VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ ÁNH
GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - năm 2024
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ ÁNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9380104
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Phạm Minh Tuyên
2. PGS. TS. Đinh Thị Mai
HÀ NỘI - năm 2024
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tác giả. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã
công bố theo đúng quy định. Kết quả nghiên cứu trong luận án do tác giả tự tìm
hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan. Kết quả này được phân tích,
đánh giá phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và chưa từng được công
bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Tác giả
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................................... 9 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ..................................................................... 9 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................................... 21 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ...................... 25 1.4. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.......................................................................................................... 25 Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................... 29 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................................... 30 2.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự ...................................................................................................................... 30 2.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm ............................................... 30 2.1.2. Nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm .......................................... 37 2.1.3. Ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm ............................................ 43 2.2. Cơ sở lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự .................. 46 2.2.1. Cơ sở triết học của giới hạn xét xử sơ thẩm ..................................................... 46 2.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội của giới hạn xét xử sơ thẩm ....................................... 50 2.2.3. Cơ sở từ mối quan hệ biện chứng giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự tại phiên toà sơ thẩm .......................................................................................................... 52 2.3. Mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với một số nội dung khác liên quan trong tố tụng hình sự Việt Nam.................................................................... 56 2.3.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự . 56 2.3.2. Mối quan hệ giữa nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm với phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự .................................................................................................................. 66 2.4. Kinh nghiệm lập pháp về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới ........................................................................................ 69 2.4.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm của một số mô hình tố tụng trong lịch sử phát triển tố tụng hình sự thế giới ................................................................................................................ 69 2.4.2. Pháp luật tố tụng hình sự của một số nước về giới hạn xét xử sơ thẩm ........ 71 Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 75
Chương 3: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .......................... 76 3.1. Thực trạng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.............................................................................................................. 76 3.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam về giới hạn xét xử sơ thẩm trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 ....................................................................................... 76 3.1.2. Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 83 3.2. Thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam................................................................................................................... 90 3.2.1. Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2015 đến năm 2023 ............... 90 3.2.2. Thực trạng áp dụng quy định giới hạn xét xử trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................................................................................... 93 3.2.3. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam và nguyên nhân ...................................................... 106 Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 117 Chương 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................................................................ 118 4.1. Yêu cầu hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................................... 118 4.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam ............................................................. 118 4.1.2. Yêu cầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ................................................................................. 121 4.1.3. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .......... 124 4.1.4. Yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự ............... 127 4.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam ............................................................ 129 4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................................................................ 129 4.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam .......................................................................................................... 137 Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 146 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............................. i DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ ii PHỤ LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng Hình sự
CNXX
Chức năng xét xử
GHXX:
Giới hạn xét xử
HĐXX:
Hội đồng xét xử
KSV:
Kiểm sát viên
NCS:
Nghiên cứu sinh
PGS.TS
Phó Giáo sư. Tiến sĩ
THTT:
Tiến hành tố tụng
TTHS:
Tố tụng hình sự
TAND:
Tòa án nhân dân
TANDTC:
Tòa án nhân dân tối cao
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VAHS:
Vụ án hình sự
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
XXST:
Xét xử sơ thẩm
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định nhiệm vụ:“… Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và có hiệu lực cao…”. Qua
gần 10 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, Bộ Chính trị đã có Kết luận số
92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 về vấn đề này như sau: “Nhận thức của cán
bộ, đảng viên về vai trò của hoạt động tư pháp, sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách
tư pháp được nâng lên rõ rệt. Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan
đến tổ chức và hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ;…. Chất lượng hoạt động tư pháp
được nâng lên; việc tranh tụng tại phiên tòa bước đầu đạt được một số kết quả tích
cực…”. Tuy nhiên,“việc chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cải cách tư pháp vẫn còn
chậm, chưa theo đúng lộ trình của Chiến lược cải cách tư pháp. Một số nhiệm vụ khi
triển khai thực hiện có ý kiến khác nhau, nhưng chưa được nghiên cứu, kết luận kịp
thời”[12]. Với những kết quả và hạn chế đó, Bộ Chính trị đã xác định trong thời gian
tới cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ:“Vấn đề lý luận về quyền tư pháp trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để Tòa án
nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp;…”[12]. Gần đây, Nghị quyết số 27-
NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong giai đoạn mới lại tiếp tục xác định nhiệm vụ: “Hoàn thiện chính sách,
pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân” và “xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng
là đột phá;…”.
Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2021) đã có những quy định tiến bộ và nhân đạo, đặc biệt đã ghi nhận
chính thức những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự tạo nền tảng, cơ sở pháp
1
lý vững chắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng như:
nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc không làm xấu hơn
tình trạng của bị can, bị cáo,… Giới hạn xét xử sơ thẩm là một chế định pháp lý quan
trọng trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Nó xác định phạm vi xét xử và điều
kiện thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa không chỉ phòng ngừa, hạn chế sự lạm
quyền của Tòa án khi thực hiện CNXX, mà còn bảo vệ các bị cáo bị truy tố trong vụ
án và bảo vệ cả những người trước đó đã không bị khởi tố, điều tra, truy tố theo trình
tự của Bộ luật Tố tụng hình sự bị xét xử trái pháp luật. Việc xác định và quy định giới
hạn xét xử sơ thẩm đúng đắn còn có ý nghĩa bảo đảm thực hiện các nguyên tắc cơ
bản của tố tụng hình sự như: nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội,
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Chính giới hạn xét xử là yếu
tố bảo đảm cho Tòa án luôn là Tòa án - cơ quan thực hiện CNXX và chế định này nó
không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án mà còn liên quan đến
phạm vi thực hiện quyền bào chữa của bên bị buộc tội.
Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận ở cấp sơ thẩm, vấn đề giới hạn xét xử chưa có
sự nhận thức thống nhất, đúng đắn phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp, xây dựng
nhà nước pháp quyền, chưa định hướng được cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự và hệ quả của nó phản ánh trong lập pháp tố tụng hình sự
thiếu nhất quán về quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 và gần đây nhất là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2021) dẫn đến thực tiễn áp dụng vẫn còn hạn chế, bất cập trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự; nhiều quy định về nhiệm vụ của Tòa án không thuộc chức năng
của Tòa án. Thực chất, bản chất giới hạn xét xử sơ thẩm chính là việc xử lý hài hoà
mối quan hệ giữa ba chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự tại phiên toà sơ thẩm, đó
là: buộc tội - bào chữa và xét xử, nên về giới hạn xét xử sơ thẩm quy định Tòa án có
quyền xét xử bị cáo tội nặng hơn tội Viện kiểm sát truy tố nó không phù hợp với lý
luận về mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, thậm chí trái
những nguyên tắc tiến bộ và nhân đạo của Hiến pháp hiện hành liên quan đến hoạt
động xét xử như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Mặt khác, việc áp dụng quy định giới hạn
2
xét xử trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cụ thể còn bị vướng mắc về thủ tục tố tụng
thực hiện khi Tòa án quyết định xét xử bị cáo tội nặng hơn tội Viện kiểm sát truy tố,
nếu tội nặng hơn đó không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đang thụ lý.
Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm; phân tích
lịch sử quy định pháp luật, nghiên cứu so sánh với pháp luật tố tụng hình sự các quốc
gia khác về mô hình giới hạn xét xử sơ thẩm; đánh giá thực tiễn, tìm ra những bất
cập, vướng mắc và nguyên nhân, để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng
như bảo đảm thực hiện đúng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm là hết sức cần thiết.
Với những lý do nêu trên, đã làm cơ sở cho nghiên cứu sinh chọn đề tài "Giới hạn
xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng đến làm rõ bản chất nội dung chủ yếu, cơ sở lý luận của quy
định GHXX sơ thẩm; phân tích, so sánh giữa quy định GHXX sơ thẩm của BLTTHS
Việt Nam năm 1988, năm 2003 với BLTTHS năm 2015; tìm hiểu thực tiễn áp dụng
quy định GHXX sơ thẩm, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và xác định nguyên nhân.
Từ đó, đưa ra những yêu cầu, đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng
quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu, nghiên cứu các công trình khoa học, tài liệu, bài viết chuyên môn
có nội dung liên quan đến GHXX sơ thẩm trong và ngoài nước, từ đó xác định phạm
vi và nội dung cần kế thừa, phát triển liên quan vấn đề nghiên cứu;
- Xác định, phân tích nội dung, ý nghĩa cũng như xây dựng khái niệm khoa học
về GHXX sơ thẩm; phân tích cơ sở lý luận hình thành quy định GHXX sơ thẩm trong
TTHS Việt Nam nhằm tạo sự thống nhất về mặt nhận thức trong công tác lập pháp
và thực tiễn áp dụng; tìm hiểu quy định GHXX sơ thẩm của một số mô hình tố tụng
trong lịch sử phát triển TTHS thế giới và kinh nghiệm lập pháp liên quan đến quy
định GHXX sơ thẩm cho Việt Nam;
3
- Phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng pháp luật về GHXX sơ thẩm trong
TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS trong việc thực hiện quy định
GHXX sơ thẩm; xác định những hạn chế, vướng mắc cũng như nguyên nhân của hạn
chế trong quá trình áp dụng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam;
- Xác định các yêu cầu hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định GHXX
sơ thẩm trong TTHS Việt Nam, đặc biệt xác định những nội dung trọng tâm liên quan
đến Tòa án - cơ quan thực hiện CNXX, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo
đảm thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Do tính chất phức tạp và đa dạng của các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên
cứu, nên trong khuôn khổ chuyên ngành Hình sự - TTHS và giới hạn của đề tài, luận
án chủ yếu tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống những quan điểm lý luận và
thực trạng pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm (pháp luật thực định và thực tiễn áp
dụng) như khái niệm, nội dung GHXX sơ thẩm, ý nghĩa của quy định trong TTHS;
cơ sở lý luận về quy định GHXX sơ thẩm; mô hình quy định về GHXX của một số
nước trên thế giới; quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong pháp luật TTHS
Việt Nam; thực trạng áp dụng quy định trong quá trình giải quyết các VAHS.
Luận án phân tích nội dung GHXX sơ thẩm qua một số VAHS cụ thể để đánh
giá thực trạng thực hiện quy định về GHXX sơ thẩm. Các VAHS được thu thập phân
tích đã được giải quyết theo thủ tục xét xử sơ thẩm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Nghiên cứu các quan điểm, học thuyết, lý luận trực tiếp liên quan đến nội dung
GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam dưới góc độ luật hình sự và TTHS; nghiên
cứu thực trạng quy định pháp luật về GHXX sơ thẩm;
Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật TTHS liên quan GHXX
sơ thẩm và đề xuất giải pháp cân nhắc đến các điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị
của Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam; bảo đảm Tòa án luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ đã được
4
ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - là cơ quan thực hiện
quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và quyền công dân;
Luận án chỉ nghiên cứu GHXX sơ thẩm với phạm vi kể từ khi có quyết định
truy tố của VKS chuyển sang Tòa án sơ thẩm cho đến khi Tòa án sơ thẩm tuyên bản
án gồm hai phần (hoặc hai giai đoạn): chuẩn bị xét xử và phiên toà sơ thẩm.
- Thời gian nghiên cứu: Thu thập phân tích một số VAHS đã được xét xử trong
thời gian năm 2015 đến năm 2023 liên quan nội dung GHXX sơ thẩm.
- Về không gian nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu các số liệu thống kê liên quan
đến đề tài trên phạm vi toàn quốc, đồng thời tiến hành khảo sát thực tế một số Tòa án
như: Kiên Giang, Vĩnh Long, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Bạc Liêu để phỏng
vấn trực tiếp một số nội dung liên quan đến đề tài.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;
Các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta về công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam;
Những quan điểm chỉ đạo trong các Nghị quyết của Đảng và các văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước (BLTTHS Việt Nam năm 1988, năm 2003, năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2021) và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan) đề cập
đến các chức năng cơ bản trong TTHS; nội dung, ý nghĩa quy định GHXX sơ thẩm
trong TTHS; mối quan hệ tố tụng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như phạm
vi trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể trong quá trình giải quyết VAHS; cơ chế
phối hợp và các nguyên tắc tố tụng;
Luận án tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng tinh hoa của nhân loại về pháp luật,
dân chủ và quyền con người như: Thuyết “Giới hạn quyền lực” của John Locke, lý
thuyết phân quyền của Montesquieu,…
4.2. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận của Luận án
Ngoài các phương pháp mang tính truyền thống như phương pháp luận duy vật
lịch sử, duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin, đề tài áp dụng phương pháp
5
phân tích - tổng hợp, so sánh, phân tích tình huống, khảo sát (phỏng vấn), thống kê,
… để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu trong phạm vi đề tài. Cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua phân tích và tổng hợp dữ liệu, so
sánh các vấn đề nghiên cứu giữa các đối tượng được lựa chọn; phân tích tình huống
thông qua các VAHS cụ thể liên quan đến nội dung nghiên cứu;
- Phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế, phỏng vấn những nhà
nghiên cứu và người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực, phạm vi nghiên cứu.
Về cách tiếp cận, tác giả sử dụng phương pháp tiếp cận là đi từ cái chung đến
cái riêng, từ cái tổng thể đến cái cụ thể vấn đề cần nghiên cứu. Qua đó, luận án đưa
ra cách tiếp cận mới để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận, làm cơ sở cho việc hoàn thiện
quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam, cụ thể:
- Tiếp cận thực định, lịch sử: Nghiên cứu quy định pháp luật liên quan chế định
GHXX sơ thẩm qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau, đặc biệt xác định, phân tích
mối quan hệ của các vấn đề nghiên cứu với những điều kiện lịch sử cụ thể dưới góc
độ logic phát triển;
- Tiếp cận hệ thống: Trên cơ sở phân tích các vấn đề nghiên cứu đặt ra trong
một tổng thể những yếu tố có liên quan, sự tác động qua lại giữa các yếu tố, tác giả
so sánh quy định pháp luật thực định để nhìn nhận, đánh giá tư duy xây dựng pháp
luật đối với nội dung chế định nghiên cứu;
- Tiếp cận liên ngành như: triết học, chính trị học, luật học so sánh, nhân
quyền,… khi nghiên cứu quy định GHXX sơ thẩm, để có cách nhìn toàn diện về vấn
đề nghiên cứu, làm cơ sở đề xuất giải pháp.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Một là, luận án nghiên cứu một cách toàn diện và đưa ra khái niệm hoàn chỉnh
về “Giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự”; tiếp cận nội dung GHXX sơ
thẩm dưới góc độ từ các chức năng cơ bản trong TTHS.
Hai là, luận án đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của GHXX sơ thẩm, mối quan
hệ giữa GHXX sơ thẩm với các nội dung khác trong TTHS, đặc biệt là mối quan hệ
với các nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam với cách tiếp cận hệ thống, đa chiều.
6
Ba là, luận án nghiên cứu so sánh GHXX sơ thẩm trong các mô hình tố tụng
làm cơ sở, kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam.
Bốn là, luận án nghiên cứu lịch sử pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm; đánh giá
những điểm tích cực cũng như bất cập trong pháp luật TTHS nước ta qua các thời kỳ.
Năm là, luận án nghiên cứu tình huống điển hình (các VAHS cụ thể) để đánh
giá thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm, từ đó xác định nguyên nhân chính
dẫn dến sự bất cập giữa lý luận, pháp lý và thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Luận án đưa ra các nhóm giải pháp thiết thực, góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS
và bảo đảm thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ và khoa học về chế định giới hạn của việc xét
xử sơ thẩm trong TTHS có ý nghĩa vô cùng quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn;
tránh hiện tượng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến
hành tố tụng; phát huy tích cực vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia giải
quyết VAHS; bảo vệ quyền con người và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; nâng
cao chất lượng hoạt động TTHS; góp phần phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả
trong tình hình mới.
Luận án nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận, pháp lý những nội dung
liên quan đến GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam với cách tiếp cận đa ngành, liên
ngành sẽ làm bổ sung, phong phú “kho tàng lý luận” về CNXX của Tòa án trong
TTHS nói chung và GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam nói riêng. Kết quả nghiên
cứu đề tài là nội dung có giá trị tham khảo cao trong tư duy lập pháp liên quan pháp
luật TTHS về GHXX sơ thẩm.
Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được sử dụng là một kênh trong việc
công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam nói chung và những quy
định về GHXX sơ thẩm nói riêng, góp phần tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong
việc áp dụng quy định về GHXX sơ thẩm trong TTHS trên thực tế; góp phần xây
dựng một nền tư pháp thực sự dân chủ, đề cao giá trị quyền con người. Đồng thời với
kết quả nghiên cứu của Luận án, các cơ sở đào tạo luật, cảnh sát, an ninh,… có thể
sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu, giảng dạy và
7
học tập về chức năng của Tòa án, giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, phạm vi xét xử
của Tòa án sơ thẩm, … trong TTHS Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận án được bố trí thành bốn chương gồm:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2. Những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Chương 3. Quy định pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về giới hạn xét xử sơ
thẩm và thực tiễn áp dụng
Chương 4. Yêu cầu và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện đúng quy định giới
hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở nước ta, quy định GHXX sơ thẩm VAHS được ra đời, phát triển và ngày càng
hoàn thiện cùng với sự ra đời, phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật TTHS nói riêng. Trong TTHS, GHXX sơ thẩm là một chế định
pháp lý quan trọng liên quan đến nhiều quy định khác của TTHS, cũng như liên quan
đến các nguyên tắc cơ bản của TTHS như: Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bên
bị buộc tội; nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN,…Việc xác định, nhận thức và áp
dụng đúng đắn nội dung chế định này giúp cho cơ quan THTT nhận thức đầy đủ và
rõ ràng hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc xét xử các VAHS.
Điều đó góp phần thiết thực vào việc định hướng hoạt động xét xử và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của các cấp Tòa án; tăng cường pháp chế XHCN,
kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước và của xã hội;
đấu tranh phòng chống tội phạm một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay trong
khoa học TTHS vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về vấn đề này cả về mặt
nhận thức, lý luận và thực tiễn áp dụng nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
của các hoạt động tố tụng. Đó là lý do giải thích tại sao GHXX sơ thẩm là nội dung
thu hút nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, bàn luận, phân tích trong suốt thời gian
dài, từ khi mới ban hành BLTTHS năm 1988 cho đến thời điểm hiện nay (BLTTHS
năm 2015 được ban hành).
Dưới góc độ luật học và sắp xếp các công trình nghiên cứu đề cập đến xét xử
nói chung, giới hạn XXST trong TTHS nói riêng, có thể chỉ ra các nhóm công trình
khoa học, sau đây:
1.1.1. Nghiên cứu về chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự
Xét xử là hoạt động trọng tâm trong quá trình tố tụng, là chức năng cơ bản và
quan trọng, là chức năng trung tâm trong TTHS, nhân danh nước Cộng hòa XHCN
9
Việt Nam để tuyên bố một người phạm tội hay không phạm tội và có phải chịu hình
phạt hay không phải chịu hình phạt, chỉ có Tòa án mới có quyền thực hiện chức năng
này. CNXX là thiết chế dân chủ, là bảo đảm quan trọng trong việc bảo vệ công lý và
công bằng xã hội; là phương tiện hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Vì thế, những vấn đề liên quan đến nội dung xét xử luôn thu hút sự quan
tâm của nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Về vấn đề này có thể nói đến như: Nguyễn
Ngọc Chí - “Chức năng của Tòa án trong TTHS trước yêu cầu cải cách tư pháp”
(Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 25/2009), Đinh Thị Mai -
“Các chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: nhìn từ lý thuyết chức năng” (Tạp chí
Nhân lực Khoa học xã hội số 05/2015), Đào Trí Úc - “Xác định Tòa án có vị trí trung
tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm” đăng trên trang Thông tin khoa học Trường Đại
học Kiểm sát; Lê Tiến Châu - tác giả luận án năm 2008, đề tài “CNXX trong tố tụng
hình sự Việt Nam”; “Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam: những vấn đề
lý luận và thực tiễn” - luận án tiến sĩ năm 2012 của Nguyễn Mạnh Hùng.… Trong
tác phẩm “Các chức năng của tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới”, tác giả
Đinh Thị Mai đã trình bày, so sánh những đặc điểm cơ bản của các chức năng tố tụng
thể hiện trong các mô hình tố tụng của một số nước, như: Mỹ, Liên bang Nga, Trung
Quốc, Nhật,….Qua đó, bài viết khẳng định: về cơ bản, trong TTHS của các nước
cũng thừa nhận có nhiều chức năng nhưng chức năng cơ bản chỉ có ba, đó là: buộc
tội, bào chữa và xét xử. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về các chức năng cơ
bản trong TTHS, nhưng tựu trung quan điểm được thừa nhận rộng rãi trong nhận thức
cũng như trong thực tiễn, đó là: trong TTHS có nhiều chức năng khác nhau nhưng
chức năng tố tụng cơ bản thì chỉ có ba loại: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa
và CNXX, nếu thiếu một trong ba chức năng này thì hoạt động TTHS sẽ không đạt
được mục đích chung, trong đó xét xử là chức năng trung tâm và có vai trò quyết
định. Đây là luận điểm rất đáng lưu ý để NCS nghiên cứu, luận giải các vấn đề có
liên quan trong đề tài. Luận án “CNXX trong tố tụng hình sự Việt Nam” đã phân tích
một cách có hệ thống về CNXX như khái niệm, nội dung CNXX, chủ thể thực hiện
CNXX trong TTHS, mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS …, luận án
khẳng định xét xử là chức năng của Tòa án, trong TTHS có nhiều chức năng nhưng
10
chức năng cơ bản có ba chức năng: buộc tội - bào chữa - xét xử và ba chức năng cơ
bản này chúng có mối quan hệ biện chứng, là cơ sở để các chủ thể của quan hệ pháp
luật TTHS có thể tham gia thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; có buộc tội thì mới có bào chữa, Tòa án như “trọng tài” phân xử và
ghi nhận sự có căn cứ (minh chứng, chứng cứ) của các bên và ra phán xét. Luận điểm
này giúp cho NCS có thêm cơ sở để nghiên cứu vấn đề liên quan đề tài.
Qua tìm hiểu, các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến nội dung các chức
năng cơ bản trong TTHS, trong đó đều khẳng định xét xử là một chức năng cơ bản,
giữ vai trò quyết định trong quá trình giải quyết VAHS; xác định vị trí, vai trò của
Tòa án trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Các công trình xác định thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc thực hiện CNXX là “giới hạn của CNXX”, tuy nhiên
chưa phân tích làm rõ nội dung, ý nghĩa “giới hạn của CNXX” đối với việc thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể THTT cũng như chưa đề cập đến mối quan
hệ giữa các chức năng cơ bản thể hiện như thế nào ở quy định GHXX sơ thẩm trong
TTHS.
1.1.2. Công trình nghiên cứu về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong lịch sử lập pháp về TTHS, XXST luôn là một chế định được sự quan tâm
của giới chuyên gia nghiên cứu pháp lý và cả những người làm công tác thực tiễn.
Bởi lẽ, đây vừa là một hoạt động tố tụng, vừa là một cấp xét xử, đồng thời là một giai
đoạn tố tụng quan trọng - là giai đoạn thể hiện đầy đủ, đậm nét nhất các chức năng
cơ bản và các nguyên tắc cơ bản của TTTHS, mà biểu hiện tập trung nhất là tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự. Về vấn đề này có thể đề cập đến các công trình nghiên cứu điển
hình như: Luận án tiến sĩ năm 2008 của tác giả Võ Thị Kim Oanh với đề tài “Xét xử
sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”; luận văn thạc sĩ năm 2015 “Xét xử sơ thẩm
theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Sỹ Thành; luận án tiến sĩ
năm 2017 của tác giả Lê Thanh Phong “Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh”. Bài viết “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
– Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Đinh Văn Quế,… Với mỗi
khía cạnh, góc độ khác nhau trong phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của các công trình
11
nêu trên đã phân tích đến nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm theo quy định
của pháp luật TTHS.
Trong công trình luận án tiến sĩ, tác giả Võ Thị Kim Oanh với đề tài “Xét xử sơ
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” nghiên cứu tập trung vào vấn đề hình thức
phiên tòa, trình tự tiến hành phiên tòa, trong đó làm rõ vai trò của các chủ thể thực
hiện chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử; nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của
Tòa án trong phiên tòa xét xử. Về nhận thức, tác giả luận án khẳng định: XXST là
giai đoạn tố tụng trọng tâm, phiên tòa XXST là nơi diễn ra đầy đủ, công khai nhất
các chức năng cơ bản trong TTHS và giới hạn của việc XXST là nội dung thể hiện rõ
nét nhất mối quan hệ hài hòa giữa các chức năng tố tụng cơ bản đó. Với phương pháp
phân tích định tính và cách tiếp cận vấn đề theo “lát cắt” ngang, công trình nghiên
cứu đã làm sáng tỏ một cách cơ bản về mặt lý luận, luật thực định và thực tiễn áp
dụng liên quan đến XXST. Tuy nhiên, khi đề cập đến GHXX sơ thẩm, luận án chưa
xác định mối quan hệ giữa giới hạn của việc XXST với các chức năng cơ bản trong
TTHS, cũng như mối quan hệ giữa GHXX sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong
TTHS, đồng thời chưa làm rõ nội dung giới hạn của việc XXST để làm cơ sở đánh
giá thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm. Một luận điểm quan trọng của luận
án mà NCS sẽ tham khảo, tiếp tục nghiên cứu phát triển khi phân tích nội dung GHXX
sơ thẩm liên quan đề tài, đó là: giới hạn của việc XXST là nội dung thể hiện mối quan
hệ hài hoà giữa các chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội - bào chữa - xét xử.
Đánh giá thực tiễn XXST các VAHS có luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thanh
Phong “Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Công trình làm
rõ những nội dung cơ bản của phiên tòa XXST trong giai đoạn cải cách tư pháp ở
nước ta từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, trong đó chủ yếu tập trung vào các vấn
đề như: các nguyên tắc khi XXST VAHS (nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc xét xử
trực tiếp, liên tục, nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật,...), vấn đề GHXX, vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung; đánh giá thực
tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua hoạt động XXST VAHS,... Khi phân tích các
nội dung liên quan đến XXST hình sự về mặt lý luận và thực tiễn, luận án có đề cập
đến nội dung GHXX sơ thẩm nhưng chủ yếu trình bày luật thực định và ý nghĩa của
12
nó đối với phạm vi xét xử ở giai đoạn sơ thẩm mà chưa nghiên cứu, phân tích về mặt
lý luận và thực tiễn áp dụng quy định này như thế nào. Luận án đã kết hợp sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp một
cách hiệu quả, góp phần làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.
1.1.3. Công trình, bài viết nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm
Vấn đề GHXX là vấn đề trung tâm, quan trọng liên quan đến nhiều nội dung
khác trong TTHS, đồng thời cũng là vấn đề có nội dung phức tạp cả về mặt nhận
thức, lý luận và thực tiễn áp dụng, đặc biệt trong công tác lập pháp và thi hành pháp
luật. Bàn về GHXX sơ thẩm trong TTHS đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu
quan tâm đề cập, như: Nguyễn Văn Huyên -“Một số vấn đề về giới hạn xét xử” (Tạp
chí Luật học số 6/2003), Nguyễn Thái Phúc -“Vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng
hình sự” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11/2003), Phạm Vũ Ngọc Quang - “Giới
hạn của việc xét xử theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí
Kiểm sát số 12/2004), Đinh Văn Quế - “Một số vấn đề về giới hạn của việc xét xử”
(Tạp chí Kiểm sát số 4/2006), Nguyễn Văn Tuân - “Giới hạn xét xử và vấn đề bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự” (Tạp chí TAND kỳ II, số
12/2010), Nguyễn Hoài Nam - “Hạn chế trong quy định giới hạn xét xử của Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí TAND số 13/2010), Nguyễn Thị Kim Thanh -
“Những hạn hế trong quy định của bộ luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm”
(Tạp chí TAND kỳ II, số 20/2010), Nguyễn Ích Sáng - “Về giới hạn của việc xét xử
trong bộ luật tố tụng hình sự và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” (Tạp chí Dân
chủ & Pháp luật số 5/2013), Mai Thanh Hiếu - “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm” (Tạp chí Luật học số 10/2013), Trần Thị Túy -
“Bàn về giới hạn xét xử của Tòa án” đăng trên trang thông tin điện tử của Viện Kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Định năm 2014, Nguyễn Duy Nam - “Bàn về giới hạn xét xử
của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự” đăng mục Nghiên cứu – trao
đổi trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp ngày 19/8/2016), Mai Thanh Hiếu -
“Giới hạn xét xử sơ thẩm theo truy tố” (Tạp chí Luật học số 3/2017), Nguyễn Văn
Tuấn - “Ý kiến Luật sư về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015” đăng trên trang thông tin điện tử của Công ty Lawfirm, Lê
13
Thanh Phong - “Bàn về giới hạn xét xử trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” (Tạp
chí Kiểm sát số 13/2018), Nguyễn Thái Phúc - “Cần sửa đổi và hoàn thiện Điều 298
về Giới hạn xét xử trong BLTTHS năm 2015” (Tạp chí Kiểm sát số 02/2019), Nguyễn
Thái Phúc – “Thay đổi nội dung truy tố tại phiên toà hình sự sơ thẩm, Tạp chí kiểm
sát (số 08/2020), Nguyễn Anh Chung - “Xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh
Viện kiểm sát truy tố - vướng mắc và kiến nghị”, Vũ Tiến Thọ và Đỗ Ngọc Bình -
“Cần hoàn thiện các quy định về giới hạn xét xử” đăng trên https://tapchitoaan.vn
(24/5/2021), Nguyễn Quang Lộc, Phạm Thị Thu Thuỷ - “Bàn về rút quyết định truy
tố của Viện kiểm sát quy định trong BLTTHS năm 2015” đăng trên
https://tapchitoaan.vn (2020), Đinh Minh Lượng, Đặng Thế Thanh – “Những vướng
mắc trong thực tiễn khi áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015” đăng https://thuvienphapluat.vn (2021), Hoàng Ngọc Anh - “Một số hạn
chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
về giới hạn xét xử và hướng hoàn thiện” đăng http://tkshcm.edu.vn (24/10/2021),
Nguyễn Mai Bộ và Vũ Thị Hà – “Giới hạn xét xử và phạm vi quyết định về hình sự
của Hội đồng xét xử sơ thẩm” đăng https://tapchitoaan.vn (30/7/2022), Trần Văn
Hùng - “Bàn về trả hồ sơ điều tra, bổ sung, về giới hạn xét xử” đăng trang thông tin
Tạp chí TAND mục nghiên cứu – xây dựng pháp luật (26/4/2022), Nguyễn Xuân Kỳ
- “Vấn đề giới hạn của việc xét xử quy định tại Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự”(Tạp
chí Luật sư Việt Nam điện tử đăng 27/02/2022), Nguyễn Tất Trình - “Xem xét việc
rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên toà” Tạp chí điện tử luật
sư Việt Nam (11/5/2022), Hoàng Anh Tuyên - “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và
Tòa án trong tố tụng hình sự - một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015” (Tạp chí kiểm sát, số 16/2023).
Ở mỗi cách tiếp cận khác nhau, các bài viết đã luận bàn một số vấn đề về lý
luận, pháp lý và thực tiễn liên quan đến CNXX, XXST VAHS, giới hạn của việc
XXST trong TTHS như: khái niệm, nội dung, ý nghĩa, vị trí, vai trò của các chức
năng cơ bản,…; phân tích thực trạng quy định của pháp luật TTHS về xét xử sơ thẩm
VAHS, về GHXX sơ thẩm và thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện
pháp luật TTHS, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện CNXX nói chung và GHXX
14
sơ thẩm nói riêng. Nhóm bài viết liên quan đến GHXX sơ thẩm vẫn còn nhiều ý kiến
trái chiều, có thể chia thành hai quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc quy
định giới hạn của việc XXST là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc độc lập xét xử của
Tòa án, không đáp ứng được công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai
đoạn hiện nay và chính quy định GHXX vô hình trung “buộc” Tòa án phải xét xử
theo “ý kiến” của VKS thông qua quyết định truy tố, vì thế không bảo đảm nguyên
tắc pháp chế XHCN. Quan điểm này đã “tuyệt đối hoá” CNXX của Tòa án nên đề
xuất sửa đổi Điều 298 BLTTHS theo hướng bỏ thuật ngữ “tội danh”, tức là Tòa án
được xét xử bị cáo và hành vi mà VKS truy tố còn tội gì thì do Tòa án xử và quyết
định, điển hình cho quan điểm này là tác giả Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Duy Nam,
Nguyễn Xuân Kỳ, Nguyễn Anh Chung, Đinh Minh Lượng và Đặng Thế Thanh,...
Quan điểm thứ hai thì khẳng định xét xử là chức năng của Tòa án nhưng đây không
phải là “đặc quyền” của Tòa án mà chúng có giới hạn, xuất phát từ bản chất của hoạt
động TTHS và các chức năng cơ bản trong TTHS mà GHXX sơ thẩm là một tất yếu
khách quan trong TTHS để giúp cho Tòa án luôn là cơ quan tư pháp thực hiện CNXX
và bảo đảm cho các chức năng cơ bản khác trong TTHS được thực hiện. Chính việc
“giải phóng” Tòa án ra khỏi phạm vi nội dung truy tố của VKS đã làm cho Tòa án
không còn là cơ quan thực hiện CNXX và khả năng thực hiện chức năng cơ bản khác
trong TTHS là điều có thể xảy ra, điển hình cho quan điểm này là tác giả Nguyễn
Thái Phúc, Lê Thanh Phong, Hoàng Anh Tuyên, Nguyễn Mai Bộ và Vũ Thị Hà, …
trong bài viết của mình các tác giả đã thể hiện nội dung nêu trên. Luận điểm này giúp
cho NCS có thêm cơ sở lý luận khi tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
nội dung GHXX sơ thẩm cũng như mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình khi giải quyết VAHS.
Các bài viết chuyên môn nêu trên đã cho NCS cái nhìn tổng thể pháp luật TTHS
về GHXX sơ thẩm, là nguồn dữ liệu quý giá để NCS kế thừa nghiên cứu và phát triển
về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn một cách có hệ thống. Bên cạnh đó, một số bài
viết đã đề cập và đối chiếu nội dung GHXX sơ thẩm của Việt Nam với một số nước
trên thế giới, như: Malaysia, Thái Lan, Đức, Pháp, Anh, Mỹ,.… để thấy sự tương
15
đồng và chưa tương đồng làm cơ sở, kinh nghiệm trong việc nghiên cứu, hoàn thiện
pháp luật TTHS nói chung và quy định GHXX sơ thẩm nói riêng.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu luật học đã chọn nội dung
quy định này làm luận văn thạc sĩ luật học điển hình như: Luận văn thạc sĩ năm 2008
của tác giả Lê Văn Tâm với đề tài "Quyền phán quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm
và giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam"; luận văn năm 2011 “Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hoàn; luận văn thạc sĩ năm
2016 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hoa với đề tài “Giới hạn xét xử trong tố tụng hình
sự Việt Nam”; “Giới hạn xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Hồ
Quốc Bình. Tác giả Phan Vĩnh Chuyển với luận văn thạc sĩ năm 2017 “Giới hạn xét
xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”;
Luận văn thạc sĩ của tác giả Khâu Văn Sĩ với đề tài “Giới hạn xét xử sơ thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Ngoài ra,
giáo trình luật TTHS của các trường như: Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh, Đại học Cảnh sát, Đại học An Ninh,… cũng nêu và trình bày cơ
bản nội dung giới hạn của việc XXST, phúc thẩm VAHS theo quy định của pháp luật
hiện hành. Tuy nhiên, nhóm công trình này cũng chỉ đề cập đến thực trạng pháp luật
(quy định và thực tiễn) mang tính liệt kê mà chưa phân tích, đánh giá được sự khác
biệt qua từng nội dung quy định GHXX (sơ thẩm và phúc thẩm) của pháp luật TTHS
Việt Nam, để qua đó thấy được điểm tiến bộ hay “thụt lùi” của quy định GHXX. Các
nhóm công trình chưa phân tích sâu về lý luận những vấn đề liên quan đến GHXX sơ
thẩm, như: bản chất nội dung của GHXX sơ thẩm trong TTHS, cơ sở hình thành quy
định GHXX sơ thẩm, đặc điểm, ý nghĩa của quy định này đối với đời sống chính trị
- xã hội cũng như mối quan hệ giữa chế định GHXX sơ thẩm với các chế định khác
trong BLTTHS,… Khi phân tích thực trạng về việc áp dụng GHXX sơ thẩm, các tác
giả chủ yếu chỉ thống kê số liệu báo cáo tình hình XXST các VAHS trong một giai
đoạn mà chưa phân tích tình huống (VAHS cụ thể) liên quan đến quy định GHXX sơ
thẩm để thấy sự tương đồng hay chưa tương đồng giữa lý luận và thực tiễn về nội
dung này; mặt khác, các bài viết cũng chưa xác định được nguyên nhân chính của
16
những tồn tại, vướng mắc, nên các giải pháp đề xuất còn chung chung, nặng tính lý
thuyết, giá trị thực tiễn chưa cao. Việc đánh giá luật thực định của các công trình
nghiên cứu nêu trên là nội dung để NCS tiếp tục nghiên cứu, phân tích làm rõ những
điểm tiến bộ và hạn chế trong tưu duy lập pháp của nước ta, làm tiền đề hoàn thiện
pháp luật TTHS liên quan đến nội dung đề tài.
1.1.4. Công trình, bài viết nghiên cứu về các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng
hình sự liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm
Giới hạn xét xử sơ thẩm là một trong những chế định quan trọng của BLTTHS
Việt Nam, nội dung chế định thể hiện mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong việc
giải quyết VAHS cụ thể tại phiên toà sơ thẩm theo chức năng, nhiệm vụ của mình và
tất nhiên không thể không đề cập đến quyền bào chữa của các chủ thể có quyền bào
chữa. Để thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm, NCS thiết nghĩ một điều kiện rất
quan trọng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam, đó là
nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,… Trong
phạm vi nội dung này, NCS tìm hiểu, khái quát một số quan điểm về các nguyên tắc
cơ bản trong TTHS liên quan đến GHXX sơ thẩm làm cơ sơ, tiền đề cho việc nghiên
cứu hoàn thiện nội dung quy định.
Một số bài viết về các nguyên tắc cơ bản trong TTHS đề cập đến nội dung
GHXX sơ thẩm: Trước hết là các bài viết, công trình nghiên cứu về nguyên tắc tranh
tụng như Nguyễn Thái Phúc - “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong Tố
tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số
8/2008), Phạm Hồng Phong - “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử” đăng Trang thông tin “Người bảo vệ
quyền lợi” - trang web của Trung tâm tư vấn pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh -
Trung ương Hội luật gia Việt Nam, đăng cập nhật 19/5/2015, Phạm Tiến Đại - “Bàn
về nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”,
https://tapchitoaan.vn (18/6/2019), Đào Trí Úc và Nguyễn Mạnh Hùng - “Bàn về các
nguyên tắc tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2011, Đào Trí Úc –
17
“Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự Việt
Nam”, Thông tin khoa học Trường Đại học Kiểm sát, (http://tks.edu.vn/thong-tin-
khoa-hoc/chi-tiet/79/2016), Lê Trung Dũng - “Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa án Quân
sự Quân khu 2”, luận văn thạc sĩ, 2018, Học viện khoa học xã hội, Lê Đình Nghĩa -
“Một số bất cập thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015”, https://tapchitoaan.vn (04/10/2021), Đặng Văn Vương và Xuân Thoại -
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm quy định và thực tiễn thực hiện”,
Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (22/4/2022), Nguyễn Anh Hoàng - “Bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 06 (478), tháng 3/2023, Vũ Gia Lâm - “Hoàn thiện một số
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền của Tòa án nhằm bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng”, Tạp chí Kiểm sát số 15/2023, Hoàng Đình Thanh – “Trao đổi về nội
dung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015”, https://kiemsat.vn (09/6/2023).
Với mỗi tiếp cận khác nhau, các bài viết đã thể hiện khá rõ khái niệm, nội dung,
ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng đặc biệt khi nguyên tắc này được ghi nhận chính
thức trong BLTTHS năm 2015 của nước ta. Các bài viết nêu trên đã phân tích nội
dung của nguyên tắc và giá trị của chúng trong quá trình tiến hành tố tụng ở giai đoạn
XXST tại phiên toà, nhưng thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc còn nhiều bất cập,
chưa phù hợp với nội dung của nguyên tắc. Đặc biệt có quan điểm cho rằng nguyên
tắc tranh tụng là quy luật khách quan của hoạt động TTHS, nếu nhà lập pháp nhận
thức đúng đắn về nguyên tắc này mới có thể giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
ba chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội - gỡ tội (bào chữa) và xét xử tại phiên toà,
đại diện cho quan điểm này là PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Lê Đình Nghĩa, Nguyễn
Anh Hoàng,… - đây là luận điểm quan trọng để NCS nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến GHXX sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong TTHS.
Bàn về nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, có nhiều công trình, bài viết liên
quan, NCS chỉ đề cập một số bài viết điển hình như: Đặng Quang Phương -“Nguyên
tắc độc lập xét xử và vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự”, Những vấn đề lý
18
luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp
bộ, VKSNDTC, 1995; Đinh Thanh Phương - “Nguyên tắc độc lập trong hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, 2012;
Nguyễn Đăng Dung - “Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp
năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (276), tháng 10/2014; Trịnh Văn
Dũng - “Nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án: thực trạng áp dụng và những bất
cập”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (15/6/2023); Hà Thị Khuyên và Nguyễn Văn
Đồng - “Bàn về nguyên tắc xét xử độc lập trong các cấp Tòa án”, Tạp chí Luật sư
Việt Nam điện tử (27/6/2023). Các bài viết nêu trên đã phân tích khá đầy đủ về nội
dung, ý nghĩa của nguyên tắc trong quá trình giải quyết VAHS, quan điểm chung các
tác giả của bài viết cho rằng:“Người điều khiển” Tòa án (HĐXX) chỉ có thể là Pháp
luật, khi thực hiện đúng nội dung nguyên tắc thì chân lý vụ án mới được sáng tỏ, còn
nếu Tòa án bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào (kể cả nội dung truy tố của VKS - “cái
mà” Nhà nước quy định thuộc chức năng của VKS - thay mặt Nhà nước truy tố người
phạm tội ra trước pháp luật) cũng có thể làm cho vụ án bị “bóp méo”, mục đích TTHS
sẽ không đạt được, vì thế việc quy định cho Tòa án được xét xử “vượt qua” phạm vi
truy tố của VKS là hoàn toàn phù hợp với nội dung nguyên tắc này. NCS lại không
nghĩ vậy. Nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc cần thiết
phải có để giúp Tòa án luôn là Tòa án - cơ quan thực hành quyền tư pháp, nhưng
không có nghĩa là Tòa án muốn xét xử ai, hành vi, tội danh nào cũng được mà không
bị ràng buộc bởi điều kiện, giới hạn nào và không đặt mình trong các mối quan hệ
khác của TTHS.
Các công trình, bài viết về nguyên tắc suy đoán vô và nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo. Bàn về các nguyên tắc này có thể đề cập đến các tác giả
sau: Nguyễn Thái Phúc - “Nguyên tắc suy đoán vô tội”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật (số 11/2006); Đào Trí Úc - “Nguyên tắc suy đoán suy đoán vô tội - nguyên tắc
hiến định quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số
02/2017; Đinh Thế Hưng - “Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình
sự Việt Nam, Tạp chí TAND điện tử (11/9/2019); Hoàng Văn Hạnh - “Quy định về
bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
19
2015”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp (30/5/2020); Nguyễn Đức Minh -
“Bàn về nguyên tắc suy đoán vô tội”, Tạp chí TAND điện tử (08/8/2020); Phạm Minh
Tuyên - “Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 - lý luận và
thực tiễn”, https://tapchitoaan.vn; Ngô Ngọc Diễm và Đỗ Thị Hà - “Bàn về nguyên
tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện
tử (23/4/2023); Trần Thu Hạnh - “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN:
Luật học, tập 34, số 3/2018; Nguyễn Văn Điền - “Bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự trên cơ sở Hiến định”, Trang thông tin Bộ Tư pháp mục nghiên cứu trao
đổi, đăng cập nhật ngày 18/7/2019; Vũ Văn Hoàng – “Bảo đảm quyền bào chữa đối
với người bị buộc tội trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”,
https://tapchitoaan.vn (18/12/2021); Vũ Mai Quỳnh - “Bảo đảm quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự và một số vấn đề cần đặt ra”, Khoa luật Đại học quốc gia Hà
Nội, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (2021); Lê Văn Thanh - “Bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam
(29/8/2022);… Với cách tiếp cận khác nhau, các bài viết chuyên môn đều cho rằng
nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
là những nguyên tắc nhân văn, tiếp thu tiến bộ pháp luật TTHS của các nước trên thế
giới, tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các nguyên tắc bằng các cơ chế, thiết chế
pháp luật chưa được đồng nhất và đồng bộ dẫn đến thực tế các nguyên tắc này chưa
thực hiện đúng. Việc ghi nhận chính thức, duy trì các nguyên tắc này trong Hiến pháp,
BLTTHS nước ta là một “điểm son” để trong quá trình THTT, các chủ thể THTT
không định kiến, luôn có cách nhìn khách quan khi đánh giá, kết luận chứng cứ buộc
tội cũng như gỡ tội được chính xác làm cơ sở giải quyết VAHS được đúng đắn. Mặc
dù vậy, thực tế cho thấy chúng ta chưa quan tâm cụ thể hoá kịp thời các quy định liên
quan đến các nguyên tắc này để chúng được các chủ thể liên quan thực hiện tốt. Đại
diện có tác giả Nguyễn Thái Phúc, Vũ Văn Hoàng, Đinh Thế Hưng, Vũ Mai Quỳnh
quan điểm rằng: việc quy định cho Tòa án được quyền xét xử “vượt qua” nội dung
truy tố về “tội danh nặng hơn” là đã vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội và ảnh
hưởng không nhỏ đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo, mặc dù Tòa án có thông báo
20
trước về khả năng xét xử tội nặng hơn tội VKS truy tố. Bởi lẽ, mới qua nghiên cứu
hồ sơ, chưa mở phiên toà, chưa tiến hành thẩm tra, xét hỏi các chứng cứ, tình tiết mà
Tòa án đã có“định kiến” tội khác nặng hơn tội VKS truy tố, mặt khác sẽ lý giải như
thế nào về ý nghĩa của bản cáo trạng mà VKS thay mặt Nhà nước thực hiện? chức
năng của VKS là gì? Tòa án thực hiện chức năng gì trong TTHS? Người bị buộc tội
là người “yếu thế” nên cần phải có cơ chế, phương thức bảo vệ họ khi đã tham gia
vào TTHS - đó mới là thể hiện nền tư pháp dân chủ, bảo vệ quyền con người - đây là
nội dung có giá trị về mặt nhận thức mà NCS cần tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu.
Tóm lại, với mỗi khía cạnh khác nhau, các công trình, bài viết chuyên môn đã
nêu và phân tích khá đầy đủ khái niệm, nội dung và ý nghĩa của các nguyên tắc cơ
bản trong TTHS nêu trên. Mặc dù còn nhiều quan điểm trái chiều về nội dung, ý nghĩa
của các nguyên tắc nhưng đó là những luận điểm quan trọng giúp NCS có cơ sở lý
luận, pháp lý và thực tiễn nghiên cứu GHXX sơ thẩm một cách toàn diện hơn khi đặt
chúng vào mối quan hệ với các nguyên tắc cơ bản trong TTHS.
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Qua nghiên cứu tìm hiểu, được tiếp xúc với các văn bản pháp luật, sách báo
pháp lý nước ngoài, NCS nhận thấy ở những khía cạnh nhất định các công trình
nghiên cứu pháp lý đề cập một số nội dung liên quan đến các chức năng cơ bản, giới
hạn của việc XXST trong TTHS. Cụ thể có những nhóm nghiên cứu sau:
1.2.1. Nghiên cứu về chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự
Đối với giáo trình, sách báo nước ngoài, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý
đã đề cập một số vấn đề cơ bản mang tính lý luận về chức năng TTHS, chức năng cơ
bản của TTHS như: khái niệm, nội dung, vai trò, vị trí của các chức năng tố tụng, nội
dung, phạm vi của các chức năng cơ bản; …ở mức độ gián tiếp các công trình đã đề
cập đến vị trí, vai trò của hoạt động xét xử - là một chức năng cơ bản trong TTHS.
Chẳng hạn: Khi đề cập đến khái niệm chức năng TTHS, trong tác phẩm “bản chất
của luật TTHS Xô Viết” tác giả P.X.Enkind cho rằng: “Chức năng tố tụng không phải
là loại định hướng các hoạt động TTHS mà là sự thể hiện trong các định hướng tương
ứng các hoạt động chức năng và vai trò của các chủ thể tố tụng hình sự” [100, tr.54].
Trong khi đó, tác giả M.X.Xtrôgôvích lại cho rằng: “Chức năng tố tụng được hiểu là
21
những định hướng đặc biệt phân định các hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng
khác nhau trong những phạm vi nhất định” [81, tr.15] và “những hoạt động mang
tính định hướng của các chủ thể quan hệ pháp luật TTHS nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ và mục đích của mình được gọi là chức năng tố tụng hình sự” [81, tr.188].
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng đây là những luận điểm có giá trị giúp cho
NCS nghiên cứu các vấn đề có liên quan trong luận án một cách toàn diện.
Đề cập đến các chức năng cơ bản trong TTHS, giáo trình TTHS Xô Viết cho
rằng: “Những chức năng mà khi được thực hiện sẽ giải quyết được nhiệm vụ chung
của TTHS thì được gọi là chức năng cơ bản. Những chức năng đó do các cơ quan
nhà nước thực hiện (có nghĩa vụ thực hiện), cũng như những người THTT và người
TGTT thực hiện (được thống nhất bởi quyền của nhóm này đồng thời là nhiệm vụ của
nhóm khác)” [36, tr.15]. Trong tác phẩm của mình, tác giả L.N.Guxayep viết rằng:
“Sự buộc tội được hình thành và được thực hiện chỉ trong giai đoạn xét xử. Trong
giai đoạn điều tra không có sự buộc tội, còn hoạt động của Điều tra viên - đó là thực
hiện chức năng điều tra, một chức năng duy nhất trước giai đoạn xét xử” [159, tr.19].
Trong khi đó, giáo trình TTHS Xô Viết thì khẳng định“chức năng điều tra là một bộ
phận cấu thành sự buộc tội. Cơ quan Điều tra khi tiến hành khởi tố bị can là đã thực
hiện sự buộc tội đối với bị can, áp dụng những biện pháp tố tụng cần thiết, lập bản
cáo trạng buộc tội bị can về tội gì và sẽ bị đưa ra tòa xét xử theo sự buộc tội đó” [36,
tr.17]. Còn giáo trình TTHS Xô Viết (2000), NXB Dersalo, Matxcova thì cho rằng:
khi nói đến chức năng cơ bản trong tố tụng thì nó phải là chức năng xuất hiện và tồn
tại trong tất cả các VAHS - đó phải là “những định hướng cơ bản của các hoạt động
được thực hiện trong phạm vi tố tụng hình sự” [37]. Theo cách tiếp cận này thì cho
rằng: trong TTHS có ba chức năng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội
(bào chữa) và CNXX. Chúng định hướng, phân định các chức năng, nhiệm vụ của
các chủ thể tiến hành tố tụng. Đây là luận điểm chung có giá trị để NCS nghiên cứu,
tìm sự tương đồng về nhận thức liên quan đến các nguyên tắc cơ bản trong TTHS ở
nước ta, từ đó lựa chọn những yếu tố hợp lý tiếp tục kế thừa, phát triển.
22
1.2.2. Nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Qua tìm hiểu nghiên cứu, các công trình, bài viết liên quan trực tiếp đến GHXX
sơ thẩm trong TTHS ở ngoài nước cũng rất hạn chế, chủ yếu nội dung này được thể
hiện trong BLTTHS của các nước. Do các kiểu mô hình TTHS khác nhau nên nội
dung GHXX sơ thẩm cũng được quy định khác nhau. Tham khảo BLTTHS của một
số nước, mặc dù không thấy quy định điều luật có tên riêng về giới hạn của việc
XXST nhưng rải rác ở các điều luật trong BLTTHS của các nước trên thế giới có quy
định nội dung GHXX và thể hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, VKS (bên công
tố) trong phạm vi buộc tội của bên công tố. Qua đó, quy định mối quan hệ tố tụng của
các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết VAHS bảo đảm khách quan, công bằng,
hài hòa quyền và lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể tham gia tố tụng. Cụ thể:
BLTTHS Liên bang Nga tại Điều 252 quy định như sau: “1. Việc xét xử chỉ
được tiến hành đối với bị can và chỉ theo sự buộc tội được đưa ra đối với họ. 2. Chỉ
được phép thay đổi nội dung buộc tội trong quá trình xét xử, nếu không làm xấu hơn
tình trạng của bị cáo và không xâm phạm đến quyền bào chữa của bị cáo” [16]. Điều
285 BLTTHS Bungari quy định: cho phép thay đổi nội dung buộc tội ở phiên tòa đối
với các vụ án công tố bằng cách ra quyết định buộc tội mới, nếu trong khi xét hỏi tại
phiên tòa thấy có căn cứ để áp dụng điều luật về tội phạm có hình phạt nặng hơn mà
không thay đổi lớn (cơ bản) nội dung buộc tội ban đầu, trong trường hợp này VKS
có thể đưa ra lời buộc tội mới. Nếu Tòa án quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo nội
dung buộc tội mới, Tòa án phải tạo điều kiện cho bị cáo chuẩn bị bào chữa theo nội
dung buộc tội mới [14]. Tương tự quan điểm, Điều 346 BLTTHS Ba Lan quy định:
nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa nhận thấy rằng, mặc dù không vượt quá
GHXX nhưng hành vi phạm tội có thể áp dụng theo điều luật khác, thì Tòa án phải
báo trước cho các bên biết vấn đề này khi nó có thể nghĩa đối với họ, đặc biệt là đối
với việc bào chữa của bị cáo [13]. BLTTHS Rumani và BLTTHS Hàn Quốc cũng có
nội dung tương tự, Điều 334 BLTTHS Rumani thể hiện: Trong trường hợp nội dung
buộc tội không thay đổi, vẫn tiếp tục tồn tại đối với hành vi đó như là sự kiện khách
quan, nhưng chỉ thay đổi việc đánh giá nó về mặt pháp lý. Trong trường hợp này, bị
cáo có quyền đề nghị vẫn tiếp tục xét xử vụ án hoặc là hoãn lại để bị cáo chuẩn bị
23
bào chữa theo sự buộc tội mới [19]; Điều 298 BLTTHS Hàn Quốc quy định:“Khi
Tòa án thấy thích hợp, họ có thể yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi các tội danh đang
buộc hoặc các điều khoản áp dụng của luật hiện hành. Nếu Tòa án thấy bất lợi cho
bị cáo thì Tòa án có thể tự quyết định hoặc theo đề nghị của bị cáo, luật sư bào chữa
hoãn phiên tòa trong một thời gian nhất định để bị cáo chuẩn bị bào chữa” [17].
Trong khi đó, Điều 192 BLTTHS Thái Lan lại quy định: “Nếu Tòa án cho rằng
những tình tiết nêu trong cáo trạng đã được chứng minh trong đề nghị truy tố nhưng
đề nghị truy tố đó lại đề cập một tội phạm sai hoặc trích dẫn sai các điều luật được
áp dụng, Tòa án có quyền phạt bị cáo theo tội thực tế mà bị cáo đã phạm phải” [20].
Điều 167 bộ luật TTHS Malaysia thì: “Nếu bị cáo bị buộc tội này nhưng chứng cứ
tại phiên tòa lại cho thấy đã phạm một tội khác thì bị cáo sẽ bị kết án về tội phạm
khác mặc dù không bị buộc tội về tội phạm đó” [18]. Còn BLTTHS Canada tại Điều
662 quy định: “Trong trường hợp truy tố về một tội nhưng chứng minh được một tội
khác, thì bị cáo có thể bị kết án về tội mà bị cáo đã thực hiện” [15].
Như vậy, theo pháp luật TTHS của một số nước có quy định GHXX trong việc
giải quyết VAHS đều khẳng định: Việc xét xử của Tòa án phải trên cơ sở quyết định
truy tố (bản cáo trạng) và cho phép thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa. Tòa án
có quyền xác định tội của bị cáo trên cơ sở kiểm tra, đánh giá chứng cứ vụ án tại
phiên tòa xét xử công khai, mà không phụ thuộc vào sự buộc tội trước đó của VKS
nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Qua đó có thể thấy, xu thế chung
của hầu hết các nước trên thế giới luôn đề cao, tôn trọng và bảo vệ quyền con người
nên trong TTHS của các nước khi “xử lý tội phạm và người phạm tội” theo nguyên
tắc “không làm xấu hơn tình trạng của bị can, bị cáo” và bảo đảm quyền bào chữa
của họ. Trên cơ sở đó, pháp luật TTHS của các nước cụ thể hoá bằng những quy định
cụ thể để các chủ thể THTT, tham gia tố tụng được thực hiện theo quyền và nghĩa vụ
tố tụng được quy định. Đây là luận điểm quan trọng cho NCS khi phân tích thực trạng
quy định pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm ở nước ta, đối sánh với quy định liên
quan của các nước trên thế giới làm cơ sở, tiền đề cho việc hoàn thiện pháp luật TTHS
liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
24
Qua tìm hiểu các nhóm công trình nghiên cứu, bài viết trong và ngoài nước liên
quan đến đề tài luận án, dù mang tính trực tiếp hay gián tiếp có thể kết luận như sau:
Đa phần, các tác giả thiên về việc đưa ra khái niệm, phân tích luật thực định nội dung
GHXX sơ thẩm trong TTHS. Từ đó, chỉ ra những bất cập trong thực tiễn áp dụng và
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung và quy định giới hạn
của việc XXST nói riêng với phương pháp tiếp cận định tính là chủ yếu. Đặc biệt, các
bài viết chuyên ngành đã đưa ra một số quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn - đây là những luận điểm hết sức quan trọng đối
với NCS trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhóm công trình, bài viết chưa
tiếp cận vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện, đa chiều và đặt vấn đề nghiên cứu
trong mối quan hệ tác động qua lại với các yếu tố, nội dung khác có liên quan trong
TTHS, như: chức năng buộc tội, truy tố, quyền bào chữa, CNXX, mối quan hệ với
các nguyên tắc cơ bản trong TTHS,.... để có cơ sở luận giải thuyết phục, giải quyết
thấu đáo những vấn đề được nêu ra.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án
Xuất phát từ tính chất phức tạp của nội dung GHXX sơ thẩm trong nhận thức
cả về lý luận cũng như thực tiễn (lập pháp và thi hành), nên nội dung này thu hút rất
nhiều sự quan tâm của giới khoa học pháp lý. Vì thế, NCS được tiếp cận với rất nhiều
quan điểm, ý kiến trái chiều về nội dung này, nhưng tựu trung có thể khái quát các
kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa và phát triển, cụ thể như sau:
Các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của việc quy
định GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng trong TTHS, trước hết là xuất
phát từ mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS Việt Nam (chức năng
buộc tội, chức năng gỡ tội (bào chữa) và CNXX); mối quan hệ giữa CNXX với giới
hạn xét xử cũng như các cơ sở quy định GHXX trong TTHS. Đây là cơ sở lý luận
mang tính tiền đề để NCS tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về GHXX sơ thẩm
trong TTHS và các giải pháp mang tính cơ bản về mặt lý luận nhằm bảo đảm thực
hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.
Các công trình đã nghiên cứu và phân tích khái niệm, nội dung, ý nghĩa về
“CNXX”, “xét xử sơ thẩm”, “giới hạn xét xử” trong TTHS tương đối đầy đủ. Chức
25
năng TTHS có vai trò quyết định mô hình, hình thức TTHS và xác định vị trí, quyền
hạn, chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng; xét xử sơ thẩm là hoạt động trung
tâm của quá trình giải quyết VAHS. Các công trình, bài viết khẳng định: GHXX sơ
thẩm là quy định tất yếu khách quan trong TTHS, nó hình thành, phát triển cùng với
sự hình thành và phát triển của pháp luật TTHS nói chung nhưng chưa làm rõ cơ sở
lý luận của tính tất yếu khách quan của GHXX sơ thẩm trong TTHS; nội dung GHXX
sơ thẩm là phạm vi, mức độ để Tòa án cũng như các chủ thể tố tụng khác thực hiện
đúng chức năng của mình, tránh hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, chồng chéo chức
năng trong quá trình giải quyết VAHS nhưng các công trình nghiên cứu không đề
cập, phân tích việc thay đổi quyết định truy tố có ảnh hưởng như thế nào đến nội dung
GHXX sơ thẩm. Từ kết quả nghiên cứu đó, NCS có cơ sở khái quát khái niệm, nội
dung GHXX sơ thẩm trong TTHS một cách đa chiều, có tính so sánh và đối chiếu, từ
đó xây dựng khái niệm khoa học “giới hạn xét xử sơ thẩm”, phân tích nội dung của
GHXX sơ thẩm được toàn diện hơn.
Về mặt thực tiễn, XXST VAHS là nơi thể hiện đầy đủ, công khai nhất các chức
năng tố tụng; việc nghiên cứu thực hiện các chức năng cơ bản trong TTHS, nhất là
CNXX và quy định GHXX sơ thẩm trong thực tiễn pháp luật nhằm tạo sự thống nhất
trong nhận thức, tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật TTHS có liên
quan hoạt động xét xử là yêu cầu tất yếu và thường xuyên, góp phần vào việc thực
hiện cải cách tư pháp ở nước ta. Một trong những kết quả nghiên cứu có giá trị tham
khảo đối với Luận án là đã khái quát một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật Việt
Nam về GHXX sơ thẩm trong TTHS, mặc dù chỉ trình bày nội dung luật thực định
mà chưa phân tích ưu điểm cũng như hạn chế trong nội dung quy định GHXX sơ
thẩm qua từng BLTTHS để có cách nhìn chung nhất về tư duy lập pháp của Nhà nước
ta. Tuy nhiên, với kết quả nghiên cứu đó giúp cho NCS có cơ sở để tiếp tục nghiên
cứu so sánh quy định về GHXX sơ thẩm qua từng thời điểm ban hành BLTTHS Việt
Nam cũng như những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng quy định GHXX
sơ thẩm, từ đó có thể luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
TTHS Việt Nam và bảo đảm thực hiện đúng GHXX sơ thẩm trong TTHS.
26
Về giải pháp, các công trình nghiên cứu bước đầu đã phân tích một số nguyên
nhân dẫn đến bất cập, vướng mắc áp dụng quy định GHXX sơ thẩm và đề xuất một
số giải pháp khắc phục. Các nhóm giải pháp đưa ra hướng đến hoàn thiện pháp luật
TTHS có liên quan vấn đề nghiên cứu ở góc độ lập pháp là chủ yếu. Mặt khác, các
công trình, bài viết chưa xác định và chỉ ra được nguyên nhân chính của sự vướng
mắc, bất cập trong quy định GHXX sơ thẩm để có giải pháp phù hợp.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục nghiên cứu
* Câu hỏi nghiên cứu
- Bản chất của GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng? Đặc điểm, ý
nghĩa của GHXX sơ thẩm? Cơ sở lý luận của GHXX sơ thẩm trong TTHS?
- Lập pháp nước ngoài về GHXX sơ thẩm và kinh nghiệm nào cho Việt Nam?
Lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam quy định về GHXX sơ thẩm?
- Thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm khi xét xử VAHS? Bất cập, vướng
mắc và nguyên nhân?
- Những yêu cầu nào cần đặt ra và giải pháp nào cho việc hoàn thiện, bảo đảm
thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam?
* Giả thuyết nghiên cứu
Một là, việc nhận thức bản chất nội dung của quy định GHXX sơ thẩm trong
TTHS chưa thống nhất, nên thực trạng lập pháp liên quan đến quy định này còn nhiều
vướng mắc, bất cập.
Hai là, việc nghiên cứu cơ sở lý luận về GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm
nói riêng chưa đầy đủ, toàn diện và chưa đặt chúng trong các mối quan hệ biện chứng
với các quy định khác trong TTHS Việt Nam như các nguyên tắc cơ bản của TTHS;
nội dung giới hạn XXST với phạm vi xét xử phúc thẩm,…
Ba là, việc nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp nước ngoài về GHXX sơ thẩm
chưa được quan tâm áp dụng ở Việt Nam; chưa hình thành được mô hình lý luận về
GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.
Bốn là, kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại trong thực tiễn áp dụng GHXX sơ
thẩm chưa được đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ. Đặc biệt, chưa xác định được
27
nguyên nhân chính dẫn đến vướng mắc, bất cập nên các giải pháp được đề xuất còn
mang tính lý thuyết chung chung, giá trị về mặt thực tiễn chưa cao.
* Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, NCS nhận thấy còn một
số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ như:
Thứ nhất, về mặt lý luận: Cần có sự nhìn nhận thống nhất về bản chất, nội dung
của GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam. Xác định nội dung của GHXX sơ thẩm
trong TTHS một cách thấu đáo, toàn diện hơn trong mối liên hệ với các nội dung
khác của TTHS. Không chỉ tiếp cận GHXX sơ thẩm dưới góc độ luật thực định (đơn
ngành) mà cần tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ đa ngành như triết học, xã hội
học, chính trị học, … để thấy được cơ sở cũng như căn cứ xác định GHXX sơ thẩm.
Thứ hai, về mặt lập pháp: Nghiên cứu thực trạng lập pháp TTHS Việt Nam về
quy định GHXX sơ thẩm và kinh nghiệm lập pháp nước ngoài về quy định GHXX
nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng để thống nhất nhận thức lập pháp. Từ đó, xây
dựng mô hình chung về GHXX sơ thẩm ở Việt Nam.
Thứ ba, về thực tiễn: Thực trạng áp dụng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS
Việt Nam chưa được nghiên cứu toàn diện, nhất là chưa xác định những nguyên nhân
chính yếu dẫn đến bất cập, tồn tại liên quan đến nội dung GHXX sơ thẩm trong quá
trình giải quyết VAHS cụ thể.
Thứ tư, về giải pháp: Nghiên cứu, so sánh, đánh giá thực trạng lý luận, thực
trạng quy định pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm để thấy sự khác biệt trong nhận
thức, lập pháp cũng như trong thực tiễn áp dụng. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật TTHS liên quan GHXX sơ thẩm và các giải pháp bảo đảm thực
hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội, đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
ở Việt Nam trong thời gian tới.
28
Tiểu kết Chương 1
Qua tìm hiểu, phân tích tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến
giới hạn của việc xét xử sơ thẩm và thực tiễn thực hiện quy định cho thấy các nhà
nghiên cứu luật học, giới làm thực tiễn quan tâm, bàn luận, đề cập khá nhiều ở các
khía cạnh, mức độ và quy mô khác nhau.
Ở Việt Nam, điển hình có một vài công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn
thạc sĩ về giới hạn xét xử nói chung và giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
nói riêng, trong đó đề cập quá trình hình thành và phát triển quy định về giới hạn xét
xử sơ thẩm; cơ sở hình thành, các yếu tố tác động việc thực hiện quy định giới hạn
xét xử sơ thẩm, ý nghĩa của quy định này nhưng chủ yếu là liệt kê, tiếp cận pháp luật
thực chứng, đơn chiều mà chưa phân tích toàn diện, đa chiều để làm rõ bản chất, nội
hàm, cơ sở, căn cứ hình thành giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Bên cạnh đó, một số bài báo khoa học chuyên ngành đã nêu một vài luận điểm
quan trọng, cơ bản về cơ sở lý luận của giới hạn xét xử sơ thẩm, phân tích khá sâu
pháp luật tố tụng hình sự thực định về giới hạn xét xử sơ thẩm, qua đó đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan. Ở nước ngoài, các công
trình nghiên cứu, sách báo pháp lý liên quan đến nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm
chỉ mang tính gián tiếp thông qua việc phân tích các chức năng cơ bản trong tố tụng
hình sự về chủ thể thực hiện, nội dung, phạm vi thực hiện nhiệm vụ,… Còn bộ luật
tố tụng hình sự của các nước trên thế giới, đa phần đều quy định giới hạn của việc
thực hiện buộc tội, bào chữa và xét xử; xác định phạm vi thực hiện quyền hạn của
các chủ thể tiến hành tố tụng, nhưng cũng chỉ “dừng lại” là quy định của pháp luật,
chưa thấy công trình nghiên cứu nào phân tích đầy đủ, toàn diện về nội dung này.
Với những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan
đến đề tài, thiết nghĩ việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, đa chiều về
những vấn đề còn “bỏ ngõ” được nêu ở trên là hết sức thiết thực, góp phần làm phong
phú, đa dạng về mặt lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng quy định giới hạn
xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.
29
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự
2.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm
Giới hạn xét xử là một chế định pháp lý quan trọng trong TTHS Việt Nam và là
vấn đề phức tạp về lý luận và thực tiễn. Quy định GHXX xuất hiện đầu tiên trong
“Đề án về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự” của TANDTC được xây dựng năm
1964, sau đó được hướng dẫn trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 và Thông
tư liên tịch số 01/TANDTC-VKSNDTC ngày 08/12/1988. Vấn đề “giới hạn của việc
xét xử” chính thức được “pháp điển hóa” tại Điều 170 BLTTHS Việt Nam năm 1988.
Sau đó, quy định này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 196 BLTTHS năm 2003 và Điều
298 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) nhằm đáp ứng nhu cầu thực
tiễn về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong
các văn bản pháp luật TTHS đều không đưa ra khái niệm “giới hạn xét xử” và “giới
hạn xét xử sơ thẩm” (ngay cả khi BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi quy định về giới
hạn của việc xét xử cấp sơ thẩm) mà chỉ thể hiện nội dung phạm vi, nhiệm vụ, thủ
tục mà VKS và Tòa án phải thực hiện ở giai đoạn XXST.
Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa “Giới hạn là phạm vi, mức độ nhất định
không thể hoặc không được phép vượt qua”, còn “Thẩm quyền là một danh từ chỉ tư
cách được Nhà nước trao cho thực hiện, tiến hành hay quyết định (một việc)” [141].
Qua định nghĩa cho thấy, xét về ngôn từ, nội dung “giới hạn xét xử” không thể đồng
nghĩa với “thẩm quyền xét xử”. Nếu xét ở góc độ pháp lý thì thẩm quyền xét xử của
Tòa án chính là quyền hạn của Tòa án được xem xét giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật. Còn giới hạn xét xử là phạm vi, mức độ quyền hạn của Tòa án được
phép xem xét, phán quyết trong quá trình giải quyết VAHS. Trong khi đó, từ điển
Luật học định nghĩa giới hạn của xét xử như sau: “Giới hạn của xét xử hình sự là
phạm vi Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét và giải quyết về vụ án” [21]. Như vậy, khi
30
đề cập nội dung giới hạn của xét xử hình sự, từ điển Luật học chỉ cho rằng chủ thể
xem xét và giải quyết VAHS trong phạm vi cho phép là Tòa án cấp sơ thẩm. Theo
NCS định nghĩa như vậy là chưa đầy đủ, bởi lẽ xét xử là hoạt động không chỉ được
thực hiện bởi Tòa án cấp sơ thẩm, mà còn được thực hiện bởi Tòa án cấp phúc thẩm
(nguyên tắc hai cấp xét xử). Trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm, cũng
phải tuân thủ một giới hạn, phạm vi nhất định theo quy định - đó là phạm vi xét xử
phúc thẩm. Ngoài ra, khái niệm từ điển nêu cũng chưa thể hiện được nội dung cụ thể
của GHXX như: phạm vi Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét và giải quyết là gì (đối
tượng)? xác định trên cơ sở và mức độ nào?....
Về vấn đề GHXX sơ thẩm, các nhà nghiên cứu luật học cũng có nhiều ý kiến
trái chiều. Theo TS. Nguyễn Văn Hiện:“Giới hạn xét xử cũng chính là thẩm quyền
xét xử mà thẩm quyền xét xử thì không chỉ bao hàm trong một điều luật” [46, tr.1-
tr.5]. Ở đây, tác giả đã đồng nhất “giới hạn xét xử” là “thẩm quyền xét xử”. Trong
khi đó, TS. Nguyễn Văn Huyên lại cho rằng: “Thẩm quyền xét xử là quyền xét xử đối
với từng vụ án cụ thể, trong một phạm vi (giới hạn) do pháp luật quy định, là quyền
ra các quyết định khi xét xử vụ án.... Ở mỗi thủ tục xét xử khác nhau, phạm vi, mức
độ quyền hạn của Tòa án cũng khác nhau và được gọi là phạm vi xét xử và giới hạn
xét xử.... Giới hạn xét xử dùng đề hạn chế Tòa án cấp sơ thẩm chỉ được xét xử trong
nội dung bản cáo trạng do VKS truy tố” [63]. NCS đồng tình với quan điểm này ở
nội dung “thẩm quyền” không đồng nghĩa với “giới hạn”.
TS. Đặng Quang Phương thì khẳng định:“Giới hạn xét xử là sự thể hiện nội
dung của nguyên tắc độc lập xét xử” [97, tr.43]. Quan điểm này đề cập khái niệm
GHXX chưa được xây dựng dựa trên các dấu hiệu đặc trưng như chủ thể, quyền hạn,
nội dung, đối tượng,… Mặt khác, GHXX sơ thẩm là một trong những nội dung thể
hiện mối quan hệ chế ước giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS,
mặc dù có liên quan đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án nhưng nội dung và ý
nghĩa của chúng không giống nhau. GHXX có ý nghĩa trong việc cụ thể hóa mối quan
hệ chế ước giữa VKS và Tòa án; định ra phạm vi thực hiện quyền hạn của Tòa án khi
tiến hành XXST VAHS để tránh lạm quyền, bảo đảm hoạt động tố tụng thực hiện
đúng đắn, khách quan, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Nguyên
31
tắc độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định nhằm bảo đảm cho việc xét xử của HĐXX
được khách quan, công bằng; bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào cũng không được
quyền cản trở, can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy, nguyên tắc độc lập
xét xử chỉ là một trong những cơ sở để quy định GHXX chứ không phải là nội dung
của GHXX.
Theo PGS.TS. Phạm Hồng Hải thì: “Giới hạn xét xử là Tòa án chỉ xét xử về
hình sự đối với những bị cáo và những hành vi đã bị Viện kiểm sát truy tố mà Tòa án
đã có quyết định đưa ra xét xử”. Còn “Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể
hiểu là phạm vi những người, những hành vi mà Hội đồng xét xử sơ thẩm được xét
xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn mà ngược lại nó được hạn chế bởi
những người, những hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa
vụ án ra xét xử” [40]. Quan điểm này cho rằng: GHXX thực chất là mối quan hệ
TTHS giữa VKS và Tòa án ở giai đoạn từ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc
thẩm, tái thẩm. Mối quan hệ này xuất hiện từ khi VKS gửi cáo trạng và hồ sơ vụ án
sang Tòa án và được thể hiện thông qua KSV được Viện trưởng VKS ủy quyền nghiên
cứu hồ sơ vụ án, làm cáo trạng và giữ quyền công tố trước tòa cùng với Thẩm phán
được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ tọa phiên tòa nếu vụ án
được đưa ra xét xử [40].
Quan điểm trên được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ giữa VKS và Tòa án
trong các giai đoạn xét xử mà pháp luật TTHS quy định. NCS nhận thấy đây là quan
niệm có những yếu tố hợp lý nhất định. Bởi lẽ, khái niệm GHXX, GHXX sơ thẩm
được nêu chứa đựng đầy đủ các yếu tố cơ bản của một khái niệm, đó là chủ thể, khách
thể và nội dung cơ bản thuộc về bản chất của vấn đề. Ở đây, chủ thể thực hiện được
xác định là Tòa án có thẩm quyền xét xử; khách thể chính là hành vi và chủ thể của
hành vi phạm tội xâm hại đến những khách thể được Luật hình sự bảo vệ và bị truy
tố, đưa ra xét xử; nội dung cơ bản thuộc về bản chất của giới hạn chính là phạm vi,
mức độ quyền hạn mà Tòa án được phép thực hiện khi tiến hành xét xử. Tuy nhiên,
quan điểm này vẫn chưa thực sự đầy đủ, bởi lẽ GHXX được quy định không chỉ dựa
trên cơ sở mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong việc thực hiện các chức năng buộc
tội và CNXX, mà còn phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm thực hiện quyền bào
32
chữa của bên bị buộc tội, tức là bảo đảm chức năng bào chữa trong TTHS được thực
hiện. Có như vậy, mới bảo đảm mối quan hệ hài hòa giữa các chức năng cơ bản trong
TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Cùng với quan điểm này, TS Nguyễn Mai Bộ
cũng cho rằng: “Giới hạn của việc xét xử là phạm vi những bị cáo và những hành vi
của bị cáo mà Tòa án được xét xử theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát”, tuy
nhiên, tác giả không đề cập đến mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong các giai đoạn
xét xử mà chủ yếu phân tích nội dung của GHXX trên cơ sở nội dung luật định [8].
Trong khi đó, TS Hoàng Anh Tuyên cho rằng: “Giới hạn xét xử là phạm vi, mức độ
nhất định mà Tòa án không thể hoặc không được vượt qua.”. Quan điểm này tương
đồng với định nghĩa “giới hạn” trong từ điển tiếng Việt, tuy nhiên bên cạnh đó, tác
giả đề cập đến mục đích của việc quy định GHXX trong TTHS, đó là “nhằm bảo
đảm tính xác định và định hướng cho hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố
tụng, tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là xác định giới hạn cho Tòa án
trong việc thực hiện quyền hạn; bảo đảm cho bị cáo và người bào chữa chủ động
chuẩn bị chứng cứ, bào chữa, tranh tụng tại phiên tòa; thể hiện quan hệ chế ước của
Viện kiểm sát đối với Tòa án.” [147]. Qua đó, có thể thấy mặc dù nội dung GHXX
chưa thể hiện cụ thể phạm vi, mức độ giới hạn của Tòa án trong việc thực hiện chức
năng của mình và mối liên hệ giữa phạm vi giới hạn đó với quyết định truy tố của
VKS, nhưng khi đề cập mục đích của quy định GHXX trong TTHS thì tác giả lại thể
hiện phạm vi thực hiện hoạt động xét xử của Tòa án với phạm vi nội dung truy tố của
VKS thông qua mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội - gỡ
tội (bào chữa) và xét xử.
Theo PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc thì: “Giới hạn xét xử hiểu một cách đơn giản
nhất là sự hạn chế do luật định về phạm vi hoạt động xét xử của Tòa án”. Tòa án chỉ
thực hiện xét xử khi có quyết định truy tố của VKS. Nội dung truy tố của VKS là đối
tượng xét xử của Tòa án bao gồm: bị cáo (hoặc nhiều bị cáo); hành vi của bị cáo với
những tình tiết cụ thể và đánh giá pháp lý (tội danh) kèm theo. Trong quá trình xét
xử hoàn toàn có khả năng xuất hiện sự đánh giá khác nhau về các nội dung này giữa
Tòa án - đại diện cho CNXX và VKS - đại diện cho chức năng buộc tội. Xung đột
này tất yếu ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo (đại diện cho chức năng bào
33
chữa) [95]. NCS đồng tình với quan điểm này, GHXX thực chất là sự giới hạn của
luật đối với quyền xét xử của Tòa án đối với VAHS và đó cũng chính là phạm vi,
“ranh giới” để Tòa án luôn là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bản chất của GHXX
sơ thẩm là sự thể hiện mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS tại phiên
toà sơ thẩm: buộc tội - bào chữa - xét xử.
Về xét xử sơ thẩm, qua nghiên cứu các quan điểm khác nhau thì NCS đồng ý
với quan điểm của TS Nguyễn Mai Bộ khi cho rằng “XXST VAHS là việc Tòa án lần
đầu bằng một HĐXX căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của KSV, bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác quyết định một người bị truy tố về một
tội phạm cụ thể có phạm tội hay không; nếu có, thì phạm tội gì, theo điểm, khoản,
điều nào của BLHS và quyết định việc áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp đối với
người bị kết án và giải quyết những vấn đề khác của vụ án”. XXST VAHS có thể
được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, XXST VAHS là quá trình nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử
và xét xử tại phiên tòa VAHS đối với bị cáo bị VKS truy tố và Tòa án đã ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử về một tội cụ thể được quy định trong BLHS. Theo nghĩa
này, thì nhiệm vụ của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa không chỉ là
nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ để tiến hành sơ bộ việc định tội danh, dự kiến
hình phạt có thể áp dụng đối với bị can bị truy tố mà còn phải giải quyết các vấn đề
như: thẩm quyền xét xử vụ án (vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án mình hay
không, nếu không thuộc thẩm quyền thì phải chuyển vụ án cho VKS đã truy tố để
chuyển đến VKS có thẩm quyền truy tố); quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn; nếu có đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử thì phải tiến hành các công
việc chuẩn bị cho việc mở phiên tòa và tổ chức phiên tòa xét xử vụ án; nếu không đủ
căn cứ đưa vụ án ra xét xử và xét thấy có căn cứ thì quyết định trả hồ sơ cho VKS để
điều tra bổ sung; nếu có căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định
định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Theo nghĩa hẹp, XXST VAHS là phiên tòa sơ
thẩm xét xử VAHS đối với bị cáo bị truy tố về một tội phạm cụ thể. Theo nghĩa này,
thì HĐXX tiến hành: Thẩm tra các chứng cứ, tài liệu bằng cách xét hỏi, tổ chức việc
34
xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa; Nghị án để đánh giá chứng cứ, tài liệu đã được thẩm
tra, ý kiến tranh luận của KSV, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác
để quyết định người bị truy tố có phạm tội hay không; nếu có, thì phạm tội gì, theo điểm,
khoản, điều nào của BLHS, quyết định việc áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp đối
với người bị kết án, giải quyết những vấn đề khác của vụ án và tuyên án [8].
Như vậy, dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thì một trong những nhiệm vụ
cơ bản quan trọng nhất của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, HĐXX sơ
thẩm VAHS là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nghĩa là, phải xét xử (phán
xét và quyết định) chính xác người bị truy tố có phạm tội hay không; nếu có, thì phạm
tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của BLHS và quyết định việc áp dụng hình phạt, biện
pháp tư pháp đối với người đó Quan điểm trên đã thể hiện rõ về bản chất của xét xử sơ
thẩm VAHS cũng như GHXX và thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm VAHS.
Về CNXX trong TTHS cũng có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng NCS thống
nhất với quan điểm của TS Lê Tiến Châu khi cho rằng: “CNXX là hoạt động tố tụng
của Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định một người bị buộc tội có tội hay không
và xác định trách hiệm hình sự đối với người có tội” [22]. Vì thế, bản chất của CNXX
là hoạt động có tính quyền lực nhà nước áp dụng pháp luật vào trong trường hợp cụ
thể. Còn nội dung của CNXX là hoạt động tố tụng của Tòa án trải qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: xác định có hay không có, tồn tại hay không tồn tại các sự kiện
của vụ án theo như cáo trạng nêu ra (Questions of facts).
- Giai đoạn 2: đánh giá pháp lý về các sự kiện đó của vụ án (Questions of law).
Giải quyết nội dung ở giai đoạn thứ nhất, Tòa án dựa vào tất cả chứng cứ (buộc
tội và gỡ tội) mà các bên tham gia tố tụng đưa ra để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ
án, đánh giá toàn diện các chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án: có hay
không có sự kiện phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ của người phạm tội là gì,v.v…Trên cơ sở đó, Tòa án (HĐXX) áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS để phán xét hành vi đó:
tuyên bố bị cáo có tội hay không? Nếu có là phạm tội gì trong BLHS, Tòa án sẽ lựa
chọn áp dụng điều khoản, tội danh tương xứng với mức độ và tính chất nguy hiểm
của hành vi phạm tội đó. Nếu không xác định được sự kiện phạm tội và người phạm
35
tội thì HĐXX tại phiên tòa sẽ tuyên bố bị cáo không phạm tội như cáo buộc của bên
buộc tội đã nêu. Tất cả các hoạt động đó của Tòa án đều xuất phát từ nội dung CNXX.
Với chức năng của mình, Tòa án cũng có trách nhiệm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ
án nhưng không phải để “buộc hay gỡ tội” mà nhằm xác định sự thật khách quan của
vụ án, tức là Tòa án thực hiện CNXX - chức năng hiến định mà Nhà nước giao cho. Vì
thế, CNXX là hoạt động của Tòa án áp dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể nhưng sự
áp dụng pháp luật này mang tính đặc thù là nhân danh Nhà nước. Cho nên, có thể khẳng
định rằng: hoạt động xét xử là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước do
Tòa án nhân danh Nhà nước thực hiện theo trình tự tố tụng do luật điều chỉnh.
Buộc tội và truy tố trong TTHS cũng được nhà khoa học pháp lý nghiên cứu với
nhiều quan điểm khác nhau, NCS đồng tình với quan điểm của PGS.TS Nguyễn Thái
Phúc khi cho rằng: Truy tố là hoạt động buộc tội ở giai đoạn XXST, là sự khẳng định
của VKS dựa trên kết quả điều tra về việc bị can là người đã thực hiện hành vi có dấu
hiệu tội phạm với yêu cầu Tòa án xác định TNHS của bị can thông qua xét xử tại
phiên tòa. Truy tố của VKS là buộc tội nhà nước vì được thực hiện nhân danh nhà
nước ở trước Tòa án. Truy tố là hoạt động buộc tội do VKS là chủ thể duy nhất thực
hiện trước Tòa án, được tiến hành bắt đầu khi có quyết định truy tố bị can ra trước
Tòa án và hướng đến xét xử, tuyên bản án kết tội đối với bị can và kết thúc khi bản
án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật [96]. Qua đó, có thể thấy hoạt động xét xử của Tòa
án liên quan chặt chẽ với nội dung truy tố của VKS. Vì thế, việc thay đổi nội dung
truy tố sẽ làm thay đổi nội dung GHXX sơ thẩm của Tòa án.
Từ những nội dung phân tích nêu trên, có thể thấy rằng: mỗi quan điểm có những
cơ sở, lập luận khác nhau về nội dung liên quan đến “giới hạn xét xử”, “xét xử sơ
thẩm”, “chức năng xét xử”,… nhưng đều có điểm chung cho rằng giới hạn xét xử đó
chính là phạm vi, sự hạn chế do luật định về hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án chỉ
có quyền xét xử những hành vi, những người bị VKS truy tố bằng bản cáo trạng. Qua
đó, NCS cho rằng: Giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự là sự hạn chế do luật
định về phạm vi hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm trên cơ sở nội dung truy tố
của Viện kiểm sát để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
36
2.1.2. Nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm
2.1.2.1. Phạm vi truy tố của Viện kiểm sát là phạm vi giới hạn xét xử của Tòa
án sơ thẩm
Chủ thể mà Tòa án đưa ra xét xử sơ thẩm VAHS phải là bị cáo bị Tòa án cấp sơ
thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở quyết định truy tố của VKS. Vì thế,
Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo về những hành vi phạm tội của họ theo tội danh
mà VKS đã truy tố bằng bản cáo trạng, điều đó có nghĩa là Tòa án không được xét
xử thêm bị cáo và hành vi phạm tội mới khi chưa được VKS truy tố. Sự kiện pháp lý
làm phát sinh việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là quyết định
truy tố của VKS bằng bản cáo trạng.
Truy tố của VKS vừa là căn cứ để Tòa án đưa vụ án ra xét xử, vừa là cơ sở để
khống chế GHXX của Tòa án. Theo đó, VKS truy tố người nào, về tội gì thì Tòa án
xét xử chủ thể và tội danh đó; truy tố phải có nội dung cụ thể để ràng buộc giới hạn
xét xử, tránh tình trạng Tòa án lạm dụng quyền xét xử. Sau khi hồ sơ VAHS được
chuyển sang Tòa án cùng với bản cáo trạng của VKS, lúc này bắt đầu xuất hiện mối
quan hệ TTHS giữa hai cơ quan này. Không thể nói từ thời điểm hồ sơ chuyển sang
Tòa án, Tòa án có toàn quyền giải quyết mọi vấn đề của vụ án. Trong thực tế, quan
hệ giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn này trở đi là quan hệ phối hợp và quan hệ chế
ước lẫn nhau. Tính phối hợp giữa VKS và Tòa án thể hiện ở chỗ: cả hai cơ quan này
cùng phải xem xét lại tính căn cứ, tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện trong hồ sơ
vụ án. Trong trường hợp cần thiết và những trường hợp mà VKS và Tòa án còn có
những quan điểm bất đồng về vụ án thì Tòa án chủ trì triệu tập cuộc họp có đại diện
VKS tham gia để trao đổi, thống nhất,... Quan hệ phối hợp thể hiện trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa không có mối quan hệ này vì Tòa án lúc này là người
đứng giữa hai bên, một bên buộc tội (VKS, bị hại,....) và một bên bào chữa (bị cáo,
người bào chữa,...). Còn quan hệ chế ước lẫn nhau giữa VKS và Tòa án thể hiện ở
chỗ: Tòa án có thể yêu cầu VKS tiến hành điều tra bổ sung, cung cấp thêm những tài
liệu và chứng cứ cần thiết khác phục vụ cho khâu xét xử tại phiên tòa. Nếu có những
căn cứ xác định bị cáo phạm tội hoặc không phạm tội, Tòa án có quyền yêu cầu VKS
bổ sung cáo trạng trước hoặc sau ngay trong phiên tòa, nếu điều đó không làm xấu đi
37
tình trạng của bị cáo hoặc khó khăn cho việc bào chữa của bị cáo. Vì thế, về mặt lý
luận và thực tiễn, việc xem xét quy định cho Tòa án xét xử khác tội danh mà VKS đã
truy tố phải cân nhắc trên hai khía cạnh sau: Thứ nhất, có vượt ra khỏi phạm vi truy
tố hay không và có ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo hay không. Trong quá
trình xét xử, việc xác định sự thật của vụ án có sự thay đổi lớn, đã vượt ra khỏi phạm
vi truy tố thì Tòa án không được trực tiếp thay đổi tội danh, xét xử theo tội danh mới
nếu tội danh đó nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, mà phải yêu cầu VKS thay đổi
tội danh khác nặng hơn thì mới đưa ra xét xử. Nếu trong phạm vi truy tố mà thấy có
thể xét xử theo tội danh nhẹ hơn tội danh mà VKS đã truy tố, không ảnh hưởng đến
quyền bào chữa của bị cáo thì Tòa án có thể xét xử theo tội danh nhẹ hơn đó để nâng
cao hiệu quả tố tụng; trường hợp có thể ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo thì
chỉ khi có ý kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa, Tòa án mới được xét xử theo tội
danh nhẹ hơn đó; thứ hai, trong phạm vi sự thật khách quan của vụ án, nếu cần xét
xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố thì Tòa án yêu cầu VKS
truy tố về tội danh nặng hơn đó, nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo;
trong trường hợp VKS không truy tố về tội danh nặng hơn thì Tòa án không thể xét
xử bị cáo về tội danh nặng hơn để bảo đảm GHXX, quyền bào chữa và nguyên tắc có
lợi cho bị cáo.
2.1.2.2. Thay đổi nội dung truy tố tại phiên toà và giới hạn xét xử sơ thẩm
Thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa là phần quan trọng của nội dung GHXX
sơ thẩm, đồng thời cũng là một trong những tiêu chí để phân loại mô hình tố tụng
trong lịch sử phát triển TTHS thế giới hay ở mỗi quốc gia. Lịch sử phát triển TTHS
trên thế giới đã biết đến các mô hình quy định GHXX sơ thẩm cũng như cách thức
giải quyết vấn đề thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa. Nội dung này được trình bày
chi tiết tại mục 2.4. Kinh nghiệm lập pháp về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hình sự của một số nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) kế thừa các
BLTTHS trước đó tiếp tục ghi nhận truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử là quyền
riêng có chỉ thuộc về chủ thể duy nhất là VKS và quyền này là nội dung của khái
niệm thực hành quyền công tố (Điều 20, Điều 236). BLTTHS hiện hành cũng kế thừa
38
quy định về thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa sơ thẩm như là một phần quan
trọng của quy định GHXX sơ thẩm. Trước khi mở phiên tòa, VKS có thể thay đổi nội
dung truy tố ban đầu trong các trường hợp:
- Tòa án thụ lý vụ án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung và kết quả điều tra bổ
sung làm thay đổi cơ bản nội dung cáo trạng trước đó, VKS phải ra bản cáo trạng mới
thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án (Điều 246). Cáo trạng mới có thể theo hai hướng:
làm xấu tình trạng bị can hoặc có lợi cho tình trạng bị can.
- Tòa án thụ lý vụ án trả hồ sơ cho VKS để truy tố lại theo khoản 3 Điều 298
BLTTHS. VKS nếu chấp nhận sẽ truy tố bị cáo lại bằng bản cáo trạng mới với tội
danh nặng hơn.
- VKS rút quyết định truy tố khi có căn cứ luật định và đề nghị Tòa án đình chỉ
vụ án. Tòa án phải ra quyết định đình chỉ vụ án ( Điều 282; Điều 285)
BLTTHS năm 2015 không ghi nhận trình tự, thủ tục VKS rút một phần nội dung
truy tố và rút toàn bộ nội dung truy tố theo Điều 285 (trước khi mở phiên tòa) như
thế nào? Luật đã cho các bên tranh tụng cơ hội đưa ra các yêu cầu, đề nghị trước khi
mở phiên tòa và thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nghĩa vụ phải giải quyết, tuy nhiên
luật không đề cập đến đề nghị thay đổi nội dung truy tố ban đầu của VKS (Điều 279).
Sau khi phiên tòa sơ thẩm đã được khai mạc, KSV và Tòa án đều có thể thay
đổi nội dung truy tố ban đầu với các hình thức khác nhau và hệ quả pháp lý khác nhau
(theo các Điều 266, 298, 306, 319, 320, 325 và 326). Luật không cho phép KSV thay
đổi nội dung truy tố ban đầu theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo. Thời điểm KSV
thực hiện quyền rút toàn bộ nội dung truy tố, rút một phần hoặc kết luận về tội bằng
hoặc nhẹ hơn là khi kết thúc việc xét hỏi. Trường hợp KSV rút toàn bộ nội dung truy
tố thì trước khi nghị án HĐXX yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý
kiến về quyết định này của KSV. Khi nghị án, nếu có căn cứ xác định bị cáo không
có tội thì HĐXX tuyên bị cáo không có tội. Nếu thấy việc rút quyết định truy tố không
có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng VKS cùng cấp
hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp.
Tòa án có thể xét xử bị cáo theo hướng có lợi cho bị cáo khi tuyên bị cáo về một
tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS truy tố. Tòa án cũng có thể xét xử bị cáo theo
39
khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật (thí dụ như khoản
về tình tiết định khung hình phạt) làm xấu tình trạng bị cáo. Tòa án cũng có quyền
xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn so với tội danh VKS truy tố với điều kiện trước
đó Tòa án phải trả hồ sơ cho VKS để truy tố lại và trong Quyết định đưa vụ án ra xét
xử ngoài việc thông báo cho bên bào chữa biết về tội danh, khoản của BLHS mà VKS
truy tố Tòa án có nghĩa vụ thông báo về tội danh, khoản của BLHS mà Tòa án sẽ xét
xử. Không tuân thủ thủ tục luật định này, HĐXX không có quyền tuyên bị cáo theo
tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố và không thể trả hồ sơ cho VKS
để truy tố lại vì Điều 326 chỉ ghi nhận quyền của HĐXX trả hồ sơ cho VKS để điều
tra bổ sung - đây là hai trường hợp khác nhau.
Trên cơ sở phân tích quy định của BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2021) về thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa sơ thẩm, NCS có nhận xét như sau:
- Về thẩm quyền của KSV rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố.
BLTTHS hiện hành kế thừa xu hướng nhân văn trong các BLTTHS trước đó không
cho phép KSV tại phiên tòa thay đổi nội dung buộc tội theo hướng làm xấu tình trạng
bị cáo là hoàn toàn đúng đắn, nhất là khi tranh tụng đã được thừa nhận là nguyên tắc
cơ bản của TTHS nước ta. Quy định về quyền (đồng thời là nghĩa vụ) của KSV tại
phiên tòa được tự quyết định rút một phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố và chịu trách
nhiệm về quyết định của mình phù hợp với xu thế tăng cường tính chủ động, độc lập
cho các chủ thể là người THTT và phù hợp với thực tiễn xét xử.
- Về hậu quả pháp lý, khi KSV rút một phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố hiện
cũng có những vấn đề tranh luận đặt ra như: Thứ nhất, khi KSV rút một phần nội
dung truy tố thì GHXX sơ thẩm mới này có ràng buộc Tòa án hay không? Thí dụ bị
cáo bị truy tố hai tội Lừa đảo và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tại phiên
tòa KSV rút tội Lừa đảo ra khỏi nội dung truy tố. Tòa án có thể vẫn tuyên bị cáo theo
hai tội truy tố ban đầu (làm xấu tình trạng bị cáo) hay bị chi phối theo GHXX sơ thẩm
mới là chỉ xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản? Thứ hai, trường hợp
KSV rút toàn bộ quyết định truy tố, Tòa án có thể tuyên bị cáo vô tội khi thấy quyết
định rút có căn cứ nhưng lại tạm đình chỉ và kiến nghị với Viện trưởng VKS cùng
cấp hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp, nếu thấy quyết định rút không có căn
40
cứ. Trong cùng một tình huống nhưng độc lập xét xử của Tòa án lại thể hiện khác
nhau, không nhất quán: lúc thì ra phán quyết lúc lại không được phán quyết. Thứ ba,
quy định Tòa án phải kiến nghị Viện trưởng VKS xem xét tính có căn cứ quyết định
của KSV rút quyết định truy tố tại phiên tòa là không phù hợp với vai trò, nhiệm vụ
của Tòa án. Nhiệm vụ chính của Tòa án là xem xét tính có căn cứ và tính hợp pháp
nội dung truy tố của VKS- đối tượng xét xử của Tòa án - chứ không phải là quyết
định rút quyết định truy tố của KSV có căn cứ hay không. Thứ tư, quan hệ phát sinh
trên cơ sở kiến nghị của HĐXX với Viện trưởng VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp
là quan hệ pháp luật gì? Viện trưởng VKS có nghĩa vụ xem xét kiến nghị và trả lời
Tòa án hay không? Luật không đề cập đến trường hợp Viện trưởng VKS không đồng
ý với kiến nghị của HĐXX thì hoạt động xét xử vụ án tiếp theo sẽ diễn ra như thế
nào? Hoặc là vụ án sẽ bị “tạm đình chỉ” vô thời hạn hoặc Tòa án sẽ hủy bỏ quyết
định tạm đình chỉ để tiếp tục xét xử nhưng theo căn cứ nào? Và hướng xét xử tiếp
theo sẽ như thế nào? Tòa có tuyên bản án kết tội bị cáo khi KSV đã rút lại toàn bộ
cáo buộc của VKS về trách nhiệm hình sự của bị cáo hay không?
NCS đồng ý với quan điểm cho rằng CNXX của Tòa án chỉ có mục đích là nhân
danh công lý và Nhà nước kết luận một người có hay không phạm tội. Tuyên bố một
người phạm tội nào đó phải dựa trên sự buộc tội và xét xử. Ngược lại, không có sự
buộc tội thì tuyên bố của Tòa án sẽ không có ý nghĩa, bởi không ai buộc tội bị cáo thì
đương nhiên họ không có tội và không cần xét xử. Đối với trường hợp sau khi xét
hỏi, VKS rút toàn bộ truy tố thì đương nhiên phiên tòa không có luận tội và hệ quả là
sẽ không có tranh luận giữa VKS và bị cáo, người bào chữa, người bị hại. Do đó,
trong trường hợp này, Tòa án vẫn ra bản án là chưa phù hợp. Mặt khác, nếu VKS rút
truy tố mà Tòa án vẫn xét xử và kết tội thì Tòa án đã làm thay chức năng buộc tội của
VKS, ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập xét xử của Tòa án, xâm phạm đến
quyền lợi của người bị buộc tội [147].
Từ nội dung của GHXX sơ thẩm, có thể rút ra một số đặc điểm của GHXX sơ
thẩm như sau:
Thứ nhất, cơ sở phát sinh hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là quyết định
truy tố (bản cáo trạng) của VKS, nghĩa là “có truy tố thì mới có xét xử”. phạm vi Tòa
41
án được xét xử không phải là vô hạn, bởi nó bị hạn chế về những người và những
hành vi mà VKS truy tố trong bản cáo trạng và Thẩm phán được phân công làm chủ
tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bản chất của xét xử là việc Tòa án
như “một trọng tài” đứng ra phân xử và phán quyết khi tồn tại sự cáo buộc của bên
này đối với bên kia.
Thứ hai, việc VKS thay đổi nội dung truy tố (rút một phần hoặc toàn bộ quyết
định truy tố) tại phiên toà làm thay đổi GHXX sơ thẩm đối với VAHS cụ thể và hậu
quả pháp lý khác nhau.
Thứ ba, GHXX sơ thẩm là quy định thể hiện hài hoà mối quan hệ giữa ba chức
năng cơ bản trong TTHS tại phiên toà sơ thẩm khi giải quyết VAHS, đó là: buộc tội,
bào chữa và xét xử, vì thế luôn phải gắn liền với hoạt động tranh tụng của các chủ thể
liên quan để thực hiện các chức năng cơ bản đó.
42
2.1.3. Ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm
2.1.3.1. Về mặt chính trị - xã hội
Các Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta qua
từng giai đoạn, đã xác định: "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn
vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng bảo đảm công khai, dân chủ, văn minh, nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [11]. Gần đây,
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khoá XIII đã tiếp tục xác định:“Hoàn thành cơ bản việc xây
dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,…”. Theo đó, cần phải cải cách căn bản,
toàn diện hệ thống Tòa án, hệ thống các cơ quan điều tra, VKS và các cơ quan bổ
trợ tư pháp khác cũng như hoạt động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của ba hệ thống
các cơ quan này, đồng thời hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, góp
phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và bảo đảm
pháp chế trong hoạt động xét xử; “xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng,
nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả
thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo
gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực,
tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước”[5].
Qua từng giai đoạn lịch sử gắn liền với công cuộc xây dựng đất nước, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp dân chủ,
hiện đại, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho
công dân thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của mình, góp phần xây dựng chế độ
XHCN Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như Nghị
quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48- NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị, Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương là những cơ sở
43
để hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan THTT và là cơ sở hoàn thiện
hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật TTHS nói riêng, trong đó có quy định giới
hạn của xét xử sơ thẩm VAHS. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện quy định về
giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS là điều rất cần thiết, có ý nghĩa quan
trọng trong việc triển khai đường lối, chủ trương của Đảng trong lĩnh vực tư pháp.
Bởi lẽ, qui định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS thể hiện rõ sự phân định
nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước đối với VKS và Tòa án đã được ghi nhận trong
Hiến pháp, đồng thời nó cũng thể hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau
giữa hai cơ quan này. VKS và Tòa án nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
thực hiện quyền lực nhà nước một cách khách quan, công minh vì lợi ích của Nhà
nước, của xã hội cũng như lợi ích hợp pháp của công dân.
Quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS bảo đảm cho bị cáo thực
hiện được những quyền công dân của mình, cụ thể là bảo đảm cho bị cáo có điều
kiện để có thể thực hiện quyền bào chữa; được thực hiện tranh tụng bình đẳng giữa
bị cáo, người bào chữa của bị cáo với người thực hành quyền công tố tại phiên
tòa,…. Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa với vai trò là người điều khiển phiên tòa, “làm
trọng tài” ở giữa, lắng nghe ý kiến tranh luận của đại diện VKS và những người
tham gia tố tụng. Trên cơ sở đó, chủ tọa mới có thể “bình tâm” nhận định khách
quan, xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, để ra quyết định
hoặc bản án kết luận “số phận pháp lý” của người phạm tội. Thực hiện tố tụng theo
cách thức này mới có thể “ngăn chặn được” hiện tượng “lấn sân”, chồng chéo chức
năng, tránh tình trạng xét xử bị cáo về những hành vi và tội danh không bị truy tố,
hoặc truy tố không đúng theo trình tự, thủ tục mà pháp luật TTHS quy định. Nội
dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS được quy định một cách đúng
đắn, có cơ sở là căn cứ bảo đảm cho Tòa án luôn là cơ quan thực hành quyền tư
pháp, xét xử “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”; góp phần bảo đảm pháp chế
XHCN, củng cố trật tự an ninh xã hội, tạo môi trường sống an toàn, bảo đảm công
bằng xã hội, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với các cơ quan tư pháp nói riêng,
với Đảng và Nhà nước nói chung.
44
2.1.3.2. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Vấn đề quyền con người là một trong những vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên
quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống chính trị - xã hội. Những giá trị cốt
lõi của chúng được cả thế giới thừa nhận, tôn trọng và được bảo đảm bằng nhiều cơ
chế khác nhau để các quyền con người đó được thực hiện trên thực tế, đặc biệt là cơ
chế về pháp luật. Các Mác đã khẳng định: Con người là sự tổng hòa các quan hệ xã
hội, do vậy quyền con người thể hiện sâu sắc các giá trị của quan hệ xã hội. Còn
quyền có thể được hiểu là khả năng xử sự mà pháp luật cho phép để chủ thể pháp luật
thực hiện, không ai được ngăn cản, hạn chế.
Quyền con người trong TTHS có thể hiểu là tổng hợp các nhóm quyền dân sự,
chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh
dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử
công bằng bởi một Tòa án độc lập khách quan đối với những người yếu thế (người bị
cáo buộc phạm tội, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người chấp hành án và những
người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiện lạm quyền của các cơ quan và công
chức nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động TTHS [24, tr.122]. Việc bảo đảm
quyền con người trong TTHS là tạo những tiền đề pháp luật ghi nhận, luật hóa các
quyền con người, nghĩa vụ trong TTHS mà những chủ thể khác phải tuân thủ, tôn
trọng quyền con người của các chủ thể khác; tạo ra cách thức hoạt động của quá trình
chứng minh, quá trình giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, bảo đảm cho người
tham gia tố tụng được tôn trọng, bình đẳng trước Tòa án, trước pháp luật. Đây là yếu
tố đóng vai trò then chốt, có tính chất quyết định, nhằm thể chế hóa chủ trương, chính
sách của Nhà nước thành các chuẩn mực có tính bắt buộc chung mà Nhà nước, cơ
quan có thẩm quyền và xã hội phải thực hiện để bảo đảm quyền con người trong
TTHS. Một xã hội thực sự dân chủ và pháp quyền thì ở đó quyền con người được tôn
trọng, bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp,
pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, BLTTHS là cơ sở pháp lý liên quan trực
tiếp đến những quyền cơ bản của con người. Qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau,
do yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà việc sửa đổi, bổ sung
45
BLTTHS được đặt ra để ngày càng phù hợp thực tiễn; bảo vệ quyền con người, quyền
công dân hiệu quả hơn. Thực tiễn xét xử các VAHS, thực hiện đúng quy định “giới
hạn của việc xét xử” sơ thẩm đã góp phần bảo đảm việc thực hiện quyền bào chữa
của bị cáo, cũng như việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa tại phiên tòa.
Mặc dù, nội dung này quy định quyền xem xét, quyết định của Tòa án đối với VAHS
trên cơ sở quyết định truy tố của VKS, nói cách khác quy định này xác định mối quan
hệ phối hợp - ước chế giữa VKS và Tòa án trong phạm vi, mức độ được xem xét,
quyết định của một vụ án, nhưng chính qua phạm vi, giới hạn đó tạo cơ sở cho bị cáo,
người bào chữa dự liệu được phạm vi, mức độ thực hiện quyền bào chữa của mình.
Chính quy định này cũng là “nơi thể hiện” mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản
trong TTHS. Vì thế, việc quy định GHXX sơ thẩm có ý nghĩa rất thiết thực trong việc
bảo vệ quyền con người, quyền công dân và bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội.
2.2. Cơ sở lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
2.2.1. Cơ sở triết học của giới hạn xét xử sơ thẩm
Giới hạn xét xử có thể hiểu là phạm vi do luật định đối với hoạt động xét xử của
Tòa án khi có truy tố của VKS mà Tòa án phải tuân thủ không được vượt qua và chỉ
trong phạm vi đó Tòa án độc lập áp dụng pháp luật trong vụ án cụ thể theo niềm tin
nội tâm của mình. Giới hạn do luật định này bao gồm giới hạn về tố tụng và giới hạn
về nội dung. Giới hạn về tố tụng của hoạt động xét xử chính là trình tự, thủ tục, các
điều kiện (quy định chung) về xét xử, các nguyên tắc cơ bản do BLTTHS quy định
mà Tòa án có nghĩa vụ phải tuân thủ và được xem như là những bảo đảm cần thiết để
thực hiện CNXX. Giới hạn về nội dung của hoạt động xét xử được xác định bởi phạm
vi buộc tội thể hiện trong quyết định truy tố của VKS (hoặc Viện công tố) bao gồm
phạm vi bị can bị VKS truy tố và phạm vi hành vi của bị can với những tình tiết, sự
kiện cụ thể và đánh giá pháp lý (định tội danh) đối với hành vi. GHXX được xác định
bởi nhiệm vụ, mục đích và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS ở mỗi quốc
gia trong từng thời kỳ phát triển lịch sử của mình.
Giới hạn xét xử là quy định khách quan trong hoạt động TTHS. Bản chất hoạt
động xét xử của Tòa án là hoạt động áp dụng pháp luật vào vụ án cụ thể. Hoạt động
này đòi hỏi thẩm phán phải khách quan, độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và tự do đánh
46
giá chứng cứ theo niềm tin nội tâm của mình, bởi lẽ quy phạm pháp luật mà Thẩm
phán áp dụng luôn có tính trừu tượng và các VAHS lại luôn khác nhau về các tình
tiết thực tế. Vì thế, khả năng thay đổi nội dung truy tố là điều có thể xảy ra do nhận
thức của chủ thể đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội của bị cáo khác nhau - VKS
với năng lực chuyên môn, kinh nghiệm của mình nhận thấy với hành vi này của bị
cáo thì cấu thành tội danh này nhưng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá tình tiết,
chứng cứ tại phiên tòa thì Tòa án (HĐXX) đánh giá pháp lý đối với hành vi đó là tội
danh khác. Mâu thuẫn, xung đột quan điểm về đánh giá pháp lý đối với hành vi phạm
tội giữa VKS và Tòa án cũng là điều tất nhiên. Vấn đề đặt ra là giải quyết mâu thuẫn,
xung đột đó như thế nào cho phù hợp với những nội dung khác trong TTHS là điều
cần xác định để có hướng khắc phục. Độc lập của Tòa án đi liền với CNXX của Tòa
án, vì nó cần thiết cho CNXX. Sự độc lập của Tòa án được tôn trọng nhưng độc lập
của Tòa án không có tính tuyệt đối. Thẩm phán ra phán quyết theo niềm tin nội tâm
của mình được hình thành trên cơ sở nhận thức các tình tiết sự kiện của vụ án khi trực
tiếp xem xét, kiểm tra đánh giá các chứng cứ (question of facts) và nhận thức về điều
luật cần áp dụng (question of law). Ở khía cạnh này, hoạt động xét xử có tính chủ
quan (subjective), phụ thuộc vào trình độ nhận thức pháp luật, kinh nghiệm xã hội,
kinh nghiệm nghề nghiệp cũng như phẩm chất đạo đức và nhiều tố chất khác của cá
nhân thẩm phán và vì thế luôn tiềm ẩn khả năng sai lầm của thẩm phán trong áp dụng
pháp luật. Khi yếu tố chủ quan (niềm tin nội tâm của thẩm phán) không phù hợp với
yếu tố khách quan (các tình tiết thực tế của vụ án, nội dung đích thực của điều luật áp
dụng) thì điều này có thể dẫn đến hệ quả vi phạm quyền cá nhân được Hiến pháp bảo
vệ của bị cáo. Chính vì vậy, độc lập và tự do của thẩm phán không có tính tuyệt đối
mà cần có những bảo đảm và giới hạn nhất định nhằm hạn chế khả năng sai lầm hoặc
vượt quá phạm vi CNXX của Tòa án. Độc lập của Tòa án phải ở trong giới hạn nhất
định, để bảo đảm Tòa án luôn là cơ quan thực hiện CNXX chứ không phải là cơ quan
buộc tội hoặc vừa xét xử vừa buộc tội. Nếu vượt quá GHXX thì Tòa án không còn là
Tòa án và lúc này độc lập của Tòa án cũng không còn có ý nghĩa gì. Luận điểm này
dựa trên mối quan hệ giữa lượng và chất của phép duy vật biện chứng theo đó khi sự
vật, hiện tượng có những thay đổi về lượng đến độ nhất định sẽ dẫn đến những thay
47
đổi về chất. “Chất” (thuộc tính) của Tòa án ở đây chính là CNXX, còn “lượng” chính
là những thẩm quyền cần thiết để Tòa án thực hiện CNXX. Một khi luật trao cho Tòa
án những thẩm quyền vượt quá giới hạn về “độ” (hay GHXX) thì Tòa án không còn
hoàn toàn là cơ quan xét xử nữa, làm lu mờ vai trò của cơ quan VKS, làm xấu tình
trạng bị cáo và vô hiệu hoá quyền bào chữa của chủ thể này.
Quy định GHXX trong pháp luật TTHS xuất phát từ chính cấu trúc khách quan
của hoạt động TTHS.“ Hoạt động TTHS từ cổ chí kim luôn là hoạt động tổng thành
từ ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và CNXX. Ba
chức năng này tồn tại không tách rời nhau. Sự tồn tại của chức năng này đòi hỏi tất
yếu sự tồn tại của các chức năng kia. Mỗi chức năng tồn tại và vận động trong chừng
mực tồn tại và vận động của các chức năng còn lại, trong đó chức năng buộc tội và
chức năng bào chữa có tính đối trọng với nhau. Chính sự đối trọng của hai chức
năng này đã làm cho hoạt động tố tụng tự thân nó đã có tính tranh tụng. Nói đến hoạt
động TTHS là nói đến hoạt động có tính tranh tụng” [93]. Tranh tụng là quy luật
khách quan hay còn gọi là nguyên tắc cơ bản của TTHS - nguyên tắc phản ánh mối
quan hệ biện chứng giữa các chức năng cơ bản trong quá trình giải quyết VAHS.
GHXX mà chúng ta đang bàn ở đây là GHXX ở phiên toà sơ thẩm nên cũng có thể
nói GHXX thực chất là cách thức xử lý hài hoà mối quan hệ giữa ba chức năng cơ
bản của TTHS tại phiên toà sơ thẩm, theo đó quan hệ giữa VKS - cơ quan nhân danh
Nhà nước truy tố bị cáo ra trước toà, thực hành quyền công tố và Tòa án - cơ quan
thực hiện CNXX được xem xét và giải quyết trên cơ sở phải tôn trọng nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo [90]. Lúc này, chức năng buộc tội của VKS
là trục trung tâm thu hút mọi hoạt động của các chức năng còn lại. Có truy tố của
VKS thì Tòa án mới mở phiên toà xét xử (mặc dù không phải mọi quyết định truy tố
đều dẫn đến quyết định đưa vụ án ra xét xử). Không có truy tố, Tòa án không có lý
do để xét xử. Đối với chức năng bào chữa cũng vậy, không có truy tố (buộc tội) thì
không có bào chữa. Buộc tội đến đâu thì bào chữa đến đó. Truy tố là yêu cầu nhân
danh Nhà nước của VKS về trách nhiệm hình sự của bị cáo đối với những hành vi cụ
thể mà chủ thể này đã thực hiện. Theo nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự thì
hành vi bị truy tố của bị cáo luôn gắn liền với tội danh cụ thể (đánh giá pháp lý về
48
hành vi bị truy tố). Nội dung truy tố của VKS là đối tượng của hoạt động xét xử cũng
như hoạt động bào chữa, định hướng cho các hoạt động này. Nói cách khác, phạm vi
hoạt động xét xử của Tòa án bị chi phối, ràng buộc bởi phạm vi nội dung truy tố [95].
Một khía cạnh nữa của chế định GHXX là vấn đề thay đổi nội dung buộc tội tại
phiên tòa. Hoạt động TTHS là quá trình trải qua nhiều giai đoạn và ở mỗi giai đoạn
luôn có khả năng khách quan xuất hiện những thông tin mới của vụ án. Phiên tòa sơ
thẩm là giai đoạn trung tâm của tiến trình tố tụng có nhiệm vụ giải quyết thực chất vụ
án. Tại đây, việc điều tra xem xét các tình tiết thực tế của vụ án được tiếp tục và các
bên tranh tụng vẫn có quyền đề xuất, bổ sung chứng cứ. Viêc xem xét, kiểm tra đánh
giá chứng cứ diễn ra trong điều kiện công khai, trực tiếp, có tính tranh tụng…, nên
hoàn toàn có khả năng xuất hiện những thông tin mới, đánh giá pháp lý mới về hành
vi truy tố khác với đánh giá pháp lý và những thông tin trong hồ sơ vụ án mà VKS
truy tố ra tòa. Trong tình huống này GHXX có chấp nhận thay đổi nội dung buộc tội
ban đầu hay không? Nếu chấp nhận thay đổi thì chấp nhận đến đâu? Có điều kiện
kèm theo không? VKS hay Tòa án có quyền thay đổi? Thay đổi theo hướng có lợi
hay bất lợi cho bị can, bị cáo và thủ tục bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
như thế nào? Những câu hỏi này là những khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa
ba chức năng cơ bản tại phiên tòa mà GHXX phải đề cập đến tuỳ thuộc vào khả năng
nhận thức của nhà lập pháp về nguyên tắc tranh tụng - quy luật khách quan của hoạt
động TTHS. Giải quyết đúng đắn khả năng thay đổi nội dung buộc tội trong GHXX
có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ nội dung buộc tội luôn là cơ sở xác định phạm vi hoạt
động xét xử cũng như phạm vi hoạt động bào chữa. Vì thế, khi nội dung buộc tội thay
đổi thì cũng làm thay đổi các phạm vi này, tức là GHXX cũng thay đổi, ảnh hưởng
đến vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng khác.
Như vậy, quy định GHXX là sự cần thiết khách quan điều chỉnh hài hòa mối
quan hệ hữu cơ giữa các chức năng cơ bản của TTHS tại phiên tòa sơ thẩm trên cơ
sở của nguyên tắc tranh tụng với sự thừa nhận các bên tranh tụng: bên buộc tội - bên
bào chữa bình đẳng với nhau trong hoạt động chứng minh trước Tòa án và Tòa án là
49
chủ thể giải quyết tranh chấp pháp lý giữa các bên thông qua thực hiện CNXX của
mình và chỉ là xét xử mà thôi.
2.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội của giới hạn xét xử sơ thẩm
Khi đời sống xã hội ngày càng phát triển, tri thức con người ngày càng sâu rộng
thì cách nhìn nhận, tiếp cận, giải thích các hiện tượng xã hội (trong đó có pháp luật)
ngày càng đa dạng, có cơ sở và khoa học hơn. Điều đó có thể xem là một quy luật
phát triển, tất yếu khách quan. Pháp luật là một hiện tượng xã hội gắn liền với Nhà
nước và nó ảnh hưởng, tác động rất lớn đến đời sống của con người trong xã hội.
Theo nghĩa chung nhất, pháp luật được hiểu là hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế; là công cụ có
hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí và lợi ích của giai
cấp thống trị trong xã hội có giai cấp [143]. Ở giai đoạn nào của lịch sử hình thành
và phát triển của một nhà nước thì pháp luật luôn được xem là công cụ hữu hiệu, “sắc
bén” của Nhà nước để thiết lập trật tự xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, hành
vi xử sự của con người theo chuẩn mực chung, phù hợp ý chí của giai cấp thống trị.
Về chức năng của pháp luật, cũng có nhiều quan điểm khác nhau theo mỗi cách tiếp
cận riêng, tuy nhiên, nhiều quan điểm nghiên cứu pháp luật thống nhất rằng chức
năng của pháp luật có hai loại: chức năng cơ bản và chức năng không cơ bản. Pháp
luật có nhiều chức năng, vai trò cũng như sự tác động của chúng đối với đời sống
chính trị - xã hội, nhưng chức năng tác động chung nhất, toàn diện nhất đến quan hệ
xã hội mà qua đó thể hiện bản chất giai cấp, bản chất xã hội gọi là chức năng cơ bản
(phổ biến) của Pháp luật - đó là chức năng điều chỉnh và chức năng bảo vệ. Chính
trong bản thân pháp luật có các chức năng này nên Nhà nước (giai cấp thống trị) đã
sử dụng pháp luật như một công cụ, phương thức thể hiện ý chí của mình ra bên
ngoài, bằng việc ghi nhận, yêu cầu chủ thể pháp luật có hành vi xử sự hợp pháp trong
các trường hợp cụ thể và bảo đảm những ghi nhận đó được thực hiện trên thực tế, nếu
có vi phạm xử lý nghiêm minh bằng các biện pháp cưỡng chế (dân sự, hành chính,
hình sự) tùy mức độ vi phạm. Qua đó, nhằm tác động tích cực đến ý thức công dân,
hình thành hành vi xử sự hợp pháp, hạn chế hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong
50
đời sống xã hội. Bên cạnh các chức năng cơ bản, pháp luật còn có chức năng không
cơ bản (không phổ biến), trong đó có chức năng giới hạn của pháp luật. Chức năng
hạn chế của pháp luật được hiểu là giới hạn của pháp luật, nó tạo ra các điều kiện cho
việc làm thỏa mãn các lợi ích của chủ thể giám sát, đó là các ranh giới đã được quy
định trong pháp luật mà các chủ thể vẫn phải hoạt động trong giới hạn của chúng; đó
là sự loại trừ những khả năng nhất định trong hoạt động của con người. Chính nhờ
pháp luật có chức năng này đã tạo ra tính tích cực, hạn chế sự độc quyền, lạm quyền
trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước nói chung và
của các cơ quan tư pháp nói riêng. Lĩnh vực TTHS là một trong những lĩnh vực quyền
con người của người bị buộc tội dễ bị vi phạm từ các hoạt động tố tụng của các chủ
thể tố tụng (đặc biệt của các cơ quan THTT) trong quá trình giải quyết VAHS. Xác
định sự thật vụ án là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền THTT, những người có
thẩm quyền THTT; người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác không
có nghĩa vụ chứng minh tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình tiến
hành TTHS do nôn nóng xác định tội phạm và người phạm tội, các cơ quan THTT có
thể lạm quyền, vượt qua giới hạn cho phép về quyền dẫn đến vi phạm các quy định
của pháp luật TTHS, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người bị buộc tội và những
người tham gia tố tụng khác. Do đó, chính chức năng giới hạn của pháp luật vừa là
điều kiện, vừa yêu cầu để các chủ thể pháp luật phải thực hiện đúng quyền, nhiệm vụ
của mình trong từng quan hệ pháp luật cụ thể. Mọi sự “vượt giới hạn” quy định đều
là hành vi vi phạm và để lại hậu quả nhất định cho xã hội, vì thế cần phải cân nhắc
khi quy định về vấn đề “vượt giới hạn cho phép”, phải bảo đảm hài hòa các mối quan
hệ có liên quan. Có như vậy, trật tự xã hội mới được bảo đảm; quyền con người của
các chủ thể pháp luật mới được bảo vệ.
Trong TTHS, VKS là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp; Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Còn quyền bào
chữa được thực hiện bởi người bị buộc tội và người bào chữa. Quy định vậy không
có nghĩa là VKS, Tòa án muốn truy tố, buộc tội, xét xử ai và hành vi nào cũng được,
thực hiện chức năng một cách vô hạn, vô cùng mà nó có giới hạn, phạm vi, mức độ
nhất định trong từng VAHS cụ thể và chính sự hạn chế đó là phạm vi, ranh giới để
51
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong TTHS - điều này tạo
ra tính tích cực của điều chỉnh pháp luật nói chung. Quy định giới hạn của việc xét
xử sơ thẩm là một trong những chế định được hình thành từ trên cơ sở lý luận này -
chức năng giới hạn của pháp luật. Chính quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm
VAHS thể hiện rõ nét mối quan hệ tố tụng giữa các chủ thể tố tụng (VKS, Tòa án và
bên bào chữa), giúp cho VKS và Tòa án thực hiện đúng chức năng, quyền hạn, có sự
chế ước cần thiết trong phạm vi, giới hạn xác định để VAHS được giải quyết có trọng
tâm, “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.
2.2.3. Cơ sở từ mối quan hệ biện chứng giữa các chức năng cơ bản trong tố
tụng hình sự tại phiên toà sơ thẩm
Theo triết học Mác - Lênin, mọi sự vật - hiện tượng tồn tại, vận động đều có
mối quan hệ tương tác lẫn nhau, chỉ có trong mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau
đó mới đem lại khả năng nhận thức đúng đắn sự vật – hiện tượng. Hoạt động TTHS
là một thể thống nhất của nhiều hoạt động có định hướng và nội dung khác nhau hợp
thành. Sự hợp thành đó của các nhóm chủ thể không phải là hợp thành cơ học mà là
sự hợp thành hữu cơ, có quy luật ràng buộc lẫn nhau tiến tới làm rõ sự thật khách
quan của vụ án – đây chính là mục đích cuối cùng của hoạt động TTHS. Hoạt động
TTHS được đặc trưng bởi những chức năng cơ bản trong TTHS - đó là những phương
diện (mặt) hoạt động tố tụng có định hướng chủ yếu, cơ bản làm xuất hiện, vận động
và chấm dứt TTHS, có mục đích, nhiệm vụ riêng nhưng đều bị chi phối bởi mục đích
chung của TTHS, các chức năng này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và không
thể tách rời. Trong khoa học pháp luật TTHS, nhiều quan điểm khác nhau về các chức
năng TTHS và các chức năng cơ bản, chức năng không cơ bản cũng như mối quan
hệ của chúng trong TTHS, tuy nhiên phần lớn các quan điểm đều thống nhất rằng:
trong TTHS có nhiều chức năng do nhiều chủ thể với chức năng, nhiệm vụ khác nhau
thực hiện những chức năng cơ bản chỉ có là buộc tội, gỡ tội (bào chữa) và xét xử, bởi
lẽ đó là những chức năng mà khi thực hiện chúng sẽ giải quyết được nhiệm vụ chung
của TTTHS; ba chức năng này có mối quan hệ biện chứng, đan xen qua lại với nhau
và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm sự vận động, kết thúc đúng đắn vụ
án. Thiếu một trong ba chức năng cơ bản này thì quá trình TTHS không thể vận hành
52
tốt được. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, mỗi chức năng có vai trò nhất
định trong quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án, chính vai trò của từng chức
năng sẽ quyết định sự tồn tại tất yếu của chúng và là tiền đề, điều kiện cho chức năng
kia tồn tại, phát triển.
Thiết nghĩ, không phải ngẫu nhiên mà BLTTHS của ta quy định bên cạnh nhiệm
vụ “không làm oan người vô tội” các cơ quan THTT còn phải bảo đảm “không bỏ lọt
tội phạm”, việc quy định này thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết giữa các chức
năng cơ bản trong TTHS. Nếu thừa nhận trong TTHS chỉ có chức năng buộc tội thì sẽ
dẫn đến sai lầm là người ta chỉ chú trọng đến những chứng cứ buộc tội mà bỏ qua
những chứng cứ gỡ tội, dẫn đến oan sai. Điều này sẽ làm cho hoạt động xét xử của Tòa
án tại phiên tòa chỉ là hình thức. Ngược lại, nếu chỉ có chức năng bào chữa thì việc bỏ
lọt tội phạm, dung túng tội phạm là điều không thể tránh khỏi. Vì thế, việc tồn tại song
song chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là một nhu cầu tất yếu khách quan của
hoạt động tố tụng, nhằm xác định chân lý khách quan của vụ án và trong quá trình cùng
tồn tại này chúng bổ trợ cho nhau bảo đảm việc giải quyết vụ án được “đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật”. Cùng tồn tại với hai chức năng này, còn có CNXX - đây là
chức năng là chức năng trung tâm. Bởi lẽ, CNXX chỉ khi xuất hiện ở giai đoạn xét xử,
là giai đoạn có tính quyết định. Tại đây với sự có mặt đầy đủ của tất cả các chủ thể, quá
trình tố tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các bên: buộc tội và bào chữa,
với sự điều khiển của Tòa án. Trong suốt quá trình tranh luận, Tòa án là “người trọng
tài” đứng giữa hai bên, có quyền đưa ra quyết định cuối cùng về vụ án, sau khi đã đánh
giá một cách đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tại phiên tòa.
Chức năng buộc tội còn gọi là chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự là một
dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm tội, chứng minh lỗi cuả người đó,
bảo đảm phân xử và hình phạt đối với người đó. Trong khi đó, chức năng bào chữa
là một dạng hoạt động tố tụng được pháp luật bảo đảm cho người bị buộc tội khả
năng bằng cách tự mình và nhờ người khác đưa ra các chứng cứ, lập luận nhằm không
chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà còn đưa ra những gì có
lợi cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng. Trong TTHS, chức năng buộc tội và
53
chức năng bào chữa (gỡ tội) đối trọng nhau. Còn CNXX là hoạt động tố tụng của Tòa
án có thẩm quyền xem xét, quyết định một người bị buộc tội có tội hay không và xác
định trách hiệm hình sự đối với người có tội. Ở đây, NCS không đi sâu phân tích nội
dung của các chức năng cơ bản này, mà chỉ phân tích khía cạnh vấn đề để thấy rằng
chính mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS là cơ sở nền tảng để quy
định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS nói chung và trong BLTTHS Việt
Nam nói riêng.
Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và CNXX trong TTHS tuy có vị trí,
vai trò, bản chất, chủ thể thực hiện khác nhau, hoạt động tố tụng đặc trưng khác nhau
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, cùng vận động hướng đến mục đích chung của TTHS.
Trong quá trình xét xử VAHS, quan hệ giữa VKS và Tòa án là quan hệ giữa chức
năng buộc tội và CNXX. Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc
nhau để cùng với chức năng bào chữa bảo đảm chu trình, thủ tục giải quyết vụ án
đúng pháp luật, thiếu một trong các chức năng trên TTHS không thể vận hành hiệu
quả được. Bởi vì, công tác xét xử của Tòa án chỉ đúng đắn khi VKS thông qua chức
năng của mình, cùng với chức năng bào chữa kiểm tra được tất cả các chứng cứ và
những tình tiết buộc tội cũng như các tình tiết, chứng cứ gỡ tội đối với bị cáo. Trong
các chức năng cơ bản thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là những chức
năng đối trọng với nhau và chính tranh tụng phản ánh chủ yếu mối quan hệ qua lại
giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Trong quá trình tranh tụng, Tòa án làm trọng tài
giải quyết cuộc tranh luận giữa các bên, làm sáng tỏ tất cả các tình tiết (buộc tội lẫn
gỡ tội) để có những quyết định đúng đắn, thuyết phục về vụ án, tức là Tòa án thực
hiện CNXX chứ không phải để buộc tội hay gỡ tội đối với bị cáo.
Nội dung GHXX sơ thẩm xác định phạm vi quyền xét xử của Tòa án cấp sơ
thẩm, mối quan hệ chế ước giữa VKS với Tòa án và phạm vi thực hiện quyền bào
chữa của bị cáo đối với một VAHS cụ thể. Vì thế, để nhìn nhận một cách toàn diện
về nội dung GHXX sơ thẩm phải xuất phát từ mối quan hệ của ba chức năng cơ bản
trong TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng có tính độc lập riêng nhưng
chúng có mối quan hệ hài hòa với nhau. Giới hạn của việc xét xử chính là quy định
54
“xử lý” mối quan hệ này cụ thể nhất. VKS là cơ quan được Nhà nước giao cho chức
năng công tố, thay mặt Nhà nước để truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử. Chức
năng của bên bào chữa là phản biện, bác bỏ buộc tội của VKS để giảm nhẹ tội, phủ
nhận trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Tòa án thực hiện CNXX và chức
năng này chỉ xuất hiện khi có buộc tội của VKS.
Kế thừa những quy định trước đó về GHXX, các BLTTHS sau này tiếp tục ghi
nhận chế định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm xác định phạm vi, giới hạn thực hiện
quyền xét xử của Tòa án đối với VAHS. Đồng thời, Nhà nước ta đã ban hành các văn
bản hướng dẫn thi hành quy định về GHXX nhưng chủ yếu là hướng dẫn cách giải
quyết mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
trong GHXX sơ thẩm VAHS, bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình
ở những mức độ, phạm vi nhất định. Trong quá trình cải cách tư pháp, chúng ta đang
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì vấn đề quyền con người, phát huy dân
chủ là những giá trị cần được chú trọng, TTHS là một trong lĩnh vực phức tạp, quyền
con người, quyền công dân dễ bị xâm phạm nhất. Vì thế, thiết nghĩ Nhà nước cần tạo
ra cơ chế hữu hiệu để bảo đảm các quyền đó được thực hiện, khi có hành vi xâm
phạm phải bị xử lý nghiêm minh. Người bị buộc tội là nhóm người “yếu thế” – người
bị tình nghi đã thực hiện hành vi phạm tội trong mối quan hệ tố tụng với một bên là
cơ quan THTT - được Nhà nước giao thực hiện các chức năng nhất định để truy tố,
buộc tội và kết tội người đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, quy định GHXX sơ
thẩm trong TTHS là điều tất yếu, tạo ra ranh giới nhất định để các cơ quan THTT
luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao, tránh tình trạng lạm quyền, vượt
quyền, đồng thời tạo cơ sở, định hướng cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bản chất của GHXX sơ thẩm là mối quan hệ pháp lý giữa chức năng buộc tội
và CNXX, nhưng không thể không ảnh hưởng đến chức năng bào chữa. Thực tế cho
thấy, công tác xây dựng chế định GHXX sơ thẩm vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến việc
áp dụng vẫn chưa có sự thống nhất từ các chủ thể tố tụng, mối quan hệ tố tụng giữa
VKS và Tòa án vẫn còn vướng mắc. Cho nên, việc hình thành quy định GHXX sơ
thẩm trong TTHS xuất phát từ mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS
55
là điều tất yếu khách quan. Với nhận thức đó, NCS cho rằng những quy định về
GHXX sơ thẩm trong BLTTHS nước ta cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với vai trò, nội dung của các chức năng cơ bản trong TTHS; xác định rõ chủ thể thực
hiện chức năng tố tụng cũng như điạ vị pháp lý của các chủ thể đó khi tham gia vào
quan hệ pháp luật TTHS. Việc quy định quyền xét xử của Tòa án trong phạm vi, giới
hạn xét xử cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, chú trọng xem xét đến việc thực hiện quyền
bào chữa của bị can, bị cáo. Có buộc tội thì phải có gỡ tội (bào chữa) và chính sự
tranh tụng giữa bên buộc và bên bào chữa sẽ giúp cho Tòa án nhìn nhận, xem xét,
đánh giá vụ án một cách toàn diện hơn, chính xác hơn từ đó ra bản án, quyết định
“đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”, thuyết phục xã hội - đó là biểu hiện của một
nền tư pháp dân chủ, công bằng. Vì thế, việc tôn trọng và thực hiện đúng các quy
định của pháp luật về quyền bào chữa của người bị buộc tội, trong đó có quyền tự
bào chữa và nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo từ các cơ quan THTT là một
bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đặc
biệt, việc thực hiện và bảo đảm tốt quy định về tranh tụng tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng là cơ sở để ra phán quyết là một biện pháp bảo đảm quan trọng không thể thiếu;
là yêu cầu tất yếu của quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam; bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng
trong TTHS.
2.3. Mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với một số nội dung khác
liên quan trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.3.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự
Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được qui định trên nền tảng các chế định pháp
lý quan trọng có liên quan chặt chẽ với nhau trong BLTTHS. Nội dung GHXX sơ
thẩm xuất phát từ nhiều qui phạm pháp luật TTHS, trong đó có những qui phạm về
các nguyên tắc của TTHS. Các nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo
thành hệ thống quan điểm, tư tưởng nền tảng làm cơ sở, căn cứ để xây dựng các qui
định của BLTTHS và định hướng, chỉ đạo việc áp dụng BLTTHS trong thực tiễn.
Chính vì vậy, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm cũng phải dựa trên nền tảng
của hệ thống các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Trong số các nguyên tắc cơ bản của
56
TTHS thì nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội; suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm có vai trò rất quan trọng trong việc xác định nội dung
giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS.
Một là, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
“Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một nguyên tắc rất quan trọng
trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng.
So với các cơ quan tư pháp khác, Tòa án là nơi biểu hiện tập trung nhất quyền tư pháp
– nơi mà các kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp…
được sử dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng để kết luận về sự thật
khách quan của vụ án; nơi duy nhất có thẩm quyền tuyên bố một ai đó có tội hay
không có tội, nơi cuối cùng đưa ra phán quyết mang tính quyền lực nhà nước, đồng
thời cũng là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống các cơ quan tư
pháp trong bộ máy nhà nước. Nguyên tắc này được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm
1946 và tiếp tục được ghi nhận lại trong các Hiến pháp sau này của Nhà nước ta (Hiến
pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013). Nội dung nguyên tắc ghi nhận
sự độc lập của Tòa án khi xét xử, bảo đảm cho Tòa án xét xử vụ án được chính xác,
không có một cơ quan, tổ chức và cá nhân nào được can thiệp vào hoạt động xét xử
của Tòa án một cách trái pháp luật. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc thừa
nhận các cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng
là hoàn toàn độc lập, tách rời với các hoạt động khác của bộ máy nhà nước nói chung,
cho nên cần phải hiểu tính độc lập ở đây một cách biện chứng.
Nội dung nguyên tắc ghi nhận sự độc lập của Tòa án khi xét xử, không có một
cơ quan nhà nước nào được can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án một cách trái
pháp luật nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc thừa nhận các cơ quan tư pháp,
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là hoàn toàn độc lập, tách
rời với các hoạt động khác của bộ máy nhà nước nói chung, cho nên cần phải hiểu
tính độc lập ở đây một cách biện chứng. Việc ghi nhận Tòa án xét xử độc lập là độc
lập về phương diện nhận thức và áp dụng pháp luật, độc lập khi tiến hành các hoạt
động mà pháp luật quy định và các hoạt động nghiệp vụ để xét xử, không ai có quyền
57
can thiệp vào việc xét xử của Tòa án. Mặt khác, nguyên tắc độc lập xét xử còn thể
hiện ở tính độc lập của Hội thẩm nhân dân trong quan hệ với Thẩm phán và khẳng
định tính độc lập giữa các thành viên trong HĐXX với nhau. Nguyên tắc này được
ghi nhận tại Điều 103 Hiến pháp và được cụ thể hóa tại Điều 23 BLTTHS: “Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, được nhận thức theo
những khía cạnh sau đây:
Một là, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
không chịu sự chỉ đạo của bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Các cơ quan nhà nước không
can thiệp vào những vụ án cụ thể mà Tòa án xét xử.
Hai là, trong quan hệ giữa Tòa án các cấp, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên. Đây là một tư tưởng quan trọng,
là cơ sở lý luận điều chỉnh mối quan hệ giữa Tòa án các cấp với nhau khi xét xử các
vụ án. Trên phương diện xây dựng pháp luật, đây chính là một trong những cơ sở lý
giải tại sao Tòa án cấp trên không có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với bản án và
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.
Ba là, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,
nghĩa là khi thực hiện CNXX, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ xem pháp luật là “người
chỉ đạo trực tiếp”, không bị chi phối bởi áp lực dư luận. Dư luận về vụ án chỉ là một
cơ sở để Tòa án xem xét khi ra bản án và quyết định. Nhưng thực tế cho thấy, những
án được coi là “án điểm”, án được xét xử lưu động thì hầu như HĐXX ít nhiều bị chi
phối bởi dư luận xã hội. Điều đó dẫn đến thực tế mức án áp dụng đối với bị cáo
thường cao hơn so với mức độ và tính chất của hành vi phạm tội.
Bốn là, tính độc lập của nguyên tắc còn thể hiện trong mối quan hệ giữa các
thành viên trong HĐXX với nhau, thể hiện qua việc Hội thẩm có ngang quyền với
Thẩm phán, mỗi thành viên trong HĐXX có quyền độc lập khi quyết định cá nhân về
mỗi vấn đề trong vụ án. Mặc dù, bản án được ban hành trên cơ sở ý kiến của đa số
nhưng các ý kiến thiểu số vẫn được bảo lưu bằng văn bản trong hồ sơ vụ án. Thực sự
nội dung này của nguyên tắc không có cơ chế đảm bảo thực hiện tốt. Thử hỏi sao Hội
thẩm có thể ngang quyền, độc lập với Thẩm phán khi tiến hành xét xử được?, trong
khi Thẩm phán là người có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ để xét xử vụ án còn
58
chế định Hội thẩm là sự thể hiện bản chất Tòa án của Nhân dân, không được đào tạo
“bài bản” về kiến thức pháp luật cũng như công tác xét xử. Thiết nghĩ, người ta chỉ
có thể độc lập khi người ta có đủ những điều kiện cần thiết để tự độc lập.
Năm là, trong mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp với nhau, nhất là giữa Tòa
án với VKS, nguyên tắc cũng thể hiện: Tòa án xét xử sơ thẩm dựa trên bản cáo trạng
của VKS nhưng đó không phải là căn cứ duy nhất để Tòa án đánh giá về vụ án mà
Tòa án phải xem xét toàn diện, công khai tất cả chứng cứ tại phiên tòa.
Nội dung của nguyên tắc này có ý nghĩa nhằm đảm bảo tính khách quan trong
hoạt động xét xử, bảo đảm việc ban hành những bản án và quyết định của Tòa án có
căn cứ, hợp pháp, thông qua đó bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. Tuy nhiên, trên
phương diện lý luận cũng như thực tiễn, đã và đang đặt ra vấn đề cần nhận thức đúng
về nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
Nguyên tắc này cần được nhận thức đúng trong mối quan hệ giữa CNXX với chức
năng buộc tội của VKS thể hiện qua quy định “giới hạn của việc xét xử sơ thẩm”.
Mặt khác, nguyên tắc này cũng cần được nhận thức trong quan hệ với vấn đề hạn chế
độc quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền hạn khi xét xử, nói cách khác là cần bảo đảm
nguyên tắc giám sát đối với hoạt động xét xử, nhất là trong quan hệ giữa tính độc lập
của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử với nguyên tắc Tòa án cấp trên giám đốc việc
xét xử của Tòa án cấp dưới, và trong quan hệ với chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động xét xử của VKS.
Trong các quy định về trình tự, thủ tục xét xử, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Tòa án có quy định về giới hạn của việc XXST. Quy định này đề cập những vấn
đề như: Tòa án được xét xử những bị cáo nào? những hành vi nào của bị cáo đã bị
VKS truy tố? Tòa án có bị ràng buộc bởi tội danh mà VKS truy tố hay không? Khi
VKS rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa hoặc tại
phiên tòa thì quyền hạn xét xử của Tòa án như thế nào? Những nội dung nêu trên có
mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Qua đó cho thấy, căn cứ vào nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để quy định nội dung giới hạn của việc
xét xử sơ thẩm VAHS là có cơ sở và phù hợp.
59
Hai là, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
Hiến pháp năm 2013, BLTTHS và Luật tổ chức TAND nước ta đã ghi nhận
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nhằm đề cao quyền con
người, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân trong TTHS là xuất phát từ quan
điểm mở rộng tính dân chủ trong hoạt động tư pháp trong thời kỳ xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN. Bào chữa bao gồm tất cả những hành vi mà người bị buộc tội và
người bào chữa sử dụng để chống lại toàn bộ hay một phần sự buộc tội, làm sáng tỏ
những tình tiết về sự vô tội của người bị buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho họ. Quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền
tố tụng mà pháp luật giành cho họ để chống lại việc buộc tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Theo điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS Việt Nam, “Người bị buộc tội
gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”; chủ thể quyền bào chữa trong
TTHS là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 58 đến Điều 61). Điều
16 BLTTHS quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm
thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện
đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật
này”. Như vậy, quyền bào chữa của người bị buộc tội luôn gắn liền với nhiệm vụ của
cơ quan THTT bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện quyền đó. Vì thế, ngay sau
khi ra quyết định việc tạm giữ, cơ quan điều tra phải thông báo cho người bị tạm giữ
biết lý do bị tạm giữ, giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ tố tụng; khi ra quyết
định khởi tố bị can, cơ quan điều tra phải báo cho bị can biết họ bị khởi tố về tội gì,
giải thích cho họ biết có quyền gì trong TTHS. Mặt khác, các cơ quan THTT còn phải
tạo điều kiện để người bị buộc tội đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu khiếu nại quyết định
của cơ quan và người THTT,… Trong một số trường hợp, cơ quan THTT phải đảm
bảo có người bào chữa cho bị can, bị cáo (Điều 76 BLTTHS năm 2015). Bào chữa là
quyền chứ không phải là nghĩa vụ của họ nên khi tham gia tố tụng, có thể họ tham
gia tích cực (đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu để chứng minh vô tội của mình, làm
sáng tỏ tình tiết vụ án) nhưng cũng có thể họ không sử dụng quyền bào chữa của
mình. Tuy nhiên, trong trường hợp này cơ quan THTT không thể coi đó là bằng chứng
60
về tội lỗi của họ. Thực tế cho thấy trong quá trình giải quyết VAHS, từ khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, chúng ta có thể thấy người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa
của mình rất hạn chế với nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng tại phiên tòa, có thể
nói là nơi để bị cáo, người bào chữa thực hiện quyền bào chữa của mình một cách rõ
nét và đầy đủ nhất. Với chức năng của mình, Tòa án tạo điều kiện thuận lợi để họ
thực hiện nội dung của quyền bào chữa, góp phần tìm ra chân lý của vụ án. Trên cơ
sở quyết định truy tố của VKS với những chứng cứ buộc tội, nếu bị cáo và người bào
chữa thực hiện tốt quyền bào chữa của mình, lúc đó những tài liệu, đồ vật, chứng cứ
gỡ tội mà họ đưa ra chống lại việc buộc tội của VKS, được ví như “chiếc đèn pha”
soi rọi vào từng tình tiết, sự kiện của vụ án tạo tính tranh tụng cao tại phiên tòa. Điều
này, sẽ giúp cho Tòa án có cách nhìn nhận và đánh giá các tình tiết, sự kiện, chứng
cứ trong vụ án một cách đầy đủ và trọn vẹn hơn. Từ đó, Tòa án ra quyết định cuối
cùng kết luận vụ án một cách thuyết phục “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.
Theo quy định về giới hạn của việc XXST trong BLTTHS thì Tòa án xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định
đưa vụ án ra xét xử, vậy về nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án nếu Tòa án
xét xử người chưa bị truy tố hoặc xét xử hành vi của bị cáo theo tội danh chưa bị truy
tố thì Tòa án đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,
tước đi quyền bào chữa của bị cáo, không cho họ có sự chuẩn bị ý kiến bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa. Trong trường hợp này, Tòa án xét xử không có sự tranh
luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa, nên không thể có cơ sở để xác định đúng sự
thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, để mục đích chung của TTHS đạt được trong
từng VAHS cụ thể và để VKS, Tòa án thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, các nhà
làm luật cần cân nhắc quy định mối quan hệ chế ước của VKS và Tòa án sao cho bảo
đảm hài hòa giữa các chức năng cơ bản của TTHS thông qua việc thực hiện quyền
của các chủ thể tố tụng (quyền công tố, quyền bào chữa và quyền xét xử).
Tòa án có quyền xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố
trong cùng một điều luật, về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.
Quy định này trong nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS hoàn toàn phù
hợp với nguyên tắc nhân đạo XHCN trong luật TTHS nước ta, không vi phạm nguyên
61
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Nhưng việc Tòa án có quyền xét
xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố trong bản cáo trạng thì
cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm không vi phạm nguyên tắc hiến định - bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, đồng thời phải bảo đảm ý nghĩa đích thực của
vấn đề “giới hạn của việc xét xử sơ thẩm” trong TTHS.
Ba là, nguyên tắc suy đoán vô tội
Đây là nguyên tắc hiến định, nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong khoa học TTHS và trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm. Trong bài viết của
mình, PGS.TS Nguyễn Thái Phúc đã đề cập đến lời phát biểu của một nhà khoa học
người Nga vai trò của nguyên tắc này trong TTHS như sau: “Đối với khoa học xét xử
và đối với toàn bộ thực tiễn đấu tranh chống tội phạm của chúng, Tòa án không có
kim chỉ nam nào tin cậy hơn ngoài việc thừa nhận không điều kiện và hiểu một cách
đúng đắn nguyên tắc suy đoán vô tội - một nguyên tắc quan trọng, nền tảng của hoạt
động TTHS…”[91, tr.74]. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đây là một suy đoán pháp lý - một giả thiết do
luật quy định được coi là đúng cho đến khi xuất hiện những sự kiện tình tiết nhất
định. Trong trường hợp này giả thiết do luật đặt ra được coi là chân lý cho đến khi có
sự kiện - bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Chừng nào chưa xảy ra sự
kiện này thì chừng đó giả thiết vẫn tồn tại, vẫn được thừa nhận là đúng. Nguyên tắc
này khẳng định trong Nhà nước ta chỉ có Tòa án là cơ quan có quyền xét xử các
VAHS, quyền phán quyết đối với công dân là người có tội hay không có tội. Điều
này là một bảo đảm pháp lý vững chắc cho mọi người dân - nếu không bị đưa ra xét
xử tại Tòa án với các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định thì không một ai bị coi là
có tội và chịu hình phạt. Kể cả, trong trường hợp Tòa án đã ra bản án kết tội một
người nhưng trong thời gian bản án đó chưa có hiệu lực pháp lực thì người bị kết án
đó vẫn chưa bị coi là có tội và họ chưa phải chịu hình phạt theo phán quyết của Tòa
án. Vì thế, trong quá trình xác định sự thật của vụ án, mọi người mà trước hết là cơ
quan (người) THTT không được định kiến trước cho rằng người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người có tội. Khái niệm “người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
62
bị cáo” không đồng nghĩa với khái niệm“người có tội”, tuy nhiên, luật không buộc
cơ quan (người) THTT không được có niềm tin nội tâm về lỗi của bị can, bị cáo. Vấn
đề này hoàn toàn không đồng nhất với việc họ có tội hay không có tội, chỉ có Tòa án
- cơ quan duy nhất có quyền tuyên bố bị cáo là người có tội. Đây là một trong những
bảo đảm quan trọng đối với quyền của bị cáo, bởi lẽ, Tòa án thực hiện CNXX với
những nguyên tắc dân chủ tại phiên tòa công khai theo trình tự tố tụng chặt chẽ do
luật định. Nội dung này có ý nghĩa nhân đạo và dân chủ sâu sắc. Nếu công dân phạm
tội thì phải chịu hình phạt nhưng việc truy cứu đó phải tuân thủ những quy định của
pháp luật hình sự và TTHS. Suy đoán vô tội có nghĩa là lỗi của bị can, bị cáo phải
được chứng minh một cách thuyết phục trước Tòa án. Tuy nhiên, cần phải nhận thức
đúng đắn việc quy định nội dung này tại Điều 13 BLTTHS hoàn toàn không làm giảm
giá trị các quyết định trước khi có bản án của Tòa án (như quyết định khởi tố bị can,
quyết định truy tố của VKS,...) vì chúng là tiền đề quan trọng cho công tác xét xử của
Tòa án.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn
cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định thì cơ
quan, người có thẩm quyền THTT phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Nghĩa
vụ chứng minh lỗi là trách nhiệm của bên buộc tội, còn người bị buộc không có nghĩa
vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Bản cáo trạng của VKS và bản án kết tội của
Tòa án cần phải dựa trên các chứng cứ khẳng định lỗi của người bị buộc tội trong
việc thực hiện tội phạm. Nội dung này được ghi nhận trong nguyên tắc xác định sự
thật khách quan (Điều 15 BLTTHS) nhưng theo NCS, nguyên tắc xác định sự thật
khách quan không liên quan đến quy tắc phân định nghĩa vụ chứng minh lỗi, nên cần
thừa nhận là nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo nguyên tắc suy đoán vô
tội, bị can không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Đó là quyền của bị can,
nếu bị can không đề xuất chứng cứ, không trả lời câu hỏi của bên buộc tội không có
nghĩa là thừa nhận có tội. Nghĩa vụ chứng minh lỗi của bị can là trách nhiệm của cơ
quan THTT, khi đã xác định có sự kiện phạm tội thì phải tiến hành hàng loạt các hoạt
động nhằm xác định ai là người thực hiện hành vi tội phạm đó, chứng minh lỗi của
63
họ. Về nguyên tắc, không chứng minh được lỗi của người bị buộc tội đồng nghĩa với
sự vô tội của họ đã được chứng minh. Mọi sự hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội
trong vụ án nếu như không thể loại trừ được theo trình tự do luật định, cũng như mọi
sự hoài nghi xuất hiện trong việc giải thích và áp dụng các quy phạm pháp luật hình
sự và pháp luật TTHS đều được giải quyết theo hướng có lợi cho họ, tuy nhiên, trong
thực tiễn không phải lúc nào yêu cầu này cũng được tuân thủ. Nội dung giới hạn của
việc xét xử sơ thẩm xác định phạm vi, mức độ, quyền của các chủ thể tố tụng để đi
tìm chân lý của vụ án, đặc biệt là xác định mối quan hệ chế ước giữa VKS và Tòa án
trong việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ tố tụng, tránh tình trạng lạm quyền,
tùy tiện, chồng chéo chức năng. Có thể nói, nguyên tắc suy đoán vô tội là nền tảng,
là sự thể hiện cô đọng nhất những bảo đảm pháp lý cho quyền bào chữa của người bị
buộc tội, có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung quy định giới hạn của việc XXST các
VAHS. Mặt khác, nó loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình điều tra,
truy tố và xét xử. Dù chứng cứ thu thập trong vụ án đến đâu, dù niềm tin nội tâm của
những người THTT về lỗi của bị can như thế nào thì họ vẫn phải có nghĩa vụ làm
sáng tỏ các tình tiết sự kiện của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Nguyên tắc này thể hiện thái độ trân trọng số phận con người, hạn chế sai lầm tư pháp
làm oan công dân.
Bốn là, nguyên tắc tranh trụng trong xét xử được bảo đảm
Nguyên tắc “tranh trụng trong xét xử được bảo đảm” là nguyên tắc thể hiện nội
dung rất quan trọng trong cải cách tư pháp ở nước ta về việc mở rộng dân chủ, bảo
đảm công bằng, khách quan trong tư pháp hình sự. Tranh tụng với tư cách là nguyên
tắc được hiểu là cách thức tổ chức phiên tòa sơ thẩm trong đó có sự tham gia của các
bên buộc tội và bào chữa có quyền ngang nhau để bảo vệ các ý kiến, luận điểm của
mình và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên đối trọng dưới vai trò điều khiển và
quyết định của Tòa án. TTHS không thể thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội
không có đối trọng của nó là chức năng bào chữa. Bản thân hoạt động TTHS - quá
trình nhận thức chân lý khách quan trong từng vụ án cụ thể đòi hỏi khách quan sự
tranh tụng giữa hai chức năng buộc tội và chức năng bào chữa như là tiền đề cần thiết
64
cho CNXX. Một triết gia của Hy Lạp cổ đại đã từng nói: chân lý chỉ được làm sáng
tỏ qua cọ sát các ý kiến khác nhau. Tranh tụng chính là quá trình tranh luận, trao đổi
giữa các bên: buộc tội và bào chữa, trong tranh tụng quan điểm khác nhau của các
bên sẽ được cọ sát và dưới sự điều khiển, phán xét của Tòa án chân lý khách quan
của vụ án xuất hiện. Tác giả Phạm Hồng Hải rất có lý khi cho rằng: tranh tụng là một
nguyên tắc của TTHS, nó khẳng định ở đâu có buộc tội thì ở đó có gỡ tội (bào chữa).
Tranh tụng được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của TTHS từ khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử ở các cấp tòa án. “Tranh tụng là một phương pháp để tìm ra sự thật khách
quan của vụ án. Có thể coi đây là một trong những phương pháp khoa học tốt nhất giúp
các chủ thể của hoạt động TTHS làm sáng tỏ các vấn đề khác nhau của VAHS” [39,
tr.45]. Quả thật như vậy, chỉ trong điều kiện tranh tụng thì các chức năng cơ bản trong
TTHS (buộc tội, bào chữa và xét xử) mới có thể vận hành một cách tốt nhất.
Nội dung của nguyên tắc này được quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015 và
được hiểu như sau: Trong quá trình từ khởi tố đến xét xử, bên buộc tội, bên bị buộc
tội và những người tham gia tố tụng khác đều bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Trong quá
trình tranh tụng dân chủ và bình đẳng của các bên tại phiên tòa phải bảo đảm sự độc
lập với nhau và phân định rõ ràng các chức năng buộc tội, bào chữa và phán xét (xét
xử) VAHS theo giới hạn nhất định. Tức là phải có sự tách bạch giữa các chức năng
buộc tội, bào chữa và xét xử. Tranh tụng đòi hỏi các chức năng cơ bản khác nhau phải
do các chủ thể khác nhau thực hiện. Việc xét xử VAHS của Tòa án các cấp được tiến
hành trên cơ sở tranh tụng dân chủ và bình đẳng giữa các bên tại phiên tòa; Tòa án là
cơ quan tài phán bảo đảm cho các bên những điều kiện cần thiết để thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng, sự dân chủ và bình đẳng với nhau khi tranh tụng tại phiên
tòa. Có quan điểm cho rằng khi tính tích cực của các bên tăng lên thì vai trò của Tòa
án và CNXX bị giảm đi. NCS không quan điểm như vậy, bởi lẽ, khi Tòa án giảm can
thiệp không đúng chức năng của mình vào trong quá trình tranh tụng của các bên và
chỉ thực hiện những gì thuộc chức năng của mình - CNXX thì suy cho cùng vai trò,
uy tín của Tòa án càng được đề cao. Mặt khác, tạo điều kiện để Tòa án xem xét, đánh
65
giá các tình tiết, sự kiện của vụ án được toàn diện và khách quan hơn. Có thể khẳng
định ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, tính tranh tụng giữa
các bên tham gia được thể hiện rõ nét và đầy đủ nhất. Tòa án với quyền hạn và trách
nhiệm của mình sẽ bảo đảm những điều kiện cần thiết để các bên tham gia hoạt động
tranh tụng thực sự dân chủ và bình đẳng. Trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ và
bình đẳng đó tại phiên tòa, Tòa án là người “cầm cân nảy mực” xem xét các tình tiết,
chứng cứ và tính pháp lý của chúng với thái độ vô tư, công minh và cuối cùng phán
quyết mang tính quyền lực nhà nước.
Theo quy định giới hạn của việc xét xử cấp sơ thẩm: Tòa án xét xử những người
và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã có quyết định đưa ra
xét xử. Tòa án có thể xét xử khác với nội dung quyết định truy tố của VKS nhưng
phải bảo đảm trong “giới hạn, phạm vi” những bị cáo và hành vi phạm tội mà VKS
đã truy tố, đồng thời bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Thiết nghĩ có như vậy mới
tránh hiện tượng “lấn sân, làm thay” chức năng cho nhau giữa VKS và Tòa án. Một
khi không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quy định dễ dẫn đến tình trạng lạm
quyền, oan sai trong hoạt động tố tụng. Vì thế, nguyên tắc tranh tụng được xem là cơ
sở, căn cứ quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS trong TTHS.
2.3.2. Mối quan hệ giữa nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm với phạm vi xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự
Ở nước ta, Tòa án thực hiện nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 27 BLTTHS năm 2015. Điều này phù
hợp với pháp luật quốc tế: “Bất kỳ người nào bị kết án về một tội phạm đều có quyền
yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy
định của pháp luật” [106]. Khi có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm có
nhiệm vụ xem xét lại vụ án nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời những sai lầm,
thiếu sót có thể có trong bản án, quyết định sơ thẩm để ra những phán quyết phù
hợp, bảo vệ quyền công dân, giảm bớt oan sai trong TTHS. Tuy nhiên, phạm vi
kháng cáo của những người có quyền kháng cáo được quy định khác nhau, phụ thuộc
vào vai trò, tư cách tố tụng và sự liên quan của bản án, quyết định sơ thẩm đối với
66
quyền và lợi ích của họ. Quyền kháng nghị thuộc về VKS cùng cấp và VKS cấp trên
trực tiếp. Khác với kháng cáo (những người có quyền kháng cáo chỉ cần không đồng
ý với bản án hoặc quyết định sơ thẩm là đã có quyền kháng cáo), còn VKS chỉ kháng
nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm nếu phát hiện thấy bản án, quyết định đó có sai
lầm trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật. Nghĩa là sau khi vụ án
được xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định vấn đề cần giải quyết bằng một
bản án hoặc quyết định sẽ làm phát sinh quyền kháng cáo của bị cáo hoặc những
người tham gia tố tụng khác và quyền kháng nghị của VKS yêu cầu xem xét lại một
phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa phúc thẩm.
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên
trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ
thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị...”.
Khái niệm này thể hiện đầy đủ bản chất của xét xử phúc thẩm với ý nghĩa là cấp xét
xử thứ hai; căn cứ làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị
của cơ quan có thẩm quyền (VKS); đối tượng xét xử phúc thẩm là bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Phạm vi xét xử phúc thẩm được xác định: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét
phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần
thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo,
kháng nghị” [110], như vậy, phạm vi xét xử phúc thẩm có mối quan hệ chặt chẽ với
GHXX sơ thẩm vụ án. Ở cấp xét xử sơ thẩm, Tòa án bị giới hạn bởi nội dung quyết
định truy tố của VKS về bị cáo và hành vi, không được vượt quá khuôn khổ luật
định; khác với GHXX sơ thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm không phải bao giờ cũng
đầy đủ, toàn diện những vấn đề được xác định trong GHXX sơ thẩm, mà có thể bằng
hoặc hẹp hơn. Phạm vi xét xử phúc thẩm được xác định trên cơ sở kháng cáo hoặc
kháng nghị và trong một số trường hợp do luật định, cụ thể: trong phạm vi “cứng”
là xét xử lại những vấn đề mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chưa có hiệu pháp
luật nhưng có kháng cáo, kháng nghị và phạm vi “mềm” những vấn đề khác mà Tòa
án cấp sơ thẩm đã quyết định chưa có hiệu pháp luật không có kháng cáo, kháng
nghị mà Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy cần thiết nên xem xét. Về phạm vi xét xử
67
phúc thẩm có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập, tuy nhiên
nhiều quan điểm thống nhất rằng: thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm phát sinh
bởi kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại vụ án hoặc xét
lại quyết định sơ thẩm trong GHXX sơ thẩm. Điều này có nghĩa Tòa án cấp phúc
thẩm không thể xét xử những nội dung không thuộc GHXX của Tòa án cấp sơ thẩm
đã quyết định bằng bản án, quyết định. Cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử là
phần nội dung kháng cáo hoặc kháng nghị của VKS có thẩm quyền đối với bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Việc Tòa án cấp phúc thẩm thấy cần
thiết xem xét cả phần nội dung không bị kháng cáo, kháng nghị là trường hợp ngoại
lệ theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc phần đó có liên quan chặt chẽ đến phần khác
hoặc toàn bộ bản án mà nếu không xem xét sẽ dẫn đến việc ra một bản án phiến diện,
không công bằng - điều này thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta trong tư pháp
hình sự.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định
sơ thẩm trong GHXX sơ thẩm là phù hợp với nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp
xét xử. Theo đó kháng cáo, kháng nghị nhằm chống lại phán quyết của Tòa án cấp
sơ thẩm chứ không phải đưa ra yêu cầu mới; Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án
chứ không phải xét xử vụ án mới; Tòa án cấp phúc thẩm xét lại quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật chứ không phải ra quyết định lần đầu. Việc Tòa án cấp
phúc thẩm vượt qua GHXX sơ thẩm đồng nghĩa với việc vi phạm nguyên tắc hai cấp
xét xử. Giới hạn của quyền kháng cáo, kháng nghị chịu sự cho phối của nguyên tắc
chỉ được kháng cáo, kháng nghị trong GHXX sơ thẩm. Chủ thể kháng cáo, kháng
nghị không được đưa ra yêu cầu mới vượt quá GHXX sơ thẩm. Nếu Tòa án cấp phúc
thẩm chấp nhận yêu cầu mới thì vô hình trung sẽ làm mất một cấp xét xử và cấp xét
xử bị tước mất chính là cấp sơ thẩm, bởi lẽ bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc
thẩm về yêu cầu mới là bản án, quyết định chung thẩm [47]. Từ phân tích nêu trên
cho thấy, phạm vi xét xử phúc thẩm có mối liên hệ chặt chẽ với GHXX sơ thẩm, do đó
nội dung của xét xử phúc thẩm là một trong những căn cứ để xây dựng chế định giới
hạn của việc xét xử trong BLTTHS cho phù hợp, bảo đảm đồng bộ và thống nhất.
68
2.4. Kinh nghiệm lập pháp về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình
sự của một số nước trên thế giới
2.4.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm của một số mô hình tố tụng trong lịch sử phát
triển tố tụng hình sự thế giới
Trong lịch sử phát triển pháp luật TTHS của các quốc gia trên thế giới, quy định
GHXX đã có sự vận động thay đổi tùy thuộc vào mô hình TTHS mà quốc gia đó lựa
chọn. Về tổng thể, quy định GHXX đã trải qua các mô hình lịch sử sau đây:
- Mô hình quy định GHXX sơ thẩm “đóng tuyệt đối” là mô hình quy định không
thừa nhận khả năng thay đổi nội dung truy tố khi đã bắt đầu phiên tòa xét xử sơ thẩm
với bất kỳ điều kiện nào trừ trường hợp rút toàn bộ nội dung truy tố. Sự xuất hiện bất
kỳ tình tiết nào khác với nội dung truy tố tại phiên tòa đều là căn cứ tuyên bị cáo vô
tội. Người buộc tội chịu trách nhiệm cá nhân về nội dung truy tố. Trường hợp người
buộc tội rút toàn bộ nội dung truy tố sẽ phát sinh nhiều hậu quả bất lợi cho người đó.
Trước hết người đó sẽ bị phạt; thứ hai là bị cáo có quyền yêu cầu Tòa án tiếp tục xét
xử và nếu Tòa án tuyên bản án vô tội thì người buộc tội có thể bị khởi tố về tội vu
khống. Mô hình quy định này tồn tại trong TTHS các nhà nước cổ đại (La mã, Đức)
và trong TTHS Anglo- Norman. Mô hình quy định GHXX này đặc trưng cho TTHS
kiểu tư – tranh tụng (một số tài liệu gọi là TTHS tiền buộc tội) [161]. Nội dung buộc
tội phải được thể hiện trong hình thức tố tụng theo luật định và không thể thay đổi
khi Tòa án bắt đầu xét xử kể cả khi có căn cứ. Tòa án có nghĩa vụ đưa ra phán quyết
về nội dung buộc tội.
- Mô hình quy định GHXX sơ thẩm “mở tuyệt đối” là mô hình quy định mà
trong đó Tòa án có thể thay đổi bất kỳ nội dung truy tố nào kể cả thay đổi theo hướng
làm xấu tình trạng bị cáo cũng như xét xử cả tội mới, rút toàn bộ nội dung truy tố
hoặc đình chỉ vụ án. Mô hình quy định này được TTHS châu Âu lục địa ( Pháp, Đức..)
tiếp nhận từ thế kỷ XIII và pháp luật TTHS châu Âu lục địa ngày nay vẫn ghi nhận
khả năng tự do thay đổi nội dung truy tố theo cả hướng làm xấu tình trạng bị cáo tại
phiên tòa sơ thẩm. Mô hình quy định GHXX này đại diện cho kiểu TTHS xét hỏi theo
đó quan tòa thâu tóm vào mình các chức năng cơ bản của TTHS: vừa là người buộc
tội, vừa là người xét xử. Khi có buộc tội thì Tòa án mới xét xử tuy nhiên tại phiên
69
tòa, quan tòa có thể lấy lời khai của bất kỳ ai về bất kỳ tình tiết nào của vụ án và có
thể tuyên bản án đối với bị cáo cũng như đối với những người khác về bất kỳ hành vi
nào mà Tòa án coi là tội phạm, không nhất thiết phải theo nội dung buộc tội ban đầu.
“Vì vậy những vụ án hình sự bắt đầu với những nội dung buộc tội đơn giản có thể kết
thúc xét xử trong vòng một hoặc hai tuần giờ đây có thể kéo dài hàng tháng, hàng
năm và làm cho người ta nghĩ rằng thẩm phán là những người có thể làm bất kỳ điều
gì đối với bị cáo. Hệ quả là hoạt động TTHS mà bản thân nó đã tiềm ẩn những rủi ro
cho các quyền, tự do của con người giờ đây thực sự trở thành công cụ hành hạ gây
nhiều khổ đau cho bị cáo”[168]. Mô hình quy định GHXX “mở tuyệt đối” xuất phát
từ nguyên nhân pháp luật TTHS không phân định rạch ròi giữa các chức năng cơ bản
của TTHS, thêm vào đó quyền bào chữa của bị cáo hoàn toàn không được thừa nhận,
điều này càng làm cho GHXX được mở tự do hơn mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ
điều kiện nào.
- Mô hình quy định GHXX sơ thẩm “mở có điều kiện” khi mà tại phiên tòa sơ
thẩm thay đổi nội dung truy tố ban đầu có thể được chấp nhận nhưng chỉ trong những
trường hợp do luật định và phải tuân thủ triệt để điều kiện bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo tại phiên tòa. Thí dụ như bị cáo cần được biết thay đổi mới về nội dung
buộc tội là gì và phải có đủ thời gian hợp lý để chuẩn bị bào chữa. Hơn nữa thay đổi
nội dung buộc tội không thể tùy tiện mà chỉ có thể thay đổi về đánh giá pháp lý (tội
danh - question of law) đối với hành vi bị truy tố của bị cáo, còn các tình tiết thực tế
của hành vi (question of facts) không được thay đổi [170]. Mô hình quy định GHXX
này đặc trưng cho các kiểu TTHS công - tranh tụng và dựa trên sự thừa nhận về quan
hệ bình đẳng hợp lý giữa lợi ích Nhà nước, lợi ích của người bị hại và quyền bào chữa
của bị can, thừa nhận tính tranh tụng của hoạt động tố tụng.
Trong Công ước Châu Âu về bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người
không trực tiếp ghi nhận thuật ngữ GHXX, tuy nhiên có thể diễn giải về quy định này
từ Điều 6 Công ước và thực tiễn xét xử của Tòa án Châu Âu về quyền con người. Tòa
án Châu Âu thừa nhận khả năng thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm
trong pháp luật quốc gia của các nước thành viên và sự thay đổi này, thậm chí theo
70
hướng bất lợi cho bị cáo, cũng không bị xem là vi phạm quyền của bị cáo nếu tuân
thủ đồng thời các điều kiện sau đây:
- Giữa nội dung buộc tội cũ và nội dung buộc tội mới không có sự khác biệt lớn
(tiêu chí không thay đổi lớn về nội dung buộc tội);
- Bị cáo phải có thể thấy trước khả năng thay đổi nội dung buộc tội (tiêu chí
không thay đổi nội dung buộc tội bất ngờ);
- Bị cáo phải có đủ khả năng phản ứng kịp thời và hiệu quả trước sự thay đổi về
nội dung buộc tội (tiêu chí khả năng phản ứng hiệu quả của bị cáo) [169].
Mỗi quy định GHXX sơ thẩm dựa vào từng kiểu mô hình TTHS gắn liền với
mục đích tố tụng, mà các nước xác định nội dung GHXX sơ thẩm khác nhau. Quan
điểm về nội dung GHXX sơ thẩm thể hiện trong Công ước Châu Âu về bảo vệ các
quyền và tự do cơ bản của con người và nội dung quy định GHXX sơ thẩm “mở có
điều kiện” là những kinh nghiệm rất đáng để chúng ta lưu ý trong việc hoàn thiện
pháp luật TTHS có liên quan.
2.4.2. Pháp luật tố tụng hình sự của một số nước về giới hạn xét xử sơ thẩm
2.4.2.1. Quy định giới hạn xét xử của các quốc gia theo hệ thống pháp luật khác
nhau trên thế giới
Điểm chung trong pháp luật TTHS của các quốc gia về GHXX là đều thừa nhận
sự ràng buộc giữa nội dung buộc tội của Viện công tố với hoạt động xét xử của Tòa
án, đồng thời thừa nhận khả năng thay đổi nội dung buộc tội ban đầu tại phiên tòa sơ
thẩm nhưng có một số khác biệt nhất định:
Tố tụng hình sự của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa đề
cao nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án đã thừa nhận khả năng rộng rãi
của Tòa án thay đổi nội dung truy tố kể cả theo hướng làm xấu tình trạng của bị cáo
kèm theo một số điều kiện bảo đảm quyền bào chữa của chủ thể này. Thí dụ như bị
cáo phải được cảnh báo trước và được bảo đảm thời gian chuẩn bị bào chữa chống
lại nội dung buộc tội mới. Vi phạm các quy định này là căn cứ hủy bỏ bản án. Theo
trường phái lý luận TTHS của Pháp thì đánh giá pháp lý cuối cùng về hành vi của bị
cáo (hay còn gọi là định tội danh) là đặc quyền của quyền lực xét xử chứ không phải
của cơ quan truy cứu trách nhiệm hình sự, do vậy không có bất kỳ cơ sở lý luận nào
71
hạn chế thay đổi tội danh theo hướng có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo. Trong TTHS của
Cộng hòa Liên bang Đức, Tòa án không bị ràng buộc bởi tội danh trong quyết định
đưa bị cáo ra Tòa án xét xử. Theo Điều 246 BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức, bị
cáo có thể bị xét xử theo điều khoản của BLHS khác với điều khoản trong quyết định
này với điều kiện nếu trước đó bị cáo đã được thông báo về thay đổi tội danh và đã
được tạo điều kiện cho việc bào chữa. Chính những đặc trưng của mô hình TTHS
thẩm vấn của các quốc gia này như thiên về bảo vệ lợi ích công thông qua vai trò tích
cực, chủ động của Tòa án, nghĩa vụ của Tòa án xác định mọi tình tiết có ý nghĩa cho
việc giải quyết vụ án đã ảnh hưởng lớn đến việc hình thành trường phái thay đổi nội
dung truy tố tại phiên tòa, theo đó chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất có quyền thay
đổi, còn Công tố viên chỉ có quyền thể hiện ý kiến về sự cần thiết thay đổi nội dung
truy tố hoặc đề nghị Tòa án tuyên bản án vô tội mà thôi. Sau khi phiên tòa đã chính
thức bắt đầu thì Công tố viên không thể rút toàn bộ nội dung truy tố. Công tố viên
không có thẩm quyền quyết định đối với nội dung truy tố của mình [96].
Pháp luật TTHS Anh - Mỹ hình thành trường phái riêng về thay đổi nội dung
truy tố tại phiên tòa, theo đó không chấp nhận bất kỳ thay đổi nội dung truy tố nào
theo hướng bất lợi cho bị cáo (ne reformatio in pejus), đồng thời đưa ra những biện
pháp nhằm bảo đảm ở mức độ nhất định lợi ích của công lý. Học thuyết này nhấn
mạnh vai trò khách quan của Tòa án thông qua quy định cấm Tòa án vượt quá phạm
vi tranh chấp pháp lý ban đầu giữa bên buộc tội và bên bị cáo. Trong TTHS Anh
quốc, nhiệm vụ quan trọng nhất (quan trọng hơn cả nhiệm vụ xác định sự thật vụ án)
là giải quyết xung đột pháp lý nảy sinh trên cơ sở sự kiện tội phạm đã xảy ra và yêu
cầu bảo đảm xét xử khách quan có sự tham gia của hai bên tranh tụng bình đẳng với
nhau về các quyền tố tụng nhưng bên buộc tội có nghĩa vụ chứng minh tội của bị cáo
theo nguyên tắc suy đoán vô tội (innocent until proven guilty) và phải chứng minh
một cách thuyết phục (beyond all reasonable doubt). Công tố viên có quyền rút một
phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố với bất kỳ căn cứ nào, tại bất kỳ thời điểm nào kể
từ khi quyết định truy tố cho đến trước khi tuyên án dẫn đến hậu quả là Tòa án ra
quyết định đình chỉ một phần hoặc toàn bộ vụ án. Công tố viên có thể thay đổi nội
dung cũng như mức độ truy tố theo hướng có lợi cho bị cáo mà không bị hạn chế gì.
72
Tòa án chỉ có vai trò tích cực trong điều hành phiên tòa. Tại phiên tòa bên buộc tội
và bên bào chữa có quyền thỏa thuận về nhận tội (plea bargain) và sự thỏa thuận này
chính là nội dung truy tố mới theo hướng có lợi cho bị cáo. Thỏa thuận nhận tội của
bị cáo được xem là hình thức thay đổi nội dung truy tố rất phổ biến trong thực tiễn
xét xử của Hoa Kỳ hiện nay làm chấm dứt tranh chấp pháp lý giữa hai bên tranh tụng.
Lúc này, Tòa án không tiếp tục xét xử nữa và chỉ có nghĩa vụ ghi nhận bằng bản án
sự thừa nhận của bên bào chữa về nội dung truy tố đã thay đổi [96].
2.4.2.2. Quy định giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự liên bang Nga
Trong khoa học TTHS Xô Viết những năm 70 của thế kỷ trước vấn đề thay đổi
nội dung buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm của chế định GHXX cũng là đề tài tranh luận
kéo dài nhiều năm. Có quan điểm cho rằng Tòa án sơ thẩm cần có thẩm quyền rộng
rãi thay đổi nội dung buộc tội của VKS kể cả quyền đưa ra buộc tội mới tại phiên tòa
nếu có căn cứ. “Nếu Tòa án xác định được những tình tiết mới của vụ án thì không
có lý do gì để không cho Tòa án ra phán quyết phù hợp với các tình tiết đó không phụ
thuộc vào việc phán quyết có thể thu hẹp hay mở rộng nội dung buộc tội ban đầu,
giảm nhẹ hay tăng thêm tội của bị cáo” [164]. Quan điểm này không nhận được sự
đồng tình của đa số trong giới khoa học pháp lý Xô Viết vì cho rằng khi Tòa án thay
đổi nội dung buộc tội nặng hơn dẫn đến sự hạn chế quyền bào chữa của bị cáo và Tòa
án đã thực hiện thẩm quyền không thuộc về CNXX [165].
Quy định GHXX trong BLTTHS năm 1960 của nước Nga Xô Viết (thời Liên
Xô cũ) tại Điều 254- 256 BLTTHS: Thừa nhận khả năng thay đổi nội dung buộc tội
ban đầu tại phiên tòa sơ thẩm nếu không làm xấu tình trạng bị cáo và vi phạm quyền
bào chữa của chủ thể này. Nếu thấy thay đổi nội dung buộc tội có thể vi phạm quyền
bào chữa của bị cáo thì Tòa án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung. Luật không cho
phép thay đổi nội dung buộc tội theo hướng nặng hơn. Nếu tại phiên tòa phát hiện
căn cứ về hành vi tội phạm mới của bị cáo thì Tòa án khởi tố và chuyển quyết định
khởi tố đến VKS. Nếu phát hiện tội phạm mới liên quan đến tội phạm đang xét xử thì
Tòa án chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho VKS. Trường hợp phát hiện người phạm tội
mới cũng được quy định như vậy [16].
73
BLTTHS năm 2001 của Liên bang Nga ngày nay vẫn tiếp thu nội dung cơ bản
của quy định GHXX thời Liên Xô nhưng đã có nhiều thay đổi về thẩm quyền của Tòa
án tại phiên tòa, bởi lẽ Bộ luật này đã thừa nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của
hoạt động TTHS theo đó các chức năng cơ bản phải do các chủ thể tham gia tố tụng
khác nhau thực hiện một cách tách bạch và Tòa án được xem là cơ quan xét xử, không
phải là cơ quan truy cứu trách nhiệm hình sự. “Khởi tố vụ án là biểu hiện của truy
cứu trách nhiệm hình sự không thuộc CNXX vì thế không thể trao cho Tòa án quyền
này vì nó trái với các nguyên tắc độc lập, khách quan và không thiên vị khi xét xử
của Tòa án” [166]. Điều 252 BLTTHS thể hiện: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo về
những nội dung (hành vi và tội danh) mà VKS truy tố. Luật cho phép cả VKS cũng
như Tòa án dựa trên kết quả xét hỏi tại phiên toà được thay đổi nội dung buộc tội với
hai điều kiện là không được làm xấu tình trạng bị cáo (điều kiện về luật nội dung) và
không được vi phạm quyền bào chữa của bị cáo (điều kiện về luật tố tụng. Luật hoàn toàn
loại trừ khả năng thay đổi nội dung buộc tội theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo tại phiên
tòa [16]. Quy định GHXX trong BLTTHS Liên bang Nga hiện nay được xem là kết quả
của sự phát triển lý luận TTHS trên cơ sở tranh luận, nghiên cứu khoa học hàng chục năm,
ngày càng tiến gần đến các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền con người.
Qua nội dung nêu trên, có thể thấy rằng: Lịch sử phát triển pháp luật TTHS về
GHXX trên thế giới đã vận động theo hướng ngày càng khẳng định sự ràng buộc chặt chẽ
giữa nội dung truy tố của VKS (hay Viện công tố) và hoạt động xét xử của Tòa án. Nội
dung truy tố là phạm vi, là đối tượng của hoạt động xét xử. Thay đổi nội dung truy tố tại
phiên tòa sơ thẩm luôn là nội dung quan trọng của quy định GHXX sơ thẩm tồn tại trong
TTHS của các nước. Tại phiên toà sơ thẩm, thay đổi nội dung truy tố ban đầu được xem
xét giải quyết trên cơ sở một trong hai hoặc đồng thời cả hai điều kiện, đó là: không làm
xấu tình trạng bị cáo và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Theo NCS, kinh nghiệm lập
pháp TTHS Anh - Mỹ và Liên bang Nga trong việc giải quyết khả năng thay đổi nội dung
truy tố tại phiên toà theo hướng không làm xấu tình trạng bị cáo và bảo đảm quyền bào
chữa của chủ thể này là sự lựa chọn tốt nhất cho việc hoàn thiện quy định GHXX sơ thẩm
của pháp luật TTHS nước ta vì nó phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
74
Tiểu kết chương 2
Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm là một nội dung quan trọng, phức tạp về mặt
lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn trong tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu lý luận
một cách hệ thống về chế định này là cơ sở, nền tảng giúp chúng ta nhìn nhận đúng
đắn, toàn diện về quy định giới hạn xét xử cũng như ý nghĩa của chế định đối với đời
sống chính trị - xã hội ở nước ta. Từ đó, xác định đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo vệ
quyền con người, thực hiện nền tư pháp dân chủ, góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Qua nghiên cứu các quan điểm lý luận về giới hạn xét xử, luận án đã đưa ra khái
niệm khoa học về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Luận án đã phân tích
ý nghĩa, nội dung, đặc điểm của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm, đồng thời đã nêu
và phân tích các cơ sở hình thành chế định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình
sự nói chung; phân tích mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với một số nội dung
khác trong tố tụng hình sự; tìm hiểu các mô hình về giới hạn xét xử trong tố tụng hình
sự của một số nước trên thế giới - đây là cơ sở lý luận rất quan trọng giúp chúng ta
có thể luận giải thấu đáo về các vấn đề liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm. Trên
cơ sở đó, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu thực trạng pháp luật tố tụng hình sự về giới
hạn xét xử sơ thẩm một cách có hệ thống, làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm
hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong chương này, nghiên cứu sinh đã tiếp cận vấn đề nghiên cứu trong tổng
thể các mối quan hệ biện chứng, để tìm ra tính quy luật khách quan của vấn đề nghiên
cứu. Nghiên cứu sinh cho đây là nội dung rất quan trọng, có giá trị lớn về mặt nhận
thức, lý luận tạo cơ sở, tiền đề để nghiên cứu sinh tìm hiểu, luận giải các chương tiếp
theo của luận án.
75
Chương 3
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
3.1. Thực trạng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam
3.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam về giới hạn xét xử sơ thẩm trước khi ban
hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Chế định GHXX là chế định có nhiều thay đổi trong lịch sử phát triển của pháp
luật TTHS nước ta. Trước khi ban hành BLTTHS năm 1988, vấn đề GHXX sơ thẩm
đã được ghi nhận đầu tiên ở “Đề án về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự” của
TANDTC được xây dựng năm 1964. Đề án này quy định nội dung GHXX sơ thẩm,
như sau: “Tòa án nhân dân không có quyền xét xử đối với tội danh nặng hơn tội danh
mà Viện kiểm sát đã truy tố”.
Trước khi có BLTTHS thì Thông tư 16-TATC ngày 27/9/1974 là văn bản pháp
lý đầu tiên quy định về GHXX - đó là “Đề án về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự”
của TANDTC. Đề án này quy định nội dung GHXX sơ thẩm, như sau: “Tòa án nhân
dân không có quyền xét xử đối với tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã
truy tố”. Sau 10 năm thực hiện Đề án, tổng kết thực tiễn áp dụng phát sinh vướng
mắc: TAND không có quyền xét xử với tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố,
qua trao đổi ý kiến với VKS mà VKS không nhất trí về việc đổi tội danh nặng hơn,
thì TAND phải xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, mặc dù việc định tội danh là
không đúng. Tình trạng đó không bảo đảm được nguyên tắc xét xử đúng tội của bị
cáo và hạn chế tác dụng của Tòa án trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Trước yêu cầu đó, TANDTC đã ban hành Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974
hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm hình sự. Theo đó, Tòa án chỉ được xét xử bị
cáo mà VKS truy tố và Tòa án không bị ràng buộc bởi tội danh mà VKS truy tố, khi
thấy có căn cứ Tòa án có thể xét xử bị cáo theo tội danh khác (kể cả nặng hơn hoặc
nhẹ hơn) với điều kiện tuân thủ hai thủ tục: phải đề nghị VKS thay đổi tội danh truy
tố trước khi mở phiên tòa và phải bảo đảm cho bị cáo có điều kiện thực tế thực hiện
76
quyền bào chữa của mình bằng việc thông báo về khả năng thay đổi tội danh trong
quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
BLTTHS đầu tiên đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa
VIII kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 28 tháng 6 năm 1988, có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 01 năm 1989. Nội dung GHXX sơ thẩm chính thức được cụ thể hóa tại Điều
170 BLTTHS năm 1988: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội
danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”. Mô hình GHXX ở đây
được xem là “mô hình đóng tuyệt đối” có nghĩa là luật không chấp nhận khả năng
thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm dù có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo. Với
quy định này, việc xét xử của Tòa án bị giới hạn bởi:
Thứ nhất, Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
VKS truy tố bằng một bản cáo trạng.
Truy tố bằng bản cáo trạng là một trong những quyết định của VKS sau khi cơ
quan điều tra có bản kết luận điều tra vụ án chuyển sang VKS đề nghị truy tố đối với
người phạm tội và những hành vi do họ thực hiện ra trước Tòa án cấp có thẩm quyền
để xét xử. Đây là văn bản tố tụng pháp lý để Tòa án làm căn cứ quyết định đưa vụ án
ra xét xử. Vì thế, Tòa án chỉ được xét xử những hành vi của bị cáo đã bị VKS truy tố
(bao gồm số lượng và tính chất của hành vi) không phải là hành vi chung chung mà
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS và những hành vi đó
được quy định thành những tội danh cụ thể của BLHS. Tòa án không được xét xử
thêm bất kỳ người nào khác hay bất kỳ hành vi nào khác nếu như những người và
những hành vi đó chưa bị VKS truy tố trong bản cáo trạng. GHXX của Tòa án chính
là phạm vi những người và những hành vi đã bị VKS truy tố trong bản cáo trạng. Cho
nên về nguyên tắc, trong trường hợp có đồng phạm khác mà chưa bị VKS truy tố thì
Tòa án cũng không có quyền xét xử. Tuy nhiên, để không “bỏ lọt tội phạm”, pháp
luật cho phép Tòa án nếu phát hiện người phạm tội mới cần điều tra thì HĐXX ra
quyết định khởi tố VAHS hoặc yêu cầu VKS khởi tố VAHS theo quy định của Điều
87 BLTTHS năm 1988 - đây được xem là một trong các quy định bảo đảm được
nguyên tắc không làm xấu đi tình trạng của bị cáo và bảo đảm được quyền bào chữa
77
của bị cáo. Nhưng trái lại, Tòa án mà cụ thể là HĐXX đã thực hiện một phần chức
năng buộc tội thay cho VKS là không đúng với chức năng, quyền hạn của Tòa án
trong hoạt động TTHS mà Hiến pháp đã ghi nhận. Quy định này cho thấy sự phân
định chức năng, nhiệm vụ giữa VKS và Tòa án trong TTHS chưa có sự rạch ròi, dễ
làm phát sinh nhiều vi phạm pháp luật khác nhau trong quá trình giải quyết VAHS.
Có thể nói bản cáo trạng là văn bản tố tụng thể hiện quan điểm chính thức của VKS
về tội danh của bị can, nhưng đó không phải là quan điểm bất biến bởi nhận thức là
cả một quá trình lâu dài. Sau khi ra quyết định truy tố, nếu thấy có một trong những
căn cứ không được khởi tố VAHS hoặc khi có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự
cho bị cáo thì VKS có quyền rút quyết định truy tố trước khi Tòa án mở phiên tòa, đề
nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án và nhiều trường hợp khác có sự thay đổi cơ
bản về tội danh nhưng Tòa án không có quyền quyết định.
Thứ hai, Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và hành vi theo tội danh mà VKS đã
truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc xét xử của Tòa án phát sinh
trên cơ sở quyết định truy tố của VKS (bản cáo trạng) và quyết định đưa vụ án ra xét
xử của Tòa án.
Sau khi Tòa án tiếp nhận hồ sơ vụ án do VKS chuyển sang truy tố bằng một bản
cáo trạng, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công làm
chủ tọa phiên tòa qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án
một cách khách quan, toàn diện, Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa quyết định đưa vụ án ra xét xử, không
có nghĩa là Thẩm phán đồng nhất quan điểm với VKS về tội danh, điều khoản của
BLHS mà VKS đã truy tố viện dẫn trong nội dung bản cáo trạng. Bởi lẽ, quyết định
đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa là một văn bản
tố tụng thể hiện quan điểm của mình đối với vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án và có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật có liên quan, để đưa ra xét xử đối với
những bị cáo và những hành vi đã bị VKS truy tố. Mục đích của quyết định đưa vụ
án ra xét xử là tạo điều kiện để cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có
đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật TTHS, sau khi họ nhận
được quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án. Như vậy, quyết định đưa vụ án ra
78
xét xử của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa chính là cơ sở để Tòa án mở
phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS đối với những bị cáo và những hành vi của bị cáo đã
bị VKS truy tố và chỉ những bị cáo nào, những hành vi nào đã bị VKS truy tố được
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa quyết định đưa ra xét xử thì HĐXX
mới được phép xét xử tại phiên tòa.
Qua đó cho thấy, nội dung GHXX sơ thẩm theo BLTTHS năm 1988 xác định
quyền xét xử của Tòa án được giới hạn theo nội dung quyết định truy tố của VKS
(bản cáo trạng) về bị cáo và hành vi theo tội danh. Điều này có nghĩa là “có truy tố
mới có xét xử” nhưng không phải xét xử “vô hạn” mà có phạm vi và đối tượng cụ
thể. Trước khi BLTTHS năm 1988 có hiệu lực, quan hệ tố tụng giữa VKS và Tòa án
khi giải quyết VAHS không được điều chỉnh bằng văn bản có giá trị pháp lý cao (bộ
luật, luật). Những bất đồng quan điểm giữa VKS và Tòa án chỉ được thực hiện theo
hướng dẫn của Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC hướng dẫn về
trình tự TTHS sơ thẩm, theo đó những bất đồng này được giải quyết thông qua cuộc
họp trù bị giữa VKS và Tòa án. Khi BLTTHS năm 1988 được ban hành, cuộc họp trù
bị với VKS trước khi mở phiên tòa do bất đồng quan điểm không còn là một thủ tục
bắt buộc. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS năm 1988 về GHXX cũng chưa dự liệu
đầy đủ các trường hợp phát sinh trong thực tiễn xét xử, như: Trong trường hợp bị cáo
phạm tội khác với tội danh VKS truy tố (có thể tội nhẹ hơn, bằng hay nặng hơn);
trường hợp bị cáo phạm vào khoản khác trong cùng một điều luật mà VKS truy tố,…
thì Tòa án xử lý như thế nào? Để giải quyết các tình huống phát sinh trong thực tiễn
xét xử, ngày 08 tháng 12 năm 1988 TANDTC và VKSNDTC đã ban hành Thông tư
liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLN hướng dẫn thi hành một số quy định
trong BLTTHS, Thông tư đã thể hiện nội dung: “... không xét xử những người và
những hành vi chưa được VKS truy tố và không xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn
tội danh mà VKS truy tố. Trước khi mở phiên tòa, nếu Tòa án thấy cần phải truy tố
thêm người, thêm tội hoặc cần xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn thì Tòa án
trả hồ sơ để VKS điều tra bổ sung và thay đổi cáo trạng. Trường hợp qua xét xử tại
phiên tòa mới phát hiện được tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì Tòa án ra
quyết định khởi tố vụ án và chuyển hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung. Trong trường
79
hợp Tòa án đề nghị VKS đổi tội danh nặng hơn mà VKS không nhất trí, thì hai bên
đều phải báo cáo với cấp trên của mình. Thủ trưởng hai cơ quan cấp trên cần trao
đổi ngay, nếu thống nhất ý kiến thì hướng dẫn cấp dưới thi hành, nếu vẫn không
thống nhất ý kiến thì Tòa án cấp dưới phải xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố,
không được tuyên là bị cáo không phạm tội mà VKS đã truy tố. Nếu xét thấy cần xét
xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS đã truy tố, hoặc áp
dụng khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà VKS đã đề nghị, thì Tòa án không
phải báo trước cho VKS và những người tham gia tố tụng” [128].
Thông tư liên ngành số 01 ngày 8/12/1988 - Thông tư đầu tiên hướng dẫn áp
dụng BLTTHS năm 1988 nhất quán nguyên tắc Tòa án không được đưa ra xét xử
cũng như không được xét xử tại phiên tòa người mới hoặc tội mới trong bất kỳ tình
huống nào tức là không được vượt quá giới hạn về người và hành vi mà VKS truy tố.
Tuy nhiên, Thông tư đã mở ra khả năng Tòa án có thể xét xử bị cáo theo tội danh
nặng hơn so với tội danh VKS truy tố nếu tại phiên tòa đề nghị thay đổi tội danh nặng
hơn của Tòa án được VKS nhất trí hoặc sau khi đề nghị nhưng không đạt được sự
nhất trí cả hai cùng báo cáo lên cấp trên và được cấp trên thống nhất (về thay đổi tội
danh nặng hơn). Ở góc độ này nội dung của Thông tư trái với tinh thần cốt lõi của
Điều 170 BLTTHS năm 1988 vì hướng dẫn có thể thay đổi nội dung buộc tội ban đầu
theo hướng nặng hơn, phủ nhận quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa.
Tổng kết công tác của TANDTC trong nhiều năm tiếp theo đã khẳng định "Điều
170 BLTTHS không cho phép Tòa án xét xử theo tội danh nặng hơn, mặc dù qua thẩm
vấn công khai tại phiên tòa thấy rõ tội danh mà VKS truy tố là không chính xác là
không đúng, trái với nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội nhưng trong khi Điều
170 chưa sửa thì Tòa án không thể xét xử theo tội danh nặng hơn. Tòa án vẫn phải
xử theo tội danh mà VKS truy tố nhưng sau đó kiến nghị Tòa án cấp trên xem xét".
Đồng thời, TANDTC cho rằng Điều 170 BLTTHS không hạn chế Tòa án áp dụng
khung hình phạt nặng hơn so với khung mà VKS truy tố. Trong thực tiễn xét xử, Tòa
án còn có thể áp dụng thêm tình tiết tăng nặng so với cáo trạng mặc dù không thay
đổi điều luật và khung hình phạt. Hướng dẫn này thực chất cho phép Tòa án làm xấu
tình trạng bị cáo, không bảo đảm quyền bào chữa của chủ thể này.
80
Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Điều 196 BLTTHS năm 2003 quy định:
“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm
sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy
tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm
truy tố”.
Điều 196 BLTTHS năm 2003 giữ nguyên quy định tại Điều 170 BLTTHS năm
1988 và đã bổ sung thêm đoạn 2 vào điều luật. Xét về góc độ lập pháp thì quy định
tại đoạn 2 Điều 196 BLTTHS năm 2003 là quy định mới. Còn xét về nội dung thì quy
định này không phải là vấn đề mới, nội dung này thực chất chỉ là “pháp điển hóa”
nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày
08/12/1988 và các kết luận của TANDTC về GHXX sơ thẩm trước đây thành đoạn 2
của Điều 196 BLTTHS năm 2003. Mô hình quy định GHXX của BLTTHS năm 2003
là mô hình quy định “mở có điều kiện hạn chế” theo đó nguyên tắc không làm xấu
tình trạng bị cáo vẫn là nền tảng khi giải quyết xung đột giữa quyền lực buộc tội và
quyền lực xét xử, Tòa án không được vượt quá phạm vi người và hành vi mà VKS
truy tố. Tuy nhiên luật ghi nhận khả năng Tòa án có thể thay đổi nội dung buộc tội
theo hai hướng:
- Thay đổi theo hướng không làm xấu tình trạng bị cáo hoặc có lợi cho bị cáo
khi áp dụng điều luật về tội bằng hoặc tội nhẹ hơn so với tội mà VKS truy tố hoặc
khoản nhẹ hơn trong cùng điều luật mà VKS truy tố;
- Thay đổi theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo với điều kiện chỉ được áp dụng
khoản nặng hơn so với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật. [54] và Luật
không đề cập đến bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo như thế nào trong các tình
huống này.
Như vậy, Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 chỉ hướng dẫn
đoạn 2 Điều 196 BLTTHS năm 2003 mà không đề cập hướng dẫn việc thực hiện nội
dung đoạn 1 Điều 196 và trường hợp Tòa án cần xét xử theo tội danh nặng hơn tội
danh mà VKS truy tố thì phải xử lý như thế nào. Thực tế xét xử cho thấy, trong giai
81
đoạn này Tòa án các cấp vẫn còn nhận thức và thực hiện theo hướng dẫn của Thông
tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988 khi xét thấy cần xét
xử bị cáo tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố trong bản cáo trạng. Quy định giới
hạn của việc xét xử sơ thẩm trong BLTTHS năm 2003 gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Nội dung quy định này giữ nguyên
toàn bộ nội dung quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm tại Điều 170 BLTTHS
năm 1988. Quyền xét xử của Tòa án trên cơ sở quyết định truy tố của VKS về số
lượng bị cáo, tính chất hành vi theo tội danh cụ thể và Tòa án đã quyết định đưa vụ
án ra xét xử.
Thứ hai, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy
tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã
truy tố. Nội dung này gồm:
Một là, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố
trong cùng một điều luật, nghĩa là Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nhẹ hơn
hoặc nặng hơn khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật. Tòa án có quyền
quyết định độc lập việc xét xử hành vi phạm tội của bị cáo theo khung hình phạt nhẹ
khung hình phạt mà VKS viện dẫn trong bản cáo trạng. Nội dung này phù hợp với
nguyên tắc nhân đạo trong tư pháp của Nhà nước ta - theo hướng có lợi cho bị cáo,
Tòa án xét xử đúng “theo tội danh mà VKS truy tố”. Mặt khác, Tòa án cũng có thể
xét xử hành vi của bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt mà VKS
viện dẫn trong bản cáo trạng. Về vấn đề này, hiện vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Ý
kiến thứ nhất cho rằng: Tòa án được quyền xét xử hành vi của bị cáo theo khung hình
phạt nặng hơn khung hình phạt mà VKS truy tố là phù hợp, bảo đảm được nguyên
tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và nguyên
tắc “xác định sự thật vụ án”[68; 98]. Ý kiến khác lại cho rằng: quy định Tòa án được
quyền xét xử hành vi phạm tội của bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn khung hình
phạt mà VKS truy tố là “làm xấu đi tình trạng của bị cáo” và vi phạm nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa [95]. Mỗi quan điểm đều có yếu tố
hợp lý của chúng, nhưng NCS cho rằng: xuất phát từ các chức năng cơ bản của TTHS,
82
mỗi cơ quan THTT đều có chức năng, nhiệm vụ riêng mà Hiến pháp và BLTTHS
quy định nhưng đều có mục đích tố tụng chung, vì thế buộc họ phải phối hợp với
nhau vì mục đích chung đó. Quan trọng là Nhà nước ta ưu tiên cho mục đích nào
trong TTHS để thống nhất trong tư duy lập pháp về nội dung GHXX sơ thẩm, để bảo
đảm cho các cơ quan THTT luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ Hiến định và
bảo vệ quyền con người.
Hai là, Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà
VKS đã truy tố, có nghĩa là với những hành vi mà VKS truy tố, Tòa án có thể xét xử
bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố. Để xác định như
thế nào là “tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội VKS đã truy tố”, Nghị quyết số
04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 đã hướng dẫn cụ thể.
Qua phân tích, nội dung quy định về GHXX sơ thẩm tại Điều 196 BLTTHS
năm 2003 cho thấy: về cơ bản không có gì mới về mặt nhận thức pháp lý cũng như
thực tiễn áp dụng, vì thế những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng quy định
về GHXX sơ thẩm trong BLTTHS năm 1988 vẫn còn tồn tại trong BLTTHS năm
2003. Tuy nhiên, về kỹ thuật lập pháp thì tiến bộ hơn, quy định cụ thể phạm vi, quyền
xét xử của Tòa án đối với nội dung truy tố của VKS ngay trong BLTTHS (trước đây
chỉ được hướng dẫn trong Thông tư liên tịch). Trong tiến trình cải cách tư pháp, Đảng
và Nhà nước ta đã khẳng định vị trí, vai trò và hoạt động xét xử của Tòa án có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ công lý; bảo vệ quyền con người, quyền công
dân; đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo đảm công bằng xã hội; góp phần xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Do đó, việc tạo ra các cơ
chế bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng chức năng là điều hết sức cấp bách, trong đó
có cơ chế bảo đảm về mặt pháp luật, vì thế cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các
quy định pháp luật TTHS nói chung và quy định về GHXX sơ thẩm nói riêng.
3.1.2. Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) về cơ bản đã kế thừa Điều 196
của BLTTHS 2003 tại khoản 1 và khoản 2 Điều 298. Khoản 1 tiếp tục khẳng định sự
phụ thuộc của Tòa án đối với nội dung truy tố của VKS về bị can và về hành vi bị
truy tố (bao gồm tình tiết thực tế và tội danh của hành vi). Khoản 2 thừa nhận khả
83
năng thay đổi nội dung truy tố ban đầu tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 298 là quy định
mới với nội dung: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội
danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị
cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh
đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Nội dung này
đề cập đến tình huống khi các tình tiết của vụ án không thay đổi, chỉ có sự khác biệt
về đánh giá pháp lý (tội danh nặng hơn) của Tòa án so với tội danh mà VKS truy tố.
GHXX trong BLTTHS năm 2015 có thể xem là mô hình “mở tuyệt đối có điều kiện”:
Tòa án vẫn bị giới hạn không được xét xử người mới, tội mới tại phiên tòa so với truy
tố của VKS kể cả khi có căn cứ. Tòa án chỉ có quyền trả hồ sơ cho VKS để điều tra
bổ sung, hoặc khởi tố vụ án, trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung (Điều 280; Điều 326
BLTTHS năm 2015). Tuy nhiên, khi có sự đánh giá pháp lý về hành vi truy tố (định
tội danh) của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa và của HĐXX theo hướng
nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố thì Tòa án có quyền xét xử theo tội danh
nặng hơn đó. Điều kiện luật bắt buộc tuân thủ trong trường hợp này là Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa phải trả hồ sơ cho VKS để "truy tố lại" và thông
báo cho bên bào chữa biết về khả năng thay đổi tội danh theo hướng nặng hơn, nếu
VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử theo tội danh nặng hơn.
Quy định nội dung khoản 3 Điều 298 BLTTHS 2015 là luật đã hoàn toàn giải
phóng Tòa án khỏi sự ràng buộc về tội danh mà VKS truy tố khi thực hiện CNXX
của mình. Theo NCS, để nhìn nhận một cách toàn diện về nội dung GHXX sơ thẩm
trong TTHS phải xuất phát từ mối quan hệ của ba chức năng cơ bản trong TTHS:
buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng có tính độc lập riêng của mình, ba chức
năng này lại có quan hệ hài hòa với nhau. VKS là cơ quan được Nhà nước giao cho
chức năng công tố, thay mặt Nhà nước truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử - thực
hiện chức năng buộc tội. Chức năng của bên bào chữa là phản biện, bác bỏ buộc tội
của VKS, để giảm nhẹ tội, phủ nhận trách nhiệm hình sự của bên bị buộc tội - thực
hiện chức năng gỡ tội. Tòa án thực hiện CNXX - nội dung của chức năng là xem xét,
quyết định người bị buộc tội có tội hay không và xác định hình sự đối người có tội.
Chức năng này chỉ xuất hiện khi có buộc tội của VKS. Cho nên, nội dung quy định
84
giới hạn của việc XXST phải bảo đảm sự hài hòa cho việc thực hiện các chức năng
cơ bản trong TTHS, chứ không nên chỉ quan tâm, chú trọng đến các chức năng cơ
bản đại diện Nhà nước thực hiện. Tất cả mọi sự nhìn nhận phiến diện đó đều có thể
dẫn đến oan sai trong quá trình giải quyết VAHS. Qua nghiên cứu khoản 3 Điều 298
BLTTHS, NCS nhận thấy bộc lộ một số bất cập như sau:
Thứ nhất, xuất phát từ lý luận các chức năng cơ bản trong TTHS thì nội dung
quy định tại Điều 298 BLTTHS chưa phù hợp với chức năng, vai trò của các chủ thể
tham gia tố tụng trong VAHS. Bởi lẽ, VKS là cơ quan đại diện (thay mặt) Nhà nước
thực hành quyền công tố trong TTHS Việt Nam - thực hiện chức năng buộc tội. Chức
năng của VKS trong TTHS là phát hiện người phạm tội và chứng minh lỗi của người
đó bằng bản cáo trạng; minh chứng cho các chủ thể tham gia tố tụng khác trong
VAHS thấy rõ nội dung của bản cáo trạng là có cơ sở, có căn cứ bằng việc thể hiện
bản luận tội tại phiên tòa. Theo đó, người bị buộc tội dựa trên phạm vi bản cáo trạng
mà chuẩn bị nội dung bào chữa, chống lại lời buộc tội của bên buộc tội, chủ động lựa
chọn hình thức bào chữa để bảo vệ mình. Còn Tòa án thực hiện CNXX. Trách nhiệm
của Tòa án là kiểm tra, đánh giá một cách công khai các chứng cứ được thu thập trong
giai đoạn điều tra, truy tố để từ đó chấp nhận hay loại trừ các chứng cứ. Nếu chấp
nhận các chứng cứ do cơ quan điều tra, truy tố thu thập thì Hội đồng xét xử sẽ xử
dụng các chứng cứ đó để chứng minh các các vấn đề theo yêu cầu tại Điều 85
BLTTHS để từ đó đưa ra các phán quyết với đầy đủ các căn cứ thể hiện trong bản án
chỉ chịu trách nhiệm đối với các phán quyết đó. Sự phân định chức năng trong TTHS
đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết
VAHS, nếu “vượt qua” sự phân định đó thì việc quy định chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan có thẩm quyền THTT sẽ không còn ý nghĩa. Vì thế, quy định cho phép
Tòa án có quyền xét xử tội danh khác nặng hơn tội danh mà VKS truy tố thì Tòa án
đã vượt qua CNXX, vì có đã làm thay chức năng của VKS - buộc tội. Như vậy, thử
hỏi Tòa án có còn đóng vai trò là “trọng tài” công tâm, xét xử khách quan hay không?
Nội dung quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS đã vô hình chung phủ nhận quyết
định truy tố của VKS và bản án của Tòa án có các yếu tố của chức năng buộc tội.
Như vậy, việc quy định quyền bào chữa của bị cáo không có ý nghĩa thực tiễn, tức là
85
chức năng bào chữa trong TTHS không được thực hiện - điều này dẫn đến VAHS
giải quyết một cách phiến diện, không khách quan, chưa bảo đảm quyền con người
trong TTHS. Qua đó cho thấy, việc mở rộng quyền xét xử của Tòa án chưa giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS.
Thứ hai, nội dung quy định khoản 3 Điều 298 BLTTHS đã vi phạm nguyên tắc
suy đoán vô tội, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và làm
“vô hiệu hóa” quy định giới hạn của việc xét xử. Nội dung khoản 3 Điều 298
BLTTHS đề cập đến tình huống khi các tình tiết của vụ án không thay đổi, chỉ có sự
khác biệt về đánh giá pháp lý (tội danh nặng hơn) của Tòa án so với tội danh mà VKS
truy tố. GHXX trong BLTTHS năm 2015 có thể xem là mô hình “mở tuyệt đối có
điều kiện”: Tòa án vẫn bị giới hạn không được xét xử người mới, tội mới tại phiên
tòa so với truy tố của VKS kể cả khi có căn cứ. Tòa án chỉ có quyền trả hồ sơ cho
VKS để điều tra bổ sung, hoặc khởi tố vụ án, trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung
(Điều 280; Điều 326 BLTTHS năm 2015). Tuy nhiên, khi có sự đánh giá pháp lý về
hành vi truy tố (định tội danh) của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa và
của HĐXX theo hướng nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố thì Tòa án có quyền
xét xử theo tội danh nặng hơn đó. Điều kiện luật bắt buộc tuân thủ trong trường hợp
này là Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải trả hồ sơ cho VKS để "truy
tố lại" và thông báo cho bên bào chữa biết về khả năng thay đổi tội danh theo hướng
nặng hơn, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử theo tội
danh nặng hơn. Mặt khác, nội dung quy định tại khoản 3 Điều 298 không thể hiện cụ
thể: việc trả hồ sơ để VKS truy tố lại khi nào (thời điểm nào), vậy nếu việc trả hồ sơ
trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử (tức trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm) thì việc nhận định “bị cáo phạm tội theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS
truy tố”, chỉ là đánh giá chủ quan của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa
đối với hành vi phạm tội của bị cáo và vô hình trung đã phủ nhận nguyên tắc tranh
tụng trong tố tụng hình sự. Còn nếu việc trả hồ sơ tại phiên tòa, thì Tòa án (HĐXX)
đã “lấn sân” thực hiện chức năng của VKS, vừa buộc tội vừa xét xử vì HĐXX đã
định kiến cho rằng “bị cáo phạm tội nặng hơn” và đề nghị VKS truy tố lại. Như vậy,
việc xét xử có bảo đảm khách quan, có vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội đã được
86
ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS Việt Nam? Trong trường hợp VKS vẫn giữ
nguyên quan điểm truy tố, không đồng ý truy tố theo tội danh nặng hơn mà Tòa án
yêu cầu thì “Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”. Lúc này sẽ
xuất hiện “buộc tội mới” từ Tòa án, mà trong bản cáo trạng không truy tố bị cáo và
hành vi phạm tội “theo tội danh mà Tòa án đưa ra xét xử”. Như vậy, vấn đề đặt ra là
Tòa án căn cứ vào đâu thực hiện thẩm quyền này? trong khi đó, Tòa án chưa mở
phiên tòa, chưa kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện? Mặt khác, buộc tội
nào có giá trị pháp lý hay cả hai buộc tội (bản cáo trạng của VKS và quyết định đưa
ra xét xử theo tội danh nặng hơn của Tòa án) đều có giá trị pháp lý để bên bào chữa
có hướng bào chữa? Một luận điểm đã được thống nhất và ghi nhận trong pháp luật
TTHS thể hiện mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa VKS và Tòa án, đó là: sự kiện
pháp lý làm phát sinh việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là
quyết định truy tố của VKS (bằng bản cáo trạng). Bào chữa là quyền tố tụng quan
trọng của bị cáo và tương ứng với quyền tố tụng này là nghĩa vụ tố tụng của các cơ
quan THTT, trong đó có Tòa án phải tôn trọng, tạo mọi điều kiện để bị cáo thực hiện
quyền tố tụng của mình một cách tốt nhất, không được vi phạm. Quy định như vậy
sẽ làm hạn chế khả năng bào chữa của bị cáo, do bị cáo không thể lựa chọn phương
án bào chữa tốt nhất cho mình; đồng thời, quy định “giới hạn của việc xét xử” sơ
thẩm trong BLTTHS không còn ý nghĩa về ngôn từ và nội dung của nó, vì “đã vượt”
qua phạm vi, mức độ cho phép về quyền xét xử.
Từ phân tích trên, có thể thấy quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm
2015 là luật đã hoàn toàn “giải phóng” Tòa án khỏi sự ràng buộc về tội danh mà
VKS truy tố, khi thực hiện CNXX của mình. Thiết nghĩ, không phải ngẫu nhiên trong
lịch sử lập pháp từ BLTTHS năm 1988 đến BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2021) khi đề cập giới hạn của việc xét xử sơ thẩm đều ghi nhận: Tòa án xét xử
những bị cáo và hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố và Tòa án đã có quyết định
đưa ra xét xử. Bởi lẽ, đã truy tố thì phải có đối tượng cụ thể (truy tố ai? Hành vi phạm
tội gì? tội danh gì?) cho nên phải là những cá nhân, tội danh cụ thể, chứ không thể là
hành vi chung chung, con người chung chung. Đối với bên bào chữa, khi thực hiện
chức năng gỡ tội, họ cần phải biết những con người và tội danh cụ thể nào bị buộc tội
87
để có hướng bào chữa, cho nên không thể buộc tội mà không kèm theo tội danh cụ
thể. Với vai trò là “trọng tài”- xét xử khách quan, Tòa án có trách nhiệm đưa ra phán
quyết trên cơ sở những gì VKS truy tố và kết quả kiểm tra chứng cứ, xét hỏi, tranh tụng
tại phiên tòa giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Tòa án thực hiện CNXX trong phạm vi
những con người, tội danh cụ thể bị truy tố là hoàn toàn phù hợp, bảo đảm thực hiện hài
hòa nội dung các chức năng cơ bản trong TTHS.
Thứ ba, nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm còn hạn chế so với quá trình
hình thành và phát triển của quy định này.
Nội dung BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) có một bước tiến rất
quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân cũng như xác định
rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan THTT, … Nhưng khi đối chiếu đến quy
định về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, tác giả nhận thấy vẫn còn nội dung chưa
thực sự phân định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia giải quyết
VAHS. Điều 23 BLTTHS năm 2015 quy định "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật", độc lập xét xử nhưng không có nghĩa là việc xét xử của
Tòa án là “vô hạn” mà điều đó bị giới hạn trong một phạm vi nhất định theo quy định
của pháp luật. Bởi lẽ, pháp luật có chức năng hạn chế của nó - chức năng này tạo ra
tính tích cực, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan THTT khi thực hiện chức năng,
quyền hạn [143]. CNXX được thực hiện trên cơ sở và trong giới hạn của chức năng
buộc tội. BLTTHS năm 2015 đã đề cao mục tiêu “kiểm soát tội phạm”, làm cho việc
thực hiện CNXX và chức năng buộc tội không được rạch ròi. VKS được giao thực
hiện chức năng buộc tội, thay mặt Nhà nước phát hiện tội phạm, cáo buộc và đề nghị
Tòa án xét xử. Nếu VKS đánh giá không phạm tội nặng hơn tội mà VKS đã truy tố
thì Tòa án cũng không nên làm thay VKS, buộc tội nặng hơn. Dưới góc độ này,
BLTTHS năm 2015 đã “đi một bước lùi” trong lịch sử phát triển pháp luật TTHS
(nội dung quy định tương tự như những hướng dẫn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm
trước khi có BLTTHS năm 1988), chính sách hình sự không nhất quán, thay vì mở
rộng theo hướng tăng cường tính tranh tụng tại phiên tòa; đề cao dân chủ, bảo đảm
quyền con người và quyền công dân thì lại quay về mục tiêu “kiểm soát tội phạm”,
quy định Tòa án được quyền xét xử bị cáo về hành vi phạm tội theo tội danh ngoài
88
phạm vi truy tố của VKS, mà chưa quan tâm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa việc
thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội với quyền công tố và quyền xét xử.
Trong khi đó, quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS hiện hành chỉ mới đề cập
“...Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người
đại diện của bị cáo, người bào chữa biết;...” còn thời hạn để bảo đảm cho việc thực
hiện quyền bào chữa thì chưa được quy định.
Mặt khác, việc quy định Tòa án có quyền xét xử tội danh nặng hơn đó trong một
số trường hợp có thể dẫn đến xét xử bị cáo với mức hình phạt cao nhất là tử hình,
chẳng hạn: VKS truy tố bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” vì đã có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe người khác có hậu quả làm chết người với mức hình phạt cao
nhất là tù chung thân, nhưng qua nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán được phân công
xét xử cho rằng với tính chất, mức độ của hành vi đó thì phải xét xử theo tội “Giết
người” với mức hình phạt cao nhất là tử hình. Vậy thử hỏi Tòa án (HĐXX) có thực
hiện đúng quyền đó không, xét về góc độ “niềm tin nội tâm”? Việc quy định mở rộng
quyền xét xử của Tòa án có ý nghĩa trong việc không để VAHS bị kéo dài, đùn đẩy
trách nhiệm giữa các cơ quan THTT, hạn chế ảnh hưởng các quyền tố tụng của các
chủ thể tham gia. Tuy nhiên, quy định đó cần phải được xác định trên những cơ sở,
căn cứ khoa học của TTHS, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THTT và phải bảo đảm
được quyền con người trong TTHS,... Về mặt pháp lý, cho thấy ngay từ đầu hoạt
động xét xử của Tòa án đã phụ thuộc vào hoạt động truy tố của VKS; nội dung, phạm
vi truy tố xác định nội dung hoạt động xét xử của Tòa án (hoạt động bào chữa cũng
phụ thuộc vào nội dung và phạm vi truy tố). Quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ là sự
thừa nhận chính thức của Tòa án về việc nội dung truy tố sẽ là đối tượng và phạm vi
xét xử của Tòa án tại phiên tòa. GHXX không thể ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử
của Tòa án, là yếu tố bảo đảm cho Tòa án luôn là cơ quan thực hiện CNXX, không
cho phép Tòa án có thể làm xấu tình trạng của bị cáo so với nội dung truy tố; nguyên
tắc không được làm xấu tình trạng của bị cáo và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của bị cáo là hai yếu tố phải được cân nhắc khi giải quyết sự khác biệt về đánh giá
pháp lý giữa quyết định truy tố và quyết định của Tòa án, Tòa án có thể vượt quá
89
GHXX như là “một ngoại lệ”, nếu điều đó không làm xấu tình trạng của bị cáo và
không vi phạm quyền bào chữa của bị cáo [90].
3.2. Thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình
sự Việt Nam
3.2.1. Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2015 đến năm 2023
Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng được đánh dấu từ Đại hội
Đảng lần thứ VI đã và đang từng bước mang lại cho đất nước ta nhiều thành tựu quan
trọng, làm cho thế và lực của ta ngày càng lớn mạnh hơn, nền kinh tế thay đổi một
cách toàn diện và phát triển khá nhanh; văn hoá xã hội có những bước tiến mới, đời
sống của người dân được tiếp tục cải thiện và nâng cao; hệ thống chính trị tiếp tục
được đổi mới; quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng mở
rộng thêm; chính trị - xã hội được ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Trong
những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới đó, các cơ quan tư pháp đã luôn luôn
đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật XHCN, đấu tranh
có hiệu quả với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Có thể nói, quyền lực tư
pháp đã thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.
Tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần các Nghị quyết của Bộ chính
trị, gần đây là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung
ương khoá XIII về “việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, hoạt động tư pháp đã có những chuyển
biến rất quan trọng, nhất là trong công tác xét xử của Tòa án, tăng cường đổi mới
công tác đào tạo, bồi dưỡng (tập trung tự đào tạo thông qua việc tổ chức các phiên
toà rút kinh nghiệm, trong năm 2023 tổ chức 13.492 phiên toà hình sự) [132], qua đó
giúp Thẩm phán đề cao tinh thần trách nhiệm trong chuẩn bị xét xử, nâng cao kinh
nghiệm tổ chức phiên toà; công tác công bố bản án và phát triển án lệ được quan tâm
và pháp điển hoá làm nguồn bổ trợ cho công tác xét xử; việc đầu tư cơ sở vật chất,
ứng dụng công nghệ thông tin trong việc hướng dẫn, giải thích pháp luật được lãnh
đạo ngành Tòa án quan tâm phát triển. Theo báo cáo thống kê của VKSNDTC, số
90
VAHS được giải quyết có chiều hướng gia tăng; chất lượng xét xử của Tòa án các
cấp ngày càng quan tâm, chú trọng:
- Về số lượng: Đối với Tòa án cấp sơ thẩm, nếu năm 2015 Tòa án các cấp trong
cả nước đã xét xử sơ thẩm được 59.696 vụ/71.804 vụ đã thụ lý, đạt tỷ lệ 83,14% thì
đến cuối năm 2023 Tòa án các cấp trong cả nước đã xét xử sơ thẩm xong 76.590
vụ/91.996 vụ đã thụ lý, đạt 83,3%; đối với xét xử phúc thẩm, nếu năm 2015 trong cả
nước Tòa án các cấp đã xét xử được 10.262 vụ/16.101 vụ, chiếm 63,7% thì cuối năm
2023, Tòa án các cấp đã xét xử 10.524 vụ/17.465, chiếm 60,26%; đối với án phải giải
quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu năm 2015 giải quyết được 70/117 vụ,
chiếm 59,8% thì năm 2023 giải quyết được 168/252 vụ chiếm tỷ lệ 66,67% (xem
thêm Phụ lục 1 và Biểu đồ 1 Phụ lục 2) [156].
- Về chất lượng: Vấn đề này được thể hiện thông qua kết quả xét xử phúc thẩm
và giám đốc thẩm của Tòa án các cấp.
+ Đối với án xét xử sơ thẩm: Số vụ án xét xử sơ thẩm ngày càng gia tăng. Số vụ
án VKS kiến nghị sau khi xét xử sơ thẩm có xu hướng tăng, nếu năm 2015 là
555/59.696 vụ, chiếm 0,93% thì năm 2023 tỷ lệ này lên 1,55% (1.190/76.590 vụ);
trung bình từ năm 2015-2023: có 08 bị cáo/năm tuyên không phạm tội (xem thêm
Phụ lục 1 và Biểu đồ 2 Phụ lục 2) [156].
+ Đối với án xét xử phúc thẩm: Số vụ án phải xét xử phúc thẩm có chiều hướng
giảm, nếu năm 2015 có 16.101/59.696 vụ án đã xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị, chiếm 26.97% thì năm 2023 có 17.465/76.590 vụ án đã xét xử sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị chiếm 22,8%. Năm 2015, Tòa án đã xét xử phúc thẩm 10.262/16.101
vụ, trong đó số vụ VKS kháng nghị đã xét xử là 940 vụ, HĐXX chấp nhận 637 vụ,
chiếm 67,7% thì đến năm 2023, Tòa án đã xét xử phúc thẩm 10.524/17.465 vụ, trong
đó số vụ VKS kháng nghị đã xét xử là 806 vụ, HĐXX chấp nhận 636 vụ, chiếm
78,9%; trung bình từ năm 2015-2023: có 04 bị cáo/năm tuyên không phạm tội (xem
thêm Phụ lục 1 và Biểu đồ 3 Phụ lục 2) [156].
+ Đối với án giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: nếu năm 2015,
số vụ án đã xét xử phúc thẩm bị kháng nghị phải giải quyết theo thủ tục giám đốc
91
thẩm là 1,14% thì đến năm 2018 lên đến 5,0%, nhưng từ năm 2019 đến năm 2023 có
chiều hướng giảm, chiếm 2,39%, trong đó: năm 2023 tỷ lệ kháng nghị HĐXX chấp
nhận chiếm 93,9%; không có trường hợp Tòa án tuyên không phạm tội (xem thêm
Phụ lục 1 và Biểu đồ 4 Phụ lục 2) [156].
Thực tế cho thấy, việc xét xử các VAHS ở cấp sơ thẩm đã có những bước tiến
bộ nhất định. Điều này thể hiện ở chỗ, mặc dù tỷ lệ giải quyết án sơ thẩm tăng không
nhiều, nhưng số vụ VAHS đã xét xử sơ thẩm tăng (nếu năm 2015 xét xử được 59.696
vụ thì năm 2023 xét xử đến 76.590 vụ). Chất lượng xét xử từng bước được nâng lên;
số lượng án bị kháng cáo, kháng nghị có chiều hướng thuyên giảm. Tuy nhiên, số
lượng án đã xét xử phúc thẩm so với yêu cầu phải giải quyết còn chậm, nếu năm 2015
tỷ lệ án đã xét xử phúc thẩm chiếm 63,7% thì năm 2023 giảm còn 60,26%; số lượng
án bị xét xử phúc thẩm theo hướng chấp nhận kháng nghị với yêu cầu của kháng nghị
chiếm tỷ lệ khá cao (nếu năm 2015 chiếm 67,7% thì năm 2023 chiếm 78,9%); trường
hợp HĐXX tuyên không phạm tội vẫn còn tồn tại ở cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.
Những kết quả trên đạt được là do sự nỗ lực, phấn đấu của hệ thống các cơ quan
tư pháp nói chung và ngành Tòa án nói riêng; của đội ngũ cán bộ Tòa án (Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân) ngày càng được nâng lên về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
cũng như kỹ năng xét xử. Đến thời điểm hiện tại (năm 2023), đội ngũ công chức, cán
bộ tòa án có khoảng 13.385 người. Số Thẩm phán TAND địa phương có trình độ đại
học luật trở lên là 97%, số thẩm phán còn lại đều có trình độ tương đương đại học
luật. Số lượng hội thẩm đương nhiệm là 16.783 người [132]; nhận thức được vai trò,
trách nhiệm của mình trong hoạt động TTHS, họ ý thức được từng hành động, ý kiến
của mình sẽ ảnh hưởng đến số phận pháp lý của một con người trong xã hội.
Qua những số liệu cụ thể nêu trên, chứng tỏ công tác xét xử các VAHS tương
đối tốt, ngày càng được nâng cao về “chất”. Các vụ án có kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm có chiều hướng giảm. Qua đó, cho thấy Tòa
án các cấp đã hoàn thành tốt công tác xét xử, về số lượng cũng như chất lượng được
tăng lên liên tục. Những kết quả tích cực đó đã góp phần vào việc tăng cường pháp
chế; bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và của công dân.
92
Đồng thời là sự ghi nhận những thành công bước đầu của công cuộc cải cách tư pháp
mà Đảng và Nhà nước ta đề ra. Tuy nhiên, so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm hiện nay thì kết quả đó vẫn còn khiêm tốn.
3.2.2. Thực trạng áp dụng quy định giới hạn xét xử trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
Qua khảo sát thực tiễn, đa phần các VAHS có quan điểm khác nhau về việc xác
định hành vi và tội phạm đều được Tòa án và VKS trao đổi, hội ý để thống nhất quan
điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Vì thế, để thu thập các VAHS liên quan
đến vướng mắc, bất cập phát sinh từ quy định GHXX sơ thẩm trong BLTTHS năm
2015 không được nhiều. NCS nêu và phân tích một số VAHS cụ thể để chúng ta rõ
hơn nội dung Điều 298 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) như sau:
Vụ án thứ nhất: VKSND tỉnh PY truy tố bị can Lưu Hoàng V là người phụ trách
Phòng bảo hiểm PJICO khu vực thị xã Sông Cầu với tội danh “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản” số tiền 208 triệu đồng (sau khi trừ đi một số khoản hợp lý) về
hành vi của V đã ký kết 41 hợp đồng bảo hiểm có tổng trị giá hơn 332 triệu đồng
nhưng V chỉ nộp về Công ty PJICO PY 57 triệu đồng, phần còn lại V chiếm đoạt sử
dụng cá nhân bằng thủ đoạn báo cáo số liệu hợp đồng ít hơn rất nhiều so với thực tế,
không xuất hoá đơn cho bên mua bảo hiểm, thậm chí sử dụng hoá đơn cũ để tẩy xoá
thời gian giao cho khách hàng khi có yêu cầu. Sau khi tiếp nhận cáo trạng và hồ sơ
vụ án, TAND tỉnh PY hai lần trả hồ sơ đề nghị VKS điều tra bổ sung theo hướng truy
tố bị can Lưu Hoàng V về tội “Tham ô tài sản”. Tuy nhiên, VKS tỉnh PY giữ nguyên
quan điểm truy tố V về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Trong Quyết
định đưa vụ án ra xét xử, TAND tỉnh PY đã thông báo cho bị cáo, người bào chữa,
nguyên đơn dân sự trong VAHS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết Lưu
Hoàng V bị truy tố về tội danh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhưng có
thể bị xét xử về tội “Tham ô tài sản”. Tại phiên xử hình sự sơ thẩm, đại diện VKSND
tỉnh PY giữ quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX bị cáo từ 7 đến 8 năm tù về
tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. TAND tỉnh PY căn cứ giới hạn của
việc xét xử được quy đinh tại Điều 298 BLTTHS tuyên phạt bị cáo Lưu Hoàng V 7
năm tù về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại Điều 353 Bộ luật hình sự [160].
93
Vụ án thứ hai: VKSNDTC truy tố Huỳnh Tấn Đ về tội “Lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 355 Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với số tiền 931.000.000 đồng về hành
vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Huỳnh Tấn Đ là Thư ký TAND
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh được lãnh đạo TAND cấp cao giao nhiệm vụ tiếp
nhận, nghiên cứu phân loại đơn kháng cáo tại phòng Hành chính tư pháp – TAND
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua tiếp nhận, phân loại đơn thì Đ biết được số
điện thoại của những người có liên quan nên đã chủ động liên hệ với các bị cáo và
nguyên đơn và xưng mình là “Thư ký Tòa án đang tiếp nhận giải quyết vụ án”; đồng
thời, đặt vấn đề nếu cần hỗ trợ, giúp đỡ thì liên lạc với Đạt, từ đó các bị cáo (trong
VAHS) và nguyên đơn trong các vụ tranh chấp dân sự đã liên lạc, gặp gỡ, trao đổi,
đặt vấn đề nhờ Đ giúp. Đ đã yêu cầu họ phải đưa tiền cho Đ, để Đ lo cho họ được
hưởng án treo, giảm nhẹ hình phạt và thắng kiện trong vụ tranh chấp dân sự. Thông
qua hành vi và thủ đoạn trên, Đ đã chiếm đoạt của các bị cáo trong VAHS tổng số
tiền 731.000.000 đồng và nguyên đơn trong vụ tranh chấp quyền sử dụng đất với số
tiền 200.000.000 đồng. Trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử, TAND Thành phố Hồ
Chí Minh đã thông báo cho bị cáo, người bào chữa, nguyên đơn dân sự trong VAHS,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết Huỳnh Tấn Đ bị truy tố về tội “Lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, nhưng có thể bị xét xử về tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên xử hình sự sơ thẩm, đại diện VKS giữ quyền công tố
tại phiên tòa giữ nguyên truy tố bị cáo Huỳnh Tấn Đ với tội danh “Lạm dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 355 Bộ
luật hình sự và đề nghị HĐXX bị cáo từ 13 đến 20 năm tù. TAND Thành phố Hồ Chí
Minh căn cứ giới hạn của việc xét xử được quy đinh tại Điều 298 BLTTHS tuyên
phạt bị cáo Huỳnh Tấn Đ 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy
định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự. Tòa án cho rằng VKS giữ quyền
công tố nhận định sai về tội danh nhưng thấy có cơ sở chấp nhận về mức hình phạt
mà VKS đề xuất đối với bị cáo; đồng thời, không chấp nhận lời bào chữa của luật sư
cũng như lời bào chữa của bị cáo về việc bị cáo phạm tội “lạm dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản” [133]
94
Vụ án thứ ba: Trần Đình T được người tên Hoàng (chưa rõ lai lịch) thuê đem
một gói hình chữ nhật bên trong chứa ma tuý được gói bằng một túi nylon màu cam
đến Bến xe Miền Đông giao cho người mua, rồi đem tiền về cho Hoàng và sẽ được
Hoàng trả tiền công 2.000. 000 đồng. Hoàng cung cấp thông tin người mua tên Tuấn
và số điện thoại cho Đình T để liên lạc gặp nhau. Nhưng Tuấn không đến gặp Đình
T nhận mà cho Đình T số điện thoại của Đoàn Giai T và Giai T sẽ là người nhận
hàng. Việc giao nhận đang thực hiện thì Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện
bắt quả tang, Đình T bỏ chạy, bỏ lại tiền vừa nhận từ Giai T, còn Giai T thì bị bắt giữ
với tang vật là một gói bọc màu cam, qua giám định là ma tuý thể rắn có trọng lượng
1.008,30 gam. Tại cơ quan công an, Giai T khai nhận được người tên Tuấn (chưa rõ
lai lịch) thuê nhận số hàng do người tên Đình T giao và nếu giao nhận thành công
Giai T được Tuấn trả công 5.000.000 đồng. VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã truy
tố bị cáo Trần Đình T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4
Điều 251 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Đoàn Giai T về
tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 249 BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017 theo Cáo trạng 356/CT-VKS-P2 ngày 08/7/2021. Tại
phiên toà sơ thẩm ngày 25/5/2022, theo nội dung bản Cáo trạng, đại diệnVKSND
thực hành quyền công tố đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Trần Đình T tù chung thân
về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và xử phạt bị cáo Đoàn Giai T tù chung thân
về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội
theo nội dung bản cáo trạng và luật sư bào chữa cho các bị cáo cũng thống nhất quan
điểm truy tố của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh. Sau phần xét hỏi, HĐXX quyết
định trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu làm rõ hành vi của bị cáo Đoàn Giai T, nhưng
VKSND Thành phố Hồ Chí Minh phản hồi bằng Công văn số 164/VKS-P2 ngày
17/6/2022 là giữ nguyên nội dung truy tố theo Cáo trạng số 356/CT-VKS-P2. Căn cứ
khoản 3 Điều 298 BLTTHS, HĐXX quyết định xét xử bị cáo Đoàn Giai T về tội
“Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 251 BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại bản án số 329/2022/HS-ST ngày 22/7/2022 của
TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định xử phạt bị cáo Trần Đình T: Tử hình
95
về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; xử phạt bị cáo Đoàn Giai T: Tử hình về tội
“Mua bán trái phép chất ma tuý”[134].
Vụ án thứ tư: Nguyễn Thúc M là người sử dụng ma tuý và có hành vi mua bán
chất ma tuý nhiều lần. Nguồn ma tuý mà Thúc M có để bán cho các con nghiện lấy
từ Phùng Thị Ngọc A. Phùng Thị Ngọc A có hành vi mua bán ma tuý cho nhiều đối
tượng trong thời gian nhiều và nhiều lần, có lúc Ngọc A trực tiếp đi bán, có lúc thì
nhờ Dương Thanh T (người sống như vợ như chồng với Ngọc A) giúp đem ma tuý
giao khách. Thanh T phụ giúp Ngọc A giao ma tuý cho khách hàng 02 lần theo lời
khai của Thanh T và Ngọc A, hành vi chia nhỏ ma tuý để bán và thu lợi bất chính của
Ngọc A và việc mua bán ma tuý giữa Thúc M và Ngọc A đều có mặt Thanh T. Hành
vi mua bán trái phép chất ma tuý của các đối tượng bị bắt quả tang. Tại bản án số:
126/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 03/3/2022, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã truy
tố bị cáo Nguyễn Thúc M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản
4 Điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Phùng Thị Ngọc A về tội “Mua bán trái phép chất
ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Dương Thanh T về tội
“Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 BLHS. Tại phiên
toà, các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và các luật sư
bào chữa đều thống nhất tội danh truy tố của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh. Qua
nghiên cứu hồ sơ vụ án, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã trả hồ sơ điều tra bổ sung
đề nghị thay đổi điều khoản truy tố bị cáo Dương Thanh T theo điểm b khoản 3 Điều
251 BLHS nhưng VKSND Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố
đối với bị cáo Dương Thanh T theo Cáo trạng số:126/CT-VKSTPHCM-P1. Căn cứ
khoản 2 Điều 298 BLTTHS, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử bị cáo Dương
Thanh T theo điểm b khoản 3 Điều 251 BLHS với mức xử phạt 15 năm tù về tội
“Mua bán trái phép chất ma tuý” [136].
Vụ án thứ năm: VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Tiến V,
Trần Hùng V, Lê Tấn N, Trần Quốc H và Hồng Chí Q về tội “Giữ người trái phép”
theo quy định tại khoản 1 Điều 157 BLHS và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy
định điểm a khoản 4 Điều 170 BLHS. Các đối tượng đã đưa tiền cho ông Phạm Đình
96
Thịnh đầu tư, kinh doanh tiền điện tử, do bị thu lỗ thường xuyên nên nghĩ rằng bị ông
Thịnh lừa lấy tiền nên đã có hành vi dụ ông Thịnh đến nhà ông Tiến V, bày cách đe
doẹ buộc ông Thịnh trả tiền lại cho mình. Để thực hiện điều đó, các đối tượng trên đã
đe doạ dùng vũ lực đối với ông Thịnh như đòi chặt tay, chôn sống,.... các đối tượng
đã tác động đến ông Phạm Đình Vân (cha ông Thịnh) quay hình ảnh ông Thịnh để
doạ, buộc ông Vân đem tiền lại trả. Để đợi ông Vân tìm tiền và đem lại nhà Tiến V
giao, thì các đối tượng trên đã bàn người giữ ông Thịnh không để ông ấy trốn thoát.
Hành vi của các đối tượng trên VKSND Thành phố Hồ Chí Minh nhận định và thể
hiện quan điểm truy tố tội danh tại Cáo trạng số 289/Ctr- VKSTPHCM-P2 ngày
23/5/2023. Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án chuẩn bị xét xử, Tòa án đã trả hồ sơ cho
VKS yêu cầu thay đổi một phần Cáo trạng, truy tố các bị cáo về tội “Cướp tài sản”
theo điểm a khoản 4 Điều 168 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 vì Tòa án
nhận định các bị cáo đã “có hành vi dùng vũ lực tấn công ông Thịnh và ông Thịnh đã
lâm vào tình trạng không thể chống cực được, buộc ông phải làm theo mệnh lệnh của
các bị cáo là gọi ông Vân cha của bị hại mang tiền đến giao cho bị cáo...”, hành vi
của các bị cáo đã chuyển hoá tội phạm từ tội cưỡng đoạt tài sản sang tội cướp tài sản,
nhưng VKS giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”,
căn cứ khoản 3 Điều 298 BLTTHS, Toà đã xét xử các bị cáo về tội “Cướp tài sản”.
Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện VKS giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy
tố như nội dung bản cáo trạng. Các bị cáo và luật sư bào chữa thống nhất quan điểm
truy tố tội “Cưỡng đoạt tài sản” nhưng không cho rằng các bị cáo phạm tội “Giữ
người trái phép” với lý lẽ là các bị cáo không có hành vi canh giữ, không cho bị hại
tự do rời căn hộ nhà Nguyễn Tiến V. Tại bản án số: 547/2023/HS-ST ngày 23/11/2023
của TAND Thành phố Hồ Chí Minh, HĐXX đã xử phạt các bị cáo nêu trên với 02
tội danh: Tội “Giữ người trái phép” và tội “Cướp tài sản”[138].
Vụ án thứ sáu: Vũ Thành Tr bị VKSND tỉnh Đồng Nai truy tố hai tội: Tội “Lạm
dụng tín dụng chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 175 BLHS và tội “sử
dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS
với lý do bị cáo đã có hành vi ký hợp đồng thuê xe ô tô hết thời hạn thuê nhưng không
97
trả xe lại cho chủ thuê, sau đó có ý định chiếm đoạt nên đem xe ô tô cầm cố cho người
tên Nguyễn Quang C để lấy số tiền 250 triệu đồng. Để thực hiện việc đó, Vũ Thành
Tr đã đặt làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang biển số xe bị cáo thuê và
giấy chứng minh nhân dân giả tên của chủ xe là Đặng Văn Q và thuê người giả làm
ông Q đến gặp ông C để thực hiện việc cầm cố xe ô tô chiếm đoạt 250 triệu đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, TAND tỉnh Đồng Nai trả hồ sơ đề nghị VKS điều tra bổ
sung về tội danh khác với tội danh VKS truy tố nhưng VKS đã phản hồi bằng Công
văn 691/VKS-P2 ngày 17/7/2023 giữ nguyên quan điểm truy tố tại Cáo trạng số
42/CT-VKS-P2 ngày 09/3/2023 của VKSND tỉnh Đồng Nai. Tại phiên toà sơ thẩm
bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của VKS, luật
sư bào chữa cho bị cáo thống nhất quan điểm truy tố tội danh đối với bị cáo và không
tranh luận gì thêm. Còn HĐXX của TAND tỉnh Đồng Nai áp dụng Điều 298 BLTTHS
đã xét xử và xử phạt bị cáo Vũ Thành Tr về hai tội: Tội “Lạm dụng tín dụng chiếm
đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 175 BLHS và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” theo khoản 3 Điều 174 BLHS với nhận định: hành vi lạm dụng tín dụng để bị
cáo chiếm đoạt tài sản của bị hại là có căn cứ; hành vi bị cáo làm giả giấy tờ, tài liệu
đã đủ cơ sở như VKS phân tích, nhưng việc thuê người giả ông Q (chủ xe) để đến
ông C cầm cố xe là hành vi lừa đảo ông C, đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” do tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là tội nhẹ
nên bị hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”[139].
Qua thực tiễn xét xử các VAHS nêu trên, NCS có thể đưa ra một số nhận định
như sau:
Điều 298 BLTTHS năm 2015 đã vô hiệu hóa nguyên tắc tranh tụng (khoản 5
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 26 BLTTHS năm 2015), bởi những lý do sau:
Thực hiện chức năng tố tụng cơ quan điều tra đã thu thập chứng cứ và kết luận điều
tra đề nghị VKS truy tố, VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp đã truy tố bị cáo bằng Quyết định truy tố (bản cáo trạng). Theo lẽ chung, VKS
truy tố gì thì bị cáo và người bào chữa “chỉ lo” tìm những tình tiết, chứng cứ để bào
chữa cho mình, đối chiếu nội dung Cáo trạng. Thực tế, từ khi khởi tố bị can đến khi
98
xét xử tại phiên toà sơ thẩm việc tranh tụng chỉ tập trung nội dung bản cáo trạng của
VKS - nó được xem là “trục chính” làm phát sinh các hoạt động: buộc tội - bào chữa
và xét xử. Tại phiên toà, trong vụ án thứ nhất chỉ có tranh tụng về tội “Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản” giữa bên buộc tội và bên bào chữa mà không có tranh tụng
về tội “Tham ô tài sản” vi phạm quy định “Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ
xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng
điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt,
mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý
nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản
án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và
kết quả tranh tụng tại phiên tòa” (Điều 26 BLTTHS năm 2015). Nhưng bản án của
Tòa lại kết án về tội “Tham ô tài sản”, điều này có nghĩa là HĐXX chỉ căn cứ vào ý
thức chủ quan của mình về tội danh để xét xử. Kết quả tranh tụng của các bên (về tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”) hoàn toàn không có ý nghĩa gì với HĐXX
và bản án về tội “Tham ô tài sản” không căn cứ vào kết quả tranh tụng. Vị thế và
hoạt động thực hành quyền công tố - quyền hiến định của đại diện VKS (Điều 107
Hiến pháp 2013) bị hạ thấp. Lúc này quyết định truy tố của VKS không còn ý nghĩa.
VKS là người truy tố bị cáo ra Tòa, trong khi đó Tòa án tự mình quyết định đưa vụ
án ra xét xử về tội nặng hơn và chính Tòa án lại là người tuyên án theo tội nặng hơn
đó thì việc xét xử sẽ không bảo đảm tính khách quan. Bị cáo sẽ không có cơ sở để có
thể tin rằng phán quyết của người vừa buộc tội mình nặng hơn, vừa xét xử mình là
chân lý, là công minh. Tương tự, trong VAHS thứ hai, tại phiên tòa bên buộc tội – đại
diện VKS giữ quyền công tố truy tố bị cáo Huỳnh Tấn Đ về tội “Lạm dụng chức vụ,
quyền hạn chiếm đoạt tài sản” và bên bào chữa - luật sư, bị cáo chỉ tập trung tìm tình
tiết, chứng cứ để tranh luận, làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm và tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ mà không có tranh tụng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, nhưng
khi kết luận về hành vi thì Tòa án lại chủ quan đánh giá là hành vi lừa đảo và tuyên
án là tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà hoàn toàn không căn cứ vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Trong vụ án thứ ba, với kết quả điều tra, đánh giá chứng chứ, hành
vi phạm tội của các bị cáo VKS đã truy tố bị cáo Trần Đình T về tội “Mua bán trái
99
phép chất ma tuý” theo khoản 4 Điều 251 BLHS; bị cáo Đoàn Giai T về tội “Tàng
trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 4 Điều 249 BLHS và đề nghị xử phạt hai bị
cáo này mức tù chung thân. Tại phiên toà, bên bào chữa và bên buộc tội tập trung làm
sáng tỏ tình tiết vụ án và chứng minh tội danh có phù hợp với hành vi phạm tội. Quá
trình tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa đối với hành vi của bị cáo Đoàn
Giai T là hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, không tranh luận về hành vi mua bán
trái phép chất ma tuý nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán
được phân công chủ toạ HĐXX nhận thấy hành vi của bị cáo Giai T là hành vi mua
bán trái phép chất cấm nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung đề nghị VKS thay đổi tội
danh đối với bị cáo Giai T nhưng VKS giữ nguyên quan điểm truy tố. Ở đây, không
đề cập đến việc đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội của cơ quan nào đúng, chính
xác hơn nhưng một điều có thể thấy là quy định khoản 3 Điều 298 BLTTHS chưa
được thấu đáo, chưa tạo cơ sở để nguyên tắc tranh tụng trong TTHS được thực hiện
một cách thiết thực, để bản án Toà tuyên thật sự từ kết quả của quá trình tranh tụng
và kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại phiên toà. Đối với vụ án thứ tư, thì đánh giá pháp
lý về hành vi phạm tội của VKS và Tòa án có điểm tương đồng tuy nhiên việc xác
định tình tiết định khung của Tòa án đối với hành vi của bị cáo Dương Thanh T thì
nặng hơn so với VKS truy tố về cùng tội danh. Việc tranh tụng giữa VKS và bị cáo,
người bào chữa tập trung khoản 2 Điều 251 BLHS nhưng HĐXX nhận thấy tình tiết
thuộc cấu thành khoản 3 Điều 251 BLHS nên xét xử và xử phạt bị cáo khoản 3 Điều
251 BLHS. Kết luận này của Tòa án cũng không xuất phát từ kết quả tranh tụng, mà
cũng từ nhận thấy chủ quan của HĐXX, ít nhiều nó cũng ảnh hưởng đến quyền bào
chữa của bị cáo.
Vụ án thứ năm, VKS truy tố các bị cáo về tội “Giữ người trái phép” và tội
“Cưỡng đoạt tài sản”, tuy nhiên Tòa án lại nhận định khác nên quyết định xét xử và
xử phạt các bị cáo về tội tội “Giữ người trái phép” và tội “Cướp tài sản” vì HĐXX
cho rằng đã chuyển hoá tội phạm từ cưỡng đoạt tài sản sang cướp tài sản. Như trên
đã nêu, ở đây không đề cập đến việc đánh giá pháp lý đối với hành vi phạm tội nhưng
căn cứ chức năng, nhiệm vụ của VKS và Tòa án thì quy định GHXX sơ thẩm đã quá
đề cao nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án mà chưa xử lý hài hoà mối quan hệ với
100
các nguyên tắc cơ bản khác trong TTHS, trong đó có nguyên tắc tranh tụng. Như đã
biết, VKS ngoài thực hiện chức năng thực hành quyền công tố còn thực hiện chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, nên thiết nghĩ VKS không phải chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và kết luận điều tra để quyết định truy tố hay không truy
tố, mà VKS còn thực hiện các hoạt động tố tụng theo thẩm quyền để làm rõ tình tiết
chứng minh tội phạm và người phạm tội - những hoạt động tố tụng mà chỉ có VKS
mới có thẩm quyền thực hiện để có thể ra quyết định truy tố bị cáo và hành vi phạm
tội của bị cáo. Trong vụ án này, VKS truy tố tội “Cưỡng đoạt tài sản”, Thẩm phán
phân công chủ toạ chỉ qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhận thấy hành vi của các bị cáo
là “hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần bị hại để chiếm đoạt tài sản” nên trả hồ sơ
yêu cầu VKS điều tra bổ sung và đề nghị truy tố theo tội “Cướp tài sản”, nhưng VKS
vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố ban đầu đối với các bị cáo là tội “Cưỡng đoạt tài
sản”, căn cứ khoản 3 Điều 298 BLTTHS Tòa án đã quyết định xét xử các bị cáo tội
nặng hơn, đó là tội “Cướp tài sản”. Tội “Cướp tài sản” là tội nặng hơn tội “Cưỡng
đoạt tài sản” vì mức hình phạt cao nhất của tội này là “tù chung thân”, trong khi đó
tội “cưỡng đoạt tài sản” mức hình phạt cao nhất là “tù 20 năm”. Vấn đề đặt ra ở đây
là tại phiên toà xét xử, bên buộc tội thì không buộc tội “Cướp tài sản” mà bên bào
chữa cũng không bào chữa tội này mà lại tập trung làm rõ quan điểm truy tố tội
“Cưỡng đoạt tài sản” của VKS. Bản án Tòa án lại kết tội các bị cáo về tội “Giữ
người trái phép” và tội “Cướp tài sản”, rõ ràng cơ sở để HĐXX tuyên các bị cáo về
tội “Cướp tài sản” không dựa trên kết quả tranh tụng; các chủ thể theo BLTTHS quy
định phải tham gia tranh tụng làm rõ các đối tượng cần chứng minh trong vụ án, có
vẻ “đứng ngoài lề” với nhận định của HĐXX - điều này mâu thuẫn với Điều 26
BLTTHS, chưa kể đến việc có bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong trường hợp
này. Vụ án thứ sáu, cũng tương tự như vụ án thứ năm, VKS truy tố bị cáo hai tội
“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của
cơ quan, tổ chức” nhưng nhận định của Tòa án khác quan điểm truy tố của VKS về
hành vi làm giả giấy tờ và thuê người giả làm chủ tài sản để cầm cố tài sản chiếm tiền
bất hợp pháp là hành vi đủ căn cứ truy tố tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ
quan, tổ chức” tuy nhiên tội này nhẹ nên được hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
101
sản” được xem là tội nặng hơn nên xét xử và xử phạt bị cáo tội “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản”. Tương tự vậy, tại phiên toà bên buộc tội và bên bào chữa chỉ bào chữa và
buộc tội theo nội dung truy tố của VKS, đó là tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tội “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” không được đại diện VKS tham gia tranh tụng thì cơ sở nào bên bào
chữa tập trung thực hiện việc bào chữa, không lẽ lúc đó, bị cáo và luật sư chuyển sang
bào chữa tội danh theo nhận định của HĐXX. Nếu điều này xảy ra thì rất không hợp
lý, bởi lẽ lúc này Tòa án không còn thực hiện CNXX mà thực hiện buộc tội. Như vậy,
nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS chỉ mang tính hình
thức, không có ý nghĩa đối với mục đích TTHS mà Nhà nước ta đặt ra. Thiết nghĩ,
bản chất của một nền tư pháp dân chủ, hiện đại phải thật sự thực hiện đúng và tốt
nguyên tắc này trong TTHS. Được biết vụ án này, bị cáo đã kháng cáo, VKSND tỉnh
Đồng Nai và VKSND cấp cao đã kháng nghị. Bản án số 285/2024/HS-PT ngày 23-
4-2024 của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định như sau: “ …
Tòa sơ thẩm cho rằng để chiếm đoạt được số tiền 250.000.000 đồng của anh Nguyễn
Quang C thì hành vi của bị cáo Tr đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng con dấu, tài liệu
giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 và tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017). Đồng thời cho rằng hành vi này của bị cáo Tr thuộc trường hợp
người thực hiện hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của nhiều tội
thì bị truy cứu trách nhiệm về tội nặng hơn nên tội “Sử dụng tài liệu, con dấu giả của
cơ quan, tổ chức” bị thu hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại
khoản 3 Điều 174 của BLHS là sai lầm trong áp dụng pháp luật và vi phạm giới hạn
của việc xét xử được quy định tại Điều 298 BLTTHS năm 2015. Đó là “Tòa án xét xử
những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Toà án quyết định
đưa vụ án ra xét xử.” và “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà
VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội
mà VKS đã truy tố”. Theo đó Tòa án có thể xét xử về một tội khác nặng hơn tội danh
mà VKS truy tố, tuy nhiên phải cùng một hành vi đã được truy tố. Trong vụ án này,
VKS chỉ truy tố bị cáo Vũ Thành Tr đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả của cơ quan,
102
tổ chức. Do đó, nếu Tòa sơ thẩm cho rằng bỏ lọt hành vi chiếm đoạt tài sản khi có
dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung,
VKS vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố thì Tòa án cũng chỉ có quyền kiến nghị theo
quy định mà không được quyền xét xử….” với nhận định này, HĐXX đã tuyên:
“…Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 193/2023/HS-ST ngày 01 tháng 12 năm 2023 của
TAND tỉnh Đồng Nai. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm
lại…”
Điều 298 BLTTHS năm 2015 vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
bị cáo (Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 16 BLTTHS năm 2015). Nếu chúng ta cho
rằng quyết định đưa vụ án ra xét xử đã thông báo rõ về việc Tòa án thấy “cần xét xử
bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố” là bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo thì mặc nhiên chúng ta đã thừa nhận Tòa án thực hiện chức năng buộc
tội. Trong các tình huống trên, bất kỳ người bào chữa nào cũng phải chuẩn bị bào
chữa vừa chống lại buộc tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trong vụ án
thứ nhất; tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” trong vụ án thứ hai,
tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” trong vụ án thứ ba; tội “Cưỡng đoạt tài sản”
trong vụ án thứ năm và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” trong
vụ án thứ sáu của VKS vừa chống lại buộc tội “Tham ô tài sản”; “Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản” trong vụ án thứ hai, tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” trong vụ án
thứ ba; tội “Cướp tài sản” trong vụ án thứ năm và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
trong vụ án thứ sáu của HĐXX. Khó khăn của bên bào chữa đã bị nhân đôi và tại
phiên tòa bên bào chữa không có cơ hội, điều kiện bào chữa về các tội mà HĐXX
nhận định và đưa ra xét xử (vì không được tranh luận với HĐXX về các tội danh này)
nhưng bị cáo vẫn bị Tòa án kết tội về các tội mà HĐXX đưa ra xét xử tương ứng
trong từng VAHS nêu trên. Bị kết án về tội mà mình không được bào chữa như vậy
quyền bào chữa của bị cáo có được bảo đảm hay không trong tình huống bất lợi này?
Điều 298 BLTTHS năm 2015 vi phạm nguyên tắc Suy đoán vô tội (Điều 31
Hiến pháp 2013 và Điều 13 BLTTHS năm 2015) theo đó bị cáo chỉ bị coi là có tội
khi tội của bị cáo (bao gồm hành vi và tội danh của hành vi) được chứng minh theo
tự thủ tục do BLTTHS quy định. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn chuẩn
103
bị xét xử là hết sức cần thiết, quan trọng để Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên
toà chủ động áp dụng quy định pháp luật TTHS liên quan làm rõ đối tượng chứng
minh trong vụ án và các biện pháp tư pháp phù hợp bảo đảm quá trình giải quyết
VAHS được đúng đắn, khách quan. Tuy nhiên, không có nghĩa là Thẩm phán quá tin
tưởng vào nhận thức của mình, có định kiến trước về hành vi và tội danh của hành vi
- việc đó chỉ mang “tính chất tham khảo”, tất cả những “hoài nghi” đều phải được
đánh giá, kiểm tra tại phiên toà cùng với những tình tiết khác của vụ án đã được đánh
giá tính khách quan, trung thực. Thực tế cho thấy, việc áp dụng nội dung nguyên tắc
suy đoán vô tội vào quá trình xét xử VAHS cụ thể còn mang tính hình thức, các cơ
quan THTT chưa “thoát khỏi” cảm tính chủ quan, còn nặng “niềm tin nội tâm” qua
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án mà chưa thật sự áp dụng, khai thác tốt việc tranh tụng tại
phiên toà và đánh giá chứng cứ, tình tiết một cách khách quan qua tranh luận giữa
các bên buộc tội và bào chữa, để làm cơ sở khi ban hành bản án, quyết định kết luận
“số phận pháp lý” của bị cáo. Trong trường hợp thứ nhất, tội “Tham ô tài sản” mới
chỉ hiện diện trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án và tại phiên tòa đại
diện VKS chỉ chứng minh về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quyết
định truy tố của mình, tội “Tham ô tài sản” chưa được chứng minh nhưng bị cáo vẫn
bị kết án về tội này. Trong trường hợp thứ hai, tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà
Tòa án tuyên đối với bị cáo chưa được chứng minh theo thủ tục BLTTHS quy định,
tội đó chỉ được HĐXX thể hiện trong quyết định đưa ra xét xử và chỉ được thể hiện
qua quan điểm chủ quan của HĐXX. Tương tự như vậy, đối với tội “Mua bán trái
phép chất ma tuý” mà HĐXX tuyên đối với bị cáo Đoàn Giai T trong vụ án thứ ba,
tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo trong vụ án thứ năm, tội “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản” trong vụ án thứ sáu mà HĐXX tuyên đối với bị cáo chỉ được thể hiện trong
Quyết định đưa ra xét xử mà không được làm rõ, chứng minh qua việc tranh tụng tại
phiên toà. Điều này đã vi phạm nội dung nguyên tắc “suy đoán vô tội”, HĐXX đã
chủ quan, định kiến bị cáo có hành vi và có tội mà hành vi và tội danh của hành vi đó
chưa được chứng minh; hơn thế nữa, tại phiên tòa tội mà HĐXX tuyên không phải là
kết quả của quá trình tranh tụng của chủ thể buộc tội và chủ thể bào chữa, như vậy
chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án được thuyết phục, khách quan.
104
Điều 298 BLTTHS năm 2015 đã xung đột với chế định “không được làm xấu
tình trạng bị can, bị cáo, người bị kết án” - chế định đầy tính nhân văn trong pháp
luật TTHS của nước ta mà nội dung của nó được thể hiện trong nhiều điều luật. Thí
dụ như quy định VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa chỉ có quyền kết luận về
tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà mình đã truy tố mặc dù có thể xuất hiện căn cứ về
tội nặng hơn. Tại phiên tòa VKS có quyền bổ sung ý kiến khi công bố cáo trạng nhưng
không được “làm xấu đi tình trạng của bị cáo” (Điều 266 và Điều 306 BLTTHS năm
2015). Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc, sửa bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật được quy định theo nguyên tắc có lợi, “không làm xấu đi tình trạng
người bị kết án” (Điều 379 và Điều 393 BLTTHS năm 2015). Điều khó lý giải ở đây
là trong khi VKS - cơ quan có chức năng hiến định thực hành quyền công tố - không
có quyền thay đổi tội danh truy tố theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo tại phiên tòa
nhưng Điều 298 BLTTHS năm 2015 lại cho phép Tòa án - cơ quan xét xử - được
quyền làm điều đó khi áp dụng tội danh nặng hơn. Điều khó lý giải thứ hai là Điều
298 BLTTHS năm 2015 cho phép Tòa án sơ thẩm có quyền làm xấu tình trạng bị cáo
theo chủ quan của mình, trong khi Tòa án phúc thẩm lại không có quyền đó. Theo
Điều 357 BLTTHS năm 2015, Tòa án phúc thẩm chỉ có quyền sửa bản án sơ thẩm
theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản BLHS về tội nặng hơn,... khi có
kháng cáo, kháng nghị yêu cầu. Không có điều kiện này thì Tòa án phúc thẩm không
được tự mình sửa bản án“làm xấu tình trạng bị cáo” ngay cả khi có căn cứ cho rằng
Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điều luật không đúng (quá nhẹ) đối với bị cáo. Tại
sao lại có sự khác biệt này? Thiết nghĩ, có phải chăng xuất phát từ quan điểm “quá
đề cao” nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án mà quy định như vậy. NCS cho rằng,
“độc lập xét xử” là điều kiện cần thiết và tất yếu để Tòa án (HĐXX) luôn là chủ thể
thực hiện quyền tư pháp, nhưng nó không phải là “đặc quyền” muốn xét xử gì cũng
được mà phải có “giới hạn” vì có giới hạn thì Tòa án mới luôn là Tòa án - thực hiện
đúng chức năng của Tòa án, không khéo sẽ “lấn sân, chồng chéo” thì những quy
định của Nhà nước về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan THTT không còn ý
nghĩa, giá trị trong hoạt động nhà nước nói chung và hoạt động TTHS nói riêng.
Trong TTHS Việt Nam, ngoài nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, còn nhiều
105
nguyên tắc TTHS cơ bản mà chúng ta cần tôn trọng và thực hiện đúng, như: nguyên
tắc tranh tụng, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa, không làm xấu hơn tình
trạng bị can, bị cáo, xác định sự thật vụ án,... có như vậy, hoạt động tố tụng mới thực
hiện được mục đích tố tụng, VAHS được giải quyết khách quan, toàn diện và tạo
được niềm tin cho nhân dân.
3.2.3. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định giới hạn xét
xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam và nguyên nhân
3.2.3.1. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định giới hạn xét
xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
Thứ nhất, nội dung quy định GHXX sơ thẩm chưa thống nhất, bất cập và chưa
đồng nhất với các quy định khác liên quan trong BLTTHS hiện hành như với nội
dung các nguyên tắc cơ bản trong TTHS, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THTT,
việc rút quyết định truy tố (trước và tại phiên toà), vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung,…
Khi ban hành BLTTHS năm 2015, đã có ý kiến cho rằng quy định Điều 298
BLTTHS “được xem đã gỡ” một số bất cập trong quá trình giải quyết VAHS, “phù
hợp với Hiến pháp 2013 và tinh thần cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị
quyết của Bộ Chính trị, đồng thời cũng tháo gỡ không ít khó khăn trong thực tiễn xét
xử của Tòa án, bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của
Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm
tra công khai tại phiên tòa” [129]. NCS có quan điểm khác. Như đã phân tích ở trên
(mục 3.2.2), NCS cho rằng Điều 298 BLTTHS năm 2015 là điều luật vi hiến vì đã vi
phạm các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử của Hiến pháp năm 2013. Thực
chất GHXX sơ thẩm trong Điều 298 BLTTHS năm 2015 không khác gì GHXX sơ
thẩm trong Thông tư 16-TATC ngày 27-9-1974. Đánh giá tổng thể chúng ta thấy
rằng: mô hình quy định GHXX sơ thẩm trong pháp luật TTHS nước ta đã có nhiều
thay đổi ở các thời kỳ khác nhau và sau hơn 40 năm nó đã trở lại xuất phát điểm ban
đầu, không theo kịp xu thế phát triển của thời đại và nhất là trong bối cảnh Hiến pháp
năm 2013 đã có nhiều nguyên tắc tiến bộ về xét xử. Quy định GHXX sơ thẩm trong
pháp luật TTHS nước ta vận động theo hướng ngày càng giải phóng Tòa án thoát
106
khỏi ràng buộc về nội dung truy tố của VKS và quyền bào chữa của bị cáo ngày càng
không được bảo đảm.
Mặt khác, qua nghiên cứu các vấn đề lý luận về GHXX sơ thẩm, NCS nhận thấy
về mặt kỹ thuật lập pháp chưa thống nhất, nên khi quy định mở rộng quyền cho Tòa
án thực hiện chức năng theo hướng “đề cao tuyệt đối nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” như nội dung khoản 2, 3 Điều 298 BLTTHS đã phát sinh một
số vướng mắc. Chẳng hạn, khi TAND cấp huyện được phép xét xử bị cáo theo khoản
nặng hơn khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc theo tội danh nặng
hơn tội danh mà VKS đã truy tố, hai trường hợp này thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng thì dẫn đến vượt thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện. Những vướng mắc
đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giải quyết VAHS, cụ thể:
- Khoản 2 Điều 298 BLTTHS quy định: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản
khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát đã truy tố”.
Trường hợp “Tòa án có thể xét xử bị cáo và hành vi của bị cáo theo khoản khác
với khoản mà Viện Kiểm sát truy tố trong cùng một điều luật”, có nghĩa là với những
hành vi mà VKS truy tố, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc nhẹ
hơn so với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật. Vấn đề đặt ra là khi
xét xử TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực thấy có đủ căn cứ để xác định hành
vi của bị cáo phạm tội theo khoản có khung hình phạt nặng hơn và thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp (TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu)
thì HĐXX ra quyết định trả hồ sơ vụ án cho VKS đã truy tố để chuyển đến VKS có
thẩm quyền truy tố (Điều 274 BLTTHS). Nhưng nếu VKS đã truy tố cho rằng vụ án
vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ và chuyển lại hồ sơ vụ án đến
Tòa án thì trong trường hợp này vụ án sẽ do Tòa án cấp nào có thẩm quyền giải quyết
khi quy định tại Điều 275 BLTTHS chỉ có quy định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp giữa các TAND cùng cấp (Tòa án quân sự cùng cấp) mà không có quy định về
giải quyết tranh chấp giữa TAND cấp trên (Tòa án quân sự cấp trên) và TAND cấp
dưới (Tòa án quân sự cấp dưới).
107
Thí dụ: VKSND huyện X, tỉnh Y. truy tố bị can A. về tội “Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS và chuyển hồ sơ vụ án đến
TAND huyện X., tỉnh Y. để xét xử theo thẩm quyền. Trong quá trình xét xử sơ thẩm
TAND huyện X thấy có căn cứ để xét xử bị cáo A. theo điểm a khoản 4 Điều 274
BLHS nên TAND huyện X. đã căn cứ Điều 274 BLTTHS để trả hồ sơ cho VKSND
huyện X. để chuyển lên VKS cấp trên truy tố theo thẩm quyền, tuy nhiên VKSND
huyện X cho rằng việc truy tố bị cáo A. theo điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS là đúng
quy định nên không chuyển hồ sơ lên VKSND tỉnh Y. Trong khi quy định tại Điều
275 BLTTHS lại không quy định về giải quyết tranh chấp trong trường hợp trên và
chưa có văn bản nào của cơ quan chuyên môn hướng dẫn về vấn đề này, dẫn đến Tòa
án có thẩm quyền không xét xử bị cáo A. theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS được.
- Khoản 3 Điều 298 BLTTHS quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo
về tội danh nặng hơn tội danh Viện Kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện
Kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo,
người bào chữa biết; nếu Viện Kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có
quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.
Quy định trên chỉ phù hợp trong trường hợp Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án là TAND
cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu. Vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 268
BLTTHS thì TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu có thẩm quyền xét xử
những vụ án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiệm trọng và tội đặc
biệt nghiêm trọng. Trường hợp VKS truy tố bị can về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng, tội rất nghiêm trọng nhưng Tòa án cho rằng bị can phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng nên đã trả hồ sơ để VKS truy tố lại. Tòa án đã thực hiện đúng quy định tại khoản
3 Điều 298 BLTTHS, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì TAND cấp tỉnh, Tòa án
quân sự cấp Quân khu có quyền xét xử bị cáo về tội danh đặc biệt nghiêm trọng đó.
Trong trường hợp này, TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu chỉ cần
thi hành đúng các quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp,
về thành phần HĐXX sơ thẩm, về bảo đảm quyền bào chữa,... Tuy nhiên, trường hợp
Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án là TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực thì không
thể xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, nếu tội danh mà
108
Tòa án định xét xử là tội đặc biệt nghiêm trọng. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1
Điều 268 BLTTHS, thì TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực chỉ có thẩm quyền
xét xử những VAHS về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp này TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực tiến hành ra quyết định
trả hồ sơ cho VKS đã truy tố để chuyển VKS có thẩm quyền truy tố về tội danh nặng
hơn theo quy định tại khoản 1 Điều 274 BLTTHS.
Nếu VKS đã truy tố không đồng ý thay đổi tội danh, vẫn giữ nguyên quyết định
truy tố và không ban hành quyết định chuyển vụ án lên VKS cấp trên có thẩm quyền
mà trả lại hồ sơ cho TAND cấp huyện (Tòa án quân sự khu vực) thì TAND cấp huyện
(Tòa án quân sự khu vực) sẽ làm như thế nào trong khi Điều 275 BLTTHS chỉ quy
định giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các TAND cấp huyện trong
cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các Tòa án quân sự khu vực
trong cùng một Quân khu; giữa các TAND cấp huyện thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương khác nhau, giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các Quân khu khác
nhau; giữa các TAND cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự Quân khu; giữa TAND và
Tòa án quân sự mà không quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền
xét xử khi VKS cấp huyện không đồng ý thay đổi tội danh nặng hơn và không chuyển
vụ án lên VKS cấp trên để truy tố theo thẩm quyền.
Có thể thấy rõ vướng mắc trên qua vụ án cụ thể sau: Khoảng 08 giờ ngày
02/5/2018, Nguyễn Văn A. mang hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
công ty đến phòng Lê Thanh B để trình ký nhưng B chưa ký ngay mà nói để kiểm
tra. Nghĩ rằng B gây khó khăn cho mình, A đi đến bếp ăn của công ty lấy 01 con dao
(loại dao chặt xương) bỏ vào trong cặp rồi quay lại phòng làm việc của B Lúc này B
đang ngồi ở bàn làm việc, A đến đứng sau lưng phía bên trái cách B khoảng 90cm,
thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình chưa được ký duyệt, A
lấy dao từ trong cặp ra, tay phải A cầm dao vung lên chém 01 nhát từ trên xuống dưới
vào phía sau đầu B, B ôm đầu đứng dậy, A tiếp tục chém nhát thứ 02 vào vùng sau
cổ của B khiến B gục tại chỗ, thấy vậy A. đi về phòng làm việc. Giám định pháp y
kết luận tỷ lệ thương tích của B. là 46%. VKSND huyện X, tỉnh Y truy tố A tội “Cố
ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS, sau đó chuyển hồ
109
sơ vụ án cho TAND huyện X tỉnh Y để xét xử theo thẩm quyền. Trong quá trình
nghiên cứu hồ sơ vụ án thẩm phán xét thấy hành vi của A có dấu hiệu của tội “Giết
người” (chưa đạt) nên đã trả hồ sơ cho VKSND huyện X để chuyển hồ sơ lên VKSND
tỉnh Y để truy tố theo thẩm quyền (theo Điều 274 BLTTHS), nhưng VKSND huyện
X cho rằng việc truy tố A theo điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS là đúng quy định và
không chuyển hồ sơ lên VKS cấp trên mà chuyển lại hồ sơ cho TAND huyện X để
xét xử theo thẩm quyền [76].
Một vướng mắc nữa từ quy định Điều 298 BLTTHS có thể nhìn thấy qua vụ án
sau: Nguyễn Minh T bị VKSND tỉnh Kiên Giang truy tố về tội “Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a,b khoản 2 Điều 260 BLHS và tội “Sử
dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS
vì Nguyễn Minh T có hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả điều khiển xe ô tô trong
trạng thái có rượu bia đụng vào hai người thanh niên điều khiển xe cùng chiều làm
cho anh Đậu Văn D tử vong tại chỗ do chấn thương sọ não và anh Cao Xuân N bị
thương tích 18%. Tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo thống
nhất quan điểm truy tố về tội danh của VKSND tỉnh Kiên Giang; đại diện hợp pháp
của bị hại Đậu Văn D và Luật sư - người bảo vệ và lợi ích hợp pháp của bị hại không
đồng ý quan điểm truy tố về tội danh của VKS, phản đối Cáo trạng và luận tội của
đại diện VKS, bởi lẽ cho rằng quá trình điều tra còn nhiều tình tiết chưa được làm rõ,
chưa xác định động cơ, mục đích thực hiện hành vi của bị cáo, qua xác minh được
biết bị cáo và bị hại cùng một số người chứng kiến có mâu thuẫn, xung đột và bị cáo
bị nhóm của người đó đánh trước nên rất căm tức và thù. Vì thế, quan điểm của đại
diện hợp pháp bị hại (Ông Đậu Văn D) và luật sư (người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đại diện bị hại) cho rằng hành vi của bị cáo là hành vi giết người, có chủ ý
chứ không phải vô ý, điều khiển xe thiếu quan sát làm người tử vong như nhận định
của VKS thể hiện trong Cáo trạng số 46/CT-VKSTKG-P2 ngày 16/6/2022, nên đề
nghị HĐXX áp dụng Điều 298 BLTTHS xét xử và xử phạt bị cáo tội “Giết người”.
HĐXX cho biết: quá trình giải quyết vụ án, ngày 13/4/2022, HĐXX đã ra Quyết định
số 32/2022/HSST-QĐ trả hồ sơ cho VKS đề nghị điều tra bổ sung làm rõ bị cáo có
hay không có hành vi giết người? nhưng qua quá trình điều tra bổ sung, VKS vẫn giữ
110
nguyên quan điểm truy tố về tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ”. HĐXX nhận định sau: tội “Giết người” là tội đặc biệt nghiêm trọng với mức
hình phạt cao nhất theo quy định của BLHS đối với tội này là chung thân, tử hình;
theo quy định tại Điều 254 BLTTHS thì HĐXX phải gồm hai thẩm phán và ba hội
thẩm cho nên theo quy định việc giới hạn của xét xử tại Điều 298 BLTTHS nên
HĐXX xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, không chấp nhận đề nghị của luật sư
- người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đại diện bị hại [135].
Qua vụ án trên, chúng ta có thể thấy sự bất cập từ quy định pháp luật TTHS liên
quan đến việc áp dụng quy định GHXX sơ thẩm. Nội dung GHXX sơ thẩm quy định
cho phép Tòa án có quyền xét xử tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố trong
trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội nặng hơn đó, sau khi thực hiện các thủ
tục theo quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS, nhưng thực tế xét xử có Tòa án
nhận thấy “không ổn” khi thực hiện quyền đó, bởi lẽ liên quan đến quyền bào chữa
của bị cáo và các thủ tục tố tụng khác liên quan đến việc thực hiện quyền đó, nên họ
chọn cách xử lý theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mà thi hành. Nội dung quy
định khoản 3 Điều 298BLTTHS vô hình trung làm kéo dài thêm thời gian giải quyết
vụ án mà không hiệu quả, minh chứng nhiều VAHS khi HĐXX áp dụng khoản 3
Điều 298 BLTTHS để “đủ thủ tục” xét xử bị cáo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS
truy tố trong Cáo trạng thì đa phần VKS phản hồi “giữ nguyên quan điểm truy tố
trong Cáo trạng…”. Pháp luật TTHS quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
THTT trong quá trình giải quyết VAHS tương đối đầy đủ, cụ thể; vì mục đích chung
của TTHS mà từng cơ quan THTT phải “tự nâng mình lên” về chuyên môn, kỹ thuật
nghiệp vụ và cả trách nhiệm giải trình trước cơ quan có thẩm quyền. Quy định GHXX
sơ thẩm trong BLTTHS như hiện nay đã làm cho các cơ quan THTT chưa phát huy
hết trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ và xuất hiện tình trạng “bất tác chiến” giữa
VKS và Tòa án do nội dung quy định không nhất quán, chồng chéo nên công tác phối
hợp giữa các cơ quan THTT còn gặp khó khăn.
Liên quan đến GHXX sơ thẩm, BLTTHS còn quy định việc rút quyết định truy
tố của VKS. Trong thực tế, việc VKS rút Quyết định truy tố có thể xảy ra trước khi
Tòa án xét xử, hoặc tại phiên tòa sau khi xét hỏi và tranh luận KSV thực hành quyền
111
công tố có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố. Như vậy trường hợp
trước khi mở phiên tòa nếu VKS rút Quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ
vụ án thì Tòa án ra Quyết định đình chỉ vụ án (Điều 285 BLTTHS năm 2015), đây là
vấn đề phù hợp cả lý luận và thực tiễn. Nhưng việc rút quyết định truy tố tại phiên
tòa, hiện nay vẫn còn những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành:
Một là, quy định Điều 325 BLTTHS về xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc
kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa. KSV rút một phần quyết định truy tố hoặc kết
luận về tội danh nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án và ra bản án theo thủ
tục chung là hoàn toàn phù hợp bởi GHXX sơ thẩm VAHS trong trường hợp này vẫn
là phạm vi những bị cáo và những hành vi của bị cáo đã bị VKS truy tố và Tòa án đã
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Cần lưu ý: Trong một bản cáo trạng có thể có một
hoặc nhiều quyết định truy tố và có một hoặc nhiều bị can, nên việc rút một phần nội
dung bản cáo trạng có thể là rút một phần quyết định truy tố và bản cáo trạng vẫn còn
một quyết định truy tố khác.
Hai là, tại phiên tòa KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án
HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút quyết định
truy tố đó. Khi nghị án HĐXX xét thấy việc rút toàn bộ Quyết định truy tố là đúng
thì HĐXX ra bản án tuyên bố bị cáo không phạm tội, nếu thấy rằng bị cáo vẫn có tội
và việc rút quyết định truy tố của KSV tại phiên tòa không có co sở thì HĐXX ra
quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên VKS cấp trên trực tiếp (Khoản 4 Điều
326 BLTTHS 2015). Thực tế Tòa án và VKS cùng cấp vẫn thực hiện theo hướng dẫn
tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 08/12/1988. Trong trường hợp Tòa án kiến
nghị nếu VKS cấp trên cùng cấp thống nhất với ý kiến của VKS cấp dưới thì VKS ra
Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và thông báo cho Tòa án đã đình chỉ vụ án đó
biết. Trong trường hợp, nếu VKS cấp trên nhất trí với kiến nghị của Tòa án thì ra
quyết định hủy việc rút quyết định truy tố của VKS cấp dưới và chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án đã tạm đình chỉ vụ án, Tòa án thụ lý lại vụ án và xét xử lại vụ án trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý lại vụ án.
Đây là vấn đề còn có sự mâu thuẫn chưa hợp lý vì đối với cùng một vấn đề là
rút quyết định truy tố pháp luật lại qui định hai thủ tục khác nhau. Đó là, khi KSV rút
112
một phần quyết định truy tố thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án và tuyên án theo kết
quả đánh giá vụ án của chính mình. Còn ngược lại khi KSV rút toàn bộ quyết định
truy tố thì HĐXX chỉ được tuyên án nếu thấy bị cáo không phạm tội, ngược lại nếu
kết quả xét xử cho thấy bị cáo có tội lại không được tuyên bố bị cáo có tội ngay mà
phải ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và phải chờ xin ý kiến chỉ đạo của VKS cấp
trên. Theo quy định BLTTHS vô hình trung VKS cấp trên lại là “người” có thẩm
quyền quyết định quá trình giải quyết VAHS, điều này không đúng chức năng, nhiệm
vụ mà Hiến pháp, BLTTHS quy định cho các cơ quan THTT. Như vậy, việc rút một
phần tại phiên tòa xét xử sơ thẩm không làm thay đổi GHXX (gồm phạm vi xem xét
và phạm vi ra quyết định về vụ án), HĐXX vẫn có quyền xét xử toàn bộ những bị cáo
và hành vi đã bị VKS truy tố trong cáo trạng và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Còn trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên tòa cũng không làm thay đổi
phạm vi xem xét của HĐXX, nhưng phạm vi ra quyết định của HĐXX bị hạn chế.
Theo NCS, nếu dựa theo chức năng, nhiệm vụ của VKS và Tòa án trong TTHS nói
chung và trong quá trình giải quyết VAHS nói riêng thì nội dung nêu trên chưa phù
hợp. Bởi lẽ, việc xét xử của Tòa án các cấp phát sinh trên cơ sở quyết định truy tố
(bản cáo trạng) của VKS. Hiến pháp và BLTTHS đã xác định VKS là cơ quan thực
hành quyền công tố, Tòa án là cơ quan tư pháp thực hiện CNXX. Vậy sao khi VKS
thực hành quyền công tố nhận thấy không có cơ sở để tiếp tục buộc tội bị cáo nữa
(không cần biết ở thời điểm nào của giai đoạn xét xử sơ thẩm) đã tuyên bố rút quyết
định truy tố, tức là lúc này cơ quan chức năng đã “từ bỏ” quyền buộc tội của mình,
thì Tòa án không còn cơ sở để xét xử. Và đương nhiên lúc đó chức năng bào chữa
(gỡ tội) cũng không còn. Ở đây, không thể nói là Tòa án đang thực hiện nguyên tắc
độc lập xét xử, nên tại phiên tòa có quyền chấp thuận hoặc không chấp thuận việc rút
quyết định truy tố của KSV thực hiện quyền công tố, luận giải như vậy rõ ràng có sự
nhầm lẫn, chồng chéo việc thực hiện chức năng giữa cơ quan xét xử với cơ quan thực
hành quyền công tố. NCS cho rằng nguyên tắc độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo
pháp luật của HĐXX là điều kiện cần thiết, gắn liền với CNXX của Tòa án nhưng
không phải là đặc quyền không có giới hạn của Tòa án (HĐXX). Do đó, thiết nghĩ
cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện quy định vần đề nêu trên để bảo đảm các
113
cơ quan THTT thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, đồng thời bảo đảm quy định
GHXX sơ thẩm được thực hiện đúng trong thực tiễn xét xử.
Thứ hai, tình trạng giải quyết, kết án hình sự còn oan, sai nhiều; một số trường
hợp thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội
chưa đúng, vội kết luận tuyên án dẫn đến bản án, quyết định bị hủy hoặc sửa để lại
nhiều hệ lụy cho bản thân người bị kết án oan, gia đình họ thì bị xã hội xa lánh, ít
nhiều làm giảm niềm tin của người dân vào nền tư pháp nước ta. Về nội dung này, có
thể đề cập một số vụ án oan sai điển hình mà người bị kết án oan và gia đình họ phải
gánh chịu những tổn thương lớn về mặt tinh thần và thể chất, cụ thể như Vụ án thứ
nhất: Vụ án Trần Văn Thêm - Người đã mang thân phận“tử tù” hơn suốt 40 năm qua,
tại hai cấp tòa sơ thẩm và phúc thẩm (TAND tỉnh Vĩnh Phú và TANDTC tại Hà Nội),
ông Thêm đều kêu oan nhưng tiếng kêu của ông đều không được chấp nhận. Ông bị
kết án tử hình về hai tội giết người, cướp tài sản. Sau gần 06 năm ngồi tù, chưa một
cơ quan nào xét xử và kết luận lại rằng ông Thêm vô tội. Sau 46 năm, với bao công
sức và tiền của, cuối cùng vào chiều 09/8/2016, TANDTC đã có cuộc họp liên ngành
và công bố kết luận chính thức về vụ án của ông Trần Văn Thêm (trú tại xã Yên Phụ,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) kéo dài 46 năm là oan sai. Vụ án thứ hai: Vụ án
Nguyễn Thanh Chấn ngồi tù 10 năm oan ở Bắc Giang. Qua hai lần xét xử sơ thẩm và
phúc thẩm, TANDTC đã tuyên ông Chấn phạm tội “giết người” có tính chất côn đồ
với mức án xử phạt là chung thân. Trong suốt 10 năm ở tù, vợ ông Nguyễn Thanh
Chấn là bà Nguyễn Thị Chiến liên tục gửi đơn kêu oan tới các cơ quan có thẩm quyền.
Ngày 09/7/2013, Phòng 1 cơ quan điều tra VKSNDTC tiếp nhận đơn kêu oan. Ngày
02/11/2013, ông Nguyễn Thanh Chấn được Viện trưởng VKSNDTC ra quyết định
trả tự do sau hơn 10 năm bị tù oan vì ngày 25/10/2013, Lý Nguyễn Chung đã ra đầu
thú thừa nhận hành vi giết người. Vụ án thứ ba: Vụ án Hàn Đức Long ở tỉnh Bắc
Giang, HĐXX không chấp nhận lời kêu oan của bị cáo và đã tuyên bị cáo Hàn Đức
Long phạm tội hiếp dâm, giết người với mức án tử hình. Nhờ gia đình và luật sư bào
chữa liên tục kêu oan, nên các bản án đã nhiều lần bị hủy bỏ để yêu cầu điều tra lại.
Đến ngày 20/12/2016, VKSND tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định đình chỉ điều tra và
trả tự do cho ông Hàn Đức Long [162]
114
Thứ ba, tinh thần trách nhiệm của một số người THTT chưa cao, chưa vì “bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người” để giải quyết VAHS; bản lĩnh chính trị không
vững vàng dễ bị “cám dỗ” bởi vật chất, lợi ích địa vị mà vi phạm pháp luật; một số
công chức Tòa án chưa chấp hành nghiêm kỷ luật công vụ, chưa rèn luyện nâng cao
phẩm chất chính trị, đạo đức dẫn đến bị xử lý theo quy định của Đảng và quy định
của pháp luật, làm giảm uy tín ngành tư pháp nói chung và ngành Tòa án, kiểm sát
nói riêng. Tại phiên họp thứ 21 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chánh án TANDTC
thông tin: từ năm 2021 đến nay, có 106 trường hợp bị xử lý kỷ luật, trong đó có 07
trường hợp tham nhũng, tiêu cực. Cụ thể, năm 2021 có 43 trường hợp bị xử lý kỷ
luật, trong đó 03 trường hợp tham nhũng, tiêu cực. Năm 2022, có 35 trường hợp bị
xử lý kỷ luật, trong đó 04 trường hợp tham nhũng, tiêu cực. Từ tháng 10 năm 2022
đến tháng 3 năm 2023, có 28 trường hợp bị xử lý kỷ luật, trong đó 02 trường hợp vi
phạm pháp luật [161]. Thiết nghĩ, hoạt động xét xử là hoạt động tố tụng nhân danh
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quyết định “số phận pháp lý” của người bị buộc
tội, vì thế đòi hỏi người thực thi hoạt động này phải là người liêm chính, hiểu sâu sắc
những giá trị về quyền con người, vì con người vì công lý mà công tâm, khách quan
và đầy trách nhiệm khi ra phán quyết, rất khó để chấp nhận khi người “cần câm nảy
mực” lại tội phạm.
3.2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc
Thứ nhất, nhận thức và tư duy pháp luật chưa nhất quán về nội dung lẫn kỹ thuật
lập pháp về quy định GHXX sơ thẩm dẫn đến việc áp dụng pháp luật giải quyết VAHS
cụ thể còn khó khăn, vướng mắc nên chất lượng xét xử chưa cao, minh chứng là tỷ lệ
án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm còn cao, đặc biệt số vụ
án kháng nghị được HĐXX phúc thẩm chấp nhận cao (nếu năm 2015: 637/1.091 vụ,
chiếm 58% thì năm 2023: 636/788 vụ, chiếm 80,7%) (xem thêm Phụ lục 1).
Thứ hai, quy định pháp luật TTHS chưa thống nhất, đồng bộ, nhiều nội dung
trong BLTTHS chưa được hướng dẫn, cụ thể hoá để thực hiện như: các nguyên tắc
tiến bộ mới được ghi nhận trong BLTTHS như nguyên tắc tranh tụng, suy đoán vô
tội,...; quy định GHXX sơ thẩm (trường hợp xét xử tội nặng hơn tội danh VKS truy
tố mà vượt thẩm quyền của Tòa án đang thụ lý thì thủ tục tố tụng tiến hành trong các
115
trường hợp đó như thế nào); có nhiều quy định về nhiệm vụ tố tụng của các cơ quan
THTT không thuộc chức năng hiến định của cơ quan đó, dẫn đến thực tế thực thi
nhiệm vụ bị chồng chéo, đùn đẩy nhiệm vụ, khó khăn trong việc phối hợp.
Thứ ba, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ, công chức tư
pháp còn hạn chế; bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, chưa thật sự là “người cầm cân
nảy mực” phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân nên tinh thần trách nhiệm, ý thức
nghề nghiệp chưa cao cùng với sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, đơn vị chưa được
thường xuyên, tính kỷ cương kỷ luật trong hoạt động tư pháp chưa được quan tâm
đúng mức, nên vẫn còn tình trạng xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội;
công chức tư pháp bị xử lý kỷ luật do có hành vi vi phạm pháp luật (nội dung này
mục 3.2.3.1 đã minh chứng).
Thứ tư, trong quá trình giải quyết VAHS một số cơ quan TTHS chưa thực hiện
tốt công tác phối hợp, chưa thật sự lấy mục đích giải quyết VAHS “đúng người, đúng
tội, đúng luật”, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,... để làm hết trách nhiệm của
mình theo quy định của pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng. Thực tế cho thấy
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, khi quan điểm của Thẩm phán được phân
công chủ toạ phiên toà chủ trì nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa thống nhất nhận định của
VKS về truy tố tội danh hoặc khung hình phạt truy tố tội danh thì khi trao đổi, Tòa
án đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung thì đa phần kết quả phản hồi lại là “giữ nguyên
tội danh truy tố”. Có thể khách quan hoặc chủ quan của cơ quan điều tra, VKS mà
kết quả theo đề nghị của Tòa án về điều tra bổ sung không có thêm thông tin mới,
nên hệ quả là “việc ai nấy làm” theo quy định của pháp luật liên quan, làm cho bản
chất vụ án không được đạt đến “chân lý” của nó.
116
Tiểu kết chương 3
Sự hình thành, phát triển của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm gắn liền với sự
phát triển pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Giới hạn xét xử sơ thẩm xác định phạm
vi xét xử và điều kiện thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa và là “nơi thể hiện” xử
lý hài hoà các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự. Đồng thời, là cơ sở để các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình;
căn cứ pháp lý giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án hình sự được
khách quan, toàn diện, bảo vệ quyền con người; góp phần duy trì sự ổn định trật tự
an toàn xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, việc nghiên
cứu nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự luôn được quan tâm nghiên
cứu hoàn thiện về mặt lập pháp và thực tiễn thi hành.
Tuy nhiên, thực trạng luật pháp chưa thống nhất về mặt nhận thức dẫn đến qua
nhiều lần sửa đổi, bổ sung mà thực tiễn thi hành vẫn còn vướng mắc, bất cập. Nội
dung chương này đã phân tích, so sánh quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm trước khi
có Bộ luật tố tụng hình sự và nội dung quy định trong từng Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988, năm 2003 và năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021); phân tích thực tiễn
áp dụng quy định qua một số vụ án hình sự cụ thể và xác định nguyên nhân chính yếu
dẫn đến vướng mắc phát sinh. Từ đó, làm cơ sở đặt ra yêu cầu và hoàn thiện pháp
luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm một cách có hệ thống, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
117
Chương 4
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG
QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
4.1. Yêu cầu hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét
xử trong tố tụng hình sự Việt Nam
4.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
Cải cách tư pháp là vấn đề lớn và rất quan trọng trong đời sống chính trị - xã
hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, cải cách tư pháp luôn được Đảng
và Nhà nước ta rất quan tâm, đã có nhiều Nghị quyết đại hội và Nghị quyết hội nghị
của Đảng về cải cách tư pháp, như: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, XI,XII, XIII;
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng pháp luật đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-
2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII về “việc
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai
đoạn mới” trong đó đã đưa ra yêu cầu của một nền tư pháp dân chủ, hiện đại. Một
trong những nội dung quan trọng của các Nghị quyết đều xác định: phòng ngừa và
đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm cũng như bảo đảm quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện chúng ta đang tiến hành xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, hoàn thiện
hệ thống pháp luật tố tụng là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ
này cần phải được tiến hành bằng nhiều giải pháp, biện pháp khoa học và đồng bộ,
trong đó việc nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động xét xử là một biện pháp quan
trọng không thể thiếu, bởi lẽ tiến trình cải cách tư pháp xác định “…Tòa án có vị trí
trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [11]. Muốn vậy thì việc thường xuyên
hoàn thiện pháp luật TTHS liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án là một yêu cầu
tất yếu, khách quan.
118
Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta,
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp, nâng cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời
kỳ hội nhập quốc tế; bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người trong hoạt động
tư pháp mà trong đó quyền tư pháp tập trung nhất ở hoạt động xét xử của Tòa án thể
hiện nền công lý công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Đây là sự
đòi hỏi khách quan để thích ứng với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, đổi mới về
hệ thống chính trị, đổi mới về bộ máy Nhà nước, nhằm từng bước xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Công cuộc cải cách tư pháp đang tiến hành theo tinh thần
của các Nghị quyết cùa Bộ Chính trị liên quan đến Chiến lược cải cách tư pháp ở
nước ta và gần đây Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII “về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới” cũng đã tiếp tục đề cập
đến vấn đề này. Để thực hiện tốt yêu cầu cải cách tư pháp, Đảng ta đã chỉ rõ: “... khi
xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên,
người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền,
lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục
và trong thời hạn pháp luật quy định” [9]. Cùng với đó, trong nhiều nghị quyết của
Quốc hội cũng đã đặt ra yêu cầu “Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận,
đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự…TANDTC chỉ đạo các Tòa án tiếp tục
đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa…” [115];“…Nâng cao chất lượng tranh tụng
của kiểm sát viên tại phiên tòa, chủ động tham gia xét hỏi, luận tội có căn cứ thuyết
phục, đối đáp đầy đủ ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác” [116].
Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân phải
được coi là công cụ để thực hiện có hiệu quả trước hết và trên hết là các quyền, các
119
lợi ích của người dân. Mục đích của Nhà nước pháp quyền là phục vụ các nhu cầu
của xã hội và của cá nhân. Nhưng pháp luật TTHS hiện hành và thực tiễn thực hiện
các mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền THTT với những người tham gia
tố tụng còn đang đề cao vị trí, vai trò, uy tín và lợi ích của Nhà nước và của bộ máy
nhà nước mà chưa thực sự quan tâm và tạo điều kiện để các quyền, lợi ích của cá
nhân, tổ chức được thực hiện một cách tốt nhất [22]. Do đó, trong quá trình đổi mới,
cải cách tư pháp cần xác định mục tiêu là đề cao quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và lợi ích chung của xã hội.
Có như vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân mới thực chất chứ không phải chỉ là những câu khẩu hiệu suôn, những tuyên bố
đơn thuần. Có thể nói rằng, mọi cuộc cải cách, nội dung cải cách thì mục tiêu cuối
cùng cũng là vì con người, con người là động lực của sự phát triển.
Thông qua việc thực hiện CNXX, các kết quả của hoạt động buộc tội, bào chữa
được kiểm tra, đánh giá một cách công khai theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ mà
BLTTHS đã quy định. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết tuyên bố
một người có tội hay vô tội, nếu có tội thì phạm tội gì thuộc điều khoản nào của
BLHS, chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án đưa
ra những phán xét cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước, thể hiện công lý, sự
công bằng và bình đẳng, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ
thống cơ quan tư pháp trong bộ máy Nhà nước. Qua đó có thể thấy, để thực hiện công
cuộc cải cách tư pháp ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, đòi hỏi yêu cầu của công
việc, kế hoạch, chính sách khác nhau. Tuy nhiên, để thực hiện thành công công cuộc
cải cách tư pháp nói chung yêu cầu đối với hệ thống cơ quan tư pháp, người làm công
tác tư pháp phải “tự nâng mình lên” về mọi mặt: nhận thức, tư duy pháp luật, trình
độ, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm của người thực thi pháp luật để bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ Nhà nước, quyền công dân trong thời kỳ mới - thời kỳ cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật công nghiệp tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống và trên phạm
vi toàn cầu.
Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng ta xác định đặt ra cho Tòa án
nhiệm vụ: bảo đảm cho mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật, phán quyết
120
của Tòa án chỉ được căn cứ vào pháp luật, phán quyết của Tòa án được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, có sức thuyết phục cao nhằm góp phần bảo đảm sự ổn định
xã hội, giữ vững kỷ cương pháp luật, bảo vệ công lý và sự công bằng trong xã hội thì
việc hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung và quy định về GHXX sơ thẩm nói riêng
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những yêu cầu cấp thiết của
công cuộc đổi mới nói chung và công cuộc cải cách tư pháp nói riêng. Vấn đề quan
trọng đặt ra cần xác định đúng đắn nội dung để hoàn thiện góp phần xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bảo đảm quyền con người trong TTHS thực sự
được tôn trọng và thực hiện trong Nhà nước - đó là một biểu hiện của nền tư pháp
dân chủ cần hướng đến.
4.1.2. Yêu cầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng trong
quá trình lập hiến. Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 thể hiện một cách tập trung
nhất ý chí và nguyện vọng của Nhân dân trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Đây không chỉ là sản phẩm của hoạt động lập hiến đơn thuần, mà
còn là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, kế thừa kết quả, tổng kết thực tiễn về công
cuộc đổi mới đất nước và tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam. Trên nền tảng đó, những định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
TTHS về GHXX sơ thẩm cũng phải đặt ra phù hợp với việc xây dựng hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nội dung tinh thần Hiến pháp năm 2013.
BLTTHS là đạo luật quy định trình tự thủ tục TTHS giải quyết VAHS; quy định
chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia TTHS, đây là đạo luật liên quan trực
tiếp đến quyền con người, quyền công dân. Do đó, việc ban hành bộ luật này đòi hỏi
rất cẩn trọng, xem xét toàn diện các yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyền con người,
để chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm quyền con người trong TTHS được thực
hiện đầy đủ, đúng đắn. BLTTHS năm 2015 đã có những quy định bảo đảm những
quyền cơ bản của con người, nhưng trong quá trình áp dụng đã bộc lộ những bất cập
làm hạn chế việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quy định về GHXX sơ thẩm
và những quy định có liên quan đến việc thực hiện quy định này (đã được đề cập
121
trong nội dung chương 3 luận án). Vì thế, việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS hiện hành
trong đó có quy định về GHXX sơ thẩm là nhu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tốt hơn
quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Trên cơ sở yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và yêu cầu hoàn thiện pháp
luật phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND
hiện hành và thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm trong quá trình giải quyết
VAHS, NCS nhận thấy việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật TTHS về GHXX sơ
thẩm cần phải bảo đảm một số nội dung sau:
Thứ nhất, phải thật sự bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc đặc trưng cơ bản
của pháp luật TTHS, đó là: nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị buộc tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm,
nguyên tắc xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật vụ án.
Khi xét xử, Tòa án (HĐXX) phải thật sự độc lập, dựa vào quy định của pháp luật có
liên quan và các tình tiết, chứng cứ đã được đánh giá, làm sáng tỏ thông qua các hoạt
động thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết thuyết phục lòng dân.
Thứ hai, phải bảo đảm sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa
án và VKS trong TTHS một cách rõ ràng. Chức năng, nhiệm vụ của VKS và Tòa án
được quy định trong Hiến pháp và BLTTHS là khác nhau và độc lập. Điều 102 và
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: VKS thực hành quyền công tố, kiểm sát các
hoạt động tư pháp; TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
thực hành quyền tư pháp. Nhiệm vụ của Tòa án và VKS vừa có điểm giống nhau vừa
có điểm khác nhau. Ngoài nhiệm vụ chung là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Điều 2 Luật tổ chức TAND còn quy định bằng hoạt
động của mình, Tòa án “góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác" và Điều 2
Luật tổ chức VKSND hiện hành quy định VKS có nhiệm vụ "góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Vì vậy, để nhiệm vụ chính trị
chung được thực hiện tốt, VKS và Tòa án cần phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng. Thực
122
chất, suy cho cùng đây đều là những cơ quan thực hiện công tác tư pháp, nên các
quyết định của cơ quan này ít nhiều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức trong đời sống xã hội. Cho nên, sự phối hợp giữa Tòa án và VKS cũng
như giữa cơ quan Điều tra với VKS là rất cần thiết để cùng hợp tác, chế ước nhau
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ hiến định.
Trong TTHS, việc quy định chức năng của các cơ quan THTT là để phù hợp
với yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Xuất phát từ mục
đích của TTHS là giải quyết VAHS một cách nhanh chóng, công minh và đúng pháp
luật, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân nên các cơ quan THTT phải có trách nhiệm phối hợp với nhau. Tuy nhiên, để
tránh lạm quyền, bảo đảm giải quyết đúng đắn, khách quan VAHS thì ngoài các quy
định thể chế hóa sự phối hợp giữa các cơ quan THTT, pháp luật TTHS còn có nhiều
quy định thể chế hóa quan hệ chế ước giữa Tòa án và VKS, đó chính là quy định
GHXX sơ thẩm trong BLTTHS. GHXX sơ thẩm là ranh giới thể hiện rõ quyền hạn
của Tòa án và VKS khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và là quy định giúp các chủ
thể tham gia tố tụng khác thực hiện đúng nghĩa vụ, quyền tố tụng của mình. Vì thế,
việc thường xuyên hoàn thiện quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS là yêu cầu tất
yếu trong công cuộc cải cách tư pháp hình sự.
Thứ ba, bảo đảm vị trí của Tòa án thật sự là trung tâm của hoạt động tố tụng; là
“trọng tài” trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa; là chủ thể nhân danh Nhà nước
thực hiện CNXX để bảo vệ công lý; bảo vệ quyền con người; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; bảo đảm cho việc áp dụng pháp
luật chính xác, khách quan và công bằng. Công lý, lẽ phải có được thực thi hay không
là hoàn toàn phụ thuộc vào phán quyết của Tòa án, nên việc hoàn thiện pháp luật về
GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng cần phải bảo đảm cho Tòa án (HĐXX)
là “người trọng tài” trong hoạt động xét xử.
Thứ tư, hoàn thiện quy định GHXX phải bảo đảm sự phù hợp với các quy định
khác của BLTTHS. BLTTHS năm 2015 đã kế thừa và phát huy những giá trị pháp
luật TTHS truyền thống được hình thành qua các thời kỳ lịch sử của Việt Nam và thể
chế hóa một bước các chủ trương, quan điểm của Đảng, của Nhà nước ta về cải cách
123
tư pháp. Tuy nhiên, trước những yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn
diện trên mọi lĩnh vực, để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng như thủ tục tư
pháp nói riêng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập
kinh tế quốc tế, các Nghị quyết cùa Bộ Chính trị liên quan đến Chiến lược cải cách tư
pháp và gần đây Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII về “việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới” đã chỉ ra nhiều vấn đề
của TTHS như: hoạt động tư pháp, chất lượng tranh tụng tại phiên toà, vai trò của Tòa
án trong việc xây dựng nền tư pháp dân chủ, hiện đại, vấn đề bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, lẽ công bằng, … cần phải được nghiên cứu, từng bước hoàn thiện.
Do vậy, việc sửa đổi BLTTHS phải đáp ứng được các yêu cầu trên và phải bảo
đảm tính thống nhất và khả thi. Theo đó, quy định về GHXX sơ thẩm cũng phải phù
hợp với các quy định khác của BLTTHS để tạo nên một đạo luật TTHS khoa học,
đồng bộ và logic. Cụ thể: quy định về GHXX sơ thẩm phải bảo đảm cho Tòa án thật
sự xét xử độc lập (không quy định nhiệm vụ không thuộc chức năng, việc tổ chức
Tòa án các cấp theo đơn vị hành chính, bổ nhiệm chức danh tư pháp theo nhiệm
kỳ,…); bảo đảm triệt để quyền bào chữa của người bị buộc tội; bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử thông qua việc quy định trình tự xét hỏi; xử lý vấn đề rút quyết
định truy tố (một phần, toàn phần) tại phiên tòa,… Thiết nghĩ, nội dung GHXX sơ
thẩm được quy định phù hợp sẽ góp phần bảo đảm việc xét xử của Tòa án “đúng
người, đúng tội và đúng pháp luật”, có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội
phạm và tạo niềm tin cho Nhân dân.
4.1.3. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kế thừa những giá trị, đặc trưng cơ bản, phổ biến của Nhà pháp pháp quyền như
quyền lực nhà nước là ở nhân dân, bảo đảm chủ quyền của nhân dân; Nhà nước đề
cao pháp luật, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội;
bảo đảm tính độc lập của Tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật; Nhà
nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân; hình thức
tổ chức quyền lực nhà nước phổ biến trong nhà nước pháp quyền là phân chia và chế
ước lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,... Trong thời kỳ đổi mới,
124
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã xác định
nhiệm vụ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân”. Đây là lần đầu tiên Văn kiện của Đảng chính thức sử dụng khái
niệm “Nhà nước pháp quyền”. Từ đó đến nay, qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc,
Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn những yêu cầu, quan điểm, nguyên tắc, nội dung,
giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ
thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác
định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các
nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực Nhà nước” [150].
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng là
sự cụ thể hóa và phát triển Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Kế thừa các nội dung của Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ-
TW của Bộ Chính trị như khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và phù hợp với thực tiễn Việt Nam; các
định hướng mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật “thống nhất, đồng bộ, khả thi, công
khai, minh bạch”, xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh”,... Nghị quyết số 27-NQ/TW có thêm nhiều nội dung mới, được bổ sung, phát
triển như: Xác định rõ tám đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;
yêu cầu phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả quyền lực
nhà nước; yêu cầu hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, ổn định, dễ tiếp cận, được
thực hiện nghiêm minh và nhất quán; tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,
lợi ích nhóm trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật và thực thi công vụ; xây
dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, trong đó xác định nội dung: “hoàn thiện chính
125
sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân…; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh
tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền,
hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công
dân…; xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư
pháp;…”. Bên cạnh đó, Nghị quyết 27-NQ/TW cũng đã xác định nội dung trọng tâm
trong việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là “Hoàn
thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất
quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực pháp luật;…; đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo
thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
[5]. Những giá trị tiến bộ, văn minh của Nhà nước pháp quyền được Đảng và Nhà
nước tiếp thu, chọn lọc để xây dựng Nhà nước pháp quyền XNCN ở Việt Nam là một
quá trình nhận thức phức tạp, đổi mới tư duy về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội để
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện theo những tiêu
chuẩn chung mà thế giới thừa nhận về nhà nước pháp quyền. Để làm được điều đó,
đòi hỏi hệ thống chính trị phải nhận thức đúng, quyết tâm chính trị cao, thống nhất
thực hiện. Qua những nội dung được xác định trong Văn kiện Đại hội Đảng XIII và
Nghị quyết 27 việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta, có
thể thấy: việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ và bảo đảm thực
hiện nhất quán là điều quan trọng, cần thiết bậc nhất trong Nhà nước pháp quyền -
Nhà nước mà ở đó “pháp luật là tối thượng”; dân chủ được đề cao và mở rộng; đòi
hỏi một nền tư pháp độc lập và chuyên nghiệp. Hoạt động TTHS là một bộ phận cấu
thành nền tư pháp, tính hiệu quả của chúng (đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án)
ảnh hưởng trực tiếp đến “số phận pháp lý của con người” và thể hiện tính chuyên
nghiệp của nền tư pháp nói chung. Do đó, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật
TTHS nói chung và quy định GHXX sơ thẩm nói riêng cũng là một nội dung quan
trọng trong việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, công bằng; góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, được thực hiện nghiêm minh và nhất
quán đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
126
4.1.4. Yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm trừ trường hợp đặc biệt,
cần bảo vệ lợi ích của quốc gia, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật TTHS. Bảo đảm quyền con người không chỉ là nội dung, bản chất mà còn trở
thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở các quốc gia.
“Bảo đảm quyền con người được hiểu là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện chính
trị, kinh tế, xã hội, pháp luật và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công
dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật
ghi nhận”[45]. Trên quan điểm đó, có thể hiểu: Bảo đảm quyền con người trong
TTHS là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về mặt pháp luật, thiết lập cơ chế thực hiện
và đặt ra các biện pháp kiểm tra, giám sát, xử lý để những người tham gia tố tụng
thực hiện được các quyền con người mà pháp luật TTHS ghi nhận.
Bảo đảm quyền con người được thực hiện trong pháp luật TTHS bằng các
phương thức, biện pháp khác nhau, gồm các bảo đảm pháp lý, bảo đảm về tổ chức,
bảo đảm về con người và bảo đảm về trách nhiệm. Trong đó, các biện pháp quan
trọng nhất là bằng các quy định đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật TTHS và
bảo đảm các quy định đó được thực hiện trên thực tế. Dưới góc độ pháp lý, NCS nhận
thấy các quy định của BLTTHS năm 2015 đã cơ bản thể hiện các tiêu chuẩn quốc tế
và tinh thần Hiến pháp năm 2013 trong việc bảo đảm quyền con người, như quy định
các nguyên tắc cơ bản liên quan đến bảo vệ quyền con người; quy định tương đối rõ
ràng địa vị tố tụng của các chủ thể TTHS; đặc biệt là địa vị tố tụng của người tham
gia tố tụng nói chung, người bị buộc tội nói riêng,… Tuy nhiên, từ góc độ bảo vệ
quyền con người, hoạt động tố tụng theo BLTTHS hiện hành vẫn còn những bất cập,
hạn chế nhất định, đó là: chưa bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc tố tụng, nhất
là nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, nguyên
tắc tranh tụng; các thủ tục tố tụng chưa bảo đảm thể hiện tính khách quan, tạo điều
kiện để người tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng,... Do đó, thiết nghĩ các
quy định của BLTTHS liên quan thực hiện các chức năng tố tụng, trong đó có quy
định GHXX sơ thẩm cần được tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh, hoàn thiện để cơ chế
127
bảo đảm quyền con người trong TTHS về mặt pháp lý được thực thi trên thực tế, góp
phần từng bước xây dựng nền tư pháp dân chủ.
Trong các tuyên bố của Việt Nam về thành tựu quyền con người đã khẳng định:
“… việc bảo đảm và thúc đầy quyền con người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn
của mỗi quốc gia. Các quốc gia có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong
nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế… để bảo đảm cho
người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất” [67]. Trên tinh thần
này, Hiến pháp và BLTTHS năm 2015 đã chú trọng đặc biệt đến việc tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người nói chung và trong quá trình tiến hành TTHS nói riêng.
TTHS là lĩnh vực hoạt động nhà nước nhạy cảm liên quan đến quyền con người. Hơn
ở đâu hết, quyền con người dễ bị xâm phạm nhất là trong TTHS và hậu quả của sự
xâm phạm đó thường là rất nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và tinh thần. Bởi lẽ,
“TTHS là một quá trình mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa một người ra xử lý
trước pháp luật, khi họ bị coi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Lúc đó, xuất hiện
nhiều mối quan hệ xã hội cụ thể do pháp luật TTHS điều chỉnh, các bên tham gia
mang quyền và nghĩa vụ pháp luật TTHS quy định. Một bên đại diện Nhà nước nên
mang tính quyền lực với sức mạnh cưỡng chế - các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng và một bên bị xem là “yếu thế” hơn - người bị buộc tội. Vì thế, hoạt động
TTHS trong bất cứ Nhà nước nào đều được xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi nói đến
vấn đề bảo vệ quyền con người” [59]. Vì thế, yêu cầu phải bảo đảm, bảo vệ quyền
con người trong TTHS là điều cần thiết, khách quan để các quyền con người trong
TTHS được ghi nhận không phải là hình thức, đồng thời đó cũng là cơ sở để các cơ
quan tiến hành tố tụng, người TTHS luôn thực hiện đúng chức năng, quyền hạn; có ý
thức tôn trọng các quyền con người của người tham gia tố tụng nói chung và người
bị buộc tội nói riêng. Có như vậy, quá trình giải quyết VAHS mới bảo đảm đúng đắn
và công bằng.
128
4.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét
xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hình sự Việt Nam
Với kết quả phân tích về mặt lý luận của quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS
Việt Nam ở chương 2, những hạn chế, vướng mắc về thực tiễn áp dụng quy định ở
chương 3 và yêu cầu đặt ra cần hoàn thiện pháp luật TTHS về quy định GHXX sơ
thẩm thể hiện tại mục 4.1 chương 4. NCS xin đề xuất một số nội dung, như sau:
4.2.1.1. Xây dựng mô hình lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình
sự Việt Nam
Giới hạn xét xử được quy định nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các
chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự. BLTTHS năm 2003 cho phép Tòa án sơ thẩm
được quyền xét xử bị cáo theo khoản khác nặng hơn khoản mà VKS đã truy tố trong
cùng một điều luật. BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) cũng quy định
tương tự cho phép Tòa án xét xử bị cáo theo khoản khác nặng hơn và tội danh nặng
hơn tội danh mà VKS đã truy tố. Quy định này theo NCS là không phù hợp, xuất phát
từ những lý do sau đây:
Thứ nhất, theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức TAND và BLTTHS thì
Tòa án thực hiện CNXX và có vai trò quan trọng bảo đảm cho hoạt động tranh tụng
trong xét xử diễn ra khách quan và công bằng. Việc BLTTHS cho phép Tòa án xét
xử theo khung hình phạt khác nặng hơn hoặc tội danh khác nặng hơn tội danh mà
VKS đã truy tố, tức là Tòa án đã thực hiện chức năng buộc tội. Điều này không phù
hợp với chức năng tố tụng của Tòa án đã được Hiến pháp và pháp luật quy định.
CNXX phát sinh trên cơ sở chức năng buộc tội, vì vậy GHXX của Tòa án là trong
phạm vi của chức năng buộc tội. Tòa án có thể xem xét và quyết định những vấn đề
khác với việc truy tố của VKS: xét xử theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố
trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy
tố, không thể vượt giới hạn để xét xử bị cáo theo khung hình phạt khác nặng hơn hay
tội danh khác nặng hơn.
129
Thứ hai, quy định cho phép Tòa án xét xử theo tội danh khác nặng hơn hoặc
khung hình phạt khác nặng hơn trong cùng một điều luật so với truy tố của VKS sẽ
vi phạm quyền bào chữa của bị cáo, mặc dù BLTTHS năm 2015 có quy định nếu cần
xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông
báo cho bị cáo, người bào chữa và đại diện hợp pháp của họ biết để chuẩn bị việc bào
chữa nhưng quy định này cũng không bảo đảm được quyền bào chữa của bị cáo ở
giai đoạn điều tra và truy tố. Đặc biệt là đối với những trường hợp mà việc xét xử
theo khung hình phạt khác nặng hơn hoặc tội danh nặng hơn so với việc truy tố của
VKS mà rơi vào trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa. Lúc này, vụ án không
được điều tra lại mà chỉ truy tố lại nên quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra khi
Tòa án xét xử theo khung hình phạt khác hoặc tội danh nặng hơn sẽ không được bảo
đảm. Trong trường hợp, Tòa án xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn, mặc dù
có thông báo cho bên bị buộc tội biết để chuẩn bị bào chữa nhưng việc thực hiện
quyền bào chữa tại phiên tòa sẽ gặp khó khăn do phạm vi tội danh mà Tòa án được
quyền xét xử bị cáo là quá rộng, bên bị buộc tội phải chuẩn bị mọi phương án mà Tòa
án có thể xét xử bị cáo và bên bị buộc tội không chỉ phải bào chữa, tranh luận với
VKS mà còn có cả Tòa án. Phiên tòa chưa được mở mà Tòa án đã có sự đánh giá
trước sẽ xét xử bị cáo với tội danh nặng hơn điều này trái với nguyên tắc tranh tụng
và trái với tinh thần cải cách tư pháp (bản án, quyết định phải căn cứ vào kết quả xét
hỏi, tranh luận tại phiên tòa).
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 đã chính thức ghi nhận
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Nguyên tắc này có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Đồng thời, nguyên tắc này đã chi phối việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS
năm 2015 về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng, chứng cứ chứng minh và thủ
tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm cho các bên tham gia tranh tụng dân chủ, công
bằng và khách quan. Chính vì vậy, quy định về GHXX sơ thẩm bảo đảm cho Tòa án
chỉ thực hiện CNXX. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS cho phép Tòa án xét xử theo
khung hình phạt khác hoặc tội danh khác nặng hơn so với truy tố của VKS, điều này
130
sẽ làm cho việc thực hiện các chức năng tố tụng tại phiên tòa trở nên phức tạp. Tòa
án xét xử và buộc tội, VKS thực hành quyền công tố để bảo vệ quan điểm của mình
theo hướng tội nhẹ hơn, khung hình phạt nhẹ hơn, bên bào chữa thực hiện bào chữa
chống lại việc buộc tội của VKS. Trong trường hợp này, sự thật vụ án có thể là sự
thật chủ quan của Tòa án và bản án, quyết định của Tòa án sẽ không dựa trên kết quả
tranh tụng tại phiên tòa.
Quy định cho phép Tòa án có thể xét xử theo khung hình phạt nặng hơn hoặc
tội danh khác nặng hơn so với truy tố của VKS có thể khắc phục được những vướng
mắc trong thực tiễn xét xử xảy ra trong thời gian qua khi không có sự thống nhất quan
điểm giữa VKS với Tòa án, nhưng thực tế lại phát sinh vướng mắc khác khi áp dụng
“tội danh khác nặng hơn so với truy tố của VKS” nó vượt thẩm quyền của Tòa án cấp
huyện thì xử lý như thế nào? Hiện chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện tình huống
này. Chúng ta không nên vì những bất cập xảy ra trong một số vụ án trên thực tiễn
mà đi ngược lại với những nguyên lý nền tảng trong TTHS là bảo vệ quyền con người,
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và “không làm xấu hơn tình trạng của
bị cáo”. NCS cho rằng nguyên tắc “độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật” là
điều kiện cần thiết, gắn liền với CNXX của Tòa án, nhưng không phải là đặc quyền
không có giới hạn của Tòa án. Ở đây, rõ ràng có sự xung đột giữa yêu cầu xác định
sự thật của vụ án, độc lập xét xử của Tòa án với quyền, lợi ích hợp pháp và quyền
bào chữa của bị cáo, xung đột với các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô
tội...Theo ý kiến của NCS, xung đột này cần được giải quyết trên cơ sở ưu tiên bảo
đảm quyền bào chữa của bị cáo; bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng, nguyên
tắc suy đoán vô tội, theo đó Tòa án chỉ xét xử, không buộc tội. Những ưu tiên này
làm cho hoạt động TTHS của chúng ta tiến bộ hơn, nhân văn hơn. Còn về lọt tội (nếu
có) thì người phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước là VKS chứ không phải là Tòa
án. Hơn nữa, các quyết định tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm trái pháp luật, không có căn
cứ làm lọt tội, .... đều có thể bị hủy bỏ ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thông qua kháng
cáo, kháng nghị.
Việc nêu vấn đề để tiếp tục nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau nhằm hoàn
thiện quy định GHXX sơ thẩm là điều cần thiết, thiết thực góp phần xây dựng pháp
131
luật TTHS hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới - thời kỳ hội nhập quốc tế. Với tinh thần đó, thiết nghĩ cần hoàn thiện chế
định GHXX sơ thẩm theo những định hướng có tính phương pháp luận sau đây:
Cần nhận thức thống nhất về bản chất đích thực của nội dung GHXX: đây là
một trong những biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, vì thế nội dung
của nó không thể thoát ly nội dung nguyên tắc tranh tụng. Tranh tụng là quy luật
khách quan vốn có của hoạt động TTHS đòi hỏi phải có sự phân định rạch ròi về chủ
thể (nhóm chủ thể) thực hiện các chức năng cơ bản khác nhau trong đó, Tòa án là cơ
quan chỉ thực hiện CNXX khi có nhu cầu giải quyết tranh chấp pháp lý giữa hai bên
tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền trong hoạt động chứng minh. Việc trao cho
Tòa án bất kỳ thẩm quyền nào không phù hợp với CNXX đều có thể làm biến dạng
vai trò, hình ảnh của Tòa án và phủ định nội dung của nguyên tắc tranh tụng. Theo
NCS, kinh nghiệm của BLTTHS hiện hành của Liên Bang Nga dứt khoát từ bỏ những
quy định, những thẩm quyền không thuộc về CNXX của Tòa án là rất đáng chú ý.
Cần nhận thức đúng đắn về nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và trong điều kiện thừa nhận tranh tụng là
nguyên tắc cơ bản của hoạt động TTHS. Độc lập của Thẩm phán gắn liền với CNXX.
Nhưng sự độc lập này cần được xem là như điều kiện cần thiết để thực hiện CNXX,
chứ không phải là đặc quyền không có giới hạn. Quy định GHXX trong pháp luật
TTHS ở nước ta từ Thông tư 16 năm 1974 đến BLTTHS hiện hành luôn giới hạn độc
lập xét xử của Tòa án về phạm vi bị cáo và phạm vi hành vi mà VKS truy tố. Tại
phiên tòa, mặc dù thấy có căn cứ nhưng Tòa án cũng không có quyền xét xử luôn
đồng phạm mới hoặc người phạm tội mới hoặc tội mới mà VKS không truy tố, bởi lẽ
vì như vậy sẽ phá vỡ nền tảng quan hệ tố tụng có truy tố mới có xét xử giữa VKS và
Tòa án, vi phạm quyền bào chữa của bị cáo (và của những người trước đó chưa bị
truy tố). Lịch sử phát triển quy định GHXX thế giới đã đề cập ở trên, cho thấy: GHXX
“mở tuyệt đối” đặc trưng cho mô hình TTHS trung cổ ở Châu Âu hoặc TTHS thời
phong kiến ở nước ta trước đây chính là những mô hình đã tuyệt đối hoá độc lập của
Thẩm phán như là một quyền năng không bị hạn chế. Chắc chắn cải cách tư pháp và
Hiến pháp ở nước ta không cần đến một tòa như vậy. Trường hợp các tình tiết thực
132
tế của vụ án không thay đổi, chỉ có đánh giá pháp lý đối với hành vi bị truy tố (định
tội danh) của Tòa án khác với VKS thì kinh nghiệm quốc tế nào là đáng để chúng ta
học hỏi? Theo quan điểm của NCS, kinh nghiệm pháp luật TTHS của Anh-Mỹ và
Liên bang Nga giải quyết khả năng thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa theo hướng
không được làm xấu tình trạng bị cáo và không được vi phạm quyền bào chữa của
chủ thể này là lựa chọn tốt nhất cho sửa đổi và hoàn thiện Điều 298 BLTTHS hiện
hành, vì nó phù hợp với chính những nguyên tắc hiến định mà Bộ luật này đã ghi
nhận, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Với
quan điểm nêu trên, NCS thiết nghĩ cần xây dựng mô hình quy định về GHXX sơ
thẩm để thống nhất trong tư duy lập pháp và áp dụng pháp luật TTHS liên quan trên
cơ sở tôn trọng Hiến pháp, các nguyên tắc cơ bản trong TTHS và bảo đảm các cơ
quan THTT thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Có như vậy, chúng ta
mới có thể hướng đến một nền tư pháp dân chủ, tiến bộ và nhân văn. Qua tìm hiểu,
NCS nhận thấy mô hình quy định GHXX “mở có điều kiện” là mô hình chúng ta có
thể vận dụng với điều kiện, đặc điểm tư duy pháp lý của nước ta với nội dung cần xác
định: thứ nhất, thể hiện mối quan hệ ràng buộc pháp lý giữa nội dung truy tố của VKS
và hoạt động xét xử của Tòa án (có truy tố mới có xét xử); thứ hai, thay đổi nội dung
truy tố tại phiên tòa khi bảo đảm hai điều kiện: không làm xấu tình trạng bị cáo và
không vi phạm quyền bào chữa của bị cáo.
4.2.1.2. Hoàn thiện những quy định pháp lý liên quan đến chế định giới hạn xét
xử sơ thẩm
Một là, hoàn thiện quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm
Tính tối thượng của Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi Điều 298 BLTTHS hiện hành
phải được sửa đổi và hoàn thiện. Để khắc phục những hạn chế của điều luật này cần
bắt đầu từ việc xác định đúng đắn nguyên nhân của những hạn chế đó. Nguyên nhân
chính có vai trò là nền tảng lý luận của Điều 298 BLTTHS hiện hành là quan điểm
“tuyệt đối hoá” nguyên tắc độc lập khi xét xử của Tòa án hoặc nguyên tắc xác định
sự thật của vụ án, không nhận diện đúng bản chất của quy định GHXX sơ thẩm.
Nguyên nhân thứ hai là thiếu sự nhất quán trong kỹ thuật lập pháp dẫn đến sự không
133
đồng bộ giữa các quy định của BLTTHS năm 2015. Với phương pháp luận hoàn thiện
quy định GHXX sơ thẩm trong BLTTHS năm 2015 như trên đã trình bày - đó chính
là cơ sở NCS kiến nghị sửa đổi Điều 298 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2021) theo hướng như sau:
- Giữ nguyên khoản 1 Điều 298. Đây là sự khẳng định nguyên lý từ cổ xưa về
mối quan hệ có tính phụ thuộc giữa truy tố và xét xử “Nemo nisi accusatus fuerit,
condemnari potets” - có truy tố mới có xét xử [163]. Theo nguyên tắc “cá thể hoá”
trách nhiệm hình sự thì hành vi bị truy tố của bị cáo luôn gắn liền với tội danh cụ thể
(đánh giá pháp lý về hành vi bị truy tố). Quyết định truy tố của VKS khi đã được
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là đối tượng và giới
hạn phạm vi của hoạt động xét xử. Tòa án không có quyền xét xử tội mới đối với bị
can, không có quyền xét xử người phạm tội mới.
- Sửa khoản 2 Điều 298 theo hướng khẳng định nguyên tắc việc thay đổi nội
dung truy tố tại phiên tòa chỉ được chấp nhận, nếu không làm xấu tình trạng bị cáo
và không vi phạm quyền bào chữa của chủ thể này.
- Bỏ khoản 3 Điều 298 BLTTHS
Từ quan điểm trên, NCS đề xuất sửa đổi nội dung Điều 298 BLTTHS như sau:
“Điều 298. Giới hạn của việc xét xử
1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát
truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã
truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện
kiểm sát đã truy tố, nhưng quá trình xét xử phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.”
Hai là, hoàn thiện các quy định liên quan đến việc áp dụng chế định giới hạn
xét xử sơ thẩm
Sửa đổi Điều 298 BLTTHS năm 2015 để bảo đảm tính nhất quán trong tư duy
lập pháp và kỹ thuật lập pháp của BLTTHS năm 2015. Ghi nhận tranh tụng là nguyên
tắc cơ bản tại Điều 26 chưa đủ để làm cho hoạt động tố tụng có tính tranh tụng mà
đòi hỏi nội dung của nguyên tắc này phải được cụ thể hóa một cách đồng bộ, xuyên
suốt trong các điều luật cụ thể, đặc biệt là những quy định về xét xử tại phiên tòa sơ
134
thẩm (trong đó có GHXX) bởi lẽ đây chính là giai đoạn giải quyết thực chất vụ án, là
nơi thể hiện tập trung nhất của nguyên tắc tranh tụng. Sửa đổi Điều 298 cũng chỉ có
ý nghĩa khi sửa đổi các quy định khác có liên quan của BLTTHS để bảo đảm đồng
bộ với nhiều nội dung của nguyên tắc “không làm xấu tình trạng bị cáo”. Có như
vậy, quy định GHXX sơ thẩm mới có thể được thực thi trên thực tế. Vì thế, qua nghiên
cứu NCS xin đề xuất bãi bỏ, sửa đổi một số nội dung các điều luật trong BLTTHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), cụ thể như sau:
Thứ nhất, “Điều 4. Giải thích từ ngữ” nên quy định tiêu chí xác định thế nào là
“tội nặng hơn”, thế nào là “tội nhẹ hơn”, trường hợp như thế nào là “làm xấu tình
trạng bị cáo”, thay đổi theo hướng bất lợi cho bị cáo và quyền bào chữa của chủ thể
này….trên cơ sở luật hóa nội dung các hướng dẫn đã có và tổng kết thực tiễn xét xử.
Thứ hai, cần bỏ quy định HĐXX có thẩm quyền khởi tố VAHS như quy định tại
khoản 4 Điều 153 và khoản 7 Điều 326 BLTTHS. Cần xem xét, nghiên cứu lại chức
năng, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán theo hướng tập trung vào hoạt động xét
xử bảo đảm tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa, có như vậy mới nâng cao
được vị thế của Thẩm phán cũng như hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án trong tiến
trình cải cách tư pháp; đồng thời để phù hợp, đồng nhất với quyền hạn, nhiệm vụ của
Tòa án được quy định trong Luật tổ chức TAND năm 2024.
Thứ ba, bổ sung nội dung Điều 279 BLTTHS giải quyết yêu cầu, đề nghị trước
khi mở phiên tòa về “yêu cầu của VKS rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố
trước khi mở phiên tòa” và Điều 281 BLTTHS về tạm đình chỉ vụ án không có quy
định về trường hợp “việc rút quyết định truy tố không có căn cứ”
Thứ tư, Điều 280 BLTTHS quy định các trường hợp Thẩm phán được trả hồ sơ
cho VKS để điều tra bổ sung như hiện nay là chưa hợp lý. Theo đó, cần quy định chỉ
khi Thẩm phán phát hiện ra những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cản trở
đến việc xét xử của HĐXX (giả sử VKS chưa giao cáo trạng cho bị cáo) thì mới trả
hồ sơ cho VKS. Còn vấn đề chứng cứ đã đủ hay chưa, chứng cứ nào là chứng cứ quan
trọng của vụ án, còn ai đồng phạm nữa không, ... là trách nhiệm của VKS đối với việc
bảo vệ cáo trạng của mình. Tòa án không có nhiệm vụ hỗ trợ chức năng buộc tội của
VKS. Vì vậy, NCS đề nghị sửa khoản 1 Điều 280 BLTTHS như sau:
135
“Điều 280. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để
điều tra bổ sung khi phát hiện thấy có sự vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng
trong việc khởi tố, điều tra, truy tố”
Thứ năm, nghiên cứu nội dung Điều 325 BLTTHS quy định về xem xét việc rút
quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa cho thấy: Bản chất của
xét xử là việc Tòa án như một trọng tài đứng ra phân xử và phán quyết khi tồn tại sự
cáo buộc của bên này với bên kia. CNXX của Tòa án chỉ có hai mục đích là nhân
danh công lý và nước Cộng hoà XHCN Việt Nam để kết luận một người phạm tội
hay không phạm tội. Do đó, tuyên bố một người phạm tội nào đó phải dựa trên sự
buộc tội và tất nhiên cần xét xử, ngược lại không có sự buộc tội thì sự tuyên bố của
Tòa án sẽ không có ý nghĩa bởi không ai buộc tội bị cáo thì đương nhiên không có
tội và không cần thiết phải xét xử nữa. Như vậy, nếu sau khi xét hỏi mà KSV rút toàn
bộ quyết định truy tố thì Tòa án không có cơ sở để xét xử, hay nói cách khác, VKS
đã “từ bỏ” việc buộc tội của mình thì Tòa án không có lý do gì phải xem xét và xử lý
như quy định hiện hành. Mặt khác, nếu VKS đã rút quyết định truy tố mà Tòa án vẫn
xét xử thì Tòa án đã làm thay chức năng buộc tội của VKS dẫn đến tình trạng Tòa án
vừa buộc tội, vừa xét xử và ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập xét xử của Tòa
án, xâm phạm đến quyền lợi của người bị buộc tội. Vì vậy, NCS đề nghị sửa đổi Điều
325 theo hướng: khi KSV rút một phần quyết định truy tố thì HĐXX chỉ xét xử phần
quyết định truy tố không bị rút; khi KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX ra
quyết định đình chỉ vụ án. Trên cơ sở đó, đề xuất điều chỉnh nội dung Điều 325
BLTTHS, như sau:
“Điều 325. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn
tại phiên tòa
1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử xét xử
phần còn lại; nếu Kiểm sát viên kết luận về tội nhẹ hơn tội đã truy tố thì Hội đồng xét
xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử
ra quyết định đình chỉ vụ án.”
136
Thứ sáu, sửa khoản 4 Điều 326 theo hướng “Hội đồng xét xử ra quyết định đình
chỉ vụ án khi kiểm sát viên rút quyết định truy tố”. Trong tình huống này đối tượng
xét xử của Tòa án đã không còn nữa (vì KSV đã rút quyết định truy tố giống như
nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong tố tụng dân sự) nên Tòa án chỉ ra quyết định đình
chỉ vụ án chứ không phải tuyên bản án vô tội.
Đồng thời với việc sửa đổi Điều 298 BLTTHS cần hủy bỏ các quy định về thẩm
quyền của Tòa án không phù hợp với CNXX, với nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc
suy đoán vô tội, như: Trình tự xét hỏi (Điều 307) - Tòa án chỉ nên là người điều khiển
thủ tục xét hỏi tạo điều kiện tốt nhất cho các bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình tại phiên tòa, còn bên buộc tội phải là người hỏi chính để thực hiện nghĩa
vụ chứng minh tội phạm của mình; huỷ bỏ quy định “Hội đồng xét xử phải quyết định
một trong các vấn đề:….. Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu
Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ” theo điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS,
chỉ cho phép Tòa án trả hồ sơ cho VKS để khắc phục những vi phạm nghiêm trọng
về thủ tục tố tụng cản trở việc xét xử của Tòa án. Việc quy định HĐXX trả hồ sơ để
VKS điều tra bổ sung đã không còn phù hợp khi tranh tụng và suy đoán vô tội đã trở
thành những nguyên tắc hiến định của BLTTHS hiện hành.
4.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam
4.2.2.1. Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ
của đội ngũ xây dựng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Xây dựng hệ thống pháp luật có chất lượng về nội dung lẫn hình thức, đồng thời
tổ chức triển khai thực hiện có hiệu lực, hiệu quả là một trong những yêu cầu tất yếu,
khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và của công
cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Vì vậy, công tác xây dựng pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong đời sống luôn được Nhân dân, người làm công tác pháp luật quan
tâm chú trọng, đặc biệt công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS - lĩnh vực ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân thông qua việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan THTT trong việc giải quyết các VAHS cụ thể.
137
Hoạt động lập pháp là hoạt động khá phức tạp, mang tính sáng tạo, đòi hỏi phải
đầu tư nhiều thời gian, kinh phí và nhất là cán bộ phải có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cao về lĩnh vực phụ trách soạn thảo, vì đối tượng điều chỉnh của pháp luật luôn
luôn biến đổi. Nên phạm vi nhận thức được sự vận động và biến đổi đó để phản ánh
nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội vào nội dung văn bản là hết sức khó khăn.
Thời gian qua, có thể thấy công tác lập pháp của Quốc hội rất “quyết liệt”, nhất là đã
xây dựng và ban hành một khối lượng văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu
của công cuộc cải cách và phục vụ cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, góp phần thiết thực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng
phát triển và phòng, ngừa tội phạm mới phát sinh. Bên cạnh kết quả đó, vẫn còn hiện
tượng thiếu sót trong công tác xây dựng pháp luật do nhiều nguyên nhân khác nhau,
điển hình như: sai sót trong việc xây dựng BLHS năm 2015; “nợ ban hành văn bản
hướng dẫn Bộ luật, Luật” quá nhiều, đến giờ văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS
năm 2015 vẫn còn hạn chế; việc xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật TTHS
nói riêng còn chấp vá, rời rạc.
Xuất phát từ công cuộc cải cách tư pháp và công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS, trong đó quan
tâm chú trọng hoàn thiện quy định GHXX sơ thẩm là hết sức cần thiết. Vì vậy, thiết
nghĩ trong thời gian tới Quốc hội cần tăng cường năng lực lập pháp với những giải
pháp sau:
Một là, lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ hoặc thuê chuyên gia, các nhà nghiên cứu
khoa học TTHS có uy tín, giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn tham gia
công tác xây dựng các dự án luật, bộ luật liên quan; có phẩm chất chính trị tốt; có tinh
thần công vụ cao.
Hai là, thay đổi nhận thức, tư duy lập pháp của đội ngũ tham gia xây dựng pháp
luật nói chung. Pháp luật của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là pháp luật
“phục vụ”, bảo vệ Nhân dân, chứ không phải bảo vệ lợi ích của một hoặc một nhóm
đối tượng; cần phát huy tối đa các quyền con người của công dân để họ có thể thực
hiện quyền làm chủ đất nước, tham gia giám sát các hoạt động của Nhà nước trong
đó có hoạt động xây dựng pháp luật, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất
138
nước, chứ không phải ban hành pháp luật là để “ép buộc” Nhân dân phải thực hiện
dù nội dung nó đúng hay sai vì do nó thể hiện ý chí của nhà cầm quyền (giai cấp
thống trị). Cho nên, cần phải đổi mới nhận thức, quan điểm trong công tác lập pháp
thì tất yếu người làm luật sẽ có tinh thần trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ mà Nhân
dân, Nhà nước giao phó.
Ba là, cần có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với hành vi thiếu trách nhiệm
trong công tác lập pháp, vi phạm quy trình xây dựng pháp luật dẫn đến sai sót, gây
tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân và của xã hội.
Bốn là, nâng cao năng lực thẩm tra dự án luật cho các thành viên của Hội đồng
Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; tăng thêm số lượng các đại biểu chuyên trách, tạo
lập cơ chế khuyến khích các đại biểu Quốc hội thực hiện quyền sáng kiến lập pháp.
Năm là, tăng cường thường xuyên đổi mới các hình thức tiếp xúc cử tri của đại
biểu Quốc hội nhằm nâng cao sự hiểu biết thực tiễn cuộc sống để có thể đưa ra các
sáng kiến lập pháp và các dự luật phù hợp quyền lợi quốc gia, đáp ứng “dung hoà”
quyền lợi của các nhóm cử tri trong đời sống xã hội.
Sáu là, cần chú trọng quan tâm khâu khảo sát thực tế, thu thập thông tin chính
xác, khách quan để phản ánh vào trong đạo luật (bộ luật, luật). Phải xác định tính bắt
buộc của việc phân tích chính sách trong toàn bộ quy trình xây dựng văn bản luật.
Đặc biệt, việc hoạch định chính sách phải được tiến hành trước khi lập chương trình
xây dựng văn bản luật.
Bảy là, cần có cơ chế chính sách thu hút các hiệp hội, các tổ chức kinh tế, các
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia vào việc nghiên cứu soạn thảo, thẩm
định, thẩm tra các dự án luật để bảo đảm pháp luật mang tính khả thi cao, dân chủ,
tuy nhiên cần chú ý tránh hiện tượng “tham nhũng chính sách” chỉ có lợi cho một
nhóm đối tượng.
4.2.2.2. Nâng cao năng lực chủ thể áp dụng pháp luật về giới hạn xét xử sơ
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng, quyết định sự thành bại của mọi
vấn đề. Thực tế chứng minh, dù hệ thống pháp luật có quy định đúng đắn và chặt chẽ
139
nhưng người THTT không đủ về số lượng, không đáp ứng được yêu cầu về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm công tác thì những
quy định đó cũng khó có thể phát huy hiệu quả.
Ở Việt Nam, thực tế cho thấy đội ngũ THTT hình sự nhiều nơi còn thiếu về
“lượng lẫn chất”, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; một bộ phận Điều tra viên, KSV, Thẩm
phán thiếu bản lĩnh chính trị, bị sa ngã, tiêu cực trong công tác dẫn đến tình trạng cố
ý làm sai, vi phạm pháp luật phải bị xử lý. Mặt khác, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, năng lực, tinh thần trách nhiệm công tác của một bộ phận cán bộ, công chức VKS,
Tòa án vẫn còn hạn chế; chưa thật sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác
xét xử; chưa theo kịp yêu cầu hội nhập quốc tế, việc thiếu cán bộ Thẩm phán ở một
số tòa án các tỉnh, huyện và yếu kém trong các hoạt động bổ trợ tư pháp là một thực
tế tồn tại nhiều năm nay cần được giải quyết… Để bảo đảm quy định GHXX sơ thẩm
nói riêng và các quy định về pháp luật TTHS nói chung được thi hành một cách đúng
đắn và có hiệu quả cần phải tiếp tục xây dựng đội ngũ Điều tra viên, KSV và Thẩm
phán đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong điều kiện hiện nay. Do đó, NCS
thiết nghĩ cần phải tiến hành đồng thời một số giải pháp sau đây:
Một là, phải thường xuyên tập huấn chuyên sâu, trao đổi nghiệp vụ, củng cố
kiến thức thực tiễn và phẩm chất đạo đức trong sạch cho đội ngũ cán bộ làm công tác
chuyên môn trong hoạt động tư pháp; có đủ đức, đủ tài, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vì lẽ phải công bằng
để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Nếu đội ngũ KSV, Thẩm phán và cán bộ làm
công tác tư pháp không được thường xuyên bồi dưỡng về kiến thức, rèn luyện về bản
lĩnh thì rất dễ bị cám dỗ, mua chuộc, sa ngã dẫn đến tình trạng giải quyết án phiến
diện, cố ý “bóp méo” sự thật vụ án, quyết định bản án oan, sai vì tư lợi, không bảo
vệ được công lý, không bảo vệ được pháp luật.
Hai là, cần thay đổi cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm và chính sách thu hút những
người có đức, có tài, có tâm huyết vào làm việc ở cơ quan Điều tra, VKS, Tòa án; mở
rộng nguồn cán bộ để bổ nhiệm vào các chức danh KSV, Thẩm phán, thực hiện cơ
140
chế thi tuyển công khai để lựa chọn những người có đủ năng lực bổ nhiệm vào các
chức năng tư pháp.
Ba là, Nhà nước phải bảo đảm về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, điều kiện
làm việc; tiếp tục đầu tư hệ thống phầm mềm, ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật và công khai bản án, án lệ đến xã hội; tăng
cường hơn nữa chế độ đãi ngộ cho đội ngũ công chức làm công tác chuyên môn trong
các cơ quan tư pháp để họ yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Không nên “đánh đồng” tính chất công việc của đội ngũ công chức làm công tác tư
pháp nói chung như đội ngũ cán bộ, công chức khác, vì thực tế trọng trách và áp lực
công việc của họ rất lớn, mọi quyết định của họ ảnh hưởng trực tiếp đến số phận
chính trị, pháp lý của con người tham gia TTHS. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh
tế thị trường với những mặt trái của nó đã và đang tác động không nhỏ đến đội ngũ
cán bộ, công chức Nhà nước, trong đó có các Điều tra viên, KSV và Thẩm phán. Để
họ không bị chi phối bởi các tiêu cực xã hội, ngoài các quy định cụ thể, rõ ràng của
pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự giám sát của Nhân dân, Nhà nước
cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ làm nhiệm vụ
bảo vệ công lý, có sự đãi ngộ đúng mức để họ có thể vô tư, khách quan trong khi làm
nhiệm vụ, chuyên tâm thực hiện “phụng công thủ pháp”.
Bên cạnh đó, với những quy định của pháp luật TTHS hiện hành, đội ngũ luật
sư và bổ trợ tư pháp cần tiếp tục nghiên cứu, phát huy hiệu quả các quyền tố tụng để
tham gia tố tụng một cách chủ động, tích cực và trách nhiệm. Đồng thời, cần thay đổi
nhận thức trong mối quan hệ với người bị buộc tội (thân chủ), ngoài mối quan hệ dân
sự “sòng phẳng” thông qua hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa các bên, còn là mối quan
hệ tình người với nhau. Cho nên, vì lẽ phải, vì công lý mà khi tham gia tố tụng luật
sư cũng như đội ngũ bổ trợ tư pháp cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, tránh làm việc
qua loa, hình thức, làm cho có “thủ tục”. Thực tế chứng minh, đội ngũ luật sư và bổ
trợ tư pháp thực hiện tốt vai trò của mình trong TTHS góp phần bảo đảm công bằng
xã hội, làm sáng tỏ VAHS; giúp cho các cơ quan THTT có những quyết định đúng
đắn, khách quan và hợp pháp, trên cơ sở đó có bản án “đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật”; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong TTHS.
141
4.2.2.3. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc áp
dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Giới hạn của việc xét xử thực chất là mối quan hệ TTHS giữa VKS và Tòa án
ở giai đoạn xét xử. Mối quan hệ này xuất hiện bắt đầu từ khi VKS gửi cáo trạng và
hồ sơ vụ án sang Tòa án và nó được thể hiện thông qua KSV được Viện trưởng VKS
ủy quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, làm cáo trạng và giữ quyền công tố trước tòa cùng
với Thẩm phán được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ tọa phiên
tòa nếu vụ án được đưa ra xét xử. Quan hệ giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn này
trở đi là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước lẫn nhau. Tuy nhiên thế nào là phối
hợp, phối hợp ở chỗ nào và cái gì? Phối hợp không phải là làm giúp nhau, "làm hộ
nhau" giữa Tòa án và VKS mà là sao cho mỗi cơ quan làm đúng chức năng, nhiệm
vụ theo thẩm quyền của mình cũng có thể coi là đã phối hợp. VKS làm tốt việc truy
tố sẽ tạo điều kiện cho việc xét xử của Tòa án chính xác, đúng pháp luật. Cũng như
vậy, một bản án công minh, tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm
tội được HĐXX ban hành cũng làm giảm bớt gánh nặng cho VKS khi kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án.
Mục tiêu đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân thì trên thực tế việc
tăng cường quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS đã thực hiện được những nhiệm
vụ nhất định đó là phối hợp và đưa ra xét xử thành công nhiều vụ án trọng điểm,
những vụ án lớn được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn một số
nơi mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS chưa tạo được sự cân bằng, hợp lý
nhiều trường hợp quá coi trọng quan hệ phối hợp đến mức cả nể, bỏ qua cho nhau những
sai sót trong thực thi nhiệm vụ, mà quên đi trách nhiệm chế ước, hay quá nặng nề về chế
ước dẫn đến đối đầu, cản trở gây khó khăn cho nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ. Một
trong những biểu hiện của sự phối hợp quá mức này là nguyên nhân dẫn đến việc bỏ lọt
tội phạm hoặc làm oan người vô tội trong xét xử. Để GHXX sơ thẩm được bảo đảm thực
thi theo đúng pháp luật thì mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS cần được củng cố
và tăng cường một cách chặt chẽ bằng các giải pháp, đó là:
142
Thứ nhất, đội ngũ KSV và Thẩm phán cần thay đổi tư duy tư pháp, xem trọng
giá trị quyền con người khi giải quyết VAHS trong nhà nước pháp quyền để luôn có
những hoạt động tố tụng đúng, khách quan, không định kiến và “sẵn sàng hợp tác”
để có một VAHS được giải quyết “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.
Thứ hai, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong TTHS mà nâng
cao tinh thần trách nhiệm trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự và
TTHS; tăng cường phối hợp kịp thời để ban hành các thông tư liên ngành, liên tịch
hướng dẫn thi hành chi tiết các qui định của pháp luật trong hoạt động TTHS tạo
“hành lang pháp lý” đầy đủ làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền THTT thực hiện
đồng bộ, bảo đảm quyền, lợi ích tố tụng của các chủ thể tham gia.
Thứ ba, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được phân định mà phối hợp - chế ước
trong quá trình xác định sự thật VAHS (vì mục đích TTHS mà phối hợp kịp thời
nhưng không “a dua” khi quan điểm không có căn cứ, cơ sở để đồng thuận, lúc đó
dựa vào chức năng, nhiệm vụ mà chế ước lẫn nhau để “đi tìm chân lý” của vụ án);
xây dựng quy chế phối hợp trong công tác, tổ chức họp liên ngành để xem xét, giải
quyết những vướng mắc về nhận thức và áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm áp dụng
đúng và thống nhất pháp luật trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ đã được
quy định trong Hiến pháp.
Thứ tư, thường xuyên phối hợp rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS,
BLTTHS liên quan đến hoạt động xét xử để kịp thời khắc phục những vướng mắc,
bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS.
Thứ năm, tiếp tục tăng cường công tác phối hợp tổ chức các phiên tòa mẫu,
phiên tòa rút kinh nghiệm theo hướng nâng cao chất lượng tranh tụng, phát huy vai
trò của Thẩm phán chủ toạ phiên toà và các bên tham gia tranh tụng để nâng cao hiệu
quả, hiệu lực của bản án, quyết định khi Tòa án nhân danh nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam tuyên, như nội dung các Nghị quyết của Bộ Chính trị liên quan đến cải
cách tư pháp đề ra. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường công tác phối hợp tổ chức các
phiên tòa xét xử lưu động tùy thuộc vào điều kiện, tình hình thực tiễn của từng địa
phương nhằm đáp ứng yêu cầu chính trị, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và tinh
thần đấu tranh phòng chống tội phạm trong quần chúng nhân dân.
143
4.2.2.4. Các giải pháp khác
Cần tiếp tục tăng cường công tác tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong công
tác xét xử, đặc biệt chú trọng những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xét xử và
xác định làm rõ nguyên nhân để định hướng tham mưu hoàn thiện; xây dựng, phát
triển án lệ liên quan; kịp thời ban hành hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn. Qua công
tác tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm cũng cần biểu dương, khen thưởng kịp thời
những cá nhân, tập thể, đơn vị có thành tích tốt, trách nhiệm, nêu gương nhằm lan toả
những yếu tố tích cực, tạo động lực phấn đấu cho đội ngũ cán bộ, tập thể khác trong
ngành. Đây là giải pháp bổ trợ rất thiết thực, nếu lãnh đạo ngành quan tâm, tổ chức
thường xuyên kịp thời và chất lượng sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc thực
tiễn gặp phải do pháp luật liên quan không quy định hoặc hướng dẫn. Từ đó, nâng
dần kỹ năng xử lý tình huống của cơ quan THTT, người THTT có thẩm quyền - điều
này cũng góp phần tạo cơ sở, bảo đảm VAHS được giải quyết đúng đắn và bảo vệ
quyền công dân được kịp thời, chủ động.
Tòa án và VKS cần thực hiện tốt việc thống kê hình sự tình hình tội phạm để có
định hướng hoạch định trong công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới
một cách chủ động, kịp thời và hiệu quả; tăng cường tổ chức Hội thảo, tập huấn
chuyên môn nghiệp vụ theo từng nhóm tội phạm, đặc biệt tội phạm liên quan đến
công nghệ cao, tội phạm với thủ đoạn tinh vi để chủ thể THTT được học hỏi kinh
nghiệm, mở rộng kiến thức, có tư duy đổi mới,… nhằm nâng cao năng lực áp dụng
quy định pháp luật TTHS một cách đúng đắn, bảo đảm kỷ cương, bảo vệ chế độ
XHCN Việt Nam. Để thực hiện giải pháp này, thiết nghĩ cần phải đầu tư hệ thống
phần mềm chuyên dụng hiện đại phục vụ công tác; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ công chức tư pháp có kiến thức, chuyên môn kỹ thuật và kinh nghiệm phát
hiện, xử lý các vấn đề phát sinh một cách kịp thời. Mặt khác, cần tăng cường phối
hợp với cơ quan điều tra, VKS hướng dẫn người dân các kỹ năng nhận diện hành vi
phạm tội, để có ý thức phòng chống tội phạm cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội trong giai đoạn công nghệ thông tin đang “chiếm lĩnh” hầu hết mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội thông qua thống kê hình sự tình hình phạm tội.
144
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, cần quan tâm mở rộng hợp tác, đàm phán,
ký kết các hiệp định tư pháp với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới
để được tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm trong hoạt động tư pháp cũng như trong tư duy lập
pháp về TTHS; mở rộng hợp tác, giao lưu với các nước có nền tư pháp phát triển, dân chủ,….
từ đó chọn lọc những yếu tố tiến bộ, phù hợp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS
nói chung và quy định GHXX sơ thẩm nói riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị -
văn hoá - xã hội ở Việt Nam. Muốn thực hiện giải pháp này, đòi hỏi chúng ta phải đánh giá
thực chất kết quả xây dựng pháp luật TTHS, chúng ta đã thật sự tiếp thu những “tinh hoa”,
những yếu tố hợp lý của nền tư pháp trên thế giới liên quan đến mục đích chung của TTHS,
hoạt động xét xử, những giá trị về quyền con người, quyền công dân trong TTHS, việc cụ
thể hoá các nguyên tắc cơ bản trong TTHS vào quá trình THTT để giải quyết VAHS,…. để
thí điểm áp dụng vào điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội ở Việt Nam; đánh giá công tác triển
khai thực hiện công tác xét xử VAHS trong thời gian qua; nhận thức pháp lý, trình độ chuyên
môn và kỹ năng xác định, giải quyết vấn đề của đội ngũ THTT, từ đó xác định nội dung cần
học hỏi kinh nghiệm các nước để xây dựng, hoàn thiện nền tư pháp dân chủ trong Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
145
Tiểu kết chương 4
Nhà nước ta đã và đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp để tiến đến việc
xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân. Một nhà nước mà ở đó mọi chủ thể đều lấy “Pháp luật
là thước đo hành vi xử sự, quyền con người, công dân được mở rộng và phát triển”.
Cho nên, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật tố
tụng hình sự nói riêng là một trong những yêu cầu cơ bản, tất yếu. Giới hạn xét xử sơ
thẩm trong tố tụng hình sự là quy định thể hiện điển hình nhất mối quan hệ giữa các
chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (buộc tội, bào chữa và xét xử); thể hiện hài hòa
mối quan hệ tố tụng giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc thực hiện chức năng,
quyền hạn đồng thời bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận, pháp luật thực định
và thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự, luận án
đã đưa ra các yêu cầu cần phải hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định về
giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu sinh đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan và bảo đảm thực
hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm với mục đích nhằm góp phần xây dựng
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý khoa học; nâng cao chất lượng giải
quyết vụ án hình sự, hạn chế thấp nhất vướng mắc phát sinh trong thực tiễn áp dụng
pháp luật có liên quan quy định giới hạn xét xử sơ thẩm; góp phần bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đáp ứng
yêu cầu phòng, chống tội phạm trong thời kỳ hội nhập.
146
KẾT LUẬN
Giới hạn xét xử sơ thẩm là vấn đề đã được rất nhiều nhà luật học, nhà hoạt động
thực tiễn nghiên cứu, bàn luận với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, nhưng những
hạn chế, vướng mắc vẫn còn tồn tại chưa được giải quyết triệt để về mặt lý luận, pháp
lý và thực tiễn. Trong phạm vi đề tài của luận án, Nghiên cứu sinh đã nghiên cứu,
phân tích một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng quy định giới hạn
xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam; phân tích thực trạng quy định pháp
luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm để nhìn nhận toàn diện về tư duy lập
pháp của Nhà nước ta; đánh giá thực trạng áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm
trong xét xử vụ án hình sự, xác định những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân. Trên
cơ sở đó, đưa ra yêu cầu và đề xuất những giải pháp hoàn thiện, thực hiện đúng quy
định liên quan. Sau một thời gian dài nghiên cứu, Nghiên cứu sinh rút ra một số kết
luận như sau:
1. Giới hạn xét xử nói chung và giới hạn xét xử sơ thẩm nói riêng - đây là một
trong những vấn đề pháp lý phức tạp của tố tụng hình sự được quan tâm, bàn luận
khá nhiều trong thời gian dài (từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến
thời điểm hiện nay - Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)
được ban hành), nhưng nội dung quy định này vẫn còn thu hút nhiều sự chú ý không
chỉ của những nhà hoạt động thực tiễn mà cả những nhà nghiên cứu pháp luật và kể
cả những người làm công tác giảng dạy. Đã có nhiều công trình, bài viết chuyên môn,
quan điểm trao đổi về vấn đề này nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về mặt nhận thức,
nên về mặt lý luận, tư duy lập pháp và thực tiễn áp dụng vẫn còn tồn tại những vướng
mắc, hạn chế. Do đó, cần phải tập trung chỉ đạo, phát huy trí tuệ của giới khoa học
trong và ngoài nước về khoa học tố tụng hình sự Việt Nam, các cơ quan chức năng
đặc biệt là những cán bộ làm nhiệm vụ thực thi pháp luật, trong đó Nhà nước giữ vai
trò “chủ trì” tổ chức nghiên cứu bản chất nội dung quy định giới hạn xét xử sơ thẩm
trong tố tụng hình sự dưới nhiều góc độ khác nhau và đặt chúng trong mối quan hệ
biện chứng có liên quan với các quy định cơ bản khác trong tố tụng hình sự để thống
nhất trong nhận thức, lập pháp và thực thi.
147
2. Giới hạn xét xử sơ thẩm là chế định pháp lý quan trọng trong tố tụng hình sự.
Thực chất, giới hạn xét xử sơ thẩm chính là phạm vi thực hiện CNXX của Tòa án cấp
sơ thẩm do luật định nhằm mục đích bảo đảm sự phân định rạch ròi giữa các chức năng
cơ bản trong tố tụng hình sự tại phiên tòa sơ thẩm. Việc nhận thức đúng đắn bản chất
giới hạn của xét xử sơ thẩm trong tư duy lập pháp sẽ tạo cơ sở pháp lý góp phần làm
cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ Hiến định; khắc phục tình trạng “lấn sân” trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan
bảo vệ pháp luật. Để đạt được yêu cầu đó, đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm phải được nghiên cứu một cách toàn
diện trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự đã được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013, nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự và việc phân định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng mà thực thi, phối
hợp và chế ước lẫn nhau. Đồng thời, chú trọng đến vai trò, trách nhiệm của các Tòa án
trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, ... Cần nhận thức rằng, nguyên tắc độc
lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử là điều kiện cần thiết, gắn
liền với CNXX của Tòa án nhưng không phải là đặc quyền, không có giới hạn của Tòa
án. Khi những yếu tố cần và đủ đó được bảo đảm thì quy định giới hạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự sẽ được xác định một cách khoa học và hợp lý.
3. Qua nghiên cứu đề tài, luận án đã phân tích, đánh giá một cách có hệ thống,
tiếp cận đa ngành liên ngành về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng quy định
giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự, bước đầu luận án có được kết quả
nghiên cứu như sau: xây dựng khái niệm khoa học về “giới hạn xét xử sơ thẩm”, nội
dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm; phân tích làm rõ cơ sở lý luận về giới
hạn xét xử sơ thẩm, mối quan hệ giữa quy định này với các quy định khác trong Bộ
luật tố tụng hình sự; tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế về các mô hình quy định giới hạn
xét xử sơ thẩm để tham khảo xây dựng mô hình giới hạn xét xử sơ thẩm ở Việt Nam;
phân tích, đánh giá, so sánh quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm qua các Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam; tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định giới hạn của việc
xét xử sơ thẩm thông qua một số vụ án hình sự liên quan cụ thể điển hình, làm rõ
148
những mặt hạn chế, vướng mắc và xác định nguyên nhân chính của hạn chế, bất cập.
Trên cơ sở đó, đặt ra các yêu cầu và đề xuất giải pháp hoàn thiện, bảo đảm thực hiện
đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay; làm phong phú, đa dạng về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn áp
dụng quy định, làm nguồn tài liệu hữu ích, có giá trị để nghiên cứu, học tập.
Với khả năng và nhận thức có hạn, quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi
những sai sót nhất định. Với tinh thần học hỏi, nghiên cứu sinh rất mong nhận được
sự đóng góp, chia sẻ quý báu của thầy cô, của các nhà khoa học, của các cán bộ làm
công tác thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và đồng nghiệp để nghiên cứu
sinh tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu góp phần hoàn thiện hơn những vấn đề liên quan
đến giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự về mặt nhận thức, lý luận, pháp lý
cũng như thực tiễn./.
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Trần Thị Ánh (2019), Một số hạn chế trong quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015 về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội
(số 8-2019), tr.13 - tr.22.
2. Trần Thị Ánh (2020), Các yếu tố tác động đến việc áp dụng quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã
hội (số 5-2020), tr.13 - tr.22.
3. Trần Thị Ánh (2023), Giới hạn xét xử sơ thẩm: mối quan hệ giữa các chức
năng cơ bản trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8-2023, tr.24 - tr.27.
4. Trần Thị Ánh (2024), Căn cứ xác định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng
hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8-2024, tr.25 - tr.30.
i
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Hoàng Ngọc Anh (2021), Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về giới hạn xét xử và
hướng hoàn thiện, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Tp Hồ
Chí Minh, http://tkshcm.edu.vn (24/10/2021).
2. Nguyễn Thị Lan Anh, Lê Xuân Lục (2023) Quyền được xét xử công bằng
nhìn từ góc độ pháp luật quốc tế và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,
https://kiemsat.vn (01/02/2023).
3. Trần Thị Ánh (2019), Một số hạn chế trong quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, Tạp chí Nhân lực
Khoa học xã hội (số 8-2019), tr.13 – tr.22.
4. Trần Thị Ánh (2023), Giới hạn xét xử sơ thẩm: mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8-2023,
tr.24 – tr.27.
5. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 về “việc tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn
mới”, Hà Nội.
6. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (2005), NXB Tư
pháp, Bộ Tư pháp Viện khoa học pháp lý, Hà Nội.
7. Hồ Quốc Bình (2016), Giới hạn xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Mai Bộ và Vũ Thị Hà (2022), Giới hạn xét xử và phạm vi quyết
định về hình sự của Hội đồng xét xử sơ thẩm, https://tapchitoaan.vn
(30/7/2022)
ii
9. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 “về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Hà Nội.
10. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 “về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020”, Hà Nội.
11. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 “về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.
12. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 “về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.
13. Bộ luật tố tụng hình sự nước Ba Lan
14. Bộ luật tố tụng hình sự nước Bungari
15. Bộ luật tố tụng hình sự nước Canada
16. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa liên bang Nga năm 1960, năm 2001
17. Bộ luật tố tụng hình sự nước Hàn Quốc
18. Bộ luật tố tụng hình sự nước Malaysia
19. Bộ luật tố tụng hình sự nước Rumani
20. Bộ luật tố tụng hình sự nước Thái Lan
21. Bộ Tư pháp Viện Khoa học pháp lý (2006), từ điển Luật học, NXB Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
22. Lê Tiến Châu (2008), CNXX trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến
sĩ, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
23. Nguyễn Ngọc Chí (2009), Chức năng của Tòa án trong Tố tụng hình sự
trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà
Nội, Luật học 25, tr.163 - tr.171.
24. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên - 2015), Quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
25. Nguyễn Anh Chung (2020), Xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh
Viện kiểm sát truy tố - vướng mắc và kiến nghị, https://tapchitoaan.vn
(14/7/2020).
26. Phan Vĩnh Chuyển (2017), Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Ngô Ngọc Diễm – Đỗ Thị Hà (2022), Bàn về nguyên tắc suy đoán vô tội
trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện tử
(23/4/2023).
28. Nguyễn Đăng Dung (2014), Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định
của Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (276), tháng
10/2014.
29. Hoàng Đình Dũng (2021), Giới hạn xét xử sơ thẩm VAHS và ảnh hưởng
đến thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, Tạp chí TAND điện tử đăng
ngày 9/8/2021, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/gioi-han-xet-xu-
so-tham-vu-an-hinh-su-va-anh-huong-den-tham-quyen-cua-toa-an-cap-
phuc-tham.
30. Lê Trung Dũng (2018), Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa án Quân sự
Quân khu 2, luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Trịnh Văn Dũng (2023), Nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án: thực trạng
áp dụng và những bất cập, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (15/6/2023).
32. Phạm Tiến Đại (2019), Bàn về nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, https://tapchitoaan.vn (18/6/2019).
33. Nguyễn Văn Điền (2019), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
trên cơ sở Hiến định, Trang thông tin Bộ Tư pháp mục nghiên cứu trao đổi,
đăng cập nhật ngày 18/7/2019.
34. Trần Văn Độ (2000), Hoàn thiện các quy định về giới hạn xét xử, Tạp chí
TAND, (số 3), tr.1-3.
35. Trần Văn Độ (2015), Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, http://www.moj.gov.vn.
36. Giáo trình tố tụng hình sự Xô Viết (1980), Matxcơva, NXB Văn học pháp
lý, tr.15 đến tr.20.
37. Giáo trình tố tụng hình sự Xô Viết (2000), Matxcơva, NXB Dersalo.
38. Phạm Hồng Hải (2003), Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 5), tr.68-
tr.72.
39. Phạm Hồng Hải (2003), Tiến tới xây dựng TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh
tụng, tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 07), tr.45
40. Phạm Hồng Hải (2014), Vấn đề giới hạn xét xử trong luật tố tụng hình sự,
http://www.phamhonghai.vn/van-de-gioi-han-cua-viec-xet-xu-trong-luat-
to-tung-hinh-su newsview.ápx?cate=248&id=259,(15/7/2014).
41. Vũ Đức Hạnh (2020), Hoàn thiện chế định quyền công tố trong tố tụng hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (kỳ 2), tạp chí Khoa học
kiểm sát Trường Đại học kiểm sát Hà Nội (số 04-2020).
42. Trần Thu Hạnh (2018), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN: Luật học, tập 34, số 3.
43. Hoàng Văn Hạnh (2020), Quy định về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy
đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, Bộ Tư pháp (30/5/2020).
44. Lương Thị Mỹ Hiền (2017), Giới hạn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm theo
quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Trang Cổng thông tin Viện
kiểm sát nhân dân huyện Phong Điền, tỉnh Cần Thơ, đăng cập nhập ngày
14/4/2017.
45. Nguyễn Quang Hiền (2014), Pháp luật - phương thức quan trọng bảo vệ
quyền con người, Tạp chí Khoa học pháp lý (số 1).
46. Nguyễn Văn Hiện (1999), “Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân”,
Tạp chí Tòa án nhân dân (số 8), tr.1- tr.5.
47. Mai Thanh Hiếu (2013), Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong giới
hạn xét xử sơ thẩm, Tạp chí Luật học (số 10), tr.13 - tr.19.
48. Mai Thanh Hiếu (2017), Giới hạn xét xử sơ thẩm theo truy tố, Tạp chí luật
học (số 3), tr.18 - tr.27.
49. Nguyễn Thị Hồng Hoa (2016), Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ trường Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh.
50. Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015, Sách chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia
– sự thật, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Thúy Hoàn (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới
hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ trường Đại học Luật Hà Nội.
52. Nguyễn Anh Hoàng (2023), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06
(478), tháng 3/2023.
53. Vũ Văn Hoàng (2021), Bảo đảm quyền bào chữa đối với người bị buộc tội
trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,
https://tapchitoaan.vn (18/12/2021).
54. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số
04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử
sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
55. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam:
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Học viện Khoa học xã hội.
56. Phạm Mạnh Hùng (2015), Vấn đề kiểm sát việc thực hiện quyền tư pháp
giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong Tố tụng hình sự, Trường Đại học Kiểm
sát Hà Nội, trang chủ - thông tin khoa học – hinh su va to tung hinh su.
(http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet)
57. Trần Văn Hùng (2018), Giới hạn xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, Trang thông tin Tạp chí Tòa án nhân dân mục nghiên
cứu – xây dựng pháp luật (đăng ngày 06/02/2018).
58. Trần Văn Hùng (2022), Bàn về trả hồ sơ điều tra, bổ sung, về giới hạn xét
xử, Trang thông tin Tạp chí Tòa án nhân dân mục nghiên cứu – xây dựng
pháp luật (26/4/2022).
59. Đinh Thế Hưng (2010), Các điều kiện bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam, Hội thảo do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Viện NN&PL tổ chức ngày
27/8/2010.
60. Đinh Thế Hưng (2019), Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng
hình sự Việt Nam, Tạp chí tòa án nhân dân điện tử (11/9/2019).
61. Đinh Thế Hưng (2020), Về tố tụng công bằng trong tố tụng hình sự Việt
Nam, Tạp chí tòa án nhân dân điện tử (13/8/2020).
62. Nguyễn Văn Huyên (1999), Những căn cứ để quy định giới hạn của việc
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Luật học (số 2), tr.45 – 48 và tr. 52.
63. Nguyễn Văn Huyên (2002), Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, luận
án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
64. Nguyễn Văn Huyên (2003), Một số vấn đề về giới hạn xét xử, Tạp chí Luật
học (số 6), tr.47 – tr.51.
65. Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015, NXB Lao động, Hà Nội.
66. Khoa luật, Đại học quốc gia (2009), Giáo trình lý luận và nhà nước về quyền
con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Giới thiệu các văn kiện quốc
tế về quyền con người”, NXB Lao động xã hội.
68. Hà Thị Khuyên – Nguyễn Văn Đồng (2023), Bàn về nguyên tắc xét xử độc
lập trong các cấp Tòa án, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện tử (27/6/2023).
69. Nguyễn Xuân Kỳ (2022), Vấn đề giới hạn của việc xét xử quy định tại Điều
298 Bộ luật tố tụng hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện tử (27/02/2022).
70. Võ Thị Kim Oanh (2008), Xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ, Viện Nhà nước và pháp luật, Tp. Hồ Chí Minh.
71. Võ Thị Kim Oanh (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
72. Vũ Gia Lâm (2010), Phạm vi xét xử phúc thẩm về hình sự và quyền sửa bản
án sơ thẩm, Tạp chí luật học (số 5), tr.46 – tr.50.
73. Vũ Gia Lâm (2023), Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự về thẩm quyền của Tòa án nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí
Kiểm sát số 15/2023.
74. Nguyễn Quang Lộc, Phạm Thị Thu Thuỷ (2020), Bàn về rút quyết định truy
tố của Viện kiểm sát quy định trong BLTTHS năm 2015,
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ban-ve-rut-quyet-dinh-truy-to-
cua-vien-kiem-sat-quy-dinh-trong-bltths-nam-2015
75. Đoàn Đức Lương (2008), Những yếu tố tác động đến hoạt động xét xử và
nhu cầu, phương hướng nâng cao hiệu quả ở nước ta hiện nay, Tạp chí Đại
học Huế (số 47), Thành phố Huế.
76. Đinh Minh Lượng, Đặng Thế Thanh (2021), Những vướng mắc trong thực
tiễn khi áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/nhung-vuong-mac-trong-
thuc-tien-khi-ap-dung-khoan-2-khoan-3-dieu-298-bo-luat-to-tung-hinh-su-
nam-2015.
77. Đinh Thị Mai (2015), Các chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: nhìn từ
lý thuyết chức năng, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội (số 05), tr.10 –tr.18.
78. Đinh Thị Mai (2017), Chức năng bảo vệ quyền con người: Hướng tiếp cận
mới về các chức năng của tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học và Giáo dục
tháng 01/2017.
79. Vũ Chi Mai (2004), Giới hạn xét xử của Tòa án, luận văn thạc sĩ luật học
trường Đại học luật Hà Nội.
80. Nguyễn Đức Minh (2020), Bàn về nguyên tắc suy đoán vô tội, Tạp chí tòa
án nhân dân điện tử (08/8/2020).
81. M.X.Xtrôgôvich (1951), Truy tố trong tố tụng hình sự, NXB Viện hàn lâm
Liên Xô, tr.15, tr.188
82. Nguyễn Duy Nam (2016), Bàn về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định
của pháp luật Tố tụng hình sự, Nghiên cứu – trao đổi trên trang web của Bộ
Tư pháp ngày 19/8/2016.
83. Nguyễn Hoài Nam (2010), Hạn chế trong quy định giới hạn xét xử của Bộ
luật tố tụng hình sự 2003, Tạp chí TAND (số 13), tr.29 – tr.31.
84. Lê Đình Nghĩa (2021), Một số bất cập thực hiện nguyên tắc tranh tụng
trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, https://tapchitoaan.vn
(04/10/2021).
85. Lê Hữu Nghĩa (2000), Bảo vệ và phát triển quyền con người, bản chất chế
độ ta, in trong Thông tin quyền con người, Trung tâm nghiên cứu quyền
con người, Học viện Chính trị quốc gia, số 1, tr.5 - tr.6.
86. Phan Gia Ngọc (2006), Tòa án không nên có chức năng buộc tội, Tạp chí
TAND (số 04).
87. Phạm Hồng Phong (2015), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, Trang thông tin “Người
bảo vệ quyền lợi” - trang web của Trung tâm tư vấn pháp luật Tp. Hồ Chí
Minh - Trung ương Hội luật gia Việt Nam, đăng cập nhật 19/5/2015.
88. Lê Thanh Phong (2017), Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ
Chí Minh, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
89. Lê Thanh Phong (2018), Bàn về giới hạn xét xử trong bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát (số 13)
90. Nguyễn Thái Phúc (2003), Vấn đề về giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 11), tr 40 – 52.
91. Nguyễn Thái Phúc (2006), Nguyên tắc suy đoán vô tội, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật (số 11).
92. Nguyễn Thái Phúc (2007), Mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí khoa học pháp lý Trường Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh số 5 (42).
93. Nguyễn Thái Phúc (2008), Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng
trong Tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật (số 8), tr.58 – tr.67.
94. Nguyễn Thái Phúc (2016), “Suy đoán vô tội: Nét son trong tố tụng”, Báo
Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh ngày 15/2/2016.
95. Nguyễn Thái Phúc (2019), Cần sửa đổi và hoàn thiện Điều 298 về Giới hạn
xét xử trong BLTTHS năm 2015, Tạp chí kiểm sát (số 02).
96. Nguyễn Thái Phúc (2020), Thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm, Tạp chí kiểm sát (số 08).
97. Đặng Quang Phương (1995), “Nguyên tắc độc lập xét xử và vấn đề giới hạn
xét xử trong tố tụng hình sự”, Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách
của tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, tr.43.
98. Đinh Thanh Phương (2012), Nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, tr.153 –
tr.161.
99. Đỗ Thị Phượng (2017), Quyền con người, quyền công dân và bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp
chí luật học (số 2), tr.39 – tr. 46.
100. P.X. Enkind (1963), Bản chất của luật tố tụng hình sự Xô Viết, Nxb MGU,
Matxcơva, tr.54.
101. Phạm Vũ Ngọc Quang (2004), Giới hạn của việc xét xử theo quy định của bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí kiểm sát (số 12), tr. 30 – 31 & tr.36.
102. Phạm Vũ Ngọc Quang (2007), Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong
trường hợp Tòa án xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn khoản Viện kiểm sát
truy tố, Tạp chí kiểm sát (số 23), tr.24 – tr.25.
103. Đinh Văn Quế (2006), Một số vấn đề về giới hạn của việc xét xử, Tạp chí
kiểm sát (số 4), tr.26-30, 35.
104. Đinh Văn Quế (2011), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Hoàn thiện mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp – kinh nghiệm Cộng hòa liên bang Đức” do VKSNDTC và Quỹ
hợp tác quốc tế về pháp luật Cộng hòa liên bang Đức phối hợp tổ chức ngày
9 -10/6/2011, Hà Nội.
105. Vũ Mai Quỳnh (2021), Bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự và
một số vấn đề cần đặt ra, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Tạp chí Luật
sư Việt Nam điện tử.
106. Liên Hiệp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,
Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.
107. Liên Hiệp Quốc (1948), Tuyên ngôn Nhân quyền, Đại Hội đồng Liên Hiệp
Quốc.
108. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992, 2013), Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
109. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015, 2017), Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999, năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988, 2003, 2015),
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988, năm 2003, năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2021), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014, 2024), Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ chức
chính quyền địa phương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006, 2012), Luật
Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
115. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị quyết số
37/2012/QH13 ngày 23/11/1012 về công tác phòng, chống vi phạm pháp
luật và tội phạm, công tác của VKSND, Hà Nội.
116. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nghị quyết số
63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 về tăng cường các biện pháp đấu tranh
phòng, chống tội phạm, Hà Nội.
117. Phạm Thị Như Quỳnh (2017), Thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình
sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
118. Nguyễn Ích Sáng (2013), Về giới hạn của việc xét xử trong Bộ luật tố tụng
hình sự và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, Tạp chí dân chủ và pháp luật
(số 5), tr.5-12.
119. Hồ Sỹ Sơn (2011), Bảo vệ quyền con người trong tụng tố hình sự Việt Nam và
một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Luật học (số 01), Hà Nội.
120. Khâu Văn Sĩ (2017), Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học
viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
121. Nguyễn Trương Tín (2008), Mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình
sự với CNXX của Tòa án, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 10)
122. Đặng Đình Thái (2023), Bàn về Quyền con người trong tố tụng hình sự, Tạp
chí TAND điện tử (27/11/2023)
123. Hoàng Đình Thanh (2023), Trao đổi về nội dung nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, https://kiemsat.vn (09/6/2023).
124. Lê Văn Thanh (2022), Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (29/8/2022).
125. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), Bàn về việc áp dụng Điều 196 Bộ luật tố
tụng hình sự, Tạp chí TAND (số 1), tr.31-32, 47.
126. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (2013), Những vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách của việc Đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Vũ Tiến Thọ và Đỗ Ngọc Bình (2021), Cần hoàn thiện các quy định về giới
hạn xét xử, https://tapchitoaan.vn (24/5/2021).
128. Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988
hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
129. Nguyễn Văn Thuân (2016), Quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa
án trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 7/2016).
130. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 hướng
dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm hình sự, Hà Nội.
131. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2021), Báo cáo
về công tác của ngành kiểm sát nhân dân, ngành Tòa án nhân dân nhiệm
kỳ 2016 - 2021, trình trước Quốc hội ngày 25/3/2021.
132. Tòa án nhân dân tối cao (2022, 2023), Báo cáo tổng kết công tác năm 2022,
2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023, 2024 của các Tòa
án, Hà Nội.
133. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Bản án số: 182/2022/HS-
ST ngày 28-4-2022 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
134. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Bản án số: 329/2022/HS-
ST ngày 22-7-2022 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
135. Tòa án nhân dân Tỉnh Kiên Giang (2022), Bản án số: 70/2022/HS-ST ngày
12-8-2022 của TAND Tỉnh Kiên Giang.
136. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Bản án số: 426/2022/HS-
ST ngày 13-9-2022 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
137. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2023), Bản án số: 241/2023/HS-
ST ngày 24-5-2023 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
138. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2023), Bản án số: 54/2023/HS-
ST ngày 23-11-2023 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
139. Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai (2023), Bản án số: 193/2023/HS-ST ngày
01-12-2023 của TAND Tỉnh Đồng Nai.
140. Nguyễn Tất Trình (2022), Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận
về tội nhẹ hơn tại phiên tòa, Tạp chí điện tử luật sư Việt Nam (11/5/2022).
141. Trung tâm từ điển học (2005), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
142. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước
và Pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
143. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
144. Trường Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam (tái bản có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam.
145. Nguyễn Văn Tuân (2010), Giới hạn xét xử và vấn đề bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự, Tạp chí TAND (số 12), tr.7-14.
146. Nguyễn Văn Tuấn, Ý kiến Luật sư về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trên trang Thông tin điện tử
Công ty Lawfirm (cập nhật 16/11/2017)
147. Hoàng Anh Tuyên (2023), Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong
tố tụng hình sự - một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, Tạp chí kiểm sát (số 16), http://kiemsat.vn
148. Phạm Minh Tuyên (2020), Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 – lý luận và thực tiễn, https://tapchitoaan.vn
149. Đào Trí Úc (2011), Tổng quan về mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam thực
trạng và phương hướng hoàn thiện, Kỷ yếu Hội thảo khoa học“Hoàn thiện
mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp – kinh
nghiệm Cộng hòa liên bang Đức” do VKSNDTC và Quỹ hợp tác quốc tế
về pháp luật Cộng hòa liên bang Đức phối hợp tổ chức ngày 9-10/6/2011
tại Hà Nội.
150. Đào Trí Úc – Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Bàn về các nguyên tắc tố tụng
hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2 (247), tr 51 - 60.
151. Đào Trí Úc (2016), Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ
bản của Tố tụng hình sự Việt Nam, Thông tin khoa học Trường Đại học
Kiểm sát, (http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/216)
152. Đào Trí Úc (2016), Xác định Tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động
trọng tâm, Thông tin khoa học Trường Đại học Kiểm sát,
(http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/216)
153. Đào Trí Úc (2017), Nguyên tắc suy đoán suy đoán vô tội – nguyên tắc hiến
định quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát
số 02/2017.
154. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,X,XI,XII, XIII Đảng Cộng sản
Việt Nam (2001, 2006, 2011, 2016, 2021), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm
thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ
9, Quốc hội khóa XIII, Hà Nội.
156. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021,
2022, 2023), Báo cáo tổng kết công tác năm và phương hướng hoạt động
của ngành Kiểm sát, Hà Nội.
157. Võ Khánh Vinh (2011), Sách chuyên khảo “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ
quyền con người”, NXB Khoa học xã học Hà Nội.
158. Đặng Văn Vương - Xuân Thoại (2022), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm quy định và thực tiễn thực hiện, Tạp chí điện tử Luật sư Việt
Nam (22/4/2022).
159. V.M. Xavitxki (1971), Buội tộc Nhà nước tại phiên tòa, NXB Khoa học
Matxcơva, tr.19.
160. http://cand.com.vn/Phap-luat/Vien-truy-to-toi-lam-dung-Toa-xet-xu-toi-
tham-o-536933/ truy cập ngày 17/3/2019.
161. https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/7-can-bo-toa-an-tham-phan-
tham-nhung-tieu-cuc-bi-xu-ly-trong-hon-2-nam-208287.html
162. https://phong-partners.com/top-15-vu-an-oan-noi-tieng-viet-nam
B. Tài liệu tiếng Nga
163. Чельцов-Бебутов М. А. Очерки по истории суда и уголовного процесса в рабовладельческих, феодальных и буржуазных государствах. М, 1957.
164. П а щ к е в и ч П. Ф. О необходимости расширения прав суда на изменение обвинения.— В кн.: Проблемы совершенствования советского законодательства. М., 1975, с. 187-199
165. Н. С. Алексеев В. Г. Даев Л. Д. Кокорев. Очерк развития науки
Советского уголовного процесса. Воронеж. Издательство
Воронежского университета 1980.
166. Постановление Конституционного Суда РФ от 14 января 2000 г. // СЗ
РФ. 2000. N 5. Ст. 611.
167. Большой юридический словарь.— М.: ИнфраМ. А. Я. Сухарев, В. Е.
Крутских, А.Я. Сухарева. 2003.
168. Хохряков. М А Исторические модели пределов судебного судопроизводстве. Актуальные в уголовном
разбирательства проблемы российского права 2/2012.
169. Хохряков М. А Пределы судебного разбирательства уголовного дел в
суде первой инстанции: законодательство,теория,практика.
Автореферат диссертации на соискание ученой степени кандидата
юридических наук.Москва 2013.
170. Бравилова Екатерина Александровна. Пределы судебного
разбирательства. http://lawtheses.com/predely-sudebnogo-razbiratelstva.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
STT
NỘI DUNG
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
I Giải quyết sơ thẩm các vụ án hình sự
71.804 71.291 68.362 66.994 67.497
72.263
81.596 83.464 91.996
1.1 Tổng số vụ tòa án đã thụ lý
59.696 60.496 57.879 61.669 61.850
59.343
65.696 68.896 76.590
1.2 Số vụ đã xét xử
Số bị cáo tòa tuyên không tội
27
10
09
08
04
03
0
07
01
-
485
617
456
-
381
369
454
473
517
1.3 Số vụ tòa đình chỉ xét xử
160
236
66
-
57
76
70
69
49
1.4 Số vụ tòa tạm đình chỉ xét xử
1.5 Số vụ tòa án trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều
2.578
2.039
1.728
2.115
1.267
1.127
1.198
1.340
1.218
tra bổ sung
1.6 Số kiến nghị của viện kiểm sát trong hoạt động
555
629
683
622
643
803
812
1.149
1.190
xét xử sơ thẩm
Giải quyết phúc thẩm các vụ án hình sự
II
1.091
1.473
1.012
809
1.328
907
792
828
788
2.1 Số vụ viện kiểm sát kháng nghị trong kỳ
16.101 16.317 14.490 13.557 14.533
15.466
15.222 17.374 17.465
2.2 Số vụ phải xét xử
10.262 10.730
9.250
9.085
9.743
8.755
8.290
10.417 10.524
2.3 Số vụ đã xét xử
Trong đó: Số vụ do VKS kháng nghị
940
1.310
1.096
864
958
756
920
806
805
-
-
637
695
653
563
761
585
697
636
614
Số vụ kháng nghị được HĐXX phúc thẩm chấp nhận
Số bị cáo tòa tuyên không tội
04
24
02
01
01
0
07
-
01
-
-
-
-
3.894
4.235
4.158
-
-
-
2.4 Số vụ tòa đình chỉ trong kỳ
iii
NỘI DUNG
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
2022
2023
STT
2.5 Số kiến nghị của viện kiểm sát trong hoạt
105
121
149
-
144
159
216
-
-
động xét xử phúc thẩm
433
436
457
448
453
461
752
646
741
2.6 Số bản thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ
III Giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
29
82
114
135
209
146
205
153
150
3.1 Số vụ Viện kiểm sát kháng nghị trong kỳ
117
225
527
454
308
264
387
257
252
3.2 Số vụ phải giải quyết
70
123
401
388
254
171
269
190
168
3.3 Số vụ đã xét xử
Trong đó: số vụ do VKS kháng nghị
40
71
99
132
196
126
176
115
120
-
Số vụ kháng nghị được HĐXX chấp nhận
34
68
93
109
168
105
150
108
96
-
0
2
0
-
2
0
0
-
-
3.4 Số kiến nghị của viện kiểm sát trong hoạt động xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm và phương hướng hoạt động của Ngành Kiểm sát,
từ năm 2015 đến năm 2023
Phụ lục 2
100,000
91,996
90,000
83,464
81,596
83.25%
80,000
72,263
71,804
71,291
82.55%
68,362
67,497
66,994
80.51%
70,000
92.05%
91.63%
84.86%
82.12%
83.14%
84.67%
60,000
ụ v ố S
50,000
40,000
30,000
20,000
10,000
2.86%
3.59%
3.16%
1.32%
1.61%
2.53%
1.88%
1.47%
1.56%
0
2015
2016
2017
2018
2020
2021
2022
2023
2019 Năm
Tổng số vụ thụ lý
Số vụ đã xét xử
Số vụ trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung
Biểu đồ 1. Tỷ lệ số vụ án đã xét xử sơ thẩm và số vụ trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm 2015 đến 2023
1.80%
90,000
1.67%
1.60%
80,000
76,590
1.55%
68,896
1.35%
65,696
1.40%
70,000
61,850
61,669
60,496
59,696
59,343
57,879
1.20%
60,000
)
1.24%
%
(
ụ v
1.00%
50,000
1.18%
1.04%
ố S
1.04%
m ă r t
0.93%
1.01%
0.80%
40,000
n ầ h P
0.60%
30,000
0.40%
20,000
0.20%
10,000
1,190
1,149
803
622
812
683
643
629
555
0.00%
0
2015
2016
2017
2018
2020
2021
2022
2023
2019 Năm
Số vụ đã xét xử sơ thẩm
Số kiến nghị của VKS
Phần trăm kiến nghị của VKS/số vụ đã xét xử
Biểu đồ 2. Tỷ lệ Số vụ án đã xét xử sơ thẩm và số vụ án VKS kiến nghị sau khi xét xử sơ thẩm
90,000
26.97%
26.06%
26.97%
25.03%
25.22%
76,590
80,000
23.17%
23.50%
30%
21.98%
68,896
65,696
70,000
22.80%
61,669
60,496
61,850
59,696
59,343
57,879
60,000
25%
)
%
(
50,000
20%
m ắ r t
ụ v ố S
40,000
n ầ h P
30,000
15%
17,374
17,465
16,101
15,222
16,317
15,466
20,000
14,533
14,490
13,557
10%
10,000
0
5%
0%
2015 2016 2017 2018 2020 2021 2022 2023
Số vụ án đã xét xử sơ thẩm
Số vụ án phải xét xử phúc thẩm
Tỷ lệ phần trăm
2019 Năm
Biểu đồ 3. Tỷ lệ số vụ án đã xét xử sơ thẩm và số vụ án phải xét xử phúc thẩm
12,000
6%
5.70%
10,730
10,524
10,417
10,262
5.00%
9,743
9,250 9,085
4.67%
8,755
8,290
10,000 5%
)
3.16%
%
(
8,000 4%
m ă r t
ụ v ố S
2.47%
3.02%
2.39%
n ầ h P
2.10%
6,000 3%
1.14%
4,000 2%
2,000 1%
308
527 454 387 252 225 264 257 117
0 0%
2015 2016 2017 2018 2020 2021 2022 2023
2019 Năm