mô

hình áp dụng phổ biến vào phân tích CSTM trong một môi trường hạn hẹp là song

phương. Piermartini và Yotov (2016) đã chỉ ra rằng MHLHDCT là mô hình thích hợp

để phân tích CSTM trong một môi trường đa quốc gia vì nó có khả năng dự đoán và

mô phỏng khá chính xác ảnh hưởng của những thay đổi trong CSTM của các quốc gia

liên quan. Từ kết quả phân tích này các quốc gia có thể định hướng, hoạch định các

chính sách và xây dựng kế hoạch hoạt động thương mại và kinh tế đối ngoại một cách

16 Hệ thống ưu đãi toàn cầu giữa các nước đang phát triển được ký vào năm 1989

hiệu quả.

38

2.2. Tổng quan thực nghiệm

Luận án sẽ tập trung vào rà soát một số nghiên cứu thực nghiệm vận dụng MHLHD vào việc nghiên cứu tìm hiểu và xác định các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu, nhất là xuất khẩu các mặt hàng nông sản, trong đó điển hình là mặt hàng gạo.

Cho tới nay, có khá nhiều nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành ở trên thế giới và Việt Nam về đề tài “nghiên cứu các yếu tố tác động tới xuất khẩu” nói chung và xuất khẩu hàng nông sản, thủy sản và mặt hàng gạo theo các cách tiếp cận khác nhau. Trước những năm 1990, các nghiên cứu chủ yếu vận dụng các cách tiếp cận truyền thống là nhất là phương pháp mô tả, phân tích thống kê so sánh và phân tích tổng hợp sử dụng các công cụ thống kê đơn giản, và phân tích định lượng qua phép hồi quy. Gần đây, các nghiên cứu thực nghiệm ngày càng tập trung vào việc thực hiện PTĐL vận dụng MHLHD trong TMQT. Không nhiều nghiên cứu vận dụng kết hợp cả hai phương pháp phân tích truyền thống và PTĐL trong các công trình nghiên cứu thực nghiệm.

Warr và Wollmer (1996) áp dụng cách tiếp cận truyền thống tìm cách xác định các YTAH tới cầu quốc tế đối với gạo xuất khẩu của Thái Lan17 trên cơ sở các lý thuyết thương mại và lý thuyết kinh tế. Nghiên cứu vận dụng chủ yếu phép tường thuật và phân tích mô tả dữ liệu và nhận thấy rằng sự can thiệp của các chính phủ có ảnh hưởng đáng kể tới cầu về gạo từ Thái Lan và luồng thương mại gạo quốc tế. Nhưng việc đo lường mức độ ảnh hưởng của sự can thiệp của chính phủ là hết sức khó khăn vì cho rằng “một yếu tố chính trị khó mà lượng hóa được” bằng phương pháp định lượng. Trước đó, Barker và Herdt (1985) cũng có cùng quan điểm trên. Đây cũng chính là một trong những yếu điểm của lý thuyết kinh tế vi mô và lý thuyết TMQT.

Trong hai thập niên gần đây, việc vận dụng MHLHD trong TMQT vào việc phân tích các YTAH tới xuất khẩu trở nên phổ biến. Các công cụ thống kê hiện đại được sử dụng để ước lượng, kiểm định và đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng/các yếu tố xác định tới xuất khẩu của các quốc gia.

Hatab, Romstad, và Huo (2010) chỉ ra các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản của Ai Cập18 là GDP của Ai Cập và sự mất giá của đồng Pound Ai Cập có tác động tích cực và có ý nghĩa đối với xuất khẩu nông sản của nước này. Đó là do nông nghiệp Ai Cập

chiếm tỷ lệ lớn trong GDP (16,5%) và cung cấp lượng hàng lớn cho xuất khẩu với giá trị

xuất khẩu nông sản chiếm tới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu chung, trừ dầu thô. Tác động

17 Warr and Wollmer (1996) The international demand for Thailand's rice exports. 18 Xem Hatab et al (2010) Determinants of Egyptian Agricultural Exports: A Gravity Model Approach.

của tỷ giá hối đoái tới xuất khẩu cũng hoàn toàn phù hợp về mặt lý thuyết về tỷ giá hối

39

đoái trong nền kinh tế mở. Trong khi đó, khoảng cách từ thủ đô Ai Cập tới các nước nhập

khẩu có ảnh hưởng tiêu cực hay hạn chế xuất khẩu, GDP bình quân theo đầu người của Ai

Cập có tác động hạn chế xuất khẩu nông sản của nước này. Lý do là cầu trong nước đối

với các mặt hàng này cũng tăng khi thu nhập tăng do cầu co giãn dương với thu nhập đối

với các mặt hàng nông sản thiết yếu. Ở nghiên cứu này, hầu hết các yếu tố ảnh hưởng đến

xuất khẩu đều mới được xem xét từ phía bên trong nước xuất khẩu hay từ phía cung chứ chưa thực quan tâm tới các yếu tố tác động tới phía cầu về xuất khẩu nông sản từ Ai Cập.

Tuy nhiên, Mohamed et al (2014) tiến hành phân tích các YTAH tới xuất khẩu nói chung của Ai Cập sang 42 đối tác thương mại chủ yếu19 cho giai đoạn 2000-2013 đã chỉ ra các yếu tố tác động tích cực và có ý nghĩa tới xuất khẩu của Ai Cập lại là GDP

của Ai Cập và GDP của các nước nhập khẩu, các RTA, và nước có chung đường biên

giới. Trong nghiên cứu này mô hình đã được mở rộng ra các yếu tố ảnh hưởng tới cầu

đối với xuất khẩu hay thúc đẩy xuất khẩu qua việc đưa thêm các biến giả vào mô hình.

Các RTA đã được chứng minh là có tác dụng thúc đẩy thương mại song phương do cắt

giảm/loại bỏ được một số rào cản thương mại như điều khoản về điều tiết nhập khẩu và thuế quan. Trong trường hợp này, khoảng cách có ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu

nhưng không có ý nghĩa. Nghĩa là kết luận về các yếu tố ảnh hưởng đến xuất phù hợp

với các kết quả nghiên cứu trước đây của Tinbergen (1962), Linnenman (1966), Leamer và Stern (1970), và Deardorff (1998).

Wahyudi và Anggita (2015) nghiên cứu về YTAH đến thương mại của Indonesia với 10 đối tác thương mại lớn nhất20 cũng nhận thấy rằng qui mô kinh tế như GDP, GDP bình quân theo đầu người, tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực có ảnh hưởng tích cực và có ý

nghĩa. Chi phí vận chuyển như được kỳ vọng có tác động hạn chế xuất khẩu và có ý nghĩa.

Ở nghiên cứu này, các tác giả mới chỉ tập trung vào việc phát hiện các YTAH tới mặt

cung hàng cho xuất khẩu chứ không đề cập tới các yếu tố ảnh hưởng từ phía cầu đối với

xuất khẩu nên có thể ít có ý nghĩa đối với đẩy mạnh xuất khẩu. Leksono (2020) tiến hành

nghiên cứu về các YTAH tới xuất khẩu của Indonesia giai đoạn 2001-2018 sang 20 đối tác thương mại chủ chốt21. Giống như phát hiện của Wahyudi và Anggita (2015), khoảng cách có tác động tiêu cực và có ý nghĩa tới xuất khẩu của Indonesia, trong khi cả qui mô

kinh tế (GDP) và qui mô thị trường hay dân số của nước nhập khẩu cũng có ảnh hưởng

19Xem Mohamed et al (2014) The Factors Affecting Egypt's Exports: Evidence from the Gravity Model Analysis 2000 to 2013 for 42 main trading partners. 20 Xem Wahyudi & Anggita (2015) The Gravity Model of Indonesian Bilateral Trade. 21 Xem Leksono (2020) Study of Indonesia Exports with The Gravity Model Approach, 2001-2018;.

tích cực và có ý nghĩa đối với xuất khẩu.

40

Campano et al (2018) khi phân tích các YTAH tới xuất khẩu nông sản của Nicaragua22 tới 12 nước trong đó có 8 nước là thành viên của FTA chung với Nicagagua trong thời gian 20 năm. Ước lượng được thực hiện trên cơ sở vận dụng OLS kết hợp với một công cụ ước lượng ma trận hiệp phương sai không thiên lệch để hiệu chỉnh ảnh hưởng của phương sai sai số thay đổi và hiện tượng tự tương quan. Tác giả chỉ ra rằng dân số của các nước nhập khẩu, GDP bình quân theo đầu người của cả Nicaragua và các đối tác thương mại, và tỷ giá hối hoái thực và FTA có tác động tích cực và có ý nghĩa lên xuất khẩu. Trong đó, FTA có tác động tích cực mạnh nhất và có ý nghĩa phù hợp với kết quả các nghiên cứu trước đây của Bouheas et al (1999), De Gauwe và Skudelny (2000), Glink và Rose (2002), và De Sausa và Disdier (2002). Không bất thường, biến khoảng cách tác động hạn chế và có ý nghĩa đối với xuất khẩu nông sản của Nicaragua.

Eshetu và Mehare (2020) phân tích tình hình xuất khẩu nông sản của Ethopia, giai đoạn 1998-2018 chỉ ra tỷ giá hối đoái, và một số yếu tố mới có tác động tích cực lên xuất khẩu nông sản của Ehtopia, đó là cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống đường xá, năng lực tài chính thể hiện ở tiết kiệm trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các tác giả chỉ ra rằng chỉ số tham nhũng và thuế gián thu có tác động hạn chế xuất khẩu nông sản của Ethopia23. Trong nghiên cứu này, các tác giả cũng chỉ tập trung vào tìm các YTAH tới một phía của xuất khẩu là cung hay yếu tố “đẩy” chứ chưa đề cập tới phía cầu hay yếu tố “kéo” trong mô hình lực hấp dẫn.

Tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của gạo trong đời sống của phần lớn người dân thế giới và sự thay đổi thường xuyên trong chính sách lúa gạo và thương mại gạo gây ra những biến động mạnh mẽ của cung và cầu gạo trên TTGQT có ảnh hưởng lớn đến tình hình xuất khẩu gạo của các nước xuất khẩu chủ chốt. Trong khoảng một thập niên gần đây, việc nghiên cứu các YTAH tới xuất khẩu phục vụ công tác hoạch định chính sách mặt hàng phù hợp và xúc tiến xuất khẩu hiệu quả đã trở thành chủ đề nóng sốt tại các quốc gia xuất khẩu gạo như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam.

Abdullah et al (2015) là một trong những nhà nghiên cứu tiên phong đi tìm lời giải về các YTAH tới xuất khẩu gạo của Pakistan24. Tác giả đã chi tiết tiết hóa yếu tố khoảng cách thông qua việc bổ sung thêm biến giả ‘chung đường biên giới’ vào mô hình. Kết quả

nghiên cứu cho thấy cả GDP của Pakistan và GDP của các nước nhập khẩu, dân số và tỷ

22 Xem Campano & Medardo et al (2018) “A gravity model of trade for Nicaraguan agricultural exports“. 23 Xem Eshetu and Mehare (2020) Determinants of Ethiopian Agricultural Exports: A Dynamic Panel Data Analysis. 24 Xem Abdullah et al (2015) What Factors Determine the Rice Exports of Pakistan? Finding the Answer by Applying the Gravity Model.

giá hối đoái của Pakistan cùng đường biên giới chung có ảnh hưởng tích cực và có ý

41

nghĩa tới xuất khẩu gạo của Pakistan. Lý do dân số và GDP của Pakistan tăng dẫn tới

gia tăng lượng gạo xuất khẩu là vì dân số nông nghiệp sản xuất lúa gạo cũng tăng tạo ra

nhiều gạo hơn; và hơn nữa, gạo không phải là lương thực chính của Pakistan. Trái lại, các

yếu tố về độ mở thương mại, những điểm chung về văn hóa, ngôn ngữ và thành viên trong

cùng FTA không có ảnh hưởng có ý nghĩa với xuất khẩu gạo của Pakistan. Điều này phản

ánh một thực tế là các nước này có cùng sở thích/thị hiếu và cùng sản xuất và tiêu dùng

sản phẩm giống nhau nên gạo của Pakistan không hấp dẫn các đối tác. Riêng khoảng cách

địa lý có ảnh hưởng hạn chế xuất khẩu gạo của Pakistan vẫn có ý nghĩa.

Trong khi đó, Adhikariet et al (2016) phân tích các YTAH tới xuất khẩu gạo của Ấn Độ lại thấy rằng các yếu tố như tỷ giá hối đoái và sản lượng trễ có tác động tích cực trong khi giá xuất khẩu và tiêu dùng trong nước của Ấn Độ có tác động hạn chế xuất khẩu gạo của nước này. Đó là do khi giá sàn xuất khẩu được ấn định cao sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của gạo Ấn Độ trước các đối thủ; và gạo là lương thực chủ yếu của người dân Ấn Độ, nên khi tiêu dùng trong nước tăng sẽ làm giảm lượng gạo dư thừa cho xuất khẩu.

Sampaothong (2016) phân tích ảnh hưởng của các yếu tố tới hoạt động xuất khẩu gạo của các nhà xuất khẩu Thái Lan tại thị trường Trung Quốc25 chỉ ra rằng qui mô dân số,

GDP và GDP bình quân theo đầu người của Trung Quốc, và tỷ giá hối đoái của Thái Lan

có tác động tích cực lên xuất khẩu của Thái Lan. Đó là do thị trường gạo Trung Quốc nằm

ở phân khúc gạo có chất lượng trung bình và thấp phục vụ bộ phận lớn dân cư Trung Quốc

với mức thu nhập trung bình thấp và cầu về gạo tương đối co giãn theo giá và theo thu nhập.

25 Xem Sampaothon (2016) Factors Affecting Export Performance of Thai Rice Exporter in the Chinese Market.

Ở một môi trường hẹp hơn, Sukpanich và Weiqiang (2021) áp dụng phương pháp phân tích hồi qui và tương quan để nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo trắng hạt dài của Thái Lan trong giai đoạn 2015-2020. Họ chỉ ra rằng sản lượng gạo trắng hạt dài và giá xuất khẩu (FOB) của Thái Lan có ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu gạo trắng, trong khi thị hiếu/sở thích của người tiêu dùng nước ngoài về vị thơm ngon và chất lượng cao của gạo Thái có ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo trắng của Thái Lan. Trong khi đó, sự mất giá của đồng Bath làm gạo Thái rẻ đi tương đối nhưng điều này không đủ mạnh để ảnh hưởng tới xuất khẩu vì theo lý thuyết thì cầu về hàng nông sản, nhất là lương thực thiết yếu thường không co giãn theo giá, phù hợp với kết quả nghiên cứu thực nghiệm theo phương pháp truyền thống của Timmer (2013, 2017).

42

Trái với Sukpanich và Weiqiang (2021), song giống Sampaothong (2016), Yusiana et al (2022) chỉ ra là GDP của nước nhập khẩu và tỷ giá hối đoái thực có tác động tích cực; trong khi GDP của Thái Lan, giá gạo thế giới, sản lượng gạo trong nước của các nước nhập khẩu và khoảng cách có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động xuất khẩu gạo của Thái Lan. Điều này hàm ý rằng cầu về gạo ở nước nhập khẩu co giãn dương theo thu nhập bởi vì phần lớn gạo của Thái Lan được xuất sang các nước có thu nhập không cao. Đối với người dân Thái Lan, cầu về gạo có độ co giãn âm với thu nhập do mức tiêu thụ gạo trung bình theo đầu người ở Thái Lan cao, giống với nhận định của Timmer (2013). Lẽ đương nhiên, khi sản lượng trong nước ở các nước nhập khẩu tăng sẽ dẫn tới giảm sút về cầu nhập khẩu đối với gạo từ Thái Lan.

Lien, Feng, và Fei (2019) phân tích hoạt động xuất khẩu gạo của Trung Quốc sang 32 nước nhập khẩu trong giai đoạn 2001-2014, thời kỳ hậu gia nhập WTO của Trung Quốc cho thấy rằng gạo Trung Quốc xuất khẩu sang các nước châu Phi, những nước có thu nhập thấp, chủ yếu là gạo chất lượng thấp. Kết quả là GDP của Trung Quốc, dân số Trung Quốc và dân số của các nước nhập khẩu, và thu nhập bình quân theo đầu người của các nước nhập khẩu có ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo của Trung Quốc. Trong khi đó, các yếu tố có ảnh hưởng hạn chế xuất khẩu gạo của Trung Quốc bao gồm GDP của các nước nhập khẩu, thu nhập bình quân theo đầu người của Trung Quốc như được thấy trong kết quả nghiên cứu của Sampaothong (2016) và Yusiana et al (2022), tỷ giá hối đoái của Trung Quốc, sản lượng của các nước nhập khẩu và giá xuất khẩu. Trong các yếu tố trong đó sản lượng và giá gạo có ảnh hưởng lớn nhất. Yếu tố khoảng cách giữa Trung Quốc và các nước nhập khẩu không ảnh tới xuất khẩu gạo từ Trung Quốc thể hiện tính khu vực cao của sản xuất và tiêu dùng gạo.

Nghiên cứu các YTAH tới xuất khẩu nói chung, xuất khẩu nông sản và gạo nói riêng cũng đã được một số tác giả thực hiện nhờ vận dụng MHLHD. Các tác giả tiên phong như Thai Tri Do (2006), Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008), Bac Xuan Nguyen (2010) và tiếp theo Hanh Vu Thi and Hung Quang Doan (2013), Ngô Thị Mỹ (2016), Trần Thị Bạch Yến và Trương Thị Thanh Thảo (2017), Thi Hong Hanh Bui và Qiting Chen (2017) và Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019).

Thai Tri Do (2006) vận dụng MHLHD truyền thống để xác định và đánh giá tác động của các yếu tố lên thương mại song phương giữa Việt Nam và 23 nước thuộc EU trong khoảng thời gian từ năm 1983 đến 2004. Kết quả nghiên cứu chỉ ra là GDP và dân số của Việt Nam và của các nước thuộc khối EU và tỷ giá hối đoái thực của Việt Nam có tác động tích cực trong khi khoảng cách và lịch sử không có ảnh hưởng đến thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia EU.

43

Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008) tuy không đề cập trực tiếp vào các YTAH tới xuất khẩu của Việt nam sang các nước ASEAN +3 trong giai đoạn 1998- 2005, song hàm ý tương đối rõ về các YTAH tích cực và cản trở xuất khẩu của Việt Nam. Các tác giả chỉ ra rằng GDP của cả Việt Nam và ASEAN +3 có tác động tích cực tới xuất khẩu của Việt Nam do tăng lực hút và lực đẩy; và khoảng cách giữa Việt Nam và các đối tác cũng có tác động tích cực, dường như kết quả này trái với kỳ vọng lý thuyết, song, hợp lý vì hầu hết hàng thương mại hai chiều được vận chuyển qua đường biển với chi phí thấp nên khoảng cách địa lý không còn là yếu tố cản trở thương mại. Yếu tố FTA có tác động trái chiều thay vì cùng chiều do có sự chuyển hướng thương mại trong thời gian nghiên cứu.

Vận dụng cách tiếp cận MHLHD hồi quy tĩnh và hồi quy động, Bac Xuan Nguyen

(2010) xác định các YTAH tới luồng xuất khẩu của Việt Nam tới 15 đối tác thương mại

trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm 2006. Kết quả chỉ ra rằng cả GDP của Việt

Nam và của các đối tác thương mại; tỷ giá hối đoái thực trung bình; và nước thành viên

của ASEAN có ảnh hưởng tích cực đến giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Riêng khoảng

cách địa lý có tác động ngược chiều tới giá trị xuất khẩu, phù hợp với kết quả của hầu

các nghiên cứu vận dụng MHLHD truyền thống trước đó.

Ở một góc độ khác, Hanh Vu Thi và Hung Quang Doan (2013) đi tìm các

YTAH đến xuất khẩu gạo của Việt Nam sang 124 nước nhập khẩu từ dữ liệu trong

năm 2010 của 324 doanh nghiệp xuất khẩu. Họ chỉ ra rằng qui mô dân số hay thị

trường lớn có ảnh hưởng mạnh hơn tới xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trong khi đó,

khoảng cách không phải lúc nào cũng có tác động ngược chiều với xuất khẩu, tuy chi

phí vận chuyển có ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của các đối tác thương

mại. Họ thấy rằng nước nhập khẩu ở cách xa Việt Nam đôi khi có tác động tích cực

lên xuất khẩu và cho rằng đó là do các doanh nghiệp xuất khẩu có “năng lực xuất

khẩu cao”? Thực ra đây là hệ quả của tính khu vực của sản xuất và tiêu dùng gạo như

được chỉ ra trong chương 1 của Luận án.

Ngô Thị Mỹ (2016) xem xét các YTAH tới xuất khẩu một số nông sản của Việt

Nam, tập trung nhiều hơn vào mặt hàng gạo và cà phê, cho giai đoạn 1997-2013 và chỉ

ra rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo của Việt Nam như GDP, dân

số, diện tích đất nông nghiệp của cả nước xuất khẩu và các nước nhập khẩu, tỷ giá hối

đoái của Việt Nam, độ mở thương mại, lạm phát của Việt Nam, và các nước nhập khẩu

là thành viên của AFTA và APEC.

44

Trong khi đó, Thi Hong Hanh Bui và Qiting Chen (2017) chỉ ra rằng các YTAH tích cực và có ý nghĩa tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian từ năm 2003 đến 2014 bao gồm GDP, dân số, giá và tỷ giá hối đoái của Việt Nam. Biến khoảng cách có ảnh hưởng trái chiều nhưng không có ý nghĩa. Tại sao giá gạo của Việt Nam có ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn còn là câu hỏi mở.

Trần thị Bạch Yến và Trương Thị Thanh Thảo (2017) đi tìm các YTAH tới xuất khẩu gạo của Việt Nam vào các thị trường khu vực ASEAN cũng chỉ ra kết quả tương tự như Ngô Thị Mỹ (2016) trừ diện tích đất trồng lúa. Song, khoảng cách địa lý giữa các thủ đô là yếu tố duy nhất có ảnh hưởng hạn chế xuất khẩu gạo của Việt Nam, phù hợp về mặt lý thuyết nhưng không thực sự phản ánh thực tiễn xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các nước ASEAN.

Đa số các nghiên cứu đều chỉ ra là các FTA có ảnh hưởng tích cực đến xuất khẩu

và điều này cũng được Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019) khẳng định trong nghiên cứu

của mình đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam. Điều tương tự được tìm thấy trong các

nghiên cứu trước đó của Bouheas và các cộng sự (1999), De Gauwe và Skudelny (2000),

Glink và Rose (2002), và De Sausa và Disdier (2002), Ngô Thị Mỹ (2016), Trần thị

Bạch Yến và Trương Thị Thanh Thảo (2017).

Như vậy, có thể tóm tắt các yếu tố/nhóm YTAH tới xuất khẩu xét cả ở phía cung

cho xuất khẩu và cầu đối với xuất khẩu và các yếu tố hấp dẫn và cản trở xuất khẩu từ

tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm trong Bảng 2.1 dưới đây.

Bảng 2.1. Tóm tắt các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu

Các nghiên cứu đã công bố Yếu tố ảnh hưởng Chiều hướng

Nhóm yếu tố liên quan đến cungcho xuất khẩu và cầu đối với xuất khẩu

Tích cực GDP

Do Tri Thai (2006), Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008), Hatab et al (2010), Nguyen Xuan Bac (2010), Mohamed et al (2015), Leksono (2020), Campano et al (2018), Abdullah et al (2015), Sampaothong, S. (2016), Lien et al (2019), Eshetu & Abule Mehare (2020), Hanh Vu Thi & Hung Quang Doan (2013), Ngô Thị Mỹ (2016), Trần Thị Bạch Yến (2017), Trương Thị Thanh Thảo (2017); Thi Hong Hanh Bui & Qiting Chen (2017), Yusiana (2022), Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019), Kiani et al (2019)

Tiêu cực Hatab et al (2010)

45

Các nghiên cứu đã công bố Yếu tố ảnh hưởng Chiều hướng

Tích cực Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008); Sampaothong (2016); Trần Thị Bạch Yến và Trương Thị Thanh Thảo (2017) GDP bình quân đầu người Tiêu cực Hatab, A. A., Romstad, E., Huo, X. (2010)

Dân số Tích cực

Do Tri Thai (2006), Hatab et al (2010), Hanh Vu Thi & Hung Quang Doan (2013), Mohamed et al (2014, 2015), Leksono (2020), Campano et al (2018), Sampaothong (2016), Ngô Thị Mỹ (2016), Thi Hong Hanh Bui & Qiting Chen (2017), Trương Thị Thanh Thảo (2017), Trần Thị Bạch Yến (2017), Lien et al (2019), Yusiana (2022)

Dân số Tiêu cực Abdullah et al (2015)

Tích cực Lien et al (2019) Giá thế giới Tiêu cực Adhikari et al (2016), Yusiana (2022);

Giá trong nước Tiêu cực Adhikari et al (2016)

Giá xuất khẩu Tiêu cực Sampaothong (2016), Adhikari et al (2016), Sukpanich and Weiqiang (2020)

Tích cực Lien et al (2019), Adhikari et al (2016), Kiani et al (2018) Sản lượng &

sản lượng trễ Tiêu cực Sukpanich and Weiqiang (2020)

Adhikari et al (2016) Tiêu cực Tiêu dùng trong nước

Lạm phát Tích cực Ngô Thị Mỹ (2016), Trần Thị Bạch Yến (2017) Trương Thị Thanh Thảo (2017),

Mohammad et al (2010) Tích cực Độ mở thương mại Ngô Thị Mỹ (2016)

Nhóm yếu tố khoảng cách địa lý

Tích cực Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008),

Khoảng cách

địa lý Tiêu cực

Hatab et al (2010), Mohamed et al (2014), Abdullah et al (2015), Wahyudi, S., Riyandi Saras Anggita (2015), Campano, C. C. et al (2018), Lien et al (2019), Yusiana (2022), Nguyen Xuan Bac (2010), Ngô Thị Mỹ (2016); Trần Thị Bạch Yến

46

Các nghiên cứu đã công bố Yếu tố ảnh hưởng Chiều hướng

(2017) Trương Thị Thanh Thảo (2017), Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019), Kiani, a. et al (2018)

Mohammad (2010), Mohamed et al (2014), Thi Hong Hanh Bui &Qiting Chen (2017)

Tiêu cực, không có ý nghĩa

Nhóm yếu tố ảnh hưởng tích cực/tiêu cực đến xuất khẩu

Tích cực Mohamed et al (2014), Abdullah et al (2015) Chung biên giới Tiêu cực Kiani et al (2018)

Tích cực

Tỷ giá hối đoái

Do Tri Thai (2006), Hatab et al (2010); Rahman (2010), Wahyudi, Anggita (2015), Adhikari et al (2016), Campano (2018), Abdullah et al (2015), Lien et al (2019), Leksono (2020), Yusiana (2022), Nguyễn Xuân Bắc (2010), Ngô Thị Mỹ (2016); Trần Thị Bạch Yến (2017) Trương Thị Thanh Thảo (2017), Eshetu & Mehare (2020)

Tiêu cực Sukpanich & Weiqiang (2020)

Sampaothong (2016), Sukpanich & Weiqiang (2020), Tích cực Chất lượng hàng xuất khẩu

Nguyên và cộng sự (2021) Tiêu cực Rào cản kỹ thuật

Nguyễn Xuân Bắc (2010), Nguyen Anh Thu và cộng sự (2015).

Hiệp định Tích cực

thương mại, FTA Mohamed et al (2014), Abdullah et al (2015), Campano et al (2018), Nguyễn Xuân Bắc (2010), Ngô Thị Mỹ (2016), Trần Thị Bạch Yến (2017), Trương Thị Thanh Thảo (2017), Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019)

Tiêu cực Từ Thúy Anh và Đào Nguyên Thắng (2008)

Eshetu & Mehare (2020), Tiêu cực Chỉ số tham nhũng

Eshetu & Mehare (2020)

Tích cực

Cơ sở vật chất kỹ thuật, tài chính và FDI

Nguồn: Tổng hợp từ các nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả quốc tế và trong nước từ năm 2006 đến 2022.

47

2.3. Khoảng trống nghiên cứu

Từ các phân tích thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu qua việc vận dụng MHLHD trong thương mại có thể thấy rằng, hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra các YTAH và chiều hướng tác động của chúng tới xuất khẩu phù hợp về mặt lý thuyết và thực nghiệm như được chỉ ra bởi Tinbergen (1962) và tiếp tục phát triển bởi các nhà kinh tế về sau như Linnenman (1966), Lerner và Stern (1970), Anderson (1979), Berstrand (1985), Helpman (1987), Helpman và Krugman (1989), Mátyás (1997,

1998), Anderson và Wincoop (2003), Santos Silva và Tenreyro (2006), Baier và

Bergstrand (2007), Helpman, Melitz và Rubenstein (2008), Head và Mayer (2014).

Hầu hết các nghiên cứu về các YTAH tới xuất khẩu, kể cả những nghiên cứu gần đây đối với mặt hàng gạo đều chỉ vận dụng MHLHD truyền thống thay vì MHLHDCT có lẽ vì chưa thấy được ưu điểm vượt trội của việc vận dụng MHLHDCT khi có nhiều giá trị quan sát bằng 0 trong mô hình dùng dữ liệu bảng (Larch và Yotov, 2016; và Yotov và Piermartini, 2016; UNCTAD, 2016) và chưa thấy được vai trò của biến thể chế.

Thêm nữa, tất cả các nghiên cứu coi gạo là hàng hóa thông thường mà không thấy được tính đặc biệt và nhạy cảm của gạo trong các quốc gia sản xuất và tiêu dùng gạo chủ chốt, bao gồm cả các quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu gạo. Bởi vậy, việc xác định và phân tích các YTAH đến xuất khẩu gạo đã được tiến hành như đối với xuất khẩu một hàng hóa thông thường bất kỳ trên một thị trường hoạt động theo quan hệ cung-cầu. Các tác giả thường đặt mình vào vị trí của nhà xuất khẩu để tìm kiếm những YTAH tới mặt cung cho xuất khẩu trong khi bỏ qua hoặc/và ít quan tâm đến các YTAH từ bên ngoài, nhất là từ nhà nhập khẩu và đôi khi là từ các nhà xuất khẩu của thế giới còn lại. Do đó, hầu hết các nghiên cứu đều không đề cập tới YTAH quan trọng bậc nhất, đó là yếu tố thể chế; cụ thể là các vấn đề chính sách như: chính sách sản xuất lúa gạo, chính sách lương thực, chính sách chính sách thương mại đối với mặt hàng đặc biệt là gạo, ở cả phía các nước nhập khẩu và các nước xuất khẩu gạo. Do đó, các nghiên cứu cho tới nay mới dừng lại ở việc vận dụng MHLHD truyền thống trong khi MHLHDCT mới thực sự là phương pháp hữu hiệu trong việc xác định và phân tích các YTAH tới xuất khẩu gạo nhất là chính sách thương mại trong môi trường đa quốc gia.

Như vậy, kết quả nghiên cứu tổng quan thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu

tố tới xuất khẩu mặt hàng gạo cho thấy rằng các tác giả cho tới nay đã:

(i) bỏ qua việc tìm hiểu về tầm quan trọng và tính chất riêng có-đặc trưng của mặt hàng xuất khẩu là gạo nên thiếu nhận biết về ý nghĩa chính trị, xã hội, văn hóa và tâm lý sâu sắc cảu gạo trong các nước SX&TD gạo mà chỉ đơn thuần coi gạo là một mặt

48

hàng thông thường và thương mại gạo quốc tế được tiến hành theo quan hệ cung cầu thuần túy;

(ii) hầu như không tính tới các yếu tố thể chế, ngoại trừ FTA và tỷ giá hối đoái

trong phương pháp luận nghiên cứu các YTAH tới xuất khẩu gạo;

(iii) coi gạo là mặt hàng thuần nhất, trong khi trên thực tế gạo được phân biệt theo các chủng loại khác nhau, mang tính khu vực cao trong cả sản xuất và tiêu dùng;

(iv) chưa xem xét tới ảnh hưởng của yếu tố chi tiêu cuối cùng cho lương thực/gạo

ở các nước nhập khẩu tới xuất khẩu gạo;

(v) đều sử dụng khoảng cách vật lý giữa thủ đô của nước xuất khẩu và thủ đô các nước nhập khẩu là biến khoảng cách đưa vào mô hình thực nghiệm chứ không dùng khoảng cách kinh tế, một biến phản ánh đúng hơn khoảng cách thực tế đại diện cho chi phí vận chuyển, nhất là khi xem xét luồng thương mại sang nước có chung biên giới.

Tổng quan thực nghiệm giúp chỉ ra các khoảng trống (i)-(v). Trong bối cảnh này, để khắc phục những tồn tại được phát hiện nhằm thu hẹp khoảng trống, Luận án tiếp tục đề tài nghiên cứu về “Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam”. Luận án sẽ đưa bổ sung các yếu tố thể chế vào mô hình và vận dụng MHLHDCT và các phương ước lượng phù hợp nhất để xác định và đánh giá chính xác hơn các YTAH tới xuất khẩu mặt hàng đặc biệt là gạo dựa trên dữ liệu thứ cấp thu thập được từ các nguồn tin cậy ở trong nước và quốc tế.

2.4. Kết luận

Chương 2 tổng quan cơ sở lý thuyết cho xuất khẩu và mô hình lực hấp dẫn trong thương mại và tổng quan thực nghiệm các nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu hàng nông sản và gạo ở một số nước và Việt Nam bằng cách tiếp cận mô hình lực hấp dẫn gia tố từ mô hình cơ bản của Tinbergen (1962) tới MHLHDCT bàn tới bởi Larch và Yotov (2016), Shepherd (2016), và Yotov và Piermartini (2016). Hiện nay, MHLHD của thương mại đã trở thành một công cụ phân tích định lượng hữu hiệu các yếu tố ảnh hưởng và đánh giá ảnh hưởng của từng yếu tố tới luồng thương mại giữa các quốc gia và/hoặc giữa các khu vực kinh tế.

Phần tổng quan thực nghiệm đã giúp phát hiện được khoảng trống cho nghiên cứu như được chỉ ra từ (i) đến (v) ở trên. Đây là cơ hội để Luận án tiếp tục khai thác để tìm ra các yếu tố mới tác động tích cực hoặc tiêu cực tới xuất khẩu gạo của Việt Nam nhằm khai thác ảnh hưởng tích cực và thu hẹp ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu gạo trong tương lai.

49

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP LUẬN

Chương này, luận án sẽ trình bày phương pháp luận nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới luồng thương mại quốc tế đối với mặt hàng gạo và phương pháp luận ước lượng các yếu tố ảnh hưởng tới luồng thương mại, nhất là tới xuất khẩu theo cách tiếp cận mô hình lực hấp dẫn/ MHLHDCT của TMQT.

3.1. Phương pháp luận nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu

Luận án trình bày phương pháp luận với tư cách là lý luận về các phương pháp hay hệ thống các lý thuyết như là “sợi chỉ vàng” xuyên suốt quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và trong thực tiễn, giúp cho nghiên cứu có cấu trúc logic và nội dung phản ánh khách quan các hiện tượng và quá trình thực tiễn. Vì thế, phương pháp luận nghiên cứu (PPLNC) trong trường hợp này sẽ là sự kết hợp giữa PPNC lý thuyết và PPNC thực nghiệm với cách tiếp cận lịch sử và logic biện chứng để phát hiện ra các YTAH tới xuất khẩu.

Các lý thuyết thương mại cổ điển và tân cổ điến cùng các lý thuyết thương mại mới được phát triển sau này và các lý thuyết kinh tế học vi mô và vĩ mô như đã đề cập tới ở chương 2 đều đóng góp vào việc hình thành nên phương pháp luận cho nghiên cứu này.

Về mặt lịch sử, lý thuyết kinh tế học vi mô và cụ thể là lý thuyết cung và cầu được phát triển theo lý thuyết cân bằng tổng thể của Walras (1874) hay còn gọi là “Luật Walras” trong tác phẩm ‘Các yếu tố của Kinh tế học thuần túy- Elements of Pure Economics). Lý thuyết kinh tế tân cổ điển này thường giả định rằng các thị trường đều mang tính cạnh tranh hoàn hảo, hàm ý rằng luôn có nhiều người mua và nhiều người bán trên thị trường và không ai có khả năng gây ảnh hưởng đáng kể tới giá cả của hàng hóa và dịch vụ. Theo luật Walras thì sự tồn tại của dư cung ở một thị trường phải được liên kết với dư cầu ở một thị trường khác và như thế là hai yếu tố cung và cầu đều cân bằng nhau. Luật Walras khẳng định rằng một thị trường đang được xem xét phải ở trạng thái cân bằng nếu tất cả các thị trường đều trong trạng thái cân bằng. Ở đây, bàn tay vô hình điều tiết để đưa các thị trường về trạng thái cân bằng, nghĩa là: ở đâu có dư cầu, bàn tay vô hình sẽ nâng giá lên và ở đâu có dư cung bàn tay vô hình sẽ hạ giá xuống cho người tiêu dùng để đưa các thị trường về trạng thái cân bằng.

Tuy nhiên, các quan sát thực tiễn không tương thích với lý thuyết của Walras, thậm chí ngay cả khi tất cả các thị trường khác ở trong trạng thái cân bằng vẫn có dư cung hoặc dư cầu ở thị trường được quan sát nghĩa là nó không ở trạng thái cân bằng.

50

Đó là do các giả định thiếu tính thực tế và Luật Walras xem xét tất cả các thị trường chứ không xem xét từng thị trường cụ thể.

Điều này đã được lý thuyết kinh tế của trường phái Keynes phê phán và chỉ ra

rằng một thị trường có thể mất cân đối mà không cần thị trường khác cũng mất cân đối.

Bởi vì bàn tay vô hình không thực sự có khả năng điều tiết thị trường. Ở đây, Keynes

nhấn mạnh tới vai trò can thiệp của chính phủ vào các thị trường.

Vận dụng vào thị trường hàng hóa và dịch vụ quốc tế, Luật Walras tỏ ra có nhiều

hạn chế hơn, nhất là đối với thị trường nông sản, đặc biệt là thị trường gạo, là những

mặt hàng mà mọi chính phủ đều can thiệp ở những mức độ khác nhau. Cầu về hàng hóa

trên thị trường quốc tế (TTQT) không chỉ phụ thuộc vào thu nhập của người tiêu dùng,

giá của hàng hóa và giá các hàng hóa liên quan như ‘cầu Walras’ hay ‘cầu Marshal’ mà

còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như thị hiếu của người tiêu dùng chi phí vận chuyển

và đặc biệt là các chính sách của chính phủ như CSTM và chính sách tỷ giá (Mankiw,

2001-2014). Ngoài ra, đi tìm các YTAH tới xuất khẩu thoạt nhìn dường như chỉ cần tìm

hiểu các YTAH tới cầu đối với xuất khẩu nghĩa là các YTBN. Song, thị trường có hai

mặt là cung và cầu và chúng tương tác qua lại với nhau nên cần thiết phải xem xét cả

các YTAH tới cung cho xuất khẩu hay các YTBT.

Như vậy, luận án xác định phương pháp luận nghiên cứu là vận dụng cách tiếp

cận chiết trung có tính hệ thống, lịch sử và logic biện chứng về các lý thuyết thương mại

và lý thuyết kinh tế nhằm chọn lọc ra những ý tưởng phù hợp cho vấn đề nghiên cứu.

Trên cơ sở các dữ liệu lịch sử đã thu thập liên quan tới xuất khẩu, Luận án vận

dụng phương pháp phân tích truyền thống như mô tả để tạo ra một bức tranh toàn diện

và chính xác nhất có thể về luồng xuất khẩu của một nước sang các nước nhập khẩu

trong các giai đoạn cụ thể. Mô tả giúp làm sáng tỏ những thay đổi xảy ra trong quá trình

xuất khẩu, mở đường cho phân tích so sánh và tạo điều kiện để việc so sánh diễn ra

thuận lợi và dễ dàng. So sánh nhằm tìm ra sự khác biệt giữa các giai đoạn mà nguyên

nhân của sự khác biệt là do sự thay đổi trong các YTAH từ bên trong và bên ngoài tới

xuất khẩu ở từng giai đoạn cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định.

Ở một chừng mực nhất định, phân tích mô tả và so sánh thống kê có thể giúp chỉ

ra một số YTAH về trực giác song các phương pháp trên không thể giúp lượng hóa ảnh

hưởng của các yếu tố đến xuất khẩu.

Bởi vậy, để xác định chính xác các YTAH đến xuất khẩu cần thiết phải vận dụng

kết hợp cả hai phương pháp là phân tích truyền thống với phân tích định lượng để làm

tăng tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu.

51

3.2. Phương pháp luận ước lượng ảnh hưởng của các yếu tố đến xuất khẩu

Tập hợp các yếu tố có thể tác động đến định hướng TMQT, nhất là xuất khẩu của một quốc gia có thể khá lớn, trong đó một số yếu tố kinh tế quan trọng bao gồm lợi thế so sánh của nước xuất khẩu so với các nước khác, tính kinh tế theo quy mô của ngành hàng hay mặt hàng xuất khẩu, GDP của nước xuất khẩu và/hoặc của các nước nhập khẩu, chính phủ thể hiện qua sự can thiệp của chính phủ vào thương mại và tỷ giá hối đoái, các chính sách kinh tế, nước xuất khẩu với tư cách là thành viên của các FTA song phương, FTA khu vực/vùng và FTA đa phương. Trong số đó có các yếu tố liên quan chằng chịt với các vấn đề nằm ngoài định hướng xuất khẩu mà các lý thuyết thương mại chưa thể giúp làm sáng tỏ.

Tuy nhiên, lý thuyết về lực hấp dẫn (LTLHD) là một lý thuyết kinh tế cho phép

phân tích rất thành công tác động của các yếu tố đến xuất khẩu. Lý thuyết này xuất phát

từ ý tưởng về luật hấp dẫn của Newton đã được nhà kinh tế học Hà Lan, Jan Tinbergen

(1962) đã phát triển và trình bày về MHLHD của TMQT lần đầu tiên vào năm 1962. Lý

thuyết phát biểu rằng luồng thương mại diễn ra giữa hai các quốc có mối quan hệ tỷ lệ

thuận với qui mô của GDP và tỷ lệ nghịch với khoảng cách giữa chúng. Trong các tài

liệu nghiên cứu, đã có nhiều nỗ lực để tìm ra mối quan hệ giữa thương mại, GDP và

khoảng cách từ lý thuyết lực hấp dẫn. Song, những mối quan hệ như vậy không phải là

“thuần khiết” ở dạng rút gọn, nghĩa là không phải lúc nào mối quan hệ này cũng được

giải quyết khi chỉ xem xét GDP và biến đại diện cho khoảng cách mà bỏ qua các yếu tố

khác như là các yếu tố phi kinh tế hay yếu tố không thể lượng hóa. MHLHDCT có thể

giúp giải quyết vấn đề này vì nó có lợi thế là dễ vận dụng trong phân tích CSTM trong

một môi trường đa quốc gia. Do đó, để phân tích “Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu

gạo của Việt Nam”, luận án sử dụng MHLHDCT.

3.2.1. Mô hình lực hấp dẫn cấu trúc cơ bản

MHLHD cho tới nay là một trong những mô hình thành công nhất trong kinh tế học. Nó liên kết luồng thương mại song phương với GDP, khoảng cách giữa các đối tác thương mại và các yếu tố ảnh hưởng khác như các rào cản thương mại. Mô hình đã được sử dụng rộng rãi để ước lượng ảnh hưởng của các yếu tố đến các luồng thương mại, của các thể chế như liên minh hải quan, cơ chế tỷ giá hối đoái, quan hệ sắc tộc, bản sắc ngôn ngữ và biên giới giữa các nước. Anderson (1979) là người nêu lên cơ sở lý thuyết của mô hình và nó đã được nhiều học giả tiếp tục phát triển. MHLHDCT có thể bao hàm được tất cả các yếu tố nêu trên, và để có kết quả thuyết phục, Luận án sẽ vận dụng MHLHDCT với biến công cụ để phân tích xuất khẩu gạo của Việt Nam.

52

Để xây dựng MHLHDCT, trước hết cần xem xét một số giả thiết quan trọng như

3.2.1.1. Các giả thiết về MHLHDCT cơ bản

được đưa ra dưới đây.

Mô hình giả thiết rằng nền kinh tế thế giới có N nước trao đổi thương mại với nhau. Mỗi nước sản xuất một số hàng hóa của mình. Các hàng hóa này được dùng cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Theo giả thiết Anderson-Armington về sự khác biệt hóa sản phẩm của các nước, nghĩa là hàng hóa được phân theo nguồn gốc xuất xứ. Để đơn giản hóa, theo Armington (1969) giả thiết mỗi nước là nguồn cung cấp duy nhất của mỗi sản phẩm- hàng hóa (có sự khác biệt hóa sản phẩm giữa các nước. Người tiêu dùng ở nước j tiêu thụ một lượng qij đơn vị sản phẩm từ nước i.

Trước khi trình bày MHLHDCT, Luận án trình bày hai giả thiết quan trọng về

MHLHDCT, theo Head & Mayer (2014).

Giả thiết thứ nhất chi phối việc phân bổ chi tiêu theo không gian cho các nhà nhập khẩu, nghĩa là một hàng hóa được sản xuất ở nước i được phân bổ cho người tiêu dùng của N nước khác nhau. Giả thiết thứ hai áp đặt việc thanh toán bù trừ thị trường cho nhà xuất khẩu. Giả sử i là nơi hàng hóa được xuất đi (nước xuất khẩu i) và j là điểm đến của hàng hóa (nước nhập khẩu j) được xuất khẩu từ i. Tổng chi tiêu của nhà nhập khẩu j, qj, có thể được coi là “chiếc bánh” của quốc gia j được phân bổ cho việc tiêu dùng hàng hóa từ các nguồn khác nhau. Phần của tổng chi tiêu dành cho hàng hóa phân bổ từ quốc gia i được ký hiệu là βij. Có thể biểu thị nó ở dạng một đồng nhất thức hạch toán là:

1

β =

ij

i

qij= βij qj (1)

trong đó, βij ≥ 0 và . Yêu cầu quan trọng là βij có thể được biểu diễn dưới

dạng nhân tính.

3.2.1.2. Các dẫn xuất từ phía cầu

n

U

j

i

1 − σ ) q σβ ij

(

i

1 =

 =  

σ  1 − σ  

Để suy ra MHLHDCT từ phía cầu, điều quan trọng là cần xuất phát từ giả thiết rằng thị hiếu của người tiêu dùng là thuần nhất và giống nhau giữa các nước và được biểu hiện bằng hàm lợi ích có độ co giãn thay thế không đổi (Constant Elasticity of Substitution---CES, Utility Function). CES được ký hiệu là σ với σ > 1, đối với tất cả các sản phẩm.

Hàm lợi ích CES cho nước j là: ( 2)

53

Trong đó, σ>1 là độ co giãn thay thế của các hàng hóa khác nhau; βi là tham số

y=

p q ij ij

j

i

phân phối dương có thể được coi là một chỉ báo về chất lượng sản phẩm của quốc gia i. Người tiêu dùng của nước j lựa chọn hàng hóa qij để tiêu dùng sao cho cực đại hóa hàm

lợi ích (2) với ràng buộc ngân sách có dạng: (3)

= 

y i

x ij

j

Với yj là thu nhập danh nghĩa của cư dân nước j và Pij là giá hàng hóa nước i đối với người tiêu dùng nước j. Giá cả khác nhau giữa các địa điểm do chi phí thương mại không thể quan sát trực tiếp. Gọi pi là giá cung ứng của nhà xuất khẩu i, chi phí thương mại ròng tij là hệ số chi phí thương mại giữa i và j. Khi đó Pij = pitij. Giả định rằng chi phí thương mại do nhà xuất khẩu chịu. Các tài liệu thực nghiệm về hành vi xuất khẩu của các doanh nghiệp (Roberts và Tybout, 1997; Bernard và Wagner, 2001) nhấn mạnh đến những chi phí lớn mà các nhà xuất khẩu phải đối mặt. Về mặt hình thức, giả định rằng đối với mỗi hàng hóa được vận chuyển từ i đến j, nhà xuất khẩu phải chịu chi phí xuất khẩu bằng (tij – 1) cho hàng hóa từ nước i. Nhà xuất khẩu chuyển các chi phí thương mại này sang nhà nhập khẩu. Giá trị danh nghĩa của hàng xuất khẩu từ i đến j (j thanh toán cho i) là xij = piqij, tổng giá trị sản xuất tại nơi xuất xứ, piqij và chi phí thương mại (tij - 1)piqij mà nhà xuất khẩu i chuyển sang nhà nhập khẩu j. Do đó tổng thu nhập của

. Cầu danh nghĩa đối với hàng hóa nước i của người tiêu dùng nước

nước i là j là nghiệm của bài toán cực đại hóa

(1

) σ −

p t i ij

y i

x ij

β i P j

 =   

   

lợi ích của người tiêu dùng (2) – (3) là:

(4)

) − σ

(1

) − σ

P j

β i

p t i ij

(

)

 =  

1/(1   

i

trong đó, Pj là chỉ số giá tiêu dùng của j, với

(5)

t

y

y

1 σ − )

,

=

=

i ∀

y i

j

( β i

p i

j

  x = ij

j

j

j

t p β i i ij P j

ij P j

   

1 σ −    

   

1 σ −    

Cấu trúc cân bằng chung của mô hình áp đặt điều kiện cân bằng thị trường, hàm

ý: (6)

Để rút ra phương trình hấp dẫn, Deardorff (1998) vận dụng cách làm của Anderson (1979) là dùng điều kiện cân bằng thị trường (6) để giải hệ số {βi} đồng thời lựa chọn đơn vị sao cho tất cả các giá cung ứng pi đều bằng 1 và tiếp đó thay thế vào phương trình cầu nhập khẩu. Vì quan tâm đến việc xác định trạng thái cân bằng chung

54

w

y

y

= 

j

j

của các mức giá trong so sánh tĩnh nên các biến về giá này sẽ thay đổi, cho nên có thể áp dụng kỹ thuật tương tự để giải quyết các mức giá theo tỷ lệ {βipi] từ các điều kiện cân bằng thị trường (6) và thay thế chúng trong phương trình (4). Xác định thu nhập

θ = j

y j w

y

và tỷ trọng giữa thu nhập của nước danh nghĩa của thế giới theo công thức

. Thay các biến đổi trên sẽ có phương trình lực

j

=

x ij

y y i w y

i

1 σ−   t ij   Π  P  j

j trong thu nhập thế giới sẽ là hấp dẫn dạng:

(7)

Trong đó, ∏i là thuật ngữ cấu trúc mà Anderson và van Wincoop (2003) gọi là

) − σ

1 − σθ ij(t / P ) j j

j

 Π =  i 

1/(1   

những lực cản đa phương từ bên ngoài với

θ = j

y j w

y

(8a)

) − σ

) − σ

 Π

=

Π = i

1 − σ (t / P ) j

(1 i

1 − σ (t / P ) j

ij

ij

y j w

y j w

y

y

j

j

  

1/(1   

vào (8a), có: Thay

(8b)

) − σ

=

Π

P j

i

1 − σθ ) i

ij(t /

j

  

1/(1   

Thay thế tỷ lệ giá cân bằng vào (5), sẽ thu được:

(9)

Lấy lại, (8) và (9) có thể được giải cho ∏i và Pi theo số hạng của tỷ trọng thu nhập

{θi}, rào cản thương mại song phương giữa nước i và nước j{tij} và σ.

Để đơn giản hóa, có thể giả định rằng các rào cản thương mại là đối xứng, nghĩa là

j

=

=

1 − σ P j

1 1 − − σθ σ p t i i ij

y w ,i y

i

i

 t ij  Π

1 − σ   

i

tij = tji.. Với giả thiết đối xứng, khi đó dễ dàng xác định nghiệm của (8)-(9) là Πi = Pi với:

(10)

Điều này đưa tới một giải pháp ngầm định cho chỉ số giá như là một hàm số của tất cả các rào cản thương mại song phương và tỷ trọng thu nhập. Phương trình lực hấp dẫn khi đó trở thành:

t

j

=

x ij

y y i w y

ij PP i j

   

1 σ−    

55

3.2.2 Mô hình lực hấp dẫn cấu trúc trong thực nghiệm

t

j t ,

=

x ij,t

ij,t P

y y i t , w y t

i t ,

j t ,

   Π

1 σ−    

Phần trên đây đã trình bày mô hình lực hấp dẫn lý thuyết trên cơ sở MHLHDCT của Anderson và van Wincoop (2003) dẫn tới hệ thống các phương trình của mô hình lực hấp dẫn của thương mại dạng cấu trúc (7)- (8b)- (10). Luận án sẽ xem xét MHLHDCT với số liệu mảng, bởi vậy sẽ đưa yếu tố thời gian vào mô hình cấu trúc cho ứng dụng thực nghiệm:

(t

Π

) (1 σ − i t ,

ij,t

1 σ − / P ) j t ,

j

y =  j t , w y t

(11)

y

ij,t

P

,

=

1 σ − j t ,

i

i t , w y t

i t ,

1 − σ   t   Π  

(12)

(13)

w

ty

Ở đây, tại mỗi thời điểm t, xij,t biểu thị luồng thương mại từ nhà xuất khẩu, nước i, đến điểm đích hay nhà nhập khẩu, nước j; yj,t là tổng chi tiêu của nhà nhập khẩu j; yi,t

là giá trị sản lượng thế giới tại thời là giá trị tổng sản lượng của nước xuất khẩu i; điểm t; tij,t biểu thị ma sát thương mại song phương giữa các đối tác i và j; σ > 1 là độ co giãn thay thế giữa hàng hóa từ các quốc gia khác nhau. Cuối cùng, Pj,t và Πi,t là các số hạng cấu trúc của Anderson và Van Wincoop (2003) lần lượt là các lực cản đa phương từ bên trong (IMR) và từ bên ngoài (OMR). Các lực cản đa phương (MR) là phương tiện chuyển các ảnh hưởng ban đầu, cân bằng bộ phận của chính sách thương mại ở cấp độ song phương sang các ảnh hưởng cụ thể của từng quốc gia đối với giá tiêu dùng và giá sản xuất, những ảnh hưởng này có thể được tích hợp dễ dàng với các mô hình về thị trường lao động, môi trường, v.v. Larch và Yotov (2016) thảo luận chi tiết về các đặc tính của các lực cản đa phương và chứng minh tầm quan trọng và ứng dụng thực tế của chúng đối với phân tích cân bằng tổng quát. Luận án sẽ tập trung vào phương trình cấu trúc của mô hình lực hấp dẫn (11).

Phương trình tuyến tính hóa logarith (11) được mở rộng thêm với số hạng sai số

y

lnx

ln

ln

ln

)ln

)ln

)ln

=

+

(1 + −

(1 − −

(1 − −

σ

σ

σ

w y t

t ij,

y i t ,

j t ,

t t ij,

P j t ,

Π + i t ,

ε t ij,

cộng, εij,t. Khi đó, phương trình ước lượng MHLHD có dạng như sau:

(14)

56

Chỉ định MHLHD dạng (14) là phiên bản phổ biến nhất của PTLHD thực nghiệm

và được vận dụng phổ biến trong các tài liệu thương mại nghiên cứu ảnh hưởng của

các yếu tố có với mức độ quyết định khác nhau đến thương mại song phương. Mặc

dù có nhiều ứng dụng MHLHD và tài liệu tốt về mô hình lực hấp dẫn thực nghiệm,

song, ước lượng lực hấp dẫn trong các tài liệu vẫn còn bị thiên lệch và thậm chí

không nhất quán. Luận án trình bày các luận điểm lý thuyết làm cơ sở cho phần thực nghiệm như sau:

3.2.3. Ước lượng: Thách thức, giải pháp và phương pháp tốt nhất

Để có kết quả ước lượng thực nghiệm tốt nhất, ở phần này, luận án sẽ thảo luận về những vấn đề thường gặp khi ước lượng và trên cơ sở đó đề xuất cách khắc phục cho thực nghiệm sau này. Đó là:

Vấn đề thứ nhất: khi ước lượng mô hình về các luồng giao dịch thương mại bằng không (0). Từ Tinbergen (1962) và tiếp tục cho đến ngày nay, công cụ ước

lượng OLS là kỹ thuật được sử dụng rộng rãi nhất để ước lượng các phiên bản khác

nhau của MHLHD (14). Song, nhược điểm nổi bật của phương pháp OLS là không

thể tính đến thông tin trong các luồng thương mại bằng 0, bởi vì những quan sát này

đơn giản bị loại khỏi mẫu ước lượng khi giá trị thương mại được chuyển sang dạng

logarith. Vấn đề xảy ra với các giá trị bằng 0 trở nên rõ ràng hơn khi các dữ liệu

thương mại càng được phân rã sâu. Điều này trở nên đặc biệt nghiêm trọng đối với

thương mại dịch vụ theo ngành do tiêu dùng được địa phương hóa cao và sản xuất được chuyên môn hóa cao.

Trong những nghiên cứu trước, các nhà nghiên cứu đã đề xuất một số phương

pháp tiếp cận để xử lý sự xuất diện của các luồng thương mại bằng 0. Một phương

pháp thường được áp dụng và rất thuận tiện (nhưng không nhất quán về mặt lý

thuyết), đó là chỉ cần thêm một giá trị rất nhỏ tùy ý thay cho các luồng thương mại

bằng 0. Tuy nhiên, Head và Mayer (2014) gợi ý rằng cần tránh cách tiếp cận như vậy

vì kết quả phụ thuộc vào đơn vị đo lường và cách giải thích các hệ số hấp dẫn, bởi vì độ co giãn đã mất.

Eaton và Tamura (1995) và Martin và Pham (2008) đề xuất việc sử dụng công cụ

ước lượng Tobit như một giải pháp kinh tế lượng cho sự hiện diện của số 0. Song, làm

như vậy sẽ làm mất đi kết nối giữa ước lượng và lý thuyết, nên không thể xác định được

ngưỡng Tobit. Mô hình Tobit sẽ được áp dụng cho trường hợp trong đó các giá trị thương mại nhỏ được làm tròn thành 0 hoặc giá trị thương mại thực tế bằng 0 có thể được phản ánh là thương mại âm mong muốn.

57

Helpman, Melitz và Rubinstein -HMR (2008) đưa ra cách khắc phục khác đó là

sử dụng quy trình lựa chọn hai bước dựa trên lý thuyết, trong đó các nhà xuất khẩu phải

chịu khoản chi phí cố định nào đó để tham gia thị trường. Khi đó, chi phí cố định sẽ giúp

đưa ra lở giải thích kinh tế mang tính trực quan đối với luồng thương mại bằng 0, kết

nối được giữa lý thuyết và thực nghiệm. Mô hình HMR ước lượng theo hai giai đoạn,

đó là ước lượng probit ở giai đoạn đầu để xác định xác suất xuất khẩu, và ước lượng

OLS giai đoạn hai dựa trên mẫu dương của luồng thương mại có tính đến việc lựa chọn

xuất khẩu. Ước lượng HMR mặc dù mạnh song vẫn còn những hạn chế như no vẫn còn

nhạy cảm với tính nhất quán trong dữ liệu về sai số -phương sai sai số không đổi theo

giả định, các kiểm định thống kê dùng dữ liệu mẫu HMR rõ ràng là đã bác bỏ giả định

này. Vì thế, các ước lượng của mô hình có thể không đáng tin cậy. Hơn nữa, hiệu lực

của qui trình ước lượng hai giai đoạn của HMR còn tùy thuộc vào các giả định phân

phối mà các dữ liệu trong thế giới thực không phải lúc nào cũng đáp ứng. Một khó khăn

khác từ cách tiếp cận phương pháp HMR phát sinh trong việc ước lượng dữ liệu mảng

và khi xem xét nó ở trạng thái động.

Trước đó, Santos Silva và Tenreyro (2006) cũng đã đề xuất tiếp cận ước lượng

PPML để giải quyết vấn đề về các giá trị luồng thương mại bằng 0 và phương sai sai số

thay đổi của dữ liệu. Santos Silva và Tenreyro (2011) sử dụng mô phỏng Monte Carlo

để cho thấy rằng PPML hoạt động rất tốt ngay cả khi mô hình có nhiều quan sát có giá

trị bằng 0. Nhờ vậy PPML khắc phục được sự thiên lệch và tính không đồng nhất trong

dữ liệu. Luận án sẽ sử dụng phương pháp PPML để ước lượng các yếu tố tác động đến

xuất khẩu gạo của Việt Nam trong nghiên cứu thực nghiệm.

Vấn đề thứ hai: Tính không đồng nhất của dữ liệu thương mại. Santos Silva và

Tenreyro (2006) đã chỉ ra rằng với sự tồn tại của tính không đồng nhất, các ước lượng

về ảnh hưởng của chi phí thương mại và chính sách thương mại không chỉ bị thiên lệch

mà còn không nhất quán khi lực hấp dẫn được ước lượng ở dạng logarith tuyến tính

bằng công cụ ước lượng OLS (hoặc bất kỳ công cụ ước lượng nào khác đòi hỏi chuyển

đổi sang phi tuyến tính). Các nghiên cứu trước đó có đề xuất về hai giải pháp để giải

quyết vấn đề tính không đồng nhất trong MHLHD. Một cách tiếp cận là ước lượng (14)

sau khi chuyển biến phụ thuộc thành thương mại đã được điều chỉnh theo quy mô, nghĩa

là tỷ lệ giữa giá trị thương mại và tích quy mô của hai thị trường, xij,t/(yj,tyi,t) theo như

Anderson và van Wincoop (2003). Về sự điều chỉnh này, bằng trực giác có thể thấy

rằng, phương sai của số hạng sai số εij,t tỷ lệ thuận với tích của quy mô của hai thị trường.

58

Một nhược điểm của cách tiếp cận này là nó đã coi (tích của) quy mô quốc gia là nguồn

gốc duy nhất của tính không đồng nhất. Hơn nữa, việc sử dụng giao dịch điều chỉnh quy

mô được đề xuất làm biến phụ thuộc sẽ không loại bỏ được 'thách thức đối với luồng

thương mại bằng 0' .

Bởi vậy, luận án sẽ áp dụng cách tiếp cận khác toàn diện hơn cách mà Santos

Silva và Tenreyro (2006) đề xuất, đó là sử dụng phương pháp ước lượng PPML.

Phương pháp PPML xử lý hiệu quả sự hiện diện của tính không đồng nhất và các luồng

thương mại bằng 0 và nó đã trở thành sự lựa chọn thích hợp cho việc phân tích lực hấp

dẫn thực nghiệm.

Vấn đề thứ ba: Chi phí thương mại song phương. Xác định đúng chi phí thương

mại song phương có ý nghĩa rất quan trọng đối với cân bằng bộ phận cũng như phân

tích chính sách thương mại trong cân bằng chung.

Luận án sẽ giải quyết vấn đề này theo lý thuyết trên cơ sở xem xét tiêu chuẩn đại

diện cho chi phí thương mại song phương, (1 − σ) lntij,t, từ chỉ định (14). Đó là sử dụng

một loạt biến có thể quan sát được và hầu hết chúng đã trở thành hiệp phương sai tiêu

(1

)ln

ln

σ

=

+

+

+

+

t t ij,

β 1

dist ij

CDB β 2 ij

T β 3

D ij

CS β t 4 ij,

βτ t 5 ij,

chuẩn trong lực hấp dẫn thực nghiệm.

(15)

Ở đây, hai biến độc lập đầu tiên trong phương trình (15) là biến đại diện lực hấp

dẫn mạnh và được sử dụng rộng rãi nhất cho chi phí thương mại. Lndistij là logarith của

khoảng cách song phương giữa các đối tác thương mại i và j, và CDBij là biến giả cho

biết các đối tác thương mại là các nước lân cận (Chung đường biên giới). TDij là các

biến giả cho biết có sự hiện diện của mối quan hệ thuộc địa có giá trị tương ứng là 1.

Cuối cùng, CSij,t và τij,t là các biến CSTM và chi phí thương mại. CSij,t là biến giả giải

thích sự hiện diện của một FTA khu vực/vùng giữa các đối tác thương mại i và j. CSij,t

nhận giá trị bằng 1 khi hai quốc gia là thành viên của cùng một chính sách (CS) và ngược

lại nó nhận giá trị bằng 0. τij,t là biến có tính đến thuế quan song phương và được định

nghĩa là τij,t = ln(1+tariffij,t), trong đó tariffij,t là thuế quan mà quốc gia j áp dụng đối với

hàng nhập khẩu từ quốc gia i. Một điều quan trọng là, do thuế quan đóng vai trò là tác

nhân làm dịch chuyển giá trực tiếp nên hệ số đối với τij,t chỉ có thể được biểu thị dưới

dạng độ co giãn thay thế β5=−σ, có nghĩa là bản thân độ co giãn thay thế thương mại có thể được phục hồi trực tiếp từ ước lượng trên τij,t là (cid:3)(cid:4) = −(cid:7)(cid:8)(cid:9) . Điều này được phối hợp trong mô hình thực nghiệm.

59

Vấn đề thứ 4: Tính nội sinh của chính sách thương mại (CSTM) . Một trong những

thách thức lớn nhất để có được những ước lượng đáng tin cậy về ảnh hưởng của CSTM

trong MHLHD là các biến số CSTM là nội sinh. Có thể CSTM có mối tương quan với

chi phí thương mại chéo không thể quan sát được. ‘Quan hệ nhân quả ngược’, tức là khả

năng tất cả các yếu tố khác đều như nhau, có nhiều khả năng tự do hóa thương mại với

một quốc gia mà chính quốc gia đó đã là đối tác thương mại quan trọng, là một ví dụ

điển hình.

Vấn đề nội sinh của CSTM đã được thể hiện rõ ràng trong các tài liệu về thương

mại (xem Trefler, 1993). Tuy nhiên, cơ bản là do thiếu các công cụ đáng tin cậy, những

nỗ lực ban đầu nhằm giải thích tính nội sinh bằng các phương pháp xử lý biến công cụ

(Instrumental Variable ---IV) tiêu chuẩn đã không thành công trong việc giải quyết

vấn đề đối với số liệu chéo. Baier và Bergstrand (2007) tóm tắt những phát hiện từ các

nghiên cứu IV hiện tại là “bằng chứng hỗn hợp tốt nhất để cô lập ảnh hưởng của các

FTA lên các luồng thương mại”. Luận án sẽ sử dụng phương pháp biến công cụ theo

Baier và Bergstrand (2007) đề xuất, phối hợp vào MHLHDCT và sau đó ước lượng

PPML với biến công cụ.

Vấn đề thứ 5: Điều chỉnh những thay đổi trong CSTM. Lẽ tự nhiên là việc điều

chỉnh các luồng thương mại để ứng phó với những thay đổi trong CSTM sẽ không

diễn ra tức thì. Bởi vậy, Trefler (2004) đã chỉ trích các ước lượng thương mại gộp

cho những năm liên tiếp nhau. Cheng và Wall (2005) cho rằng ước lượng các ảnh

hưởng cố định đôi khi bị phê phán khi áp dụng cho dữ liệu gộp được tổng hợp qua

nhiều năm liên tiếp do các biến phụ thuộc và biến độc lập không thể điều chỉnh hoàn

toàn trong một năm.

Để khắc phục hiện tượng này, các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu bảng theo

các khoảng thời gian thay vì dùng dữ liệu gộp qua nhiều năm liên tiếp. Ví dụ, Trefler

(2004) sử dụng khoảng thời gian 3 năm, Anderson và Yotov (2011) sử dụng khoảng thời

gian 4 năm, và Baier và Bergstrand (2007) sử dụng khoảng thời gian 5 năm. Olivero và

Yotov (2012) đưa ra bằng chứng thực nghiệm rằng các ước lượng MHLHD thu được từ

dữ liệu thương mại trong khoảng thời gian 3 năm và 5 năm là rất giống nhau. Tuy nhiên,

họ cũng xác nhận rằng các ước lượng được thực hiện với các mẫu dữ liệu tổng hợp trong

các năm liên tiếp tạo ra những ước lượng đáng nghi ngờ về tham số co giãn và chi phí

thương mại. Vì thế, luận án sẽ tách khoảng thời gian nghiên cứu 20 năm thành 4 thời

kỳ/giai đoạn. Thời kỳ thứ nhất là từ năm 2001 đến năm 2005 (2001-2005); thời kỳ thứ

60

2 từ năm 2006 đến năm 2010 (2006-2010); thời kỳ thứ 3 từ năm 2011 đến năm 2015

(2011-2015) và thời kỳ thứ 4 từ năm 2016 đến năm 2021 (2016-2021).

Vấn đề thứ 6: Lực hấp dẫn với dữ liệu phân tán. Nhiều chính sách thương mại

được đàm phán và áp dụng ở cấp ngành, chẳng hạn như thuế quan. Trong khi về nguyên

tắc có thể tổng hợp CSTM và vẫn sử dụng MHLHD tổng, tuy nhiên, cần tránh những

thực tiễn tổng hợp này. Cần ước lượng lực hấp dẫn ở mức tổng hợp khi có thể vì đó là

mục tiêu của chính sách cụ thể. Hơn nữa, ngay cả đối với các chính sách được đàm phán

ở mức độ tổng hợp, chẳng hạn như một số RTA, cũng có thể cần có được hiệu ứng theo

ngành vì ảnh hưởng của các chính sách không phân biệt đối xử trên thực tế có thể tương

đối không đồng nhất giữa các ngành. Điều này cho thấy sự cần thiết phải ước lượng lực

hấp dẫn phù hợp ở cấp độ ngành.

Một trong những điểm đáng chú ý nhất của lý thuyết lực hấp dẫn Armington-

CES là mô hình này có thể phân tách được, nghĩa là ở cả cấp tổng hợp và cấp ngành,

chi tiêu song phương giữa các quốc gia ở cấp tổng hợp và cấp ngành đều có thể

tách biệt từ sản lượng và chi tiêu ở cấp quốc gia (Larch và Yotove, 2016). Anderson

j,t) cấp quốc gia (luận án

i,t) và chi tiêu (yk

và Van Wincoop (2004) đã chỉ ra ý nghĩa thú vị của khả năng phân tách, đó là đối với một tập hợp các giá trị sản lượng (yk

chỉ xem xét xuất khẩu gạo), trong đó k biểu thị cho một loại hàng hóa (gạo)/lĩnh

vực (sản xuất lương thực), lý thuyết đưa ra phương trình lực hấp dẫn từng phần quen

t

k ij,

=

t

k x ij,

k k y y i t j t , , k w, y t

k i t .

1 σ−   k t   Π  k P  j t ,

thuộc là:

(16)

ij,t, bao gồm cả ảnh hưởng của chính

Ở đây, hai đặc điểm của phương trình (16) đáng được lưu ý. Thứ nhất, theo

định nghĩa, chi phí thương mại song phương tk sách thương mại, mang tính đặc thù của từng ngành. Thứ hai, những cản trở đa

phương cũng mang tính đặc thù của từng ngành. Từ góc độ thực nghiệm, khả năng

phân chia thương mại hàm ý rằng (16) có thể được ước lượng cho từng ngành như

dữ liệu được tổng hợp.

3.2.4. Ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc

Như đã biết MHLHD xuất hiện khắp nơi trong các tài liệu TMQT ứng dụng.

Nhiều tài liệu đã chỉ những thiếu sót của cách tiếp cận truyền thống về tuyến tính hóa

logarith và ước lượng OLS. Đặc biệt, Santos Silva và Tenreyro (2006) nhấn mạnh đến

61

ưu thế của ước lượng PPML là bảo toàn tổng luồng thương mại giữa ma trận thương

mại song phương thực tế và ước tính theo cách mà không có một công cụ ước lượng

hợp lý cực đại khác nào có thể làm được.

t

j t ,

=

ˆ x ij,t

y y i t , w y t

ij,t P j t ,

i t ,

   Π

1 σ−    

Mô hình dựa trên CES của Anderson và Van Wincoop (2003) đã thay thế các công thức truyền thống trước đó để trở thành MHLHD chuẩn trong các tài liệu TMQT ứng dụng:

Để ước tính mô hình, người ta thường sử dụng ảnh hưởng cố định của nhà xuất

khẩu và nhà nhập khẩu để kiểm soát GDP và các rào cản đa phương. Vì vậy, MHLHD

=

x ij

s 1 αα − t e k i j ij ij

chuẩn nhìn chung có dạng sau:

(17)

( iα

trong đó, k là một hằng số, αi chỉ một tập hợp đầy đủ các ảnh hưởng cố định của

nhà xuất khẩu, biểu thị các ảnh hưởng cố định của nhà nhập khẩu, và eij là sai số ngẫu nhiên độc lập về mặt thống kê với các biến hồi quy, với E(eij|yi,yj, yw, tij, Πi,t,Pj,t)=1

Cách thiết lập này rất gần với các công thức tổng quát hơn về lực hấp dẫn

được thấy trong tài liệu khoa học (Roy, 2004), trong đó các ảnh hưởng cố định

được hiểu một cách khái quát nhất là việc nắm bắt được các lực “đẩy” của nhà

xuất khẩu và lực “hút” của nhà nhập khẩu cùng một loạt các tham số kỹ thuật về

chi phí thương mại.

Để thực hiện phương trình (17) nhiều tác giả sử dụng OLS của mô hình tuyến

tính hóa logarith. Tuy nhiên, Santos Silva và Tenreyro (2006) nêu bật hai khúc mắc ở

cách tiếp cận này. Vấn đề thứ nhất là việc lấy logarith sẽ tự động loại bỏ các quan sát có

giá trị thương mại bằng 0. Vấn đề thứ hai là OLS đưa ra các ước tính tham số không

nhất quán nếu nhiễu trong (17) là không đồng nhất và phương sai của nó phụ thuộc vào

một hoặc nhiều biến hồi quy.

k

ˆ x ij

ˆ x ij

e

e

Santos Silva và Tenreyro (2006) đề xuất công cụ ước lượng PPML là một giải pháp thực tế cho cả hai vấn đề. Mô hình hồi quy Poisson được xác định ở dạng tổng quát bằng phân bố rời rạc như sau:

)

Pr

=

=

x ij

ijˆ k x |

(

)

( k

!

, k = 0,1,2,…….. (18)

62

LogL

Log

Pr

|

*

=

=

x ij

ˆ x ij

x ij

ˆ Logx ij

Logx ij

(

)

{ ˆ x − + ij

} !

ij

ij

Logarith hàm hợp lý liên quan đến phân phối là

(19)

Quan sát bằng 0 có thể được kết hợp trực tiếp trong PPML.

Để ước lượng PPML, luận án tiến hành theo 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất ước lượng các biến nội sinh bằng mô hình probit sau đó dự báo biến nội sinh từ mô hình này và tiếp đến là đưa kết quả thu được vào MHLHDCT để ước lượng PPML. Để ước lượng biến nội sinh, cần phải có lý thuyết vững để xây dựng mô hình probit. May mắn là nghiên cứu của Baier và Bergstrand (2007) đã cung cấp cơ sở lý thuyết này. Dựa theo Baier và Bergstand, Luận án bàn về các biến của mô hình probit như sau:

3.2.5. Mô hình probit ước lượng biến nội sinh

Theo lý thuyết, các chính sách thương mại hình thành nên các FTA song phương và đa phương là biến nội sinh trong MHLHD. Các yếu tố kinh tế quyết định của FTA (z) như sau:

Luận án sử dụng mô hình lý thuyết để giúp xác định tập hợp công cụ z hợp lý

cho hồi quy probit giai đoạn đầu. Mô hình có dạng:

P(FTA = 1*Q, z) = Φ(π0 + π1'Q + π2'z) (20)

để tạo ra xác suất dự đoán ΦP.

Về mặt kinh tế lượng, các yếu tố cấu thành z cần phải tương quan với FTA, nhưng

không tương quan với sai số trong phương trình lực hấp dẫn. Trước hết, có thể chỉ ra

xem các yếu tố kinh tế khác nhau có thể ảnh hưởng như thế nào đến quyết định hình

thành FTA của một cặp chính phủ. Giả định rằng, chính phủ của mỗi quốc gia đóng vai

trò là nhà hoạch định chính sách kinh tế-xã hội, dựa trên bối cảnh cạnh tranh được mô

tả ở trên và bằng chứng thực nghiệm. Nhờ đó, nhà hoạch định chính sách của mỗi quốc

gia quyết định có nên hình thành một FTA hay không căn cứ vào lợi ích (hoặc tổn thất)

phúc lợi ròng của quốc gia phát sinh từ quyết định đó. Để một FTA song phương được

hình thành, phải có sự thay đổi về lợi ích của cả hai nước. Nếu sự thay đổi về lợi ích là

âm đối với một trong hai quốc gia, thì giả định FTA không được hình thành. Lợi ích của

mỗi quốc gia từ FTA càng gia tăng thì khả năng chính phủ của mỗi quốc gia sẽ tham gia

FTA càng cao.

Cơ sở kinh tế để ước lượng hồi quy probit giai đoạn đầu dựa trên mô hình lựa

chọn của McFadden (1975, 1976). Giả sử FTA biểu thị một biến không quan sát được

63

(tiềm ẩn), trong đó để đơn giản hóa, có thể bỏ qua chỉ số quan sát. Giả sử FTA trong bối

cảnh hiện tại thể hiện sự khác biệt về mức độ hữu dụng so với một hành động (sự hình

thành FTA), trong đó:

FTA = π0 + π1'Q + π2'z + v (21)

Trong đó, Q và z là vectơ của các biến giải thích, π1 và π2 là các vectơ của tham

số, và các số hạng sai số v được coi là độc lập với Q và z và có phân phối chuẩn. Người

tiêu dùng của cả hai nước phải được hưởng lợi từ FTA để các quốc gia đại diện của họ

hình thành FTA. Vì FTA không thể quan sát được nên FTA đóng vai trò là biến chỉ báo,

nhận giá trị 1 nếu hai quốc gia có FTA (biểu thị FTA > 0) và giá trị bằng 0 nếu ngược

lại, không có FTA. Có thể suy ra xác suất đáp ứng, P, cho FTA là:

P(FTA = 1*, z) = P(FTA > 0 * Q, z) = Φ(π0 + π1'Q + π2'z) (22)

trong đó Φ(.) là hàm phân phối tích lũy chuẩn chuẩn hóa, đảm bảo rằng

P(FTA = 1) nằm giữa 0 và 1. Sai số chuẩn của ước lượng π1 và π2 có phân phối

3.2.5.1. Các biến trong Q

tiệm gần/cận chuẩn.

Hồi quy probit giai đoạn đầu bao gồm các biến trong Q. Trong phần này, cần

chỉ ra mối liên hệ về mặt lý thuyết giữa một số biến trong Q và biến tiềm ẩn FTA. Điều

này sẽ thiết lập các mối quan hệ thống kê định tính kỳ vọng giữa các biến trong Q và

P(FTA), tức là các dấu của π1. Để thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế và lợi

ích hoặc tổn thất phúc lợi ròng từ một FTA, các biến được mô tả sơ bộ như sau:

• Biến khoảng cách

Frankel, Stein và Wei (1995, 1996 và 1998) đã chỉ ra về mặt lý thuyết trong

một thế giới có nền kinh tế đối xứng, hai quốc gia là đối tác thương mại “tự nhiên”

có khoảng cách gần nhau sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ một FTA so với hai quốc

gia là các đối tác thương mại “không tự nhiên” hay cách xa nhau. Ở trong một bối

cảnh tổng quát hơn, điều này gợi ý rằng lợi ích từ một FTA càng lớn khi khoảng cách

giữa hai nước càng nhỏ do thương mại được tạo ra nhiều hơn. Điều này cũng cho

thấy rằng có một mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa khoảng cách và xác suất của một

FTA. Hơn nữa, khoảng cách không được tương quan với sai số trong phương trình

lực hấp dẫn (εij) vì khoảng cách được coi là ngoại sinh trong phương trình lực hấp

dẫn điển hình.

64

• Biến GDP danh nghĩa

3.2.5.2. Các biến trong z

Về trực giác, lợi ích phúc lợi từ các FTA sẽ cao hơn đối với các quốc gia có các yếu tố nguồn lực tuyệt đối lớn hơn (và do đó có GDP thực lớn hơn). Việc hình thành một FTA giữa hai đối tác lớn (về kinh tế) tạo lập ra thương mại ở nhiều chủng loại hơn so với FTA giữa hai đối tác nhỏ, và chuyển hướng thương mại từ những các quốc gia không phải là thành viên với ít chủng loại hơn so với hai đối tác nhỏ, vì thế cải thiện tiện ích nhiều hơn ở các nước lớn so với các nước nhỏ. Baier và Bergstrand (2002) cho rằng vì phương trình lực hấp dẫn điển hình thường sử dụng GDP danh nghĩa thay vì GDP thực (rất có thể do ước lượng với các giá trị của luồng thương mại song phương), họ đưa vào Q logarith tích của GDP danh nghĩa của hai quốc gia. Cũng như GDP của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu được giả định là ngoại sinh theo phương trình lực hấp dẫn điển hình, nên hoàn toàn hợp lý để giả định rằng GDP không tương quan với εij.

Vì mục đích kinh tế lượng, các biến tạo thành z phải tương quan với P(FTA),

nhưng không tương quan với sai số trong phương trình trọng lực (εij).

• Sự xa xôi của các đối tác FTA lục địa

Đóng góp chủ yếu về mặt lý thuyết của mô hình cân bằng tổng thể khả tính (Computable General Equilibrium-CGE) trong Frankel, Stein và Wei (1995, 1996, 1998) là nguồn lợi từ phúc lợi ròng thu được từ một FTA lục địa hay FTA tự nhiên có quan hệ tích cực/dương với sự xa xôi của các đối tác FTA từ thế giới còn lại (ROW). Frankel, Stein và Wei cũng tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa các đối tác thương mại ở cách xa nhau; tuy nhiên, Baier và Bergstrand (2007) cho thấy rằng mối quan hệ cũng không có tính khái quát hóa.

Baier và Bergstrand (2007) cũng cho biết rằng khoảng cách song phương giữa một cặp quốc gia ngắn hơn giúp FTA có lợi hơn so với khoảng cách song phương lớn hơn; đó là do tiềm năng tạo lập thương mại giữa cặp quố gia này lớn hơn. Tương tự, các đối tác thương mại giữa hai lục địa đối mặt với chi phí vận chuyển xuyên lục địa cao hơn có xu hướng được hưởng lợi nhiều hơn từ FTA vì sẽ có ít chuyển hướng thương mại hơn với các đối tác thương mại ngoài lục địa. Baier và Bergstrand (2007) đề xuất một mối quan hệ đơn điệu giữa khoảng cách xa xôi và lợi ích ròng từ FTA đối với các đối tác FTA lục địa. Lý thuyết của họ cho thấy rằng khả năng xảy ra một FTA có liên quan đến một biến số XAXOI thường không được đưa vào phương trình lực hấp dẫn. Biến này được định nghĩa là mức độ xa xôi của một cặp quốc gia nếu họ có FTA lục địa, và bằng không ở những nơi khác. Theo cách của Baier và Bergstrand (2002), luận

65

án sẽ thiết lập biến XAXOI bằng 1 nếu các nước đang xét không nằm ở châu Á. Rõ ràng XAXOIij không tương quan với εij.

• Sự khác biệt tương đối về yếu tố nguồn lực

Trong các mô hình thương mại truyền thống (bỏ qua yếu tố chi phí vận chuyển),

khác biệt tương đối về yếu tố nguồn lực càng lớn thì lợi ích của FTA giữa một cặp quốc

gia càng được mở rộng vì lợi thế so sánh truyền thống sẽ được khai thác triệt để hơn.

Mối quan hệ giữa sự khác biệt về tỷ lệ vốn-lao động và lợi ích phúc lợi ròng từ một FTA

tự nhiên thiên về quốc gia có nguồn lực dồi dào.

Baier và Bergstrand (2007) đo lường sự khác biệt tương đối về yếu tố nguồn lực

bằng giá trị tuyệt đối của sự khác biệt trong logarith của tỷ lệ vốn-lao động ở hai nước,

ký hiệu là DKL. Họ giả định DKL và bình phương của nó (SQDKL) không có mối quan

hệ tương quan với εij.

Tuy nhiên, vận dụng theo quan điểm của Baier và Bergstrand (2002, trang 15) luận

án dùng GDP bình quân đầu người (hoặc dân số) của hai quốc gia làm biến đại diện cho

tỷ lệ vốn-lao động trung bình của hai quốc gia (xác định tỷ trọng nội sinh của hàng hóa

trong sản lượng quốc gia). Do đó, Q sẽ bao hàm các biến là GDP danh nghĩa, dân số,

khoảng cách song phương, và biến giả có đường biên giới chung hay nước lân cận. Đây

là cơ sở để luận án chỉ xem xét xuất khẩu gạo mà không xét đến xuất khẩu nói chung.

Tóm lại từ những vấn đề lý thuyết được trình bày trên, luận án thực hiện ước

lượng MHLHDCT theo với các bước sau đây:

(i) Sử dụng dữ liệu bảng về xuất khẩu gạo của Việt Nam tới 60 quốc gia và vùng

lãnh thổ cho thời kỳ 2001-2021.

(ii) Nghiên cứu xuất khẩu của Việt Nam trên cơ sở sử dụng dữ liệu bảng theo các

khoảng thời gian bộ phận thay vì dữ liệu gộp qua nhiều năm liên tiếp.

(iii) Ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng phương pháp PPML: sử dụng công cụ

ước lượng PPML để ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc.

(iv) Ước lượng MHLHDCT bằng PPML với biến công cụ.

3.3. Kết luận

Chương này trình bày phương pháp luận nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới luồng thương mại. Phần đầu của chương tiến hành hệ thống hóa mang tính lịch sử và logic các lý thuyết thương mại cùng với sự phát triển của chúng theo thời gian, từ lý thuyết thương mại cổ điển, tân cổ điển đến một số lý thuyết thương mại mới và kết thúc

66

bằng việc nêu lên những hạn chế của lý thuyết thương mại và sự cần thiết phải tiếp cận một lý thuyết mới ưu việt hơn, đó là lý thuyết về lực hấp dẫn của thương mại để mô tả và giải thích các hiện tượng và các luồng thương mại hiện hành, thiên về định tính.

Phần thứ hai trình bày phương pháp luận nghiên cứu định lượng vận dụng MHLHDCT. Bắt đầu bằng việc khái quát lý thuyết về lực hấp dẫn và sự vận dụng lý thuyết này trong nghiên cứu thực nghiệm luồng di cư của Ravenstein (1885) và nghiên cứu luồng thương mại của Tinbergen (1962). Ban đầu lý thuyết này mang tính thực nghiệm cao, song nó đã giúp giải thích luồng thương mại/xuất khẩu tốt hơn so với các lý thuyết thương mại thịnh hành. Theo thời gian, lý thuyết này đã được tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn và được vận dụng rộng rãi trong phân tích luồng thương mại.

Để làm cơ sở cho việc xây dựng và ước lượng mô hình ảnh hưởng của các yếu tố

đến xuất khẩu gạo của Việt Nam, phần nối tiếp trình bày về cơ sở lý thuyết của MHLHD.

Do MHLHD truyền thống có những hạn chế trong việc phân tích chính sách thương

mại mà gạo một mặt hàng bị chi phối bởi nhiều chính sách từ cả hai phía đối tác nên

luận án bàn về việc xây dựng MHLHDCT. MHLHDCT áp ứng tốt các yêu cầu phân

tích các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong môi trường đa quốc

gia. Do ước lượng OLS có những hạn chế trong việc khắc phục hiện tượng có luồng

xuất khẩu với giá trị bằng 0 và phương sai sai số thay đổi nên luận án sẽ vận dụng ước

lượng PPML để xử lý các vấn đề nêu trên. Thêm nữa, ước lượng PPML vẫn chưa khắc

phục hoàn toàn hiện tượng nội sinh, luận án tiến hành xây dựng mô hình probit ước

lượng biến nội sinh trong giai đoạn đầu và ước lượng PPML trong giai đoạn 2, đó là

ước lượng PPML với biến công cụ (IV-Instrumental Variables) hay IVPPML để làm

cơ sở cho phần phân tích thực nghiệm.

67

CHƯƠNG 4 THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM, 1989-2021

Chương 4 tiến hành phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời

kỳ 1989-2021 với 2 giai đoạn là (1989-2000) và (2001-2021. Việc phân đoạn này được

căn cứ vào đặc điểm lịch sử phát triển của chính sách lúa gạo, đặc biệt là chính sách xuất

khẩu gạo của Việt Nam và sự hiện hữu của tập dữ liệu qưốc tế về xuất và nhập khẩu gạo

trên thế giới nói chung, của Việt Nam và các đối tác thương mại. Bằng cách tiếp cận lý

thuyết chiết trung, luận án vận dụng các phương pháp phân tích mô tả, phân tích so sánh

và phân tích nhân quả để phát hiện và xác định các yếu tố/nhóm yếu tố ảnh hưởng tới

xuất khẩu gạo của Việt Nam trong mỗi giai đoạn cụ thể từ các dữ liệu thứ cấp được thu

thập từ các nguồn tin cậy ở trong nước và quốc tế.

4.1. Vài nét về ngành lúa gạo ở Việt Nam

Lúa là cây trồng chính trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Sản xuất lúa tạo

công ăn việc làm cho 42% lao động xã hội và nguồn thu nhập quan trọng cho 70 phần

trăm dân số sống ở nông thôn (Molisa, 2019). Diện tích lúa chiếm tới trên 82% đất

trồng trọt, trên 60 % toàn bộ đất nông nghiệp (IRRI, 2019) và con số này là trên 50%

diện tích đất nông nghiệp của cả nước vào năm 2020 (GSO, 2022). Lúa được trồng

tập trung ở hai đồng bằng lớn đó là đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu

Long, nơi tạo ra tới 70% sản lượng lúa của Việt Nam với 18% ở đồng bằng Đồng

bằng Sông Hồng và 52% ở đồng bằng Sông Cửu Long. Gạo dư thừa từ đồng bằng

Sông Hồng chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước trong khi toàn bộ lượng gạo dư thừa

ở đồng bằng Sông Cửu Long dành cho xuất khẩu, đóng góp tới trên 90% lượng gạo xuất khẩu của cả nước26.

Gạo là lương thực chủ yếu của người dân Việt Nam, chiếm tới 90 % tổng lượng

lương thực quốc gia (GSO, 1989-2021). Trung bình gạo cung ứng khoảng 80% lượng

carbohydrat, 40% lượng protein cho một người dân điển hình (Molisa, 2019) và 75%

lượng calor cho hộ gia đình trung bình (FAO, WRS, 2009-2013).

Việt Nam từng là nhà xuất khẩu gạo lớn nhất nhì thế giới từ cuối thế kỷ IXX đến

giữa thế kỷ XX, xem Đặng Phong (1989), Lan. T. (2012), Wailes, E. (2012, 2013) và

Phụ lục 2. Hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam kéo dài cho tới đầu thập niên 1960

26 Tác giả tính toán từ dữ liệu thô của GSO và VFA.

(Wailes, E., 2013) nhưng với khối lượng xuất khẩu giảm dần.

68

Chiến tranh và hệ quả của cơ chế kinh tế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã

biến Việt Nam từ một nước xuất khẩu gạo thành một nước thiếu đói gạo trầm trọng và triền miên trong suốt gần 30 năm từ đầu thập niên 1960 cho tới cuối thập niên 1980. Trung bình hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu tới trên dưới một triệu tấn gạo cho tiêu dùng trong nước (FAO, 1961-1995, Dapice, D., 1994; Nguyễn Sinh Cúc, 1995; và Fforde, A. and de Vylder, S.,1996, trích Ngô Thị Mến, 1995, 2003).

7.0

50

6.5

45

6.0

40

5.5

35

5.0

30

4.5

25

4.0

20

3.5

15

3.0

10

2.5

5

2.0

0

Diện tích (Triệu ha)-trái

Sản lượng (Triệu tấn)-trái

Năng suất (tấn/ha)-phải

Thành công của Đổi Mới (1986) trong quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm trong nông nghiệp với thắng lợi của Khoán 10 năm 1988 đã giúp sản xuất lúa gạo phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu (Ngo Thi Men, 1995). Sản lượng thóc tăng mạnh. Từ năm 1989, Việt Nam đã tạo ra một lượng gạo dư thừa lớn dẫn tới rớt giá gạo trong nước làm thu nhập của người nông dân trồng lúa giảm sút mạnh. Để ổn định giá gạo trong nước và đảm bảo thu nhập trong nông dân, Việt Nam đã xuất khẩu gạo dư thừa ra thế giới và trở thành nhà xuất khẩu lớn thứ ba thế giới. Từ năm 1989, Việt Nam là một trong năm nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Bangladesh, hàng năm tạo ra trung bình gần 6% lượng gạo toàn cầu. Trong giai đoạn 1989-2021, sản lượng thóc tăng trung bình với tốc độ 2,6%/năm, chủ yếu nhờ tăng năng suất lúa như được chỉ ra ở Hình 4.1.

Hình 4.1. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam, 1989-2021

Nguồn: GSO (1989-2022)

Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và để ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng chính phủ đã có những quyết sách khác nhau nhằm duy trì diện tích đất

69

lúa như vào các năm 2007, 2009 “để có sản lượng 41-43 triệu tấn lúa/năm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm”. Tuy nhiên, với sự giảm sút sâu của giá gạo quốc tế vào các năm 2015-2017, sự gia tăng của hiện tượng xâm nhập mặn và hạn hán làm tăng diện tích lúa kém hiệu quả, năm 2017 Chính phủ đã điều chỉnh giảm diện tích lúa kém hiệu quả để chuyển sang nuôi trồng những sản phẩm nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao hơn và giảm dần lượng gạo xuất khẩu (Quyết định số 942/QĐ-TTg27 phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030”. Điều này không ảnh hưởng tới an ninh lương thực quốc gia do tốc độ tăng dân số trung bình trong cùng thời kỳ chỉ là 1,3%/năm, bằng ½ tốc độ tăng sản lượng lúa và lượng gạo tiêu thụ bình quân theo đầu người giảm xấp xỉ 33% trong khoảng thời gian 2006- 2020 khi thu nhập tăng lên28, phù hợp với xu hướng chung của các nước có thu nhập trung bình trở lên29. Bởi vậy, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không giảm mà còn tăng lên theo thời gian trong những năm gần đây.

Tuy ngành lúa gạo đã tạo ra nhiều giống lúa mới chất lượng cao đưa vào thâm canh làm tăng năng suất và sản lượng, Việt Nam về cơ bản mới tận dụng các lợi thế tự nhiên của mình hay chủ yếu mới dừng lại ở việc khai thác các yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất đó là lợi thế về lao động phổ thông giá rẻ, lợi thế của thổ nhưỡng và điều kiện tự nhiên thuận lợi. Ngành chưa có đóng góp nhiều vào việc tạo ra các yếu tố tiên tiến nhất là trong công nghệ chế biến và cơ sở hạ tầng logistic cho gạo xuất khẩu có chất lượng cao .

4.2. Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 1989-2021

4.2.1. Các thành tựu của xuất khẩu gạo từ 1989

27 Xem thêm Văn bản chính phủ (https://vanban.chinhphu.vn) 28 Tính toán trên cơ sở số liệu thống kê của GSO (2020, 2021). 29 Xem Ito, 1988; Timmer, 2010-2017; Wailes, 2013; WRS-IRRI, 2015; và Ricepedia, 2018. 30 Cũng có những năm Việt Nam vượt lên xếp vị trí thứ 2 trên Thái Lan và Ấn Độ.

Từ năm 1989, Việt Nam là một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, chỉ sau Ấn Độ và Thái Lan30. Trong hơn 30 năm qua, trung bình mỗi năm Việt Nam xuất khẩu ra thị trường quốc tế khoảng 4,5 triệu tấn gạo, riêng trong thập niên gần đây, từ năm 2011 đến năm 2021, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu ra thị trường quốc tế từ 6 đến 6,5 triệu tấn gạo hay 20 đến 30% tổng sản lượng gạo được sản xuất ra (MARD, MOIT, GSO, VFA, 1989-2021). Trung bình, xuất khẩu gạo của Việt Nam chiếm 15% thị phần

70

toàn cầu, 20% thị trường châu Á, và 33% thị trường Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á-ASEAN31.

Tính tới năm 2021, Việt Nam đã xuất khẩu được 146,4 triệu tấn, thu về 53,8 tỷ USD theo giá hiện hành32. Lượng gạo xuất khẩu tăng theo thời gian từ 1,4 triệu tấn trong năm 1989 lên tới 7,7 triệu tấn năm 2012, và trung bình đạt 6,4 triệu tấn trong hơn thập niên từ năm 2010 đến năm 2021; giá trị thu được từ xuất khẩu gạo cũng tăng lên từ 310 triệu USD vào năm 1989 lên 3,27 tỷ USD trong năm 2021 (TCHQ, VFA và GSO, 1989- 2022). Trong thập niên 1990, gạo là một trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng hàng đầu với giá trị thu về chỉ đứng sau dầu thô (GSO, VFA, 1990-2000).

Xuất khẩu gạo đem về nguồn thu ngoại tệ quý báu cho đất nước trong những năm

đầu thực hiện chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường

trong điều kiện đất nước bị cấm vận về thương mại và tài chính cho tới năm 1995. Năm

1989, xuất khẩu gạo đã tạo ra 4,9% giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP), xấp xỉ 12% giá trị GDP ngành nông lâm thủy sản và 16 % tổng giá trị xuất khẩu của đất nước33. Cơ

cấu kinh tế thay đổi theo hướng công nghiệp hóa với tỷ trọng giá trị của ngành công

nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 23% năm 1989 lên 37% năm 2021 trong khi tỷ

trọng giá trị của ngành nông lâm thủy sản giảm mạnh từ 42% năm 1989 xuống còn 13%

năm 2021 (GSO, 2022). Tỷ lệ đóng góp của xuất khẩu gạo vào GDP và tổng giá trị xuất

khẩu hàng hóa và dịch vụ dần suy giảm theo thời gian mặc dù về số tuyệt đối vẫn tăng

lên. Riêng trong ngành nông lâm, thủy sản, đóng góp của xuất khẩu gạo vào giá trị GDP

nông lâm thủy sản và giá trị xuất khẩu nông sản cũng giảm tương đối do biến động trong

cơ cấu ngành và việc đẩy mạnh phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủy hải sản, các

nông sản khác và lâm sản (Xem thêm dữ liệu GSO, 1995-2021).

31 Tác giả tính toán trên cơ sở dữ liệu của FAO và USDA, và Tổng cục Thống kê (TCTK/GSO) từ năm 1989 đến năm 2020. Riêng trong thập niên gần đây, các con số này đã tăng lên đáng kể, với tỷ lệ tương ứng là 17 phần trăm, 22 phần trăm và 40 phần trăm. Riêng hai năm 2020 và 2021, tỷ lệ này có giảm xuống xấp xỉ 13% do Ấn Độ đẩy mạnh xuất khẩu nâng tỷ trọng xuất khẩu của Ấn Độ từ xấp xỉ 30% lên tương ứng 33 đến 41% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn cầu (USDA, Rice yearbook, 2022). 32 Tổng hợp cộng dồn trên cơ sở dữ liệu thô của Tổng Cục Thống Kê (GSO) 1989-2021. Tính theo giá cố định năm 2010 (US.BLS 2020) thì tổng giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 54,2 tỷ USD. 33 Tính cho tổng kim ngạch xuất khẩu tính gộp cả cho khu vực đồng đô la Mỹ và đồng Rubble chuyển đổi. Nếu chỉ tính theo giá trị xuất khẩu thu được từ khu vực đồng đô la Mỹ thì xuất khẩu gạo đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu là 27 phần trăm (GSO, 1989-2000).

Vai trò của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế thể hiện qua tỷ lệ đóng góp vào GDP, GDP ngành, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và giá trị xuất khẩu hàng nông sản được thể hiện ở Bảng 4.1.

71

Hiện nay, thị trường gạo Việt đã trải rộng khắp các châu lục. Gạo Việt đã được

xuất bán sang tới 178 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tất cả các châu lục (ITC, 2015 và

UN COMTRADE, 2018-2021) từ 20-25 quốc gia trong những năm 1990 (VFA, 1998-

2015). Gạo Việt Nam đã có mặt ở một số thị trường các nước phát triển cùng với những

đòi hỏi khắt khe về chất lượng, dưỡng chất, vệ sinh an toàn thực phẩm và đặc biệt về

nguồn gốc xuất xứ như Nhật Bản, các nước thuộc EU, Mỹ, Australia, Qarta, Kuwait,

Hàn Quốc và Singapore (VFA, FAO, 2019-2022). Gạo đã làm cho ngày càng nhiều quốc

gia biết đến Việt Nam và giúp tạo dựng hình ảnh tốt đẹp và uy tín của đất nước trên

trường quốc tế vì thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam góp phần giảm bớt tình trạng thiếu

đói lương thực trên thế giới như FAO đã ghi nhận và công bố trong các ấn phẩm do FAO phát hành34 (Xem thêm FAO, 1990-2022).

Bảng 4.1. Đóng góp của xuất khẩu gạo vào nền kinh tế, 1989-2021

Tỷ lệ phần trăm đóng góp của xuất khẩu gạo vào

Giai đoạn

GDP của nền kinh tế GDP ngành Nông Lâm Thủy sản Tổng giá trị xuất khẩu Giá trị xuất khẩu nông sản

1989-2000 3,1 12,2 7,8 31,4

2001-2015 2,3 11,9 3,5 26,1

2016-2021 1,1 8,0 1,1 16,8

Nguồn: Tác giả tính toán từ các dữ liệu GSO (1989-2022)

34 Theo báo cáo của UN (06/07/2022), vào năm 2021, số người bị đói trên toàn cầu đã tăng lên tới 828 triệu và 935 triệu người đối mặt với sự bất an nghiêm trọng về lương thực so với 868 million người, trung bình trong các năm 2010-2012 (Reuters, 09/10/2012).

Thực ra, xuất khẩu gạo của Việt Nam cùng trải qua những thăng trầm của thị trường gạo quốc tế. Như đã trình bày ở chương 1, việc kiên trì theo đuổi các chính sách như tự túc gạo trong nước, bảo hộ sản xuất và thương mại gạo, chính sách mặt hàng và chính sách ổn định giá gạo và ổn định thị trường trong nước tại các nước nhập khẩu ở châu Á và châu Phi đã và đang tạo ra những rào cản lớn để gạo xuất khẩu thâm nhập sâu vào thị trường các nước này. Thêm vào đó, giống như một số nước xuất khẩu gạo, chính phủ các nước nhập khẩu cũng thường đột ngột thay đổi chính sách thương mại gạo như bất ngờ tăng thuế nhập khẩu, ra lệnh dừng nhập hoặc/và thậm chí cấm nhập gạo. Để xác định được các yếu tố/nhóm yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong từng giai đoạn gắn với điều kiện lịch sử cụ thể và trên cơ sở dữ liệu đã thu thập, thời kỳ nghiên cứu được chia ra thành hai giai đoạn 1989-2000 và 2001-2021.

72

4.2.2. Xuất khẩu gạo trong giai đoạn 1989-2000

Giai đoạn 1989-2000 là giai đoạn đầu Việt Nam thực hiện chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế thị trường mở cửa có sự điều tiết của Nhà nước.

Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của gạo trong đời sống chính trị, văn hóa, xã hội và tâm lý, Nhà nước giữ vai trò độc quyền trong kinh doanh xuất khẩu gạo ra thị trường quốc tế. Hàng năm, sau khi đảm bảo cân đối cung cầu về gạo cho tiêu dùng trong nước, Nhà nước35 đặt ra hạn ngạch xuất khẩu căn cứ vào lượng gạo được ước tính là dư thừa. Hai tổng công ty lương thực quốc doanh là VINAFOOD I cho khu vực phía bắc và VINAFOOD II cho các tỉnh phía nam cùng nhà nước lựa chọn và xác định số lượng các doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu và địa bàn hoạt động cho từng doanh nghiệp căn cứ vào lượng gạo dư thừa ở từng vùng/địa phương. Điều kiện để một doanh nghiệp được cấp phép là phải chứng minh được đang hoạt động tại địa phương, tỉnh có gạo dư thừa, có đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ cho chế biến, kho hàng, bảo quản và vận chuyển gạo cho xuất khẩu, đủ năng lực tài chính và năng lực chuyên môn để dảm bảo hoạt động hiệu quả (Đào Huy Phúc và ông Tư Sơn36, 1998). Các doanh nghiệp được cấp phép hoạt động sữ được cấp hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch được xác định cho cả năm, song, được phân bổ theo tháng và giấy phép xuất khẩu được cấp cho từng chuyến hàng, từng tàu xuất cảnh (Ông Tụng37, 1998) để giữ cho cân đối cung cầu gạo trong nước luôn được đảm bảo nhất là vào thời kỳ giáp hạt.

35 Nhà nước ở đây chỉ sự phối kết hợp của các bộ ngành liên quan trong giai đoạn đó bao gồm (1) Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm (MA&FI), đến năm 2007 mở rộng thành Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (MARD), (2) Ủy Ban Kế hoạch Nhà nước (UBKHNN), đến năm 1995 mở rộng thành Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI), (3) Ủy Ban Vật giá Nhà nước (UBVGNN), đổi thành Ban Vật Giá Chính phủ năm 1992, được chuyển vào Bộ Tài chính (MOF) năm 2002, từ 2003 đến nay là Cục Quản lý Giá trong Bộ Tài chính, Bộ Tài Chính (MOF), Bộ Thương nghiệp (MOT) và Hiệp Hội Xuất Nhập khẩu Lương thực Việt Nam (1989-1999), tiền thân của Hiệp Hội Lương thực Việt Nam ---VFA, từ 1999 đến nay (VFA, 1999). 36 Ông Đào Huy Phúc là Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu gạo Việt Nam và Ông Tư Sơn, chánh văn phòng VINAFOOD II ở thời điểm 1998. 37 Ông Tụng, Vụ Chính sách, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn ---MARD, phụ trách các tỉnh phía Nam. 38 Chất lượng gạo tính theo tỷ lệ tấm: gạo 5-10% tấm là gạo chất lượng cao, 15-25% tấm là gạo chất lượng trung bình và trên 25% tấm là gạo chất lượng thấp (FAO).

Từ năm 1990-1996, hầu hết gạo xuất khẩu được thực hiện theo các hợp đồng chính phủ (G2G), ký kết giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ các nước nhập khẩu. Nội dung hợp đồng được chi tiết hóa về khối lượng gạo xuất khẩu, chất lượng gạo theo phẩm cấp gạo (tỷ lệ tấm)38, địa điểm giao hàng chủ yếu tại các cảng biển tại và lân cận Thành phố Hồ Chí Minh, giá xuất khẩu (FOB), thời gian và các điều khoản thanh toán.

73

Nhờ vậy, nhà nước quản lý chặt được đầu ra, tránh được tình trạng khan hiếm gạo ở thị trường trong nước.

Chính phủ các nước nhập khẩu gạo trong thời gian này chủ yếu là các nước có quan hệ ngoại giao thân thiết với Việt Nam như Cu Ba, Iraq và Triều Tiên, một số quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Bangladesh, Philippines, Indonesia, Malaysia, Hồng Kông, Brunei và Singapore (Singapore vừa là quốc gia nhập khẩu vừa là quốc gia đóng vai trò là nước trung gian mua gạo từ Việt Nam rồi sau đó tiếp tục xuất đi các nước khác). Ngoài các nước châu Á, một số nước châu Phi cũng nhập khẩu gạo từ Việt Nam như Ghana, Kenya, Mozambique, Tanzania và một số quốc gia từng là thuộc địa của Pháp như Congo, Bờ Biển Ngà, Senegal, Guinea, Geuinea-Bissau, Togo, Gabon. Hầu hết các đối tác thương mại từ châu Phi là các quốc gia nghèo thuộc nhóm nước thu nhập thấp và đang trong xu thế dùng gạo là lương thực chính thay thế cho lương thực chính truyền thống của họ là các loại củ và quả. Gạo nhập khẩu vào các quốc gia cũng do các công ty lương thực độc quyền của Nhà nước và nhập theo kế hoach của chính phủ.

Ở Việt Nam, sự gia tăng của sản lượng lúa với tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng dân số (GSO, các năm) khiến cho lượng gạo dư thừa tăng lên. Cho tới năm 1996, Việt Nam không thể xuất khẩu hết hạn ngạch kế hoạch qua các hợp đồng G2G hay còn được gọi là các thị trường tập trung. Bởi vậy, từ năm 1997, nhà nước tách hạn ngạch ra thành 2 bộ phận theo tỷ lệ 70/30, trong đó 70% tổng hạn ngạch được dành cho việc thực thi các hợp đồng G2G; 30% hạn ngạch còn lại là dành cho việc xuất khẩu sang các thị trường do các doanh nghiệp đầu mối tự tìm kiếm, đàm phán và ký kết hợp đồng hay còn được gọi là các thị trường phân tán (Ông Đào Huy Phúc39, 1998). Phân bổ hạn ngạch cũng được tiến hành theo 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất phân bổ 70% hạn ngạch để xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm, từ tháng 1 đến hết tháng 9; và 30% hạn ngạch còn lại dành cho giai đoạn 2 để xuất khẩu trong 3 tháng, từ tháng 10 đến tháng 12 (Ông Tư Sơn, VNAFOOD II, 1998). Giấy phép xuất khẩu vẫn được cấp theo từng tháng để đảm bảo không gây bất ổn cho thị trường và giá gạo trong nước vào mọi thời điểm.

39 Ông Đào Huy Phúc là Tổng Thư ký Hiệp hội Xuất khẩu gạo Việt Nam ở thời điểm 1998.

Một điều thú vị nữa là hạn ngạch dự kiến phân bổ trong giai đoạn thứ 2 không nhất thiết phải cố định mà có thể được thay đổi tùy theo tình hình sản xuất và lượng gạo dư thừa hiện hữu, tình hình giá cả và thị trường gạo ở trong nước cũng như thu nhập của người trồng lúa. Từ năm 1998, để các doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng kế hoạch và chuẩn bị vốn và nguồn hàng, nhà nước phân bổ tới 90% hạn ngạch cho giai đoạn 1 và ngay trong tháng 1 (Ông Tụng, 1998).

74

Bên cạnh hạn ngạch, Nhà nước còn qui định giá xuất khẩu tối thiểu và áp thuế theo khối lượng gạo xuất khẩu cho từng phẩm cấp gạo theo tỷ lệ tấm (Ông Tụng, VINAFOOD II, 1998). Thuế suất cũng được điều chỉnh khá linh hoạt theo mùa vụ và/hoặc năm để điều tiết xuất khẩu theo từng thời điểm để thúc đẩy hay kiềm chế xuất khẩu để tránh tình trạng ứ đọng hay khan hiếm gạo ở thị trường trong nước.

Hơn nữa, khi mất mùa lúa do thiên tai, nguồn cung gạo trong nước và quốc tế eo hẹp, nhà nước tăng thuế xuất khẩu, giãn tiến độ xuất khẩu, tạm dừng xuất khẩu và thậm chí cấm xuất khẩu có thời hạn bất kể giá gạo quốc tế tăng mạnh và ở mức cao. Chính vì vậy, giá gạo và thị trường gạo trong nước khá ổn định và an nình lương thực được đảm bảo ngay cả vào những năm mất mùa lúa như các năm 1994-1995, 1996 và 1998.

Trái lại, với những năm được mùa (1992, 1993, 1997), nhà nước quyết định tăng thêm số lượng các doanh nghiệp được phép xuất khẩu, bổ sung hạn ngạch xuất khẩu, cung cấp vốn với lãi suất ưu đãi hoặc hỗ trợ hoàn toàn lãi suất cho các doanh nghiệp xuất khẩu thu mua lúa thừa trong dân đưa vào kho tạm trữ chờ xuất khẩu (Đào Huy Phúc và ông Tư Sơn, 1998), tránh cho giá lúa gạo trong nước giảm sâu, ảnh hưởng tới thu nhập và đời sống nông dân. Thêm nữa, nhà nước giảm và hoặc miễn thuế xuất khẩu và thực hiện chế độ thưởng bằng tiền cho các doanh nghiệp hoàn thành và hoàn thành vượt mức hạn ngạch nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nỗ lực tìm kiếm thị trường mới để đẩy mạnh tiêu thụ gạo dư thừa trong nước ra thị trường thế giới. Ngoài ra, để bảo hộ sản xuất và thị trường trong nước, Nhà nước tìm cách hạn chế việc nhập khẩu gạo từ bên ngoài qua biên giới bằng việc áp thuế nhập khẩu cao và tăng thuế suất nhập khẩu đối với thóc và gạo nhập khẩu như được chỉ ra ở Bảng 4.2.

Bảng 4.2. Thuế xuất nhập khẩu lúa gạo và số đầu mối xuất khẩu, 1989-2000

Thuế xuất khẩu gạo (%)

Số đầu mối/ Doanh nghiệp xuất khẩu

Năm Thời hạn hiệu lực áp dụng đối với thóc và gạo Khung thuế (%)

1989 10 5% 23

Đối với gạo tối thiểu 3%, thông thường 5%, tối đa 10%; 23 1990 3 đến 10 Đối với gạo tấm 3%,

Đối với gạo nói chung tối thiểu 3%, thông thường 5%, tối đa 10%; 1991 3 đến 10 26

Đối với gạo tấm 3%,

75

Thuế xuất khẩu gạo (%)

Số đầu mối/ Doanh nghiệp xuất khẩu

1992 1 45 1% Được mùa, cung gạo nhiều, giảm thuế để kích thích xuất khẩu

1% từ tháng 01 đến tháng 08, 43 1993 1 đến 0 0% từ tháng 09 đến tháng 12

1994 0 0% đối với các đầu mối thuộc VINAFOOD II 45

1% từ tháng 01 đến tháng 09;

2% từ 16 tháng 09; và 1995 1 đến 3 54

3% từ ngày 01 tháng 10 đến 31/12 do nguồn cung khan hiếm

3% từ tháng 01 đến tháng 06 và 1996 3 đến 1 15 1% từ tháng 07 đến 31/12

0% đối với gạo 20% tấm trở lên (gạo phẩm cấp thấp)

1% cho gạo dưới 20% tấm, phẩm cấp trung bình trở lên 1997 0 đến 1 17

0% đối với gạo từ các tỉnh phía Bắc áp dụng từ 11 tháng 10

0% từ tháng 02 đến tháng 06,

1% từ giữa tháng 06 đến giữa tháng 09, và

1998 0 đến 2 33

2 % từ ngày 10 tháng 10 đến 31/12 (El-Nino, cung thế giới giảm, giá trong nước tăng, giãn tiến độ/tạm thời dừng xuất khẩu)

1999 0 87 0% từ tháng 01 đến tháng 06 và bãi bỏ hoàn toàn do nguồn cung dồi dào

2000 0 100 Bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo, tăng số doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu

Thuế nhập khẩu gạo và thóc (%/giá trị nhập khẩu)

Giai đoạn/năm Khung thuế (%) Thời hạn hiệu lực áp dụng đối với thóc và gạo

0% đối với lúa giống, 10 đến 30 1989- 1997 30% với gạo thường

1998 10 đến 30 áp dụng từ tháng 05 đến tháng 06

76

Thuế xuất khẩu gạo (%)

Số đầu mối/ Doanh nghiệp xuất khẩu

0% đối với lúa giống,

30 1998- 2000 30% với gạo và lúa khác, áp dụng từ tháng 05 đến tháng 08

2000 40 Từ năm 2000 trở đi thuế nhập khẩu thóc và gạo là 40%

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các Nghị định và Quyết định và Biểu thuế về xuất và nhập khẩu gạo từ MOT, VFA, và VINAFOOD II, từ năm 1989 đến năm 2000.

Với cơ chế điều hành xuất khẩu mang tính hành chính như vậy, Việt Nam đảm bảo duy trì được an ninh lương thựcquốc gia, phần nào cải thiện được thu nhập cho người trồng lúa, về cơ bản ổn định được thị trường và giá gạo trong nước trong khi vẫn tăng được khối lượng và giá trị gạo xuất khẩu theo thời gian.

Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng của số doanh nghiệp xuất khẩu cũng phần nào dẫn tới tình trạng tranh mua, tranh bán giữa các doanh nghiệp gây hỗn loạn ở nhiều thị trường địa phương. Các thương lái mua theo hợp đồng ký với doanh nghiệp xuất khẩu, tranh mua lúa/gạo nguyên liệu trên các thị trường địa phương để kịp tạo nguồn hàng cho các doanh nghiệp đước phép xuất khẩu. Có được nguồn hàng các doanh nghiệp xuất khẩu tranh bán trên thị trường quốc tế bằng việc chào bán với giá xuất khẩu thấp hơn giá tối thiểu nhà nước qui định để nhanh ký được các hợp đồng xuất khẩu, chuyển gạo sang khách hàng nước ngoài, về đích sớm làm căn cứ xin hạn ngạch bổ sung (Ông Tụng40, ông Tư Sơn, 1998). Tranh mua là gây ra bất ổn về giá gạo và thị trường trong nước trong khi tranh bán gây thua thiệt cho đất nước, nhất là người nông dân. Bởi vì xuất khẩu với giá thấp, doanh nghiệp sẽ quay trở lại ép giá thu mua gạo nguyên liệu từ thương lái, và đến lượt mình, thương lái ép giá thu mua lúa từ nông dân. Hậu quả là người nông dân bị thiệt nhiều nhất, thậm chí nhiều vụ bị lỗ do giá bán thóc không đủ bù đắp chi phí sản xuất, bất kể qui định của Nhà nước là giá thóc phải đủ cao để nông dân được lãi trên chi phí ít nhất là 30%.

40 Ông Tụng, đại diện Vụ chính sách, phụ trách phía nam, Bộ NN-PTNT

Các doanh nghiệp có tiềm lực mạnh về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu có thể dễ dàng về đích vượt thời hạn. Trong khi đó, có những doanh nghiệp yếu về năng lực tài chính và chuyên môn không thể chuẩn bị được đủ nguồn hàng và/hoặc không ký kết được hợp đồng xuất khẩu nên không sử dụng hết hạn ngạch được giao trong thời hạn đã định. Kết quả là có doanh nghiệp có thể xuất

77

khẩu nhiều hơn nhưng thiếu hạn ngạch và có doanh nghiệp thừa hạn ngạch không thể thực hiện. Để cùng được cấp tiếp hạn ngạch, cá doanh nghiệp này đã tự phát thương lượng và thỏa thuận mua bán hạn ngạch với nhau. Tình trang mua bán hạn ngạch bất hợp pháp này trở nên khá phổ biến trong suốt các năm từ 1992 đến 1995 (Ông Tư Sơn, 1998; Đào Huy Phúc, 1998; và VFA, 2000), nhất là vào thời điểm khi nguồn cung gạo thế giới bị thiếu hụt so với cầu do ảnh hưởng của thiên tai đẩy giá thế giới lên cao.

VFA, trung tâm điều hành xuất khẩu gạo đã quen với cách làm việc bằng các mệnh lệnh mang tính hành chính, cho rằng để đẩy lùi tình trạng tranh mua tranh bán và mua bán hạn ngạch, tái tạo ổn định thị trường và giá cả trong nước cũng như đảm bảo xuất khẩu có hiệu quả cần thiết phải loại bớt các doanh nghiệp không đủ điều kiện và năng lực thực hiện hoàn thành hạn ngạch được giao. Số lượng doanh nghiệp được phép tham gia xuất khẩu vì thế bị cắt giảm đáng kể, từ 54 doanh nghiệp năm 1995 xuống còn 15 doanh nghiệp vào năm 1996 (xem Bảng 4.2).

Lượng gạo xuất khẩu và giá trị thu về từ xuất khẩu gạo sau đó đã tăng nhanh vào

năm 1996 như được minh họa ở Hình 4.3.

Hình 4.3. Lượng và giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam, 1989-2000

Nguồn: GSO, VFA (1989-2000)

Hình 4.3 cho thấy có sự gia tăng đột biến của lượng và giá trị gạo xuất khẩu ở năm 1996. Theo VFA thì đó là kết quả việc cải tiến công tác quản lý và điều hành xuất khẩu, ít đầu mối xuất khẩu đã giúp cho công tác quản lý, thanh kiểm tra và đôn đốc việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu dễ dàng hơn.

78

Thực tế đây là kết quả tổng hợp ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Một trong những

yếu tố quan trọng nhất làm tăng xuất khẩu gạo trong năm 1996 và những năm sau đó là do thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được mở rộng, một phần do Mỹ bỏ cấm vận thương mại41 đối với Việt Nam nên nhiều nước thiếu gạo nay có thể mở quan hệ thương mại với Việt Nam và ký hợp đồng nhập khẩu gạo từ Việt Nam và một phần do Việt Nam gia nhập ASEAN (1995) và tham gia vào khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1996. Nhờ AFTA, Việt Nam từ năm 1996 đã được hưởng những ưu đãi lớn về thuế quan khi xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN. Lợi thế về khoảng cách và thuế suất, gạo Việt cũng trở nên hấp dẫn hơn tại các nước nghèo thiếu gạo ở ASEAN và nhất là các quốc giá có địa hình biển đảo như Indonesia, Philippines, Malaysia là những nước ngành sản xuất lúa gạo dễ bị tổn thương khi đối mặt với các hiện tượng thời tiết bất lợi. Trong ASEAN, có tới 5 nước là đối tác thương mại gạo quan trọng của Việt Nam như Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore và Brunei, các nước này nhập khẩu phần lớn gạo xuất khẩu từ Việt Nam (VINAFOOD II, 1998). Khối lượng và giá trị xuất khẩu nhờ vậy đã tăng lên liên tục cho tới năm 1999. Năm 2000, sản lượng lúa giảm sút do ảnh hưởng của thiên tai42 nên nhà nước chủ động cắt giảm hạn ngạch xuất khẩu để đảm bảo cân đối cung cầu trên các thị trường trong nước.

Kết quả là trong giai đoạn 1989-2000 Việt Nam đã xuất khẩu được tổng cộng 30 triệu tấn gạo và thu về 6,9 tỷ USD43. Xuất khẩu đã giúp giải quyết được lượng gạo dư thừa, ổn định giá gạo trong nước, tăng thu ngân sách, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động gắn với hạt thóc từ khi thu hoạch tới khi giao hàng cho khách quốc tế, tăng thu nhập cho người trồng lúa và góp phần trang trải một phần chi phí nhập khẩu các đầu vào cho sản xuất công nghiệp và ngành lúa gạo.

41 Mặc dù lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam được Mỹ (Bill Clinton tuyên bố) dỡ bỏ từ ngày 03 tháng 02 năm 1994 nhưng việc tìm kiếm thị trường và ký kết được các hợp đồng xuất khẩu có độ trễ nhất định. 42 Hậu quả quả lũ lụt nặng nề ở các tỉnh phía nam, nhất là vùng đồng bằng Sông Cửu Long và hạn hán khốc liệt ở các tỉnh phía bắc. 43 Tính tổng hợp từ dữ liệu thống kê của VFA và GSO (1989-2000).

Tuy nhiên, hiệu quả xuất khẩu gạo còn rất thấp, thể hiện cụ thể qua giá xuất khẩu. Trung bình, giá xuất khẩu trung bình của Việt Nam chỉ bằng xấp xỉ 60% giá gạo trung bình của các nhà xuất khẩu của thế giới còn lại (ROW) trong đó có Thái Lan và Mỹ và Pakistan như được chỉ ra ở Hình 4.4.

79

Hình 4.4. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và của ROW, 1989-2000

Nguồn: Tác giả thu thập và tính toán từ dữ liệu của GSO và FAO (1989-2001)

Trong một số trường hợp, giá tương đối của gạo Việt được cải thiện đáng kể như

ở năm 1995 và 1998 đó là do sự khan hiếm của cung gạo trên thị trường gạo quốc tế,

hậu quả của thiên tai gây ra bởi hiện tượng thời tiết El-Nino xảy ra từ năm 1994-1995 và 1997-1998 (NOAA)44.

Lý do chính cho giá xuất khẩu của gạo Việt Nam thấp trong giai đoạn này là do

chất lượng gạo thấp, một hậu quả của định hướng sản xuất -gắn với chủ nghĩa thành

tích- thiên về sản lượng trong khi ít quan tâm đến chất lượng gạo. Chât lượng thấp thể

hiện sự không thuần nhất và không đồng đều về độ ẩm do có nhiều loại gạo được trà

trộn từ nhiều loại giống lúa khác nhau. Đó là do lúa được sản xuất bởi hàng triệu hộ

nông dân nhỏ lẻ, tự phát gieo trồng nhiều giống lúa khác nhau trên những diện tích nhỏ,

manh mún (VFA, 1998; IFPRI, 1998-2000). Mặt khác, các doanh nghiệp được cấp phép

xuất khẩu xuất thường không phải là người thu mua gạo trực tiếp từ người nông dân mà

chủ yếu mua qua thương lái. Các thương lái khi thu gom lúa không để thóc riêng theo

các giống lúa khác nhau mà trộn cả các giống vào nhau (Ông Tụng, 1998). Hơn nữa, cơ

sở vật chất như kho chứa, thiết bị phơi sấy, cơ sở chế biến, dây chuyền máy móc thiết

bị phục vụ chế biến, đánh bóng, nghèo nàn, lạc hậu, không đồng bộ, chậm được đầu tư

44 NOAA (National Oceanic and Atmospheric Administration United States Department of Commerce) https://www.noaa.gov/

cải tiến, các thiết bị bảo quản, lưu kho không đảm bảo cũng làm chất lượng gạo bị giảm

80

sút. Phần lớn gạo thành phẩm được tạo ra có tỷ lệ tấm cao trên 15% trở lên. Hậu quả là

gạo xuất khẩu có phẩm cấp trung bình và phẩm cấp thấp chiếm ưu thế. Tình trạng này

có xu hướng trở nên tồi tệ hơn kể từ năm 1995, khi các hợp đồng G2G được ký kết với

gạo giá thấp tăng lên (Đào Huy Phúc, 1998). Cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu theo

phẩm cấp (tỷ lệ % tấm) được phản ánh ở Hình 4.5.

Một lý do nữa khiến gạo Việt có giá xuất khẩu thấp hơn đáng kể so với các nước

khác là vì hầu hết gạo xuất khẩu của Việt Nam thuộc chủng Indica, một loại gạo trắng

thường hạt dài có giá rất thấp, trung bình chỉ bằng 40-52% giá các loại gạo thơm (FAO,

2012; RMM, 2000-2018). Trên thế giới, chủng gạo Indica chiếm 82 đến 85% tổng lượng

gạo xuất khẩu toàn cầu, phần còn lại từ 15 đến 18% là các loại gạo thơm, gạo nếp và

gạo đặc sản (FAO, 1985-2018). Thêm vào đó là hầu hết gạo xuất sang các thị trường

phân tán được xuất qua trung gian (VINAFOOD II, 1998) và 100% gạo xuất khẩu không

có thương hiệu, không bao bì nhãn mác riêng mà chỉ được xuất ở dạng gạo rời, gạo xá

Phần trăm

100

90

80

Gạo cấp trung bình và thấp, trên 15% tấm

70

60

50

40

30

Gạo cao cấp, 5-10% tấm

20

10

0

198919901991199219931994199519961997199819992000

hoặc đóng bao lớn (VFA, 1998).

Hình 4.5. Cơ cấu gạo xuất khẩu theo phẩm cấp của Việt Nam, 1989-2000

Nguồn các dữ liệu thô: GSO, VFA (1989-2000)

Trong khi đó, gạo của các nước xuất khẩu khác như Thái Lan, Mỹ và một số nhà xuất khẩu khác trên thế giới là gạo thuần chủng và có chất lượng cao. Lúa của họ được sản xuất trên quy mô lớn và tuân theo các qui trình canh tác chuẩn như GAP quốc gia và

81

GlobalGap đảm bảo đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của các nhà nhập khẩu. Các công đoạn như phơi sấy, chế biến, bao bì và đóng gói, gắn nhãn được thực hiện trên dây truyền hiện đại, bao bì, nhãn mác cung cấp đủ thông tin về xuất xứ, thành phần dinh dưỡng và tính lý hóa của gạo, thời hạn sử dụng, đáp ứng được các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm toàn cầu và các thị trường nhập khẩu thuộc phân khúc thu nhập cao. Đặc biệt là gạo xuất khẩu của các nước đã có thương hiệu nổi tiếng và có uy tín trên các thị trường và được người tiêu dùng thế giới ưa thích45.

Tóm lại, ở giai đoạn 1989-2000 sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam có các đặc điểm là (i) Sản xuất chạy theo thành tích về sản lượng trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất kỹ thật, công nghệ và cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến sau thu hoạch; (ii) Gạo xuất khẩu không thuần nhất, lai tạp từ nhiều giống lúa với chất lượng thấp, (iii) Hoạt động xuất khẩu đơn thuần chỉ là bán gạo dư thừa ra ngoài biên giới quốc gia, một nền thương mại bị động, có gì bán nấy phụ thuộc vào sản xuất trong nước; (iv) cơ chế điều hành xuất khẩu qua VFA mang nặng tính xin-cho, hành chính, áp đặt, quan liêu, và cứng nhắc,; (v) Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu gạo là doanh nghiệp quốc doanh có tư tưởng trông chờ, ỉ nại, chỉ hoạt động theo kế hoạch hạn ngạch được cấp qua các hợp đồng G2G; (vi) Nhà nước, ngành lúa gạo, các doanh nghiệp xuất khẩu chưa quan tâm đến việc tìm hiểu, điều tra và nghiên cứu chính sách lúa gạo và nhu cầu các thị trường của các nước đối tác.

Từ các phân tích trên, có thể khái quát sơ lược về các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 1989-2000 là: (i) nhóm yếu tố về chính sách lương thực/lúa gạo của Việt Nam và của các nước nhập khẩu gạo bao gồm chính sách sản xuất, chính sách thương mại trong nước và quốc tế; (ii) sản lượng gạo của Việt Nam nhất là lượng gạo dư thừa được hạn ngạch hóa cho xuất khẩu; (iii) chất lượng gạo xuất khẩu; (iv) quan hệ ngoại giao với nước nhập khẩu; (v) mức sống hay thu nhập bình quân đầu người ở các nước nhập khẩu; (vi) giá xuất khẩu của gạo từ Việt Nam; (vii) Hiệp định thương mại tự do khu vực ASEAN (AFTA).

4.3. Xuất khẩu gạo của Việt Nam, giai đoạn 2001-2021

45 Gạo Thái 5% tấm, Hom Mani Thái, Jasmine của Ấn Độ, Pakistan; trong đó giá gạo Thái 5% tấm được sử dụng là giá gạo chuẩn của thế giới (FAO, các năm)..

Đây là giai đoạn Việt Nam có chuyển biến lớn về tư duy kinh tế thị trường và hội nhập thương mại quốc tế. Ở Việt Nam, sản lượng gạo trong nước tăng và lượng gạo dư thừa dành cho xuất khẩu cũng tăng liên tục. Gạo đã ngày càng trở thành một mặt hàng kinh tế quan trọng, một mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Ngành lúa gạo đã có nhiều thành công trong việc đa dạng hóa giống lúa với chất lượng cao; cải tiến

82

qui trình sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất chế biến và cơ sở hạ tầng cho logistics phục vụ gạo xuất khẩu. Nhà nước và các bộ ngành liên quan hay liên kết “Bốn nhà” đã có những hoạt động phối kết hợp giúp giải quyết những khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo được diễn ra theo tinh thần hội nhập quốc tế về thương mại và tự do hóa thương mại. VFA đã có những cải tiến nhất định trong việc điều hành và tăng tính minh bạch trong việc phân bổ hạn ngạch xuất khẩu hàng năm góp phần giúp các doanh nghiệp tăng tính chủ động trong việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng đã năng động và linh hoạt hơn trong việc tìm kiếm thị trường, bước đầu tiến hành sản xuất và cung ứng gạo theo nhu cầu thị trường và đưa gạo sang các thị trường mới thuộc phân khúc thị trường cao cấp nhất là thị trường các nước thuộc các FTA thế hệ mới.

Tuy nhiên, xuất khẩu vẫn phải đối mặt với những khó khăn khách quan tồn tại cố hữu đó là việc theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước và bảo hộ thương mại từ các nước nhập khẩu. Cung gạo thế giới tăng nhanh hơn tương đối so với cầu khiến cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nước xuất khẩu. Trong khi đó, gạo Việt về cơ bản trong thời kỳ này có chất lượng thấp, gạo xuất có giá rẻ và nghèo về chủng loại, gạo không có thương hiệu, sức cạnh tranh thấp ngay ở cả tại phân khúc thị trường cấp thấp. Đó là do gạo là mặt hàng thiết yếu, cầu về gạo ít co giãn theo giá và thu nhập.

Mặc dù gần đây, Việt Nam đã chuyển hướng sang sản xuất gạo chất lượng cao cho xuất khẩu, năng lực cạnh tranh của gạo Việt trên các thị trường thuộc phân khúc cao cấp còn thấp xa so với những nhà xuất khẩu lâu năm tại các thị trường này, bất kể Việt Nam có lợi thế hơn khi các quốc gia nhập khẩu là thành viên trong cùng FTA với Việt Nam như EVFTA.

Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng với nỗ lực của ngành lúa gạo cùng với sự hỗ trợ của nhà nước và bộ ngành liên quan, xuất khẩu gạo đã có những thành tựu đáng ghi nhận trong hơn hai thập niên từ 2001-2021. Xuất khẩu gạo của Việt Nam đã tăng nhanh cả về lượng và giá trị như được chỉ ra Hình 4.6.

83

Triệu USD

Triệu tấn

4000

3500

3000

2500

2000

1500

1000

500

0

8.5 8 7.5 7 6.5 6 5.5 5 4.5 4 3.5 3 2.5 2 1.5 1 0.5 0

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

0 2 0 2

1 2 0 2

Lượng gạo xuất khẩu (triệu tấn)

Giá trị gạo xuất khẩu (triệu USD)

Hình 4.6. Diễn biến xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ 2001-2021

Nguồn: GSO, VFA (2001-2022)

Hình 4.6 cho thấy xuất khẩu gạo đã tăng mạnh cả về khối lượng và giá trị với tốc độ tăng trung bình năm là 2,9% về lượng và 9,4% về giá trị với tốc độ tăng dao động giữa các năm. Trong thập niên đầu, 2001-2010, lượng xuất khẩu tăng trung bình là 7,5%/năm và giá trị tăng là 20,5%/năm hàm ý giá xuất khẩu đã tăng lên đáng kể. Ở giai đoạn 2011-2021, lượng và giá trị xuất khẩu đều tăng, song dao động mạnh giữa các năm do ảnh hưởng của nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngoài.

4.3.1. Biến động về lượng gạo xuất khẩu

Lượng gạo xuất khẩu tăng trong giai đoạn 2001-2010 do tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Về yếu tố bên trong, Việt Nam đã tận dụng và phát huy được lợi thế so sánh về sản xuất gạo và có những thay đổi trong chính sách sản xuất và thương mại hướng mạnh về xuất khẩu do sản lượng gạo dư thừa tăng nhanh. Nhà nước đã gỡ bỏ hoàn toàn thuế xuất khẩu -chỉ áp dụng khi khan hiếm về cung gạo trong nước có nguy cơ gây mất an ninh lương thực quốc gia, và cho phép ngày càng nhiều các doanh nghiệp tư nhân kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào hoạt động xuất khẩu gạo. Về các yếu tố bên ngoài, trước hết phải kể đến là sự gia tăng đáng kể trong nhu cầu tiêu dùng gạo xuất phát sự thay thế lương thực truyền thống từ củ quả sang gạo là lương thực chính ở các nước châu Phi; tiếp đến các nước nhập khẩu gia tăng nhập khẩu gạo để bù

84

lại nguồn gạo dự trữ quốc gia đã bị cạn kiệt trong các năm khi thời tiết bất lợi gây mất mùa ở nhiều nước nhập khẩu ở châu Á, nhất là những năm hậu khủng hoảng gạo thế giới năm 2008.

Một yếu tố nữa làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam là trong thời kỳ này Việt Nam đã tham gia ký kết và thực thi hàng loạt FTA đa phương và song phương trong đó gồm nhiều quốc gia có nhập khẩu gạo từ Việt Nam như các FTA: ASEAN-Trung Quốc (2003); ASEAN-Hàn Quốc (2007); ASEAN- Nhật Bản (2008); Việt Nam-Nhật Bản (2009); ASEAN-Australia, New Zealand (2010). Việt Nam tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, song xuất khẩu gạo không tăng-rất có thể là do WTO không có qui chế điều tiết đối với thương mại gạo. Nhờ các FTA mà thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng từ khoảng 20 thị trường ở những năm 1990 lên tới con số 100 vào cuối thập niên đầu của thế kỷ 21 (VFA, 2015).

Xuất khẩu gạo ở giai đoạn sau, 2011-2021, chứng kiến sự gia tăng mạnh về cả về lượng và giá trị, song dao động mạnh qua các năm. Khối lượng gạo xuất khẩu tăng nhanh trong năm 2011 với tốc độ tăng là 5,6% so với 2010 và tiếp tục tăng tới 8,3% vào năm 2012 là giai đoạn Việt Nam có chỉ số lợi thế cạnh tranh hiện hữu (RCA –Revealed Competitive Advandtage) cao. Theo Vũ Minh Sang và Võ Khắc Huy (2017), trong giai đoạn 2009-2012 Việt Nam có RCA cao nhất trong 5 nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới, trên cả Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan và Mỹ. Việt Nam đã tận dụng được lợi thế này bằng việc xuất đi được nhiều gạo giá rẻ.

Sau năm 2012, lượng gạo xuất khẩu giảm mạnh và giảm liên tục cho đến năm 2016 đã chạm đáy, quay trở về mức xuất khẩu của gần một thập niên trước tương đương lượng xuất của các năm 2007-2008. Đó là do các nước sản xuất và nhập khẩu gạo thực sự theo đuổi nghiêm ngặt chính sách tự túc gạo trong nước sau cú sốc cung bất lợi và ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng gạo. Các nước nhập khẩu đã trải qua thời kỳ hết sức khó khăn vì không thể tìm kiếm được nguồn cung và bị ám ảnh bởi hậu quả bất ổn về chính trị và xã hội khi bị phụ thuộc vào thị trường gạo quốc tế, một thị trường mỏng, méo mó và không đáng tin cậy. Trong giai đoạn khủng hoảng, nhiều nước xuất khẩu ban hành và thực thi các lệnh hạn chế và cấm xuất khẩu gạo dư thừa, bất kể giá thế giới tăng cao đột biến. Họ đưa vào kho dự trữ để đảm bảo an ninh lương thục quốc gia và ổn định giá gạo và thị trường gạo trong nước thay vì xuất khẩu lấy giá cao.

Trước khủng hoảng, giá gạo trong nước của Việt Nam đột ngột tăng mạnh do các doanh nghiệp tăng cường mua để xuất khẩu khi giá thế giới tăng. Đối mặt với nguy cơ giá gạo tiếp tục tăng tốc và lạm phát cao đang trên đà tăng, cùng với 13 nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Campuchia, Myanmar, Bolivia,..., (Bradsher and Martin,

85

2008; Childs, 2009), vào đầu năm 2008, chính phủ Việt Nam đã ban lệnh cấm xuất khẩu gạo và áp thuế suất cao lên gạo xuất khẩu như là một hình thức cấm xuất khẩu để ổn định giá gạo trong nước và kiềm chế lạm phát.

Trong khi đó, ở nhiều nước nhập khẩu tình trạng thiếu gạo trở nên trầm trọng khiến giá gạo trong nước tăng vọt. Để bảo vệ người tiêu dùng, ổn định thị trường và giá gạo trong nước họ cũng đóng cửa biên giới, cấm nhập khẩu gạo để cách ly với giá thế giới đang tăng phi mã. Đẩy mạnh và bảo hộ sản xuất trong nước là lựa chọn an toàn cho ổn định chính trị và xã hội trong các nước nhập khẩu.

Giai đoạn 2013-2016 là giai đoạn lượng gạo xuất khẩu giảm liên tục trong khi cung về gạo liên tục tăng cho thấy rằng sản xuất và xuất khẩu gạo giá rẻ không còn hiệu quả do không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của nước nhập khẩu. Định hướng tập trung vào sản xuất gạo giá rẻ đã không còn phù hợp vì gây ra thừa cung và lãng phí nguồn lực. Vũ Minh Sang và Võ Khắc Huy (2017) chỉ ra rằng, RCA của Việt Nam trong giai đoạn 2013-2015 đã trở nên thấp hơn cả RCA của Thái Land và Ấn Độ, do đó không thể cạnh tranh với Ấn Độ và Thái Lan về giá trên các thị trường. Đây là lý do vì sao hàng loạt nước nhập khẩu truyền thống của Việt Nam ở châu Á và châu Phi đã quay lưng lại với Việt Nam và chuyển sang nhập khẩu gạo của Ấn Độ từ năm 2014 (FAO, 2016- 2017). Hậu quả là khối lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam bị sụt giảm tới 26% trong năm 2016 so với năm 2015, một mức giảm sâu chưa từng thấy trước đó (GSO, VFA, 2017). Các nước Châu Á là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, hấp thụ trung bình khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, đã giảm mạnh lượng gạo nhập khẩu trong năm 2016, trong đó, Trung Quốc giảm 18% hay trên 370 nghìn tấn, Philippines giảm 59% hay 650 nghìn tấn, Malaysia giảm 22%, Singapore giảm 25%, Đông Timor giảm 18%, Hàn Quốc giảm 16%, Nhật Bản và Hồng Kông cũng giảm đáng kể lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam. Trước đó, Indonesia tuyên bố sẽ tự túc gạo vào năm 2019 và cơ bản sẽ dừng nhập, đã cắt giảm lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam tới gần 1 triệu tấn hay 76% so với năm 2016 và tiếp tục cắt giảm nhập trong năm 2019 là 80% hay 1,81 triệu tấn (VFA 2017, 2018, 2019, 2020). Dao động bất thường về khối lượng gạo nhập khẩu của các nước nhập khẩu chủ chốt được thể hiện ở Hình 4.7.

Nghìn tấn

3000

2500

2000

1500

1000

500

0

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

0 2 0 2

1 2 0 2

Philippines

Indonesia

Malaysia

Trung Quốc

86

Hình 4.7. Xuất khẩu gạo của Việt Nam sang một số nước nhập khẩu chủ chốt

Nguồn: Tính từ dữ liệu của GSO và VFA (1989-2022)

Hậu quả là lượng gạo dư thừa và tồn kho của Việt Nam tăng mạnh từ năm 2016. Cung về thóc vượt xa cầu khiến thóc tồn đọng trong dân tăng trong khi dân không có thói quen và phương tiện/kho chứa. Giá thóc rớt mạnh. Thu nhập của nông dân trồng lúa vốn đã thấp lại càng bị sa sút, thậm chí không bù đắp được chi phí sản xuất. Để giúp giải quyết tình trạng ứ đọng thóc gạo trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam buộc phải “bán đổ, bán tháo” gạo ra thị trường quốc tế (Võ Tòng Xuân, 2016, 2017).

Trong khi đó, Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu số 1 của Việt Nam từ năm 2012, liên tục thay đổi chính sách nhập khẩu đối với gạo Việt Nam. Từ năm 2017, 2018, nước này thực thi chính sách thương mại bảo hộ như áp dụng kết hợp các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để thắt chặt nhập khẩu gạo từ Việt Nam. Họ bán hạn ngạch và/hoặc áp thuế cao lên gạo nhập từ Việt Nam. Tỷ suất thuế nhập khẩu gạo nếp tăng lên 65% từ tháng 8 năm 2017 và tăng thuế đối với gạo trắng hạt dài từ 5% lên 50% trong năm 2018. Thêm vào đó, Trung Quốc còn áp dụng các biện pháp phi thuế quan khác như các tiêu chí về chất lượng, kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm mà trước đó không được đề cập. Hơn nữa, Trung Quốc còn thẩm định và qui định số lượng doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo sang Trung Quốc.

Tuy nhiên, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 làm “gãy” chuỗi cung ứng toàn cầu nên Trung Quốc nhờ có lợi thế về khoảng cách đã tăng nhập trở lại và hiện tại và trở

87

thành nhà nhập khẩu gạo lớn thứ 2 của Việt Nam sau Philippines. Cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam phân theo một số thị trường chủ chốt được phản ánh ở Hình 4.8.

%

45

40.6

38.5

37.3

40

35.2

35

34.8

34.7

33.5

35

28.8

30

26.4

22.8

21.8

25

18.9

20

16.6

16.6

15

12.7

12.6

14.7 12.3

15

11.1

9.8

8.2

7.5

8.5 7

10

5.6

4.7

2.5

5

1.5

0.6

0.3

0

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Trung Quốc

Philippines

Indonesia

Malaysia

Hình 4.8. Cơ cấu gạo xuất khẩu của Việt Nam cho 4 nước nhập khẩu chủ chốt

Nguồn: VFA, MOIT, TCHQ (các năm, 2011-2022).

Hình 4.7 và 4.8 trên đây cho thấy sự thay đổi thất thường về qui mô nhập khẩu của mỗi nước từ năm này sang năm khác một phần do thay đổi trong chính sách thương mại gạo và một phần do sự biến động mạnh mẽ của sản lượng và dự trữ trong các nước nhập khẩu. Điều này cũng thể hiện tính bất ổn và không đáng tin cậy của thị trường gạo quốc tế ngay cả đối với các nhà xuất khẩu gạo.

4.3.2. Diễn biến giá gạo xuất khẩu

Xuất khẩu gạo đã dần phục hồi tăng trở lại một phần do Philippines và một số quốc gia khác tăng nhập trở lại, một phần khác do hiệu ứng tích cực của những thay đổi trong định hướng sản xuất của Việt Nam chuyển chú trọng về lượng sang chú trọng về chất, đa dạng hóa sản phẩm gạo cho phù hợp với nhu cầu thị trường quốc tế; và một phần do thực hiện chiến lược đa dạng hóa thị trường theo hướng tăng cường thâm nhập vào các thị trường phân khúc cao, tiêu dùng ổn định, nhất là thực thi các FTA đã ký kết như VN-EAEU FTA (2016), CPTPP (2019), AHKFTA (2019), EVFTA (2020)và UKVFTA (2021). Mặc dù vậy, sản lượng gạo xuất khẩu vẫn chưa phục hồi về mức xuất khẩu hàng năm của giai đoạn 2011-2015.

88

Nhìn chung giá gạo xuất khẩu của Việt Nam biến động theo thời gian tuy có xu

hướng tăng nhưng không liên tục. Điều này được thể hiện ở Hình 4.9.

9 6 5

3 0 5

9 9 4

4 9 4

3 9 4

7 4 4

2 4 4

1 4 4

0 4 4

5 3 4

3 3 4

1 3 4

8 0 4

7 0 4

5 9 2

5 5 2

N Ấ T / D S U

6 4 2

2 1 2

7 8 1

7 7 1

4 5 1

2 0 0 12 0 0 22 0 0 32 0 0 42 0 0 52 0 0 62 0 0 72 0 0 82 0 0 92 0 1 02 0 1 12 0 1 22 0 1 32 0 1 42 0 1 52 0 1 62 0 1 72 0 1 82 0 1 92 0 2 02 0 2 1

Hình 4.9. Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam, giai đoạn 2001-2021

Nguồn: GSO (2001-2021)

46 Tổng hợp từ dữ liệu của VFA, Tổng cục Hải Quan (TCHQ) và GSO từ 2001 đến 2016.

Hình 4.9 cho thấy rằng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam nhìn chung đã được cải thiện đáng kể qua thời gian, kể từ năm 2001. Trong giai đoạn đầu từ 2001-2010 đến 2011giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục với sự gia tăng đột biến vào năm 2008 khi thị trường gạo và giá gạo thế giới rơi vào khủng hoảng. Giá gạo Việt tăng theo xu thế biến động của giá thế giới. Khi thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng gạo và giá gạo, giá gạo Việt Nam cũng tăng vọt trong năm 2008. Tuy nhiên, từ năm 2012 đến 2015, giá gạo của Việt Nam có xu hướng giảm, và giảm sâu vào năm 2015 chủ yếu do chất lượng gạo Việt thấp và cơ cấu chủng loại gạo xuất khẩu chưa được cải thiện. Giá gạo thấp là do: (i) Gạo xuất khẩu của Việt Nam thuộc chủng loại gạo có giá thấp, đó là gạo trắng thường hạt dài. Loại gạo này chiếm gần trên 80% tổng lượng gạo xuất khẩu46 và trung bình giá của loại gạo này chỉ bằng đạt 40 đến 53% giá gạo hạt tròn và gạo thơm (FAO, 2012; Giraud, 2013); (ii) sản xuất không đảm bảo tạo ra gạo chất lượng cao khi không có một qui trình hợp lý từ khâu chọn giống, sản xuất, thu hoạch, bảo quản sau

89

thu hoạch và chế biến. Ở Việt Nam, sản xuất lúa được tiến hành bởi nhiều hộ nông dân nhỏ lẻ, thiếu liên kết với diện tích đất nhỏ và manh mún47- diện tích trồng lúa trung bình của một nông hộ chỉ đạt 0,25 - 0,75 ha (Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, 2017, 2021). Nông dân vẫn sản xuất lúa một cách tự phát, gieo trồng hàng trăm giống lúa khác nhau theo sở thích và thói quen ở ngay trong một địa phương (Lê Văn Bảnh, 2008); (iii) Thu gom lúa không tách theo nguồn gốc xuất xứ. Thương lái thu mua và pha trộn thóc từ nhiều nguồn lại với nhau (Võ Tòng Xuân 2010). Bởi vậy, gạo Việt không thuần nhất về giống, màu sắc, kích thước và độ ẩm nên khó hấp dẫn các nhà nhập khẩu; (iv) khâu dự trữ và bảo quản thóc sau thu hoạch làm chưa phù hợp, thiếu kho dự trữ khiến chất lượng thóc và gạo giảm sút trong thời gian lưu kho; (v) Công nghệ chế gạo chưa đảm bảo cho ra tỷ lệ gạo nguyên cao. Ở Việt Nam, tỷ lệ gạo nguyên hạt sau xay xát do đó chỉ đạt 30-40% trong khi tỷ lệ này ở các nước tiên tiến đạt trên 50% (Lê Văn Bảnh, 2008). Kết quả là gạo chất lượng thấp vẫn chiếm tới 55%-65% trong tổng lượng gạo xuất khẩu trong thời gian 2001 đến 2015 (Ngô Thị Mến, 2022a).

Mặc dù giá gạo Việt tăng lên theo thời gian khi chất lượng gạo được cải thiện, cơ cấu giống đa dạng và có chất lượng cao hơn. Tuy nhiên, so với giá xuất khẩu của các nước khác như Thái Lan và Pakistan, Mỹ hay cả thế giới còn lại (ROW) thì giá xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn đáng kể, trung bình chỉ bằng 60% giá xuất khẩu của ROW trong những năm 2001-2015. Nhận xét về giá xuất khẩu gạo của Việt Nam, các chuyên gia về lúa gạo như Võ Tòng Xuân (2015, 2016, 2017) và Võ Trí Thọ (2010) cũng đã chỉ ra rằng giá gạo của Việt Nam là thấp nhất thế giới. Điều này cũng được Ngân hàng Thế giới (2016) thừa nhận khi cho rằng “Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nông sản có thứ hạng cao-ở mức giá rẻ”, trong đó gạo là một trong một số ít nông sản xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam.

47 Xem Võ Tòng Xuân (2010), Lương Thanh Hải (2001-2022), Nguyễn Xuân Cường, Lê Minh Hoan (2022)…

Khoảng cách về giá này chỉ được thu hẹp kể từ năm 2015, khi Ấn Độ xuất khẩu một khối lượng lớn gạo trắng –Indica, có chất lượng trung bình và thấp ra thị trường quốc tế làm giá xuất khẩu chung của ROW sụt giảm. Điều này cũng lặp lại ở năm 2021, khi Ấn Độ đột ngột tăng cung gạo không phải Basmati vào thị trường thế giới. Biến động giá xuất khẩu nói chung và giá so sánh giữa Việt Nam và ROW được biểu diễn lại ở Hình 4.10.

90

m ă r t n ầ h P

n ấ t / D S U

100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

1000 900 800 700 600 500 400 300 200 100 0

2001 2003 2005 2007 2009 2011 2013 2015 2017 2019 2021

Giá xuất trung bình của thế giới còn lại-ROW

Giá xuất trung bình của Việt Nam

Giá xuất Việt Nam là phần trăm giá xuất của ROW

Hình 4.10. Giá gạo xuất khẩu gạo của Việt Nam và thế giới còn lại, 2001-2021

Nguồn: tổng hợp và tính toán theo dữ liệu của GSO và ITC (2022)

Tuy nhiên, nếu chỉ xem xét giá xuất khẩu gạo trung bình thì chưa thấy được nguyên nhân của sự khác biệt về giá, cụ thể là các yếu tố ảnh hưởng tới giá trung bình này. Bởi vì giá không chỉ phụ thuộc vào chất lượng gạo theo tỷ lệ tấm mà còn phụ thuộc vào cơ cấu của gạo xuất khẩu, thương hiệu và uy tín của nhãn hàng. Trong khi đó, gạo xuất khẩu của Việt Nam không có thương hiệu quốc gia và hầu hết xuất dưới dạng gạo xá, đóng theo bao lớn và phân loại theo tỷ lệ tấm 5%, 15% và 25% và cả 35%.

Các quốc gia xuất khẩu gạo lớn khác như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan và tiếp theo là Campuchia và Myanmar đều có gạo mang thương hiệu quốc gia và đã nổi tiếng thế giới. Thái Lan có thương hiệu gạo KhawDaw Mali, Thai Hom Mali và Jasmine, Ấn Độ và Pakistan nổi tiếng với gạo Basmati, Campuchia có gạo Romduol và Myanmar có gạo Paw San là các loại gạo được phân khúc thị trường cao cấp ưa thích và sẵn sàng trả giá cao gấp hơn 2 lần giá gạo trắng thường hạt dài. Hơn nữa, các chuyên gia gạo thế giới cũng chỉ ra rằng “gạo có thương hiệu thường có giá cao hơn gạo không thương hiệu từ 10 đến 20%” (Hà Anh, 2022).

Ngay cả với gạo có cùng tỷ lệ tấm giá gạo Việt cũng thấp hơn so với giá gạo Thái Lan và gạo của nước xuất khẩu khác cho gạo 5% tấm và 25% tấm. Trung bình giá gạo Việt trong thời kỳ 2001-2021 chỉ bằng bằng 88% giá gạo Thái. Đó là do nhu cầu và thị hiếu đối của người tiêu dùng thế giới hướng tới gạo có gạo chất lượng cao, thuần chủng,

91

có nguồn gốc xuất xứ và các thông tin về sản phẩm rõ ràng thay vì gạo chỉ cho biết thông tin về tỷ lệ tấm. Sự khác biệt về giá gạo xuất khẩu của Thái Lan và Việt Nam cho gạo cùng tỷ lệ tấm như được thể hiện ở các Hình 4.11.

Phần trăm

110

100

90

80

70

60

50

40

30

20

10

0

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

4 1 0 2

5 1 0 2

6 1 0 2

7 1 0 2

8 1 0 2

9 1 0 2

0 2 0 2

1 2 0 2

Giá gạo Việt là phần trăm giá gạo Thái (5% tấm)

Giá gạo Việt là phần trăm giá gạo Thái (25% tấm)

Hình 4.11. So sánh giá gạo xuất khẩu gạo 5% tấm và 25% tấm của Việt Nam và Thái Lan, 2001-2021

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu của USDA, Rice Yearbook (2022)

Nhận xét về hiệu quả của xuất khẩu gạo ở Việt Nam vào cuối thập niên đầu của thế kỷ 21, Bộ Công Thương (MOIT), Bộ NNPTNT, và đặc biệt là VFA, cho rằng, nguyên nhân khiến giá xuất khẩu gạo thấp đơn giản là do Việt Nam có quá nhiều doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp này đã tranh mua, tranh bán với nhau nên bị các đối tác nước ngoài ép giá. Thêm vào đó là các doanh nghiệp chủ động mời chào bán với giá thấp để nhanh chóng quay lại xin VFA cấp tiếp hạn ngạch cho xuất khẩu. Theo các bộ ngành này, cần thiết phải “siết lại kỷ cương” trong hoạt động xuất khẩu. Kết quả là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2010/NĐ-CP về Kinh doanh xuất khẩu gạo ngày 04/11/2010 qui định các điều kiện một doanh nghiệp phải đáp ứng để được cấp phép xuất khẩu, đó là phải:

(a) “có ít nhất 01 (một) kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 (năm

nghìn) tấn thóc,...,

(b) có ít nhất 01 (một) cơ sở xay, xát thóc, gạo với công suất tối thiểu 10 tấn

thóc/giờ ..., và

92

(c) có kho chứa, cơ sở xay, xát phải thuộc sở hữu của thương nhân và phải nằm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thóc, gạo hàng hóa xuất khẩu hoặc có cảng biển quốc tế có hoạt động xuất khẩu thóc, gạo tại thời điểm thương nhân đề nghị cấp Giấy chứng nhận”.

Chiểu theo Nghị định số 109 này, nhiều doanh nghiệp nhỏ do không thể đáp ứng được các điều kiện đã bị loại và theo VFA thì Nloại trừ “các đầu mối xuất khẩu kém hiệu quả, thiếu tâm huyết, không có sự đầu tư bài bản lâu dài”; và với số lượng nhỏ“các doanh nghiệp dễ ngồi lại với nhau, thống nhất về giá mua, giá bán, tránh được sự chèn ép và thua thiệt trên thương trường quốc tế”. Đây là kiểu tư duy “Không quản được thì cấm” khá phổ biến vào thời điểm đó và số doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo trong giai đoạn 2001-2021 được thể hiện ở Hình 4.12.

300

250

i

200

150

p ệ h g n h n a o d ố S

100

50

0

2001 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2017 2018 2019 2020 2021

Hình 4.12. Biến động về số doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo

Nguồn: tổng hợp từ dữ liệu của VFA

Một thay đổi nữa trong điều hành xuất khẩu gạo của Việt Nam nữa là nhà nước đã giảm tỷ lệ hạn ngạch dành cho các hợp đồng G2G chuyển sang cho các hợp đồng thương mại. Đó là nhằm đối phó với một thực tế là Ấn Độ tăng mạnh cung về gạo trắng giá rẻ sang thị trường thế giới từ những năm 2000 khiến xuất khẩu gạo của Việt Nam dưới hình thức G2G trở nên khó khăn hơn. Chính phủ các nước nhập khẩu nay có nhiều lựa chọn hơn và họ đã lựa chọn nhà xuất khẩu có giá xuất khẩu cạnh tranh hơn so với giá gạo Việt. Kết quả là tỷ trọng gạo xuất khẩu theo hợp đồng G2G đã giảm từ 70% từ năm 1997-2007 xuống còn 40% năm 2010 và tiếp tục giảm xuống còn 24% vào năm 2012 (VFA, 2014) như được thấy ở Hình 4.13.

93

Phần trăm

120

100

80

60

40

20

0

Hình 4.13. Tỷ trọng gạo xuất khẩu theo các hợp đồng chính phủ, 1992-2012

Nguồn: VFA (1998-2013)

Với việc điều chỉnh cơ cấu hạn ngạch này khích thích các doanh nghiệp xuất khẩu nâng cao tính chủ động trong việc tìm kiếm đầu ra gạo xuất khẩu thay vì thụ động ngồi chờ kế hoạch phân bổ.

Từ sau năm 2012, đứng trước một thực tế là định hướng tập trung sản xuất gạo trắng thường hạt dài giá rẻ không còn hiệu quả đến năm 2013 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/06/2013 Phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” nhằm tái cơ cấu giống lúa để giảm tỷ lệ gạo trắng hạt dài, tăng tỷ lệ gạo thơm, gạo nếp, gạo Nhật và các loại gạo hữu cơ có giá trị và giá bán cao. Nhờ đó, mà tỷ lệ gạo thơm, gạo nếp và gạo đặc sản đã tăng hơn 2 lần vào năm 2013. Tuy nhiên, do không có sự thay đổi trong phương thức thu mua và giá trong thu mua gạo thơm cho xuất khẩu, nông dân quay lại trồng giống cũ ít tốn phí hơn. Tỷ lệ gạo trắng thường cho xuất khẩu lại tăng trở lại hơn 90%. Cơ cấu gạo xuất khẩu chỉ thực sự thay đổi sau Quyết định số 1898/QĐ- BNN-TT về Phê duyệt ”Đề án tái cơ cấu ngành Lúa gạo Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”. Tới năm 2016, tỷ lệ gạo thơm và gạo đặc sản trong tổng lượng gạo xuất khẩu đã được nâng lên trên 50% trong khi tỷ lệ gạo trắng đã giảm từ khoảng 90% năm 2015 xuống còn dưới 50% những năm sau đó cho tới năm 2021 như được thể hiện ở Hình 4.14.

59.2

54.2

52.8 53.0 55.0 56.0

21.9

10.1

10.0

8.5

Phần trăm 100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0

2011 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021

Gạo trắng

Gao Nếp+Thơm+Japonica+Lứt + Đồ

94

Hình 4.14. Cơ cấu gạo xuất khẩu theo chủng loại gạo 2011-2021

Nguồn: Tổng hợp từ dữ liệu của VFA, GSO, TCHQ các năm (2011-2021)

1600

1400

1200

1000

800

n ấ t / D S U

600

400

200

0

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

Gạo thơm Việt

Gạo thơm Thái

Gạo thơm Pakistan

Gạo thơm Ấn Độ

Tuy nhiên, để các nước nhập khẩu chấp nhận nhập khẩu gạo thơm, gạo đặc sản của Việt Nam với giá cao là hết sức khó khăn vì hầu hết gạo thơm Việt xuất khẩu vẫn là gạo “ba không”; đó là (1) không thuần loại; (2) không kiểm soát được dư lượng hóa chất; và (3) không truy xuất được nguồn gốc (Nhân Dân, 2015). Việt Nam chủ yếu vẫn xuất khẩu “3 không” cho tới những năm gần đây. Do vậy, giá gạo thơm xuất khẩu thấp hơn nhiều so với giá gạo thơm của các nước khác ví dụ như Thái Lan, Pakistan và Ấn Độ. Có thể thấy sự khác biệt này ở Hình 4.15.

Hình 4.15. Giá gạo thơm của Việt Nam, Thái Lan và Pakistan 2015-2021

Nguồn:USDA (2022)

95

Hình 4.15 cho thấy rằng, giá gạo của Việt Nam khá ổn định ở mức thấp trong khi

giá gạo Ấn Độ ổn định ở mức cao trong giai đoạn 2015-2021. Chênh lệch tương đối giữa giá gạo thơm Việt với giá gạo thơm của 3 nhà xuất khẩu gạo thơm hàng đầu thế giới là rất lớn. Trung bình, giá gạo thơm Việt Nam chỉ bằng 57% giá gạo thơm Thái, 53% giá gạo thơm Pakistan và 43% giá gạo thơm của Ấn Độ.

Để giảm thua thiệt trong xuất khẩu gạo, hàng loạt quyết định liên quan đã được ban hành như Quyết định số 706/QĐ-TTg, phê duyệt “Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” 48 (2015) và Quyết định số 1898/QĐ- BNN-TT, Phê duyệt ”Đề án tái cơ cấu ngành Lúa gạo Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030” (2016); Quyết định số 942/QĐ-TTg về Phê duyệt “Chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2030” (2017); Nghị định số 57/2018/NĐ-CP về “Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn” (2018) trong đó nhấn mạnh tới việc ưu tiên cho các doanh nghiệp có liên kết sản xuất- tiêu thụ gạo, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, chế biến sâu và xuất khẩu các loại gạo có chất lượng và có thương hiệu sang các thị trường đã được xác định; và Nghị định 107/2018/NĐ-CP về “kinh doanh xuất khẩu gạo” thay cho Nghị định 109/2010/NĐ-CP về “điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo”, một Nghị định được coi là gây méo thị trường, hạn chế cạnh tranh, thiếu công bằng (Lê Văn Bảnh, 2016), tạo “lợi ích nhóm, nhờ lobby mà được tạo cơ chế ưu đãi, độc quyền…” Trương Thanh Đức (2016).

Kết quả là gạo thơm và gạo chất lượng cao của Việt Nam đã được một số thị trường phân khúc cao chấp nhận như thị trường EU, Nhật Bản và thị trường Mỹ, tuy rằng thị phần của gạo Việt còn rất khiêm tốn so với thị phần của các đối thủ cạnh tranh. Năm 2019, gạo Việt trong thị trường EU mới đạt 1,3% như được chỉ ra ở Bảng 4.3.

Bảng 4.3. Giá trị gạo xuất khẩu và thị phần trong thị trường EU năm 2019

Nước xuất khẩu gạo vào EU

Pakistan Thái Lan Myanmar Campuchia Ấn Độ Việt Nam Giá trị xuất khẩu (Nghìn USD) 328.844 253.818 173.751 173.330 156.622 34.530 Thị phần (%) 12,7 9,8 6,7 6,7 6,1 1,3

48 Cuối cùng, ngày 18 tháng 12 năm 2018, Bộ NN&PTNT đã lựa chọn được biểu trưng chính thức cho thương hiệu quốc gia gạo Việt Nam và đã được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới cấp mã số đăng ký quốc tế.

Nguồn: ITC, Trích từ Vụ thị trường Châu Âu-Châu Mỹ, Bộ Công Thương, 2020.

96

4.4. Cơ hội cho xuất khẩu gạo của Việt Nam

Có thể thấy rằng cơ hội cho phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai là rất lớn khi Việt Nam thực hiện nghiêm túc chủ trương sản xuất và xuất khẩu gạo tập trung vào chất lượng nhờ áp dụng nhiều giống lúa chất lượng cao, năng suất cao và thời gian sinh trưởng ngắn. Cơ hội tốt cho phát triển xuất khẩu gạo của Việt Nam bao gồm:

(i) Việt Nam được hưởng những ưu đãi về thuế quan và hạn ngạch từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA; UKVFTA mà các nước xuất khẩu khác như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan, Myanmar và Campuchia không có đang tạo ra cơ hội tốt cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho gạo Việt và việc mở rộng thị trường của gạo Việt sang các thị trường ở Châu Âu, Nhật Bản, Mỹ và các thị trường cao cấp khác, nơi mà dư địa cho gạo Việt còn khá lớn.

(ii) Việt Nam là một trong số ít các quốc gia sản xuất và tiêu dùng gạo duy trì được an ninh lương thực quốc gia và ít bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng thời tiết bất lợi như El-Nino và La-nina hơn so với nhiều quốc sản xuất và tiêu dùng gạo lớn ở châu Á nên có thể tăng lượng gạo xuất khẩu khi cung thế giới khan hiếm để nhận được giá cao và giá trị xuất khẩu cao.

(iv) Các quốc gia châu Phi mới tự túc được khoảng 50% nhu cầu về gạo trong khi nhu cầu về mặt hàng lương thực này ở đây ngày càng tăng và ổn định. Gạo Việt có tiếng phù hợp với thị hiếu của người dân châu Phi, nhất là tại các quốc gia từng là thuộc địa của Pháp. Đây là cơ hội tốt để tiếp tục mở rộng xuất khẩu gạo sang các thị trường rộng lớn này.

4.5. Thách thức đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam

Xuất khẩu gạo của Việt Nam tuy nhiên cũng đang phải đối mặt với nhiều thách

thức mới, trong đó bao gồm:

(i) Xu thế bảo hộ sản xuất và thị trường gạo trong các nước nhập khẩu đang trên đà tăng mạnh khiến xuất khẩu ngày càng khó tiếp cận sâu vào các thị trường có dung lượng lớn.

(ii) Yêu cầu cao về chất lượng gạo từ các nhà nhập khẩu nhất là các thị trường thuộc phân khúc cao cấp với các đòi hỏi khắt khe về nguồn gốc xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm.

(iii) Thiếu năng lực tài chính của ngành xuất khẩu gạo trong việc đầu tư cho mở rộng và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất và kỹ thuật phục vụ sản xuất, chế biến, lưu

97

kho, bảo quản và vận chuyển gạo từ nơi sản xuất tới tay nhà nhập khẩu đảm bảo duy trì chất lượng gạo cao cho xuất khẩu.

(iv) Khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc xây dựng thương hiệu gạo, giới thiệu và quảng bá thương hiệu gạo tới các nhà nhập khẩu và khó khăn về tài chính, nhân sự có kinh nghiệm trong lựa chọn, xử lý và phân tích thông tin thị trường để tổ chức xuất khẩu gạo phù hợp vơi nhu cầu khách hàng.

4.6. Kết luận

Xuất khẩu gạo của Việt Nam đã tăng mạnh trong hơn 30 năm cả về sản lượng và

giá trị. Xuất khẩu giúp tiêu thụ lượng gạo dư thừa, góp phần ổn định giá cả và thị trường

gạo trong nước, đồng thời tạo thêm việc làm và thu nhập cho người trồng lúa. Xuất khẩu

gạo vừa đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước, vừa góp phần xóa

đói toàn cầu, qua đó củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việc phát triển

xuất khẩu gạo đã giúp Việt Nam tận dụng lợi thế so sánh trong sản xuất lúa gạo và ngày

càng đóng vai trò định hướng sản xuất theo nhu cầu và thị hiếu đa dạng của của người

tiêu dùng quốc tế và của các phân khúc thị trường.

Tuy nhiên, ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế khiến hiệu

quả xuất khẩu chưa tương xứng với tiềm năng. Cụ thể: (i) Chưa nhận thức đầy đủ về ý

nghĩa chính trị - xã hội và tâm lý của gạo ở các quốc gia sản xuất và tiêu dùng gạo; (ii)

Thiếu quan tâm đúng mức đến nghiên cứu chính sách lúa gạo và các thay đổi trong chính

sách sản xuất, cung ứng và thương mại gạo của các quốc gia nhập khẩu; (iii) Chưa hiểu

rõ đặc điểm và cơ chế vận hành của thị trường gạo quốc tế – kết quả tổng hợp của hai

hạn chế nêu trên; (iv) Thiếu chủ động trong nghiên cứu nhu cầu gạo theo các tiêu chí về

số lượng, chất lượng và chủng loại gạo tại từng khu vực/quốc gia và từng phân khúc thị

trường; (v) Chậm hoặc hạn chế trong đầu tư nâng cấp công nghệ sản xuất, chế biến, bao

bì, đóng gói, bảo quản, lưu kho và phát triển logistics phục vụ xuất khẩu; (vi) Chậm trễ

trong xây dựng và phát triển thương hiệu gạo, cũng như vận dụng thương hiệu quốc gia

vào xuất khẩu; (vii) Mối liên kết “Bốn (sáu) Nhà” còn mang tính hình thức, lỏng lẻo,

hạn chế việc chuẩn hóa và cải tiến chuỗi cung ứng phù hợp với yêu cầu hội nhập thương

mại quốc tế thông qua các FTA song phương và đa phương thế hệ mới.

Phân tích thực trạng xuất khẩu gạo trong hai giai đoạn 1989–2000 và 2001–2021

cho thấy hoạt động này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm: (i) Chính sách lúa

gạo và lương thực của Việt Nam và các nước nhập khẩu; (ii) Chính sách thương mại của

Việt Nam và các nước nhập khẩu; (iii) Chi tiêu cuối cùng cho lương thực/gạo tại các

98

nước nhập khẩu; (iv) Vị trí địa lý của các nước nhập khẩu, chủ yếu thuộc châu Á và

châu Phi; (v) Sản lượng gạo của Việt Nam; (vi) Mức sống của các nước nhập khẩu và

của Việt Nam; (vii) Chính sách xuất khẩu và giá gạo xuất khẩu của các quốc gia còn lại

trên thế giới (ROW); (viii) Chất lượng gạo của Việt Nam; (ix) Giá xuất khẩu gạo của

Việt Nam- không luôn thuận theo dự đoán dựa trên quan hệ cung cầu; (x) Thị hiếu của

nhà nhập khẩu về các chủng loại gạo đặc thù theo phân khúc thị trường/khu vực của

nước nhập khẩu; (xi) Khoảng cách địa lý từ Thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô các

nước nhập khẩu; và (xii) Các FTA mà Việt Nam và các nước nhập khẩu là thành viên.

Những yếu tố này đóng vai trò là căn cứ tham chiếu để xác lập mô hình phân tích

định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam trong các chương

tiếp theo.

99

CHƯƠNG 5 PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM

5.1. Phương pháp phân tích

Mục tiêu của chương này là phân tích thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng và định

lượng ảnh hưởng của các yếu tố tới xuất khẩu gạo của Việt Nam sang 60 nước trong

thời gian là 21 năm nhờ vận dụng MHLHDCT.

Xuất phát từ lý thuyết MHLHDCT đã được trình bày ở chương 3, phần thực

nghiệm ở chương này nhằm cụ thể hóa lý thuyết MHLHDCT trong điều kiện xuất khẩu

gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001 đến 2021.

Xuất phát từ lý thuyết và thực tế đặc thù của xuất khẩu gạo, các yếu tố chính của

mô hình đã trình bày ở chương lý thuyết vẫn được giữ nguyên nhưng được cụ thể hóa

cho phù hợp. Chẳng hạn trong mô hình gốc, GDP của nước ngoài (nước nhập khẩu

gạo của Việt Nam) được giải thích là đại diện cho quy mô của nước nhập khẩu gạo

từ Việt Nam, luận án sẽ dùng biến xấp xỉ là tiêu dùng cuối cùng về lương thực và

thực phẩm của nước nhập khẩu. Biến xấp xỉ này gần hơn với ngân sách nhập khẩu

gạo của các nước nhập khẩu gạo từ Việt Nam. Luận án nhận thấy rằng bên cạnh yếu

tố trên, yếu tố về sở thích hay thị hiếu đối với từng chủng loại gạo nhất định cũng có

ý nghĩa quan trọng trong các nước nhập khẩu gạo, vì thế luận án đưa bổ sung biến

thị hiếu này vào mô hình.

Ước lượng MHLHDCT trong phần lý thuyết đã trình bày còn bao hàm một số

vấn đề:

Thứ nhất là khi ước lượng mô hình về dòng giao dịch thương mại bằng không,

cụ thể là biến xuất khẩu gạo của Việt Nam có nhiều trường hợp nhận giá trị bằng không.

Như trong lý thuyết điều này được giải quyết bằng chính mô hình hồi quy PPML của

Santos Silva và Tenreyro (2006). Họ sử dụng mô phỏng Monte Carlo để cho thấy rằng

PPML hoạt động rất tốt ngay cả khi tỷ lệ số 0 là lớn. Thêm vào đó, luận án cũng sử dụng

phương pháp ước lượng PPML nhanh với ảnh hưởng cố định nhiều chiều cho PPML

của Correia và cộng sự (2020).

Thứ hai đã đề cập trong lý thuyết là tính không đồng nhất của dữ liệu thương mại

và vấn đề này được giải quyết bằng ước lượng nhờ sử dụng thuật toán của Santos Silva

và Tenreyro (2006), Correia và cộng sự (2020).

100

Thứ ba là vấn đề về tính nội sinh của chính sách thương mại. Một trong những

thách thức lớn nhất trong việc có được những ước lượng đáng tin cậy về ảnh hưởng của

chính sách thương mại trong mô hình lực hấp dẫn là các biến số chính sách thương mại

là nội sinh. Theo cách của Baier và Bergstrand (2007) luận án tiến hành ước lượng

PPML hai giai đoạn. Trong giai đoạn thứ nhất, luận án ước lượng biến công cụ bằng mô

hình probit để dự báo có biến nội sinh (FTA). Giai đoạn 2 sử dụng biến dự báo được

(FTAhat) thay cho FTA để ước lượng mô hình PPML và gọi đó là IVPPLM

(Instrumantal variables PPML).

Tóm lại để có thể giải quyết những thách thức đặt ra, luận án sẽ tiến hành các

bước như sau: Chỉ định MHLHDCT trong thực nghiệm; Chỉ định mô hình probit để ước

lượng biến công cụ để có được mô hình cần ước lượng (ước lượng mô hình hấp dẫn cấu

trúc 2 giai đoạn); Phân tích kết quả ước lượng; So sánh với các kết quả ước lượng khác

và kết luận.

5.2. Chỉ định mô hình và dữ liệu

5.2.1. Chỉ định mô hình

5.2.1.1. Chỉ định mô hình lực hấp dẫn cấu trúc

ln

lnc

ln

ln

β

+

+

+

+

β e

β c

β m

jt

jt

gdpv

gdpv t

d ij

e t ij,

m 2

exp

=

h t ij,

x

FTA

FTA c

ln

+

+

+

β

β j

β fta

ftac

j t ,

ε ij,t

j I ∈

 ln β d    

 +   

Như phần lý thuyết đã chỉ ra ở chương 3, trên cơ sở mô hình lực hấp dẫn cấu trúc, luận án áp dụng mô hình này để chỉ định mô hình cho Việt Nam. Đó là mô hình về xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam sang 60 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Mô hình trong thực nghiệm được chỉ định như sau:

(5.1)

Trong đó:

hij,t là xuất khẩu gạo của Việt Nam (i) sang nước nhập khẩu gạo của Việt Nam (j)

x bao gồm các biến thuộc tập I = {x12, x13, x14, x15, x16, x22, x24}

Các biến của mô hình được định nghĩa như trình bày ở Bảng 5.1 dưới đây:

101

Bảng 5.1. Các biến dùng cho mô hình lực hấp dẫn cấu trúc và các nguồn dữ liệu

thực Việt Nam

(VFA)

Giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam

Hiệp Hội Lương https://vietfood.org.vn/

Triệu USD

Trung tâm thương mại quốc tế (ITC)

hijt

https://www.intracen.org/itc/market-info- tools/statistics-export-country-product/

VFA; https://vietfood.org.vn

Lượng gạo các nước nhập từ Việt Nam

m1

Tấn

https://www.intracen.org/itc/market-info-

ITC; tools/statistics-export-country-product/

https://www.intracen.org/itc/market-info-

m2

Tấn

Lượng gạo các nước nhập từ thế giới còn lại49

ITC; tools/statistics-export-country-product/

giới

(WB)

cc (c) Triệu USD

Chi tiêu cuối cùng cho tiêu dùng lương thực của các nước nhập khẩu

Thế Ngân hàng https://data.worldbank.org/ https://data.worldbank.org/indicator/NE.CON.TO TL.CD

Tổng sản phẩm trong nước của Việt Nam

gdpv Triệu USD

WB; https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.M KTP.CD

gdpn Triệu USD

Tổng sản phẩm trong nước của nước nhập khẩu

WB; https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.M KTP.CD

dân

số

(GSO)

popv

Qui mô của Việt Nam

Tổng Cục Thống kê Việt Nam https://www.gso.gov.vn/

Nghìn người

popn

Qui mô dân số của nước nhập khẩu

Nghìn người

WB, https://data.worldbank.org/indicator/SP.POP.TOTL

WB; https://data.worldbank.org/

USD/

GDP bình quân theo đầu người

x25

người/

https://data.worldbank.org/indicator/NY.GDP.M KTP.CD

năm

Tỷ giá hối đoái

LCC/USD50

eij

WB, https://data.worldbank.org/indicator/PA.NUS.FC RF

49 Tác giả tính trên cơ sở dữ liệu về lượng gạo nhập khẩu của các nước của ITC và GSO. 50 Số đơn vị đồng tiền của các nước so với đồng đô la.

Tên biến Đơn vị Nguồn dữ liệu Ký hiệu

102

d0

Km

GeoDataSource, https://www.geodatasource.com/demo

Khoảng cách từ TP Hồ Chí Minh tới Thủ đô các nước nhập khẩu

VFA, https://vietfood.org.vn/

Biến giả

x12

Hải

cục

Quan

(TCHQ),

(1;0)

Thị hiếu của nước nhập khẩu về gạo trắng thường hạt dài (T1)

Tổng https://www.customs.gov.vn/

VFA; https://vietfood.org.vn/

Biến giả

TCHQ, https://www.customs.gov.vn/

x13

(1;0)

FAO, https://www.fao.org

Thị hiếu của nước nhập khẩu về gạo nếp, gạo thơm, gạo hạt tròn, giống Nhật (T2)

Biến giả

x14

FAO, https://www.fao.org.est>Rice>Rice_Profile_Dec_ 06

(1;0)

Nước coi gạo là hàng đặc biệt, áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao (TPF)

Biến giả

x15

(1;0)

Nước theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước

FAO, https://www.fao.org/ Rice Market Minitor https://www.fao.org/markets-and- trade/commodities/rice/rmm/en

Biến giả

x16

Nước tiếp giáp đường biên/chung biên giới

https://simple.wikipedia.org/ wiki/List_of_countries_by_continents

(1;0)

Biến giả

x22

Các nước (từng là) thuộc địa Pháp

https://en.wikipedia.org/ wiki/List_of_French_possessions_and_colonies

(1;0)

Biến giả

x24

Các nước ngoài châu Á (Contremote)

https://simple.wikipedia.org/ wiki/List_of_countries_by_continents

(1;0)

Biến giả

FTA

Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI https://trungtamwto.vn/

FTA- nước có tham gia các FTA với Việt Nam

(1;0)

Tên biến Đơn vị Nguồn dữ liệu Ký hiệu

Trên cơ sở lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu từ MHLHD ở chương

3 và tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm, ngoài biến giải thích chính là khoảng cách

(d0) mô hình sẽ sử dụng các biến giải thích khác như sau:

- eij : Tỷ giá song phương

Theo lý thuyết kinh tế thì khi đồng nội tệ tăng giá xuất khẩu sẽ trở nên đắt hơn

khiến lượng gạo xuất khẩu và do đó doanh thu có được từ hoạt động xuất khẩu giảm

103

xuống. Vì vậy, có thể kỳ vọng rằng hệ số của biến eij có dấu âm khi tỷ giá song phương

tăng. Tuy nhiên, dấu của biến eij này còn có thể phụ thuộc vào các yếu tố khác tỷ giá.

- cc (c): Chi tiêu cuối cùng cho tiêu dùng lương thực của nước nhập khẩu

Theo lý thuyết lợi ích mà từ đó có thể rút ra hàm cầu nhập khẩu của các nước

nhập khẩu gạo thì thu nhập dành cho tiêu dùng trong hàm nhập khẩu cho biết khi

thu nhập tăng thì cầu nhập khẩu sẽ tăng, do đó kỳ vọng rằng hệ số của biến này sẽ

có dấu dương.

- m2: Gạo nhập khẩu từ các nước khác Việt Nam của nước nhập khẩu gạo từ Việt

Nam. Nếu xem gạo nhập từ Việt Nam và gạo nhập từ các nước khác là hàng hóa thay

thế (tuy không phải là thay thế hoàn hảo), trong điều kiện cầu về gạo không đổi, khi tăng

cầu nhập khẩu từ nước khác dẫn đến giảm cầu đối với gạo nhập từ Việt Nam, nên kỳ

vọng dấu của biến này sẽ âm.

- gdpv: GDP của Việt Nam, đây là biến đại diện cho quy mô nền kinh tế, nhưng

xét về ảnh hưởng của GDP của Việt Nam đến xuất khẩu gạo của Việt Nam. Khi GDP

tăng thu nhập bình quân theo đầu người tăng –GDP tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng

dân số, tiêu dùng gạo bình quân theo đầu người giảm (GSO, 2010-2022), có nghĩa sản

lượng gạo dư thừa cho xuất khẩu tăng làm xuất gạo cũng tăng. Vì vậy, dấu của hệ số

của biến này được kỳ vọng là một số dương.

- x12: Biến giả biểu hiện cho thị hiếu về gạo trắng hạt dài. Biến này nhận giá trị

bằng 1 nếu nước nhập khẩu gạo của Việt Nam có thị hiếu về gạo trắng hạt dài và bằng

không trong trường hợp ngược lại. Biến này được kỳ vọng là dương nếu xuất khẩu gạo

của Việt Nam đáp ứng kỳ vọng này.

- x13: Thị hiếu về gạo khác: gạo nếp, gạo hạt tròn, gạo thơm. Biến này nhận giá

trị bằng 1 nếu nước nhập khẩu gạo của Việt Nam có thị hiếu về gạo nếp, gạo hạt tròn,

gạo thơm và bằng không trong trường hợp ngược lại. Biến này được kỳ vọng là dương

nếu xuất khẩu gạo của Việt Nam đáp ứng kỳ vọng này.

- x14: Nước coi gạo là hàng đặc biệt. Biến giả này nhận giá trị bằng 1 nếu nước

nhập khẩu gạo của Việt Nam coi gạo là hàng đặc biệt và bằng không trong trường hợp

ngược lại. Do nước coi gạo là hàng hóa đặc biệt sẽ áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt

với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao nên dẫn đến giảm nhập khẩu gạo từ Việt Nam

và do đó kỳ vọng hệ số của biến này trong mô hình lực hấp dẫn có dấu âm.

- x15: Nước theo đuổi chính sách tự túc gạo. Biến giả này nhận giá trị bằng 1 nếu

nước nhập khẩu gạo của Việt Nam theo đuổi chính sách tự túc gạo và bằng không trong

104

trường hợp ngược lại. Kỳ vọng dấu của hệ số của biến này trong mô hình lực hấp dẫn

sẽ âm.

- x16: Nước tiếp giáp đường biên. Biến giả này nhận giá trị bằng 1 nếu nước nhập

khẩu gạo của Việt Nam là nước tiếp giáp với Việt Nam. Theo lý thuyết có thể kỳ vọng

dấu của biến này sẽ dương. Trong thực tế thì nước tiếp giáp với Việt Nam là Trung

Quốc, Lào và Campuchia, trong đó Lào và Campuchia không nhập khẩu gạo từ Việt

Nam. Trung Quốc là nước duy nhất liên kề có nhập khẩu gạo của Việt Nam. Trong

những năm từ 2001 đến 2011, Trung Quốc theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước

nghiêm ngặt nên nhập rất ít gạo từ Việt Nam. Tuy nhiên, những ảnh hưởng của thời tiết

bất lợi và chi phí sản xuất tăng khiến nguồn cung gạo trong nước thiếu hụt đáng kể so

với cầu về gạo ở trong nước buộc quốc gia tiêu dùng gạo lớn nhất thế giới phải tăng

nhập khẩu gạo từ bên ngoài. Tận dụng lợi thế liền kề để tiết kiệm chi phí vận chuyển và

lợi thế của FTA song phương với ASEAN, Trung Quốc tăng mạnh nhập khẩu gạo của

Việt Nam và trở thành thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong hầu hết

các năm từ 2012 đến năm 2018. Bởi vậy, hệ số của biến này được kỳ vọng là có dấu

dương.

- x22: Các nước từng là thuộc địa Pháp. Biến giả này nhận giá trị bằng 1 nếu

nước nhập khẩu gạo của Việt Nam đã là thuộc địa của Pháp và bằng không trong trường

hợp ngược lại. Nói chung, từ tổng quan tài liệu hiện hành thì thường biến này có dấu

dương nhưng cũng tùy thuộc vào tình hình kinh tế và hoàn cảnh cụ thể của các nước này

cũng như điều kiện thị trường gạo quốc tế.

- x24: Các nước ngoài châu Á-Contremote. Theo Baier và Bergstrand (2007),

luận án định nghĩa “Sự xa xôi của các đối tác FTA” là nước nằm ngoài châu Á. Đây là

biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu nước nhập khẩu nằm ngoài châu Á và bằng không trong

trường hợp ngược lại. Như vậy, những biến này cho biết rằng nước nhập khẩu có vị trí

ở khoảng cách xa với nguồn xuất khẩu, và trong trường hợp này là Việt Nam. Baier và

Bergstrand (2007) lập luận rằng khi khoảng cách song phương giữa một cặp quốc gia

càng ngắn thì FTA sẽ có lợi hơn so với khoảng cách song phương xa hơn; nghĩa là tiềm

năng tạo ra thương mại giữa cặp nước này lớn hơn. Baier và Bergstrand (2007) tìm thấy

một mối quan hệ đơn điệu giữa khoảng cách xa xôi và lợi ích ròng từ FTA đối với các

5.2.1.2. Chỉ định mô hình probit ước lượng biến nội sinh

đối tác FTA lục địa. Như vậy có thể kỳ vọng hệ số của biến này sẽ có dấu âm.

105

Theo như lý thuyết đã trình bày ở chương 3 thì FTA là biến nội sinh. Các yếu tố quyết định kinh tế của FTA là (z). Luận án sử dụng mô hình lý thuyết để giúp xác định tập hợp công cụ z hợp lý cho hồi quy probit giai đoạn đầu. Mô hình có dạng:

P(FTA = 1*Q, z) = Φ(π0 + π1'Q + π2'z), để tạo ra xác suất dự đoán ΦP. Xét về mặt kinh tế lượng, các yếu tố hợp thành z cần tương quan với FTA nhưng không tương quan các số hạng sai số trong PTLHD. Ở đây, Q và z là các vectơ của các biến giải thích, π1 và π2 là các vectơ của tham số và các số hạng sai số có phân phối chuẩn.

Các biến trong Q

Các biến được đưa vào nghiên cứu thực nghiệm bao gốm:

• Khoảng cách

Khoảng cách theo mô hình lý thuyết ban đầu được coi là biến đại diện cho chi phí vận chuyển hàng hóa giữa các đối tác thương mại. Ở MHLHD truyền thống, biến này được xác định bởi khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia, từ thủ đô nước này sang thủ đô nước đối tác. Tuy nhiên, cách đo lường này theo Head và Mayer (2002) đã gây ra lỗi trong việc ước lượng ảnh hưởng của các rào cản thương mại khi làm giảm đi khả năng ước lượng chính xác của MHLHD. Để tăng độ chính xác của ước lượng liên quan tới chi phí vận chuyển, khoảng cách được sử dụng đưa vào mô hình ước lượng trong luận án thiên về khoảng cách kinh tế, ít nhất từ phía nước xuất khẩu là Việt Nam và từ phía nước nhập khẩu lớn nhất Việt Nam là Trung Quốc. Bởi vậy, khoảng cách được đo từ Thành phố Hồ Chí Minh đến thủ đô của các nước nhập khẩu gạo và từ Thành phố Hồ Chí Minh tới Quảng Châu của Trung Quốc. Luận án sử dụng Thành phố Hồ Chí Minh là điểm đầu thay cho thủ đô Hà Nội vì hầu hết lượng gạo xuất khẩu (>90%) có nguồn gốc từ đồng bằng Sông Cửu Long và được xuất đi theo các cảng biển khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và cảnh Cái Mép lân cận Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng đối với Trung Quốc, Quảng Châu là thương cảng trọng điểm và là trung tâm kinh tế thương mại lớn của Trung Quốc, hơn nữa, gạo nhập từ Việt Nam được cung cấp chủ yếu cho những người dân các tỉnh miền nam Trung Quốc. Frankel, Stein và Wei (1995, 1996 và 1998) đã chỉ ra về mặt lý thuyết trong một thế giới có nền kinh tế đối xứng rằng hai quốc gia là đối tác thương mại có khoảng cách gần nhau sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ một FTA so với hai quốc gia khác, tức là hai quốc gia cách xa nhau. Do đó, luận án cũng đưa vào một biến giả bổ sung cho biến khoảng cách, đó là biến nước tiếp giáp đường biên để xem xét ảnh hưởng của sự cận kề hay có chung biên giới đến xuất khẩu gạo của Việt Nam sang nước láng giềng.

• GDP danh nghĩa

106

Như phân tích ở chương 3, lợi ích phúc lợi từ các FTA sẽ cao hơn đối với các quốc gia có GDP lớn hơn. Cũng như GDP của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu được giả định là ngoại sinh theo phương trình lực hấp dẫn điển hình và GDP không tương quan với εij.

Các biến trong z

Như đã chỉ ra ở chương 3 các biến tạo thành vector z phải tương quan với P(FTA), nhưng không tương quan với sai số trong phương trình lực hấp dẫn (εij), trong đó bao gồm:

• Sự xa xôi của các đối tác FTA

Theo phân tích lý thuyết chương 3 thì biến xa xôi trong thực nghiệm được định

nghĩa là biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu nằm ngoài châu Á. Biến này cũng được giả

định không tương quan với εij.

• Sự khác biệt tương đối về yếu tố nguồn lực

Theo lý thuyết đã trình bày ở chương 3 thì việc đo lường sự khác biệt tương đối

về yếu tố nguồn lực bằng giá trị tuyệt đối của sự khác biệt trong loga của tỷ lệ vốn-lao

động của hai nước và bình phương của nó là không tương quan với εij. Tuy nhiên, do

không có số liệu về vốn và lao động của từng quốc gia nhập khẩu gạo của Việt Nam nên

luận án dùng đại lượng xấp xỉ biến này theo quan điểm của Baier và Bergstrand (2002,

tr. 15) là đưa GDP bình quân theo đầu người của hai quốc gia làm đại diện cho tỷ lệ

vốn-lao động trung bình của hai quốc gia (xác định tỷ trọng nội sinh của hàng hóa trong

sản lượng quốc gia).

Do đó, Q sẽ bao gồm GDP danh nghĩa, dân số, khoảng cách song phương, và

biến giả lân cận. Đây là cơ sở để luận án chỉ xem xét xuất khẩu đối với một mặt hàng là

gạo mà không xét xuất khẩu nói chung.

Tóm lại từ những vấn đề lý thuyết đã nêu ở trên, luận án thực hiện ước lượng

MHLHDCT bằng các công việc cụ thể sau:

(i) Sử dụng dữ liệu bảng về xuất khẩu gạo của Việt Nam sang 60 quốc gia từ 2001-

2021.

(ii) Nghiên cứu xuất khẩu gạo của Việt Nam sử dụng dữ liệu bảng theo các

khoảng thời gian thay vì dữ liệu gộp trong nhiều năm liên tiếp.

(iii) Ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng PPML.

107

(iv) Ước lượng biến công cụ và dự báo biến phụ thuộc FTAhat để thay cho FTA

trong mô hình PPML.

(v) Ước lượng MHLHDCT bằng PPML với biến công cụ.

(vi) So sánh kết quả ước lượng vận dụng PPML với kết quả thu được từ các ước

lượng khác như HDFE và FGLS.

5.2.2. Ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc

5.2.2.1. Giới thiệu

Như đã biết MHLHD hiện diện đã được vận dụng phổ biến trong lĩnh phân tích thực nghiệm thương mại quốc tế. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra thiếu sót của cách tiếp cận truyền thống về tuyến tính hóa logarith và ước lượng OLS. Đặc biệt, Santos Silva và Tenreyro (2006) đưa ra những lập luận mạnh mẽ về tính ưu việt của ước lượng PPML: đó là nó bảo toàn được tổng luồng thương mại giữa ma trận thương mại song phương thực tế và ước lượng theo cách mà không một công cụ ước lượng hợp lý cực đại nào khác có thể làm được.

Để ước lượng PPML, luận án tiến hành theo 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất ước lượng các biến nội sinh bằng mô hình probit sau đó dự báo biến nội sinh từ mô hình này rồi đưa vào mô hình để ước lượng PPML. Vì ước lượng biến nội sinh, cần có lý thuyết vững để xây dựng mô hình probit nên luận án dựa vào nghiên cứu của Baier và Bergstrand (2007).

Trước khi trình bày kết quả ước lượng, luận án trình bày phân tích thống kê số

5.2.2.2. Thống kê mô tả các biến sử dụng trong mô hình

liệu gốc và tính tự tương quan giữa các biến.

Bảng 5.2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Độ lệch

Trung bình

Biến

Tên biến

Tối đa

Số quan sát

Tối thiểu

chuẩn

m1

1260

80418,84

253688,1

0

2517062

Lượng gạo của Việt nam xuất khẩu sang các đối tác

d0

1260

8573,783

4060,118

1015

17504

Khoảng cách từ TP HCM đến thủ đô của nước nhập khẩu (km)

eij Tỷ giá song phương

1260

6771,055

8806,543

1

38945

cc

1260

6,35E+08

2,440

0

2,210

Tiêu dùng cuối cùng của nước nhập khẩu

108

Độ lệch

Trung bình

Biến

Tên biến

Tối đa

Số quan sát

Tối thiểu

chuẩn

m2

1260

353881,2

706200,8

0

1,80

Lượng gạo nhập khẩu từ thế giới còn lại của nước nhập khẩu gạo

gdpv GDP Việt Nam

1260

200700

73294,04

99300

332300

1260

806100,4

2205685

1.2

1,83

gdpn

GDP của các nước nhập khẩu gạo từ Việt Nam

x12

1260

0,983333

0,12807

0

1

Biến thể hiện thị hiếu về gạo trắng thường hạt dài (T1)

x13

1260

0,133333

0,34007

0

1

Biến thể hiện thị hiếu về gạo khác: gạo nếp, gạo hạt tròn, gạo thơm

x14

1260

0,766667

0,423121

0

1

Nước coi gạo là hàng đặc biệt, áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao

1260

0,3

0,45844

0

1

x15

Nước theo đuổi chính sách tự túc gạo

x16 Nước tiếp giáp đường biên

1260

0,00873

0,093064

0

1

x22 Các nước thuộc địa pháp

1260

0,233333

0,423121

0

1

x24 Nước ngoài châu Á

1260

0,666667

0,471592

0

1

FTA

1260

0,233333

0,55899

0

1

Nước có tham gia các FTA với Việt Nam

Nguồn: tác giả ước lượng từ số liệu thu thập được

109

Bảng 5.3. Ma trận tương quan giữa các biến

eij

cc

m2

gdpv

gdpn

x12

x13

x14

x15

x16

x22

x24

FTA

Biến m1 d0

1

-0,3068

-0,1463 0,543

0,2654

0,0774

0,1198 0,0337

0,2055

0,1202

0,2835

0,2733

-0,0674

-0,2862 0,4823

m1

1

0,0977

-0,3135

-0,0312

-0,0224 0,083

0,1649

-0,257

0,0351

0,0373

-0,1451 0,2711

0,7501

-0,613

d0

1

-0,1348

-0,0887

-0,1244 0,2783 0,1137

-0,169

0,0753

-0,4239

-0,0529

-0,1779 0,1831

-0,0973

eij

1

0,3375

0,0759

0,306

-0,008

0,3338

0,1296

0,3367

0,6161

-0,1128

-0,3022 0,296

cc

1

0,144

0,1997

-0,109

0,173

0,2083

0,2801

0,1719

-0,0142

-0,1059 0,0786

m2

1

-0,060

0,0137

-0,0129

-0,0123

-0,0247

-0,0086 0,0356

0,0235

0,0953

gdpv

1

-0,2556 0,167

0,1383

-0,0306 0,2082

-0,1441 0,012

0,0177

gdpn

1

-0,3913

-0,0824

-0,2279 0,0165

0,0779

0,2093

-0,1143

x12

1

0,067

0,2933

0,2817

-0,0352

-0,3945 0,1106

x13

1

0,3615

0,0593

0,2673

-0,035

0,0197

x14

1

0,164

0,2503

-0,0944 0,1479

x15

1

-0,0561

-0,1506 0,1115

x16

1

0,2672

-0,2186

x22

1

-0,5119

x24

1

FTA

Nguồn: tác giả ước lượng từ số liệu thu thập được

110

5.3. Ước lượng hồi qui Poisson

Hồi quy Poisson hiện đã được thiết lập như một phương pháp chuẩn cho mô hình dữ liệu đếm và bảng tương quan. Phương pháp này cũng trở nên phổ biến như một giải pháp thay thế khả thi để ước lượng các mô hình nhân với biến phụ thuộc có giá trị không âm. Thông thường, các mô hình này thích hợp đối với phương pháp hồi quy tuyến tính áp dụng cho biến phụ thuộc được chuyển đổi logarith. Tuy nhiên, giống như phương pháp OLS, giả định duy nhất cần có để đảm bảo tính nhất quán của công cụ ước lượng hồi quy Poisson là chỉ định chính xác của giá trị trung bình có điều kiện của biến phụ thuộc (Gourieroux, Monfort và Trognon, 1984). Trong cách thiết lập này, phương pháp PPML được sử dụng. Các kết quả của Gourieroux, Monfort, và Trognon (1984) đã mở rộng đáng kể phạm vi ứng dụng của hồi quy Poisson do không cần phải chỉ rõ giả định phân phối cho biến phụ thuộc. Do đó, ứng dụng không còn bị hạn chế ở dữ liệu đếm, khi đó PPML có thể được áp dụng cho bất kỳ biến phụ thuộc nào có giá trị không âm mà không cần phải chỉ định rõ ràng phân phối cho biến phụ thuộc.

Hơn nữa, không giống như mô hình log-tuyến tính, hồi quy PPML cung cấp một cách tiếp cận tự nhiên để xử lý các giá trị bằng 0 trên biến phụ thuộc. Một ưu điểm khác của hồi quy PPML so với hồi quy log-tuyến tính là khi có tính không đồng nhất, các tham số của mô hình log-tuyến tính phù hợp với OLS là không nhất quán (Santos Silva và Tenreyro 2006). Trong bối cảnh này, việc sử dụng sai số chuẩn mạnh để giảm thiểu sự lo ngại về tính không đồng nhất sẽ dẫn tới suy luận không chính xác bởi vì ngay từ đầu các công cụ ước lượng OLS đã không nhất quán. Cùng với sự phát triển của lý thuyết và những thành công trong thực nghiệm, Santos, Silva và Tenreyro (2006) chỉ ra rằng phương pháp PPML là cách tiếp cận phù hợp nhất so với các kỹ thuật ước lượng khác. Bởi vậy, phương pháp PPML đã được tiếp tục phát triển và ứng dụng đặc biệt rộng rãi trong phân tích các YTAH tới TMQT.

Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã thừa nhận rằng PPML là công cụ ước

lượng lý tưởng đối với các PTLHD trong việc kiểm soát nhiều ảnh hưởng cố định. Sự xuất hiện hiện ngày càng nhiều của các bộ dữ liệu bảng lớn hơn, cùng với những tiến bộ trong kỹ thuật ước lượng cho mô hình hồi quy tuyến tính với ảnh hưởng cố định nhiều chiều (High-Demensional Fixed Effects-HDFE), đã cho phép các nhà nghiên cứu kiểm soát được nhiều nguồn không đồng nhất. Correia (2016) đã giới thiệu ước lượng nhanh PPML và Correia và cộng sự (2020) chỉ ra rằng PPML với HDFE có thể được triển khai gần dễ dàng như hồi quy tuyến tính với HDFE. Bởi vậy, họ cũng đã giới thiệu một lệnh mới để ước lượng nhanh các mô hình hồi quy Poisson với HDFE.

111

Tiến hành ước lượng mô hình PPML, luận án trước hết thực hiện ước lượng mô hình PPML không có biến công cụ và tiếp đó tiến hành ước lượng PPML có biến công cụ để khắc phục tính nội sinh. Sau khi ước lượng biến công cụ, luận án tiến hành dự báo từ mô hình probit ước lượng và thay giá trị dự báo của biến nội sinh vào trong mô hình PPML để ước lượng PPML với biến công cụ.

5.4. Kết quả ước lượng PPML

5.4.1. Uớc lượng PPML không có biến công cụ

Trong mục này, luận án ước lượng MHLHDCT về xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trước khi ước lượng mô hình 5.1, luận án định nghĩa các mô hình con như sau: Ước lượng mô hình 5.1 (MHLHD không có biến công cụ); mô hình này tiếp tục được chia thành các mô hình nhỏ theo cách phân chia tập số liệu và gọi là mô hình 1a (M1a) là mô hình 5.1 ước lượng trên tập số liệu từ 2001-2021. Gọi mô hình 2a, 3a, 4a, 5a (M1a, M2a, M3a, M4a, M5a) là mô hình 5.1 ước lượng trên tập số liệu từ 2001-2005; 2006-2010; 2011-2015 và 2016 đến 2021). Kết quả ước lượng được thể hiện ở Bảng 5.4.

Bảng 5.4. Kết quả ước lượng MHLHDCT bằng thuật toán PPML không có biến công cụ

M1a

M2a

M3a

M4a

M5a

Robust

Robust

Robust

Robust

Robust

|

2001-2021 2001-2005 2006-2010 2011-2015 2016-2021

|

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

-0,0876***

-0,0398

-0,0910***

-0,1039***

-0,0770***

lnd0

(0.0146)

(0.0565)

(0.0332)

(0.0154)

(0.0186)

Loga của khoảng cách từ HCM đến thủ đô của nước nhập khẩu (km)

-0,0165**

-0,0069

-0,0059

0,0049

-0,0043

lneij

Loga của tỷ giá song phương

(0.0030)

(0.008)

(0.0055)

(0.0041)

(0.0044)

0,0165***

-0,0180

0,0123

0,0271***

0,0227**

lncc

Loga của tiêu dùng cuối cùng của nước nhập khẩu

(0.0064)

(0.006)

(0.0197)

(0.0113)

(0.0105)

0,0068

0,0392*

-0,0119

0,0037

0,0236*

lnm2

Loga của gạo nhập khẩu từ thế giới còn lại của nước nhập

(0.0068)

(0.0219)

(0.0087)

(0.0078)

(0.0137)

0,0847***

0,1570

0,5661***

-0,2493***

-0,0584

lngdpv Loga GDP Việt Nam

(0.0208)

(0.1749)

(0.1436)

(0.0940)

(0.1020)

112

M1a

M2a

M3a

M4a

M5a

Robust

Robust

Robust

Robust

Robust

|

2001-2021 2001-2005 2006-2010 2011-2015 2016-2021

|

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

0,0112***

-0,1399*

-0,0192

0,1235***

0,1074***

x12

Biến giả thị hiếu về gạo trắng thường hạt dài (T1)

(0.0057)

(0.0757)

(0.0742)

(0.0712)

(0.0452)

0,0614**

0,0232

-0,0384

0,1125***

0,1020***

x13

Thị hiếu về gạo khác: gạo nếp, gạo hạt tròn, gạo thơm (T2)

(0.0245)

(0.0567)

(0.0524)

(0.0291)

(0.0334)

-0,0455***

-0,0808

-0,0543*

-0,0417**

-0,0183

x14

(0.0148)

(0.0579)

(0.0315)

(0.0184)

(0.0221)

Nước coi gạo là hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao (TPF)

0,0611***

0,1019

0,1459***

0,0260

-0,0160

x15

Nước theo đuổi chính sách tự túc gạo (SELF)

(0.0229)

(0.0689)

(0.0442)

(0.0264)

(0.0369)

-0,0503

-0,0661

0,0008

0,0126

-0,0633

x16

Nước tiếp giáp đường biên

(0.0606)

(0.0942)

(0.0688)

(0.0578)

(0.0442)

0,0076

-0,1519**

0,0337

0,0196

0,0077

x22

Các nước thuộc địa pháp

(0.0240)

(0.074)

(0.0416)

(0.0288)

(0.0407)

0,0388**

0,0796

0,0300

0,0532**

0,0007

x24

Contremote (nước ngoài châu Á)

(0.0187)

(0.0544)

(0.0341)

(0.0236)

(0.0347)

0,0267***

0,0756***

0,1064**

0,1076***

0,0794

FTAlncc

Biến tích giữa biến giả FTA và biến lncc

(0.0099)

(0.033)

(0.0474)

(0.0328)

(0.0549)

0,0042**

0,0234***

0,0041

0,0008

0,0060***

FTA

(0.0021)

(0.006)

(0.0058)

(0.0027)

(0.002)

Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu có tham gia FTA với Việt Nam

1,5521***

0,8129

-3,5942**

5,6344***

2,4913**

_cons

(0.267)

(2.1299)

(1.7198)

(1.1542)

(1.2693)

Số quan sát

787

118

197

226

246

Pseudo log-likelihood:

-1803,821

-260,784

-445,2986

-505,5226

-555,639

R-squared:

0,32339296

0,5190

0,3652

0,5137

0,501

Nguồn: Tác giả ước lượng từ nguồn số liệu thu thập được

113

Để giải thích kết quả ước lượng, luận án phân các biến thành các 2 nhóm chính.

Trong đó:

Nhóm thứ nhất gồm các biến liên tục như: khoảng cách, tỷ giá, tiêu dùng cuối

cùng, lượng gạo các nước nhập khẩu nhập từ các nước khác ngoài Việt Nam, và GDP

của Việt Nam.

Nhóm thứ hai gồm các biến giả như: thị hiếu về gạo trắng thường hạt dài, thị hiếu

về gạo nếp, gạo hạt tròn, gạo thơm; các biến thuộc rào cản thương mại như: nước nhập

khẩu coi gạo là mặt hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và

phi thuế đặc biệt cao (Trade Protection Food-TPF); nước nhập khẩu theo đuổi chính

sách tự túc gạo trong nước; biến tiếp giáp đường biên; các nước từng là thuộc địa Pháp;

và các nước ở ngoài châu Á, hay xa xôi nguồn gạo của Việt Nam.

Luận án dựa vào cấu trúc của mô hình để giải thích kết quả từng loại biến như sau:

• Giải thích kết quả ước lượng các biến liên tục:

Hiệu ứng của khối lượng giao dịch. Việc xây dựng hiệu ứng khối lượng thương

mại từ ước lượng mô hình lực hấp dẫn có thể được giải thích như sau: Trong trường

hợp các biến liên tục, ví dụ như biến khoảng cách, việc giải thích ước lượng hệ số

theo logarith của khoảng cách song phương chỉ đơn giản là độ co giãn của giá trị của

luồng thương mại đối với khoảng cách. Tương tự, tất cả các biến liên tục như biến

khoảng cách (lnd0), tỷ giá song phương (lneij), tiêu dùng cuối cùng về lương thực

của nước nhập khẩu (lncc), lượng gạo nhập từ các nước khác của thế giới còn lại

ˆ dβ

(lnm2), GDP của Việt Nam (lngdpv) cũng dùng hệ số ước lượng được giải thích. Ví

dụ giá trị tiêu chuẩn cho ước lượng khoảng cách trong mô hình hồi quy trọng lực = -

0.0876 trong phương trình (ước lượng cho toàn mẫu) theo Disdier và Head (2008) và

Head và Mayer (2014), điều này hàm ý rằng khi khoảng cách tăng 1% sẽ kéo theo luồng

thương mại giảm đi 0.087%.

Tóm lại, các phát hiện chính từ ước lượng MHLHDCT không biến công cụ là:

(i) Hệ số ước lượng của biến loga của khoảng cách trong mô hình hồi quy lực

hấp dẫn cho thấy khi khoảng cách tăng 1% sẽ có thể làm luồng xuất khẩu gạo của

Việt Nam giảm 0.087% trong cả thời kỳ nghiên cứu 2001-2021; giảm 0,0910% trong

giai đoạn 2006-2010; giảm 0,1039% trong giai đoạn 2011-2016; và giảm 0,077%

trong giai đoạn 2016-2021. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết và kỳ vọng.

114

(ii) Hệ số ước lượng của biến loga của tỷ giá hối đoái song phương cho thấy rằng khi tỷ giá tăng 1% thì luồng xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm trong cả thời kỳ 2001-2021 nhưng không có ý nghĩa, và giảm 0,0165% trong giai đoạn 2001-2005 với mức ý nghĩa 5%. Điều này không phù hợp về mặt lý thuyết và kỳ vọng đặt ra. Lý do quan trọng là đây là giai đoạn giá gạo thế giới giảm mạnh và duy trì ở mức thấp và mặc dù giá gạo của Việt Nam khi đó rất thấp, gạo Việt trở nên rẻ hơn tương đối so với các nước khác, nhất là Thái Lan, nhưng nghiên cứu thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ ra rằng chất lượng gạo Việt thấp khiến nên luồng xuất khẩu gạo không tăng như kỳ vọng.

(iii) Hệ số ước lượng của biến loga của chi tiêu cuối cùng cho lương thực của nước nhập khẩu chỉ ra rằng nếu chi tiêu cuối cùng cho lương thực của các nước nhập khẩu tăng 1% thì cầu nhập khẩu gạo từ Việt Nam tăng 0,0165% trong cả thời kỳ 2001- 2021, tăng 0,0271% trong giai đoạn 2011-2016 và tăng 0,0227% trong giai đoạn 2016- 2021. Điều này phù hợp với kỳ vọng đặt ra, nhất là từ sau giai đoạn 2011-2015 khi chủng loại gạo đã được đa dạng hóa phù hợp hơn với nhu cầu khách hàng. Riêng ở giai đoạn 2016-2021, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đã gây gián đoạn luồng cung ứng gạo từ một số nước xuất khẩu chủ chốt sang các nước nhập khẩu truyền thống của họ, nhu cầu đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng lên.

(iv) Hệ số ước lượng của biến loga của gạo nhập từ thế giới còn lại cho thấy khi các nước tăng nhập khẩu gạo từ các nước ngoài 1% cầu nhập khẩu gạo từ Việt Nam tăng 0,0392% trong giai đoạn 2001-2005 và tăng 0,236% trong giai đoạn 2016-2021. Điều này không đáp ứng được mong đợi mà trái với logic là khi họ tăng nhập từ nước ngoài sẽ dẫn tới giảm cầu nhập khẩu từ Việt Nam. Tuy nhiên, xét về thực tiễn nó lại hoàn toàn hợp lý vì những ích lợi của gạo về dinh dưỡng và tiện ích trong chế biến cho tiêu dùng khiến gạo trở thành lương thực ngày càng được yêu thích ở nhiều quốc gia trên các châu lục, nhất là các quốc gia châu Phi, nơi mà gạo ngày càng được dùng thay thế cho các loại củ, quả là lương thực chính của họ. Hơn nữa, hệ số ước lượng cho giai đoạn cuối cùng (2016-2021) là lớn nhất phản ánh thực trạng là ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 làm gãy chuỗi cung ứng khiến cung gạo trở nên khan hiếm hơn trên thị trường toàn cầu và các nước nhập khẩu gạo chủ chốt đều nằm ở châu Á và Đông Nam Á, việc vận chuyển gạo từ Việt Nam đi sang các nước này được tiến hành dễ dàng hơn.

(v) Hệ số ước lượng của biến loga GDP của Việt Nam cho thấy rằng khi GDP

của Việt Nam tăng lên 1% thì xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng lên 0,0847% và có ý

nghĩa thống kê cho cả thời kỳ 2001-2021. Đây là một thực tế hiển nhiên vì khi GDP

tăng cũng có nghĩa là mức sống tăng – do dân số tăng với tốc độ chậm hơn- người dân

115

chuyển sang tiêu dùng các lương thực cao cấp hơn gạo dẫn tới lượng gạo tiêu dùng bình

quân đầu người giảm. Theo GSO thì tiêu dùng gạo bình quân đầu người/tháng của Việt

Nam đã giảm từ 9,7 kg năm 2010 xuống 8,1 kg năm 2018; 7,6 kg năm 2020 và 6,9 kg

năm 2022. Điều này phù hợp với xu hướng chung của của các nước sản xuất và tiêu

dùng gạo có thu nhập trung bình trở lên trong khu vực châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc,

Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia như kết quả nghiên cứu của các chuyên gia lương thực

quốc tế (Ilto, 1988; Timmer, 2010, 2014) đã chỉ ra.

Song, độ lớn của hệ số này rất khác nhau giữa các giai đoạn, phụ thuộc một

mặt vào các cú sốc cung về gạo ở các nước nhập khẩu gây ra bởi hiện tượng thời tiết

El-Nino và La-Nina trong các năm 2007, 2008 hoặc/và chính sách thương mại bảo

hộ -hạn chế xuất khẩu của các nước xuất khẩu chủ chốt như Ấn Độ năm 2008, cùng

13 nước khác (FAO, 2008-2009). Bởi vậy, trong giai đoạn 2006-2010, khi GDP của

Việt Nam tăng 1% kéo theo xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng mạnh nhất, lên tới

0,5661% và có ý nghĩa thống kê. Trái lại, hệ số ước lượng cho biến GDP của Việt

Nam chuyển sang mang dấu âm (-0,2493%) và có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn

2011-2015, đây là giai đoạn xuất khẩu gạo của Việt Nam gặp nhiều khó khăn nhất,

thị trường bị thu hẹp một phần do chất lượng gạo của Việt Nam thấp và năng lực

cạnh tranh của gạo Việt yếu và một phần khác là do sản xuất ở các nước nhập khẩu

tăng mạnh sau khủng hoảng. Dấu của hệ số ước lượng cũng âm nhưng không có ý

nghĩa ở giai đoạn 2016-2021, đó là do ở giai đoạn này, nhiều nước nhập khẩu gạo

đồng thời là nước sản xuất gạo như các quốc gia châu Á và châu Phi đẩy mạnh sản

xuất lúa gạo nhằm thực hiện tự túc gạo trong nước.

Mặt khác, trong các năm kể từ sau năm 2013 đến năm 2016 vấn đề nổi cộm của

gạo Việt cho xuất khẩu là chất lượng gạo quá thấp. Nhiều nước nhập khẩu quay lưng lại

với gạo Việt chuyển sang nhập gạo từ các nước xuất khẩu khác như Ấn Độ và Thái Lan.

Thêm vào đó, công tác điều hành xuất khẩu gạo ở Việt Nam qua VFA giai đoạn này

được phản ánh là thiếu tính minh bạch và kém linh hoạt khiến cho xuất khẩu gạo bị

thu hẹp. Đây là điều không mong đợi và không phù hợp với mô hình lý thuyết.

• Giải thích kết quả ước lượng các biến giả:

(vi) Hệ số ước lượng của biến x15 cho các nước nhập khẩu theo đuổi chính sách tự túc lương thực/gạo trong nước (SELF) cũng cho kết quả trái ngược với kỳ vọng. Nó chỉ ra rằng khi nước nhập khẩu theo đuổi chính sách tự túc gạo thì luồng thương mại gạo từ Việt Nam tăng 0,0611% trong cả thời kỳ 2001-2021 và đặc biệt tăng tới 0,1459%

116

trong giai đoạn 2006-2010. Đó là do ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết El-Nino và La- Nina làm giảm mạnh sản lượng gạo của các nước nhập khẩu gạo chủ chốt khiến nỗ lực vì mục tiêu tự túc gạo trong nước không đạt trong khi các nước này phải gia tăng nhập khẩu gạo từ bên ngoài, trong đó có Việt Nam.

(vii) Hệ số ước lượng của biến x22 biểu thị các nước thuộc địa của Pháp cho thấy rằng khi nước nhập khẩu thuộc phạm trù này thì luồng gạo xuất khẩu từ Việt Nam tăng trong cả thời kỳ 2001-2021 nhưng không có ý nghĩa. Điều không mong đợi là x22 có thể làm giảm 0,1519% cho giai đoạn đầu 2001-2005. Lý do là các nước nhập khẩu thuộc Pháp đa số là các nước nghèo tới từ Châu Phi, nơi mà khả năng thanh khoản cho các hợp đồng nhập khẩu yếu. Đối mặt với việc chậm trễ trong thanh toán cho các hợp đồng xuất khẩu khiến một số doanh nghiệp xuất khẩu Việt không mặn mà với việc xuất khẩu gạo sang các nước nghèo châu Phi. Do đó, các đối tác thương mại từng là thuộc địa Pháp không giúp làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam.

(viii) Hệ số ước lượng của biến x24 Contremote (nước nhập khẩu ở xa) cho thấy nếu nước nhập khẩu là nước nằm ngoài Châu Á thì luồng thương mại gạo từ Việt Nam tăng 0,0388% trong thời kỳ 2001-2021 và tăng 0,0532% trong giai đoạn 2011-2015. Đây là điều trái với kỳ vọng và trái với lý thuyết về lực hấp dẫn khi xem xét ảnh hưởng ngược chiều của khoảng cách giữa các đối tác thương mại trong hầu hết các nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn có thể lý giải được về mặt thực tiễn, đó là do trên 90% lượng gạo toàn cầu được sản xuất tại Châu Á và trên 80% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu có xuất xứ từ châu Á. Các nước ngoài châu Á, nhất là các quốc gia châu Phi là những nước nhập khẩu ròng về gạo. Việt Nam là một trong ba quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới nên việc kết quả ước lượng mang dấu dương thay vì dấu âm là hoàn toàn chấp nhận được.

(ix) Hệ số ước lượng cho biến giả FTA chỉ ra rằng nếu nước nhập khẩu có tham gia vào FTA với Việt Nam thì cầu đối với xuất khẩu gạo từ Việt Nam tăng 0,0042% cho cả thời kỳ 2001-2021, tăng 0,0234% trong giai đoạn 2001-2005, và tăng 0,0060% trong giai đoạn 2016-2021. Điều này phù hợp với dự đoán và kỳ vọng, nhất là trong giai đoạn đầu 2001-2005, khi các nước nhập khẩu chính của Việt Nam đến từ các quốc gia ASEAN như Indonesia, Philippines, Malaysia, Singapore và Brunei trong trong khuôn khổ AFTA và Trung Quốc trong khuông khổ ACFTA từ 2003. Trong giai đoạn 2016- 2021, nhu cầu nhập khẩu gạo từ Việt Nam của nhiều quốc gia là thành viên các FTA với Việt Nam và ASEAN như Nga trong VN-EAEU FTA (2016); Australia, Canada, Peru,

117

Chi Lê, New Zealan, Nhật Bản trong CPTPP (2018); Pháp, Đức, Balan trong EVFTA (2020) và Vương Quốc Anh trong UKVFTA (2021)51.

(x) Hệ số ước lượng của biến FTAlnc là biến tích giữa biến giả FTA và biến

tiêu dùng cuối cùng về lương thực lncc cho biết khi nước nhập khẩu là thành viên

của các FTA có Việt Nam tham gia và khi chi tiêu cuối cùng cho tiêu dùng lương

thực của nước nhập tăng lên 1% thì luồng xuất khẩu từ Việt Nam tăng lên 0,0267%

trong cả thời kỳ 2001-2021 và tăng 0,0060% trong giai đoạn 2016-2021. Độ lớn của

hệ số ước lượng có khác nhau trong các giai đoạn, phụ thuộc vào tình hình sản xuất

lúa gạo trong các điều kiện thời tiết cụ thể, vấn đề địa chính trị và kinh tế toàn cầu

cũng như chính sách lúa gạo của các quốc gia nhập khẩu. Cụ thể, luồng xuất khẩu

gạo từ Việt Nam tăng 0,0756% trong giai đoạn 2001-2005, tăng 0,1064% trong giai

đoạn 2006-2010, và tăng 0,107% trong giai đoạn 2011-2015, đây là giai đoạn các

nước nhập khẩu từ Trung Quốc (VFA, GSO, 2003-2017). Điều này phù hợp với kỳ vọng được đưa ra theo giả thiết.

Ngoài ra, giá xuất khẩu gạo và chính sách đối với thương mại gạo của các nước

xuất khẩu gạo còn lại của thế giới cũng có ảnh hưởng tới độ lớn của các hệ số và mức

độ ý nghĩa thống kê của các biến trong những giai đoạn cụ thể mà nghiên cứu này không

quan sát được.

Frankel, Stein và Wei (1995, 1996 và 1998) đã chỉ ra về mặt lý thuyết trong một

thế giới có nền kinh tế đối xứng rằng hai quốc gia là đối tác thương mại có khoảng cách

gần nhau sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ một FTA so với hai quốc gia khác, tức là hai

quốc gia ở cách xa nhau. Nói một cách khái quát hơn, điều này gợi ý rằng lợi ích từ một

hiệp ước thương mại sẽ càng lớn khi khoảng cách giữa hai nước càng nhỏ do tạo ra

thương mại lớn hơn. Điều này cho thấy một mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa khoảng cách

và xác suất của một FTA. Hơn nữa, khoảng cách sẽ không tương quan với sai số trong

phương trình lực hấp dẫn (εij) và khoảng cách được coi là ngoại sinh trong phương trình

lực hấp dẫn điển hình.

Hiệu ứng thể hiện bởi các biến giả âm được kích hoạt bởi sự thay đổi trong biến

giả. Có thể trình bày cách biến đổi hệ số của các biến thành ảnh hưởng /tác động của

51 Trung tâm WTO và Hội nhập – VCCI (2023)

chúng trong mô hình cấu trúc. Tất cả hệ số của các biến giả có ý nghĩa thống kê ít nhất

118

ˆ

dum m y

100

×

e β 

− 1 

từ 10% trở lên đều được biến đổi theo công thức do Piermartinni và cộng sự (2016, trang

ˆ dummyβ

17) đưa ra: (5.2)

trong đó là ước lượng ảnh hưởng của biến giả bất kỳ trong mô hình lực

hấp dẫn. Theo cách của Piermartinni và cộng sự 2016, luận án tính ảnh hưởng của các

biến thông qua hệ số của các biến có ý nghĩa và theo công thức trên. Kết quả tính được

thể hiện ở Bảng 5.5 dưới đây.

Bảng 5.5. Chuyển đổi các hệ số của mô hình lực hấp dẫn ước lượng (không có biến công cụ) thành tác động của các biến giả đến xuất khẩu gạo của Việt Nam

11,76183

-13,0555

0

13,14499

11,33794

Biến giả Thị hiếu của các nước nhập khẩu về gạo trắng thường hạt dài (x12)

6,332411

2,34712

0

11,90722

10,73834

Thị hiếu của các nước nhập khẩu về gạo khác: gạo nếp, gạo hạt tròn, gạo thơm (x13)

-4,44804

-7,76218

-5,2852

-4,08425

-1,81336

Nước nhập khẩu coi gạo là hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao (x14)

6,300517

0

15,70804

0

0

Nước nhập khẩu theo đuổi chính sách tự túc gạo (x15)

0

0

0

0

0

Nước nhập khẩu tiếp giáp đường biên (x16)

Các nước thuộc địa Pháp (x22)

0

-14,0926

0

0

0

3,956252

0

0

5,464051

0

Nước nhập khẩu nằm ngoài châu Á (x24)

2,705962

7,853102

0

0

8,263723

Biến tích FTAlncc –FTA kết hợp với chi tiêu cuối cùng cho lương thực của nước nhập khẩu

0,420883

2,367591

0

0

0,601803

Hiệp định thương mại tự do (FTA)

M1a M2a M3a M4a M5a

Nguồn: tác giả ước lượng từ số liệu thu thập được

119

Kết quả từ bảng 5.5 cho biết ảnh hưởng của các biến giả tới xuất khẩu gạo của

Việt Nam như sau:

Biến giả nước nhập khẩu gạo có thị hiếu đối với gạo trắng thường hạt dài (x12) cso thể làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam lên 11,76% trong cả thời kỳ 2001- 2021, nhưng có biến động mạnh giữa các giai đoạn. Ở giai đoạn 2001-2005, nguồn cung gạo hạt dài trên thế giới dồi dào trong khi chất lượng gạo của Việt Nam thấp nên xuất khẩu gạo trắng hạt dài của Việt Nam giảm 13,05%. Sự sụt giảm này chủ yếu đến từ các nước thu nhập cao như Mỹ, Saudi-Arab, Hàn Quốc, Canada, Hà Lan, Bỉ, Đức, Italia, Tây Ban Nha và Vương Quốc Anh (theo dữ liệu của ITC). Tuy nhiên, biến này không có tác động gì tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2006- 2010, mặc dù lượng gạo xuất khẩu tăng mạnh trong năm 2009 và 2010. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo trắng thường hạt dài đã tăng lên đúng hướng như kỳ vọng, tăng 13,14% ở giai đoạn 2011-2016 và tăng 11,34% ở giai đoạn 2016-2021 do chất lượng gạo được cải thiện và do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 làm sụt giảm sản lượng gạo ở các nước SX&TD gạo phải nhập khẩu gạo và do gãy chuỗi cung ứng từ các nước xuất khẩu khác sang các nước nhập khẩu lớn.

Biến giả x13 về thị hiếu của các nước nhập khẩu đối với gạo khác như gạo thơm, gạo đặc sản, gạo nếp, gạo hạt tròn và gạo Nhật giúp làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam lên 6,3% cho cả thời kỳ 2001-2021. Tuy nhiên, ảnh hưởng này cũng rất khác nhau trong mỗi giai đoạn dao động từ 2,3% ở giai đoạn 2001-2005 và không có ảnh hưởng trong giai đoạn 2006-2010. Lý đó là các nhà lúa gạo Việt Nam lập luận rằng Việt Nam không thể cạnh tranh với các nhà xuất khẩu khác trong việc xuất khẩu gạo thơm ngon nên chủ trương chú trọng đến việc tăng sản lượng gạo trắng chất lượng thấp cho xuất khẩu. Nhận diện được yếu điểm của định hướng sản xuất và xuất khẩu gạo này, từ năm 2011 Việt Nam đã xây dựng chiến lược đa dạng hóa sản xuất gạo cho xuất khẩu sang các loại gạo nếp, gạo thơm và gạo hạt tròn, có chất lượng và xuất khẩu cao giúp xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 11,9% trong giai đoạn 2011-2015 và tăng 10,1% trong giai đoạn 2016-2021.

Biến giả x14 - các nước nhập khẩu coi gạo là hàng đặc biệt, áp dụng biện pháp

đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao: Việc định lượng ảnh hưởng

của thuế quan đến xuất khẩu là dễ dàng và hữu ích hơn cả từ góc độ chính sách. Tuy

nhiên, sự gia tăng nhanh chóng của các biện pháp hạn chế thương mại phi thuế quan đặt

ra những thách thức lớn trong việc định lượng ảnh hưởng của các chính sách đó. Hơn

nữa, việc có thể thể hiện tác động của các chính sách thương mại thay thế theo một cách

nhất quán thường là điều mong muốn vì nó rất hữu ích. Mô hình lực hấp dẫn đưa ra một

120

giải pháp là cho phép các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách chuyển tác động của

bất kỳ biến số chính sách thương mại nào thành tác động tương đương với thuế quan (Piermartini và cộng sự, 2016, trang 18): [(cid:11)(cid:12)(cid:8)(cid:13)(cid:14)(cid:15)/(cid:12)(cid:8)(cid:14)(cid:15)(cid:13)(cid:17)(cid:18)(cid:18) − 1](cid:21)100 , trong đó (cid:11)(cid:12)(cid:8)(cid:13)(cid:14)(cid:15)/(cid:12)(cid:8)(cid:14)(cid:15)(cid:13)(cid:17)(cid:18)(cid:18) là các ước lượng về tác động của hiệp định thương mại và thuế quan.

Theo Piermartini và cộng sự (2016), lý tưởng nhất là người ta có thể có được

những ước lượng về ảnh hưởng của thuế quan và tất cả các yếu tố có tính quyết định

thương mại khác trong cùng một chỉ định thực nghiệm thống nhất về mặt lý thuyết.

Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh rằng, hầu hết các ước lượng về mô hình lực hấp

dẫn đều không bao gồm thuế quan. Điều này không nhất thiết loại trừ việc tính toán

các ảnh hưởng tương đương của thuế quan. Do đó có thể dựa vào các đặc tính cấu trúc

của MHLHD để xây dựng thuế quan và dùng cách giải thích cấu trúc của hệ số thuế

quan là βTARIFF.

Tuy nhiên, dữ liệu thu thập được của luận án không đủ điều kiện để phân biệt giữa các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Vì thế luận án sẽ sử dụng cách giải thích từ công thức (5.2) để giải thích cho biến “Nước coi gạo là hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao” hay x14. Nếu nước nhập khẩu coi gạo là hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao lên xuất khẩu gạo của Việt Nam thì xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm 4,4% (-4,4%) trong cả thời kỳ 2001-2021, giảm 7,76% (-7,76%) ở giai đoạn 2001-2005, và tốc độ giảm chậm dần xuống 5,29% (-5,29%) ở giai đoạn 2006-2010, giảm 4,1% (-4,1%) ở giai đoạn 2011-2016 và giảm 1,81% (-1,81%) trong giai đoạn 2016-2021. Điều này phần nào phản ánh ảnh hưởng của quá trình tự do hóa thương mại gạo và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 khiến các quốc gia nhập khẩu gạo tăng cường mở của thị trường cho gạo Việt.

Biến giả nước tiếp giáp đường biên (x16) không có tác động lên xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tất cả các giai đoạn của thời kỳ nghiên cứu như được phản ánh ở kết quả ước lượng được chỉ ra ở Bảng 5.5. Điều này trái với lý thuyết về lực hấp dẫn trong thương mại và có thể Trung Quốc là nước nhập khẩu duy nhất có chung đường biên giới với Việt Nam. Song, thực tế chỉ ra rằng Trung Quốc là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam trong các năm từ 2012 đến 2017, có năm nhập tới xấp xỉ 50% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam và luôn là một trong những nhà nhập khẩu lớn cho tới năm 2021.

Biến các nước theo đuổi chính sách tự túc gạo (x15) lẽ ra có ảnh hưởng làm giảm xuất khẩu gạo từ Việt Nam. Song, như đã giải thích về kết quả ước lượng ở bảng 4.4 ở trên có tác động ngược lại. Đó là do tỷ lệ tự túc gạo trong nước ở các nước

121

nhập khẩu thấp, lượng gạo thiếu hụt lớn so với nhu cầu trong nước bất kể nỗ lực cao trong việc theo đuổi chính sách tự túc gạo, buộc các nước này phải nhập khẩu từ bên ngoài và Việt Nam. Sự kiện này giúp xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 6,3% trong cả thời kỳ 2001-2021. Tuy nhiên, nó không có tác động tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 một mặt do giá gạo thế giới xuống thấp và mặt khác chất lượng gạo của Việt Nam thấp trong giai đoạn này. Song, sự thiếu hụt gạo nghiêm trọng trong giai đoạn 2006-2010 thời tiết bất thường gây mất mùa ở các nước nhập khẩu giúp xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng mạnh lên tới 15,71% trong giai đoạn này. Ở các giai đoạn sau như 2011-2015 và 2016-2021, tự túc gạo trong nước ở các nước nhập khẩu không có tác động đến xuất khẩu của Việt Nam.

Kết quả ước lượng trong Bảng 5.5 chỉ ra rằng các nước thuộc địa Pháp (x22) không có tác động đến xuất khẩu của Việt Nam trong cả thời kỳ 2001-2021. Tuy nhiên, hoạt động thương mại gạo ở các nước này làm giảm xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005, chủ yếu do tính thanh khoản yếu của các nước này cho các hợp đồng nhập khẩu. Trong các giai đoạn 2006-2010, 2011-2015 và 2016-2021 không tác động đến luồng xuất khẩu của Việt Nam mặc dù lượng gạo xuất sang các nước này gia tăng.

Các nước ngoài châu Á (x24) là các nước nhập khẩu ròng gạo giúp xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 3,96% cho cả thời kỳ 2001-2021. Tuy nhiên, chúng không có ảnh hưởng lên xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. Song, điều này giúp tăng xuất khẩu lên 5,5% trong giai đoạn 2011-2015. Đó là do giá gạo của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với với gạo các nước xuất khẩu khác và luồng xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh sang các nước nghèo ở Châu Phi như Ghana, Bờ Biển Ngà, Angola, Mozambique, Benin, Kenya (từ dữ liệu ITC). Mặc dù vậy, biến này không có tác động lên xuất khẩu gạo của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2021 bởi vì các nước này đẩy mạnh việc sản xuất gạo trong nước và do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến việc nhập khẩu gạo.

Biến Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và các nước nhập khẩu giúp làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam lên 0,42%, trong toàn thời kỳ 2001-2021. Nhưng trong từng giai đoạn kết quả tác động có biến động đáng kể. Điều này có thể thấy trong giai đoạn 2001-2005 các FTA giúp cho xuất khẩu gạo Việt Nam tăng 2,37%, song trong giai đoạn từ 2006 đến 2010 và 2011-2015 lại không có ý nghĩa mặc dù xuất khẩu có tăng đáng kể mặc dù trong giai đoạn này nhiều FTA thế hệ mới được ký kết và có hiệu lực. Việt Nam ngày càng có nhiều nước nhập khẩu là thành viên FTA trong giai đoạn cuối (2016-2021), điều này đã giúp xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 0,6% và có ý nghĩa.

122

Biến tích FTAlncc khi các nước là thành viên của các FTA có Việt Nam tham gia và tiêu dùng cuối cùng của họ về lương thực/gạo làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam 2,71% trong cả thời kỳ 2001-2021. Kết quả này có biến động mạnh giữa các giai đoạn, cụ thể là FTAlncc đã làm tăng xuất khẩu lên 7,85% trong giai đoạn 2001-2005, nhưng không có ảnh hưởng lên xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 và 2011-2015, và tiếp đó dẫn tới làm tăng xuất khẩu của Việt Nam lên 8,26% trong giai đoạn 2016-2021. Lý do FTAlncc làm tăng mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam ở giai đoạn 2016-2021 đã được giải thích cho biến FTAlncc Bảng 5.4 ngay cả khi không có biến công cụ ở phần trên.

Tóm lại sử dụng phép biến đổi như Piermartinni và cộng sự (2016), luận án có

một số phát hiện chính về các biến liên quan đến chính sách thương mại như sau:

(i) Ảnh hưởng của các FTA trong thời kỳ 2001-2021, thời kỳ 2001-2005 và thời kỳ 2016-2021 về trung bình làm tăng lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam sang các đối tác thương mại là 0,42%; 2,37% và 0,60%.

(ii) Ảnh hưởng của các FTA có tính đến tiêu dùng cuối cùng về lương thực của các nước nhập khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ 2001-2021, thời kỳ 2001-2005 và thời kỳ 2016-2021 trung bình làm tăng lượng gạo nhập khẩu của Việt Nam của các đối tác thương mại là 2,71%; 7,85% và 8,26% tương ứng. Tác động của tiêu dùng cuối cùng của các nước nhập khẩu tới xuất khẩu gạo của Việt nam là điểm mới trong nghiên cứu này.

(iii) Ảnh hưởng của chính sách lương thực của các nước coi gạo là hàng hóa đặc biệt và áp dụng các biện pháp đối xử đặc biệt với các rào cản thuế quan và phi thuế quan đặc biệt cao trong thời kỳ 2001-2021; 2001-2005; 2006-2010; 2011-2015 và 2016-2021 trung bình làm giảm lượng gạo của Việt Nam xuất sang các đối tác thương mại là - 4,448%; -7,762% ; -5,285%; -4,84% và -1,813 %. Đây là điểm mới được chỉ ra ở nghiên cứu này mà các nghiên cứu trước đây chưa từng tính đến.

5.4.2. Ước lượng MHLHDCT có biến công cụ vận dụng PPML

Để thực hiện ước lượng MHLHDCT với biến công cụ, luận án thực hiện thủ tục

ước lượng theo 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: ước lượng biến công cụ

5.4.2.1. Ước lượng biến công cụ

Giai đoạn 2: ước lượng MHLHDCT có biến công cụ vận dụng PPML

Trong mục này, luận án trình bày ước lượng MHLHDCT có biến công cụ. Theo lý thuyết đã trình bày chương 3 các chính sách thương mại hình thành các hiệp ước song

123

phương, đa phương là biến nội sinh trong mô hình lực hấp dẫn. Chương 3 cũng chỉ ra mô hình xác định biến nội sinh FTA dạng probit như sau:

P(FTA = 1*Q, z) = Φ(π0 + π1'Q + π2'z), (4.2)

Các biến độc lập trong mô hình bao gồm:

• Khoảng cách

• GDP danh nghĩa

• Sự xa xôi của các đối tác FTA

• Sự khác biệt tương đối giữa yếu tố và nguồn lực

Chương 3 cũng đã trình bày luận cứ của Baier và Bergstrand (2007) về việc đo lường sự khác biệt về nguồn lực tương đối được tiến hành bằng cách lấy GDP bình quân đầu người (hoặc dân số) của hai quốc gia làm đại diện cho tỷ lệ vốn-lao động trung bình của hai quốc gia. Do đó, các biến sẽ bao gồm GDP danh nghĩa, dân số, khoảng cách song phương và biến giả lân cận. Sau khi ước lượng mỗi mô hình probit, luận án dự báo các biến FTAhat sẽ được đưa vào ước lượng mô hình PPML ở giai đoạn 2.

Trong mục này, luận án ước lượng mô hình probit (5.2) để dự báo các biến công cụ. Trước khi ước lượng mô hình 5.2, luận án định nghĩa các mô hình con như sau: Ước lượng mô hình 5.2 được chia thành các mô hình nhỏ theo cách phân chia tập số liệu theo thời kỳ và các giai đoạn và gọi mô hình 1iv (M1iv) là mô hình 5.2 ước lượng trên tập số liệu của thời kỳ 2001-2021 (từ năm 2001 tới năm 2021). Gọi các mô hình 2iv, 3iv, 4iv, và 5iv (M1iv, M2iv, M3iv, M4iv, M5iv) là mô hình 5.2 ước lượng trên các tập số liệu từ 2001-2005; 2006-2010; 2011-2015 và 2016 đến 2021). Kết quả ước lượng các mô hình probit được phản ánh ở Bảng 5.6 dưới dây.

Bảng 5.6. Hồi quy probit ước lượng các biến công cụ

M1iv

M2iv

M3iv

M4iv

M5iv

2001-2021

2001-2005

2006-2010

2011-2015

2016-2021

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

-4,4E-05**

-6,3E-05

-0,00501*

-0,00013**

-0,00066***

d0

(2.23E-05)

(9.57E-05)

(0.00262)

(5.55E-05)

(0.000231)

4,35E-08***

9,86E-08**

8,71E-08

8,11E-08**

4,14E-08

gdpv2

(1.47E-08)

(4.60E-08)

(2.51E-07)

(3.51E-08)

(1.31E-07)

2,45E-06***

9,48E-06***

2,94E-05

4,59E-06***

-2,4E-05***

gdpn2

(5.91E-07)

(3.22E-06)

(3.44E-05)

(1.45E-06)

(8.87E-06)

popv

-3,40E-06

9,19E-05

0,001906***

-7,6E-05

0,00073**

(7.76E-06)

(0.000115)

(0.000662)

(7.05E-05)

(0.000305)

4,53E-07

-7,14E-06

2,35E-05

-4,17E-06

6,81E-06

popn

(3.04E-07)

(5.55E-06)

(1.82E-05)

(3.05E-06)

(5.02E-06)

0,170357

0,065144

1,0364

0,742151*

-4,7115**

x24

(0.179895)

(0.578146)

(1.33343)

(0.415831)

(2.033336)

-0,00024

-0,84837

2,06023

0,058022

-0,00263

x25

(0.000239)

(0.584424)

(2.43522)

(0.277519)

(0.00224)

4,79E-08

0,113043

-2,5156

0,015393

3,82E-07

x252

(5.16E-08)

(0.162224)

(2.46672)

(0.06054)

(4.92E-07)

-0,94741

-10,3443

-15,1657***

5,42756

-6,55872**

_cons

(0.694244)

(9.227616)

(5.50948)

(6.348958)

(2.87699)

Log likelihood

-544,7528

-36,760087

-20,115326

-114,97093

-32,806829

Wald chi2(8)

29,80

15,67

32,81

20,65

43,55

Prob > chi2

0,0002

0,0473

0,0001

0,0001

0,0000

124

Nguồn: tác giả ước lượng từ số liệu thu thập được

Để ước lượng biến công cụ cho FTA, luận án thực hiện chiến lược ước lượng và dự báo FTAhat cho từng tập dữ liệu mà không dùng chung kết quả từ một mô hình sử dụng dữ liệu 2001- 2021. Đơn giản là vì mỗi mô hình PPML được ước lượng trên tập số liệu khác nhau nên biến công cụ trong mô hình đó cũng phải xuất phát từ tập số liệu tương ứng. Bảng 5.6 trình bày kết quả ước lượng 5 mô hình probit cho các tập số liệu 2001-2021, được trình bày ở cột thứ 2. Kết quả ước lượng mô hình probit cho các tập số liệu 2001-2005; 2006-2010; 2011-2015 và 2016- 2021 được trình bày ở các cột 3, 4, 5, và 6 tương ứng của Bảng 5.6.

Nhìn chung kết quả ước lượng cho thấy hệ số của biến khoảng cách trong cả 5 mô hình đều mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê trừ hệ số của biến khoảng cách trong mô hình 2 (M2iv), tuy cũng mang dấu âm nhưng không có ý nghĩa thống kê. Điều này phù hợp với nhận định của Frankel, Stein và Wei (1995, 1996 và 1998) là trong một thế giới có nền kinh tế đối xứng, hai quốc gia là đối tác thương mại có khoảng cách gần nhau sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ một FTA so với hai quốc gia khác, tức là hai quốc gia cách xa nhau.

Biến thứ hai là GDP của Việt Nam, hệ số mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê trừ dấu của hệ số này ở hai mô hình 3 và 5 (M3iv và M5iv). Điều này phù hợp với nhận định của Baier và Bergstrand (2002), lợi ích phúc lợi từ các FTA sẽ cao hơn đối với các quốc gia có hệ số tuyệt đối lớn hơn nguồn tài trợ (và do đó GDP lớn hơn). Thêm vào đó hệ số của biến GDP của nước ngoài cũng dương và có ý nghĩa thống kê trong 4 mô hình trừ

125

mô hình thứ 5 (M5iv), hệ số của biến này mang dấu âm và cũng có ý nghĩa thống kê. Điều này có thể hiểu là do có ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trong giai đoạn tương ứng.

Biến sự xa xôi của các đối tác FTA có hệ số dương ở hầu hết các mô hình, và không có ý nghĩa thống kê trừ mô hình thứ 4 (M4iv). Tuy nhiên hệ số biến này mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê ở mô hình thứ 5 (M5iv), đó là do đại dịch Covid-19 làm gãy chuỗi cung ứng và làm giảm khối lượng thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên của các FTA.

Các biến khác nói chung ảnh hưởng của chúng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam không có ý nghĩa thống kê, đặc biệt ở biến đo lường sự khác biệt về nguồn lực tương đối được xấp xỉ theo quan điểm của Baier và Bergstrand (2002), đó là tỷ lệ giữa GDP bình quân theo đầu người của hai quốc gia làm đại diện cho tỷ lệ vốn-lao động trung bình của hai quốc gia (x25) cả ở dạng bình phương (x25^2) đều không có ý nghĩa thống kê; có thể trong các mẫu này, biến này chưa phải xấp xỉ tốt.

Tóm lại Bảng 5.6 trình bày kết quả ước lượng hồi quy probit giai đoạn đầu. Như vậy, một số biến trong đó có ước lượng hệ số phù hợp với mô hình lý thuyết và có ý nghĩa thống kê. Khoảng cách song phương lớn hơn giữa hai quốc gia làm giảm khả năng đạt được FTA.

Các cặp quốc gia có GDP lớn hơn có mối quan hệ tích cực với P(FTA), nghĩa là tạo ra luồng thương mại lớn hơn giữa cặp quốc gia này và FTA đem lại lợi ích phúc lợi lớn hơn. Các biến giả về cận kề không có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt song phương về tỷ lệ vốn-lao động (được xấp xỉ bằng x25 và x25^2) lớn hơn không có xu hướng làm tăng P(FTA).

5.4.2.2. Ước lượng MHLHDCT bằng PPML với biến công cụ

Sau khi ước lượng các mô hình probit từ 1-5, luận án tiến hành dự báo giá trị FTA và ký hiệu là FTAhat (^) đưa vào mô hình PPML thay cho FTA. Kết quả ước lượng mô hình PPML với biến công cụ sẽ được trình bày ở phần sau.

Trong phần này, luận án ước lượng MHLHDCT về xuất khẩu gạo của Việt Nam. Trước khi ước lượng mô hình 5.1 với biến công cụ, luận án sẽ định nghĩa các mô hình con như sau: Ước lượng mô hình 5.1 với biến công cụ được chia thành các mô hình nhỏ theo cách phân chia tập số liệu và gọi là mô hình 1b (M1b) là mô hình 5.1 với biến công cụ ước lượng trên tập số liệu cho cả thời kỳ 2001-2021. Gọi là mô hình 2b, 3b, 4b, 5b (M1b, M2b ,M3b, M4b, M5b) là mô hình 5.1 ước lượng trên tập số liệu cho giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 (2001-2005); 2006-2010; 2011-2015 và từ năm 2016 đến năm 2021). Kết quả ước lượng được thể hiện ở Bảng 5.7.

126

Bảng 5.7. Kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc bằng thuật toán PPML có biến công cụ

M1b

M2b

M3b

M4b

M5b

|

Robust

Robust

Robust

Robust

Robust

Tên biến

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

-0,0169

-0,1045***

-0,1108***

-0,0777***

lnd0

- 0,0728***

(0.0665)

(0.0324)

(0.0133)

(0.0189)

Loga của khoảng cách từ TPHCM đến thủ đô của nước nhập khẩu (km)

(0.0149)

-0,0030

-0,0057

-0,0001

-0,0006

0,0081*

lneij

Loga của tỷ giá song phương

()0.0031

(0.0079)

(0.005)

(0.0037)

(0.0045)

0,0162**

-0,0003

0,0230**

0,0331***

0,0309***

lncc

(0.0071)

(0.0217)

(0.011)

(0.0067)

(0.0109)

Loga của tiêu dùng cuối cùng của nước nhập khẩu

0,0050

0,0226

-0,0141

0,0024

0,0212

lnm 2

(0.0073)

(0.0277)

(0.0086)

(0.0074)

(0.0132)

Loga của gạo nhập khẩu từ thế giới còn lại của nước nhập

0,0864***

0,1600

0,5440***

-0,2563***

-0,0386

Loga GDP Việt Nam

lngd pv

(0.0218)

(0.1939)

(0.1304)

(0.0858)

(0.0981)

0,0404***

-0,0698**

-0,1182

0,0182***

0,0190***

x12

(0.0173)

(0.0307)

(0.0724)

(0.0078)

(0.0043)

Biến giả thị hiếu về gạo trắng thường hạt dài (T1)

0,0779***

-0,0895

-0,1475***

0,0203

0,1208***

x13

(0.0243)

(0.0877)

(0.0439)

(0.0305)

(0.0281)

Thị hiếu về gạo khác: gạo nếp, gạo hạt tròn, gạo thơm (T2)

-0,1145*

-0,0638**

-0,0492***

-0,0092

Nước coi gạo là hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt

x14

(0.0611)

(0.0307)

(0.0169)

(0.0217)

-0,0468***

với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao (TPF)

(0.0149)

0,0759***

0,1355**

0,1333***

0,0340

-0,0436

x15

Nước theo đuổi chính sách tự túc gạo (SELF)

(0.0226)

(0.0649)

(0.0349)

(0.0229)

(0.0370)

-0,0135

0,0106

0,0516*

0,0439**

0,0508

x16

Nước tiếp giáp đường biên

(0.0699)

(0.0595)

(0.0269)

(0.0215)

(0.0310)

x22 Các nước thuộc địa pháp 0,0611***

-0,0173

-0,0022

0,0198

-0,0368

127

M1b

M2b

M3b

M4b

M5b

|

Robust

Robust

Robust

Robust

Robust

Tên biến

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

(0.0191)

(0.0555)

(0.0294)

(0.0202)

(0.0341)

0,0173

0,0212**

-0,0035

0,0017

0,0062***

x24

Contremote (nước ngoài châu Á )

(0.0187)

(0.0099)

(0.0056)

(0.0022)

(0.0021)

0,0051**

0,0328**

0,0450***

0,0673***

0,0974***

x21l ncc

Biến tích giữa biến giả FTA và biến lncc

(0.0021)

(0.0036)

(0.0118)

(0.0217)

(0.0336)

0,0003

0,5014

-0,0180**

0,0218***

0,2142*

x18h at1

(0.0002)

(2.472)

(0.002)

(0.0035)

(0.1217)

Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu có tham gia hiệp ước FTA với Việt Nam

1,4059***

-0,0169

-0,1045***

-0,1108***

-0,0777***

_cons

(0.2794)

(0.0665)

(0.0324)

(0.0133)

(0.0189)

Số quan sát

787

115

195

223

243

Pseudo log-likelihood:

-1807,008

-256,672

-435,0074

-495,606

-546,936

R-squared:

0,3062580

0,455

0,461

0,5731

0,5028

Nguồn: tác giả ước lượng từ số liệu thu thập được.

So sánh kết quả thu được từ việc ước lượng MHLHDCT bằng thuật toán PPML có biến công cụ trình bày ở Bảng 5.7 với kết quả ước lượng MHLHDCT bằng thuật toán PPML không có biến công cụ trình bày ở Bảng 5.4 có thể đưa ra một số nhận xét sau đây.

So sánh kết quả thu được từ việc ước lượng MHLHDCT bằng thuật toán PPML có biến công cụ trình bày ở Bảng 5.7 với kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc bằng thuật toán PPML không có biến công cụ trình bày ở Bảng 5.4 có thể đưa ra một số nhận xét sau đây:

Thứ nhất, trường hợp biến khoảng cách thì cả hai cách ước lượng không có biến

công cụ và có biến công cụ không khác nhau về dấu, nhưng độ lớn có thay đổi. Ở đây,

hệ số ước lượng của biến loga của khoảng cách từ thành phố Hồ Chí Minh tới thủ đô

các nước nhập khẩu (lnd0) đều mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê cho cả thời kỳ 2001-

2021 và các giai đoạn 2006-2010; 2011-2016 và 2016-2021, trừ giai đoạn 2001-2005

không có ý nghĩa thống kê ở cả hai mô hình. Kết quả cho thấy rằng khi khoảng cách tăng

lên 1% khiến luồng xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm 0,0728% cho cả thời kỳ 2001-2021

ở mô hình có biến công cụ, giảm nhẹ hơn so với 0,0876% ở mô hình không có biến công

cụ. Tuy nhiên, kết quả ước lượng thu được ở các mô hình con cho các giai đoạn 2006-

2010; 2011-2015; và 2016-2021 chỉ ra rằng luồng xuất khẩu từ Việt Nam giảm mạnh

128

trong cả ba giai đoạn khi có dùng biến công cụ, đó là -0,1045% ở M1a so với 0,091% ở

M1b; -0,1108% ở M1b so với -0,1039% ở M1a; và -0,0777% ở M1b so với -0,077% ở

M1a cho các giai đoạn tương ứng. Song, tác động của khoảng cách lên luồng thương

mại hay mối quan hệ ngược chiều giữa chúng trong cả hai trường hợp đều hoàn toàn

phù hợp với mô hình lý thuyết và mong đợi của nghiên cứu.

Thứ hai, hệ số ước lượng của biến loga của tỷ giá song phương đều mang dấu âm

song không có ý nghĩa thống kê trong cả thời kỳ 2001-2021 và 3 giai đoạn 2001-2005;

2006-2010; và 2011-2015 giống như mô hình không có biến công cụ và mang dấu dương

ở giai đoạn 2016-2021. Điều khác nhau là trong khi hệ số này có ý nghĩa thống kê ở giai

đoạn 2001-2005 ở M2a đã trở nên không có ý nghĩa ở mô hình M2b. Trái lại, hệ số này

mang dấu dương và trở nên có ý nghĩa thống kê ở mô M5b trong khi không có ý nghĩa

ở M5a. Điều này phù hợp với lý thuyết kinh tế trong một nền kinh tế mở, đó là khi đồng

tiền của nước xuất khẩu mất giá làm xuất khẩu trở nên rẻ hơn tương đối và có tác dụng

tác đẩy xuất khẩu.

Thứ ba, dấu của hệ số của biến loga của tiêu dùng cuối cùng của nước nhập khẩu

ở cả hai mô hình M1a và M1b đều dương và có ý nghĩa thống kê cho cả thời kỳ 2001-

2021 với giá trị gần như tương đương là khi tiêu dùng cuối cùng tăng 1% thì cầu về gạo

nhập khẩu từ Việt Nam tăng lên 0,0165% ở M1a mức ý nghĩa là 1% và 0,0162% ở mô

hình M1b với mức ý nghĩa là 5%. Hệ số ước lượng cho biến này ở cả M2a và M2b cho

giai đoạn 2001-2005 đều mang dấu âm và không có ý nghĩa thống kê. Ở các giai đoạn

sau, các hệ số ước lượng trong M3b, M4b và M5b cho kết quả tốt hơn so với trong M3a,

M4a và M5a nhất là khi hệ số ước lượng của biến lncc ở M3b đã trở nên có ý nghĩa thay

vì không có ý nghĩa ở M3a và giá trị của các hệ số này cũng cao hơn ở M3b, M4b và

M5b. Hơn nữa, mức độ ý nghĩa thống kê ở M5b cũng tốt hơn: 1% thay vì 5% ở M5a.

Thứ tư, hệ số ước lượng của biến loga của gạo nhập từ thế giới còn lại tuy có sự

giống nhau về dấu ở cả thời kỳ và các giai đoạn, song không còn có ý nghĩa thống kê ở

giai đoạn 2001-2005 và 2016-2021 trong M2b và M5b như ở M2a và M5a. Đây là điều

phù hợp với giả thiết của mô hình.

Thứ năm, nói chung, hệ số ước lượng cho biến loga GDP của Việt Nam trong cả

hai mô hình có và không có biến công cụ không có sự khác biệt, đều cho kết quả tương

đối tương đồng cả về dấu và ý nghĩa thống kê như đã phân tích trước đây từ Bảng 5.4.

Thứ sáu, hệ số cho biến x12 về thị hiếu về gạo trắng hạt dài ở hai mô hình ước

lượng không có và có biến công cụ không có khác biệt về dấu và mức độ ý nghĩa thống

129

kê cho cả thời kỳ 2001-2021, và ở các giai đoạn 2001-2005; 2006-2010; 2011-2015 và

2016-2021. Từ các số liệu trong các Bảng 5.4 và Bảng 5.7 có thể thấy rằng x12 có thể

làm thay đổi xuất (tăng/giảm) xuất khẩu gạo từ Việt Nam lên 0,0112%; -0,1399%; -

0,0192%; 0,1235%; 0,1074% khi không có biến công cụ và 0,0404%; -0,0698%; -

0,1182%; -0,0182%; 0,019% khi có biến công cụ. nghĩa là nhu cầu về gạo trắng hạt dài

tăng lên ở mô hình có biến công cụ.

Thứ bảy, hệ số của biến x13 về thị hiếu đối với các loại gạo nếp, gạo thơm và gạo hạt tròn cho thấy dấu và mức ý nghĩa thống kê của các hệ số ước lượng khi có biến công cụ có thể phản ánh tốt hơn tác động của biến x13 tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ và các giai đoạn nghiên cứu cụ thể.

Thứ tám, tác động của x14 về nước coi gạo là hàng đặc biệt đến xuất khẩu gạo của Việt Nam cho thấy khá tương tương đồng ở cả hai mô hình ước lượng có và không có biến công cụ. Các hệ số biến trong tất cả thời kỳ và giai đoạn đều mang dấu âm và có ý nghĩa thống kê trừ giai đoạn 2016-2021. Cụ thể, x14 có thể tác động làm giảm xuất khẩu gạo của Việt Nam là -0,0455%; -0,0808%; -0,0543%; -0,0417%, -0,0183% khi không có biến công cụ và -0,0468%; -0,1145%; -0,0638%; -0,0492%; -0,0092% khi có biến công cụ cho các thời kỳ 2001-2021; 2001-2005; 2006-2010; 2011-2015; 2016-2021 tương ứng. Như vậy, giá trị tuyệt đối của hệ số và mức độ ý nghĩa thống kê trong mô hình có biến công cụ cho thấy phù hợp với mong đợi và là mục tiêu của nghiên cứu, chỉ ra sự khác biệt với các nghiên cứu thực nghiệm trước đây ở Việt Nam.

Thứ chín, các hệ số ước lượng của biến x15, nước nhập khẩu theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước qua các thời kỳ đều giống nhau tuy độ lớn của hệ số có khác nhau trong trường hợp không có biến công cụ và có biến công cụ. Khi có biến công cụ, x15 có thể làm tăng xuất khẩu gạo từ Việt Nam mạnh hơn và có ý nghĩa thống kê tốt hơn ở cả thời kỳ 2001-2021 và 2 giai đoạn đầu 2001-2005; 2006-2010 thể hiện ở M1b, M2b và M3b với các giá trị là 0,0759%; 0,1355%; 0,1333% so với 0,0611%; 0,1019%; 0,1459% ở M1a, M2a và M3a khi không có biến công cụ. Ở hai giai đoạn sau 2011-2015 và 2016-2021, dấu của các hệ số đều giống nhau và đều không có ý nghĩa thống kê.

Thứ mười, hệ số ước lượng cho biến x16 về nước tiếp giáp đường biên mặc dù vẫn mang giá trị âm và không có ý nghĩa thống kề cho cả thời ký 2001-2021 ở cả hai mô hình khi không có và khi có biến công cụ nhưng dấu hệ số biến này đã trở nên dương nghĩa là làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam sang nước lân cận (Trung Quốc) và có ý nghĩa thống kê ở 2006-2010 và 2011-2015, và cũng mang dấu dương trong giai đoạn 2016-2021

130

thay vì mang dấu âm hay có thể làm giảm xuất khẩu của Việt Nam ở giai đoạn 2016-2021. Có thể thấy khi nhìn lại các hệ số ước lượng là -0,0503%; -0,0661%, 0008%; 0,0126%; - 0,0633% khi không có biến công cụ và tất cả đều không có ý nghĩa thống kê; các giá trị tương ứng là -0,0125%; 0,0106%; 0,0516%*; 0,0439%**; 0,0508% khi có biến công cụ. Điều này hoàn toàn phù hợp với mô hình lý thuyết và thực tiễn xuất khẩu của Việt Nam sang nước có chung đường biên giới -Trung Quốc, trong các giai đoạn tương ứng.

Thứ mười một, hệ số ước lượng cho biến x22 về các nước nhập khẩu là nước từng là thuộc địa của Pháp mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê cho cả thời kỳ 2001-2021 và mang dấu âm nhưng không có ý nghĩa thống kê trong các mô hình có biến công cụ ở M2b, M3b, và M5b là phù hợp hơn ở các giai đoạn tương ứng so với kết quả ước lượng có được từ mô hình không có biến công cụ.

Thứ mười hai, hệ số ước lượng cho biến x24, các nước nhập khẩu ngoài châu Á mang dấu dương ở cả hai mô hình khi không có biến công cụ và cả khi có dùng biến công cụ cho cả thời kỳ 2001-2021, nhưng có ý nghĩa thống kê ở trường hợp thứ nhất (M1a) mà không có ý nghĩa ở trường hợp thứ hai (M1b). Tuy nhiên, hệ số này mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở M2b và M5b, với mô hình có biến công cụ, nó phản ánh đúng với thực trạng xuất khẩu của Việt Nam hơn ở giai đoạn 2001-2005. Đây là giai đoạn gạo Việt có mức giá thấp nhất thế giới và được nhiều nước ở châu Phi, châu Mỹ nhất là Mỹ La tinh và Đông Âu gia tăng nhập khẩu (dữ liệu của GSO, FAO và ITC). Hệ số này cũng mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê trong giai đoạn 2016-2021 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và tác động có lợi từ các FTA giữa Việt Nam với các nước và khu vực xa Việt Nam. Điều này không thể hiện ở kết quả thu được từ ước lượng mô hình không có biến công cụ.

Thứ mười ba, hệ số ước lượng của biến tích giữa biến giả FTA và biến lncc (x21lncc) đều mang dấu dương và có ý nghĩa thống kế cho cả thời kỳ 2001-2021 và các phân đoạn của nó ở các mô hình ước lượng có biến công cụ như M1b, M2b, M3b, M4b và M5b. Điều này hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn. Ảnh hưởng của biến này tới việc tăng xuất khẩu gạo từ Việt Nam rõ hơn và có ý nghĩa hơn ở mô hình ước lượng không dùng biến công cụ như ở giai đoạn 2016-2021, khi mà nhiều FTA thế hệ mới có lợi có xuất khẩu gạo được Việt Nam ký kết và thực thi.

Thứ mười bốn, hệ số ước lượng cho biến giả nhận giá trị là 1 nếu nước nhập khẩu có tham gia FTA với Việt Nam (x18hat1) ở mô hình có dùng biến công cụ có kết quả không giống kết quả thu được ở mô hình không dùng biến công cụ, mặc dù cả trong cả hai trường hợp, hệ số mang dấu dương nhưng có ý nghĩa ở M1a, M2a trong khi không có ý nghĩa ở các mô hình M1b, M2b. Điểm khác biệt quan trọng nữa là trong khi hệ số

131

ước lượng cho biến số này dương (0,0041) tuy không có ý nghĩa thống kê trong M3a thì hệ số này mang dấu âm (-0,0180) và có ý nghĩa thống kê ở M3b cho giai đoạn 2006- 2010. Đây là giai đoạn sản xuất lúa gạo toàn cầu bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thời tiết bất lợi do El-Nino và La-Nina (2007-2008) khiến sản lượng gạo thế giới sụt giảm nghiêm trọng làm giá gạo toàn cầu tăng vọt. Lo ngại về vấn đề an ninh lương thực quốc gia, Việt Nam đã vận dụng chính sách hạn chế và cấm xuất khẩu gạo cùng với đánh thuế rất cao lên khối lượng và giá trị gạo xuất khẩu dẫn đến luồng xuất khẩu giảm, kể cả xuất khẩu sang các nước nhập khẩu chủ chốt thuộc các AFTA như Philippines, Indonesia và CVFTA như Trung Quốc.

Tóm lại, các kết quả ước lượng MHLHDCT bằng thuật toán PPML có biến công cụ phản ánh tốt hơn thực tiễn xuất khẩu gạo của Việt Nam trong các giai đoạn với các tập số liệu thực thu thập được.

5.5. So sánh kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng PPML, PPMLHDFE và FGLS

Trong mục này luận án so sánh kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng một số thuật toán so sánh ước lượng PPML theo Santos Silva và Tenreyro (2006) với cách ước lượng mới của Correia và cộng sự (2020) để ước lượng mô hình hồi quy tựa Poisson hiệu ứng cố định nhiều chiều (HDFE). Về cơ bản 2 cách ước lượng cho kết quả như nhau. Luận án cũng so sánh kết quả ước lượng PPML với các kết quả ước lượng FGLS. Để có thể ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng FGLS, luận án đã thực hiện các ước lượng cũng như kiểm định mô hình này. Việc quyết định chọn FE hay RE dựa trên kiểm định Hausman, cùng với kết quả (cid:23) − (cid:24)(cid:25)(cid:26)(cid:27)(cid:11) = 0,0000 giả thuyết không bị bác bỏ và mô

hình RE là phù hợp. Như vậy, ta chọn mô hình FE. Đối với mô hình FE, các kiểm định về phương sai sai số thay đổi và tự tương quan chuỗi được thực hiện. Kết quả chỉ ra các giá trị thống kê tương ứng của kiểm định Wald điều chỉnh ((cid:28)0 2 = 9188.73,77) rất lớn.

Đây là minh chứng cho sự tồn tại của phương sai sai số thay đổi. Kiểm định giả thiết H0 về tự tương quan bậc nhất bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 1% ở mô hình FE. Điều này sẽ dẫn đến các ước lượng không hiệu quả khi sử dụng OLS thông thường. Để loại bỏ vấn đề này, các mô hình tiếp tục được ước lượng với phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát khả thi (FGLS). Kết quả ước lượng được thể hiện trong bảng 5.8 dước đây:

Bảng 5.8. So sánh kết quả ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng PPML và ước lượng FGLS

132

Ước lượng PPML

Ước lượng FGLS

Ước lượng PPML hiệu ứng cố định nhiều chiều (HDFE).

PPML

IV PPML Ppmlhdfe

FGLS

IV Ppmlhdfe

|

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

-0,0876***

-0,0728***

-0,08757***

-0,07279***

-1,22659***

lnd0

(0.0146)

(0.0149)

(0.014572)

(0.014865)

(0.139848)

Loga của khoảng cách từ TP HCM đến thủ đô của nước nhập khẩu (km)

-0,0043

-0,0030

-0,00426

-0,00305

-0,03392

lneij

Loga của tỷ giá song phương

(0.0030)

(0.0031)

(0.00301)

(0.003083)

(0.02871)

0,0165***

0,0162**

0,016484***

0,016172**

0,254043***

lncc

(0.006)

(0.0071)

(0.006009)

(0.007135)

(0.048178)

Loga của tiêu dùng cuối cùng của nước nhập khẩu

0,0068

0,0050

0,006751

0,00498

0,012565

lnm2

(0.0068)

(0.0073)

(0.006772)

(0.007252)

(0.051758)

Loga của gạo nhập khẩu từ thế giới còn lại của nước nhập

0,0864***

0,084744***

0,086392***

0,825775***

0,0847***

lngdpv Loga GDP Việt Nam

(0.0208)

(0.0218)

(0.020818)

(0.021759)

(0.16383)

0,0112***

0,0404***

0,011226***

0,240387***

2,964006***

x12

(0.0557)

(0.0173)

(0.005567)

(0.057325)

(0.604908)

Biến giả thị hiếu về gạo trắng thường hạt dài (T1)

0,061391**

0,0614**

0,077852***

0,920484***

0,0779***

x13

(0.024479)

(0.0243)

(0.024339)

(0.265387)

(0.0245)

Thị hiếu về gạo khác: gạo nếp, gạo hạt tròn, gạo thơm (T2)

-0,0455***

-0,0468***

-0,04552***

-0,04681***

-0,5137***

x14

Nước coi gạo là hàng đặc biệt

(0.0148)

(0.0149)

(0.014841)

(0.014935)

(0.130057)

0,0611***

0,0759***

0,061091***

0,075856***

0,593335***

x15

tự

(0.0229)

(0.0226)

(0.022946)

(0.022613)

(0.208228)

Nước theo đuổi chính túc gạo sách (SELF)

-0,0503

-0,0135

-0,05031

-0,01354

-1,51818*

x16

Nước tiếp giáp đường biên

(0.0606)

(0.0699)

(0.060559)

(0.069893)

(0,784619)

0,0076

0,0611***

0,007645

0,061148***

0,157207

x22

Các nước thuộc địa pháp

(0.0240)

(0.0191)

(0.010132)

(0.024003)

(0.226975)

133

Ước lượng PPML

Ước lượng FGLS

Ước lượng PPML hiệu ứng cố định nhiều chiều (HDFE).

PPML

IV PPML Ppmlhdfe

FGLS

IV Ppmlhdfe

|

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

Hệ số

0,0388**

0,0173

0,038774**

0,017311

0,314612*

(nước

x24

Contremote ngoài châu Á)

(0.0187)

(0.0187)

(0.018681)

(0.018655)

(0.163789)

0,0267***

0,0051**

0,004241**

0,005078***

0,04359***

FTAlncc

Biến tích giữa biến giả FTA và biến lncc

(0.0099)

(0.0021)

(0.0205)

(0.002064)

(0.015217)

0,0042**

0,0003

0,126686***

0,000287

1,412984***

FTA

(0.0021)

(0.0002)

(0.029869)

(0.00024)

(0.280236)

Biến giả nhận giá trị bằng 1 nếu có tham gia hiệp ước FTA với Việt Nam

1,5521***

1,4059***

1,552131***

1,405913***

4,357795*

_cons

(0.267)

(0.2794)

(0.266981)

(0.279406)

(2.382144)

Number of obs

787

787

787

786

Wald chi2(14)

420,05

384,33

621,90

Prob > chi2

0,0000

0,0000

0,0000

Pseudo log-likelihood:

-1803,821

-1807,008

-1803,821

-1807,0084

R-squared:

0,32339296 0,30625802

0,0315

0,0298

Nguồn: Tác giả ước lượng từ số liệu thu thập được

Từ Bảng 5.8 có thể nhận thấy rằng hệ số ước lượng cho mỗi biến liên tục và biến giả sử dụng trong mô hình thu được từ ước lượng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc bằng PPML và ước lượng FGLS đều có cùng dấu giống nhau, đều có ý nghĩa thống kê hoặc không có ý nghĩa thống kê, song chúng khác nhau về độ lớn ở hai phương pháp ước lượng. Nhìn chung, hầu hết các hệ số ước lượng cho các biến số ở ước lượng FGLS có giá trị tuyệt đối lớn hơn các hệ số ước lượng cho cùng các biến số này ở ước lượng mô hình lực hấp dẫn bằng PPML, nghĩa là kết quả từ ước lượng FGLS cho thấy một biến cụ thể nào đó có thể tác động mạnh hơn đến luồng xuất khẩu gạo từ Việt Nam sang các nước đối tác theo hướng tích cực hay làm tăng xuất khẩu hoặc theo hướng tiêu cực nghĩa là làm giảm xuất khẩu gạo của Việt Nam.

134

Chẳng hạn, hệ số ước lượng của biến khoảng cách cho thấy rằng khi khoảng cách tăng 1% có thể làm giảm xuất khẩu gạo của Việt Nam 0,0876% khi ước lượng bằng PPML và PPML HDFE trong trường hợp không có biến công cụ và xấp xỉ 0,0728% khi ước lượng bằng PPML và PPML HDFE có biến công cụ (IV PPML và IV PPML HDFE). Trong khi đó, ước lượng FGLS chỉ ra rằng khi khoảng cách tăng lên 1% sẽ có ảnh hưởng làm giảm xuất khẩu gạo của Việt Nam tới 1,22659%, nghĩa là cao gấp khoảng 14 lần so với ảnh hưởng tạo ra từ phương pháp ước lượng bằng PPML.

Điều tương tự có thể nhận thấy ở mức độ ảnh hưởng của biến tiêu dùng cuối cùng của nước nhập khẩu. Khi tiêu dùng của nước nhập khẩu tăng 1% sẽ có thể làm xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng lên 0,0165% khi ước lượng bằng PPML và PPML HDFE và tăng 0,0162% nếu IV PPML và IV PPML HDFE trong khi làm tăng tới 0,25404% khi dùng ước lượng FGLS nghĩa là lớn gấp 15 lần trường hợp ước lượng bằng PPML. Giống như vậy, khi xét ảnh hưởng của biến GDP của Việt Nam tới xuất khẩu gạo của Việt Nam, khi GDP của Việt Nam tăng lên 1% thì xuất khẩu gạo từ Việt Nam tăng lên xấp xỉ 0.0847% và 0,0864% khi dùng ước lượng bằng PPML và IV PPML và tăng tới 0,82577% nếu ước lượng bằng FGLS hay gấp gần 10 lần so với ước lượng PPML. Điều này là minh chứng cho một thực tế là là khi thu nhập tăng, người dân Việt Nam tiêu dùng gạo lương thực ít hơn cho cuộc sống khiến lượng gạo dư thừa cho xuất khẩu tăng.

Tác động của biến giả (x12) khi nước nhập khẩu có thị hiếu về gạo trắng hạt dài có thể làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam lên 2,964% khi ước lượng bằng FGLS trong khi con số này chỉ là 0,0112% và 0,0122 % với ước lượng bằng PPML và PPML HDFE; 0,0404% khi dùng phương pháp IV PPML và 0,24038% khi áp dụng IV PPML HDFE. Như vậy, phương pháp FGLS đã phóng đại ảnh hưởng của x12 lên xuất khẩu của Việt Nam tới hàng trăm lần (264 lần ) so với kết quả ước lượng PPML không dùng biến công cụ và 73 lần khi dùng IV PPML và 12 lần khi ước lượng bàng IV PPML HDFE. Như vậy, dùng IV PPML khẳng định ảnh hưởng tích cực của x12 tới xuất khẩu gạo của Việt Nam mà PPML đã tìm được trước đó, ước lượng FGLS giúp tái khảng định điều này, đây là điều mong đợi của luận án và là cái mới của luận án so với các nghiên cứu cho tới nay.

Kết quả tương tự cũng thu được từ việc xem xét ảnh hưởng của biến x13 tới xuất khẩu gạo của Việt Nam khi nước nhập khẩu có thị hiếu đối với gạo thơm, gạo nếp và gạo hạt tròn. X13 cũng có ảnh hưởng tích cực được phản ánh qua các hệ số ước lượng thu được từ PPML và vững hơn với IV PPML và rõ ràng với FGLS. Kết quả này cũng phù hợp với kỳ vọng ban đầu mà luận án tính đến. X13 có thể làm tăng xuất khẩu của

135

Việt Nam lên 0,0614 % trong trường hợp ước lượng bằng PPML và PPML HDFE và 0,079% trong trường hợp dùng ước lượng IV PPML và IV PPML HDFE trong khi FGLS cho kết quả tới 0.9204%, cao gấp 12 lần kết quả thu được từ IV PPML.

Đối với biến x15, tất cả các hệ số ước lượng đề âm và có ý nghĩa thống kê, nghĩa là khi các nước nhập khẩu theo đuổi chính sách tự túc gạo thông qua đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước có tác động tiêu cực tới xuất khẩu gạo của Việt Nam, điều này đúng về logic và được chứng minh và củng cố bằng phân tích định lượng qua ước lượng PPML và được tái củng cố bằng ước lượng FGLS. Kết quả hoàn toàn phù hợp với kỳ vọng và mới so với các nghiên cứu trước đây nhờ vận dụng MHLHDCT.

Hai biến giả chính sách là FTA và FTA có tính tới tiêu dùng cuối cùng của nước nhập khẩu là FTAlncc cũng cho kết quả như kỳ vọng là chúng có ảnh hưởng tích cực lên xuất khẩu gạo của Việt Nam. Ước lượng FGLS giúp tái khẳng định ảnh hưởng này với hệ số ước lượng cho các biến đều lớn hơn nhiều lần hệ số thu được từ ước lượng PPML. Điều khác biệt là ở biến FTA là các hệ số biến dùng ước lượng PPML không có biến công cụ lớn hơn và có ý nghĩa trong khi đưa biến công cụ vào ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gần như không đáng kể và chúng trở nên không có ý nghĩa thống kê. Song, ước lượng FGLS giúp củng cố ảnh hưởng tích cực của FTA đối với xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam thực sự được lợi từ những ưu đãi do là thành viên của các FTA có các quốc gia nhập khẩu gạo khi xuất khẩu gạo sang các nước đối tác này.

Một kết quả không như mong đợi đó là biến x22, các nước nhập khẩu từng là thuộc địa Pháp, hầu hết đều nằm ở châu Phi, mặc dù các hệ số ước lượng đều dương nhưng chỉ có ý nghĩa khi dùng ước lượng IV PPML. Kết quả thu được từ uớc lượng FGLS cho thấy hệ số ước lượng không có ý nghĩa thống kê hay không có ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này là dễ hiểu vì họ thiếu một số điều kiện để có thể có ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu của Việt Nam như thiếu tiềm lực kinh tế hay tính thanh khoản thấp, khoảng cách địa lý lớn, theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước, không là thành viên các FTA mà Việt Nam thành viên trong khi WTO ít có ý nghĩa do gạo có tính “đặc biệt” và “nhạy cảm” không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO.

Tuy nhiên, trái với mong đợi và lý thuyết lực hấp dẫn, đó là biến x16, nước tiếp giáp đường biên có ảnh hưởng tiêu cực, hay làm giảm xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ nghiên cứu, ở mọi ước lượng với hệ số ước lượng đều mang dấu âm tuy không có nghĩa thống kê, song ở ước lượng FGLS nó lại có ý nghĩa thống kê ở mức thấp là 10% so với 1% ở hầu hết các trường hợp được đưa vào xem xét.

136

Tóm lại, MHLHDCT thực sự là một mô hình phù hợp nhất trong phân tích thương mại quốc tế vì nó giúp giải quyết và lượng hóa được ảnh hưởng của các biến kinh tế cho tới biến bán kính tế và biến chính sách. Cùng đó, phương pháp PPML là phương pháp ước lượng phù hợp nhất cho việc xác định các hệ số ước lượng để thấy được mức độ và chiều hướng ảnh hưởng của các yếu tố được đưa vào mô hình thực nghiệm lên xuất khẩu gạo của Việt Nam. Kết quả ước lượng đã được củng cố nhờ uớc lượng FGLS để khắc phục những thiên lệch trong kết quả ước lượng trước đó do phương sai sai số thay đổi và hiện tượng tự tương quan.

5.6. Kết luận

Tóm lại, chương này trình bày quá trình ước lượng và kết quả ước lượng thực

nghiệm MHLHDCT. Dựa vào cơ sở lý thuyết đã trình bày ở chương 3. Chương 5 đã chỉ

định mô hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sang 60 nước là đối tác thương mại của Việt

Nam. Phần chỉ định mô hình và tiến hành ước lượng nhằm giải quyết những thách thức

đặt ra ở chương 3 là các vấn về luồng xuất khẩu bằng 0, tính không đồng nhất của dữ

liệu và vấn đề nội sinh của chính sách thương mại. Vấn đề này được giải quyết bằng

việc áp dụng phương pháp tiếp cận ước lượng PPML của Santos Silva và Tenreyro

(2006) và phương pháp ước lượng PPML hiệu ứng cố định nhiều chiều (HDFE) của

Correia và cộng sự (2020) để ước lượng MHLHDCT. Kết quả ước lượng mô hình nói

chung phù hợp với lý thuyết và việc giải thích các hệ số ước lượng được luận án chia

thành 2 tập hợp: giải thích kết quả ước lượng các hệ số của biến liên tục theo lý thuyết

thương mại, tuy nhiên khi giải thích hệ số các biến giả, luận án thực hiện theo cách của

Piermartinni và cộng sự (2016). Để giải quyết vấn đề mà Trefler (2004) chỉ trích về các

ước lượng thương mại gộp trong những năm liên tiếp theo Trefler (2004), Anderson và

Yotov (2011), và Baier và Bergstrand (2007), luận án đã chia khoảng thời gian từ 2001-

2021 thành các khoảng thời gian ngắn từ 2001-2005; từ 2006-2010; từ 2011-2015; và

từ 2016-2021 và ước lượng cho toàn mẫu.

Kết quả ước lượng MHLHDCT cho xuất khẩu gạo của Việt Nam cho toàn mẫu và các khoảng thời gian chia nhỏ cho ta nhận xét thú vị là biến khoảng cách mang dấu âm trong tất cả các mô hình dù mức ý nghĩa thống kê khác nhau. Để khắc phục tính nội sinh, luận án đã sử dụng ước lượng PPML hai giai đoạn với giai đoạn thứ nhất là ước lượng mô hình probit. Sau khi ước lượng mô hình probit, luận án dự báo biến nội sinh để đưa vào mô hình PPML và gọi nó là ước lượng mô hình PPML có biến công cụ. Kết quả ước lượng IVPPML được so sánh với ước lượng PPML.

137

Để xem tính vững của kết quả nghiên cứu, luận án so sánh các kết quả từ các ước

lượng mô hình PPML với ước lượng FGLS.

Trên cơ sở phân tích kết quả ước lượng luận án đã rút ra những kết luận thú vị về

nghiên cứu thực nghiệm như sau:

(i) Hệ số ước lượng được của biến khoảng cách trong mô hình quy lực hấp dẫn

cấu trúc cho thấy rằng khoảng cách tăng 1% sẽ làm giảm luồng xuất khẩu gạo của Việt

Nam 0,08% trong thời kỳ nghiên cứu; giảm 0,0910% trong giai đoạn 2006-2010; giảm

0,1039% trong giai đoạn 2011-2016 và giảm 0,077% trong giai đoạn 2016-2021. Điều

này phù hợp với lý thuyết và kỳ vọng trước đó.

(ii) Hệ số của biến loga tiêu dùng cuối cùng cho lương thực cho thấy nếu tiêu

dùng cuối cùng của các nước nhập khẩu tăng 1% thì cầu nhập khẩu gạo từ Việt Nam

tăng 0,0165% trong cả thời kỳ 2001-2021, tăng 0,0271% trong giai đoạn 2011-2016 và

tăng 0,0227% trong giai đoạn 2016-2021.

(iii) Ảnh hưởng của các FTA trong thời kỳ 2001-2021, giai đoạn 2001-2005 và

giai đoạn 2016-2021, về trung bình làm tăng lượng gạo xuất khẩu từ Việt Nam sang các

đối tác thương mại cho các thời kỳ tương ứng là 0,42%; 2,368% và 0,6018%.

(iv) Ảnh hưởng của các FTA có tính đến tiêu dùng của các nước nhập khẩu gạo

từ Việt Nam trong giai đoạn kỳ 2001-2021, giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2016-

2021 về trung bình làm tăng lượng gạo của Việt Nam sang các nước đối tác cho các thời

kỳ/giai đoạn tương ứng tương ứng là 2,705%; 7,853% và 8,264%.

(v) Ảnh hưởng của chính sách lúa gạo bao gồm cả chính sách thương mại gạo

của các nước coi gạo là hàng hóa đặc biệt và áp dụng các biện pháp đối xử đặc biệt với

các rào cản thuế quan và phi thuế quan đặc biệt cao trong thời kỳ 2001-2021; 2001-

2005; 2006-2010; 2011-2015 và 2016-2021 về trung bình làm giảm lượng gạo của Việt

Nam xuất sang các đối tác thương mại cho các thời kỳ/giai đoạn tương ứng là 4,448%;

7,762%; 5,285%; 4,84% và 1,813%.

(vi) Biến giả x12 thể hiện thị hiếu của nước nhập khẩu đối với gạo trắng thường hạt dài của Việt Nam có ảnh hưởng làm tăng xuất khẩu gạo từ Việt Nam lên 0,0112% cho cả thời kỳ 2001-2021 với mức ý nghĩa 1% trong cả các phương pháp ước lượng tuy các hệ số có độ lớn khác nhau.

(vii) Biến giả x13 thể hiện thị hiếu đối với gạo thơm, gạo nếp và gạo hạt tròn cũng có ảnh hưởng tích cực, làm tăng xuất khẩu gạo từ Việt Nam trong cả thời kỳ 2001-

138

2021 lên 0,0614% với mức ý nghĩa 5% khi ước lượng bằng PPML không có biến công cụ và 1% khi dùng biến công cụ và theo FGLS.

(viii) Một kết quả không mong đợi, đó là ảnh hưởng của biến x15 - nước nhập khẩu theo đuổi chính sách tự túc gạo trong nước, có ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo từ Việt Nam, kéo theo xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng 0,0611% cho cả thời kỳ 2001-2021 với mức ý nghĩa 1% cho cả 3 phương pháp ước lượng. Đó là do sự gia tăng nhanh chóng của cầu về gạo vượt tốc độ tăng của cung, tạo ra và sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu –thiếu hụt- gạo trong nước nhập khẩu và thị hiếu của người tiêu dùng đối với gạo giá rẻ của Việt Nam.

139

CHƯƠNG 6 KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP

Chương 6 tóm tắt kết quả thu được từ việc nghiên cứu để phát hiện ra các yếu tố ảnh hưởng, đánh giá xu hướng và mức độ ảnh hưởng của chúng tới xuất gạo của Việt Nam và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai.

6.1. Kết luận

Trong phần này luận án trước hết tóm tắt kết quả nghiên cứu thu được từ phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam ở chương 4 và phân tích định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo của Việt Nam vận dụng MHLHDCT với ước lượng PPML ở chương 5.

6.1.1. Kết quả phân tích mô tả và so sánh thống kê

Kết quả phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam thời kỳ 1989-2021, với sự tập trung đặc biệt vào giai đoạn 2001-2021 cho thấy rằng xuất khẩu gạo của Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn bởi tính “đặc biệt” và “nhạy cảm”, tính chiến lược quốc tế và tính phi kinh tế của gạo ở hầu hết các nước sản xuất và tiêu dùng gạo trên thế giới. Tuy nhiên, có thể nêu tên một số YTAH chính như sau:

(i) Chính sách sản xuất và thương mại lúa gạo của Việt Nam và của các nước nhập khẩu. Luận án xem xét ảnh hưởng tới xuất khẩu cả từ yếu tố bên trong hay tác động tới cung cho xuất khẩu và từ bên ngoài hay tác động tới cầu đối với xuất khẩu.

Về phía cung, chính sách lúa gạo của Việt Nam ở phần lớn thời gian của thời kỳ này là mở rộng sản xuất lúa gạo theo cả chiều rộng và chiều sâu để tăng nhanh sản lượng gạo nhằm vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và vừa mở rộng xuất khẩu. Xuất khẩu thời kỳ này có mục tiêu kép là để ổn định giá gạo và thị trường gạo trong nước và tạo nguồn ngoại tệ cho quốc gia sau khi đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia. Chính phủ Việt Nam dùng cả thuế xuất khẩu và hạn ngạch xuất khẩu để điều tiết lượng gạo xuất khẩu. Việc giảm/miễn thuế xuất khẩu hay tăng hạn ngạch nhằm đẩy mạnh xuất khẩu được áp dụng khi sản lượng gạo dư thừa lớn và ngược lại việc áp thuế/tăng thuế xuất khẩu hoặc/và giảm hạn ngạch được vận dụng khi lượng gạo dư thừa nhỏ nghĩa là hạn chế xuất khẩu.

Về phía cầu đối với xuất khẩu, xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi yếu tố bên ngoài, từ các nước nhập khẩu. Các nước nhập khẩu cho tới nay vẫn trung thành với chính sách tự túc gạo trong nước bằng cách mở rộng và bảo hộ cao sản xuất trong nước.

140

Tự túc gạo cũng đồng nghĩa với việc cô lập thị trường gạo trong nước và giá trong nước với thị trường và giá quốc tế thông qua chính sách thương mại bảo hộ.

Việt Nam là một trong ba nước xuất khẩu hàng đầu thế giới, hành vi trên của các nhà nhập khẩu có ảnh hưởng bất lợi đến xuất khẩu của Việt Nam nhất là khi Việt Nam có lượng gạo dư thừa lớn.

(ii) Chi cho tiêu dùng cuối cùng cho lương thực ở nước nhập khẩu. Ở các nước nhập khẩu mà người dân chi cho tiêu dùng lương thực/gạo nhiều hơn, hàm ý năng lượng tạo ra từ gạo chiếm tỷ lệ lớn trong tổng năng lượng đưa vào cơ thể- dẫn tới nhu cầu nhập khẩu tăng và làm xuất khẩu của Việt Nam tăng và ngược lại;

(iii) Các nước nhập khẩu thuộc châu Á và châu Phi và nhất là các nước có địa

hình gần biển/đảo trên hai châu lục này nhập nhiều gạo của Việt Nam làm xuất khẩu của

Việt Nam tăng. Đó là do gạo là lương thực chính của họ và thực tế các nước có địa hình

biển đảo thường có bất lợi thế trong sản xuất gạo. Các hiện tượng thời tiết bất thường

như El-Nini và La-Nina gây hạn hán và lũ lụt làm mất mùa lúa tại các nước này khiến

cung gạo trong nước càng thiếu hụt so với cầu. Vì an ninh lương thực quốc gia, buộc

các nước phải tăng nhập khẩu.

(iv) Sản lượng gạo của Việt Nam có ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt Nam.

Sản lượng tăng tạo khiến lượng gạo dư thừa trong nước tăng mạnh và đây là điều kiện

cần cho đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo của Việt Nam có tăng hay

không còn phụ thuộc vào chính sách xuất khẩu của chính phủ Việt Nam và quan trọng

hơn cầu về gạo từ các nước nhập khẩu. Thực tế đôi khi chỉ ra điều ngược lại như trong

năm 2008 và trong những năm từ 2013-2016.

(v) Mức sống của Việt Nam và các nước nhập khẩu. Số liệu thống kê cho thấy

mức sống hay GDP bình quân theo đầu người ở Việt Nam tăng dẫn tới tiêu dùng gạo

bình quân đầu người giảm - xu thế tiêu dùng gạo chung của các nước có thu nhập trung

bình trở lên, dẫn tới xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng. Tuy nhiên, dữ liệu về mức sống và

nhập khẩu gạo thực tế từ các nước nhập khẩu cho thấy điều ngược lại. Đó là do đa số các

nước nhập khẩu nhiều gạo của Việt Nam là các nước có thu nhập tương đối thấp và rất thấp.

(vi) Giá xuất khẩu của các nước xuất khẩu khác của thế giới còn lại (ROW) có

mối quan hệ ngược chiều với xuất khẩu gạo của Việt Nam. Điều này có thể thấy khi Ấn

Độ tung ra thị trường gạo quốc tế một lượng gạo lớn với giá thấp đã thu hút được nhiều

nhà nhập khẩu truyền thống của Việt Nam chuyển sang mua gạo của Ấn Độ làm giảm

đáng kể xuất khẩu gạo của Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp về mặt lý thuyết.

141

(vii) Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và của ROW. Xét về mặt lý thuyết thì khi

giá gạo của Việt Nam thấp –tương đối so với giá các nhà xuất khẩu khác - xuất khẩu của

Việt Nam sẽ tăng lên và ngược lại. Điều này đúng ở giai đoạn đầu của thời kỳ nghiên

cứu khi gạo Việt được xuất chủ yếu dưới hình thức G2G – xuất sang các nước nghèo và

nhu cầu nhập gạo lớn như các quốc gia châu Phi, Cu Ba, Indonesia và Philippines,

và/hoặc khi gạo Việt có năng lực cạnh tranh cao hơn so với các nhà xuất khẩu khác.

(viii) Chất lượng gạo của Việt Nam. Chất lượng gạo của Việt Nam thấp làm

giảm xuất khẩu gạo của Việt Nam như được chứng kiến ở những năm 2013-2017, khi

gạo được xuất qua các hợp đồng thương mại, giá gạo Việt thấp nhất thế giới trong khi

các nhà nhập khẩu quay lưng lại với gạo Việt để chuyển sang nhập khẩu gạo của Ấn Độ

và Thái Lan có giá cạnh tranh hơn khiến xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm mạnh (2016).

Đó là vì giá xuất khẩu thấp đồng nghĩa với chất lượng gạo của Việt Nam thấp.

(ix) Thị hiếu của nước nhập khẩu về chủng loại gạo đặc thù theo phân khúc thị

trường/khu vực hàm ý rằng các quốc gia có thị hiếu về gạo trắng thường hạt dài có ảnh

hưởng làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam. Cho tới năm 2014, khoảng 90% tổng

lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là gạo trắng thường hạt dài. Đây là loại gạo phù hợp

với thị hiếu của các quốc gia nhập khẩu châu Phi và các nước có thu nhập trung bình và

thu nhập thấp, vì chủng loại gạo trắng hạt dài có giá rất thấp chỉ bằng 40-53% giá của

chủng gạo thơm và các loại gạo hữu cơ và gạo dinh dưỡng.

(x) Khoảng cách giữa Việt Nam và các nước nhập khẩu. Khoảng cách có quan

hệ tỷ tỷ lệ nghịch với luồng gạo xuất khẩu của của Việt Nam do chi phí vận chuyển cao.

Dữ liệu thống kê chỉ ra rằng khoảng 60-70% lượng gạo xuất của Việt Nam được xuất

khẩu sang các quốc gia gần/lân cận ở châu Á, khoảng cách gần, chi phí vận chuyển thấp,

điều này hoàn toàn phù hợp về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, khoảng cách không có ý nghĩa

đối với các trường hơp xuất khẩu theo hình thức G2G.

(xi) Các FTA mà Việt Nam và các nước nhập khẩu là thành viên. Xuất khẩu gạo

của Việt Nam tăng khi các nước nhập khẩu là thành viên của các AFTA do được hưởng

ưu đãi về thuế, hạn ngạch và khả năng tiếp cận thị trường. Điều này cũng đúng với

trường hợp của Việt Nam, khi các nước nhập khẩu gạo chủ chốt và lớn của Việt Nam là

thành viên của các FTA như AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP, VJEPA, AANZFTA,

VCFTA, CPTPP, EVFTA….

Phân tích mô tả và so sánh thống kê giúp phát hiện ra các yếu tố ảnh hưởng (i-

xi) tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trên đây là hữu ích trong việc định hướng cho xuất

khẩu. Song, chúng mới chỉ được nhìn nhận một cách trực quan và ít nhiều có cảm tính,

142

chưa thể coi là các yếu yếu tố ảnh hưởng có ý nghĩa có thể sử dụng trong việc xây dựng

chiến lược và lập kế hoạch phát triển sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng cũng có

thể được coi là tiêu chi tham chiếu cho việc các định các yếu tố thực sự ảnh hưởng có ý

nghĩa tới xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ 2001-2021. Phân tích định lượng sẽ

giúp giải quyết được vấn đề trên.

6.1.2. Kết quả phân tích định lượng vận dụng mô hình lực hấp dẫn cấu trúc

Phân tích thực nghiệm vận dụng MHLHDCT và ước lượng PPLM đã giúp chỉ ra

các yếu tố cơ bản thực sự có ảnh hưởng và đánh giá được mức độ ảnh hưởng mở rộng

và/hoặc hạn chế xuất khẩu gạo của Việt Nam sang 60 nước nhập khẩu chủ chốt trong

thời kỳ 2001-2021. Trong đó các yếu tố có ảnh hưởng tích cực/làm tăng xuất khẩu gạo

và có ý nghĩa bao gồm:

(1) Tiêu dùng cuối cùng về lương thực của nước nhập khẩu. Điều này cho biết

rằng khi tiêu dùng cuối cùng cho lương thực/gạo ở các nước nhập khẩu tăng có ảnh

hưởng làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam, đúng như kỳ vọng và điều này đã được

trình bày trong phân tích thực trạng.

(2) GDP của Việt Nam. Thực tế là khi GDP của Việt Nam tăng (GDP bình quân

theo đầu người tăng) thì tiêu dùng gạo là lương thực giảm có tác dụng làm tăng xuất

khẩu từ Việt Nam. Đây là thực tế và hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế giới là

gạo đã trở thành hàng thứ cấp ở các nước có thu nhập trung bình (Timmer, 2013).

(3) Thị hiếu của nước nhập khẩu về gạo trắng thường hạt dài. Như đã trình bày ở

trên, cho tới năm 2015 khoảng 90% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là gạo trắng

thường hạt dài, vì thế các nước nhập khẩu có thị hiếu về chủng loại gạo này sẽ có tác

dụng làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam.

(4) Thị hiếu của nước nhập khẩu về các loại gạo thơm, ngon, gạo hạt tròn, gạo

giống Nhật. Đây là các chủng loại gạo được ưa thích tại các phân khúc thị trường cao

cấp hay bởi người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu có thu nhập cao như một số nước

thuộc EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ.

(5) Các FTA tính đến tiêu dùng cuối cùng về lương thực của nước nhập khẩu có

ảnh hưởng tích cực tới xuất khẩu gạo của Việt Nam. Đó là do tiêu dùng cuối cùng về

lương thực có ảnh hưởng tích cực lên xuất gạo và về lý thuyết thì các FTA nói chung có

tác động tích cực khi nước nhập và nước xuất khẩu đều là thành viên của một/các FTA.

Như dự đoán, các yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực và có ý nghĩa đến xuất khẩu gạo

của Việt Nam trong thời kỳ nghiên cứu bao gồm:

143

(1) Nước nhập khẩu coi gạo là mặt hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản thuế và phi thuế đặc biệt cao. Các nước nhập khẩu áp thuế cao lên gạo nhập khẩu dẫn tới giảm cầu tiêu dùng trong nước nhập khẩu và kết quả làm giảm nhập khẩu và giảm xuất khẩu gạo của Việt Nam. Bên cạnh rào cản về thuế nhập khẩu, nhiều quốc gia đồng thời dựng lên các rào cản phi thuế với những yêu cầu khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm và các tiêu chí khác như nguồn gốc, xuất xứ, điều kiện lao động và ảnh hưởng tiêu cực của sản xuất lúa gạo tới môi trường cũng khiến xuất khẩu gạo từ Việt Nam trở nên khó khăn hơn hay làm giảm xuất khẩu gạo của Việt Nam.

(2) Khoảng cách từ Thành phố Hồ chí Minh đến thủ đô các nước nhập khẩu phù hợp với kết quả Tinbergen (1962) chỉ ra dựa trên cơ sở luật lực hấp dẫn của Newton. Khoảng cách giữa các đối tác thương mại càng lớn chi phí vận chuyển càng cao dẫn tới giảm khối lượng thương mại song phương. Thực tế là 70-80% tống lượng gạo xuất khẩu những năm gần đây là xuất sang châu Á, đặc biệt là các nước ASEAN.

Trên đây là các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu tới mặt lượng của cung và cầu gạo xuất khẩu của Việt Nam. Vấn đề ở đây là không chỉ dừng lại ở việc đẩy mạnh xuất khẩu về lượng mà cần phải tìm cách để cải thiện cả về mặt chất của xuất khẩu hay nâng cao hiệu quả và giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai.

6.2. Đề xuất giải pháp

Chiến lược sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam đã xác định là chuyển từ lượng sang chất và giảm lượng xuất khẩu và tăng giá xuất khẩu cho mỗi đơn vị gạo xuất khẩu nhằm tăng giá trị và hiệu quả của ngành sản xuất và xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, đây là công việc của cả một qui trình chuỗi cung ứng nên trong lúc sản xuất gạo còn có lợi thế so sánh và chưa kịp chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chuyển đất lúa sang sử dụng cho các cây, con khác có giá trị hơn thì việc đấy mạnh xuất khẩu gạo vẫn cần thiết. Từ kết quả phân tích thực nghiệm bằng phương pháp truyền thống và phân tích định lượng vận dụng MHLHDCT, luận án khuyến nghị một số giải pháp để sản xuất gạo cho xuất khẩu và xuất khẩu để vừa có thể tiết kiệm chi phí và vừa nâng cao được lợi nhuận cho các nhà sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu, gia tăng đóng góp vào sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.

6.2.1. Định hướng phát triển sản xuất lúa gạo phục vụ xuất khẩu

Ngành lúa gạo hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức như hiệu quả sản xuất

thấp, thâm dụng tài nguyên, ô nhiễm môi trường và dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí

hậu. Để vượt qua thách thức trên ngành sản xuất lúa gạo cần:

144

(i) Đẩy mạnh việc nghiên cứu tạo và phát triển các giống lúa mới có sức đề kháng cao với sâu bệnh và dễ thích nghi với biến đổi thời tiết để tạo ra lúa có độ đồng nhất cao, năng suất và chất lượng cao thay thế các giống lúa cũ, đảm bảo tái cơ cấu giống lúa theo hướng ưu tiên phát triển các giống cho gạo có chất lượng cao, gạo thơm, gạo đặc sản và gạo hữu cơ phục vụ cho xuất khẩu.

(ii) Đẩy nhanh việc xây dựng các cánh đồng mẫu lớn, tạo điều kiện cho cơ giới hóa sản xuất, tạo ra các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh theo giống lúa được cấp chứng nhận để tận dụng được lợi thế theo qui mô, giảm chi phí ản xuất đồng thời đảm bảo độ đồng nhất của sản phẩm gạo xuất khẩu.

(iii) Đẩy mạnh cải tiến và đổi mới qui trình công nghệ sản xuất và chế biến, theo

tiêu chuẩn VietGap và GlobalGap thông qua tăng cường đầu tư vào trang thiết bị, máy móc hiện đại, đồng bộ cho các hoạt động từ sản xuất, thu hoạch, phơi sấy thóc, xay xát, đánh bóng, bao bì, đóng gói và bảo quản để tạo ra các sản phẩm gạo chất lượng cao, an toàn, và sạch đáp ứng được tiêu chí đặt ra từ các nhà nhập khẩu.

(iv) Tăng cường quản lý và kiểm soát chặt chẽ quy trình chuỗi cung ứng đảm bảo

sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất với tiêu thụ, xuất khẩu, cụ thể giữa các khâu sản xuất, thu mua, bảo quản, chế biến, tiếp cận thị trường, và vận chuyển gạo tới nơi xuất khẩu hay nhà nhập khẩu.

6.2.2. Một số hàm ý chính sách cho xuất khẩu gạo của Việt Nam

Từ kết quả phân tích định lượng và thực tế xuất khẩu gạo của Việt Nam, để nâng cao giá trị và hiệu quả xuất khẩu gạo của Việt Nam trong tương lai, luận án xin gợi ý một số giải pháp. Đó là ngành xuất khẩu gạo cần:

(i) Tăng cường công tác nghiên cứu tìm hiểu về chính sách lúa gạo bao gồm cả chính sách sản xuất và chính sách thương mại gạo ở các quốc gia sản xuất và tiêu dùng gạo, đặc biệt ở các nước nhập khẩu để kịp thời cập nhật các thông tin liên quan tới những thay đổi trong các chính sách thương mại như các rào cản thuế và phi thuế tại các thị trường xuất khẩu/nước nhập khẩu để có thể có chiến lược chủ động về phương án xuất khẩu phù hợp.

(ii) Đẩy mạnh công tác điều tra, nghiên cứu thị trường nhập khẩu để nắm được đầy đủ nhu cầu về ở mọi khía cạnh như: khối lượng, thị hiếu tiêu dùng về các chủng loại gạo và chất lượng ở từng chủng loại, thời gian và địa điểm giao hàng thích hợp, khả năng thanh toán hay tính thanh khoản... để tiến hành chuẩn bị và kịp thời xuất khẩu với rủi ro thấp và hiệu quả cao.

145

(iii) Cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính từ các bộ liên quan và nhất là công tác điều hành xuất khẩu gạo của VFA, tạo lập môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp quốc và doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia xuất khẩu gạo; đẩy nhanh việc xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, như các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và các tiêu chuẩn về đảm bảo vệ sinh môi trường.

(iv) Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho xuất khẩu thông qua việc đẩy mạnh huy động vốn trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài –các doanh nghiệp nước ngoài tham gia xuất khẩu gạo, để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng cho xuất khẩu như hệ thống kho vận, bến bãi và cảng biển và đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, chuyên gia thương mại có trình độ và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cao thể hiện ở khả năng nắm bắt và phân tích thông tin về thị trường, nhu cầu, khả năng đàm phán, thương lượng, ký kết và thực thi các hợp đồng xuất khẩu có hiệu quả.

(v) Nâng cao vai trò của liên kết “Sáu Nhà” giữa Nhà nước - nhà nông - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp - ngân hàng và nhà báo trong tiêu thụ và xuất khẩu lúa gạo thể hiện qua sự phối kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa các bộ ngành liên quan tới xuất khẩu gạo, nhất là trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu hành lang pháp lý cần thiết cho việc giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng xuất khẩu, hỗ trợ về tài chính, tín dụng, cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường và biến động của thị trường ngoài nước cũng như hướng dẫn thực thi các điều khoản đã ký kết từ các FTA.

(vi) Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu tăng cường đầu tư xây dựng thương hiệu cho gạo Việt, quảng bá cho thương hiệu gạo Việt gắn chứng nhận quốc gia gạo Việt Nam (Vietnam Rice) và có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tăng cường xúc tiến thương mại qua quảng cáo, trưng bày, giới thiệu gạo Việt tại các hội chợ, triển lãm gạo quốc tế để nâng cao uy tín và khảng định vị trí của gạo Việt trên thị trường gạo quốc tế, nhất là các thị trường cao cấp.

(vii) Đẩy mạnh việc đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu và theo hướng duy trì được các thị trường truyền thống là những thị trường đông dân ở châu Á và nhất là châu Phi với dư địa thị trường tiềm năng lớn và chi tiêu cuối cùng cho lương thực cao đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu sang phân khúc thị trường cao cấp ở Đông Á, Trung Đông và EU, và các thị trường thành viên của các FTA thế hệ mới.

(viii) Khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp xuất khẩu tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thông qua việc tăng cường tham gia trực tiếp vào các mạng phân phối gạo Việt tại các thị trường nước ngoài.

146

KẾT LUẬN

Luận án đã thực hiện được điều mong đợi là xác định được các yếu tố cơ bản có

nguồn gốc từ cả bên trong và bên ngoài Việt Nam ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của Việt

Nam sang 60/178 quốc gia và vùng lãnh thổ nhập khẩu lớn nhất, hấp thụ tới gần 90%

tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ 2001-2021. Luận án áp dụng cách

tiếp cận lịch sử, hệ thống và logic biện chứng để xem xét các quá trình và hiện tượng

thương mại gạo trong phạm vi toàn cầu để là rõ cơ chế hoạt động đặc thù của thị trường

gạo quốc tế. Luận án vận dụng kết hợp cả phương pháp nghiên cứu truyền thống như

mô tả và so sánh với phương pháp phân tích định lượng vận dụng mô hình lực hấp dẫn

cấu trúc trong thương mại và ước lượng PPLM vào nghiên cứu thực nghiệm.

Từ kết quả thực nghiệm, luận án đi đến kết luận khái quát rằng xuất khẩu gạo của

Việt Nam chịu ảnh hưởng của hai nhóm yếu tố cơ bản có ảnh hưởng tích cực và tiêu

cực. Nhóm yếu tố có ảnh hưởng tích cực làm tăng xuất khẩu gạo của Việt Nam và có ý

nghĩa thống kê bao gồm (1) Tiêu dùng cuối cùng về lương thực của nước nhập khẩu; (2)

GDP của Việt Nam; (3) Thị hiếu của nước nhập khẩu về gạo trắng thường hạt dài; (4)

Thị hiếu của nước nhập khẩu về các chủng loại gạo thơm, gạo đặc sản, gạo giống Nhật;

(5) Các hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương mà Việt Nam và

các nước nhập khẩu là thành viên; (6) Các FTA tính đến tiêu dùng cuối cùng về lương

thực của nước nhập khẩu. Đúng như kỳ vọng, các yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực và có ý

nghĩa đến xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời kỳ nghiên cứu bao gồm: (1) Nước

nhập khẩu coi gạo là mặt hàng đặc biệt áp dụng biện pháp đối xử đặc biệt với rào cản

thuế và phi thuế đặc biệt cao; và (2) Khoảng cách từ Thành phố Hồ chí Minh đến thủ đô

các nước nhập khẩu.

Vận dụng MHLHDCT, một mô hình được biết đến là hữu hiệu nhất cho phân

tích chính sách thương mại trong môi trường đa quốc gia giúp luận án chỉ ra rằng việc

tăng cường nghiên cứu và phân tích các chính sách và những biến động trong chính sách

thương mại gạo của các quốc gia có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược

sản xuất gạo cho xuất khẩu và xuất khẩu với hiệu quả kinh tế và xã hội cao.

147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Ngô Thi Mến (2022a), “Xuất khẩu gạo của Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp”, Tạp chí Kinh Tế và Dự Báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Số 04 (02/2022): (17-22), ISSN 1859-4972.

2. Ngô Thi Mến (2022b), “Mô hình lực hấp dẫn ước lượng các yếu tố tác động tới xuất khẩu gạo của Việt Nam: Tiếp cận từ phía cầu”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Số 18 (06/2022): (8-12). ISSN: 1859-4972.

3. Ngô Thi Mến (2022c), “Thị trường gạo quốc tế: Hàm ý chính sách cho xuất khẩu gạo của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về “Công Cụ Toán – Thống Kê Hiện Đại: Lý Thuyết và Ứng Dụng Lần 4 – Năm 2022”, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, ngày 11/11/2022; trang 148-182, NXB Thông tin và Truyền thông, ISBN: 978-604-80-7267-4, http://hoithaottk.ueh.edu.vn/

148

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Abdullah, M., Li. J., et.al (2015), ‘What Factors Determine the Rice Exports of Pakistan? Finding the Answer by Applying the Gravity Model’, American - Eurasian J. Agric. & Environ. Sci., Số 15, Tập 12, tr. 2521-2527, 2015 ISSN 1818- 6769 © IDOSI Publications, 2015 DOI: 10.5829/idosi.aejaes. 2015.15.12.12842.

2. Adhikari, A., et. al (2016), ‘Export of Rice from India: Performance and Determinants’, Agricultural Economics Research Review, Tập 29, Số 1, January- June 2016, tr. 135-150, DOI: 10.5958/0974-0279.2016.00026.4 29.

3. Ahmad, M. T. M. a. E. (2006), ‘Determinants of Exports in Developing Countries’,

4. Ahn, S., Lee, H. and Schmidt, P. (2001), ‘GMM estimation of linear panel data models with time-varying individual effects’, Journal of econometrics, Số 10, Tập 2, tr. 219-255.

5. Aker, J. C. et. al (2011), West African Experience with the World Rice Crisis, 2007- 2008 -SSRN-id1824620, https://www.researchgate.net/publication/ 228122064 _West_African_Experience_with_the_World_Rice_Crisis_2007-2008.

6. An Ngọc (29/09/2015), Xuất khẩu rớt hạng, gạo Việt đang ở đâu trên thế giới?,

The Pakistan Development Review, Tập 45, Số, 4, tr.1265–1276.

7. Anderson, J. E. (1979), ‘A Theoretical Foundation for the Gravity Equation’,

truy cập ngày 15 tháng 05 năm 2016, từ http://thitruongluagao.com.

8. Anderson, J.E. and Yotov, Y.V. (2011), ‘Terms of Trade and Global Efficiency Effects of Free Trade Agreements, 1990-2002’. NBER Working Paper, Số 17003.

American Economic Review, March 1979, Số 69, Tập1 tr. 106 - 116.

9. Anderson, J. E., & Wincoop, E. V. (2003), ‘Gravity with gravitas: A solution to the border puzzle’, American Economic Review, Số 93, Tập 1, tr. 170–192, truy từ https://doi. org/10.1257/ cập ngày 24 000282803321455214. hdl:10532/3989.

10. Anderson, J. E., & Wincoop, E. V. (2004), ‘Trade costs’, Journal of Economic

tháng 07 năm 2017,

11. Ánh Tuyết (2015), Tạo vị thế vững chắc cho gạo Việt Nam xuất khẩu, truy cập

Literature, Số 42, Tập 3, tr. 691–751.

ngày 20 tháng 10 năm 2016, từ https://nhandan.vn.

12. Arouna, A., Fatognon, I.A., Saito, K. and Futakuchi, K. (2021), ‘Moving toward rice self-sufficiency in sub-Saharan Africa by 2030: Lessons learned from 10 years

149

of the Coalition for African Rice Development’, Journal Homepage World

Development Perspectives, doi: 10.1016/j.wdp.2021.100291, PMCID:

PMC7988505, PMID: 33791446, truy cập ngày 15 tháng 02 năm 2022, từ www.

13. Baier, S. L., and Bergstrand, J. H. (2007), ‘Do Free Trade Agreements Actually Increase Members’ International Trade?’, Journal of International Economics, Số

sciencedirect.com/journal/world-development-perspectives.

1, Tập 71, tr. 72– 95.

14. Baier, S. L., and Bergstrand, J. H. (2011), On the Endogeneity of International Trade Research Gate;

Flows Trade Free and Agreements,

15. Balassa, B. (1965), ‘Trade liberalization and revealed comparative advantage’,

https://www.researchgate.net/profile/Jeffrey-Bergstrand.

16. Baldwin R. and Taglioni, D. (2006), ‘Gravity for dummies and dummies for gravity equations’, Working Paper, số 12516; NBER 1050 Massachusetts Avenue,

Manchester School, Số 33, Tập 2, tr. 99-123.

17. Baldwin, K., et al. (2012), ‘Southeast Asia’s Rice Surplus’, United States Department of Agriculture the Economic Research Service, United States

Cambridge, MA 02138.

18. Baltagi, B. H. (2005), Econometric Analysis of Panel Data, 3th Edition. England:

Department of Agriculture, Số 12l, tr. 1-38.

John Wiley & Sons, Ltd.

19. Báo Sài Gòn Giải Phóng (12/09/2022), Cánh đồng chưa “bay” - Bài 1: Manh mún, từ truy cập ngày 12

lẻ và nhỏ tháng 09 năm 2022, tự phát,

https://www.sggp.org.vn/canh-dong-chua-bay-bai-1-manh-mun-nho-le-va-tu-

20. Báo Sài Gòn Giải Phóng (22/02/2022), Gian nan xây dựng thương hiệu gạo Việt, truy cập ngày 22 tháng 02 năm 2022, từ http://tbtagi.angiang.gov.vn/gian-nan-xay-

phat-841027.html.

21. Barker, R., Herdt, R. W. and Rose, B. (1985), The Rice Economy of Asia, IRRI, Resources for the Future / Washington, D.C. In cooperation with The International

dung-thuong-hieu-gao-viet-23003.html.

Rice Research Institute / Manila.

22. Bellemare, M. F. and + Author Affiliations (2015), ‘Rising Food Prices, Food Price Volatility, and Social Unrest’, Oxford Journal- American Journal of Agricultural Economics, Số 97, Tập 1), tr. 1-21.

23. Benedictis, L. D. and Taglioni, D. (2015), ‘The gravity model in international trade’, In De Benedictis L and Salvatici L (eds) The Trade Impact of European Union Preferential, Policies: An Analysis through Gravity Models.

24. Benzie, M. (2015), ‘Reducing vulnerability to food price shocks in a changing

150

25. Bergstrand, J. H. (1985), ‘The Gravity Equation in International Trade: Some Microeconomic Foundations and Empirical Evidence’, Review of Economics and Statistics, Số 67, tr. 474-481.

26. Bernard, A. and Wagner, J. (2001), ‘Export Entry and Exit by German Firms’,

climate’, Discussion Brief, tr.1-8.

27. Bích Hồng (18/10/2015), Xuất khẩu gạo Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức, truy cập ngày 20 tháng 05 năm 2016, từ http://cafef.vn/nong-thuy-san/xuat-khau- gao-viet-nam-doi-mat-voi-nhieu-thach-thuc-20151019080447899.chn.

28. Bích Ngọc (2016), ‘Nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu’ Báo Công Thương’, Bộ từ ngày

Weltwirtschaftliches Archiv, 2001, Số 137, Tập 1, tr. 105- 123.

tháng năm truy cập 15 10

29. Bikker, J. A. (2009), An extended gravity model with substitution applied to international trade, Tjalling C. Koopmans Reasearch Institute, Utrecht University. DOI:10.1017/CBO9780511762109.005.

30. Bishwajit, G. (2014), ‘Food security and food self- sufficiency in China: From past to 2050’, Food and Energy Security, The Association of Applied Biologists, tr. 87-95.

31. Bishwajit, G. et al (2013), ‘Self-Sufficiency in Rice and Food Security: A South Asian perspective’, Agriculture and Food Security, Số 2, Tập 10, từ https://doi.org/10.1186/2048-7010-2-10.

32. Bộ Công Thương (2010), Nghị Định số 109/2010/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017, từ https://thuvienphapluat.vn/van- ban/Thuong-mai/Nghi-dinh-109-2010-ND-CP-kinh-doanh-xuat-khau-gao- 113987.aspx.

Công Thương, 2019, https://congthuong.vn/nang-cao-chat-luong-gao-xuat-khau-yeu-cau-bat-buoc- 144282.html.

33. Bộ Công Thương (2020), Thông tin xuất khẩu vào thị trường EU-Ngành gạo (HS: 1006), Vụ Thị trường Châu Âu - Châu Mỹ; Quý IV, 2020, truy cập ngày 15 tháng 03 năm 2022, từ https://trungtamwto.vn/

34. Bộ Công Thương (2022), Giới thiệu sách "Thông tin xuất khẩu vào thị trường EU: Mặt hàng Gạo", Vụ thị trường châu Âu - châu Mỹ - Bộ Công Thương, truy cập

151

ngày 25 tháng 06 năm 2022, từ https://trungtamwto.vn/chuyen-de/20387-gioi-

35. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2016), Quyết định số: 1898/QĐ-BNN- TT, ngày 23 tháng 05 năm 2016: Phê duyệt “Đề án tái cơ cấu ngành lúa gạo Việt

thieu-sach-thong-tin-xuat-khau-vao-thi-truong-eu-mat-hang-gao.

nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030”, tr. 1-29, truy cập ngày 21 tháng

36. Brahmbhatt, M. and Christiaensen, L. (May 2008), ‘Rising Food Prices in East Asia: Challenges and Policy Options’, WB Working Paper, The World Bank, tr. 1-18.

37. Breusch, T. S. & Pagan, A. R. (1980), ‘The Lagrange Multiplier Test and Its Applications to Model Specification in Econometrics’, Review of Economic

10 năm 2016, từ https://thuvienphapluat.vn.

38. Briones, R. M. (2012), ‘Rice self-sufficiency: Is it feasible?’, Policy Notes, Số 12,

Studies, Số 47, tr. 239-253.

39. Calpe, C. (2004), ‘International Trade in Rice, Recent Developments and

tr. 1-8.

40. Calpe, C. (2006), ‘Rice, International Commodity Profile. Food and Agriculture Organization of the United Nations’, Markets and Trade Division Food and Agriculture Organization of the United Nations, tr. 1-23.

41. Calpe, C. and Prakash, A. (2006), Commodity Market Review 2005-2006---

Prospects’, World Rice Research Conference Tsukuba, Japan, FAO.

42. Cẩm An (06/10/2015), GS. Võ Tòng Xuân: Lúa gạo cũng gia công, trợ cấp cho người mua thế giới?’, truy cập ngày 06 tháng 10 năm 2016, từ http://cafef.vn/vi- mo-dau-tu/gs-vo-tong-xuan-lua-gao-cung-gia-cong-tro-cap-cho-nguoi-mua-the- gioi-2015100613290946.chn.

43. Cameron, A. C. & Trivedi, P. K. (2009), Microeconometrics Using Stata, Texas:

Sensitive and Special Products - A rice perspective, FAO, tr. 49-72.

StataCorp LP.

44. Campano, C. C. & González, M. A. & López, L. A. & Valdebenito, J. B. (2018), ‘A gravity model of trade for Nicaraguan agricultural exports’, Revista Cuadernos de Economia, Universidad Nacional de Colombia, FCE, CID, Tập 37, Số 74, tr. 391-428, từ https://ideas.repec.org/a/col/000093/016981.html.

45. Cantrell, R. P (2000), Rice: Why it deserves special attention, The Director General of IRRI, Annual Meeting and Science Innovation Exposition of the American Association for the Advancement of Science, 17-22 February 2000, Washington DC.

152

46. Carrere, C. (2003), Revisiting the Effects of Regional Trading Agreements on trade flows with Proper Specification of the Gravity Model, truy cập 20 tháng 11 năm 2017, https://www.researchgate.net/publication/4925641_Revisiting_ the_Effects_of_Regional_Trading_Agreements_on_trade_flows_with_Proper_S pecification_of_the_Gravity_Model

47. Chen, T.H.H.B.Q (2017) ‘An Analysis of Factors Influencing Rice Export in Vietnam Based on Gravity Model’, Journal of the Knowledge Economy, Số 3, Tập 8 tr. 830-844.

48. Cheng, I-H. and Howard, J. W. (2005), ‘Controlling for Heterogeneity in Gravity Models of Trade and Integration’, Federal Reserve Bank of St. Louis Review, Số 87, Tập 1, tr. 49– 63.

49. Childs, N. & Kiawu, J. (2009), Factors Behind the Rise in Global Rice Prices in

từ

50. Chính phủ (2018), Nghị định số 107/2018/NĐ-CP của Chính phủ: Về kinh doanh xuất khẩu gạo, truy cập ngày 20 tháng 08 năm 2018, từ https:// thuvienphapluat.vn/ van-ban/Thuong-mai/Nghi-dinh-107-2018-ND-CP-kinh-doanh-xuat-khau-gao- 391331.aspx.

2008, truy cập ngày 44 tháng 11 năm 2016, từ http://www.ers.usda.gov.

51. Clapp, J. (2015-2016), Food self-sufficiency and international trade: A false dichotomy?, The State of Agricultural Commodity Markets 2015-16 IN DEPTH. từ cập FAO, https://www.fao.org/3/i5222e/i5222e.pdf.

52. Clarete, R. L., Adriano, A. and Esteban, L. S. (2013), Rice Trade and Price Volatility: Implications on ASEAN and Global Food Security, ADB Economics; Working Paper Số 368, tr. 1-31, Asian Development Bank, 6 ADB Avenue, Mandaluyong City, 1550 Metro Manila, Philippines, ADB: 3.

2017, tháng ngày năm truy 12 03

53. Clarkson, N. and Kulkarni, K. G. (2010), Effects of India's Trade policy on Rice Production and Exports, tr. 1-23, truy cập ngày 15 tháng 01 năm 2018 từ https://www.researchgate.net/publication /228701777.

54. Codjo, O. S. et al (2019, 2021), ‘Estimating Demand Elasticities for Rice in Benin Estimating Demand Elasticities for Rice in Benin’, Agricultural Economics, Số 8, Tập 52, tr.1-52, ScholarWorks@UARK.

55. Correia, S. et. al (2020) ‘Fast Poisson estimation with high-dimensional fixed effects’, The Stata Journal, March 2020, Số 1, Tập 20, Issue 1, tr. 95-115.

153

56. CSEA-CIRES-IPAR (2016), Improving rice self-sufficiency policies in West Africa: Challenges and Opportunites, truy cập 25 tháng 10 năm 2017, từ https:// www.ipar.sn/IMG/pdf/rice _workshop_ report-dakar-january_2016-vf-eng.pdf.

57. Đào Thế Anh (2015), Những chính sách thiếu hiệu quả trong ngành lúa gạo, truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2015, từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx? tabid=114&News=8486&CategoryID=7.

58. Daramola, B. (2005), Workshop on Rice Policy & Food Security in Sub-Saharan

https://doi.org/10.1177/1536867X20909691

59. Dawe, D. (2010), ‘The Rice Crisis: Markets, Policies and Food Security’, Earthscan and FAO London, Washington DC, truy cập ngày 17 tháng 08 năm 2012, từ https://www.taylorfrancis.com/ books/edit/10.4324/9781849776684/ rice-crisis-david-dawe.

60. Dawe, D. (2013), ‘Geographic determinants of rice self-sufficiency in Southeast

Africa, WARDA, Cotonou, Republic of Benin.

61. Dawe, D. (2014), ‘Rice-self-sufficiency-A-question-of-geography’, Rice-Today, Division of Foood and Agricultural Organisation of the United nations, UN, Số 13, tr. 20-21.

62. Deardorff, A. V. (1998), ‘Determinants of Bilateral Trade: Does Gravity Work in a Neoclassical World?’, The Regionalization of the World Economy, Frankel, J. A. (ed), University of Chicago, University of Chicago Press, tr.7 - 32

63. Đỗ Hương (2022), Gạo Việt được đón nhận tại châu Âu, truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022, từ httpsbaochinhphu.vn gao-viet-duoc-don-nhan-tai-chau-au- 10222012016282144.htm.

Asia’, ESA Working paper, Số 3, Tập 13, tr. 1-19.

64. Đỗ Minh (2022), Xuất khẩu gạo tạo đột phá mới, truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2022, từ http://www. hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Nong-nghiep/1039155/xuat-khau- gao-tao-dot-pha-moi.

65. Do, Thai Tri (2006), A Gravity Model for Trade between Vietnam and Twenty Three European Countries, Economics and Society, PhD thesis, Dalarna University, Sweden.

66. Đỗ Thị Hương, Nguyễn Thị Thơ (2021) ‘Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị xuất khẩu chè của Việt Nam: Phương pháp tiếp cận mô hình trọng lực’, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 292, Tập 2, tr.78-86.

67. Đồng Văn Chung, Phạm Thanh Hà, Trương Quang Hoàn (2018) ‘Thương mại Việt Nam với các nền kinh tế Đông Bắc Á: Một cách tiếp cận từ mô hình trọng lực’, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, Số 5, Tập 265, tr.3-17.

68. Dorosh, P. A. and Rashid, S. (2013), ‘Trade subsidies, export bans and price stabilisation: Lessons of Bangladesh-India rice trade in the 2000s’, Food Policy, Số 41, tr. 103-111.

69. Dương, S. (2015), ‘Cambodia rice: export potential and strategies’, Cambodia Agribusiness, Số 4, tr. 02-40, truy cập ngày 12 tháng 06 năm 2016, từ https://documents1.worldbank.org.

70. Đức Minh (2020), Visa EVFTA cho gạo Việt, truy cập ngày 20 tháng 02 năm 2021, từ https://bvsc.com.vn/News/2020928/821994/visa-evfta-cho-gao-viet.aspx.

71. Đức Minh (2022), World Bank: Giá năng lượng, lương thực toàn cầu sẽ tăng mạnh, truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2022, từ https://vivahomes.com.vn/tin- tuc/tin-thi-truong/world-bank-gia-nang-luong-luong-thuc-toan-cau-se-tang-manh.

72. Đức Tâm (2016), Hạt gạo vướng nút thắt Nghị định 109/2010/NĐ-CP, truy cập ngày 20 tháng 07 năm 2016, từ http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap- luat/tai-chinh/12991/hat-gao-vuong-nut-that-nghi-dinh-109-2010-nd-cp.

73. Eaton, J., and Kortum, S. (2002), ‘Technology’, Geography, and Trade

154

74. Economic Community of West African States (ECOWAS) (2019), Regional action plan for rice self-sufficiency by 2025, Reporting 2019 Innovation #1406; truy cập ngày 15 tháng 02 năm 2020, từ https://marlo.cgiar.org/summaries/ Rice/projectInnovationSummary.do?innovationID=1406&phaseID=192.

Econometrica, Số 5, Tập 70, (Sep., 2002), tr. 1741-1779.

75. Ekanayake, E. M., et al. (2010), ‘Tradeblock and the Gravity Model: A Study of Economic Integration among Asian Developing Countries’, Journal of Economic Integration, 25(4): 627-643.

76. Elliott, K. A. (2015), ‘Food Security in Developing Countries: Is There a Role for the WTO?’, Center for Global Development, truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2016, từ http://www.cgdev.org/ publication/foodsecuritydevelopingcountriesthererolewto.

77. Emodi, I. A. and Madukwe, M. C. (December, 2008), ‘A Review of Policies, Acts and Initiatives in Rice Innovation System in Nigeria’, Journal of Agricultural Extension, Số 12, Tập 12, tr. 76-83.

155

78. Eshetu, F. A. M. (2020), ‘Determinants of Ethiopian Agricultural Exports: A Dynamic Panel Data Analysis’, Review of market integration, Số 1/2 , Tập 12 từ tr. 70-94, (2020), https://journals.sagepub.com.

79. Evans, D. et al (2006), Assessing regional trade agreements with developing countries: Shallow and Deep Integration, Trade, Productivity, and Economic Performance, truy cập ngày 20 tháng 04 năm 2017, từ https://citeseerx.ist.psu.edu/ viewdoc /download?doi=10.1.1.474.8343&rep=rep1&type=pdf.

80. Fairhurst, T. H. and Doberman, A. (2002), ‘Rice in the Global Food Supply’,

tháng 03 năm 2021, truy cập ngày 20

81. FAO (1961-2023), https://www.fao.org/statistics/en/, FAO

82. FAO (2004), ‘The International Year of Rice 2004’, Concept Paper, The

Better Crop International, Số 16 (Special Supplement), tr. 1-4.

83. FAO (2005-2018), FAO Rice Market Monitor (RMM), FAO.

84. FAO (2013), ‘Trends, emerging issues and policy alignments since the 2007/08 food security crisis’, FAO, truy cập ngày 13 tháng 07 năm 2017, từ https:// www.fao.org/publications/ card/en/c/43ea207c-dd6b-5c2e-8270-8ee30661df75/

85. FAO (2016), ‘Rice Conference’ Report of the 33rd Session of the Regional Conference for Asia and the Pacific’ (Putrajaya, Malaysia, 7-11 March 2016), FAO, tr. 1-21.

International Year of Rice 2004, FAO.

86. FAO (2015-2016), Food self-sufficiency and international trade: a false dichotomy? FAO, In the State of Agricultural Commodity Markets IN DEPTH, tr. từ cập 1-10, https://www.fao.org/publications/card/en.

2017, tháng ngày năm truy 20 07

87. FAO (2020-21), Argicultural Market Information System (AMIS) Market Monitor, truy cập ngày 20 tháng 02 năm 2022, từ http://www.amis-outlook.org/amis- monitoring/monthly-report/en/#. YdaMBslBx0w.

88. Feenstra, R. et al (2001), ‘Using the gravity equation to differentiate among alternative theories of trade’, Canadian Journal of Economics, Số 2, Tập 34, tr.

156

89. Filippini, C. and Molini, V. (2003), ‘The determinants of East Asian trade flows: A gravity equation approach’, Journal of Asian Economics, Số 14, Tập 5, tr. 695-711.

90. Fitrawaty, H., W., Yusuf; M., Maipita, I. (2023), A simulation of increasing rice price toward the disparity of income distribution: An evidence from Indonesia, Số

430-447.

3, Tập 9, tr. e13785-e13785, truy cập ngày 20 tháng 03 năm 2023, từ

91. Flam, H. and Helpman, E. (1987), ‘Vertical Product Differentiation and North- South Trade’, The American Economic Review, Dec., 1987, American Economic

https://doi.org/10.1016/j.heliyon.2023.e13785.

Association Stable, Số 5, Tập 77 (Dec., 1987), tr. 810- 822 Eaton, J. and Akiko, T.

(1995), ‘Bilateralism and Regionalism in Japanese and U.S. Trade and Direct

92. Frankel, J. A. (1997), ‘Regional Trading Blocs’, Washington, DC: Institute for International Economics, DOI: 10.7208/chicago/9780226260228.001.0001.

93. Frankel, J. A., Stein, E.; and Wei, S. J. (1995), ‘Trading Blocs and the Americas: The Natural, the Unnatural, and the Super-Natural’, Journal of Development Economics, Số 1, Tập 47 (June 1995), tr. 61-95.

94. Frankel, J. A., Stein, E., and Wei, S. J. (1996), ‘Regional Trading Arrangements: Natural or Supernatural?’ American Economic Review, 86, Số 2 (May 1996), tr. 52-56.

95. Frankel, J. A., Stein, E., and Wei, S. J. (1998), ‘Continental Trading Blocs: Are They Natural or Supernatural?’, In the Regionalization of the World Economy, edited by Jeffrey A, Frankel. Chicago: The University of Chicago Press, 1998, tr. 91-113.

96. Fukuda, H., et al. (2003), ‘Rice Sector Policies in Japan’, Electronic Outpook Report USA, Economic Research Services, United States Department of Agriculture, tr. 1-19.

Foreign Investment Patterns’, NBER Working Paper, Số 4758.

97. Galero, S., et al. (2014), Food Security versus Rice Self-Sufficiency: Policy Lessons from the Philippines, DLSU RESEARCH CONGRESS 2014, De La Salle University, School of Economics, Manila, Philippines.

98. Gbetnkom D. and Khan, A. (2002), ‘Determinants of Agricultural Exports: The case of Cameroon’, Working Paper, số 120, African Economic Research từ Consortium, Cameroon,

157

tháng 10 năm 2018,

99. Gilbert, J., Scollay, R. and Bora, B. (2000), ‘Assessing Regional Trading Arrangements in the Asia-Pacific’, United Nationas Conference on Trade and Development, International Trade and Commodities, truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2018, từ https://digitallibrary.un.org/record/449568?ln=en.

100. Goletti, F. (1998), ‘The changing public role in a rice economy approaching self-

truy cập ngày 13 https://www.semanticscholar.org/paper/Determinants-of-agricultural-exports% 3A-The-case-of-Gbetnkom-Khan/628856c726eea0ff53d11621b5749d07c64ffc1e.

101. GSO (18/05/2022), Phát triển lúa gạo theo hướng hiệu quả, bền vững, truy cập

sufficiency: The case of Bangladesh’, IFPRI, Washington DC, IFPRI.

102. Gulati, A. and Narayanan, S. (2003), ‘Rice Trade Liberalisation and Poverty’, Economic and Political Weekly, (Jan. 4-10, 2003), Số 1, Tập 38, tr. 45-51.

103. Hà Chính (2015), Bộ Công Thương: “Chạy đua” xin xuất khẩu gạo gây lãng phí, truy cập ngày 20 tháng 04 năm 2016, từ http://canhtranhquocgia.vn/Box-canh- tranh/Bo-Cong-Thuong-Chay-dua-xin-xuat-khau-gao-gay-lang-phi/242924.vgp.

104. Hạ An (27/05/2017), Xuất khẩu giá thấp, nhập khẩu giá cao', đau đầu câu chuyện từ truy cập ngày 27

ngày 18 tháng 05 năm 2022, từ https://www.gso.gov.vn.

tháng 05 năm 2017,

105. Hatab, A. A., Romstad, E. and Huo, X. (2010), ‘Determinants of Egyptian Agricultural Exports: A Gravity Model Approach’, Modern Economy, November 2010, Số 3, Tập 1, tr. 134-143, doi:10.4236/me.2010.13015.

106. Hausman, J. A. (1978), ‘Specification Tests in Econometrics’, Econometrica, Số

hạt gạo Việt Nam, https://nguoidothi.net.vn.

107. Head, K. and Mayer, T. (2014), ‘Gravity Equations: Workhorse, Toolkit, and Cookbook’, Chapter 3; In the Handbook of International Economics, Tập 4, Gopinath, G.; Helpman, E., and Rogoff. K. S. (eds), Elsevier Ltd., Oxford.

46, tr. 1251-1271.

108. Heckscher, E. (1919), ‘The Effects of foreign trade on the distribution of income’, Reading in the Theory of International Trade, Howard S. Ellis và Lloy A. Met (ed), The Blakistion Co., Philadelphia.

109. Helpman, E. (1987), ‘Imperfect competition and international trade: Evidence from fourteen industrial countries’, International Economics, March 1987, Số 1, Tập 1, tr. 62-81.

110. Helpman, E., Melitz, M. and Rubinstein, Y. (2008), ‘Trading Partners and Trading

158

111. Helpman, E. and Krugman, P. R. (1989), Market Structure and Foreign Trade. Increasing Returns, Imperfect Competition, and the International Economy, Cambridge Mass, MIT Press.

112. Hinloopen, J. (2001), ‘On the empirical distribution of Balassa index’, Reviewed

Volumes’, Quarterly Journal of Economics, Số 123, Tập 2, tr. 441–487.

113. Hoàng Đình (2012), Nghịch lý hạt gạo Việt Nam, truy cập ngày 23 tháng 11năm http://vneconomy.vn/thi-truong/nghich-ly-hat-gao-viet-nam-

of World Economics, Tập 1, Số 137, tr. 131-149.

114. Hoàng Lan (15/09/2016), Châu Phi trồng lúa, gạo Việt rẻ hết thời, truy cập ngày 15 tháng 09 năm 2016, từ https://thegioihoinhap.vn/uncategorized/chau-phi-trong- lua-gao-viet-gia-re-het-thoi/

115. Hummels, D. and Levinsohn, J. (1995), ‘Monopolistic Competition and International Trade: Reconsidering the Evidence’, The Quarterly Journal of Economics, Oxford University Press, Số 3, Tập 110, tr. 799-836.

từ 2014, 20121123022916718.htm.

116. Hương Xuân và Cẩm An (2015), Nghịch lý hạt gạo: 70% lợi nhuận thuộc về thương lái, cò lúa và doanh nghiệp phân phối, Truy cập ngày 10 tháng 01 năm 2016, http://cafef.vn/vi-mo-dau-tu/infographic-nghich-ly-hat-gao-70-loi- nhuan-thuoc-ve-thuong-lai-co-lua-va-doanh-nghiep-2015093015470746.chn.

117. IFPRI (2016), ‘Global Food Policy Report 2016, International Food Policy Research Institute; 2033 K Street, NW, Washington, DC 20006-1002, USA, tr. 92-103.

118. Inoue, S., et al. (2016, March 2016), ‘Rice Policy Trends in Southeast Asian Countries: Thailand, Vietnam and Indonesia’, PRIMAFF Review, truy cập ngày 10 tháng 01 năm 2017, từ http://www.maff.go.jp/primaff/e/review/ pdf/150728 _pr66e_03.pdf.

từ

119. IPAR (2016), ‘Promoting rice self-sufficiency in West Africa: Achievements,

159

limits and issues for debate’, Food Sovereignty Brief Số 23, December 2016.

120. IRRI (2022), IRRI commends Indonesia for strong efforts to achieve rice self-

https://www.inter-reseaux.org/wp-content/uploads/bds_no23_riz_en_vf.pdf.

sufficiency, truy cập ngày 08 tháng 09 năm 2022, từ https://www.cgiar.org/news-

events/news/irri-commends-indonesia-for-strong-efforts-to-achieve-rice-self-

sufficiency/#:~:text=From%202019%20to%202021%2C%20Indonesia,Agricultu

121. Irshad, M. S., Qi X. and Arshad, H. (2018), ‘Competitiveness of Pakistani rice in

re%20Organizational%20(UN%20FAO).

international market and export potential with global world: A panel gravity

122. Ito, S., et al. (1988), ‘Rice in Asia: Is It Becoming an Inferior Good?’, Oxford

approach’, Cogent Economics & Finance, Tập 1, Số 6, tr. 1-19.

123. Jayasinghe, S. and Sarker R. (2004), ‘Effects of Regional Trade Agreements on

Journal-American Journal of Agricultural Economics, Số 1, Tập 71, tr. 32-42.

Trade in Agrifood Products: Evidence from Gravity Modeling using

124. John, A. (2014), ‘Price relations between international rice markets’, Agricultural

Disaggregated Data’, Working Papers, Số 374, tr. 1-40.

125. Kea, S., Muhammad, Shahriar, N., Samnang, P. (2019), ‘Factors Influencing

and Food Economics, Số 1, Tập 2, tr.1-16.

Cambodian Rie Exports: An Application of the Dynamic Panel Gravity Model’,

Emerging Markets Finanace & Trade, Số 22, Tập 1, 2019, Routledge Taylor &

126. Kazuo, S. (2008), ‘Urgent Change Needed in Agriculture Policy to Increase

Francis Group, LLC, ISSN:1540-496X print /1558-0938 online

Nation's Food Self-Sufficiency Rate and Encourage Farmers to Continue

Agriculture, JCP's Agriculture Revitalization Plan, Tokyo, Japan Press Service,

127. Kiani F. I., Siddique, H. M. A. (2018), Agricultural Exports of Pakistan: An

https://www.japan-press.co.pj/pdf/special_june_2008/pdf.

Application of Gravity Model, tr.1-13; truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2018, từ

https://www.semanticscholar .org/paper/ Determinants-of-Agricultural-Exports-

of-Pakistan-%3A-Kiani-Ijaz/e08cd332e1f7d54a3a396ac350857c04f889718c.

128. Kepaptsoglou, K. (2010), ‘The Gravity Model Specification for Modeling International Trade Flows and Free Trade Agreement Effects: A 10 Year Review of Empirical Studies’, The Open Economics Journal, 2010, Số 3, tr. 1-13.

129. Kristijandottir, H. (2005), ‘A gravity model for export from Iceland’, Centre for Applied Microeconomics, Department of Economics, University of Copenhagen, tr. 1-59, truy cập ngày 20 tháng 09 năm 2016, từ http://www.econ.ku.dk/CAM.

130. Krugman, P. (1991a), Iceland’s exchange Rate Regime: Policy Options, Report made for the National Economic Institute and the Central Bank of Iceland, Reykjavík, Iceland.

131. Krugman, P. R. and Obstfeld, M. (2011), International Economics, Harlow:

160

132. Kumar, S. K. (2018), ‘A Study on factors affecting the exports performance in

Pearson Education, 2011.

133. Lançon, F. and Benz, H. D. (2007), Rice imports in West Africa: Trade regimes and food policy formulation, Seminar số 106, từ ngày 25-27 tháng 10 năm 2007, Pro-poor development in low income countries: Food, agriculture, trade, and environment, Montpellier, France.

134. Lao Động (2016), Gạo Việt đang mất dần thị phần xuất khẩu, truy cập ngày 08

India’, UGC Aappoved Journal, Số 1, Tập 8, tr. 1-6.

135. Larch, M., and Wanner, J. (2014), ‘Carbon Tariffs: An Analysis of the Trade,

tháng 10 năm 2016, từ http://laodong.com.vn.

136. Larch, M. and Yotov, Y.V. (2016) ‘General Equilibrium Trade Policy Analysis

Welfare and Emission Effects’, CESifo Working Paper, Số 4598.

137. Lê Huy Ngọ (2016), Xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới để làm gì?, truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2016, từ http://vietbao.vn/Kinh-te/Xuat-khau-gao-nhat-nhi-the-gioi- de-lam-gi/380667938/87.

138. Lê Thị Bích Lien, Feng, L.X. and Fei, X.L. (2019), ‘Determinants of China’s Rice Export after WTO Accession: A Gravity Model Analysis’, Asian Journal of Advances in Agricultural Research, Số 3, Tập 9, tr. 1-12.

139. Lehman, R. and Kambirigi, L. (2016), Africa experiencing an increasing demand for rice consumption, FAO, truy cập ngày 25 tháng 7 năm năm 2018, từ https://www.fao.org/africa/news/detail-news/en/c/430281.

with Structural Gravity’, CESifo Working Paper, Số 6020.

140. Leksono, D. A. (2020), ‘Study of Indonesia Exports with The Gravity Model

161

Approach, 2001-2018’, Conference: 11th International Conference on Modern

Research in Management, Economics and Accounting, DOI:10.33422/1

1th.meaconf.2020.12.84, Corpus ID: 244129149, truy cập ngày 08 tháng 01 năm

2021, từ https://www.semanticscholar.org/paper/Study-of-Indonesia-Exports-

141. Malabanan, F. M. (2010), The Philippine Rice Industry: Striving for Self-

with-The-Gravity-Model.

Sufficiency, truy cập ngày 30 tháng năm 2016, từ http://www.asiarice.org/

142. Mankiw, G. (2001), Principles of Economics, second edition, Publisher: Harcourt

sections/whatsnew/Malabanan.PDF.

143. Marshall, A. (1890), Principles of Economics, https://en.wikipedia.org/wiki/

Brace & Company, Orlando, FL.

144. Martin, W., and Pham, C.S. (2008), ‘Estimating the Gravity Equation when Zero

Principles_of_Economics_(Marshall_book).

Trade Flows are Frequent’, Working Paper, Số 2008-03, Deakin University,

145. Mátyás, L. (1997), ‘Proper Econometric Specification of the Gravity Model’, The

School of Accounting, Economics and Finance.

146. McCulloch, N. (2008), Rice Policy in Indonesia--USINDO Brief, truy cập ngày 20

World Economy, Số 3, Tập 20, tr. 363-368.

147. McGeown, K. (2011), The Philippines tries to reduce its dependency on rice, truy

tháng 11 năm 2010.

148. Mohamed A., Elshehawy, H. S. and Ahmed, R. A. (2014), ‘The Factors Affecting

cập ngày 20 tháng 10 năm 2016, từ http://www.bbc.com/news/business-14102518.

Egypt's Exports: Evidence from the Gravity Model Analysis’, Open Journal of

149. Mwansakilwa, C., Tembo, G., and Mugisha, J. (2013), Growth and

Social Sciences, Số 11, Tập 2, tr. 138-148.

Competitiveness of Non-Traditional Agricultural Exports in Zambia, truy cập ngày

19 tháng 7 năm 2017 từ https://www.scirp.org/(S(i43dyn45teexjx455qlt3d2q))/

reference/ReferencesPapers.aspx?ReferenceID=1019519).

150. Ndiame, F. (2021), Africa Can Be Self-Sufficient in Rice Production, truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2021, từ https://agra.org/news/africa-can-be-self-sufficient-in- rice-production/#:~:text=Every%20year%2C%20people%20in%20Sub,

162

151. Ngô Thi Mến (2022a), ‘Xuất khẩu gạo của Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp’, Tạp chí Kinh Tế và Dự Báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Số 04 (02/2022), tr.17-22, ISSN 1859-4972.

152. Ngô Thị Mến (1995), ‘Vietnamese agriculture in a centrally planned economy and

rice%20to%20reach%20the%20continent. (Fadel Ndiame: Deputy President, Alliance for a Green Revolution in Africa (AGRA).

153. Ngô Thị Mến (1997), ‘Short term economic Boom or long term sustainable

in the transition to a market economy’, Working Papers số 197, tr.1-76.

154. Ngô Thị Mến (2003), Vietnamese Rice Economy in Transitions. Final Seminar, done at the ISS, The Hague, The Netherlands, Institute of Social Studies, PhD

growth?, EUROVIET II, Amsterdam’, The Netherlands, tr.1-27.

155. Ngô Thị Mến (2022b), ‘Mô hình lực hấp dẫn ước lượng các yếu tố tác động tới xuất khẩu gạo của Việt Nam: Tiếp cận từ phía cầu’, Tạp chí Kinh tế và Dự báo,

thesis' Draft submitted to the ISS, The Hague, The Netherlands, tr.1-300.

156. Ngô Thị Mến (2022c), ‘Thị trường gạo quốc tế: Hàm ý chính sách cho xuất khẩu gạo của Việt Nam’, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về “Công Cụ Toán - Thống

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Số 18, (06/2022), tr.8-12, ISSN 1859-4972.

Kê Hiện Đại: Lý Thuyết và Ứng Dụng Lần 4 - Năm 2022”, Trường Đại học Kinh

tế TP.HCM, ngày 11/11/2022; trang 148-182, NXB Thông tin và Truyền

157. Ngô Thị Mỹ (2016), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu một số

thông, ISBN: 978-604-80-7267-4, http://hoithaottk.ueh.edu.vn/

158. Nguyen, X.H., Doan, T. H. & Nguyen, T. L. A. 2021a), ‘Discuss the selection of research variables in applying gravity model to analyse factors affecting specific

nông sản của Việt Nam, Đại học Thái Nguyên

159. Nguyễn Bích (2017), Kinh doanh xuất khẩu gạo- Nhiều quy định được thay đổi triệt để, truy cập ngày 29 tháng 05 năm 2017, từ http://baophapluat.vn/bao-ve-

sector’, European Journal of Business and Management, Số 13, Tập 10, tr. 50-55.

nguoi-tieu-dung/kinh-doanh-xuat-khau-gao-nhieu-quy-dinh-duoc-thay-doi-triet-

de-336798.html.

160. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn (2017), Việt Nam không thể tiếp tục sản xuất, xuất khẩu gạo

163

bằng mọi giá, truy cập 17 tháng 12 năm 2018, từ http://vtv.vn/van-de-hom-

nay/viet-nam-khong-the-tiep-tuc-san-xuat-xuat-khau-gao-bang-moi-gia-

161. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn (2020), Sản xuất nông nghiệp: Hiểu thị trường, biết công

20170316011245152.htm.

nghệ, sẽ thành công, truy cập 15 tháng 11 năm 2020, từ https://vietnampfa.com/tin-

tuc-thi-truong/san-xuat-nong-nghiep-hieu-thi-truong-biet-cong-nghe-se-thanh-

162. Nguyễn Hoàng (2022), Việt Nam đang lãng phí tài nguyên khi dùng cám gạo cho

cong.html.

chăn nuôi, truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2022, từ https://vov.vn/kinh-te/thi-

truong/viet-nam-dang-lang-phi-tai-nguyen-khi-dung-cam-gao-cho-chan-nuoi-

163. Nguyễn Khắc Minh (2002), Các phương pháp phân tích và dự báo trong kinh tế,

post979882.vov.

164. Nguyễn Khắc Minh (2017), Phương pháp định lượng trong kinh tế quốc tế, Bài

Hà Nội, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

165. Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam 1945-1995, Nhà Xuất bản Thống

giảng dùng cho Đại học Thủy Lợi, Hà Nội, Việt Nam.

166. Nguyễn Thị Liên (2017), Tối ưu hóa hệ thống vận tải gạo xuất khẩu của Việt Nam,

kế, Hà Nội, 1995.

167. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2019), Tác động của các Hiệp định thương mại đến

Đại Học Hải Phòng, 2017.

168. Nguyễn Tuyền (2016), Cách một con sông nhưng gạo Việt “thua trắng” gạo

xuất khẩu gạo của Việt Nam; Luận án Tiến sĩ, Đại học Kinh tế Quốc dân. Hà Nội,

Campuchia, truy cập ngày 30-09, 2016, từ http://dantri.com.vn/kinh-doanh/cach-

mot-con-song-nhung-gao-viet-thua-trang-gao-campuchia-

169. Nguyễn Tuyền (2016), Gạo Việt - Niềm tự hào bị trả về và chuyện thừa lượng,

20160929121701105.htm.

thiếu chất!, truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2016, từ http://dantri.com.vn/kinh-

doanh/gao-viet-niem-tu-hao-bi-tra-ve-va-chuyen-thua-luong-thieu-chat-

20160910152819068.htm.

170. Nguyễn Tuyền (2016), Ngân hàng Thế giới: “Đã đến lúc Việt Nam không thể làm nông nghiệp theo cách cũ”, truy cập ngày 30 tháng 09 năm 2016, từ http://dantri.com.vn/kinh-doanh/ngan-hang-the-gioi-da-den-luc-viet-nam-khong- the-lam-nong-nghiep-theo-cach-cu-20160927102109972.htm.

171. Nguyễn Văn Thắng (2013), Thực hành nghiên cứu trong kinh tế và quản trị kinh

164

172. Nguyen, Bac Xuan (2010), ‘The Determinants of Vietnamese Export Flows: Static and Dynamic Panel Gravity Approaches’, International Journal of Economics and Finance, Số 4, Tập 2, tr. 122-129.

173. Nielsen, C. P. et. al (2002), ‘The international rice market -Market intergration and import demand analysis’, The 5th Conference on Global Economic Analysis, Taipei, Taiwan, Danish Research Institute of Food Economics.

174. Oguledo, V. I. and Macphee, C. R. (1994), ‘Gravity models: a reformulation and an application to discriminatory trade agreements’, Applied Economics, Số 26, tr. 107-120.

175. Pal, I. and Kar, K. (2021), ‘Gravity Models in International Trade: An Exploration in Econo-Physics’ South Asian Journal of Macroeconomics and Public Finance, Số 2, Tập 10, tr. 72–104, © 2021 SAGE Publications India, Private Limited;

176. Palazzi, P. (2015), ‘Food security, self-sufficiency and democracy’, tr. 1-21.

177. Pearson, S. et al. (1990), Indonesian Rice policy, Cornell Press.

178. Pearson, S. R., et al., et al. (1981), ‘Rice in west Africa: Policy and Economics’, từ

doanh, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

tháng 10 năm 2016, truy cập ngày 23

179. Phạm Anh (2016), Xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, nông dân vẫn nghèo- Sẽ giảm trồng lúa, truy cập ngày 05 tháng 09 năm 2016, từ http://www.tienphong.vn/kinh- te/xuat-khau-gao-hang-dau-the-gioi-nong-dan-van-ngheo-se-giam-trong-lua- 1045737.tpo.

180. Phạm Anh, Phạm Thanh (2017), Cải tổ Hiệp hội Lương thực Việt Nam để “giải cứu” lúa gạo, truy cập ngày 03 tháng11 năm 2017, từ www.tienphong.vnkinh- tecai-to-hiep-hoi-luong-thuc-viet-nam-de-giai-cuu-lua-gao-1129082.tpo.

181. Phạm Chiểu (2002) Doanh nghiệp và nông dân vẫn 'bẻ kèo lẫn nhau', truy cập ngày 17 tháng 09 năm 2016, từ https://vnexpress.net/doanh-nghiep-va-nong-dan- van-be-keo-lan-nhau-4510251.html

Business and Economics, https//books.google.com.vn/books?; isbn=0804710953

182. Piermartini, R and Yotov, Y. V. (2016), ‘Estimating trade policy effects with

165

183. Poyhonen, P. (1963), ‘A Tentative Model for the Volume of Trade Between

structural gravity’, WTO working Paper, ERSD-2016-10

184. Quang Huy (2015), Xuất khẩu gạo sang Trung Quốc như 'đánh bạc', truy cập ngày 23 tháng 05 năm 2016, từ http://laodongthudo.vn/xuat-khau-gao-sang-trung-quoc- nhu-danh-bac-23641.html.

185. Quang Huy (2016), Nguy cơ Mỹ cấm cửa gạo Việt, truy cập ngày 02 tháng 10 năm http://www.baomoi.com/nguy-co-my-cam-cua-gao-viet-la-

Countries’, Weltwirtschaftliches Archive, Số 90 tr. 93-100.

từ

186. Quang Lộc (2020), Điều hành xuất khẩu gạo: Những thành công 2019, truy cập ngày 21 tháng 02 năm 2021, từ https://congthuong.vn/dieu-hanh-xuat-khau-gao- nhung-thanh-cong-2019-131412.html.

187. Rahman, M. M. (2010), ‘The factors affecting Bangladesh's exports: Evidence from the gravity model analysis’, The Journal of Developing Areas, Số 1, Tập 44, tr. 229-244, Nashville, Tenn, ISSN 0022-037X, ZDB-ID 219414-4, truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016, từ https://www.econbiz.de/Record/the-factors-affecting- bangladesh-s-exports-evidence-from-the-gravity-model-analysis-rahman- mohammad-mafizur/10008908539).

188. Ramesh, S. (2011), ‘Food export restrictions: Review of the 2007-2010 experience

2016, lon/c/20457453.epi.

189. Rapsomanikis, G. and Sarris, A. (2010), ‘Commodity Market Review’- Food and Agricultural Organisation of United Nations Rome, Italia, FAO, Trade and Markets.

190. Razzaque, M. A. and Laurent, E. (2008), ‘Agriculture and Rice Trade Liberalisation’, Potential Implications for South Asian Countries, Số 48, tr. 1-8, truy cập ngày 08 tháng 10 năm 2017, từ https://www.thecommonwealth- ilibrary.org/index.php/comsec/catalog/book/560.

191. Reed, J. and Singh, J. (2022, September 9th), India restricts rice exports as từ

and considerations for disciplining restrictive measures’, FAO.

tháng 10 năm 2022, truy cập ngày 26

192. Roberts, M. J. and Tybout, J. R. (1997), ‘The Decision to Export in Colombia: An Empirical Model of Entry with Sunk Costs’ American Economic Review, September 1997, Số 87, Tập 4, tr. 545-564.

commodity prices surge, https://www.ft.com/content/dcfb0818-b895-4c3e-abdc-6e9f4d90f1fb.

193. Sajid, Gul, et. al. (2013), ‘Factors Affecting the Demand Side of Exports: Pakistan Evidence’, Research Jounal of Finance and Accounting, Số 13, tập 4 tr. 1-8 www.iist.org.

194. Salvatici, L. (2013), ‘The Gravity Model in International Trade’, Version 2,

166

195. Sampaothon, S. (2016), Factors Affecting Export Performance of Thai Rice Exporter in the Chinese Market, truy cập ngày 15 tháng 09 năm 2017, từ https://www.researchgate.net/ scientific -contributions/Sonthaya-Sampaothon- 2117772198.

196. Sanderatne, N. (2011), ‘Self suficiency in rice and ít economic benefits’, Columns - The Sunday Times Economic Analysis, Sri-Lanka, Newspapers ltd Colombo Santos Silva, J.M.C., and Tenreyro, S. (2006), ‘The Log of Gravity’, Review of Economics and Statistics, Số 88, Tập 4, tr. 641–658.

197. Santos Silva, J.M.C., and Tenreyro, S. (2011), ‘Further Simulation Evidence on the Performance of the Poisson Pseudo-Maximum Likelihood Estimator’, Economics Letters, Số 112, Tập 2, tr. 220–222.

AGRODEP, Technical Note TN số 04, tr. 1-24.

198. Seyoum, B. (2009), Export-Import Theory, Practices, and Procedures; 2nd Edition by Routledge, 270 Madison Ave, New York, NY 10016; ISBN 10: 0- từ 2038-8930-4 https://rafael.glendale.edu/poorna/ ib/seyoum%20book.pdf)

199. Shepherd, B. (2013, 2016), ‘The Gravity Model of International Trade---A User Guider’. United Nations ESCAP (Economic and Social Commission for Asia and The Pacific, ARTNeT, tr. 1-76.

200. Siamwalla, A. and Haykin, S. (1983), The World Rice Market: Structur, Conduct, and Perfomance, Internationational Food Policy Research Institute, Research Report 39, International Food Policy Research Institute June 1983.

201. Siddique, H. M. A. et al (2018), ‘Determinants of Agricultural Exports of Pakistan:

tháng 09 năm 2017, truy cập ngày 20 (ebk),

202. Siddique, M.A.B. (2020), ‘Estimating the demand elasticity of rice in Bangladesh: An Application of AIDS Model’, Asian Journal of Agriculture and Rural Development, Số 3, Tập 10, tr. 721-728, DOI:10.18488/journal.ajard. 2020.103.721.728

An Application of Gravity Model’, The Dialogue, Số 4, tập 8, tr.1-12.

167

203. Simeon, L. M. (2016), Duterte administration (DA) targets 100% rice self- sufficiency từ truy cập ngày 20 http://www.philstar.com/ business/2016/07/02/1598550/da-targets-100-rice-self- sufficiency-2-years.

204. Siwar, C. et al. (2014), ‘Issues and Challenges Facing Rice Production and Food Security in the Granary Areas in the East Coast Economic Region (ECER), Malaysia’, Research Journal of Applied Sciences, Engineering and Technology, 7(4): 711-722.

205. Sơn Nam (2020), Cơ hội tăng xuất khẩu gạo Việt Nam vào thị trường Châu Âu, truy cập ngày 15 tháng 02 năm 2021, từ https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/co- hoi-tang-xuat-khau-gao-viet-nam-vao-thi-truong-chau-au-1491871396

206. Song Hà (2022), Xuất khẩu gạo vào Asean: Cửa rộng nhưng vẫn vướng, truy cập ngày 11 tháng 02 năm 2023, từ https://vneconomy.vn/xuat-khau-gao-vao-asean- cua-rong-nhung-van-vuong.htm.

207. Sukpanich, S.; Weiqiang, W., (2021) ‘The Influencing Factors of Thai White Rice to International Rice Trade (2015-2020)’, International Journal of Scientific Research Publication, December 2021, Số 11, Tập 12, tr. 278-286.

tháng 10 năm 2016, in 2 years,

208. Stay, K. and Kulkarni, K. G. (2016), The Gravity Model of International Trade, a Case Study: The United Kingdom and her Trading Partners; truy cập ngày 19 https://www.researchgate.net/publication/ tháng 301700213_The_Gravity_Model_of_International_Trade_a_Case_Study_The_U nited_Kingdom_and_her_Trading_Partner.

209. Styger, E. and Traoré, G. (2017, 2018), System of Rice Intensification---SRI- West Africa Agricultural Productivity Program---WAAPP SRRI-WAAPP, 2014-2016; truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2019, từ https://www.nipc.gov.ng/dangote-moves- rejuvenate-rice-production-nigeria.

210. Sulaiman, A. A. (2017), Self-Sufficiency in Rice Achieved, Indonesia to Become Rice Exporter?, truy cập ngày 10 tháng 02 năm 2017, từ https://www.indonesia- investments.com/news/todays-headlines/self-sufficiency-in-rice-achieved- indonesia-to-become-rice-exporter/item7603?

211. Takahashi, D. and Honma, M. (2009), ‘Evaluation of the Japanese Rice Policy Reforms under the WTO Agreement on Agriculture’, International Association of Agricultural Economists Conference, Beijing, China.

2017, năm 07 từ

212. Thành Luân (2015), Gạo Việt sau Thái Lan 100 năm: Đừng hỏi vì sao?, truy cập ngày 25 tháng 06 năm 2016, từ http://dantri.com.vn/kinh-doanh/gao-viet-sau-thai- lan-100-nam-dung-hoi-vi-sao-20150929144303127.htm.

213. Thanh, N. C. and Singh, B. (2006), ‘Trend in rice production and Export in Vietnam’, Omonrice, Số 14, tr. 111-123 truy cập ngày 20 tháng 09 năm 2012, https://www.researchgate.net/publication/ 267387967_Trend_in_rice_production_and_export_in_Vietnam.

214. Thapa, S. B. (2014), ‘Nepal's Trade Flows: Evidence from Gravity Model’, Economic Review, Số 1, Tập 24, tr. 16-27., truy cập ngày 17 tháng 06 năm 2017,

168

từ https://nrb.org.np/ecorev/pdffiles/vol24-1_art2.pdf

215. Thế Văn (2022), Gạo xuất khẩu không còn “vô danh, truy cập ngày 27 tháng 09 https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Luan-ban-Hanh-

từ 2022, năm

216. Thibault, F. (2015), ‘Structural gravity and fixed effects’, Journal of International Economics, 97(1), ISSN 0022-1996, DOI 10.1016/j.jinteco.2015.05.005 truy cập

dong/1041248/gao-xuat-khau-khong-con-vo-danh

ngày 20 tháng 07 năm 2016 từ https://escholarship.org/content/

217. Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị định Số: 109/2010/NĐ-CP về Kinh doanh xuất

qt0q64m8tg/qt0q64m8tg.pdf

khẩu gạo, truy

218. 2018 Về kinh doanh xuất cập ngày 21

tháng 12 năm 2011, từ

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-dinh-109-2010-ND-CP-kinh-

219. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 942/QĐ-TTg “Phê duyệt chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020, định

doanh-xuat-khau-gao-113987.aspx

hướng đến năm 2030” ngày 03 tháng 07 năm 2017, truy cập ngày 12 tháng 07 năm

2017, từ https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Xuat-nhap-khau/Quyet-dinh-942-

QD-TTg-2017-Chien-luoc-phat-trien-thi-truong-xuat-khau-gao-Viet-Nam-2020-

220. Thủ tướng Chính phủ (2018), Nghị định số 107/2018/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 08 năm khẩu gạo, truy cập ngày 03 tháng 10 năm 2018, từ

2030-353865.aspx

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-dinh-107-2018-ND-CP-

kinh-doanh-xuat-khau-gao-391331.aspx

221. Thủ tướng chính phủ (2015), Quyết định số 706/QĐ-TTg ”Phê duyệt Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” ngày

169

21/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ, truy cập ngày 18 tháng 06 năm 2016, từ

https://moit.gov.vn/van-ban-phap-luat/van-ban-dieu-hanh/-quyet-dinh-ve-viec-

222. Thu, P. (2014), XK gạo sang Trung Quốc- 97 phần trăm qua cửa khẩu phụ, truy cập ngày 15 tháng 02 năm 2016, từ http://www.baohaiquan.vn/Pages/XK-gao-

phe-duyet-de-an-phat-trien-thuong-hieu-g.html

223. Thùy Dương (2019), Xuất khẩu gạo năm 2020: Chú trọng vào các giống lúa chất lượng cao, truy cập ngày 18 tháng 01 năm 2021, từ https://congthuong.vn/xuat-

sang-Trung-Quoc-97-qua-cua-khau-phu.aspx.

224. Thúy Hằng (2016), Ai đang hủy hoại thương hiệu gạo Việt Nam?, truy cập ngày 08 tháng 09 năm 2016, từ http://tanthanhco.com.vn/Ai-dang-huy-hoai-thuong-

khau-gao-nam-2020-chu-trong-vao-cac-giong-lua-chat-luong-cao-130604.html

225. Thùy Linh (2014), Xuất khẩu sang ASEAN: Khi gạo không còn là “át chủ bài”, từ http://www.stockbiz.vn/ tháng 10 năm 2015,

hieu-gao-Viet-Nam-vn-623-4-269-0-4.html.

truy cập ngày 12

226. Timmer, C. P. (2008), ‘Causes of High Food Prices’, ADB Economics Working

NewsTools/Print.aspx?newsid=471375.

227. Timmer, C. P. (2010), ‘The Changing Role of Rice in Asia’s Food Security’, ADB Sustainable Development Working Paper Series, Số 15 | September 2010, truy cập

Paper Series, Số 128 tr. 1-60.

ngày 16 tháng 07 năm 2015 https://www.adb.org/sites/default/

228. Timmer, C. P. (2014), ‘Food Security in Asia and the Pacific: The Rapidly Changing Role of Rice’, Asia & the Pacific Policy Studies, Số 1, Tập 1, tr. 73-90,

files/publication/28552/adb-wp15-rice-food-security.pdf

truy cập ngày 16 tháng 07 năm 2015, từ https://www.researchgate.net/

publication/259535558_Food_Security_in_Asia_and_the_Pacific_The_Rapidly_

229. Timmer, C. P. (2017), ‘Food Security, Structural Transformation, Markets and Government Policy’, Asia & the Pacific Policy Studies, Số 4, tr. 4-19, truy cập

Changing_Role_of_Rice.

ngày 13 tháng 06 năm 2018, từ http://onlinelibrary.wiley.

com/doi/10.1002/app5.161/epdf

170

230. Tinbergen, J. (1962), ‘Shaping the World Economy; Suggestions for an International Economic Policy’, New York The Twentieth Century Fund New York, từ truy cập ngày 25 Books (Jan Tinbergen), http://hdl.handle.net/1765/16826

231. Tran Cong Thang (2017), ‘Curent status of Vietnam Rice Export Quality’, Agricultural Marketing Policy, tr.1-7, truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017, từ http://ap.fftc.agnet.org/ap_db.php?id=782

232. Tran Cong Thang and Dinh Thi Bao Linh (2015), Rice Policy Review in Vietnam, Institute of Policy and Strategy for Agriculture and Rural development of Vietnam.

233. Tran Cong Thang, et. al. (2013), Who has benefited from high rice prices in Viet Nam, LUCK HOUSE GRAPHICS LTD, Oxfarm, GROW FOOD.LIFE. PLANET. Ipsard, tr. 1-63.

234. Trần Mạnh (2017), ‘Bao giờ gạo Việt sánh ngang với gạo Campuchia, Thái Lan?’, Tuổi Trẻ, tr. 1-3, truy cập ngày 26 tháng 03 năm 2018, từ https://tuoitre.vn/bao- gio-gao-viet-sanh-ngang-voi-gao-campuchia-thai-lan-20171228110303382.htm

235. Trần Thị Bạch Yến và Trương Thị Thanh Thảo (2017), ‘Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu gạo Việt nam sang thị trường ASEAN: Kết quả phân tích bằng mô hình trọng lực’, The UHD-CTU Annual Economics and Business Conference Proceedings, ngày 13/1/2017-15/1/2017, tr. 768-778.

236. Trần Thị Thu Hiền (2022), Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay, truy cập ngày 08 tháng 03 năm 2023, từ https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh- sach/tinh-hinh-xuat-khau-gao-cua-viet-nam-hien-nay-4633.4050.html)

237. Trefler, D. (1993), ‘Trade Liberalization and the Theory of Endogeneous Protection: An Econometric Study of U.S. Import Policy’, Journal of Political Economy, Số 101, Tập 1, tr. 138-160

238. Trefler, D. (2004), ‘The Long and Short of the Canada-U.S. Free Trade

tháng 10 năm 2016,

239. Trego, R. and Elms, R. (2017), ‘Rice world Markets and Trade’, The Global Commodity Analysis Division, Foreign Agricultural Service, Office of Global Analysis, USDA, Washington, DC 20250, tr. 1-11

240. Trọng Tùng (2020), Chuỗi giá trị sản phẩm từ gạo: Tiềm năng còn bỏ ngỏ, truy cập ngày 10 tháng 01 năm 2021, từ https://kinhtedothi.vn/chuoi-gia-tri-san-pham- tu-gao-tiem-nang-con-bo-ngo.html

Agreement’ American Economic Review, Số 94, Tập 4, tr. 870-895

241. Thúy An (05/07/2022), Khơi thông ‘dòng chảy’ hạt gạo Việt Nam, truy cập ngày 05 tháng 07 năm 2022, từ https://bnews.vn/khoi-thong-dong-chay-hat-gao-viet- nam/248406.html

242. Thư viện pháp luật (2022), Nghị quyết số 19-NQ-TW ngày 16/06/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, truy cập ngày 20 tháng 06 năm 2022, tại https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn

243. Tshujii, H. (1995), Characteristics of and the trade Conflicts in the international Rice Market: A Case Against Free Trade Postulate, tr. 119-136, truy cập 15 tháng 01 năm 2001, từ http://hdl.handle.net/2433/54233

244. Tsukada, K. (2011), Vietnam: Food Security in a Rice Exporting Country, tr. 1-20. Truy cập 20 tháng 07 năm 2017, từ https://www.semanticscholar.org/paper/

245. Từ Thúy Anh, Đào Nguyên Thắng (2008), Các nhân tố ảnh hưởng tới mức độ tập trung thương mại của Việt Nam với Asean+3, Bài nghiên cứu NC-05/2008, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.

246. Tuệ Văn (24/06/2023), Đề xuất quy định mới về kinh doanh xuất khẩu gạo, truy cập ngày 24 tháng 06 năm 2023, từ https://baochinhphu.vn/de-xuat-quy-dinh-moi- ve-kinh-doanh-xuat-khau-gao-102230623175235073.htm

247. Văn Giáp (18/03/2022), Cơ hội nhiều hơn thách thức với doanh nghiệp xuất khẩu gạo, truy cập ngày 18 tháng 03 năm 2022, từ https://www.vietnamplus.vn/co-hoi- nhieu-hon-thach-thuc-voi-doanh-nghiep-xuat-khau-gao/778851.vnp.

248. Velayoudom, M. et al (2010), The distance varying graity model in international economics: Is the distance an obstacle to trade? Số 2, Tập 29, tr. 1139-1155. https://www.researchgate.net/publication.

249. Vĩnh Tường (2022), Nâng tầm nông sản Việt, truy cập ngày 11 tháng 09 năm 2022

171

250. Võ Minh Sang và Võ Khắc Huy (2017, ‘Năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam’, Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô, Số 1, 2017 tr.72-78.

251. Vollrath, T. L. (1989), ‘Competitiveness and Protection in World Agriculture’, Agricultural Information Bulletin Number 567, July 1989, Economic Research Service, United States Department of Agriculture, USA.

từ: https://www.sggp.org.vn/nang-tam-nong-san-viet-840633.html)

252. VTV.vn (21/11/2022), Đề xuất sửa đổi Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo, truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022, từ https://vtv.vn/kinh-te/de- xuat-sua-doi-nghi-dinh-107-2018-nd-cp-ve-kinh-doanh-xuat-khau-gao- 20221121060548116.htm

253. Vũ Diệp Anh (2021), ‘Một số nét chính trong xuất khẩu gạo của Việt Nam’, Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 14, tháng 7 năm 2021, truy cập ngày 15 tháng 08 năm 2021, từ tapchicong thương.com.vn

254. Vu, Hanh Thi, and Doan, Hung Quang (2013), Vietnamese rice exports: Do large destination markets stimulate, truy cập ngày 15 tháng 09 năm 2017, từ http://mpra.ub.uni-muenchen.de/63891/

255. Wahyudi, S. and Saras, R. A. (2015), The Gravity Model of Indonesian Bilateral Trade; DOI:10.21776/UB.IJLEG.2015.001.02.9 Corpus ID: 56362460, truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2016, từ https://www.semanticscholar.org/paper/The- Gravity-Model-of-Indonesian-Bilateral-Trade-Wahyudi- Anggita/8d32b1de729aa2d6cabe0f5eb85a054eb0da5984#extracted.

256. Wailes, E. J. (2004), Rice: Global Trade, Protectionist Policies, and the impact of Trade Liberalisation. Global Agricultural Trade and Developing Countries, M. A. Aksoy and J. C. e. Beghin. The World Bank, World Bank Publications tr. 177-193.

257. Wailes, E. J. and Chavez, E. C. (2012), ASEAN and the Global Rice Situation and từ 25

172

07 2014, cập truy ngày

năm tháng /publication/29969/adb-wp-22-asean-

258. Warr, P. (2011), ‘Food Security vs. Food Self-Sufficiency: The Indonesian Case’,

Outlook, https://www.adb.org/sites/default/files global-rice-situation.pdf.

259. Warr, P., et al (1996), International Demand for Thailand's Rice Exports’, Australian National University, truy cập ngày 18 thangd 09 năm 2015, từ https://www.researchgate.net/publication/5223897_The_International_Demand _for_ Thailand's_Rice_Exports

260. Weizhen, T. et al (2022), ‘Global food prices are soaring. Rice could be next’, từ cập ngày 13

Working Papers in Trade and Development, (04): 24.

tháng 06 năm 2022, truy

ASIA ECONOMY, https://www.cnbc.com/2022/06/13/rice-prices-are-rising-amid-rising-food- inflation-export-bans-.html

261. Wooldridge, J.M. (2006), Introductory Econometrics: A Modern Approach (3rd

173

262. Yutov, Y. V. R., Piermartini, J., Monterio, A. and Larch, M. (2016), An Advanced guide to policy analysis: The structural gravity model, Geneva, Switzerland, United Nations, The World Trade Organisation.

263. Yujiro, H. (1972), ‘Rice Policy in Japan's Economic Development’, American

Edition), South-Western College Publishing.

264. Yusiana, E., et al (2021), ‘Analysis of factors influencing Thai rice trade on Gravity model’, 3rd International Conference on Agriculture and Bio-industry (ICAGRI 2021) IOP Conf. Series: Earth and Environment Science 951 (2022) 012039 doi:10.1088/1755-1315/951/1/012039, tr. 1-7.

Journal of Agricultural Economics, Số 1 Tập 54, tr. 19-31.

174

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Hình 1: Xuất khẩu gạo của Việt Nam thời kỳ 1890-1941

Nguồn dữ liệu: Đặng Phong (1989), Ủy Ban Vật giá Nhà nước (1989).

175

Phụ lục 2. Danh sách 60 nước nhập khẩu gạo từ Việt Nam

Số thứ tự Tên nước Số thứ tự Tên nước

1 Trung Quốc 31 Chile

2 Ghana 32 Togo

3 Philippines 33 Pháp

4 Indonesia 34 Ukraine

5 Malaysia 35 Benin

6 Côte d'Ivoire 36 Israel

7 Hồng Kông 37 Thổ nhĩ Kỳ

8 Papua New Guinea 38 Ba Lan

9 Singapore 39 New Zealand

10 Đông Timor 40 Đức

11 Algeria 41 Cameroon

12 United Arab Emirates 42 Croatia

13 Angola 43 Italy

14 Mỹ 44 Tây Ban Nha

15 Đài Loan 45 Cộng Hòa A-Rập Syri

16 Mozambique 46 Nhật Bản

17 Fiji 47 Nigeria

18 Brunei Darussalam 48 Vương Quốc Anh

19 Liên Bang Nga 49 Congo

20 Nam Phi 50 Senegal

21 Haiti 51 Georgia

22 Saudi Arabia 52 Kenya

23 Tanzania 53 Sierra Leone

24 Hàn Quốc 54 Gambia

25 Gabon 55 Yemen

26 Australia -Úc 56 Guinea-Bissau

27 Lithuania 57 Guinea

28 Canada 58 Bangladesh

29 Hà Lan 59 Cuba

30 Bỉ 60 Irắc

176

Phụ lục 3. FAO-Danh sách cá nước coi gạo là mặt hàng đặc biệt

Các nước với biểu thuế quan chọn gạo là đối tượng được Xử lý Đặc biệt (ST) hoặc Bảo vệ Đặc biệt (SSG) và/hoặc với tỷ suất thuế gạo ràng buộc ít nhất là 50 %

Ad-valorem Bound rate and SSG/ST Status

Ad-valorem Bound rate and SSG/STStatus

Nước

Nước

Tỷ suất thuế ràng buộc và Trạng thái SSG/ST

Tỷ suất thuế ràng buộc và Trạng thái SSG/ST

SSG 55 Macedonia Angola

100 Malawi 125 Antigua and Barbuda

50 Mali 60 Bangladesh

100 Mauritania 75 Barbados

SSG 110 Mexico Belize

SSG 60 Moldova Benin

55 Morocco 162 + SSG Brazil

50 Mozambique 100 Brunei

SSG SSG Namibia Bulgaria

100 Nicaragua 60 + SSG Burkina Faso

100 Niger 50 Burundi

80 Nigeria 150 Cameroon

80 Pakistan 100 Chad

65+ SSG Panama 90 China

189+ SSG Peru 68 Colombia

ST 55 Philippines Congo

SSG Romania 120 + SSG Costa Rica

150 Rwanda 80 Dominica

57 Seychelles 80 Ecuador

SSG Sierra Leone 50 El Salvador

SSG SSG South Africa European Union

60 Sri Lanka 50 Gabon

SSG St. Kitts and Nevis 95 Georgia

177

Ad-valorem Bound rate

Ad-valorem Bound rate

and SSG/ST Status

and SSG/STStatus

Nước

Nước

Tỷ suất thuế ràng buộc và Trạng thái SSG/ST

Tỷ suất thuế ràng buộc và Trạng thái SSG/ST

Ghana 99 St. Lucia 130

Grenada 100 St. Vincent and the Grenadines 130

SSG Guatemala 90+SSG Swaziland

SSG Guyana 100 Switzerland

ST Haiti 66 Taiwan, Chinese Rep.

Hungary 57+ SSG Tanzania 120

India 80 Thailand 52 + SSG

Indonesia 160 Togo 80

Jamaica 100 Trinidad and Tobago 100

SSG Japan Tunisia 60 + SSG

Kenya 100 Uganda 80

ST SSG Korea, Rep. of United States

Kuwait 100 Uruguay 55 + SSG

SSG Kyrgyz Republic Venezuela 122 + SSG

Lesotho 200 Zambia 125

Nguồn: “Table 4: Countries with URAA tariff schedules designating rice as subject to the Special Treatment or to the Special Safeguard and/or with rice tariff bound of at least 50 percent”, Concepción Calpe, RICE INTERNATIONAL COMMODITY PROFILE, FAO, Markets and Trade Division, December 2006