VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ ÁNH

GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - năm 2024

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ ÁNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 9380104

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS. TS. Phạm Minh Tuyên

2. PGS. TS. Đinh Thị Mai

HÀ NỘI - năm 2024

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

tác giả. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã

công bố theo đúng quy định. Kết quả nghiên cứu trong luận án do tác giả tự tìm

hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan. Kết quả này được phân tích,

đánh giá phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và chưa từng được công

bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Tác giả

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................................... 9 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ..................................................................... 9 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ................................................................... 21 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án ...................... 25 1.4. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.......................................................................................................... 25 Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................... 29 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................................... 30 2.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự ...................................................................................................................... 30 2.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm ............................................... 30 2.1.2. Nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm .......................................... 37 2.1.3. Ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm ............................................ 43 2.2. Cơ sở lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự .................. 46 2.2.1. Cơ sở triết học của giới hạn xét xử sơ thẩm ..................................................... 46 2.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội của giới hạn xét xử sơ thẩm ....................................... 50 2.2.3. Cơ sở từ mối quan hệ biện chứng giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự tại phiên toà sơ thẩm .......................................................................................................... 52 2.3. Mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với một số nội dung khác liên quan trong tố tụng hình sự Việt Nam.................................................................... 56 2.3.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự . 56 2.3.2. Mối quan hệ giữa nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm với phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án hình sự .................................................................................................................. 66 2.4. Kinh nghiệm lập pháp về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới ........................................................................................ 69 2.4.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm của một số mô hình tố tụng trong lịch sử phát triển tố tụng hình sự thế giới ................................................................................................................ 69 2.4.2. Pháp luật tố tụng hình sự của một số nước về giới hạn xét xử sơ thẩm ........ 71 Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 75

Chương 3: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .......................... 76 3.1. Thực trạng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.............................................................................................................. 76 3.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam về giới hạn xét xử sơ thẩm trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 ....................................................................................... 76 3.1.2. Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 83 3.2. Thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam................................................................................................................... 90 3.2.1. Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2015 đến năm 2023 ............... 90 3.2.2. Thực trạng áp dụng quy định giới hạn xét xử trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................................................................................... 93 3.2.3. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam và nguyên nhân ...................................................... 106 Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 117 Chương 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................................................................ 118 4.1. Yêu cầu hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................................... 118 4.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam ............................................................. 118 4.1.2. Yêu cầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ................................................................................. 121 4.1.3. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .......... 124 4.1.4. Yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự ............... 127 4.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam ............................................................ 129 4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................................................................ 129 4.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam .......................................................................................................... 137 Tiểu kết chương 4 .................................................................................................. 146 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............................. i DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ ii PHỤ LỤC ................................................................................................................. iii

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng Hình sự

CNXX

Chức năng xét xử

GHXX:

Giới hạn xét xử

HĐXX:

Hội đồng xét xử

KSV:

Kiểm sát viên

NCS:

Nghiên cứu sinh

PGS.TS

Phó Giáo sư. Tiến sĩ

THTT:

Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VAHS:

Vụ án hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

XXST:

Xét xử sơ thẩm

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định nhiệm vụ:“… Xây dựng nền tư pháp trong

sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục

vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà

trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và có hiệu lực cao…”. Qua

gần 10 năm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, Bộ Chính trị đã có Kết luận số

92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 về vấn đề này như sau: “Nhận thức của cán

bộ, đảng viên về vai trò của hoạt động tư pháp, sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách

tư pháp được nâng lên rõ rệt. Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan

đến tổ chức và hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ;…. Chất lượng hoạt động tư pháp

được nâng lên; việc tranh tụng tại phiên tòa bước đầu đạt được một số kết quả tích

cực…”. Tuy nhiên,“việc chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ cải cách tư pháp vẫn còn

chậm, chưa theo đúng lộ trình của Chiến lược cải cách tư pháp. Một số nhiệm vụ khi

triển khai thực hiện có ý kiến khác nhau, nhưng chưa được nghiên cứu, kết luận kịp

thời”[12]. Với những kết quả và hạn chế đó, Bộ Chính trị đã xác định trong thời gian

tới cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ:“Vấn đề lý luận về quyền tư pháp trong Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để Tòa án

nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp;…”[12]. Gần đây, Nghị quyết số 27-

NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng

khoá XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam trong giai đoạn mới lại tiếp tục xác định nhiệm vụ: “Hoàn thiện chính sách,

pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền

công dân” và “xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng

là đột phá;…”.

Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2021) đã có những quy định tiến bộ và nhân đạo, đặc biệt đã ghi nhận

chính thức những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự tạo nền tảng, cơ sở pháp

1

lý vững chắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng như:

nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc không làm xấu hơn

tình trạng của bị can, bị cáo,… Giới hạn xét xử sơ thẩm là một chế định pháp lý quan

trọng trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Nó xác định phạm vi xét xử và điều

kiện thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa không chỉ phòng ngừa, hạn chế sự lạm

quyền của Tòa án khi thực hiện CNXX, mà còn bảo vệ các bị cáo bị truy tố trong vụ

án và bảo vệ cả những người trước đó đã không bị khởi tố, điều tra, truy tố theo trình

tự của Bộ luật Tố tụng hình sự bị xét xử trái pháp luật. Việc xác định và quy định giới

hạn xét xử sơ thẩm đúng đắn còn có ý nghĩa bảo đảm thực hiện các nguyên tắc cơ

bản của tố tụng hình sự như: nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội,

nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Chính giới hạn xét xử là yếu

tố bảo đảm cho Tòa án luôn là Tòa án - cơ quan thực hiện CNXX và chế định này nó

không chỉ thể hiện mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án mà còn liên quan đến

phạm vi thực hiện quyền bào chữa của bên bị buộc tội.

Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận ở cấp sơ thẩm, vấn đề giới hạn xét xử chưa có

sự nhận thức thống nhất, đúng đắn phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp, xây dựng

nhà nước pháp quyền, chưa định hướng được cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện

pháp luật tố tụng hình sự và hệ quả của nó phản ánh trong lập pháp tố tụng hình sự

thiếu nhất quán về quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2003 và gần đây nhất là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2021) dẫn đến thực tiễn áp dụng vẫn còn hạn chế, bất cập trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự; nhiều quy định về nhiệm vụ của Tòa án không thuộc chức năng

của Tòa án. Thực chất, bản chất giới hạn xét xử sơ thẩm chính là việc xử lý hài hoà

mối quan hệ giữa ba chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự tại phiên toà sơ thẩm, đó

là: buộc tội - bào chữa và xét xử, nên về giới hạn xét xử sơ thẩm quy định Tòa án có

quyền xét xử bị cáo tội nặng hơn tội Viện kiểm sát truy tố nó không phù hợp với lý

luận về mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, thậm chí trái

những nguyên tắc tiến bộ và nhân đạo của Hiến pháp hiện hành liên quan đến hoạt

động xét xử như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc bảo

đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Mặt khác, việc áp dụng quy định giới hạn

2

xét xử trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cụ thể còn bị vướng mắc về thủ tục tố tụng

thực hiện khi Tòa án quyết định xét xử bị cáo tội nặng hơn tội Viện kiểm sát truy tố,

nếu tội nặng hơn đó không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đang thụ lý.

Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm; phân tích

lịch sử quy định pháp luật, nghiên cứu so sánh với pháp luật tố tụng hình sự các quốc

gia khác về mô hình giới hạn xét xử sơ thẩm; đánh giá thực tiễn, tìm ra những bất

cập, vướng mắc và nguyên nhân, để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng

như bảo đảm thực hiện đúng quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm là hết sức cần thiết.

Với những lý do nêu trên, đã làm cơ sở cho nghiên cứu sinh chọn đề tài "Giới hạn

xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận án tiến sĩ luật học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án hướng đến làm rõ bản chất nội dung chủ yếu, cơ sở lý luận của quy

định GHXX sơ thẩm; phân tích, so sánh giữa quy định GHXX sơ thẩm của BLTTHS

Việt Nam năm 1988, năm 2003 với BLTTHS năm 2015; tìm hiểu thực tiễn áp dụng

quy định GHXX sơ thẩm, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và xác định nguyên nhân.

Từ đó, đưa ra những yêu cầu, đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng

quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu, nghiên cứu các công trình khoa học, tài liệu, bài viết chuyên môn

có nội dung liên quan đến GHXX sơ thẩm trong và ngoài nước, từ đó xác định phạm

vi và nội dung cần kế thừa, phát triển liên quan vấn đề nghiên cứu;

- Xác định, phân tích nội dung, ý nghĩa cũng như xây dựng khái niệm khoa học

về GHXX sơ thẩm; phân tích cơ sở lý luận hình thành quy định GHXX sơ thẩm trong

TTHS Việt Nam nhằm tạo sự thống nhất về mặt nhận thức trong công tác lập pháp

và thực tiễn áp dụng; tìm hiểu quy định GHXX sơ thẩm của một số mô hình tố tụng

trong lịch sử phát triển TTHS thế giới và kinh nghiệm lập pháp liên quan đến quy

định GHXX sơ thẩm cho Việt Nam;

3

- Phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng pháp luật về GHXX sơ thẩm trong

TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS trong việc thực hiện quy định

GHXX sơ thẩm; xác định những hạn chế, vướng mắc cũng như nguyên nhân của hạn

chế trong quá trình áp dụng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam;

- Xác định các yêu cầu hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định GHXX

sơ thẩm trong TTHS Việt Nam, đặc biệt xác định những nội dung trọng tâm liên quan

đến Tòa án - cơ quan thực hiện CNXX, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo

đảm thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Do tính chất phức tạp và đa dạng của các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên

cứu, nên trong khuôn khổ chuyên ngành Hình sự - TTHS và giới hạn của đề tài, luận

án chủ yếu tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống những quan điểm lý luận và

thực trạng pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm (pháp luật thực định và thực tiễn áp

dụng) như khái niệm, nội dung GHXX sơ thẩm, ý nghĩa của quy định trong TTHS;

cơ sở lý luận về quy định GHXX sơ thẩm; mô hình quy định về GHXX của một số

nước trên thế giới; quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong pháp luật TTHS

Việt Nam; thực trạng áp dụng quy định trong quá trình giải quyết các VAHS.

Luận án phân tích nội dung GHXX sơ thẩm qua một số VAHS cụ thể để đánh

giá thực trạng thực hiện quy định về GHXX sơ thẩm. Các VAHS được thu thập phân

tích đã được giải quyết theo thủ tục xét xử sơ thẩm.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung:

Nghiên cứu các quan điểm, học thuyết, lý luận trực tiếp liên quan đến nội dung

GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam dưới góc độ luật hình sự và TTHS; nghiên

cứu thực trạng quy định pháp luật về GHXX sơ thẩm;

Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật TTHS liên quan GHXX

sơ thẩm và đề xuất giải pháp cân nhắc đến các điều kiện kinh tế - xã hội - chính trị

của Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam; bảo đảm Tòa án luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ đã được

4

ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - là cơ quan thực hiện

quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người và quyền công dân;

Luận án chỉ nghiên cứu GHXX sơ thẩm với phạm vi kể từ khi có quyết định

truy tố của VKS chuyển sang Tòa án sơ thẩm cho đến khi Tòa án sơ thẩm tuyên bản

án gồm hai phần (hoặc hai giai đoạn): chuẩn bị xét xử và phiên toà sơ thẩm.

- Thời gian nghiên cứu: Thu thập phân tích một số VAHS đã được xét xử trong

thời gian năm 2015 đến năm 2023 liên quan nội dung GHXX sơ thẩm.

- Về không gian nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu các số liệu thống kê liên quan

đến đề tài trên phạm vi toàn quốc, đồng thời tiến hành khảo sát thực tế một số Tòa án

như: Kiên Giang, Vĩnh Long, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Bạc Liêu để phỏng

vấn trực tiếp một số nội dung liên quan đến đề tài.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật;

Các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta về công

cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới tư pháp trong giai đoạn xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam;

Những quan điểm chỉ đạo trong các Nghị quyết của Đảng và các văn bản quy

phạm pháp luật của Nhà nước (BLTTHS Việt Nam năm 1988, năm 2003, năm 2015

(sửa đổi, bổ sung năm 2021) và các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan) đề cập

đến các chức năng cơ bản trong TTHS; nội dung, ý nghĩa quy định GHXX sơ thẩm

trong TTHS; mối quan hệ tố tụng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như phạm

vi trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể trong quá trình giải quyết VAHS; cơ chế

phối hợp và các nguyên tắc tố tụng;

Luận án tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng tinh hoa của nhân loại về pháp luật,

dân chủ và quyền con người như: Thuyết “Giới hạn quyền lực” của John Locke, lý

thuyết phân quyền của Montesquieu,…

4.2. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận của Luận án

Ngoài các phương pháp mang tính truyền thống như phương pháp luận duy vật

lịch sử, duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin, đề tài áp dụng phương pháp

5

phân tích - tổng hợp, so sánh, phân tích tình huống, khảo sát (phỏng vấn), thống kê,

… để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu trong phạm vi đề tài. Cụ thể:

- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua phân tích và tổng hợp dữ liệu, so

sánh các vấn đề nghiên cứu giữa các đối tượng được lựa chọn; phân tích tình huống

thông qua các VAHS cụ thể liên quan đến nội dung nghiên cứu;

- Phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế, phỏng vấn những nhà

nghiên cứu và người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực, phạm vi nghiên cứu.

Về cách tiếp cận, tác giả sử dụng phương pháp tiếp cận là đi từ cái chung đến

cái riêng, từ cái tổng thể đến cái cụ thể vấn đề cần nghiên cứu. Qua đó, luận án đưa

ra cách tiếp cận mới để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận, làm cơ sở cho việc hoàn thiện

quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam, cụ thể:

- Tiếp cận thực định, lịch sử: Nghiên cứu quy định pháp luật liên quan chế định

GHXX sơ thẩm qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau, đặc biệt xác định, phân tích

mối quan hệ của các vấn đề nghiên cứu với những điều kiện lịch sử cụ thể dưới góc

độ logic phát triển;

- Tiếp cận hệ thống: Trên cơ sở phân tích các vấn đề nghiên cứu đặt ra trong

một tổng thể những yếu tố có liên quan, sự tác động qua lại giữa các yếu tố, tác giả

so sánh quy định pháp luật thực định để nhìn nhận, đánh giá tư duy xây dựng pháp

luật đối với nội dung chế định nghiên cứu;

- Tiếp cận liên ngành như: triết học, chính trị học, luật học so sánh, nhân

quyền,… khi nghiên cứu quy định GHXX sơ thẩm, để có cách nhìn toàn diện về vấn

đề nghiên cứu, làm cơ sở đề xuất giải pháp.

5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án

Một là, luận án nghiên cứu một cách toàn diện và đưa ra khái niệm hoàn chỉnh

về “Giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự”; tiếp cận nội dung GHXX sơ

thẩm dưới góc độ từ các chức năng cơ bản trong TTHS.

Hai là, luận án đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của GHXX sơ thẩm, mối quan

hệ giữa GHXX sơ thẩm với các nội dung khác trong TTHS, đặc biệt là mối quan hệ

với các nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam với cách tiếp cận hệ thống, đa chiều.

6

Ba là, luận án nghiên cứu so sánh GHXX sơ thẩm trong các mô hình tố tụng

làm cơ sở, kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam.

Bốn là, luận án nghiên cứu lịch sử pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm; đánh giá

những điểm tích cực cũng như bất cập trong pháp luật TTHS nước ta qua các thời kỳ.

Năm là, luận án nghiên cứu tình huống điển hình (các VAHS cụ thể) để đánh

giá thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm, từ đó xác định nguyên nhân chính

dẫn dến sự bất cập giữa lý luận, pháp lý và thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

Luận án đưa ra các nhóm giải pháp thiết thực, góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS

và bảo đảm thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án

Việc nhận thức đúng đắn, đầy đủ và khoa học về chế định giới hạn của việc xét

xử sơ thẩm trong TTHS có ý nghĩa vô cùng quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn;

tránh hiện tượng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến

hành tố tụng; phát huy tích cực vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia giải

quyết VAHS; bảo vệ quyền con người và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; nâng

cao chất lượng hoạt động TTHS; góp phần phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả

trong tình hình mới.

Luận án nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận, pháp lý những nội dung

liên quan đến GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam với cách tiếp cận đa ngành, liên

ngành sẽ làm bổ sung, phong phú “kho tàng lý luận” về CNXX của Tòa án trong

TTHS nói chung và GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam nói riêng. Kết quả nghiên

cứu đề tài là nội dung có giá trị tham khảo cao trong tư duy lập pháp liên quan pháp

luật TTHS về GHXX sơ thẩm.

Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể được sử dụng là một kênh trong việc

công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam nói chung và những quy

định về GHXX sơ thẩm nói riêng, góp phần tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong

việc áp dụng quy định về GHXX sơ thẩm trong TTHS trên thực tế; góp phần xây

dựng một nền tư pháp thực sự dân chủ, đề cao giá trị quyền con người. Đồng thời với

kết quả nghiên cứu của Luận án, các cơ sở đào tạo luật, cảnh sát, an ninh,… có thể

sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong việc nghiên cứu, giảng dạy và

7

học tập về chức năng của Tòa án, giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, phạm vi xét xử

của Tòa án sơ thẩm, … trong TTHS Việt Nam.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

luận án được bố trí thành bốn chương gồm:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2. Những vấn đề lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

Chương 3. Quy định pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về giới hạn xét xử sơ

thẩm và thực tiễn áp dụng

Chương 4. Yêu cầu và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện đúng quy định giới

hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở nước ta, quy định GHXX sơ thẩm VAHS được ra đời, phát triển và ngày càng

hoàn thiện cùng với sự ra đời, phát triển và hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói

chung và pháp luật TTHS nói riêng. Trong TTHS, GHXX sơ thẩm là một chế định

pháp lý quan trọng liên quan đến nhiều quy định khác của TTHS, cũng như liên quan

đến các nguyên tắc cơ bản của TTHS như: Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội

thẩm độc lập và chỉ tuân thủ pháp luật; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bên

bị buộc tội; nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN,…Việc xác định, nhận thức và áp

dụng đúng đắn nội dung chế định này giúp cho cơ quan THTT nhận thức đầy đủ và

rõ ràng hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong việc xét xử các VAHS.

Điều đó góp phần thiết thực vào việc định hướng hoạt động xét xử và nâng cao chất

lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của các cấp Tòa án; tăng cường pháp chế XHCN,

kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước và của xã hội;

đấu tranh phòng chống tội phạm một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay trong

khoa học TTHS vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất về vấn đề này cả về mặt

nhận thức, lý luận và thực tiễn áp dụng nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng

của các hoạt động tố tụng. Đó là lý do giải thích tại sao GHXX sơ thẩm là nội dung

thu hút nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, bàn luận, phân tích trong suốt thời gian

dài, từ khi mới ban hành BLTTHS năm 1988 cho đến thời điểm hiện nay (BLTTHS

năm 2015 được ban hành).

Dưới góc độ luật học và sắp xếp các công trình nghiên cứu đề cập đến xét xử

nói chung, giới hạn XXST trong TTHS nói riêng, có thể chỉ ra các nhóm công trình

khoa học, sau đây:

1.1.1. Nghiên cứu về chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự

Xét xử là hoạt động trọng tâm trong quá trình tố tụng, là chức năng cơ bản và

quan trọng, là chức năng trung tâm trong TTHS, nhân danh nước Cộng hòa XHCN

9

Việt Nam để tuyên bố một người phạm tội hay không phạm tội và có phải chịu hình

phạt hay không phải chịu hình phạt, chỉ có Tòa án mới có quyền thực hiện chức năng

này. CNXX là thiết chế dân chủ, là bảo đảm quan trọng trong việc bảo vệ công lý và

công bằng xã hội; là phương tiện hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền con người, quyền

công dân. Vì thế, những vấn đề liên quan đến nội dung xét xử luôn thu hút sự quan

tâm của nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Về vấn đề này có thể nói đến như: Nguyễn

Ngọc Chí - “Chức năng của Tòa án trong TTHS trước yêu cầu cải cách tư pháp”

(Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 25/2009), Đinh Thị Mai -

“Các chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: nhìn từ lý thuyết chức năng” (Tạp chí

Nhân lực Khoa học xã hội số 05/2015), Đào Trí Úc - “Xác định Tòa án có vị trí trung

tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm” đăng trên trang Thông tin khoa học Trường Đại

học Kiểm sát; Lê Tiến Châu - tác giả luận án năm 2008, đề tài “CNXX trong tố tụng

hình sự Việt Nam”; “Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam: những vấn đề

lý luận và thực tiễn” - luận án tiến sĩ năm 2012 của Nguyễn Mạnh Hùng.… Trong

tác phẩm “Các chức năng của tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới”, tác giả

Đinh Thị Mai đã trình bày, so sánh những đặc điểm cơ bản của các chức năng tố tụng

thể hiện trong các mô hình tố tụng của một số nước, như: Mỹ, Liên bang Nga, Trung

Quốc, Nhật,….Qua đó, bài viết khẳng định: về cơ bản, trong TTHS của các nước

cũng thừa nhận có nhiều chức năng nhưng chức năng cơ bản chỉ có ba, đó là: buộc

tội, bào chữa và xét xử. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về các chức năng cơ

bản trong TTHS, nhưng tựu trung quan điểm được thừa nhận rộng rãi trong nhận thức

cũng như trong thực tiễn, đó là: trong TTHS có nhiều chức năng khác nhau nhưng

chức năng tố tụng cơ bản thì chỉ có ba loại: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa

và CNXX, nếu thiếu một trong ba chức năng này thì hoạt động TTHS sẽ không đạt

được mục đích chung, trong đó xét xử là chức năng trung tâm và có vai trò quyết

định. Đây là luận điểm rất đáng lưu ý để NCS nghiên cứu, luận giải các vấn đề có

liên quan trong đề tài. Luận án “CNXX trong tố tụng hình sự Việt Nam” đã phân tích

một cách có hệ thống về CNXX như khái niệm, nội dung CNXX, chủ thể thực hiện

CNXX trong TTHS, mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS …, luận án

khẳng định xét xử là chức năng của Tòa án, trong TTHS có nhiều chức năng nhưng

10

chức năng cơ bản có ba chức năng: buộc tội - bào chữa - xét xử và ba chức năng cơ

bản này chúng có mối quan hệ biện chứng, là cơ sở để các chủ thể của quan hệ pháp

luật TTHS có thể tham gia thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền và lợi ích hợp

pháp của mình; có buộc tội thì mới có bào chữa, Tòa án như “trọng tài” phân xử và

ghi nhận sự có căn cứ (minh chứng, chứng cứ) của các bên và ra phán xét. Luận điểm

này giúp cho NCS có thêm cơ sở để nghiên cứu vấn đề liên quan đề tài.

Qua tìm hiểu, các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến nội dung các chức

năng cơ bản trong TTHS, trong đó đều khẳng định xét xử là một chức năng cơ bản,

giữ vai trò quyết định trong quá trình giải quyết VAHS; xác định vị trí, vai trò của

Tòa án trước yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Các công trình xác định thời điểm

bắt đầu và thời điểm kết thúc thực hiện CNXX là “giới hạn của CNXX”, tuy nhiên

chưa phân tích làm rõ nội dung, ý nghĩa “giới hạn của CNXX” đối với việc thực hiện

các chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể THTT cũng như chưa đề cập đến mối quan

hệ giữa các chức năng cơ bản thể hiện như thế nào ở quy định GHXX sơ thẩm trong

TTHS.

1.1.2. Công trình nghiên cứu về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Trong lịch sử lập pháp về TTHS, XXST luôn là một chế định được sự quan tâm

của giới chuyên gia nghiên cứu pháp lý và cả những người làm công tác thực tiễn.

Bởi lẽ, đây vừa là một hoạt động tố tụng, vừa là một cấp xét xử, đồng thời là một giai

đoạn tố tụng quan trọng - là giai đoạn thể hiện đầy đủ, đậm nét nhất các chức năng

cơ bản và các nguyên tắc cơ bản của TTTHS, mà biểu hiện tập trung nhất là tại phiên

tòa sơ thẩm hình sự. Về vấn đề này có thể đề cập đến các công trình nghiên cứu điển

hình như: Luận án tiến sĩ năm 2008 của tác giả Võ Thị Kim Oanh với đề tài “Xét xử

sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam”; luận văn thạc sĩ năm 2015 “Xét xử sơ thẩm

theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Sỹ Thành; luận án tiến sĩ

năm 2017 của tác giả Lê Thanh Phong “Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành

phố Hồ Chí Minh”. Bài viết “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

– Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Đinh Văn Quế,… Với mỗi

khía cạnh, góc độ khác nhau trong phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của các công trình

11

nêu trên đã phân tích đến nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm theo quy định

của pháp luật TTHS.

Trong công trình luận án tiến sĩ, tác giả Võ Thị Kim Oanh với đề tài “Xét xử sơ

thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” nghiên cứu tập trung vào vấn đề hình thức

phiên tòa, trình tự tiến hành phiên tòa, trong đó làm rõ vai trò của các chủ thể thực

hiện chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử; nhấn mạnh đến vai trò trung tâm của

Tòa án trong phiên tòa xét xử. Về nhận thức, tác giả luận án khẳng định: XXST là

giai đoạn tố tụng trọng tâm, phiên tòa XXST là nơi diễn ra đầy đủ, công khai nhất

các chức năng cơ bản trong TTHS và giới hạn của việc XXST là nội dung thể hiện rõ

nét nhất mối quan hệ hài hòa giữa các chức năng tố tụng cơ bản đó. Với phương pháp

phân tích định tính và cách tiếp cận vấn đề theo “lát cắt” ngang, công trình nghiên

cứu đã làm sáng tỏ một cách cơ bản về mặt lý luận, luật thực định và thực tiễn áp

dụng liên quan đến XXST. Tuy nhiên, khi đề cập đến GHXX sơ thẩm, luận án chưa

xác định mối quan hệ giữa giới hạn của việc XXST với các chức năng cơ bản trong

TTHS, cũng như mối quan hệ giữa GHXX sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong

TTHS, đồng thời chưa làm rõ nội dung giới hạn của việc XXST để làm cơ sở đánh

giá thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm. Một luận điểm quan trọng của luận

án mà NCS sẽ tham khảo, tiếp tục nghiên cứu phát triển khi phân tích nội dung GHXX

sơ thẩm liên quan đề tài, đó là: giới hạn của việc XXST là nội dung thể hiện mối quan

hệ hài hoà giữa các chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội - bào chữa - xét xử.

Đánh giá thực tiễn XXST các VAHS có luận án tiến sĩ của tác giả Lê Thanh

Phong “Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Công trình làm

rõ những nội dung cơ bản của phiên tòa XXST trong giai đoạn cải cách tư pháp ở

nước ta từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, trong đó chủ yếu tập trung vào các vấn

đề như: các nguyên tắc khi XXST VAHS (nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc xét xử

trực tiếp, liên tục, nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật,...), vấn đề GHXX, vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung; đánh giá thực

tiễn áp dụng pháp luật TTHS thông qua hoạt động XXST VAHS,... Khi phân tích các

nội dung liên quan đến XXST hình sự về mặt lý luận và thực tiễn, luận án có đề cập

đến nội dung GHXX sơ thẩm nhưng chủ yếu trình bày luật thực định và ý nghĩa của

12

nó đối với phạm vi xét xử ở giai đoạn sơ thẩm mà chưa nghiên cứu, phân tích về mặt

lý luận và thực tiễn áp dụng quy định này như thế nào. Luận án đã kết hợp sử dụng

các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp một

cách hiệu quả, góp phần làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.

1.1.3. Công trình, bài viết nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm

Vấn đề GHXX là vấn đề trung tâm, quan trọng liên quan đến nhiều nội dung

khác trong TTHS, đồng thời cũng là vấn đề có nội dung phức tạp cả về mặt nhận

thức, lý luận và thực tiễn áp dụng, đặc biệt trong công tác lập pháp và thi hành pháp

luật. Bàn về GHXX sơ thẩm trong TTHS đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu

quan tâm đề cập, như: Nguyễn Văn Huyên -“Một số vấn đề về giới hạn xét xử” (Tạp

chí Luật học số 6/2003), Nguyễn Thái Phúc -“Vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng

hình sự” (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11/2003), Phạm Vũ Ngọc Quang - “Giới

hạn của việc xét xử theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí

Kiểm sát số 12/2004), Đinh Văn Quế - “Một số vấn đề về giới hạn của việc xét xử”

(Tạp chí Kiểm sát số 4/2006), Nguyễn Văn Tuân - “Giới hạn xét xử và vấn đề bảo

đảm quyền bào chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự” (Tạp chí TAND kỳ II, số

12/2010), Nguyễn Hoài Nam - “Hạn chế trong quy định giới hạn xét xử của Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí TAND số 13/2010), Nguyễn Thị Kim Thanh -

“Những hạn hế trong quy định của bộ luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm”

(Tạp chí TAND kỳ II, số 20/2010), Nguyễn Ích Sáng - “Về giới hạn của việc xét xử

trong bộ luật tố tụng hình sự và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung” (Tạp chí Dân

chủ & Pháp luật số 5/2013), Mai Thanh Hiếu - “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc

thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm” (Tạp chí Luật học số 10/2013), Trần Thị Túy -

“Bàn về giới hạn xét xử của Tòa án” đăng trên trang thông tin điện tử của Viện Kiểm

sát nhân dân tỉnh Bình Định năm 2014, Nguyễn Duy Nam - “Bàn về giới hạn xét xử

của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự” đăng mục Nghiên cứu – trao

đổi trên trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp ngày 19/8/2016), Mai Thanh Hiếu -

“Giới hạn xét xử sơ thẩm theo truy tố” (Tạp chí Luật học số 3/2017), Nguyễn Văn

Tuấn - “Ý kiến Luật sư về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2015” đăng trên trang thông tin điện tử của Công ty Lawfirm, Lê

13

Thanh Phong - “Bàn về giới hạn xét xử trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” (Tạp

chí Kiểm sát số 13/2018), Nguyễn Thái Phúc - “Cần sửa đổi và hoàn thiện Điều 298

về Giới hạn xét xử trong BLTTHS năm 2015” (Tạp chí Kiểm sát số 02/2019), Nguyễn

Thái Phúc – “Thay đổi nội dung truy tố tại phiên toà hình sự sơ thẩm, Tạp chí kiểm

sát (số 08/2020), Nguyễn Anh Chung - “Xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh

Viện kiểm sát truy tố - vướng mắc và kiến nghị”, Vũ Tiến Thọ và Đỗ Ngọc Bình -

“Cần hoàn thiện các quy định về giới hạn xét xử” đăng trên https://tapchitoaan.vn

(24/5/2021), Nguyễn Quang Lộc, Phạm Thị Thu Thuỷ - “Bàn về rút quyết định truy

tố của Viện kiểm sát quy định trong BLTTHS năm 2015” đăng trên

https://tapchitoaan.vn (2020), Đinh Minh Lượng, Đặng Thế Thanh – “Những vướng

mắc trong thực tiễn khi áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015” đăng https://thuvienphapluat.vn (2021), Hoàng Ngọc Anh - “Một số hạn

chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

về giới hạn xét xử và hướng hoàn thiện” đăng http://tkshcm.edu.vn (24/10/2021),

Nguyễn Mai Bộ và Vũ Thị Hà – “Giới hạn xét xử và phạm vi quyết định về hình sự

của Hội đồng xét xử sơ thẩm” đăng https://tapchitoaan.vn (30/7/2022), Trần Văn

Hùng - “Bàn về trả hồ sơ điều tra, bổ sung, về giới hạn xét xử” đăng trang thông tin

Tạp chí TAND mục nghiên cứu – xây dựng pháp luật (26/4/2022), Nguyễn Xuân Kỳ

- “Vấn đề giới hạn của việc xét xử quy định tại Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự”(Tạp

chí Luật sư Việt Nam điện tử đăng 27/02/2022), Nguyễn Tất Trình - “Xem xét việc

rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên toà” Tạp chí điện tử luật

sư Việt Nam (11/5/2022), Hoàng Anh Tuyên - “Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và

Tòa án trong tố tụng hình sự - một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự

năm 2015” (Tạp chí kiểm sát, số 16/2023).

Ở mỗi cách tiếp cận khác nhau, các bài viết đã luận bàn một số vấn đề về lý

luận, pháp lý và thực tiễn liên quan đến CNXX, XXST VAHS, giới hạn của việc

XXST trong TTHS như: khái niệm, nội dung, ý nghĩa, vị trí, vai trò của các chức

năng cơ bản,…; phân tích thực trạng quy định của pháp luật TTHS về xét xử sơ thẩm

VAHS, về GHXX sơ thẩm và thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện

pháp luật TTHS, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện CNXX nói chung và GHXX

14

sơ thẩm nói riêng. Nhóm bài viết liên quan đến GHXX sơ thẩm vẫn còn nhiều ý kiến

trái chiều, có thể chia thành hai quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc quy

định giới hạn của việc XXST là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc độc lập xét xử của

Tòa án, không đáp ứng được công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai

đoạn hiện nay và chính quy định GHXX vô hình trung “buộc” Tòa án phải xét xử

theo “ý kiến” của VKS thông qua quyết định truy tố, vì thế không bảo đảm nguyên

tắc pháp chế XHCN. Quan điểm này đã “tuyệt đối hoá” CNXX của Tòa án nên đề

xuất sửa đổi Điều 298 BLTTHS theo hướng bỏ thuật ngữ “tội danh”, tức là Tòa án

được xét xử bị cáo và hành vi mà VKS truy tố còn tội gì thì do Tòa án xử và quyết

định, điển hình cho quan điểm này là tác giả Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Duy Nam,

Nguyễn Xuân Kỳ, Nguyễn Anh Chung, Đinh Minh Lượng và Đặng Thế Thanh,...

Quan điểm thứ hai thì khẳng định xét xử là chức năng của Tòa án nhưng đây không

phải là “đặc quyền” của Tòa án mà chúng có giới hạn, xuất phát từ bản chất của hoạt

động TTHS và các chức năng cơ bản trong TTHS mà GHXX sơ thẩm là một tất yếu

khách quan trong TTHS để giúp cho Tòa án luôn là cơ quan tư pháp thực hiện CNXX

và bảo đảm cho các chức năng cơ bản khác trong TTHS được thực hiện. Chính việc

“giải phóng” Tòa án ra khỏi phạm vi nội dung truy tố của VKS đã làm cho Tòa án

không còn là cơ quan thực hiện CNXX và khả năng thực hiện chức năng cơ bản khác

trong TTHS là điều có thể xảy ra, điển hình cho quan điểm này là tác giả Nguyễn

Thái Phúc, Lê Thanh Phong, Hoàng Anh Tuyên, Nguyễn Mai Bộ và Vũ Thị Hà, …

trong bài viết của mình các tác giả đã thể hiện nội dung nêu trên. Luận điểm này giúp

cho NCS có thêm cơ sở lý luận khi tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến

nội dung GHXX sơ thẩm cũng như mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong quá trình

thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình khi giải quyết VAHS.

Các bài viết chuyên môn nêu trên đã cho NCS cái nhìn tổng thể pháp luật TTHS

về GHXX sơ thẩm, là nguồn dữ liệu quý giá để NCS kế thừa nghiên cứu và phát triển

về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn một cách có hệ thống. Bên cạnh đó, một số bài

viết đã đề cập và đối chiếu nội dung GHXX sơ thẩm của Việt Nam với một số nước

trên thế giới, như: Malaysia, Thái Lan, Đức, Pháp, Anh, Mỹ,.… để thấy sự tương

15

đồng và chưa tương đồng làm cơ sở, kinh nghiệm trong việc nghiên cứu, hoàn thiện

pháp luật TTHS nói chung và quy định GHXX sơ thẩm nói riêng.

Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu luật học đã chọn nội dung

quy định này làm luận văn thạc sĩ luật học điển hình như: Luận văn thạc sĩ năm 2008

của tác giả Lê Văn Tâm với đề tài "Quyền phán quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm

và giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam"; luận văn năm 2011 “Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong luật tố

tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hoàn; luận văn thạc sĩ năm

2016 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hoa với đề tài “Giới hạn xét xử trong tố tụng hình

sự Việt Nam”; “Giới hạn xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Hồ

Quốc Bình. Tác giả Phan Vĩnh Chuyển với luận văn thạc sĩ năm 2017 “Giới hạn xét

xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”;

Luận văn thạc sĩ của tác giả Khâu Văn Sĩ với đề tài “Giới hạn xét xử sơ thẩm theo

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Ngoài ra,

giáo trình luật TTHS của các trường như: Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành

phố Hồ Chí Minh, Đại học Cảnh sát, Đại học An Ninh,… cũng nêu và trình bày cơ

bản nội dung giới hạn của việc XXST, phúc thẩm VAHS theo quy định của pháp luật

hiện hành. Tuy nhiên, nhóm công trình này cũng chỉ đề cập đến thực trạng pháp luật

(quy định và thực tiễn) mang tính liệt kê mà chưa phân tích, đánh giá được sự khác

biệt qua từng nội dung quy định GHXX (sơ thẩm và phúc thẩm) của pháp luật TTHS

Việt Nam, để qua đó thấy được điểm tiến bộ hay “thụt lùi” của quy định GHXX. Các

nhóm công trình chưa phân tích sâu về lý luận những vấn đề liên quan đến GHXX sơ

thẩm, như: bản chất nội dung của GHXX sơ thẩm trong TTHS, cơ sở hình thành quy

định GHXX sơ thẩm, đặc điểm, ý nghĩa của quy định này đối với đời sống chính trị

- xã hội cũng như mối quan hệ giữa chế định GHXX sơ thẩm với các chế định khác

trong BLTTHS,… Khi phân tích thực trạng về việc áp dụng GHXX sơ thẩm, các tác

giả chủ yếu chỉ thống kê số liệu báo cáo tình hình XXST các VAHS trong một giai

đoạn mà chưa phân tích tình huống (VAHS cụ thể) liên quan đến quy định GHXX sơ

thẩm để thấy sự tương đồng hay chưa tương đồng giữa lý luận và thực tiễn về nội

dung này; mặt khác, các bài viết cũng chưa xác định được nguyên nhân chính của

16

những tồn tại, vướng mắc, nên các giải pháp đề xuất còn chung chung, nặng tính lý

thuyết, giá trị thực tiễn chưa cao. Việc đánh giá luật thực định của các công trình

nghiên cứu nêu trên là nội dung để NCS tiếp tục nghiên cứu, phân tích làm rõ những

điểm tiến bộ và hạn chế trong tưu duy lập pháp của nước ta, làm tiền đề hoàn thiện

pháp luật TTHS liên quan đến nội dung đề tài.

1.1.4. Công trình, bài viết nghiên cứu về các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng

hình sự liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm

Giới hạn xét xử sơ thẩm là một trong những chế định quan trọng của BLTTHS

Việt Nam, nội dung chế định thể hiện mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong việc

giải quyết VAHS cụ thể tại phiên toà sơ thẩm theo chức năng, nhiệm vụ của mình và

tất nhiên không thể không đề cập đến quyền bào chữa của các chủ thể có quyền bào

chữa. Để thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm, NCS thiết nghĩ một điều kiện rất

quan trọng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam, đó là

nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo,… Trong

phạm vi nội dung này, NCS tìm hiểu, khái quát một số quan điểm về các nguyên tắc

cơ bản trong TTHS liên quan đến GHXX sơ thẩm làm cơ sơ, tiền đề cho việc nghiên

cứu hoàn thiện nội dung quy định.

Một số bài viết về các nguyên tắc cơ bản trong TTHS đề cập đến nội dung

GHXX sơ thẩm: Trước hết là các bài viết, công trình nghiên cứu về nguyên tắc tranh

tụng như Nguyễn Thái Phúc - “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong Tố

tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số

8/2008), Phạm Hồng Phong - “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện

nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử” đăng Trang thông tin “Người bảo vệ

quyền lợi” - trang web của Trung tâm tư vấn pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh -

Trung ương Hội luật gia Việt Nam, đăng cập nhật 19/5/2015, Phạm Tiến Đại - “Bàn

về nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”,

https://tapchitoaan.vn (18/6/2019), Đào Trí Úc và Nguyễn Mạnh Hùng - “Bàn về các

nguyên tắc tố tụng hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2011, Đào Trí Úc –

17

“Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng hình sự Việt

Nam”, Thông tin khoa học Trường Đại học Kiểm sát, (http://tks.edu.vn/thong-tin-

khoa-hoc/chi-tiet/79/2016), Lê Trung Dũng - “Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ

thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa án Quân

sự Quân khu 2”, luận văn thạc sĩ, 2018, Học viện khoa học xã hội, Lê Đình Nghĩa -

“Một số bất cập thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2015”, https://tapchitoaan.vn (04/10/2021), Đặng Văn Vương và Xuân Thoại -

“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm quy định và thực tiễn thực hiện”,

Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (22/4/2022), Nguyễn Anh Hoàng - “Bảo đảm

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp số 06 (478), tháng 3/2023, Vũ Gia Lâm - “Hoàn thiện một số

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền của Tòa án nhằm bảo đảm nguyên

tắc tranh tụng”, Tạp chí Kiểm sát số 15/2023, Hoàng Đình Thanh – “Trao đổi về nội

dung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo quy định của Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2015”, https://kiemsat.vn (09/6/2023).

Với mỗi tiếp cận khác nhau, các bài viết đã thể hiện khá rõ khái niệm, nội dung,

ý nghĩa của nguyên tắc tranh tụng đặc biệt khi nguyên tắc này được ghi nhận chính

thức trong BLTTHS năm 2015 của nước ta. Các bài viết nêu trên đã phân tích nội

dung của nguyên tắc và giá trị của chúng trong quá trình tiến hành tố tụng ở giai đoạn

XXST tại phiên toà, nhưng thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc còn nhiều bất cập,

chưa phù hợp với nội dung của nguyên tắc. Đặc biệt có quan điểm cho rằng nguyên

tắc tranh tụng là quy luật khách quan của hoạt động TTHS, nếu nhà lập pháp nhận

thức đúng đắn về nguyên tắc này mới có thể giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa

ba chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội - gỡ tội (bào chữa) và xét xử tại phiên toà,

đại diện cho quan điểm này là PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Lê Đình Nghĩa, Nguyễn

Anh Hoàng,… - đây là luận điểm quan trọng để NCS nghiên cứu những vấn đề liên

quan đến GHXX sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong TTHS.

Bàn về nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, có nhiều công trình, bài viết liên

quan, NCS chỉ đề cập một số bài viết điển hình như: Đặng Quang Phương -“Nguyên

tắc độc lập xét xử và vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự”, Những vấn đề lý

18

luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp

bộ, VKSNDTC, 1995; Đinh Thanh Phương - “Nguyên tắc độc lập trong hoạt động

xét xử của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, 2012;

Nguyễn Đăng Dung - “Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định của Hiến pháp

năm 2013”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (276), tháng 10/2014; Trịnh Văn

Dũng - “Nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án: thực trạng áp dụng và những bất

cập”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (15/6/2023); Hà Thị Khuyên và Nguyễn Văn

Đồng - “Bàn về nguyên tắc xét xử độc lập trong các cấp Tòa án”, Tạp chí Luật sư

Việt Nam điện tử (27/6/2023). Các bài viết nêu trên đã phân tích khá đầy đủ về nội

dung, ý nghĩa của nguyên tắc trong quá trình giải quyết VAHS, quan điểm chung các

tác giả của bài viết cho rằng:“Người điều khiển” Tòa án (HĐXX) chỉ có thể là Pháp

luật, khi thực hiện đúng nội dung nguyên tắc thì chân lý vụ án mới được sáng tỏ, còn

nếu Tòa án bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố nào (kể cả nội dung truy tố của VKS - “cái

mà” Nhà nước quy định thuộc chức năng của VKS - thay mặt Nhà nước truy tố người

phạm tội ra trước pháp luật) cũng có thể làm cho vụ án bị “bóp méo”, mục đích TTHS

sẽ không đạt được, vì thế việc quy định cho Tòa án được xét xử “vượt qua” phạm vi

truy tố của VKS là hoàn toàn phù hợp với nội dung nguyên tắc này. NCS lại không

nghĩ vậy. Nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc cần thiết

phải có để giúp Tòa án luôn là Tòa án - cơ quan thực hành quyền tư pháp, nhưng

không có nghĩa là Tòa án muốn xét xử ai, hành vi, tội danh nào cũng được mà không

bị ràng buộc bởi điều kiện, giới hạn nào và không đặt mình trong các mối quan hệ

khác của TTHS.

Các công trình, bài viết về nguyên tắc suy đoán vô và nguyên tắc bảo đảm quyền

bào chữa của bị can, bị cáo. Bàn về các nguyên tắc này có thể đề cập đến các tác giả

sau: Nguyễn Thái Phúc - “Nguyên tắc suy đoán vô tội”, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật (số 11/2006); Đào Trí Úc - “Nguyên tắc suy đoán suy đoán vô tội - nguyên tắc

hiến định quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số

02/2017; Đinh Thế Hưng - “Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình

sự Việt Nam, Tạp chí TAND điện tử (11/9/2019); Hoàng Văn Hạnh - “Quy định về

bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm

19

2015”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp (30/5/2020); Nguyễn Đức Minh -

“Bàn về nguyên tắc suy đoán vô tội”, Tạp chí TAND điện tử (08/8/2020); Phạm Minh

Tuyên - “Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015 - lý luận và

thực tiễn”, https://tapchitoaan.vn; Ngô Ngọc Diễm và Đỗ Thị Hà - “Bàn về nguyên

tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện

tử (23/4/2023); Trần Thu Hạnh - “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử

vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN:

Luật học, tập 34, số 3/2018; Nguyễn Văn Điền - “Bảo đảm quyền con người trong tố

tụng hình sự trên cơ sở Hiến định”, Trang thông tin Bộ Tư pháp mục nghiên cứu trao

đổi, đăng cập nhật ngày 18/7/2019; Vũ Văn Hoàng – “Bảo đảm quyền bào chữa đối

với người bị buộc tội trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”,

https://tapchitoaan.vn (18/12/2021); Vũ Mai Quỳnh - “Bảo đảm quyền bào chữa

trong tố tụng hình sự và một số vấn đề cần đặt ra”, Khoa luật Đại học quốc gia Hà

Nội, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (2021); Lê Văn Thanh - “Bảo đảm quyền bào

chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam

(29/8/2022);… Với cách tiếp cận khác nhau, các bài viết chuyên môn đều cho rằng

nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

là những nguyên tắc nhân văn, tiếp thu tiến bộ pháp luật TTHS của các nước trên thế

giới, tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các nguyên tắc bằng các cơ chế, thiết chế

pháp luật chưa được đồng nhất và đồng bộ dẫn đến thực tế các nguyên tắc này chưa

thực hiện đúng. Việc ghi nhận chính thức, duy trì các nguyên tắc này trong Hiến pháp,

BLTTHS nước ta là một “điểm son” để trong quá trình THTT, các chủ thể THTT

không định kiến, luôn có cách nhìn khách quan khi đánh giá, kết luận chứng cứ buộc

tội cũng như gỡ tội được chính xác làm cơ sở giải quyết VAHS được đúng đắn. Mặc

dù vậy, thực tế cho thấy chúng ta chưa quan tâm cụ thể hoá kịp thời các quy định liên

quan đến các nguyên tắc này để chúng được các chủ thể liên quan thực hiện tốt. Đại

diện có tác giả Nguyễn Thái Phúc, Vũ Văn Hoàng, Đinh Thế Hưng, Vũ Mai Quỳnh

quan điểm rằng: việc quy định cho Tòa án được quyền xét xử “vượt qua” nội dung

truy tố về “tội danh nặng hơn” là đã vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội và ảnh

hưởng không nhỏ đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo, mặc dù Tòa án có thông báo

20

trước về khả năng xét xử tội nặng hơn tội VKS truy tố. Bởi lẽ, mới qua nghiên cứu

hồ sơ, chưa mở phiên toà, chưa tiến hành thẩm tra, xét hỏi các chứng cứ, tình tiết mà

Tòa án đã có“định kiến” tội khác nặng hơn tội VKS truy tố, mặt khác sẽ lý giải như

thế nào về ý nghĩa của bản cáo trạng mà VKS thay mặt Nhà nước thực hiện? chức

năng của VKS là gì? Tòa án thực hiện chức năng gì trong TTHS? Người bị buộc tội

là người “yếu thế” nên cần phải có cơ chế, phương thức bảo vệ họ khi đã tham gia

vào TTHS - đó mới là thể hiện nền tư pháp dân chủ, bảo vệ quyền con người - đây là

nội dung có giá trị về mặt nhận thức mà NCS cần tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu.

Tóm lại, với mỗi khía cạnh khác nhau, các công trình, bài viết chuyên môn đã

nêu và phân tích khá đầy đủ khái niệm, nội dung và ý nghĩa của các nguyên tắc cơ

bản trong TTHS nêu trên. Mặc dù còn nhiều quan điểm trái chiều về nội dung, ý nghĩa

của các nguyên tắc nhưng đó là những luận điểm quan trọng giúp NCS có cơ sở lý

luận, pháp lý và thực tiễn nghiên cứu GHXX sơ thẩm một cách toàn diện hơn khi đặt

chúng vào mối quan hệ với các nguyên tắc cơ bản trong TTHS.

1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Qua nghiên cứu tìm hiểu, được tiếp xúc với các văn bản pháp luật, sách báo

pháp lý nước ngoài, NCS nhận thấy ở những khía cạnh nhất định các công trình

nghiên cứu pháp lý đề cập một số nội dung liên quan đến các chức năng cơ bản, giới

hạn của việc XXST trong TTHS. Cụ thể có những nhóm nghiên cứu sau:

1.2.1. Nghiên cứu về chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự

Đối với giáo trình, sách báo nước ngoài, các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý

đã đề cập một số vấn đề cơ bản mang tính lý luận về chức năng TTHS, chức năng cơ

bản của TTHS như: khái niệm, nội dung, vai trò, vị trí của các chức năng tố tụng, nội

dung, phạm vi của các chức năng cơ bản; …ở mức độ gián tiếp các công trình đã đề

cập đến vị trí, vai trò của hoạt động xét xử - là một chức năng cơ bản trong TTHS.

Chẳng hạn: Khi đề cập đến khái niệm chức năng TTHS, trong tác phẩm “bản chất

của luật TTHS Xô Viết” tác giả P.X.Enkind cho rằng: “Chức năng tố tụng không phải

là loại định hướng các hoạt động TTHS mà là sự thể hiện trong các định hướng tương

ứng các hoạt động chức năng và vai trò của các chủ thể tố tụng hình sự” [100, tr.54].

Trong khi đó, tác giả M.X.Xtrôgôvích lại cho rằng: “Chức năng tố tụng được hiểu là

21

những định hướng đặc biệt phân định các hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng

khác nhau trong những phạm vi nhất định” [81, tr.15] và “những hoạt động mang

tính định hướng của các chủ thể quan hệ pháp luật TTHS nhằm thực hiện chức năng,

nhiệm vụ và mục đích của mình được gọi là chức năng tố tụng hình sự” [81, tr.188].

Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng đây là những luận điểm có giá trị giúp cho

NCS nghiên cứu các vấn đề có liên quan trong luận án một cách toàn diện.

Đề cập đến các chức năng cơ bản trong TTHS, giáo trình TTHS Xô Viết cho

rằng: “Những chức năng mà khi được thực hiện sẽ giải quyết được nhiệm vụ chung

của TTHS thì được gọi là chức năng cơ bản. Những chức năng đó do các cơ quan

nhà nước thực hiện (có nghĩa vụ thực hiện), cũng như những người THTT và người

TGTT thực hiện (được thống nhất bởi quyền của nhóm này đồng thời là nhiệm vụ của

nhóm khác)” [36, tr.15]. Trong tác phẩm của mình, tác giả L.N.Guxayep viết rằng:

“Sự buộc tội được hình thành và được thực hiện chỉ trong giai đoạn xét xử. Trong

giai đoạn điều tra không có sự buộc tội, còn hoạt động của Điều tra viên - đó là thực

hiện chức năng điều tra, một chức năng duy nhất trước giai đoạn xét xử” [159, tr.19].

Trong khi đó, giáo trình TTHS Xô Viết thì khẳng định“chức năng điều tra là một bộ

phận cấu thành sự buộc tội. Cơ quan Điều tra khi tiến hành khởi tố bị can là đã thực

hiện sự buộc tội đối với bị can, áp dụng những biện pháp tố tụng cần thiết, lập bản

cáo trạng buộc tội bị can về tội gì và sẽ bị đưa ra tòa xét xử theo sự buộc tội đó” [36,

tr.17]. Còn giáo trình TTHS Xô Viết (2000), NXB Dersalo, Matxcova thì cho rằng:

khi nói đến chức năng cơ bản trong tố tụng thì nó phải là chức năng xuất hiện và tồn

tại trong tất cả các VAHS - đó phải là “những định hướng cơ bản của các hoạt động

được thực hiện trong phạm vi tố tụng hình sự” [37]. Theo cách tiếp cận này thì cho

rằng: trong TTHS có ba chức năng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội

(bào chữa) và CNXX. Chúng định hướng, phân định các chức năng, nhiệm vụ của

các chủ thể tiến hành tố tụng. Đây là luận điểm chung có giá trị để NCS nghiên cứu,

tìm sự tương đồng về nhận thức liên quan đến các nguyên tắc cơ bản trong TTHS ở

nước ta, từ đó lựa chọn những yếu tố hợp lý tiếp tục kế thừa, phát triển.

22

1.2.2. Nghiên cứu về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

Qua tìm hiểu nghiên cứu, các công trình, bài viết liên quan trực tiếp đến GHXX

sơ thẩm trong TTHS ở ngoài nước cũng rất hạn chế, chủ yếu nội dung này được thể

hiện trong BLTTHS của các nước. Do các kiểu mô hình TTHS khác nhau nên nội

dung GHXX sơ thẩm cũng được quy định khác nhau. Tham khảo BLTTHS của một

số nước, mặc dù không thấy quy định điều luật có tên riêng về giới hạn của việc

XXST nhưng rải rác ở các điều luật trong BLTTHS của các nước trên thế giới có quy

định nội dung GHXX và thể hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, VKS (bên công

tố) trong phạm vi buộc tội của bên công tố. Qua đó, quy định mối quan hệ tố tụng của

các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết VAHS bảo đảm khách quan, công bằng,

hài hòa quyền và lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể tham gia tố tụng. Cụ thể:

BLTTHS Liên bang Nga tại Điều 252 quy định như sau: “1. Việc xét xử chỉ

được tiến hành đối với bị can và chỉ theo sự buộc tội được đưa ra đối với họ. 2. Chỉ

được phép thay đổi nội dung buộc tội trong quá trình xét xử, nếu không làm xấu hơn

tình trạng của bị cáo và không xâm phạm đến quyền bào chữa của bị cáo” [16]. Điều

285 BLTTHS Bungari quy định: cho phép thay đổi nội dung buộc tội ở phiên tòa đối

với các vụ án công tố bằng cách ra quyết định buộc tội mới, nếu trong khi xét hỏi tại

phiên tòa thấy có căn cứ để áp dụng điều luật về tội phạm có hình phạt nặng hơn mà

không thay đổi lớn (cơ bản) nội dung buộc tội ban đầu, trong trường hợp này VKS

có thể đưa ra lời buộc tội mới. Nếu Tòa án quyết định tiếp tục xét xử vụ án theo nội

dung buộc tội mới, Tòa án phải tạo điều kiện cho bị cáo chuẩn bị bào chữa theo nội

dung buộc tội mới [14]. Tương tự quan điểm, Điều 346 BLTTHS Ba Lan quy định:

nếu trong quá trình xét xử tại phiên tòa nhận thấy rằng, mặc dù không vượt quá

GHXX nhưng hành vi phạm tội có thể áp dụng theo điều luật khác, thì Tòa án phải

báo trước cho các bên biết vấn đề này khi nó có thể nghĩa đối với họ, đặc biệt là đối

với việc bào chữa của bị cáo [13]. BLTTHS Rumani và BLTTHS Hàn Quốc cũng có

nội dung tương tự, Điều 334 BLTTHS Rumani thể hiện: Trong trường hợp nội dung

buộc tội không thay đổi, vẫn tiếp tục tồn tại đối với hành vi đó như là sự kiện khách

quan, nhưng chỉ thay đổi việc đánh giá nó về mặt pháp lý. Trong trường hợp này, bị

cáo có quyền đề nghị vẫn tiếp tục xét xử vụ án hoặc là hoãn lại để bị cáo chuẩn bị

23

bào chữa theo sự buộc tội mới [19]; Điều 298 BLTTHS Hàn Quốc quy định:“Khi

Tòa án thấy thích hợp, họ có thể yêu cầu bổ sung hoặc thay đổi các tội danh đang

buộc hoặc các điều khoản áp dụng của luật hiện hành. Nếu Tòa án thấy bất lợi cho

bị cáo thì Tòa án có thể tự quyết định hoặc theo đề nghị của bị cáo, luật sư bào chữa

hoãn phiên tòa trong một thời gian nhất định để bị cáo chuẩn bị bào chữa” [17].

Trong khi đó, Điều 192 BLTTHS Thái Lan lại quy định: “Nếu Tòa án cho rằng

những tình tiết nêu trong cáo trạng đã được chứng minh trong đề nghị truy tố nhưng

đề nghị truy tố đó lại đề cập một tội phạm sai hoặc trích dẫn sai các điều luật được

áp dụng, Tòa án có quyền phạt bị cáo theo tội thực tế mà bị cáo đã phạm phải” [20].

Điều 167 bộ luật TTHS Malaysia thì: “Nếu bị cáo bị buộc tội này nhưng chứng cứ

tại phiên tòa lại cho thấy đã phạm một tội khác thì bị cáo sẽ bị kết án về tội phạm

khác mặc dù không bị buộc tội về tội phạm đó” [18]. Còn BLTTHS Canada tại Điều

662 quy định: “Trong trường hợp truy tố về một tội nhưng chứng minh được một tội

khác, thì bị cáo có thể bị kết án về tội mà bị cáo đã thực hiện” [15].

Như vậy, theo pháp luật TTHS của một số nước có quy định GHXX trong việc

giải quyết VAHS đều khẳng định: Việc xét xử của Tòa án phải trên cơ sở quyết định

truy tố (bản cáo trạng) và cho phép thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa. Tòa án

có quyền xác định tội của bị cáo trên cơ sở kiểm tra, đánh giá chứng cứ vụ án tại

phiên tòa xét xử công khai, mà không phụ thuộc vào sự buộc tội trước đó của VKS

nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Qua đó có thể thấy, xu thế chung

của hầu hết các nước trên thế giới luôn đề cao, tôn trọng và bảo vệ quyền con người

nên trong TTHS của các nước khi “xử lý tội phạm và người phạm tội” theo nguyên

tắc “không làm xấu hơn tình trạng của bị can, bị cáo” và bảo đảm quyền bào chữa

của họ. Trên cơ sở đó, pháp luật TTHS của các nước cụ thể hoá bằng những quy định

cụ thể để các chủ thể THTT, tham gia tố tụng được thực hiện theo quyền và nghĩa vụ

tố tụng được quy định. Đây là luận điểm quan trọng cho NCS khi phân tích thực trạng

quy định pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm ở nước ta, đối sánh với quy định liên

quan của các nước trên thế giới làm cơ sở, tiền đề cho việc hoàn thiện pháp luật TTHS

liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

24

Qua tìm hiểu các nhóm công trình nghiên cứu, bài viết trong và ngoài nước liên

quan đến đề tài luận án, dù mang tính trực tiếp hay gián tiếp có thể kết luận như sau:

Đa phần, các tác giả thiên về việc đưa ra khái niệm, phân tích luật thực định nội dung

GHXX sơ thẩm trong TTHS. Từ đó, chỉ ra những bất cập trong thực tiễn áp dụng và

đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung và quy định giới hạn

của việc XXST nói riêng với phương pháp tiếp cận định tính là chủ yếu. Đặc biệt, các

bài viết chuyên ngành đã đưa ra một số quan điểm liên quan đến vấn đề nghiên cứu

về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn - đây là những luận điểm hết sức quan trọng đối

với NCS trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhóm công trình, bài viết chưa

tiếp cận vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện, đa chiều và đặt vấn đề nghiên cứu

trong mối quan hệ tác động qua lại với các yếu tố, nội dung khác có liên quan trong

TTHS, như: chức năng buộc tội, truy tố, quyền bào chữa, CNXX, mối quan hệ với

các nguyên tắc cơ bản trong TTHS,.... để có cơ sở luận giải thuyết phục, giải quyết

thấu đáo những vấn đề được nêu ra.

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận án

Xuất phát từ tính chất phức tạp của nội dung GHXX sơ thẩm trong nhận thức

cả về lý luận cũng như thực tiễn (lập pháp và thi hành), nên nội dung này thu hút rất

nhiều sự quan tâm của giới khoa học pháp lý. Vì thế, NCS được tiếp cận với rất nhiều

quan điểm, ý kiến trái chiều về nội dung này, nhưng tựu trung có thể khái quát các

kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa và phát triển, cụ thể như sau:

Các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của việc quy

định GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng trong TTHS, trước hết là xuất

phát từ mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS Việt Nam (chức năng

buộc tội, chức năng gỡ tội (bào chữa) và CNXX); mối quan hệ giữa CNXX với giới

hạn xét xử cũng như các cơ sở quy định GHXX trong TTHS. Đây là cơ sở lý luận

mang tính tiền đề để NCS tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về GHXX sơ thẩm

trong TTHS và các giải pháp mang tính cơ bản về mặt lý luận nhằm bảo đảm thực

hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.

Các công trình đã nghiên cứu và phân tích khái niệm, nội dung, ý nghĩa về

“CNXX”, “xét xử sơ thẩm”, “giới hạn xét xử” trong TTHS tương đối đầy đủ. Chức

25

năng TTHS có vai trò quyết định mô hình, hình thức TTHS và xác định vị trí, quyền

hạn, chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng; xét xử sơ thẩm là hoạt động trung

tâm của quá trình giải quyết VAHS. Các công trình, bài viết khẳng định: GHXX sơ

thẩm là quy định tất yếu khách quan trong TTHS, nó hình thành, phát triển cùng với

sự hình thành và phát triển của pháp luật TTHS nói chung nhưng chưa làm rõ cơ sở

lý luận của tính tất yếu khách quan của GHXX sơ thẩm trong TTHS; nội dung GHXX

sơ thẩm là phạm vi, mức độ để Tòa án cũng như các chủ thể tố tụng khác thực hiện

đúng chức năng của mình, tránh hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, chồng chéo chức

năng trong quá trình giải quyết VAHS nhưng các công trình nghiên cứu không đề

cập, phân tích việc thay đổi quyết định truy tố có ảnh hưởng như thế nào đến nội dung

GHXX sơ thẩm. Từ kết quả nghiên cứu đó, NCS có cơ sở khái quát khái niệm, nội

dung GHXX sơ thẩm trong TTHS một cách đa chiều, có tính so sánh và đối chiếu, từ

đó xây dựng khái niệm khoa học “giới hạn xét xử sơ thẩm”, phân tích nội dung của

GHXX sơ thẩm được toàn diện hơn.

Về mặt thực tiễn, XXST VAHS là nơi thể hiện đầy đủ, công khai nhất các chức

năng tố tụng; việc nghiên cứu thực hiện các chức năng cơ bản trong TTHS, nhất là

CNXX và quy định GHXX sơ thẩm trong thực tiễn pháp luật nhằm tạo sự thống nhất

trong nhận thức, tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật TTHS có liên

quan hoạt động xét xử là yêu cầu tất yếu và thường xuyên, góp phần vào việc thực

hiện cải cách tư pháp ở nước ta. Một trong những kết quả nghiên cứu có giá trị tham

khảo đối với Luận án là đã khái quát một cách khá đầy đủ thực trạng pháp luật Việt

Nam về GHXX sơ thẩm trong TTHS, mặc dù chỉ trình bày nội dung luật thực định

mà chưa phân tích ưu điểm cũng như hạn chế trong nội dung quy định GHXX sơ

thẩm qua từng BLTTHS để có cách nhìn chung nhất về tư duy lập pháp của Nhà nước

ta. Tuy nhiên, với kết quả nghiên cứu đó giúp cho NCS có cơ sở để tiếp tục nghiên

cứu so sánh quy định về GHXX sơ thẩm qua từng thời điểm ban hành BLTTHS Việt

Nam cũng như những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng quy định GHXX

sơ thẩm, từ đó có thể luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

TTHS Việt Nam và bảo đảm thực hiện đúng GHXX sơ thẩm trong TTHS.

26

Về giải pháp, các công trình nghiên cứu bước đầu đã phân tích một số nguyên

nhân dẫn đến bất cập, vướng mắc áp dụng quy định GHXX sơ thẩm và đề xuất một

số giải pháp khắc phục. Các nhóm giải pháp đưa ra hướng đến hoàn thiện pháp luật

TTHS có liên quan vấn đề nghiên cứu ở góc độ lập pháp là chủ yếu. Mặt khác, các

công trình, bài viết chưa xác định và chỉ ra được nguyên nhân chính của sự vướng

mắc, bất cập trong quy định GHXX sơ thẩm để có giải pháp phù hợp.

1.4. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần

tiếp tục nghiên cứu

* Câu hỏi nghiên cứu

- Bản chất của GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng? Đặc điểm, ý

nghĩa của GHXX sơ thẩm? Cơ sở lý luận của GHXX sơ thẩm trong TTHS?

- Lập pháp nước ngoài về GHXX sơ thẩm và kinh nghiệm nào cho Việt Nam?

Lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam quy định về GHXX sơ thẩm?

- Thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm khi xét xử VAHS? Bất cập, vướng

mắc và nguyên nhân?

- Những yêu cầu nào cần đặt ra và giải pháp nào cho việc hoàn thiện, bảo đảm

thực hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam?

* Giả thuyết nghiên cứu

Một là, việc nhận thức bản chất nội dung của quy định GHXX sơ thẩm trong

TTHS chưa thống nhất, nên thực trạng lập pháp liên quan đến quy định này còn nhiều

vướng mắc, bất cập.

Hai là, việc nghiên cứu cơ sở lý luận về GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm

nói riêng chưa đầy đủ, toàn diện và chưa đặt chúng trong các mối quan hệ biện chứng

với các quy định khác trong TTHS Việt Nam như các nguyên tắc cơ bản của TTHS;

nội dung giới hạn XXST với phạm vi xét xử phúc thẩm,…

Ba là, việc nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp nước ngoài về GHXX sơ thẩm

chưa được quan tâm áp dụng ở Việt Nam; chưa hình thành được mô hình lý luận về

GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam.

Bốn là, kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại trong thực tiễn áp dụng GHXX sơ

thẩm chưa được đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ. Đặc biệt, chưa xác định được

27

nguyên nhân chính dẫn đến vướng mắc, bất cập nên các giải pháp được đề xuất còn

mang tính lý thuyết chung chung, giá trị về mặt thực tiễn chưa cao.

* Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, NCS nhận thấy còn một

số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ như:

Thứ nhất, về mặt lý luận: Cần có sự nhìn nhận thống nhất về bản chất, nội dung

của GHXX sơ thẩm trong TTHS Việt Nam. Xác định nội dung của GHXX sơ thẩm

trong TTHS một cách thấu đáo, toàn diện hơn trong mối liên hệ với các nội dung

khác của TTHS. Không chỉ tiếp cận GHXX sơ thẩm dưới góc độ luật thực định (đơn

ngành) mà cần tiếp cận vấn đề nghiên cứu dưới góc độ đa ngành như triết học, xã hội

học, chính trị học, … để thấy được cơ sở cũng như căn cứ xác định GHXX sơ thẩm.

Thứ hai, về mặt lập pháp: Nghiên cứu thực trạng lập pháp TTHS Việt Nam về

quy định GHXX sơ thẩm và kinh nghiệm lập pháp nước ngoài về quy định GHXX

nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng để thống nhất nhận thức lập pháp. Từ đó, xây

dựng mô hình chung về GHXX sơ thẩm ở Việt Nam.

Thứ ba, về thực tiễn: Thực trạng áp dụng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS

Việt Nam chưa được nghiên cứu toàn diện, nhất là chưa xác định những nguyên nhân

chính yếu dẫn đến bất cập, tồn tại liên quan đến nội dung GHXX sơ thẩm trong quá

trình giải quyết VAHS cụ thể.

Thứ tư, về giải pháp: Nghiên cứu, so sánh, đánh giá thực trạng lý luận, thực

trạng quy định pháp luật TTHS về GHXX sơ thẩm để thấy sự khác biệt trong nhận

thức, lập pháp cũng như trong thực tiễn áp dụng. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm

hoàn thiện pháp luật TTHS liên quan GHXX sơ thẩm và các giải pháp bảo đảm thực

hiện đúng quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

hội, đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

ở Việt Nam trong thời gian tới.

28

Tiểu kết Chương 1

Qua tìm hiểu, phân tích tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến

giới hạn của việc xét xử sơ thẩm và thực tiễn thực hiện quy định cho thấy các nhà

nghiên cứu luật học, giới làm thực tiễn quan tâm, bàn luận, đề cập khá nhiều ở các

khía cạnh, mức độ và quy mô khác nhau.

Ở Việt Nam, điển hình có một vài công trình nghiên cứu dưới dạng luận văn

thạc sĩ về giới hạn xét xử nói chung và giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

nói riêng, trong đó đề cập quá trình hình thành và phát triển quy định về giới hạn xét

xử sơ thẩm; cơ sở hình thành, các yếu tố tác động việc thực hiện quy định giới hạn

xét xử sơ thẩm, ý nghĩa của quy định này nhưng chủ yếu là liệt kê, tiếp cận pháp luật

thực chứng, đơn chiều mà chưa phân tích toàn diện, đa chiều để làm rõ bản chất, nội

hàm, cơ sở, căn cứ hình thành giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt

Nam. Bên cạnh đó, một số bài báo khoa học chuyên ngành đã nêu một vài luận điểm

quan trọng, cơ bản về cơ sở lý luận của giới hạn xét xử sơ thẩm, phân tích khá sâu

pháp luật tố tụng hình sự thực định về giới hạn xét xử sơ thẩm, qua đó đề xuất một

số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan. Ở nước ngoài, các công

trình nghiên cứu, sách báo pháp lý liên quan đến nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm

chỉ mang tính gián tiếp thông qua việc phân tích các chức năng cơ bản trong tố tụng

hình sự về chủ thể thực hiện, nội dung, phạm vi thực hiện nhiệm vụ,… Còn bộ luật

tố tụng hình sự của các nước trên thế giới, đa phần đều quy định giới hạn của việc

thực hiện buộc tội, bào chữa và xét xử; xác định phạm vi thực hiện quyền hạn của

các chủ thể tiến hành tố tụng, nhưng cũng chỉ “dừng lại” là quy định của pháp luật,

chưa thấy công trình nghiên cứu nào phân tích đầy đủ, toàn diện về nội dung này.

Với những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu, bài viết liên quan

đến đề tài, thiết nghĩ việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, đa chiều về

những vấn đề còn “bỏ ngõ” được nêu ở trên là hết sức thiết thực, góp phần làm phong

phú, đa dạng về mặt lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng quy định giới hạn

xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.

29

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

2.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố

tụng hình sự

2.1.1. Khái niệm giới hạn xét xử sơ thẩm

Giới hạn xét xử là một chế định pháp lý quan trọng trong TTHS Việt Nam và là

vấn đề phức tạp về lý luận và thực tiễn. Quy định GHXX xuất hiện đầu tiên trong

“Đề án về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự” của TANDTC được xây dựng năm

1964, sau đó được hướng dẫn trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 và Thông

tư liên tịch số 01/TANDTC-VKSNDTC ngày 08/12/1988. Vấn đề “giới hạn của việc

xét xử” chính thức được “pháp điển hóa” tại Điều 170 BLTTHS Việt Nam năm 1988.

Sau đó, quy định này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 196 BLTTHS năm 2003 và Điều

298 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) nhằm đáp ứng nhu cầu thực

tiễn về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong

các văn bản pháp luật TTHS đều không đưa ra khái niệm “giới hạn xét xử” và “giới

hạn xét xử sơ thẩm” (ngay cả khi BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi quy định về giới

hạn của việc xét xử cấp sơ thẩm) mà chỉ thể hiện nội dung phạm vi, nhiệm vụ, thủ

tục mà VKS và Tòa án phải thực hiện ở giai đoạn XXST.

Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa “Giới hạn là phạm vi, mức độ nhất định

không thể hoặc không được phép vượt qua”, còn “Thẩm quyền là một danh từ chỉ tư

cách được Nhà nước trao cho thực hiện, tiến hành hay quyết định (một việc)” [141].

Qua định nghĩa cho thấy, xét về ngôn từ, nội dung “giới hạn xét xử” không thể đồng

nghĩa với “thẩm quyền xét xử”. Nếu xét ở góc độ pháp lý thì thẩm quyền xét xử của

Tòa án chính là quyền hạn của Tòa án được xem xét giải quyết vụ án theo quy định

của pháp luật. Còn giới hạn xét xử là phạm vi, mức độ quyền hạn của Tòa án được

phép xem xét, phán quyết trong quá trình giải quyết VAHS. Trong khi đó, từ điển

Luật học định nghĩa giới hạn của xét xử như sau: “Giới hạn của xét xử hình sự là

phạm vi Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét và giải quyết về vụ án” [21]. Như vậy, khi

30

đề cập nội dung giới hạn của xét xử hình sự, từ điển Luật học chỉ cho rằng chủ thể

xem xét và giải quyết VAHS trong phạm vi cho phép là Tòa án cấp sơ thẩm. Theo

NCS định nghĩa như vậy là chưa đầy đủ, bởi lẽ xét xử là hoạt động không chỉ được

thực hiện bởi Tòa án cấp sơ thẩm, mà còn được thực hiện bởi Tòa án cấp phúc thẩm

(nguyên tắc hai cấp xét xử). Trong hoạt động xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm, cũng

phải tuân thủ một giới hạn, phạm vi nhất định theo quy định - đó là phạm vi xét xử

phúc thẩm. Ngoài ra, khái niệm từ điển nêu cũng chưa thể hiện được nội dung cụ thể

của GHXX như: phạm vi Tòa án cấp sơ thẩm được xem xét và giải quyết là gì (đối

tượng)? xác định trên cơ sở và mức độ nào?....

Về vấn đề GHXX sơ thẩm, các nhà nghiên cứu luật học cũng có nhiều ý kiến

trái chiều. Theo TS. Nguyễn Văn Hiện:“Giới hạn xét xử cũng chính là thẩm quyền

xét xử mà thẩm quyền xét xử thì không chỉ bao hàm trong một điều luật” [46, tr.1-

tr.5]. Ở đây, tác giả đã đồng nhất “giới hạn xét xử” là “thẩm quyền xét xử”. Trong

khi đó, TS. Nguyễn Văn Huyên lại cho rằng: “Thẩm quyền xét xử là quyền xét xử đối

với từng vụ án cụ thể, trong một phạm vi (giới hạn) do pháp luật quy định, là quyền

ra các quyết định khi xét xử vụ án.... Ở mỗi thủ tục xét xử khác nhau, phạm vi, mức

độ quyền hạn của Tòa án cũng khác nhau và được gọi là phạm vi xét xử và giới hạn

xét xử.... Giới hạn xét xử dùng đề hạn chế Tòa án cấp sơ thẩm chỉ được xét xử trong

nội dung bản cáo trạng do VKS truy tố” [63]. NCS đồng tình với quan điểm này ở

nội dung “thẩm quyền” không đồng nghĩa với “giới hạn”.

TS. Đặng Quang Phương thì khẳng định:“Giới hạn xét xử là sự thể hiện nội

dung của nguyên tắc độc lập xét xử” [97, tr.43]. Quan điểm này đề cập khái niệm

GHXX chưa được xây dựng dựa trên các dấu hiệu đặc trưng như chủ thể, quyền hạn,

nội dung, đối tượng,… Mặt khác, GHXX sơ thẩm là một trong những nội dung thể

hiện mối quan hệ chế ước giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS,

mặc dù có liên quan đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án nhưng nội dung và ý

nghĩa của chúng không giống nhau. GHXX có ý nghĩa trong việc cụ thể hóa mối quan

hệ chế ước giữa VKS và Tòa án; định ra phạm vi thực hiện quyền hạn của Tòa án khi

tiến hành XXST VAHS để tránh lạm quyền, bảo đảm hoạt động tố tụng thực hiện

đúng đắn, khách quan, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Nguyên

31

tắc độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định nhằm bảo đảm cho việc xét xử của HĐXX

được khách quan, công bằng; bất kỳ cá nhân, tổ chức, cơ quan nào cũng không được

quyền cản trở, can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy, nguyên tắc độc lập

xét xử chỉ là một trong những cơ sở để quy định GHXX chứ không phải là nội dung

của GHXX.

Theo PGS.TS. Phạm Hồng Hải thì: “Giới hạn xét xử là Tòa án chỉ xét xử về

hình sự đối với những bị cáo và những hành vi đã bị Viện kiểm sát truy tố mà Tòa án

đã có quyết định đưa ra xét xử”. Còn “Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có thể

hiểu là phạm vi những người, những hành vi mà Hội đồng xét xử sơ thẩm được xét

xử tại phiên tòa. Phạm vi đó không phải là vô hạn mà ngược lại nó được hạn chế bởi

những người, những hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa

vụ án ra xét xử” [40]. Quan điểm này cho rằng: GHXX thực chất là mối quan hệ

TTHS giữa VKS và Tòa án ở giai đoạn từ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc

thẩm, tái thẩm. Mối quan hệ này xuất hiện từ khi VKS gửi cáo trạng và hồ sơ vụ án

sang Tòa án và được thể hiện thông qua KSV được Viện trưởng VKS ủy quyền nghiên

cứu hồ sơ vụ án, làm cáo trạng và giữ quyền công tố trước tòa cùng với Thẩm phán

được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ tọa phiên tòa nếu vụ án

được đưa ra xét xử [40].

Quan điểm trên được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ giữa VKS và Tòa án

trong các giai đoạn xét xử mà pháp luật TTHS quy định. NCS nhận thấy đây là quan

niệm có những yếu tố hợp lý nhất định. Bởi lẽ, khái niệm GHXX, GHXX sơ thẩm

được nêu chứa đựng đầy đủ các yếu tố cơ bản của một khái niệm, đó là chủ thể, khách

thể và nội dung cơ bản thuộc về bản chất của vấn đề. Ở đây, chủ thể thực hiện được

xác định là Tòa án có thẩm quyền xét xử; khách thể chính là hành vi và chủ thể của

hành vi phạm tội xâm hại đến những khách thể được Luật hình sự bảo vệ và bị truy

tố, đưa ra xét xử; nội dung cơ bản thuộc về bản chất của giới hạn chính là phạm vi,

mức độ quyền hạn mà Tòa án được phép thực hiện khi tiến hành xét xử. Tuy nhiên,

quan điểm này vẫn chưa thực sự đầy đủ, bởi lẽ GHXX được quy định không chỉ dựa

trên cơ sở mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong việc thực hiện các chức năng buộc

tội và CNXX, mà còn phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm thực hiện quyền bào

32

chữa của bên bị buộc tội, tức là bảo đảm chức năng bào chữa trong TTHS được thực

hiện. Có như vậy, mới bảo đảm mối quan hệ hài hòa giữa các chức năng cơ bản trong

TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Cùng với quan điểm này, TS Nguyễn Mai Bộ

cũng cho rằng: “Giới hạn của việc xét xử là phạm vi những bị cáo và những hành vi

của bị cáo mà Tòa án được xét xử theo quyết định truy tố của Viện kiểm sát”, tuy

nhiên, tác giả không đề cập đến mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong các giai đoạn

xét xử mà chủ yếu phân tích nội dung của GHXX trên cơ sở nội dung luật định [8].

Trong khi đó, TS Hoàng Anh Tuyên cho rằng: “Giới hạn xét xử là phạm vi, mức độ

nhất định mà Tòa án không thể hoặc không được vượt qua.”. Quan điểm này tương

đồng với định nghĩa “giới hạn” trong từ điển tiếng Việt, tuy nhiên bên cạnh đó, tác

giả đề cập đến mục đích của việc quy định GHXX trong TTHS, đó là “nhằm bảo

đảm tính xác định và định hướng cho hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố

tụng, tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là xác định giới hạn cho Tòa án

trong việc thực hiện quyền hạn; bảo đảm cho bị cáo và người bào chữa chủ động

chuẩn bị chứng cứ, bào chữa, tranh tụng tại phiên tòa; thể hiện quan hệ chế ước của

Viện kiểm sát đối với Tòa án.” [147]. Qua đó, có thể thấy mặc dù nội dung GHXX

chưa thể hiện cụ thể phạm vi, mức độ giới hạn của Tòa án trong việc thực hiện chức

năng của mình và mối liên hệ giữa phạm vi giới hạn đó với quyết định truy tố của

VKS, nhưng khi đề cập mục đích của quy định GHXX trong TTHS thì tác giả lại thể

hiện phạm vi thực hiện hoạt động xét xử của Tòa án với phạm vi nội dung truy tố của

VKS thông qua mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS: buộc tội - gỡ

tội (bào chữa) và xét xử.

Theo PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc thì: “Giới hạn xét xử hiểu một cách đơn giản

nhất là sự hạn chế do luật định về phạm vi hoạt động xét xử của Tòa án”. Tòa án chỉ

thực hiện xét xử khi có quyết định truy tố của VKS. Nội dung truy tố của VKS là đối

tượng xét xử của Tòa án bao gồm: bị cáo (hoặc nhiều bị cáo); hành vi của bị cáo với

những tình tiết cụ thể và đánh giá pháp lý (tội danh) kèm theo. Trong quá trình xét

xử hoàn toàn có khả năng xuất hiện sự đánh giá khác nhau về các nội dung này giữa

Tòa án - đại diện cho CNXX và VKS - đại diện cho chức năng buộc tội. Xung đột

này tất yếu ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo (đại diện cho chức năng bào

33

chữa) [95]. NCS đồng tình với quan điểm này, GHXX thực chất là sự giới hạn của

luật đối với quyền xét xử của Tòa án đối với VAHS và đó cũng chính là phạm vi,

“ranh giới” để Tòa án luôn là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Bản chất của GHXX

sơ thẩm là sự thể hiện mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS tại phiên

toà sơ thẩm: buộc tội - bào chữa - xét xử.

Về xét xử sơ thẩm, qua nghiên cứu các quan điểm khác nhau thì NCS đồng ý

với quan điểm của TS Nguyễn Mai Bộ khi cho rằng “XXST VAHS là việc Tòa án lần

đầu bằng một HĐXX căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên

tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của KSV, bị cáo,

người bào chữa, người tham gia tố tụng khác quyết định một người bị truy tố về một

tội phạm cụ thể có phạm tội hay không; nếu có, thì phạm tội gì, theo điểm, khoản,

điều nào của BLHS và quyết định việc áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp đối với

người bị kết án và giải quyết những vấn đề khác của vụ án”. XXST VAHS có thể

được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng, XXST VAHS là quá trình nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị xét xử

và xét xử tại phiên tòa VAHS đối với bị cáo bị VKS truy tố và Tòa án đã ra quyết

định đưa vụ án ra xét xử về một tội cụ thể được quy định trong BLHS. Theo nghĩa

này, thì nhiệm vụ của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa không chỉ là

nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ để tiến hành sơ bộ việc định tội danh, dự kiến

hình phạt có thể áp dụng đối với bị can bị truy tố mà còn phải giải quyết các vấn đề

như: thẩm quyền xét xử vụ án (vụ án có thuộc thẩm quyền của Tòa án mình hay

không, nếu không thuộc thẩm quyền thì phải chuyển vụ án cho VKS đã truy tố để

chuyển đến VKS có thẩm quyền truy tố); quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện

pháp ngăn chặn; nếu có đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử thì phải tiến hành các công

việc chuẩn bị cho việc mở phiên tòa và tổ chức phiên tòa xét xử vụ án; nếu không đủ

căn cứ đưa vụ án ra xét xử và xét thấy có căn cứ thì quyết định trả hồ sơ cho VKS để

điều tra bổ sung; nếu có căn cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định

định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Theo nghĩa hẹp, XXST VAHS là phiên tòa sơ

thẩm xét xử VAHS đối với bị cáo bị truy tố về một tội phạm cụ thể. Theo nghĩa này,

thì HĐXX tiến hành: Thẩm tra các chứng cứ, tài liệu bằng cách xét hỏi, tổ chức việc

34

xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa; Nghị án để đánh giá chứng cứ, tài liệu đã được thẩm

tra, ý kiến tranh luận của KSV, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác

để quyết định người bị truy tố có phạm tội hay không; nếu có, thì phạm tội gì, theo điểm,

khoản, điều nào của BLHS, quyết định việc áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp đối

với người bị kết án, giải quyết những vấn đề khác của vụ án và tuyên án [8].

Như vậy, dù hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, thì một trong những nhiệm vụ

cơ bản quan trọng nhất của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, HĐXX sơ

thẩm VAHS là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nghĩa là, phải xét xử (phán

xét và quyết định) chính xác người bị truy tố có phạm tội hay không; nếu có, thì phạm

tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của BLHS và quyết định việc áp dụng hình phạt, biện

pháp tư pháp đối với người đó Quan điểm trên đã thể hiện rõ về bản chất của xét xử sơ

thẩm VAHS cũng như GHXX và thẩm quyền của HĐXX sơ thẩm VAHS.

Về CNXX trong TTHS cũng có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng NCS thống

nhất với quan điểm của TS Lê Tiến Châu khi cho rằng: “CNXX là hoạt động tố tụng

của Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định một người bị buộc tội có tội hay không

và xác định trách hiệm hình sự đối với người có tội” [22]. Vì thế, bản chất của CNXX

là hoạt động có tính quyền lực nhà nước áp dụng pháp luật vào trong trường hợp cụ

thể. Còn nội dung của CNXX là hoạt động tố tụng của Tòa án trải qua hai giai đoạn:

- Giai đoạn 1: xác định có hay không có, tồn tại hay không tồn tại các sự kiện

của vụ án theo như cáo trạng nêu ra (Questions of facts).

- Giai đoạn 2: đánh giá pháp lý về các sự kiện đó của vụ án (Questions of law).

Giải quyết nội dung ở giai đoạn thứ nhất, Tòa án dựa vào tất cả chứng cứ (buộc

tội và gỡ tội) mà các bên tham gia tố tụng đưa ra để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ

án, đánh giá toàn diện các chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án: có hay

không có sự kiện phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ của người phạm tội là gì,v.v…Trên cơ sở đó, Tòa án (HĐXX) áp

dụng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS để phán xét hành vi đó:

tuyên bố bị cáo có tội hay không? Nếu có là phạm tội gì trong BLHS, Tòa án sẽ lựa

chọn áp dụng điều khoản, tội danh tương xứng với mức độ và tính chất nguy hiểm

của hành vi phạm tội đó. Nếu không xác định được sự kiện phạm tội và người phạm

35

tội thì HĐXX tại phiên tòa sẽ tuyên bố bị cáo không phạm tội như cáo buộc của bên

buộc tội đã nêu. Tất cả các hoạt động đó của Tòa án đều xuất phát từ nội dung CNXX.

Với chức năng của mình, Tòa án cũng có trách nhiệm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ

án nhưng không phải để “buộc hay gỡ tội” mà nhằm xác định sự thật khách quan của

vụ án, tức là Tòa án thực hiện CNXX - chức năng hiến định mà Nhà nước giao cho. Vì

thế, CNXX là hoạt động của Tòa án áp dụng pháp luật vào trường hợp cụ thể nhưng sự

áp dụng pháp luật này mang tính đặc thù là nhân danh Nhà nước. Cho nên, có thể khẳng

định rằng: hoạt động xét xử là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước do

Tòa án nhân danh Nhà nước thực hiện theo trình tự tố tụng do luật điều chỉnh.

Buộc tội và truy tố trong TTHS cũng được nhà khoa học pháp lý nghiên cứu với

nhiều quan điểm khác nhau, NCS đồng tình với quan điểm của PGS.TS Nguyễn Thái

Phúc khi cho rằng: Truy tố là hoạt động buộc tội ở giai đoạn XXST, là sự khẳng định

của VKS dựa trên kết quả điều tra về việc bị can là người đã thực hiện hành vi có dấu

hiệu tội phạm với yêu cầu Tòa án xác định TNHS của bị can thông qua xét xử tại

phiên tòa. Truy tố của VKS là buộc tội nhà nước vì được thực hiện nhân danh nhà

nước ở trước Tòa án. Truy tố là hoạt động buộc tội do VKS là chủ thể duy nhất thực

hiện trước Tòa án, được tiến hành bắt đầu khi có quyết định truy tố bị can ra trước

Tòa án và hướng đến xét xử, tuyên bản án kết tội đối với bị can và kết thúc khi bản

án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật [96]. Qua đó, có thể thấy hoạt động xét xử của Tòa

án liên quan chặt chẽ với nội dung truy tố của VKS. Vì thế, việc thay đổi nội dung

truy tố sẽ làm thay đổi nội dung GHXX sơ thẩm của Tòa án.

Từ những nội dung phân tích nêu trên, có thể thấy rằng: mỗi quan điểm có những

cơ sở, lập luận khác nhau về nội dung liên quan đến “giới hạn xét xử”, “xét xử sơ

thẩm”, “chức năng xét xử”,… nhưng đều có điểm chung cho rằng giới hạn xét xử đó

chính là phạm vi, sự hạn chế do luật định về hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án chỉ

có quyền xét xử những hành vi, những người bị VKS truy tố bằng bản cáo trạng. Qua

đó, NCS cho rằng: Giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự là sự hạn chế do luật

định về phạm vi hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm trên cơ sở nội dung truy tố

của Viện kiểm sát để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

36

2.1.2. Nội dung của giới hạn xét xử sơ thẩm

2.1.2.1. Phạm vi truy tố của Viện kiểm sát là phạm vi giới hạn xét xử của Tòa

án sơ thẩm

Chủ thể mà Tòa án đưa ra xét xử sơ thẩm VAHS phải là bị cáo bị Tòa án cấp sơ

thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở quyết định truy tố của VKS. Vì thế,

Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo về những hành vi phạm tội của họ theo tội danh

mà VKS đã truy tố bằng bản cáo trạng, điều đó có nghĩa là Tòa án không được xét

xử thêm bị cáo và hành vi phạm tội mới khi chưa được VKS truy tố. Sự kiện pháp lý

làm phát sinh việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là quyết định

truy tố của VKS bằng bản cáo trạng.

Truy tố của VKS vừa là căn cứ để Tòa án đưa vụ án ra xét xử, vừa là cơ sở để

khống chế GHXX của Tòa án. Theo đó, VKS truy tố người nào, về tội gì thì Tòa án

xét xử chủ thể và tội danh đó; truy tố phải có nội dung cụ thể để ràng buộc giới hạn

xét xử, tránh tình trạng Tòa án lạm dụng quyền xét xử. Sau khi hồ sơ VAHS được

chuyển sang Tòa án cùng với bản cáo trạng của VKS, lúc này bắt đầu xuất hiện mối

quan hệ TTHS giữa hai cơ quan này. Không thể nói từ thời điểm hồ sơ chuyển sang

Tòa án, Tòa án có toàn quyền giải quyết mọi vấn đề của vụ án. Trong thực tế, quan

hệ giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn này trở đi là quan hệ phối hợp và quan hệ chế

ước lẫn nhau. Tính phối hợp giữa VKS và Tòa án thể hiện ở chỗ: cả hai cơ quan này

cùng phải xem xét lại tính căn cứ, tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện trong hồ sơ

vụ án. Trong trường hợp cần thiết và những trường hợp mà VKS và Tòa án còn có

những quan điểm bất đồng về vụ án thì Tòa án chủ trì triệu tập cuộc họp có đại diện

VKS tham gia để trao đổi, thống nhất,... Quan hệ phối hợp thể hiện trong giai đoạn

chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa không có mối quan hệ này vì Tòa án lúc này là người

đứng giữa hai bên, một bên buộc tội (VKS, bị hại,....) và một bên bào chữa (bị cáo,

người bào chữa,...). Còn quan hệ chế ước lẫn nhau giữa VKS và Tòa án thể hiện ở

chỗ: Tòa án có thể yêu cầu VKS tiến hành điều tra bổ sung, cung cấp thêm những tài

liệu và chứng cứ cần thiết khác phục vụ cho khâu xét xử tại phiên tòa. Nếu có những

căn cứ xác định bị cáo phạm tội hoặc không phạm tội, Tòa án có quyền yêu cầu VKS

bổ sung cáo trạng trước hoặc sau ngay trong phiên tòa, nếu điều đó không làm xấu đi

37

tình trạng của bị cáo hoặc khó khăn cho việc bào chữa của bị cáo. Vì thế, về mặt lý

luận và thực tiễn, việc xem xét quy định cho Tòa án xét xử khác tội danh mà VKS đã

truy tố phải cân nhắc trên hai khía cạnh sau: Thứ nhất, có vượt ra khỏi phạm vi truy

tố hay không và có ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo hay không. Trong quá

trình xét xử, việc xác định sự thật của vụ án có sự thay đổi lớn, đã vượt ra khỏi phạm

vi truy tố thì Tòa án không được trực tiếp thay đổi tội danh, xét xử theo tội danh mới

nếu tội danh đó nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, mà phải yêu cầu VKS thay đổi

tội danh khác nặng hơn thì mới đưa ra xét xử. Nếu trong phạm vi truy tố mà thấy có

thể xét xử theo tội danh nhẹ hơn tội danh mà VKS đã truy tố, không ảnh hưởng đến

quyền bào chữa của bị cáo thì Tòa án có thể xét xử theo tội danh nhẹ hơn đó để nâng

cao hiệu quả tố tụng; trường hợp có thể ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo thì

chỉ khi có ý kiến của KSV, bị cáo, người bào chữa, Tòa án mới được xét xử theo tội

danh nhẹ hơn đó; thứ hai, trong phạm vi sự thật khách quan của vụ án, nếu cần xét

xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố thì Tòa án yêu cầu VKS

truy tố về tội danh nặng hơn đó, nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo;

trong trường hợp VKS không truy tố về tội danh nặng hơn thì Tòa án không thể xét

xử bị cáo về tội danh nặng hơn để bảo đảm GHXX, quyền bào chữa và nguyên tắc có

lợi cho bị cáo.

2.1.2.2. Thay đổi nội dung truy tố tại phiên toà và giới hạn xét xử sơ thẩm

Thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa là phần quan trọng của nội dung GHXX

sơ thẩm, đồng thời cũng là một trong những tiêu chí để phân loại mô hình tố tụng

trong lịch sử phát triển TTHS thế giới hay ở mỗi quốc gia. Lịch sử phát triển TTHS

trên thế giới đã biết đến các mô hình quy định GHXX sơ thẩm cũng như cách thức

giải quyết vấn đề thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa. Nội dung này được trình bày

chi tiết tại mục 2.4. Kinh nghiệm lập pháp về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng

hình sự của một số nước trên thế giới.

Ở Việt Nam, BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) kế thừa các

BLTTHS trước đó tiếp tục ghi nhận truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử là quyền

riêng có chỉ thuộc về chủ thể duy nhất là VKS và quyền này là nội dung của khái

niệm thực hành quyền công tố (Điều 20, Điều 236). BLTTHS hiện hành cũng kế thừa

38

quy định về thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa sơ thẩm như là một phần quan

trọng của quy định GHXX sơ thẩm. Trước khi mở phiên tòa, VKS có thể thay đổi nội

dung truy tố ban đầu trong các trường hợp:

- Tòa án thụ lý vụ án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung và kết quả điều tra bổ

sung làm thay đổi cơ bản nội dung cáo trạng trước đó, VKS phải ra bản cáo trạng mới

thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án (Điều 246). Cáo trạng mới có thể theo hai hướng:

làm xấu tình trạng bị can hoặc có lợi cho tình trạng bị can.

- Tòa án thụ lý vụ án trả hồ sơ cho VKS để truy tố lại theo khoản 3 Điều 298

BLTTHS. VKS nếu chấp nhận sẽ truy tố bị cáo lại bằng bản cáo trạng mới với tội

danh nặng hơn.

- VKS rút quyết định truy tố khi có căn cứ luật định và đề nghị Tòa án đình chỉ

vụ án. Tòa án phải ra quyết định đình chỉ vụ án ( Điều 282; Điều 285)

BLTTHS năm 2015 không ghi nhận trình tự, thủ tục VKS rút một phần nội dung

truy tố và rút toàn bộ nội dung truy tố theo Điều 285 (trước khi mở phiên tòa) như

thế nào? Luật đã cho các bên tranh tụng cơ hội đưa ra các yêu cầu, đề nghị trước khi

mở phiên tòa và thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nghĩa vụ phải giải quyết, tuy nhiên

luật không đề cập đến đề nghị thay đổi nội dung truy tố ban đầu của VKS (Điều 279).

Sau khi phiên tòa sơ thẩm đã được khai mạc, KSV và Tòa án đều có thể thay

đổi nội dung truy tố ban đầu với các hình thức khác nhau và hệ quả pháp lý khác nhau

(theo các Điều 266, 298, 306, 319, 320, 325 và 326). Luật không cho phép KSV thay

đổi nội dung truy tố ban đầu theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo. Thời điểm KSV

thực hiện quyền rút toàn bộ nội dung truy tố, rút một phần hoặc kết luận về tội bằng

hoặc nhẹ hơn là khi kết thúc việc xét hỏi. Trường hợp KSV rút toàn bộ nội dung truy

tố thì trước khi nghị án HĐXX yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý

kiến về quyết định này của KSV. Khi nghị án, nếu có căn cứ xác định bị cáo không

có tội thì HĐXX tuyên bị cáo không có tội. Nếu thấy việc rút quyết định truy tố không

có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng VKS cùng cấp

hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp.

Tòa án có thể xét xử bị cáo theo hướng có lợi cho bị cáo khi tuyên bị cáo về một

tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS truy tố. Tòa án cũng có thể xét xử bị cáo theo

39

khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật (thí dụ như khoản

về tình tiết định khung hình phạt) làm xấu tình trạng bị cáo. Tòa án cũng có quyền

xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn so với tội danh VKS truy tố với điều kiện trước

đó Tòa án phải trả hồ sơ cho VKS để truy tố lại và trong Quyết định đưa vụ án ra xét

xử ngoài việc thông báo cho bên bào chữa biết về tội danh, khoản của BLHS mà VKS

truy tố Tòa án có nghĩa vụ thông báo về tội danh, khoản của BLHS mà Tòa án sẽ xét

xử. Không tuân thủ thủ tục luật định này, HĐXX không có quyền tuyên bị cáo theo

tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố và không thể trả hồ sơ cho VKS

để truy tố lại vì Điều 326 chỉ ghi nhận quyền của HĐXX trả hồ sơ cho VKS để điều

tra bổ sung - đây là hai trường hợp khác nhau.

Trên cơ sở phân tích quy định của BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2021) về thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa sơ thẩm, NCS có nhận xét như sau:

- Về thẩm quyền của KSV rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố.

BLTTHS hiện hành kế thừa xu hướng nhân văn trong các BLTTHS trước đó không

cho phép KSV tại phiên tòa thay đổi nội dung buộc tội theo hướng làm xấu tình trạng

bị cáo là hoàn toàn đúng đắn, nhất là khi tranh tụng đã được thừa nhận là nguyên tắc

cơ bản của TTHS nước ta. Quy định về quyền (đồng thời là nghĩa vụ) của KSV tại

phiên tòa được tự quyết định rút một phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố và chịu trách

nhiệm về quyết định của mình phù hợp với xu thế tăng cường tính chủ động, độc lập

cho các chủ thể là người THTT và phù hợp với thực tiễn xét xử.

- Về hậu quả pháp lý, khi KSV rút một phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố hiện

cũng có những vấn đề tranh luận đặt ra như: Thứ nhất, khi KSV rút một phần nội

dung truy tố thì GHXX sơ thẩm mới này có ràng buộc Tòa án hay không? Thí dụ bị

cáo bị truy tố hai tội Lừa đảo và Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tại phiên

tòa KSV rút tội Lừa đảo ra khỏi nội dung truy tố. Tòa án có thể vẫn tuyên bị cáo theo

hai tội truy tố ban đầu (làm xấu tình trạng bị cáo) hay bị chi phối theo GHXX sơ thẩm

mới là chỉ xét xử tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản? Thứ hai, trường hợp

KSV rút toàn bộ quyết định truy tố, Tòa án có thể tuyên bị cáo vô tội khi thấy quyết

định rút có căn cứ nhưng lại tạm đình chỉ và kiến nghị với Viện trưởng VKS cùng

cấp hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp, nếu thấy quyết định rút không có căn

40

cứ. Trong cùng một tình huống nhưng độc lập xét xử của Tòa án lại thể hiện khác

nhau, không nhất quán: lúc thì ra phán quyết lúc lại không được phán quyết. Thứ ba,

quy định Tòa án phải kiến nghị Viện trưởng VKS xem xét tính có căn cứ quyết định

của KSV rút quyết định truy tố tại phiên tòa là không phù hợp với vai trò, nhiệm vụ

của Tòa án. Nhiệm vụ chính của Tòa án là xem xét tính có căn cứ và tính hợp pháp

nội dung truy tố của VKS- đối tượng xét xử của Tòa án - chứ không phải là quyết

định rút quyết định truy tố của KSV có căn cứ hay không. Thứ tư, quan hệ phát sinh

trên cơ sở kiến nghị của HĐXX với Viện trưởng VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp

là quan hệ pháp luật gì? Viện trưởng VKS có nghĩa vụ xem xét kiến nghị và trả lời

Tòa án hay không? Luật không đề cập đến trường hợp Viện trưởng VKS không đồng

ý với kiến nghị của HĐXX thì hoạt động xét xử vụ án tiếp theo sẽ diễn ra như thế

nào? Hoặc là vụ án sẽ bị “tạm đình chỉ” vô thời hạn hoặc Tòa án sẽ hủy bỏ quyết

định tạm đình chỉ để tiếp tục xét xử nhưng theo căn cứ nào? Và hướng xét xử tiếp

theo sẽ như thế nào? Tòa có tuyên bản án kết tội bị cáo khi KSV đã rút lại toàn bộ

cáo buộc của VKS về trách nhiệm hình sự của bị cáo hay không?

NCS đồng ý với quan điểm cho rằng CNXX của Tòa án chỉ có mục đích là nhân

danh công lý và Nhà nước kết luận một người có hay không phạm tội. Tuyên bố một

người phạm tội nào đó phải dựa trên sự buộc tội và xét xử. Ngược lại, không có sự

buộc tội thì tuyên bố của Tòa án sẽ không có ý nghĩa, bởi không ai buộc tội bị cáo thì

đương nhiên họ không có tội và không cần xét xử. Đối với trường hợp sau khi xét

hỏi, VKS rút toàn bộ truy tố thì đương nhiên phiên tòa không có luận tội và hệ quả là

sẽ không có tranh luận giữa VKS và bị cáo, người bào chữa, người bị hại. Do đó,

trong trường hợp này, Tòa án vẫn ra bản án là chưa phù hợp. Mặt khác, nếu VKS rút

truy tố mà Tòa án vẫn xét xử và kết tội thì Tòa án đã làm thay chức năng buộc tội của

VKS, ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập xét xử của Tòa án, xâm phạm đến

quyền lợi của người bị buộc tội [147].

Từ nội dung của GHXX sơ thẩm, có thể rút ra một số đặc điểm của GHXX sơ

thẩm như sau:

Thứ nhất, cơ sở phát sinh hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là quyết định

truy tố (bản cáo trạng) của VKS, nghĩa là “có truy tố thì mới có xét xử”. phạm vi Tòa

41

án được xét xử không phải là vô hạn, bởi nó bị hạn chế về những người và những

hành vi mà VKS truy tố trong bản cáo trạng và Thẩm phán được phân công làm chủ

tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bản chất của xét xử là việc Tòa án

như “một trọng tài” đứng ra phân xử và phán quyết khi tồn tại sự cáo buộc của bên

này đối với bên kia.

Thứ hai, việc VKS thay đổi nội dung truy tố (rút một phần hoặc toàn bộ quyết

định truy tố) tại phiên toà làm thay đổi GHXX sơ thẩm đối với VAHS cụ thể và hậu

quả pháp lý khác nhau.

Thứ ba, GHXX sơ thẩm là quy định thể hiện hài hoà mối quan hệ giữa ba chức

năng cơ bản trong TTHS tại phiên toà sơ thẩm khi giải quyết VAHS, đó là: buộc tội,

bào chữa và xét xử, vì thế luôn phải gắn liền với hoạt động tranh tụng của các chủ thể

liên quan để thực hiện các chức năng cơ bản đó.

42

2.1.3. Ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm

2.1.3.1. Về mặt chính trị - xã hội

Các Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta qua

từng giai đoạn, đã xác định: "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn

vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng

theo hướng bảo đảm công khai, dân chủ, văn minh, nâng cao chất lượng tranh tụng

tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [11]. Gần đây,

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng

Cộng sản Việt Nam khoá XIII đã tiếp tục xác định:“Hoàn thành cơ bản việc xây

dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính,

phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,…”. Theo đó, cần phải cải cách căn bản,

toàn diện hệ thống Tòa án, hệ thống các cơ quan điều tra, VKS và các cơ quan bổ

trợ tư pháp khác cũng như hoạt động thực tiễn và đội ngũ cán bộ của ba hệ thống

các cơ quan này, đồng thời hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, góp

phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và bảo đảm

pháp chế trong hoạt động xét xử; “xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng,

nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả

thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp

pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi

mới sáng tạo. Tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực, tháo

gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực,

tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững của đất nước”[5].

Qua từng giai đoạn lịch sử gắn liền với công cuộc xây dựng đất nước, Đảng và

Nhà nước ta luôn quan tâm cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp dân chủ,

hiện đại, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho

công dân thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của mình, góp phần xây dựng chế độ

XHCN Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như Nghị

quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48- NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ

Chính trị, Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương là những cơ sở

43

để hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ quan THTT và là cơ sở hoàn thiện

hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật TTHS nói riêng, trong đó có quy định giới

hạn của xét xử sơ thẩm VAHS. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện quy định về

giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS là điều rất cần thiết, có ý nghĩa quan

trọng trong việc triển khai đường lối, chủ trương của Đảng trong lĩnh vực tư pháp.

Bởi lẽ, qui định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS thể hiện rõ sự phân định

nhiệm vụ, quyền hạn của Nhà nước đối với VKS và Tòa án đã được ghi nhận trong

Hiến pháp, đồng thời nó cũng thể hiện mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau

giữa hai cơ quan này. VKS và Tòa án nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

thực hiện quyền lực nhà nước một cách khách quan, công minh vì lợi ích của Nhà

nước, của xã hội cũng như lợi ích hợp pháp của công dân.

Quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS bảo đảm cho bị cáo thực

hiện được những quyền công dân của mình, cụ thể là bảo đảm cho bị cáo có điều

kiện để có thể thực hiện quyền bào chữa; được thực hiện tranh tụng bình đẳng giữa

bị cáo, người bào chữa của bị cáo với người thực hành quyền công tố tại phiên

tòa,…. Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa với vai trò là người điều khiển phiên tòa, “làm

trọng tài” ở giữa, lắng nghe ý kiến tranh luận của đại diện VKS và những người

tham gia tố tụng. Trên cơ sở đó, chủ tọa mới có thể “bình tâm” nhận định khách

quan, xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, để ra quyết định

hoặc bản án kết luận “số phận pháp lý” của người phạm tội. Thực hiện tố tụng theo

cách thức này mới có thể “ngăn chặn được” hiện tượng “lấn sân”, chồng chéo chức

năng, tránh tình trạng xét xử bị cáo về những hành vi và tội danh không bị truy tố,

hoặc truy tố không đúng theo trình tự, thủ tục mà pháp luật TTHS quy định. Nội

dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS được quy định một cách đúng

đắn, có cơ sở là căn cứ bảo đảm cho Tòa án luôn là cơ quan thực hành quyền tư

pháp, xét xử “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”; góp phần bảo đảm pháp chế

XHCN, củng cố trật tự an ninh xã hội, tạo môi trường sống an toàn, bảo đảm công

bằng xã hội, củng cố lòng tin của Nhân dân đối với các cơ quan tư pháp nói riêng,

với Đảng và Nhà nước nói chung.

44

2.1.3.2. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự

Vấn đề quyền con người là một trong những vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên

quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống chính trị - xã hội. Những giá trị cốt

lõi của chúng được cả thế giới thừa nhận, tôn trọng và được bảo đảm bằng nhiều cơ

chế khác nhau để các quyền con người đó được thực hiện trên thực tế, đặc biệt là cơ

chế về pháp luật. Các Mác đã khẳng định: Con người là sự tổng hòa các quan hệ xã

hội, do vậy quyền con người thể hiện sâu sắc các giá trị của quan hệ xã hội. Còn

quyền có thể được hiểu là khả năng xử sự mà pháp luật cho phép để chủ thể pháp luật

thực hiện, không ai được ngăn cản, hạn chế.

Quyền con người trong TTHS có thể hiểu là tổng hợp các nhóm quyền dân sự,

chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh

dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử

công bằng bởi một Tòa án độc lập khách quan đối với những người yếu thế (người bị

cáo buộc phạm tội, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người chấp hành án và những

người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiện lạm quyền của các cơ quan và công

chức nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động TTHS [24, tr.122]. Việc bảo đảm

quyền con người trong TTHS là tạo những tiền đề pháp luật ghi nhận, luật hóa các

quyền con người, nghĩa vụ trong TTHS mà những chủ thể khác phải tuân thủ, tôn

trọng quyền con người của các chủ thể khác; tạo ra cách thức hoạt động của quá trình

chứng minh, quá trình giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự, bảo đảm cho người

tham gia tố tụng được tôn trọng, bình đẳng trước Tòa án, trước pháp luật. Đây là yếu

tố đóng vai trò then chốt, có tính chất quyết định, nhằm thể chế hóa chủ trương, chính

sách của Nhà nước thành các chuẩn mực có tính bắt buộc chung mà Nhà nước, cơ

quan có thẩm quyền và xã hội phải thực hiện để bảo đảm quyền con người trong

TTHS. Một xã hội thực sự dân chủ và pháp quyền thì ở đó quyền con người được tôn

trọng, bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp,

pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế.

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, BLTTHS là cơ sở pháp lý liên quan trực

tiếp đến những quyền cơ bản của con người. Qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau,

do yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà việc sửa đổi, bổ sung

45

BLTTHS được đặt ra để ngày càng phù hợp thực tiễn; bảo vệ quyền con người, quyền

công dân hiệu quả hơn. Thực tiễn xét xử các VAHS, thực hiện đúng quy định “giới

hạn của việc xét xử” sơ thẩm đã góp phần bảo đảm việc thực hiện quyền bào chữa

của bị cáo, cũng như việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa tại phiên tòa.

Mặc dù, nội dung này quy định quyền xem xét, quyết định của Tòa án đối với VAHS

trên cơ sở quyết định truy tố của VKS, nói cách khác quy định này xác định mối quan

hệ phối hợp - ước chế giữa VKS và Tòa án trong phạm vi, mức độ được xem xét,

quyết định của một vụ án, nhưng chính qua phạm vi, giới hạn đó tạo cơ sở cho bị cáo,

người bào chữa dự liệu được phạm vi, mức độ thực hiện quyền bào chữa của mình.

Chính quy định này cũng là “nơi thể hiện” mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản

trong TTHS. Vì thế, việc quy định GHXX sơ thẩm có ý nghĩa rất thiết thực trong việc

bảo vệ quyền con người, quyền công dân và bảo đảm dân chủ, công bằng xã hội.

2.2. Cơ sở lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

2.2.1. Cơ sở triết học của giới hạn xét xử sơ thẩm

Giới hạn xét xử có thể hiểu là phạm vi do luật định đối với hoạt động xét xử của

Tòa án khi có truy tố của VKS mà Tòa án phải tuân thủ không được vượt qua và chỉ

trong phạm vi đó Tòa án độc lập áp dụng pháp luật trong vụ án cụ thể theo niềm tin

nội tâm của mình. Giới hạn do luật định này bao gồm giới hạn về tố tụng và giới hạn

về nội dung. Giới hạn về tố tụng của hoạt động xét xử chính là trình tự, thủ tục, các

điều kiện (quy định chung) về xét xử, các nguyên tắc cơ bản do BLTTHS quy định

mà Tòa án có nghĩa vụ phải tuân thủ và được xem như là những bảo đảm cần thiết để

thực hiện CNXX. Giới hạn về nội dung của hoạt động xét xử được xác định bởi phạm

vi buộc tội thể hiện trong quyết định truy tố của VKS (hoặc Viện công tố) bao gồm

phạm vi bị can bị VKS truy tố và phạm vi hành vi của bị can với những tình tiết, sự

kiện cụ thể và đánh giá pháp lý (định tội danh) đối với hành vi. GHXX được xác định

bởi nhiệm vụ, mục đích và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS ở mỗi quốc

gia trong từng thời kỳ phát triển lịch sử của mình.

Giới hạn xét xử là quy định khách quan trong hoạt động TTHS. Bản chất hoạt

động xét xử của Tòa án là hoạt động áp dụng pháp luật vào vụ án cụ thể. Hoạt động

này đòi hỏi thẩm phán phải khách quan, độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và tự do đánh

46

giá chứng cứ theo niềm tin nội tâm của mình, bởi lẽ quy phạm pháp luật mà Thẩm

phán áp dụng luôn có tính trừu tượng và các VAHS lại luôn khác nhau về các tình

tiết thực tế. Vì thế, khả năng thay đổi nội dung truy tố là điều có thể xảy ra do nhận

thức của chủ thể đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội của bị cáo khác nhau - VKS

với năng lực chuyên môn, kinh nghiệm của mình nhận thấy với hành vi này của bị

cáo thì cấu thành tội danh này nhưng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá tình tiết,

chứng cứ tại phiên tòa thì Tòa án (HĐXX) đánh giá pháp lý đối với hành vi đó là tội

danh khác. Mâu thuẫn, xung đột quan điểm về đánh giá pháp lý đối với hành vi phạm

tội giữa VKS và Tòa án cũng là điều tất nhiên. Vấn đề đặt ra là giải quyết mâu thuẫn,

xung đột đó như thế nào cho phù hợp với những nội dung khác trong TTHS là điều

cần xác định để có hướng khắc phục. Độc lập của Tòa án đi liền với CNXX của Tòa

án, vì nó cần thiết cho CNXX. Sự độc lập của Tòa án được tôn trọng nhưng độc lập

của Tòa án không có tính tuyệt đối. Thẩm phán ra phán quyết theo niềm tin nội tâm

của mình được hình thành trên cơ sở nhận thức các tình tiết sự kiện của vụ án khi trực

tiếp xem xét, kiểm tra đánh giá các chứng cứ (question of facts) và nhận thức về điều

luật cần áp dụng (question of law). Ở khía cạnh này, hoạt động xét xử có tính chủ

quan (subjective), phụ thuộc vào trình độ nhận thức pháp luật, kinh nghiệm xã hội,

kinh nghiệm nghề nghiệp cũng như phẩm chất đạo đức và nhiều tố chất khác của cá

nhân thẩm phán và vì thế luôn tiềm ẩn khả năng sai lầm của thẩm phán trong áp dụng

pháp luật. Khi yếu tố chủ quan (niềm tin nội tâm của thẩm phán) không phù hợp với

yếu tố khách quan (các tình tiết thực tế của vụ án, nội dung đích thực của điều luật áp

dụng) thì điều này có thể dẫn đến hệ quả vi phạm quyền cá nhân được Hiến pháp bảo

vệ của bị cáo. Chính vì vậy, độc lập và tự do của thẩm phán không có tính tuyệt đối

mà cần có những bảo đảm và giới hạn nhất định nhằm hạn chế khả năng sai lầm hoặc

vượt quá phạm vi CNXX của Tòa án. Độc lập của Tòa án phải ở trong giới hạn nhất

định, để bảo đảm Tòa án luôn là cơ quan thực hiện CNXX chứ không phải là cơ quan

buộc tội hoặc vừa xét xử vừa buộc tội. Nếu vượt quá GHXX thì Tòa án không còn là

Tòa án và lúc này độc lập của Tòa án cũng không còn có ý nghĩa gì. Luận điểm này

dựa trên mối quan hệ giữa lượng và chất của phép duy vật biện chứng theo đó khi sự

vật, hiện tượng có những thay đổi về lượng đến độ nhất định sẽ dẫn đến những thay

47

đổi về chất. “Chất” (thuộc tính) của Tòa án ở đây chính là CNXX, còn “lượng” chính

là những thẩm quyền cần thiết để Tòa án thực hiện CNXX. Một khi luật trao cho Tòa

án những thẩm quyền vượt quá giới hạn về “độ” (hay GHXX) thì Tòa án không còn

hoàn toàn là cơ quan xét xử nữa, làm lu mờ vai trò của cơ quan VKS, làm xấu tình

trạng bị cáo và vô hiệu hoá quyền bào chữa của chủ thể này.

Quy định GHXX trong pháp luật TTHS xuất phát từ chính cấu trúc khách quan

của hoạt động TTHS.“ Hoạt động TTHS từ cổ chí kim luôn là hoạt động tổng thành

từ ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và CNXX. Ba

chức năng này tồn tại không tách rời nhau. Sự tồn tại của chức năng này đòi hỏi tất

yếu sự tồn tại của các chức năng kia. Mỗi chức năng tồn tại và vận động trong chừng

mực tồn tại và vận động của các chức năng còn lại, trong đó chức năng buộc tội và

chức năng bào chữa có tính đối trọng với nhau. Chính sự đối trọng của hai chức

năng này đã làm cho hoạt động tố tụng tự thân nó đã có tính tranh tụng. Nói đến hoạt

động TTHS là nói đến hoạt động có tính tranh tụng” [93]. Tranh tụng là quy luật

khách quan hay còn gọi là nguyên tắc cơ bản của TTHS - nguyên tắc phản ánh mối

quan hệ biện chứng giữa các chức năng cơ bản trong quá trình giải quyết VAHS.

GHXX mà chúng ta đang bàn ở đây là GHXX ở phiên toà sơ thẩm nên cũng có thể

nói GHXX thực chất là cách thức xử lý hài hoà mối quan hệ giữa ba chức năng cơ

bản của TTHS tại phiên toà sơ thẩm, theo đó quan hệ giữa VKS - cơ quan nhân danh

Nhà nước truy tố bị cáo ra trước toà, thực hành quyền công tố và Tòa án - cơ quan

thực hiện CNXX được xem xét và giải quyết trên cơ sở phải tôn trọng nguyên tắc bảo

đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo [90]. Lúc này, chức năng buộc tội của VKS

là trục trung tâm thu hút mọi hoạt động của các chức năng còn lại. Có truy tố của

VKS thì Tòa án mới mở phiên toà xét xử (mặc dù không phải mọi quyết định truy tố

đều dẫn đến quyết định đưa vụ án ra xét xử). Không có truy tố, Tòa án không có lý

do để xét xử. Đối với chức năng bào chữa cũng vậy, không có truy tố (buộc tội) thì

không có bào chữa. Buộc tội đến đâu thì bào chữa đến đó. Truy tố là yêu cầu nhân

danh Nhà nước của VKS về trách nhiệm hình sự của bị cáo đối với những hành vi cụ

thể mà chủ thể này đã thực hiện. Theo nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự thì

hành vi bị truy tố của bị cáo luôn gắn liền với tội danh cụ thể (đánh giá pháp lý về

48

hành vi bị truy tố). Nội dung truy tố của VKS là đối tượng của hoạt động xét xử cũng

như hoạt động bào chữa, định hướng cho các hoạt động này. Nói cách khác, phạm vi

hoạt động xét xử của Tòa án bị chi phối, ràng buộc bởi phạm vi nội dung truy tố [95].

Một khía cạnh nữa của chế định GHXX là vấn đề thay đổi nội dung buộc tội tại

phiên tòa. Hoạt động TTHS là quá trình trải qua nhiều giai đoạn và ở mỗi giai đoạn

luôn có khả năng khách quan xuất hiện những thông tin mới của vụ án. Phiên tòa sơ

thẩm là giai đoạn trung tâm của tiến trình tố tụng có nhiệm vụ giải quyết thực chất vụ

án. Tại đây, việc điều tra xem xét các tình tiết thực tế của vụ án được tiếp tục và các

bên tranh tụng vẫn có quyền đề xuất, bổ sung chứng cứ. Viêc xem xét, kiểm tra đánh

giá chứng cứ diễn ra trong điều kiện công khai, trực tiếp, có tính tranh tụng…, nên

hoàn toàn có khả năng xuất hiện những thông tin mới, đánh giá pháp lý mới về hành

vi truy tố khác với đánh giá pháp lý và những thông tin trong hồ sơ vụ án mà VKS

truy tố ra tòa. Trong tình huống này GHXX có chấp nhận thay đổi nội dung buộc tội

ban đầu hay không? Nếu chấp nhận thay đổi thì chấp nhận đến đâu? Có điều kiện

kèm theo không? VKS hay Tòa án có quyền thay đổi? Thay đổi theo hướng có lợi

hay bất lợi cho bị can, bị cáo và thủ tục bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo

như thế nào? Những câu hỏi này là những khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa

ba chức năng cơ bản tại phiên tòa mà GHXX phải đề cập đến tuỳ thuộc vào khả năng

nhận thức của nhà lập pháp về nguyên tắc tranh tụng - quy luật khách quan của hoạt

động TTHS. Giải quyết đúng đắn khả năng thay đổi nội dung buộc tội trong GHXX

có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ nội dung buộc tội luôn là cơ sở xác định phạm vi hoạt

động xét xử cũng như phạm vi hoạt động bào chữa. Vì thế, khi nội dung buộc tội thay

đổi thì cũng làm thay đổi các phạm vi này, tức là GHXX cũng thay đổi, ảnh hưởng

đến vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền và lợi ích hợp pháp của những

người tham gia tố tụng khác.

Như vậy, quy định GHXX là sự cần thiết khách quan điều chỉnh hài hòa mối

quan hệ hữu cơ giữa các chức năng cơ bản của TTHS tại phiên tòa sơ thẩm trên cơ

sở của nguyên tắc tranh tụng với sự thừa nhận các bên tranh tụng: bên buộc tội - bên

bào chữa bình đẳng với nhau trong hoạt động chứng minh trước Tòa án và Tòa án là

49

chủ thể giải quyết tranh chấp pháp lý giữa các bên thông qua thực hiện CNXX của

mình và chỉ là xét xử mà thôi.

2.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội của giới hạn xét xử sơ thẩm

Khi đời sống xã hội ngày càng phát triển, tri thức con người ngày càng sâu rộng

thì cách nhìn nhận, tiếp cận, giải thích các hiện tượng xã hội (trong đó có pháp luật)

ngày càng đa dạng, có cơ sở và khoa học hơn. Điều đó có thể xem là một quy luật

phát triển, tất yếu khách quan. Pháp luật là một hiện tượng xã hội gắn liền với Nhà

nước và nó ảnh hưởng, tác động rất lớn đến đời sống của con người trong xã hội.

Theo nghĩa chung nhất, pháp luật được hiểu là hệ thống quy tắc xử sự có tính bắt

buộc chung do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) thể hiện ý chí của giai cấp thống

trị và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế; là công cụ có

hiệu lực nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí và lợi ích của giai

cấp thống trị trong xã hội có giai cấp [143]. Ở giai đoạn nào của lịch sử hình thành

và phát triển của một nhà nước thì pháp luật luôn được xem là công cụ hữu hiệu, “sắc

bén” của Nhà nước để thiết lập trật tự xã hội, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, hành

vi xử sự của con người theo chuẩn mực chung, phù hợp ý chí của giai cấp thống trị.

Về chức năng của pháp luật, cũng có nhiều quan điểm khác nhau theo mỗi cách tiếp

cận riêng, tuy nhiên, nhiều quan điểm nghiên cứu pháp luật thống nhất rằng chức

năng của pháp luật có hai loại: chức năng cơ bản và chức năng không cơ bản. Pháp

luật có nhiều chức năng, vai trò cũng như sự tác động của chúng đối với đời sống

chính trị - xã hội, nhưng chức năng tác động chung nhất, toàn diện nhất đến quan hệ

xã hội mà qua đó thể hiện bản chất giai cấp, bản chất xã hội gọi là chức năng cơ bản

(phổ biến) của Pháp luật - đó là chức năng điều chỉnh và chức năng bảo vệ. Chính

trong bản thân pháp luật có các chức năng này nên Nhà nước (giai cấp thống trị) đã

sử dụng pháp luật như một công cụ, phương thức thể hiện ý chí của mình ra bên

ngoài, bằng việc ghi nhận, yêu cầu chủ thể pháp luật có hành vi xử sự hợp pháp trong

các trường hợp cụ thể và bảo đảm những ghi nhận đó được thực hiện trên thực tế, nếu

có vi phạm xử lý nghiêm minh bằng các biện pháp cưỡng chế (dân sự, hành chính,

hình sự) tùy mức độ vi phạm. Qua đó, nhằm tác động tích cực đến ý thức công dân,

hình thành hành vi xử sự hợp pháp, hạn chế hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật trong

50

đời sống xã hội. Bên cạnh các chức năng cơ bản, pháp luật còn có chức năng không

cơ bản (không phổ biến), trong đó có chức năng giới hạn của pháp luật. Chức năng

hạn chế của pháp luật được hiểu là giới hạn của pháp luật, nó tạo ra các điều kiện cho

việc làm thỏa mãn các lợi ích của chủ thể giám sát, đó là các ranh giới đã được quy

định trong pháp luật mà các chủ thể vẫn phải hoạt động trong giới hạn của chúng; đó

là sự loại trừ những khả năng nhất định trong hoạt động của con người. Chính nhờ

pháp luật có chức năng này đã tạo ra tính tích cực, hạn chế sự độc quyền, lạm quyền

trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước nói chung và

của các cơ quan tư pháp nói riêng. Lĩnh vực TTHS là một trong những lĩnh vực quyền

con người của người bị buộc tội dễ bị vi phạm từ các hoạt động tố tụng của các chủ

thể tố tụng (đặc biệt của các cơ quan THTT) trong quá trình giải quyết VAHS. Xác

định sự thật vụ án là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền THTT, những người có

thẩm quyền THTT; người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác không

có nghĩa vụ chứng minh tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình tiến

hành TTHS do nôn nóng xác định tội phạm và người phạm tội, các cơ quan THTT có

thể lạm quyền, vượt qua giới hạn cho phép về quyền dẫn đến vi phạm các quy định

của pháp luật TTHS, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người bị buộc tội và những

người tham gia tố tụng khác. Do đó, chính chức năng giới hạn của pháp luật vừa là

điều kiện, vừa yêu cầu để các chủ thể pháp luật phải thực hiện đúng quyền, nhiệm vụ

của mình trong từng quan hệ pháp luật cụ thể. Mọi sự “vượt giới hạn” quy định đều

là hành vi vi phạm và để lại hậu quả nhất định cho xã hội, vì thế cần phải cân nhắc

khi quy định về vấn đề “vượt giới hạn cho phép”, phải bảo đảm hài hòa các mối quan

hệ có liên quan. Có như vậy, trật tự xã hội mới được bảo đảm; quyền con người của

các chủ thể pháp luật mới được bảo vệ.

Trong TTHS, VKS là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp; Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Còn quyền bào

chữa được thực hiện bởi người bị buộc tội và người bào chữa. Quy định vậy không

có nghĩa là VKS, Tòa án muốn truy tố, buộc tội, xét xử ai và hành vi nào cũng được,

thực hiện chức năng một cách vô hạn, vô cùng mà nó có giới hạn, phạm vi, mức độ

nhất định trong từng VAHS cụ thể và chính sự hạn chế đó là phạm vi, ranh giới để

51

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong TTHS - điều này tạo

ra tính tích cực của điều chỉnh pháp luật nói chung. Quy định giới hạn của việc xét

xử sơ thẩm là một trong những chế định được hình thành từ trên cơ sở lý luận này -

chức năng giới hạn của pháp luật. Chính quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm

VAHS thể hiện rõ nét mối quan hệ tố tụng giữa các chủ thể tố tụng (VKS, Tòa án và

bên bào chữa), giúp cho VKS và Tòa án thực hiện đúng chức năng, quyền hạn, có sự

chế ước cần thiết trong phạm vi, giới hạn xác định để VAHS được giải quyết có trọng

tâm, “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.

2.2.3. Cơ sở từ mối quan hệ biện chứng giữa các chức năng cơ bản trong tố

tụng hình sự tại phiên toà sơ thẩm

Theo triết học Mác - Lênin, mọi sự vật - hiện tượng tồn tại, vận động đều có

mối quan hệ tương tác lẫn nhau, chỉ có trong mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau

đó mới đem lại khả năng nhận thức đúng đắn sự vật – hiện tượng. Hoạt động TTHS

là một thể thống nhất của nhiều hoạt động có định hướng và nội dung khác nhau hợp

thành. Sự hợp thành đó của các nhóm chủ thể không phải là hợp thành cơ học mà là

sự hợp thành hữu cơ, có quy luật ràng buộc lẫn nhau tiến tới làm rõ sự thật khách

quan của vụ án – đây chính là mục đích cuối cùng của hoạt động TTHS. Hoạt động

TTHS được đặc trưng bởi những chức năng cơ bản trong TTHS - đó là những phương

diện (mặt) hoạt động tố tụng có định hướng chủ yếu, cơ bản làm xuất hiện, vận động

và chấm dứt TTHS, có mục đích, nhiệm vụ riêng nhưng đều bị chi phối bởi mục đích

chung của TTHS, các chức năng này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và không

thể tách rời. Trong khoa học pháp luật TTHS, nhiều quan điểm khác nhau về các chức

năng TTHS và các chức năng cơ bản, chức năng không cơ bản cũng như mối quan

hệ của chúng trong TTHS, tuy nhiên phần lớn các quan điểm đều thống nhất rằng:

trong TTHS có nhiều chức năng do nhiều chủ thể với chức năng, nhiệm vụ khác nhau

thực hiện những chức năng cơ bản chỉ có là buộc tội, gỡ tội (bào chữa) và xét xử, bởi

lẽ đó là những chức năng mà khi thực hiện chúng sẽ giải quyết được nhiệm vụ chung

của TTTHS; ba chức năng này có mối quan hệ biện chứng, đan xen qua lại với nhau

và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm sự vận động, kết thúc đúng đắn vụ

án. Thiếu một trong ba chức năng cơ bản này thì quá trình TTHS không thể vận hành

52

tốt được. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, mỗi chức năng có vai trò nhất

định trong quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án, chính vai trò của từng chức

năng sẽ quyết định sự tồn tại tất yếu của chúng và là tiền đề, điều kiện cho chức năng

kia tồn tại, phát triển.

Thiết nghĩ, không phải ngẫu nhiên mà BLTTHS của ta quy định bên cạnh nhiệm

vụ “không làm oan người vô tội” các cơ quan THTT còn phải bảo đảm “không bỏ lọt

tội phạm”, việc quy định này thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết giữa các chức

năng cơ bản trong TTHS. Nếu thừa nhận trong TTHS chỉ có chức năng buộc tội thì sẽ

dẫn đến sai lầm là người ta chỉ chú trọng đến những chứng cứ buộc tội mà bỏ qua

những chứng cứ gỡ tội, dẫn đến oan sai. Điều này sẽ làm cho hoạt động xét xử của Tòa

án tại phiên tòa chỉ là hình thức. Ngược lại, nếu chỉ có chức năng bào chữa thì việc bỏ

lọt tội phạm, dung túng tội phạm là điều không thể tránh khỏi. Vì thế, việc tồn tại song

song chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là một nhu cầu tất yếu khách quan của

hoạt động tố tụng, nhằm xác định chân lý khách quan của vụ án và trong quá trình cùng

tồn tại này chúng bổ trợ cho nhau bảo đảm việc giải quyết vụ án được “đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật”. Cùng tồn tại với hai chức năng này, còn có CNXX - đây là

chức năng là chức năng trung tâm. Bởi lẽ, CNXX chỉ khi xuất hiện ở giai đoạn xét xử,

là giai đoạn có tính quyết định. Tại đây với sự có mặt đầy đủ của tất cả các chủ thể, quá

trình tố tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các bên: buộc tội và bào chữa,

với sự điều khiển của Tòa án. Trong suốt quá trình tranh luận, Tòa án là “người trọng

tài” đứng giữa hai bên, có quyền đưa ra quyết định cuối cùng về vụ án, sau khi đã đánh

giá một cách đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tại phiên tòa.

Chức năng buộc tội còn gọi là chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự là một

dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm tội, chứng minh lỗi cuả người đó,

bảo đảm phân xử và hình phạt đối với người đó. Trong khi đó, chức năng bào chữa

là một dạng hoạt động tố tụng được pháp luật bảo đảm cho người bị buộc tội khả

năng bằng cách tự mình và nhờ người khác đưa ra các chứng cứ, lập luận nhằm không

chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà còn đưa ra những gì có

lợi cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng. Trong TTHS, chức năng buộc tội và

53

chức năng bào chữa (gỡ tội) đối trọng nhau. Còn CNXX là hoạt động tố tụng của Tòa

án có thẩm quyền xem xét, quyết định một người bị buộc tội có tội hay không và xác

định trách hiệm hình sự đối với người có tội. Ở đây, NCS không đi sâu phân tích nội

dung của các chức năng cơ bản này, mà chỉ phân tích khía cạnh vấn đề để thấy rằng

chính mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS là cơ sở nền tảng để quy

định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS nói chung và trong BLTTHS Việt

Nam nói riêng.

Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và CNXX trong TTHS tuy có vị trí,

vai trò, bản chất, chủ thể thực hiện khác nhau, hoạt động tố tụng đặc trưng khác nhau

nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, cùng vận động hướng đến mục đích chung của TTHS.

Trong quá trình xét xử VAHS, quan hệ giữa VKS và Tòa án là quan hệ giữa chức

năng buộc tội và CNXX. Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng, ràng buộc

nhau để cùng với chức năng bào chữa bảo đảm chu trình, thủ tục giải quyết vụ án

đúng pháp luật, thiếu một trong các chức năng trên TTHS không thể vận hành hiệu

quả được. Bởi vì, công tác xét xử của Tòa án chỉ đúng đắn khi VKS thông qua chức

năng của mình, cùng với chức năng bào chữa kiểm tra được tất cả các chứng cứ và

những tình tiết buộc tội cũng như các tình tiết, chứng cứ gỡ tội đối với bị cáo. Trong

các chức năng cơ bản thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa là những chức

năng đối trọng với nhau và chính tranh tụng phản ánh chủ yếu mối quan hệ qua lại

giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Trong quá trình tranh tụng, Tòa án làm trọng tài

giải quyết cuộc tranh luận giữa các bên, làm sáng tỏ tất cả các tình tiết (buộc tội lẫn

gỡ tội) để có những quyết định đúng đắn, thuyết phục về vụ án, tức là Tòa án thực

hiện CNXX chứ không phải để buộc tội hay gỡ tội đối với bị cáo.

Nội dung GHXX sơ thẩm xác định phạm vi quyền xét xử của Tòa án cấp sơ

thẩm, mối quan hệ chế ước giữa VKS với Tòa án và phạm vi thực hiện quyền bào

chữa của bị cáo đối với một VAHS cụ thể. Vì thế, để nhìn nhận một cách toàn diện

về nội dung GHXX sơ thẩm phải xuất phát từ mối quan hệ của ba chức năng cơ bản

trong TTHS: buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng có tính độc lập riêng nhưng

chúng có mối quan hệ hài hòa với nhau. Giới hạn của việc xét xử chính là quy định

54

“xử lý” mối quan hệ này cụ thể nhất. VKS là cơ quan được Nhà nước giao cho chức

năng công tố, thay mặt Nhà nước để truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử. Chức

năng của bên bào chữa là phản biện, bác bỏ buộc tội của VKS để giảm nhẹ tội, phủ

nhận trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Tòa án thực hiện CNXX và chức

năng này chỉ xuất hiện khi có buộc tội của VKS.

Kế thừa những quy định trước đó về GHXX, các BLTTHS sau này tiếp tục ghi

nhận chế định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm xác định phạm vi, giới hạn thực hiện

quyền xét xử của Tòa án đối với VAHS. Đồng thời, Nhà nước ta đã ban hành các văn

bản hướng dẫn thi hành quy định về GHXX nhưng chủ yếu là hướng dẫn cách giải

quyết mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ

trong GHXX sơ thẩm VAHS, bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình

ở những mức độ, phạm vi nhất định. Trong quá trình cải cách tư pháp, chúng ta đang

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì vấn đề quyền con người, phát huy dân

chủ là những giá trị cần được chú trọng, TTHS là một trong lĩnh vực phức tạp, quyền

con người, quyền công dân dễ bị xâm phạm nhất. Vì thế, thiết nghĩ Nhà nước cần tạo

ra cơ chế hữu hiệu để bảo đảm các quyền đó được thực hiện, khi có hành vi xâm

phạm phải bị xử lý nghiêm minh. Người bị buộc tội là nhóm người “yếu thế” – người

bị tình nghi đã thực hiện hành vi phạm tội trong mối quan hệ tố tụng với một bên là

cơ quan THTT - được Nhà nước giao thực hiện các chức năng nhất định để truy tố,

buộc tội và kết tội người đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, quy định GHXX sơ

thẩm trong TTHS là điều tất yếu, tạo ra ranh giới nhất định để các cơ quan THTT

luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao, tránh tình trạng lạm quyền, vượt

quyền, đồng thời tạo cơ sở, định hướng cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa để bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Bản chất của GHXX sơ thẩm là mối quan hệ pháp lý giữa chức năng buộc tội

và CNXX, nhưng không thể không ảnh hưởng đến chức năng bào chữa. Thực tế cho

thấy, công tác xây dựng chế định GHXX sơ thẩm vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến việc

áp dụng vẫn chưa có sự thống nhất từ các chủ thể tố tụng, mối quan hệ tố tụng giữa

VKS và Tòa án vẫn còn vướng mắc. Cho nên, việc hình thành quy định GHXX sơ

thẩm trong TTHS xuất phát từ mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS

55

là điều tất yếu khách quan. Với nhận thức đó, NCS cho rằng những quy định về

GHXX sơ thẩm trong BLTTHS nước ta cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp

với vai trò, nội dung của các chức năng cơ bản trong TTHS; xác định rõ chủ thể thực

hiện chức năng tố tụng cũng như điạ vị pháp lý của các chủ thể đó khi tham gia vào

quan hệ pháp luật TTHS. Việc quy định quyền xét xử của Tòa án trong phạm vi, giới

hạn xét xử cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, chú trọng xem xét đến việc thực hiện quyền

bào chữa của bị can, bị cáo. Có buộc tội thì phải có gỡ tội (bào chữa) và chính sự

tranh tụng giữa bên buộc và bên bào chữa sẽ giúp cho Tòa án nhìn nhận, xem xét,

đánh giá vụ án một cách toàn diện hơn, chính xác hơn từ đó ra bản án, quyết định

“đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”, thuyết phục xã hội - đó là biểu hiện của một

nền tư pháp dân chủ, công bằng. Vì thế, việc tôn trọng và thực hiện đúng các quy

định của pháp luật về quyền bào chữa của người bị buộc tội, trong đó có quyền tự

bào chữa và nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo từ các cơ quan THTT là một

bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đặc

biệt, việc thực hiện và bảo đảm tốt quy định về tranh tụng tại phiên tòa, kết quả tranh

tụng là cơ sở để ra phán quyết là một biện pháp bảo đảm quan trọng không thể thiếu;

là yêu cầu tất yếu của quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam; bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng

trong TTHS.

2.3. Mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với một số nội dung khác

liên quan trong tố tụng hình sự Việt Nam

2.3.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm với các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự

Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm được qui định trên nền tảng các chế định pháp

lý quan trọng có liên quan chặt chẽ với nhau trong BLTTHS. Nội dung GHXX sơ

thẩm xuất phát từ nhiều qui phạm pháp luật TTHS, trong đó có những qui phạm về

các nguyên tắc của TTHS. Các nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo

thành hệ thống quan điểm, tư tưởng nền tảng làm cơ sở, căn cứ để xây dựng các qui

định của BLTTHS và định hướng, chỉ đạo việc áp dụng BLTTHS trong thực tiễn.

Chính vì vậy, quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm cũng phải dựa trên nền tảng

của hệ thống các nguyên tắc cơ bản của TTHS. Trong số các nguyên tắc cơ bản của

56

TTHS thì nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội; suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh

tụng trong xét xử được bảo đảm có vai trò rất quan trọng trong việc xác định nội dung

giới hạn của việc xét xử sơ thẩm trong TTHS.

Một là, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

“Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là một nguyên tắc rất quan trọng

trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng.

So với các cơ quan tư pháp khác, Tòa án là nơi biểu hiện tập trung nhất quyền tư pháp

– nơi mà các kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp…

được sử dụng một cách công khai thông qua các thủ tục tố tụng để kết luận về sự thật

khách quan của vụ án; nơi duy nhất có thẩm quyền tuyên bố một ai đó có tội hay

không có tội, nơi cuối cùng đưa ra phán quyết mang tính quyền lực nhà nước, đồng

thời cũng là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống các cơ quan tư

pháp trong bộ máy nhà nước. Nguyên tắc này được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm

1946 và tiếp tục được ghi nhận lại trong các Hiến pháp sau này của Nhà nước ta (Hiến

pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013). Nội dung nguyên tắc ghi nhận

sự độc lập của Tòa án khi xét xử, bảo đảm cho Tòa án xét xử vụ án được chính xác,

không có một cơ quan, tổ chức và cá nhân nào được can thiệp vào hoạt động xét xử

của Tòa án một cách trái pháp luật. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc thừa

nhận các cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng

là hoàn toàn độc lập, tách rời với các hoạt động khác của bộ máy nhà nước nói chung,

cho nên cần phải hiểu tính độc lập ở đây một cách biện chứng.

Nội dung nguyên tắc ghi nhận sự độc lập của Tòa án khi xét xử, không có một

cơ quan nhà nước nào được can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án một cách trái

pháp luật nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc thừa nhận các cơ quan tư pháp,

hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là hoàn toàn độc lập, tách

rời với các hoạt động khác của bộ máy nhà nước nói chung, cho nên cần phải hiểu

tính độc lập ở đây một cách biện chứng. Việc ghi nhận Tòa án xét xử độc lập là độc

lập về phương diện nhận thức và áp dụng pháp luật, độc lập khi tiến hành các hoạt

động mà pháp luật quy định và các hoạt động nghiệp vụ để xét xử, không ai có quyền

57

can thiệp vào việc xét xử của Tòa án. Mặt khác, nguyên tắc độc lập xét xử còn thể

hiện ở tính độc lập của Hội thẩm nhân dân trong quan hệ với Thẩm phán và khẳng

định tính độc lập giữa các thành viên trong HĐXX với nhau. Nguyên tắc này được

ghi nhận tại Điều 103 Hiến pháp và được cụ thể hóa tại Điều 23 BLTTHS: “Thẩm

phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, được nhận thức theo

những khía cạnh sau đây:

Một là, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,

không chịu sự chỉ đạo của bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Các cơ quan nhà nước không

can thiệp vào những vụ án cụ thể mà Tòa án xét xử.

Hai là, trong quan hệ giữa Tòa án các cấp, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm

độc lập không chịu sự chỉ đạo của Tòa án cấp trên. Đây là một tư tưởng quan trọng,

là cơ sở lý luận điều chỉnh mối quan hệ giữa Tòa án các cấp với nhau khi xét xử các

vụ án. Trên phương diện xây dựng pháp luật, đây chính là một trong những cơ sở lý

giải tại sao Tòa án cấp trên không có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với bản án và

quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.

Ba là, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật,

nghĩa là khi thực hiện CNXX, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ xem pháp luật là “người

chỉ đạo trực tiếp”, không bị chi phối bởi áp lực dư luận. Dư luận về vụ án chỉ là một

cơ sở để Tòa án xem xét khi ra bản án và quyết định. Nhưng thực tế cho thấy, những

án được coi là “án điểm”, án được xét xử lưu động thì hầu như HĐXX ít nhiều bị chi

phối bởi dư luận xã hội. Điều đó dẫn đến thực tế mức án áp dụng đối với bị cáo

thường cao hơn so với mức độ và tính chất của hành vi phạm tội.

Bốn là, tính độc lập của nguyên tắc còn thể hiện trong mối quan hệ giữa các

thành viên trong HĐXX với nhau, thể hiện qua việc Hội thẩm có ngang quyền với

Thẩm phán, mỗi thành viên trong HĐXX có quyền độc lập khi quyết định cá nhân về

mỗi vấn đề trong vụ án. Mặc dù, bản án được ban hành trên cơ sở ý kiến của đa số

nhưng các ý kiến thiểu số vẫn được bảo lưu bằng văn bản trong hồ sơ vụ án. Thực sự

nội dung này của nguyên tắc không có cơ chế đảm bảo thực hiện tốt. Thử hỏi sao Hội

thẩm có thể ngang quyền, độc lập với Thẩm phán khi tiến hành xét xử được?, trong

khi Thẩm phán là người có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ để xét xử vụ án còn

58

chế định Hội thẩm là sự thể hiện bản chất Tòa án của Nhân dân, không được đào tạo

“bài bản” về kiến thức pháp luật cũng như công tác xét xử. Thiết nghĩ, người ta chỉ

có thể độc lập khi người ta có đủ những điều kiện cần thiết để tự độc lập.

Năm là, trong mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp với nhau, nhất là giữa Tòa

án với VKS, nguyên tắc cũng thể hiện: Tòa án xét xử sơ thẩm dựa trên bản cáo trạng

của VKS nhưng đó không phải là căn cứ duy nhất để Tòa án đánh giá về vụ án mà

Tòa án phải xem xét toàn diện, công khai tất cả chứng cứ tại phiên tòa.

Nội dung của nguyên tắc này có ý nghĩa nhằm đảm bảo tính khách quan trong

hoạt động xét xử, bảo đảm việc ban hành những bản án và quyết định của Tòa án có

căn cứ, hợp pháp, thông qua đó bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. Tuy nhiên, trên

phương diện lý luận cũng như thực tiễn, đã và đang đặt ra vấn đề cần nhận thức đúng

về nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Nguyên tắc này cần được nhận thức đúng trong mối quan hệ giữa CNXX với chức

năng buộc tội của VKS thể hiện qua quy định “giới hạn của việc xét xử sơ thẩm”.

Mặt khác, nguyên tắc này cũng cần được nhận thức trong quan hệ với vấn đề hạn chế

độc quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền hạn khi xét xử, nói cách khác là cần bảo đảm

nguyên tắc giám sát đối với hoạt động xét xử, nhất là trong quan hệ giữa tính độc lập

của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử với nguyên tắc Tòa án cấp trên giám đốc việc

xét xử của Tòa án cấp dưới, và trong quan hệ với chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong hoạt động xét xử của VKS.

Trong các quy định về trình tự, thủ tục xét xử, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của Tòa án có quy định về giới hạn của việc XXST. Quy định này đề cập những vấn

đề như: Tòa án được xét xử những bị cáo nào? những hành vi nào của bị cáo đã bị

VKS truy tố? Tòa án có bị ràng buộc bởi tội danh mà VKS truy tố hay không? Khi

VKS rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa hoặc tại

phiên tòa thì quyền hạn xét xử của Tòa án như thế nào? Những nội dung nêu trên có

mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật. Qua đó cho thấy, căn cứ vào nội dung nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để quy định nội dung giới hạn của việc

xét xử sơ thẩm VAHS là có cơ sở và phù hợp.

59

Hai là, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

Hiến pháp năm 2013, BLTTHS và Luật tổ chức TAND nước ta đã ghi nhận

nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nhằm đề cao quyền con

người, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân trong TTHS là xuất phát từ quan

điểm mở rộng tính dân chủ trong hoạt động tư pháp trong thời kỳ xây dựng Nhà nước

pháp quyền XHCN. Bào chữa bao gồm tất cả những hành vi mà người bị buộc tội và

người bào chữa sử dụng để chống lại toàn bộ hay một phần sự buộc tội, làm sáng tỏ

những tình tiết về sự vô tội của người bị buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự cho họ. Quyền bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền

tố tụng mà pháp luật giành cho họ để chống lại việc buộc tội hoặc giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự. Theo điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS Việt Nam, “Người bị buộc tội

gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”; chủ thể quyền bào chữa trong

TTHS là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 58 đến Điều 61). Điều

16 BLTTHS quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc

người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm

thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện

đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật

này”. Như vậy, quyền bào chữa của người bị buộc tội luôn gắn liền với nhiệm vụ của

cơ quan THTT bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện quyền đó. Vì thế, ngay sau

khi ra quyết định việc tạm giữ, cơ quan điều tra phải thông báo cho người bị tạm giữ

biết lý do bị tạm giữ, giải thích cho họ về quyền và nghĩa vụ tố tụng; khi ra quyết

định khởi tố bị can, cơ quan điều tra phải báo cho bị can biết họ bị khởi tố về tội gì,

giải thích cho họ biết có quyền gì trong TTHS. Mặt khác, các cơ quan THTT còn phải

tạo điều kiện để người bị buộc tội đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu khiếu nại quyết định

của cơ quan và người THTT,… Trong một số trường hợp, cơ quan THTT phải đảm

bảo có người bào chữa cho bị can, bị cáo (Điều 76 BLTTHS năm 2015). Bào chữa là

quyền chứ không phải là nghĩa vụ của họ nên khi tham gia tố tụng, có thể họ tham

gia tích cực (đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu để chứng minh vô tội của mình, làm

sáng tỏ tình tiết vụ án) nhưng cũng có thể họ không sử dụng quyền bào chữa của

mình. Tuy nhiên, trong trường hợp này cơ quan THTT không thể coi đó là bằng chứng

60

về tội lỗi của họ. Thực tế cho thấy trong quá trình giải quyết VAHS, từ khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử, chúng ta có thể thấy người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa

của mình rất hạn chế với nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng tại phiên tòa, có thể

nói là nơi để bị cáo, người bào chữa thực hiện quyền bào chữa của mình một cách rõ

nét và đầy đủ nhất. Với chức năng của mình, Tòa án tạo điều kiện thuận lợi để họ

thực hiện nội dung của quyền bào chữa, góp phần tìm ra chân lý của vụ án. Trên cơ

sở quyết định truy tố của VKS với những chứng cứ buộc tội, nếu bị cáo và người bào

chữa thực hiện tốt quyền bào chữa của mình, lúc đó những tài liệu, đồ vật, chứng cứ

gỡ tội mà họ đưa ra chống lại việc buộc tội của VKS, được ví như “chiếc đèn pha”

soi rọi vào từng tình tiết, sự kiện của vụ án tạo tính tranh tụng cao tại phiên tòa. Điều

này, sẽ giúp cho Tòa án có cách nhìn nhận và đánh giá các tình tiết, sự kiện, chứng

cứ trong vụ án một cách đầy đủ và trọn vẹn hơn. Từ đó, Tòa án ra quyết định cuối

cùng kết luận vụ án một cách thuyết phục “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.

Theo quy định về giới hạn của việc XXST trong BLTTHS thì Tòa án xét xử

những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định

đưa vụ án ra xét xử, vậy về nguyên tắc trong quá trình giải quyết vụ án nếu Tòa án

xét xử người chưa bị truy tố hoặc xét xử hành vi của bị cáo theo tội danh chưa bị truy

tố thì Tòa án đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội,

tước đi quyền bào chữa của bị cáo, không cho họ có sự chuẩn bị ý kiến bào chữa hoặc

nhờ người khác bào chữa. Trong trường hợp này, Tòa án xét xử không có sự tranh

luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa, nên không thể có cơ sở để xác định đúng sự

thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, để mục đích chung của TTHS đạt được trong

từng VAHS cụ thể và để VKS, Tòa án thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, các nhà

làm luật cần cân nhắc quy định mối quan hệ chế ước của VKS và Tòa án sao cho bảo

đảm hài hòa giữa các chức năng cơ bản của TTHS thông qua việc thực hiện quyền

của các chủ thể tố tụng (quyền công tố, quyền bào chữa và quyền xét xử).

Tòa án có quyền xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố

trong cùng một điều luật, về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.

Quy định này trong nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS hoàn toàn phù

hợp với nguyên tắc nhân đạo XHCN trong luật TTHS nước ta, không vi phạm nguyên

61

tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Nhưng việc Tòa án có quyền xét

xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố trong bản cáo trạng thì

cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, bảo đảm không vi phạm nguyên tắc hiến định - bảo đảm

quyền bào chữa của người bị buộc tội, đồng thời phải bảo đảm ý nghĩa đích thực của

vấn đề “giới hạn của việc xét xử sơ thẩm” trong TTHS.

Ba là, nguyên tắc suy đoán vô tội

Đây là nguyên tắc hiến định, nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng

trong khoa học TTHS và trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm. Trong bài viết của

mình, PGS.TS Nguyễn Thái Phúc đã đề cập đến lời phát biểu của một nhà khoa học

người Nga vai trò của nguyên tắc này trong TTHS như sau: “Đối với khoa học xét xử

và đối với toàn bộ thực tiễn đấu tranh chống tội phạm của chúng, Tòa án không có

kim chỉ nam nào tin cậy hơn ngoài việc thừa nhận không điều kiện và hiểu một cách

đúng đắn nguyên tắc suy đoán vô tội - một nguyên tắc quan trọng, nền tảng của hoạt

động TTHS…”[91, tr.74]. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi

được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội

của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đây là một suy đoán pháp lý - một giả thiết do

luật quy định được coi là đúng cho đến khi xuất hiện những sự kiện tình tiết nhất

định. Trong trường hợp này giả thiết do luật đặt ra được coi là chân lý cho đến khi có

sự kiện - bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Chừng nào chưa xảy ra sự

kiện này thì chừng đó giả thiết vẫn tồn tại, vẫn được thừa nhận là đúng. Nguyên tắc

này khẳng định trong Nhà nước ta chỉ có Tòa án là cơ quan có quyền xét xử các

VAHS, quyền phán quyết đối với công dân là người có tội hay không có tội. Điều

này là một bảo đảm pháp lý vững chắc cho mọi người dân - nếu không bị đưa ra xét

xử tại Tòa án với các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định thì không một ai bị coi là

có tội và chịu hình phạt. Kể cả, trong trường hợp Tòa án đã ra bản án kết tội một

người nhưng trong thời gian bản án đó chưa có hiệu lực pháp lực thì người bị kết án

đó vẫn chưa bị coi là có tội và họ chưa phải chịu hình phạt theo phán quyết của Tòa

án. Vì thế, trong quá trình xác định sự thật của vụ án, mọi người mà trước hết là cơ

quan (người) THTT không được định kiến trước cho rằng người bị bắt, người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo là người có tội. Khái niệm “người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,

62

bị cáo” không đồng nghĩa với khái niệm“người có tội”, tuy nhiên, luật không buộc

cơ quan (người) THTT không được có niềm tin nội tâm về lỗi của bị can, bị cáo. Vấn

đề này hoàn toàn không đồng nhất với việc họ có tội hay không có tội, chỉ có Tòa án

- cơ quan duy nhất có quyền tuyên bố bị cáo là người có tội. Đây là một trong những

bảo đảm quan trọng đối với quyền của bị cáo, bởi lẽ, Tòa án thực hiện CNXX với

những nguyên tắc dân chủ tại phiên tòa công khai theo trình tự tố tụng chặt chẽ do

luật định. Nội dung này có ý nghĩa nhân đạo và dân chủ sâu sắc. Nếu công dân phạm

tội thì phải chịu hình phạt nhưng việc truy cứu đó phải tuân thủ những quy định của

pháp luật hình sự và TTHS. Suy đoán vô tội có nghĩa là lỗi của bị can, bị cáo phải

được chứng minh một cách thuyết phục trước Tòa án. Tuy nhiên, cần phải nhận thức

đúng đắn việc quy định nội dung này tại Điều 13 BLTTHS hoàn toàn không làm giảm

giá trị các quyết định trước khi có bản án của Tòa án (như quyết định khởi tố bị can,

quyết định truy tố của VKS,...) vì chúng là tiền đề quan trọng cho công tác xét xử của

Tòa án.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn

cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định thì cơ

quan, người có thẩm quyền THTT phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Nghĩa

vụ chứng minh lỗi là trách nhiệm của bên buộc tội, còn người bị buộc không có nghĩa

vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Bản cáo trạng của VKS và bản án kết tội của

Tòa án cần phải dựa trên các chứng cứ khẳng định lỗi của người bị buộc tội trong

việc thực hiện tội phạm. Nội dung này được ghi nhận trong nguyên tắc xác định sự

thật khách quan (Điều 15 BLTTHS) nhưng theo NCS, nguyên tắc xác định sự thật

khách quan không liên quan đến quy tắc phân định nghĩa vụ chứng minh lỗi, nên cần

thừa nhận là nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo nguyên tắc suy đoán vô

tội, bị can không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Đó là quyền của bị can,

nếu bị can không đề xuất chứng cứ, không trả lời câu hỏi của bên buộc tội không có

nghĩa là thừa nhận có tội. Nghĩa vụ chứng minh lỗi của bị can là trách nhiệm của cơ

quan THTT, khi đã xác định có sự kiện phạm tội thì phải tiến hành hàng loạt các hoạt

động nhằm xác định ai là người thực hiện hành vi tội phạm đó, chứng minh lỗi của

63

họ. Về nguyên tắc, không chứng minh được lỗi của người bị buộc tội đồng nghĩa với

sự vô tội của họ đã được chứng minh. Mọi sự hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội

trong vụ án nếu như không thể loại trừ được theo trình tự do luật định, cũng như mọi

sự hoài nghi xuất hiện trong việc giải thích và áp dụng các quy phạm pháp luật hình

sự và pháp luật TTHS đều được giải quyết theo hướng có lợi cho họ, tuy nhiên, trong

thực tiễn không phải lúc nào yêu cầu này cũng được tuân thủ. Nội dung giới hạn của

việc xét xử sơ thẩm xác định phạm vi, mức độ, quyền của các chủ thể tố tụng để đi

tìm chân lý của vụ án, đặc biệt là xác định mối quan hệ chế ước giữa VKS và Tòa án

trong việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ tố tụng, tránh tình trạng lạm quyền,

tùy tiện, chồng chéo chức năng. Có thể nói, nguyên tắc suy đoán vô tội là nền tảng,

là sự thể hiện cô đọng nhất những bảo đảm pháp lý cho quyền bào chữa của người bị

buộc tội, có mối quan hệ chặt chẽ với nội dung quy định giới hạn của việc XXST các

VAHS. Mặt khác, nó loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình điều tra,

truy tố và xét xử. Dù chứng cứ thu thập trong vụ án đến đâu, dù niềm tin nội tâm của

những người THTT về lỗi của bị can như thế nào thì họ vẫn phải có nghĩa vụ làm

sáng tỏ các tình tiết sự kiện của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.

Nguyên tắc này thể hiện thái độ trân trọng số phận con người, hạn chế sai lầm tư pháp

làm oan công dân.

Bốn là, nguyên tắc tranh trụng trong xét xử được bảo đảm

Nguyên tắc “tranh trụng trong xét xử được bảo đảm” là nguyên tắc thể hiện nội

dung rất quan trọng trong cải cách tư pháp ở nước ta về việc mở rộng dân chủ, bảo

đảm công bằng, khách quan trong tư pháp hình sự. Tranh tụng với tư cách là nguyên

tắc được hiểu là cách thức tổ chức phiên tòa sơ thẩm trong đó có sự tham gia của các

bên buộc tội và bào chữa có quyền ngang nhau để bảo vệ các ý kiến, luận điểm của

mình và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên đối trọng dưới vai trò điều khiển và

quyết định của Tòa án. TTHS không thể thừa nhận là dân chủ khi chức năng buộc tội

không có đối trọng của nó là chức năng bào chữa. Bản thân hoạt động TTHS - quá

trình nhận thức chân lý khách quan trong từng vụ án cụ thể đòi hỏi khách quan sự

tranh tụng giữa hai chức năng buộc tội và chức năng bào chữa như là tiền đề cần thiết

64

cho CNXX. Một triết gia của Hy Lạp cổ đại đã từng nói: chân lý chỉ được làm sáng

tỏ qua cọ sát các ý kiến khác nhau. Tranh tụng chính là quá trình tranh luận, trao đổi

giữa các bên: buộc tội và bào chữa, trong tranh tụng quan điểm khác nhau của các

bên sẽ được cọ sát và dưới sự điều khiển, phán xét của Tòa án chân lý khách quan

của vụ án xuất hiện. Tác giả Phạm Hồng Hải rất có lý khi cho rằng: tranh tụng là một

nguyên tắc của TTHS, nó khẳng định ở đâu có buộc tội thì ở đó có gỡ tội (bào chữa).

Tranh tụng được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của TTHS từ khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử ở các cấp tòa án. “Tranh tụng là một phương pháp để tìm ra sự thật khách

quan của vụ án. Có thể coi đây là một trong những phương pháp khoa học tốt nhất giúp

các chủ thể của hoạt động TTHS làm sáng tỏ các vấn đề khác nhau của VAHS” [39,

tr.45]. Quả thật như vậy, chỉ trong điều kiện tranh tụng thì các chức năng cơ bản trong

TTHS (buộc tội, bào chữa và xét xử) mới có thể vận hành một cách tốt nhất.

Nội dung của nguyên tắc này được quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015 và

được hiểu như sau: Trong quá trình từ khởi tố đến xét xử, bên buộc tội, bên bị buộc

tội và những người tham gia tố tụng khác đều bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,

đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Trong quá

trình tranh tụng dân chủ và bình đẳng của các bên tại phiên tòa phải bảo đảm sự độc

lập với nhau và phân định rõ ràng các chức năng buộc tội, bào chữa và phán xét (xét

xử) VAHS theo giới hạn nhất định. Tức là phải có sự tách bạch giữa các chức năng

buộc tội, bào chữa và xét xử. Tranh tụng đòi hỏi các chức năng cơ bản khác nhau phải

do các chủ thể khác nhau thực hiện. Việc xét xử VAHS của Tòa án các cấp được tiến

hành trên cơ sở tranh tụng dân chủ và bình đẳng giữa các bên tại phiên tòa; Tòa án là

cơ quan tài phán bảo đảm cho các bên những điều kiện cần thiết để thực hiện các

quyền và nghĩa vụ tố tụng, sự dân chủ và bình đẳng với nhau khi tranh tụng tại phiên

tòa. Có quan điểm cho rằng khi tính tích cực của các bên tăng lên thì vai trò của Tòa

án và CNXX bị giảm đi. NCS không quan điểm như vậy, bởi lẽ, khi Tòa án giảm can

thiệp không đúng chức năng của mình vào trong quá trình tranh tụng của các bên và

chỉ thực hiện những gì thuộc chức năng của mình - CNXX thì suy cho cùng vai trò,

uy tín của Tòa án càng được đề cao. Mặt khác, tạo điều kiện để Tòa án xem xét, đánh

65

giá các tình tiết, sự kiện của vụ án được toàn diện và khách quan hơn. Có thể khẳng

định ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, tính tranh tụng giữa

các bên tham gia được thể hiện rõ nét và đầy đủ nhất. Tòa án với quyền hạn và trách

nhiệm của mình sẽ bảo đảm những điều kiện cần thiết để các bên tham gia hoạt động

tranh tụng thực sự dân chủ và bình đẳng. Trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ và

bình đẳng đó tại phiên tòa, Tòa án là người “cầm cân nảy mực” xem xét các tình tiết,

chứng cứ và tính pháp lý của chúng với thái độ vô tư, công minh và cuối cùng phán

quyết mang tính quyền lực nhà nước.

Theo quy định giới hạn của việc xét xử cấp sơ thẩm: Tòa án xét xử những người

và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Tòa án đã có quyết định đưa ra

xét xử. Tòa án có thể xét xử khác với nội dung quyết định truy tố của VKS nhưng

phải bảo đảm trong “giới hạn, phạm vi” những bị cáo và hành vi phạm tội mà VKS

đã truy tố, đồng thời bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Thiết nghĩ có như vậy mới

tránh hiện tượng “lấn sân, làm thay” chức năng cho nhau giữa VKS và Tòa án. Một

khi không thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quy định dễ dẫn đến tình trạng lạm

quyền, oan sai trong hoạt động tố tụng. Vì thế, nguyên tắc tranh tụng được xem là cơ

sở, căn cứ quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm VAHS trong TTHS.

2.3.2. Mối quan hệ giữa nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm với phạm vi xét xử

phúc thẩm vụ án hình sự

Ở nước ta, Tòa án thực hiện nguyên tắc chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm

và xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 27 BLTTHS năm 2015. Điều này phù

hợp với pháp luật quốc tế: “Bất kỳ người nào bị kết án về một tội phạm đều có quyền

yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy

định của pháp luật” [106]. Khi có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm có

nhiệm vụ xem xét lại vụ án nhằm phát hiện và khắc phục kịp thời những sai lầm,

thiếu sót có thể có trong bản án, quyết định sơ thẩm để ra những phán quyết phù

hợp, bảo vệ quyền công dân, giảm bớt oan sai trong TTHS. Tuy nhiên, phạm vi

kháng cáo của những người có quyền kháng cáo được quy định khác nhau, phụ thuộc

vào vai trò, tư cách tố tụng và sự liên quan của bản án, quyết định sơ thẩm đối với

66

quyền và lợi ích của họ. Quyền kháng nghị thuộc về VKS cùng cấp và VKS cấp trên

trực tiếp. Khác với kháng cáo (những người có quyền kháng cáo chỉ cần không đồng

ý với bản án hoặc quyết định sơ thẩm là đã có quyền kháng cáo), còn VKS chỉ kháng

nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm nếu phát hiện thấy bản án, quyết định đó có sai

lầm trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật. Nghĩa là sau khi vụ án

được xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định vấn đề cần giải quyết bằng một

bản án hoặc quyết định sẽ làm phát sinh quyền kháng cáo của bị cáo hoặc những

người tham gia tố tụng khác và quyền kháng nghị của VKS yêu cầu xem xét lại một

phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định theo thủ tục phúc thẩm tại Tòa phúc thẩm.

Theo quy định của BLTTHS năm 2015, “Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên

trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ

thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị...”.

Khái niệm này thể hiện đầy đủ bản chất của xét xử phúc thẩm với ý nghĩa là cấp xét

xử thứ hai; căn cứ làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị

của cơ quan có thẩm quyền (VKS); đối tượng xét xử phúc thẩm là bản án, quyết

định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Phạm vi xét xử phúc thẩm được xác định: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét

phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần

thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo,

kháng nghị” [110], như vậy, phạm vi xét xử phúc thẩm có mối quan hệ chặt chẽ với

GHXX sơ thẩm vụ án. Ở cấp xét xử sơ thẩm, Tòa án bị giới hạn bởi nội dung quyết

định truy tố của VKS về bị cáo và hành vi, không được vượt quá khuôn khổ luật

định; khác với GHXX sơ thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm không phải bao giờ cũng

đầy đủ, toàn diện những vấn đề được xác định trong GHXX sơ thẩm, mà có thể bằng

hoặc hẹp hơn. Phạm vi xét xử phúc thẩm được xác định trên cơ sở kháng cáo hoặc

kháng nghị và trong một số trường hợp do luật định, cụ thể: trong phạm vi “cứng”

là xét xử lại những vấn đề mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chưa có hiệu pháp

luật nhưng có kháng cáo, kháng nghị và phạm vi “mềm” những vấn đề khác mà Tòa

án cấp sơ thẩm đã quyết định chưa có hiệu pháp luật không có kháng cáo, kháng

nghị mà Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy cần thiết nên xem xét. Về phạm vi xét xử

67

phúc thẩm có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập, tuy nhiên

nhiều quan điểm thống nhất rằng: thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm phát sinh

bởi kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại vụ án hoặc xét

lại quyết định sơ thẩm trong GHXX sơ thẩm. Điều này có nghĩa Tòa án cấp phúc

thẩm không thể xét xử những nội dung không thuộc GHXX của Tòa án cấp sơ thẩm

đã quyết định bằng bản án, quyết định. Cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm xét xử là

phần nội dung kháng cáo hoặc kháng nghị của VKS có thẩm quyền đối với bản án,

quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Việc Tòa án cấp phúc thẩm thấy cần

thiết xem xét cả phần nội dung không bị kháng cáo, kháng nghị là trường hợp ngoại

lệ theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc phần đó có liên quan chặt chẽ đến phần khác

hoặc toàn bộ bản án mà nếu không xem xét sẽ dẫn đến việc ra một bản án phiến diện,

không công bằng - điều này thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta trong tư pháp

hình sự.

Việc Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định

sơ thẩm trong GHXX sơ thẩm là phù hợp với nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp

xét xử. Theo đó kháng cáo, kháng nghị nhằm chống lại phán quyết của Tòa án cấp

sơ thẩm chứ không phải đưa ra yêu cầu mới; Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án

chứ không phải xét xử vụ án mới; Tòa án cấp phúc thẩm xét lại quyết định sơ thẩm

chưa có hiệu lực pháp luật chứ không phải ra quyết định lần đầu. Việc Tòa án cấp

phúc thẩm vượt qua GHXX sơ thẩm đồng nghĩa với việc vi phạm nguyên tắc hai cấp

xét xử. Giới hạn của quyền kháng cáo, kháng nghị chịu sự cho phối của nguyên tắc

chỉ được kháng cáo, kháng nghị trong GHXX sơ thẩm. Chủ thể kháng cáo, kháng

nghị không được đưa ra yêu cầu mới vượt quá GHXX sơ thẩm. Nếu Tòa án cấp phúc

thẩm chấp nhận yêu cầu mới thì vô hình trung sẽ làm mất một cấp xét xử và cấp xét

xử bị tước mất chính là cấp sơ thẩm, bởi lẽ bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc

thẩm về yêu cầu mới là bản án, quyết định chung thẩm [47]. Từ phân tích nêu trên

cho thấy, phạm vi xét xử phúc thẩm có mối liên hệ chặt chẽ với GHXX sơ thẩm, do đó

nội dung của xét xử phúc thẩm là một trong những căn cứ để xây dựng chế định giới

hạn của việc xét xử trong BLTTHS cho phù hợp, bảo đảm đồng bộ và thống nhất.

68

2.4. Kinh nghiệm lập pháp về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình

sự của một số nước trên thế giới

2.4.1. Giới hạn xét xử sơ thẩm của một số mô hình tố tụng trong lịch sử phát

triển tố tụng hình sự thế giới

Trong lịch sử phát triển pháp luật TTHS của các quốc gia trên thế giới, quy định

GHXX đã có sự vận động thay đổi tùy thuộc vào mô hình TTHS mà quốc gia đó lựa

chọn. Về tổng thể, quy định GHXX đã trải qua các mô hình lịch sử sau đây:

- Mô hình quy định GHXX sơ thẩm “đóng tuyệt đối” là mô hình quy định không

thừa nhận khả năng thay đổi nội dung truy tố khi đã bắt đầu phiên tòa xét xử sơ thẩm

với bất kỳ điều kiện nào trừ trường hợp rút toàn bộ nội dung truy tố. Sự xuất hiện bất

kỳ tình tiết nào khác với nội dung truy tố tại phiên tòa đều là căn cứ tuyên bị cáo vô

tội. Người buộc tội chịu trách nhiệm cá nhân về nội dung truy tố. Trường hợp người

buộc tội rút toàn bộ nội dung truy tố sẽ phát sinh nhiều hậu quả bất lợi cho người đó.

Trước hết người đó sẽ bị phạt; thứ hai là bị cáo có quyền yêu cầu Tòa án tiếp tục xét

xử và nếu Tòa án tuyên bản án vô tội thì người buộc tội có thể bị khởi tố về tội vu

khống. Mô hình quy định này tồn tại trong TTHS các nhà nước cổ đại (La mã, Đức)

và trong TTHS Anglo- Norman. Mô hình quy định GHXX này đặc trưng cho TTHS

kiểu tư – tranh tụng (một số tài liệu gọi là TTHS tiền buộc tội) [161]. Nội dung buộc

tội phải được thể hiện trong hình thức tố tụng theo luật định và không thể thay đổi

khi Tòa án bắt đầu xét xử kể cả khi có căn cứ. Tòa án có nghĩa vụ đưa ra phán quyết

về nội dung buộc tội.

- Mô hình quy định GHXX sơ thẩm “mở tuyệt đối” là mô hình quy định mà

trong đó Tòa án có thể thay đổi bất kỳ nội dung truy tố nào kể cả thay đổi theo hướng

làm xấu tình trạng bị cáo cũng như xét xử cả tội mới, rút toàn bộ nội dung truy tố

hoặc đình chỉ vụ án. Mô hình quy định này được TTHS châu Âu lục địa ( Pháp, Đức..)

tiếp nhận từ thế kỷ XIII và pháp luật TTHS châu Âu lục địa ngày nay vẫn ghi nhận

khả năng tự do thay đổi nội dung truy tố theo cả hướng làm xấu tình trạng bị cáo tại

phiên tòa sơ thẩm. Mô hình quy định GHXX này đại diện cho kiểu TTHS xét hỏi theo

đó quan tòa thâu tóm vào mình các chức năng cơ bản của TTHS: vừa là người buộc

tội, vừa là người xét xử. Khi có buộc tội thì Tòa án mới xét xử tuy nhiên tại phiên

69

tòa, quan tòa có thể lấy lời khai của bất kỳ ai về bất kỳ tình tiết nào của vụ án và có

thể tuyên bản án đối với bị cáo cũng như đối với những người khác về bất kỳ hành vi

nào mà Tòa án coi là tội phạm, không nhất thiết phải theo nội dung buộc tội ban đầu.

“Vì vậy những vụ án hình sự bắt đầu với những nội dung buộc tội đơn giản có thể kết

thúc xét xử trong vòng một hoặc hai tuần giờ đây có thể kéo dài hàng tháng, hàng

năm và làm cho người ta nghĩ rằng thẩm phán là những người có thể làm bất kỳ điều

gì đối với bị cáo. Hệ quả là hoạt động TTHS mà bản thân nó đã tiềm ẩn những rủi ro

cho các quyền, tự do của con người giờ đây thực sự trở thành công cụ hành hạ gây

nhiều khổ đau cho bị cáo”[168]. Mô hình quy định GHXX “mở tuyệt đối” xuất phát

từ nguyên nhân pháp luật TTHS không phân định rạch ròi giữa các chức năng cơ bản

của TTHS, thêm vào đó quyền bào chữa của bị cáo hoàn toàn không được thừa nhận,

điều này càng làm cho GHXX được mở tự do hơn mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ

điều kiện nào.

- Mô hình quy định GHXX sơ thẩm “mở có điều kiện” khi mà tại phiên tòa sơ

thẩm thay đổi nội dung truy tố ban đầu có thể được chấp nhận nhưng chỉ trong những

trường hợp do luật định và phải tuân thủ triệt để điều kiện bảo đảm quyền bào chữa

của bị cáo tại phiên tòa. Thí dụ như bị cáo cần được biết thay đổi mới về nội dung

buộc tội là gì và phải có đủ thời gian hợp lý để chuẩn bị bào chữa. Hơn nữa thay đổi

nội dung buộc tội không thể tùy tiện mà chỉ có thể thay đổi về đánh giá pháp lý (tội

danh - question of law) đối với hành vi bị truy tố của bị cáo, còn các tình tiết thực tế

của hành vi (question of facts) không được thay đổi [170]. Mô hình quy định GHXX

này đặc trưng cho các kiểu TTHS công - tranh tụng và dựa trên sự thừa nhận về quan

hệ bình đẳng hợp lý giữa lợi ích Nhà nước, lợi ích của người bị hại và quyền bào chữa

của bị can, thừa nhận tính tranh tụng của hoạt động tố tụng.

Trong Công ước Châu Âu về bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người

không trực tiếp ghi nhận thuật ngữ GHXX, tuy nhiên có thể diễn giải về quy định này

từ Điều 6 Công ước và thực tiễn xét xử của Tòa án Châu Âu về quyền con người. Tòa

án Châu Âu thừa nhận khả năng thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm

trong pháp luật quốc gia của các nước thành viên và sự thay đổi này, thậm chí theo

70

hướng bất lợi cho bị cáo, cũng không bị xem là vi phạm quyền của bị cáo nếu tuân

thủ đồng thời các điều kiện sau đây:

- Giữa nội dung buộc tội cũ và nội dung buộc tội mới không có sự khác biệt lớn

(tiêu chí không thay đổi lớn về nội dung buộc tội);

- Bị cáo phải có thể thấy trước khả năng thay đổi nội dung buộc tội (tiêu chí

không thay đổi nội dung buộc tội bất ngờ);

- Bị cáo phải có đủ khả năng phản ứng kịp thời và hiệu quả trước sự thay đổi về

nội dung buộc tội (tiêu chí khả năng phản ứng hiệu quả của bị cáo) [169].

Mỗi quy định GHXX sơ thẩm dựa vào từng kiểu mô hình TTHS gắn liền với

mục đích tố tụng, mà các nước xác định nội dung GHXX sơ thẩm khác nhau. Quan

điểm về nội dung GHXX sơ thẩm thể hiện trong Công ước Châu Âu về bảo vệ các

quyền và tự do cơ bản của con người và nội dung quy định GHXX sơ thẩm “mở có

điều kiện” là những kinh nghiệm rất đáng để chúng ta lưu ý trong việc hoàn thiện

pháp luật TTHS có liên quan.

2.4.2. Pháp luật tố tụng hình sự của một số nước về giới hạn xét xử sơ thẩm

2.4.2.1. Quy định giới hạn xét xử của các quốc gia theo hệ thống pháp luật khác

nhau trên thế giới

Điểm chung trong pháp luật TTHS của các quốc gia về GHXX là đều thừa nhận

sự ràng buộc giữa nội dung buộc tội của Viện công tố với hoạt động xét xử của Tòa

án, đồng thời thừa nhận khả năng thay đổi nội dung buộc tội ban đầu tại phiên tòa sơ

thẩm nhưng có một số khác biệt nhất định:

Tố tụng hình sự của các quốc gia theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa đề

cao nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án đã thừa nhận khả năng rộng rãi

của Tòa án thay đổi nội dung truy tố kể cả theo hướng làm xấu tình trạng của bị cáo

kèm theo một số điều kiện bảo đảm quyền bào chữa của chủ thể này. Thí dụ như bị

cáo phải được cảnh báo trước và được bảo đảm thời gian chuẩn bị bào chữa chống

lại nội dung buộc tội mới. Vi phạm các quy định này là căn cứ hủy bỏ bản án. Theo

trường phái lý luận TTHS của Pháp thì đánh giá pháp lý cuối cùng về hành vi của bị

cáo (hay còn gọi là định tội danh) là đặc quyền của quyền lực xét xử chứ không phải

của cơ quan truy cứu trách nhiệm hình sự, do vậy không có bất kỳ cơ sở lý luận nào

71

hạn chế thay đổi tội danh theo hướng có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo. Trong TTHS của

Cộng hòa Liên bang Đức, Tòa án không bị ràng buộc bởi tội danh trong quyết định

đưa bị cáo ra Tòa án xét xử. Theo Điều 246 BLTTHS Cộng hòa Liên bang Đức, bị

cáo có thể bị xét xử theo điều khoản của BLHS khác với điều khoản trong quyết định

này với điều kiện nếu trước đó bị cáo đã được thông báo về thay đổi tội danh và đã

được tạo điều kiện cho việc bào chữa. Chính những đặc trưng của mô hình TTHS

thẩm vấn của các quốc gia này như thiên về bảo vệ lợi ích công thông qua vai trò tích

cực, chủ động của Tòa án, nghĩa vụ của Tòa án xác định mọi tình tiết có ý nghĩa cho

việc giải quyết vụ án đã ảnh hưởng lớn đến việc hình thành trường phái thay đổi nội

dung truy tố tại phiên tòa, theo đó chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất có quyền thay

đổi, còn Công tố viên chỉ có quyền thể hiện ý kiến về sự cần thiết thay đổi nội dung

truy tố hoặc đề nghị Tòa án tuyên bản án vô tội mà thôi. Sau khi phiên tòa đã chính

thức bắt đầu thì Công tố viên không thể rút toàn bộ nội dung truy tố. Công tố viên

không có thẩm quyền quyết định đối với nội dung truy tố của mình [96].

Pháp luật TTHS Anh - Mỹ hình thành trường phái riêng về thay đổi nội dung

truy tố tại phiên tòa, theo đó không chấp nhận bất kỳ thay đổi nội dung truy tố nào

theo hướng bất lợi cho bị cáo (ne reformatio in pejus), đồng thời đưa ra những biện

pháp nhằm bảo đảm ở mức độ nhất định lợi ích của công lý. Học thuyết này nhấn

mạnh vai trò khách quan của Tòa án thông qua quy định cấm Tòa án vượt quá phạm

vi tranh chấp pháp lý ban đầu giữa bên buộc tội và bên bị cáo. Trong TTHS Anh

quốc, nhiệm vụ quan trọng nhất (quan trọng hơn cả nhiệm vụ xác định sự thật vụ án)

là giải quyết xung đột pháp lý nảy sinh trên cơ sở sự kiện tội phạm đã xảy ra và yêu

cầu bảo đảm xét xử khách quan có sự tham gia của hai bên tranh tụng bình đẳng với

nhau về các quyền tố tụng nhưng bên buộc tội có nghĩa vụ chứng minh tội của bị cáo

theo nguyên tắc suy đoán vô tội (innocent until proven guilty) và phải chứng minh

một cách thuyết phục (beyond all reasonable doubt). Công tố viên có quyền rút một

phần hoặc toàn bộ nội dung truy tố với bất kỳ căn cứ nào, tại bất kỳ thời điểm nào kể

từ khi quyết định truy tố cho đến trước khi tuyên án dẫn đến hậu quả là Tòa án ra

quyết định đình chỉ một phần hoặc toàn bộ vụ án. Công tố viên có thể thay đổi nội

dung cũng như mức độ truy tố theo hướng có lợi cho bị cáo mà không bị hạn chế gì.

72

Tòa án chỉ có vai trò tích cực trong điều hành phiên tòa. Tại phiên tòa bên buộc tội

và bên bào chữa có quyền thỏa thuận về nhận tội (plea bargain) và sự thỏa thuận này

chính là nội dung truy tố mới theo hướng có lợi cho bị cáo. Thỏa thuận nhận tội của

bị cáo được xem là hình thức thay đổi nội dung truy tố rất phổ biến trong thực tiễn

xét xử của Hoa Kỳ hiện nay làm chấm dứt tranh chấp pháp lý giữa hai bên tranh tụng.

Lúc này, Tòa án không tiếp tục xét xử nữa và chỉ có nghĩa vụ ghi nhận bằng bản án

sự thừa nhận của bên bào chữa về nội dung truy tố đã thay đổi [96].

2.4.2.2. Quy định giới hạn xét xử trong Bộ luật Tố tụng hình sự liên bang Nga

Trong khoa học TTHS Xô Viết những năm 70 của thế kỷ trước vấn đề thay đổi

nội dung buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm của chế định GHXX cũng là đề tài tranh luận

kéo dài nhiều năm. Có quan điểm cho rằng Tòa án sơ thẩm cần có thẩm quyền rộng

rãi thay đổi nội dung buộc tội của VKS kể cả quyền đưa ra buộc tội mới tại phiên tòa

nếu có căn cứ. “Nếu Tòa án xác định được những tình tiết mới của vụ án thì không

có lý do gì để không cho Tòa án ra phán quyết phù hợp với các tình tiết đó không phụ

thuộc vào việc phán quyết có thể thu hẹp hay mở rộng nội dung buộc tội ban đầu,

giảm nhẹ hay tăng thêm tội của bị cáo” [164]. Quan điểm này không nhận được sự

đồng tình của đa số trong giới khoa học pháp lý Xô Viết vì cho rằng khi Tòa án thay

đổi nội dung buộc tội nặng hơn dẫn đến sự hạn chế quyền bào chữa của bị cáo và Tòa

án đã thực hiện thẩm quyền không thuộc về CNXX [165].

Quy định GHXX trong BLTTHS năm 1960 của nước Nga Xô Viết (thời Liên

Xô cũ) tại Điều 254- 256 BLTTHS: Thừa nhận khả năng thay đổi nội dung buộc tội

ban đầu tại phiên tòa sơ thẩm nếu không làm xấu tình trạng bị cáo và vi phạm quyền

bào chữa của chủ thể này. Nếu thấy thay đổi nội dung buộc tội có thể vi phạm quyền

bào chữa của bị cáo thì Tòa án trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung. Luật không cho

phép thay đổi nội dung buộc tội theo hướng nặng hơn. Nếu tại phiên tòa phát hiện

căn cứ về hành vi tội phạm mới của bị cáo thì Tòa án khởi tố và chuyển quyết định

khởi tố đến VKS. Nếu phát hiện tội phạm mới liên quan đến tội phạm đang xét xử thì

Tòa án chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho VKS. Trường hợp phát hiện người phạm tội

mới cũng được quy định như vậy [16].

73

BLTTHS năm 2001 của Liên bang Nga ngày nay vẫn tiếp thu nội dung cơ bản

của quy định GHXX thời Liên Xô nhưng đã có nhiều thay đổi về thẩm quyền của Tòa

án tại phiên tòa, bởi lẽ Bộ luật này đã thừa nhận tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của

hoạt động TTHS theo đó các chức năng cơ bản phải do các chủ thể tham gia tố tụng

khác nhau thực hiện một cách tách bạch và Tòa án được xem là cơ quan xét xử, không

phải là cơ quan truy cứu trách nhiệm hình sự. “Khởi tố vụ án là biểu hiện của truy

cứu trách nhiệm hình sự không thuộc CNXX vì thế không thể trao cho Tòa án quyền

này vì nó trái với các nguyên tắc độc lập, khách quan và không thiên vị khi xét xử

của Tòa án” [166]. Điều 252 BLTTHS thể hiện: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo về

những nội dung (hành vi và tội danh) mà VKS truy tố. Luật cho phép cả VKS cũng

như Tòa án dựa trên kết quả xét hỏi tại phiên toà được thay đổi nội dung buộc tội với

hai điều kiện là không được làm xấu tình trạng bị cáo (điều kiện về luật nội dung) và

không được vi phạm quyền bào chữa của bị cáo (điều kiện về luật tố tụng. Luật hoàn toàn

loại trừ khả năng thay đổi nội dung buộc tội theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo tại phiên

tòa [16]. Quy định GHXX trong BLTTHS Liên bang Nga hiện nay được xem là kết quả

của sự phát triển lý luận TTHS trên cơ sở tranh luận, nghiên cứu khoa học hàng chục năm,

ngày càng tiến gần đến các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ quyền con người.

Qua nội dung nêu trên, có thể thấy rằng: Lịch sử phát triển pháp luật TTHS về

GHXX trên thế giới đã vận động theo hướng ngày càng khẳng định sự ràng buộc chặt chẽ

giữa nội dung truy tố của VKS (hay Viện công tố) và hoạt động xét xử của Tòa án. Nội

dung truy tố là phạm vi, là đối tượng của hoạt động xét xử. Thay đổi nội dung truy tố tại

phiên tòa sơ thẩm luôn là nội dung quan trọng của quy định GHXX sơ thẩm tồn tại trong

TTHS của các nước. Tại phiên toà sơ thẩm, thay đổi nội dung truy tố ban đầu được xem

xét giải quyết trên cơ sở một trong hai hoặc đồng thời cả hai điều kiện, đó là: không làm

xấu tình trạng bị cáo và bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Theo NCS, kinh nghiệm lập

pháp TTHS Anh - Mỹ và Liên bang Nga trong việc giải quyết khả năng thay đổi nội dung

truy tố tại phiên toà theo hướng không làm xấu tình trạng bị cáo và bảo đảm quyền bào

chữa của chủ thể này là sự lựa chọn tốt nhất cho việc hoàn thiện quy định GHXX sơ thẩm

của pháp luật TTHS nước ta vì nó phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

74

Tiểu kết chương 2

Giới hạn của việc xét xử sơ thẩm là một nội dung quan trọng, phức tạp về mặt

lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn trong tố tụng hình sự. Việc nghiên cứu lý luận

một cách hệ thống về chế định này là cơ sở, nền tảng giúp chúng ta nhìn nhận đúng

đắn, toàn diện về quy định giới hạn xét xử cũng như ý nghĩa của chế định đối với đời

sống chính trị - xã hội ở nước ta. Từ đó, xác định đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của

các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo vệ

quyền con người, thực hiện nền tư pháp dân chủ, góp phần xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Qua nghiên cứu các quan điểm lý luận về giới hạn xét xử, luận án đã đưa ra khái

niệm khoa học về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Luận án đã phân tích

ý nghĩa, nội dung, đặc điểm của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm, đồng thời đã nêu

và phân tích các cơ sở hình thành chế định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình

sự nói chung; phân tích mối quan hệ giữa giới hạn xét xử sơ thẩm với một số nội dung

khác trong tố tụng hình sự; tìm hiểu các mô hình về giới hạn xét xử trong tố tụng hình

sự của một số nước trên thế giới - đây là cơ sở lý luận rất quan trọng giúp chúng ta

có thể luận giải thấu đáo về các vấn đề liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm. Trên

cơ sở đó, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu thực trạng pháp luật tố tụng hình sự về giới

hạn xét xử sơ thẩm một cách có hệ thống, làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm

hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng

hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Trong chương này, nghiên cứu sinh đã tiếp cận vấn đề nghiên cứu trong tổng

thể các mối quan hệ biện chứng, để tìm ra tính quy luật khách quan của vấn đề nghiên

cứu. Nghiên cứu sinh cho đây là nội dung rất quan trọng, có giá trị lớn về mặt nhận

thức, lý luận tạo cơ sở, tiền đề để nghiên cứu sinh tìm hiểu, luận giải các chương tiếp

theo của luận án.

75

Chương 3

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

VỀ GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

3.1. Thực trạng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam

3.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam về giới hạn xét xử sơ thẩm trước khi ban

hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015

Chế định GHXX là chế định có nhiều thay đổi trong lịch sử phát triển của pháp

luật TTHS nước ta. Trước khi ban hành BLTTHS năm 1988, vấn đề GHXX sơ thẩm

đã được ghi nhận đầu tiên ở “Đề án về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự” của

TANDTC được xây dựng năm 1964. Đề án này quy định nội dung GHXX sơ thẩm,

như sau: “Tòa án nhân dân không có quyền xét xử đối với tội danh nặng hơn tội danh

mà Viện kiểm sát đã truy tố”.

Trước khi có BLTTHS thì Thông tư 16-TATC ngày 27/9/1974 là văn bản pháp

lý đầu tiên quy định về GHXX - đó là “Đề án về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự”

của TANDTC. Đề án này quy định nội dung GHXX sơ thẩm, như sau: “Tòa án nhân

dân không có quyền xét xử đối với tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã

truy tố”. Sau 10 năm thực hiện Đề án, tổng kết thực tiễn áp dụng phát sinh vướng

mắc: TAND không có quyền xét xử với tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố,

qua trao đổi ý kiến với VKS mà VKS không nhất trí về việc đổi tội danh nặng hơn,

thì TAND phải xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, mặc dù việc định tội danh là

không đúng. Tình trạng đó không bảo đảm được nguyên tắc xét xử đúng tội của bị

cáo và hạn chế tác dụng của Tòa án trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trước yêu cầu đó, TANDTC đã ban hành Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974

hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm hình sự. Theo đó, Tòa án chỉ được xét xử bị

cáo mà VKS truy tố và Tòa án không bị ràng buộc bởi tội danh mà VKS truy tố, khi

thấy có căn cứ Tòa án có thể xét xử bị cáo theo tội danh khác (kể cả nặng hơn hoặc

nhẹ hơn) với điều kiện tuân thủ hai thủ tục: phải đề nghị VKS thay đổi tội danh truy

tố trước khi mở phiên tòa và phải bảo đảm cho bị cáo có điều kiện thực tế thực hiện

76

quyền bào chữa của mình bằng việc thông báo về khả năng thay đổi tội danh trong

quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988

BLTTHS đầu tiên đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa

VIII kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 28 tháng 6 năm 1988, có hiệu lực thi hành từ ngày

01 tháng 01 năm 1989. Nội dung GHXX sơ thẩm chính thức được cụ thể hóa tại Điều

170 BLTTHS năm 1988: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội

danh mà VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”. Mô hình GHXX ở đây

được xem là “mô hình đóng tuyệt đối” có nghĩa là luật không chấp nhận khả năng

thay đổi nội dung buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm dù có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo. Với

quy định này, việc xét xử của Tòa án bị giới hạn bởi:

Thứ nhất, Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà

VKS truy tố bằng một bản cáo trạng.

Truy tố bằng bản cáo trạng là một trong những quyết định của VKS sau khi cơ

quan điều tra có bản kết luận điều tra vụ án chuyển sang VKS đề nghị truy tố đối với

người phạm tội và những hành vi do họ thực hiện ra trước Tòa án cấp có thẩm quyền

để xét xử. Đây là văn bản tố tụng pháp lý để Tòa án làm căn cứ quyết định đưa vụ án

ra xét xử. Vì thế, Tòa án chỉ được xét xử những hành vi của bị cáo đã bị VKS truy tố

(bao gồm số lượng và tính chất của hành vi) không phải là hành vi chung chung mà

là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS và những hành vi đó

được quy định thành những tội danh cụ thể của BLHS. Tòa án không được xét xử

thêm bất kỳ người nào khác hay bất kỳ hành vi nào khác nếu như những người và

những hành vi đó chưa bị VKS truy tố trong bản cáo trạng. GHXX của Tòa án chính

là phạm vi những người và những hành vi đã bị VKS truy tố trong bản cáo trạng. Cho

nên về nguyên tắc, trong trường hợp có đồng phạm khác mà chưa bị VKS truy tố thì

Tòa án cũng không có quyền xét xử. Tuy nhiên, để không “bỏ lọt tội phạm”, pháp

luật cho phép Tòa án nếu phát hiện người phạm tội mới cần điều tra thì HĐXX ra

quyết định khởi tố VAHS hoặc yêu cầu VKS khởi tố VAHS theo quy định của Điều

87 BLTTHS năm 1988 - đây được xem là một trong các quy định bảo đảm được

nguyên tắc không làm xấu đi tình trạng của bị cáo và bảo đảm được quyền bào chữa

77

của bị cáo. Nhưng trái lại, Tòa án mà cụ thể là HĐXX đã thực hiện một phần chức

năng buộc tội thay cho VKS là không đúng với chức năng, quyền hạn của Tòa án

trong hoạt động TTHS mà Hiến pháp đã ghi nhận. Quy định này cho thấy sự phân

định chức năng, nhiệm vụ giữa VKS và Tòa án trong TTHS chưa có sự rạch ròi, dễ

làm phát sinh nhiều vi phạm pháp luật khác nhau trong quá trình giải quyết VAHS.

Có thể nói bản cáo trạng là văn bản tố tụng thể hiện quan điểm chính thức của VKS

về tội danh của bị can, nhưng đó không phải là quan điểm bất biến bởi nhận thức là

cả một quá trình lâu dài. Sau khi ra quyết định truy tố, nếu thấy có một trong những

căn cứ không được khởi tố VAHS hoặc khi có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự

cho bị cáo thì VKS có quyền rút quyết định truy tố trước khi Tòa án mở phiên tòa, đề

nghị Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án và nhiều trường hợp khác có sự thay đổi cơ

bản về tội danh nhưng Tòa án không có quyền quyết định.

Thứ hai, Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và hành vi theo tội danh mà VKS đã

truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc xét xử của Tòa án phát sinh

trên cơ sở quyết định truy tố của VKS (bản cáo trạng) và quyết định đưa vụ án ra xét

xử của Tòa án.

Sau khi Tòa án tiếp nhận hồ sơ vụ án do VKS chuyển sang truy tố bằng một bản

cáo trạng, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công làm

chủ tọa phiên tòa qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án

một cách khách quan, toàn diện, Thẩm phán quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc

Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa quyết định đưa vụ án ra xét xử, không

có nghĩa là Thẩm phán đồng nhất quan điểm với VKS về tội danh, điều khoản của

BLHS mà VKS đã truy tố viện dẫn trong nội dung bản cáo trạng. Bởi lẽ, quyết định

đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa là một văn bản

tố tụng thể hiện quan điểm của mình đối với vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa

án và có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật có liên quan, để đưa ra xét xử đối với

những bị cáo và những hành vi đã bị VKS truy tố. Mục đích của quyết định đưa vụ

án ra xét xử là tạo điều kiện để cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có

đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật TTHS, sau khi họ nhận

được quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án. Như vậy, quyết định đưa vụ án ra

78

xét xử của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa chính là cơ sở để Tòa án mở

phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS đối với những bị cáo và những hành vi của bị cáo đã

bị VKS truy tố và chỉ những bị cáo nào, những hành vi nào đã bị VKS truy tố được

Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa quyết định đưa ra xét xử thì HĐXX

mới được phép xét xử tại phiên tòa.

Qua đó cho thấy, nội dung GHXX sơ thẩm theo BLTTHS năm 1988 xác định

quyền xét xử của Tòa án được giới hạn theo nội dung quyết định truy tố của VKS

(bản cáo trạng) về bị cáo và hành vi theo tội danh. Điều này có nghĩa là “có truy tố

mới có xét xử” nhưng không phải xét xử “vô hạn” mà có phạm vi và đối tượng cụ

thể. Trước khi BLTTHS năm 1988 có hiệu lực, quan hệ tố tụng giữa VKS và Tòa án

khi giải quyết VAHS không được điều chỉnh bằng văn bản có giá trị pháp lý cao (bộ

luật, luật). Những bất đồng quan điểm giữa VKS và Tòa án chỉ được thực hiện theo

hướng dẫn của Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC hướng dẫn về

trình tự TTHS sơ thẩm, theo đó những bất đồng này được giải quyết thông qua cuộc

họp trù bị giữa VKS và Tòa án. Khi BLTTHS năm 1988 được ban hành, cuộc họp trù

bị với VKS trước khi mở phiên tòa do bất đồng quan điểm không còn là một thủ tục

bắt buộc. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS năm 1988 về GHXX cũng chưa dự liệu

đầy đủ các trường hợp phát sinh trong thực tiễn xét xử, như: Trong trường hợp bị cáo

phạm tội khác với tội danh VKS truy tố (có thể tội nhẹ hơn, bằng hay nặng hơn);

trường hợp bị cáo phạm vào khoản khác trong cùng một điều luật mà VKS truy tố,…

thì Tòa án xử lý như thế nào? Để giải quyết các tình huống phát sinh trong thực tiễn

xét xử, ngày 08 tháng 12 năm 1988 TANDTC và VKSNDTC đã ban hành Thông tư

liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLN hướng dẫn thi hành một số quy định

trong BLTTHS, Thông tư đã thể hiện nội dung: “... không xét xử những người và

những hành vi chưa được VKS truy tố và không xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn

tội danh mà VKS truy tố. Trước khi mở phiên tòa, nếu Tòa án thấy cần phải truy tố

thêm người, thêm tội hoặc cần xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn thì Tòa án

trả hồ sơ để VKS điều tra bổ sung và thay đổi cáo trạng. Trường hợp qua xét xử tại

phiên tòa mới phát hiện được tội phạm mới hoặc người phạm tội mới thì Tòa án ra

quyết định khởi tố vụ án và chuyển hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung. Trong trường

79

hợp Tòa án đề nghị VKS đổi tội danh nặng hơn mà VKS không nhất trí, thì hai bên

đều phải báo cáo với cấp trên của mình. Thủ trưởng hai cơ quan cấp trên cần trao

đổi ngay, nếu thống nhất ý kiến thì hướng dẫn cấp dưới thi hành, nếu vẫn không

thống nhất ý kiến thì Tòa án cấp dưới phải xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố,

không được tuyên là bị cáo không phạm tội mà VKS đã truy tố. Nếu xét thấy cần xét

xử bị cáo theo tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà VKS đã truy tố, hoặc áp

dụng khung hình phạt nhẹ hơn khung hình phạt mà VKS đã đề nghị, thì Tòa án không

phải báo trước cho VKS và những người tham gia tố tụng” [128].

Thông tư liên ngành số 01 ngày 8/12/1988 - Thông tư đầu tiên hướng dẫn áp

dụng BLTTHS năm 1988 nhất quán nguyên tắc Tòa án không được đưa ra xét xử

cũng như không được xét xử tại phiên tòa người mới hoặc tội mới trong bất kỳ tình

huống nào tức là không được vượt quá giới hạn về người và hành vi mà VKS truy tố.

Tuy nhiên, Thông tư đã mở ra khả năng Tòa án có thể xét xử bị cáo theo tội danh

nặng hơn so với tội danh VKS truy tố nếu tại phiên tòa đề nghị thay đổi tội danh nặng

hơn của Tòa án được VKS nhất trí hoặc sau khi đề nghị nhưng không đạt được sự

nhất trí cả hai cùng báo cáo lên cấp trên và được cấp trên thống nhất (về thay đổi tội

danh nặng hơn). Ở góc độ này nội dung của Thông tư trái với tinh thần cốt lõi của

Điều 170 BLTTHS năm 1988 vì hướng dẫn có thể thay đổi nội dung buộc tội ban đầu

theo hướng nặng hơn, phủ nhận quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa.

Tổng kết công tác của TANDTC trong nhiều năm tiếp theo đã khẳng định "Điều

170 BLTTHS không cho phép Tòa án xét xử theo tội danh nặng hơn, mặc dù qua thẩm

vấn công khai tại phiên tòa thấy rõ tội danh mà VKS truy tố là không chính xác là

không đúng, trái với nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội nhưng trong khi Điều

170 chưa sửa thì Tòa án không thể xét xử theo tội danh nặng hơn. Tòa án vẫn phải

xử theo tội danh mà VKS truy tố nhưng sau đó kiến nghị Tòa án cấp trên xem xét".

Đồng thời, TANDTC cho rằng Điều 170 BLTTHS không hạn chế Tòa án áp dụng

khung hình phạt nặng hơn so với khung mà VKS truy tố. Trong thực tiễn xét xử, Tòa

án còn có thể áp dụng thêm tình tiết tăng nặng so với cáo trạng mặc dù không thay

đổi điều luật và khung hình phạt. Hướng dẫn này thực chất cho phép Tòa án làm xấu

tình trạng bị cáo, không bảo đảm quyền bào chữa của chủ thể này.

80

Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

Điều 196 BLTTHS năm 2003 quy định:

“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm

sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy

tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm

truy tố”.

Điều 196 BLTTHS năm 2003 giữ nguyên quy định tại Điều 170 BLTTHS năm

1988 và đã bổ sung thêm đoạn 2 vào điều luật. Xét về góc độ lập pháp thì quy định

tại đoạn 2 Điều 196 BLTTHS năm 2003 là quy định mới. Còn xét về nội dung thì quy

định này không phải là vấn đề mới, nội dung này thực chất chỉ là “pháp điển hóa”

nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày

08/12/1988 và các kết luận của TANDTC về GHXX sơ thẩm trước đây thành đoạn 2

của Điều 196 BLTTHS năm 2003. Mô hình quy định GHXX của BLTTHS năm 2003

là mô hình quy định “mở có điều kiện hạn chế” theo đó nguyên tắc không làm xấu

tình trạng bị cáo vẫn là nền tảng khi giải quyết xung đột giữa quyền lực buộc tội và

quyền lực xét xử, Tòa án không được vượt quá phạm vi người và hành vi mà VKS

truy tố. Tuy nhiên luật ghi nhận khả năng Tòa án có thể thay đổi nội dung buộc tội

theo hai hướng:

- Thay đổi theo hướng không làm xấu tình trạng bị cáo hoặc có lợi cho bị cáo

khi áp dụng điều luật về tội bằng hoặc tội nhẹ hơn so với tội mà VKS truy tố hoặc

khoản nhẹ hơn trong cùng điều luật mà VKS truy tố;

- Thay đổi theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo với điều kiện chỉ được áp dụng

khoản nặng hơn so với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật. [54] và Luật

không đề cập đến bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo như thế nào trong các tình

huống này.

Như vậy, Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 chỉ hướng dẫn

đoạn 2 Điều 196 BLTTHS năm 2003 mà không đề cập hướng dẫn việc thực hiện nội

dung đoạn 1 Điều 196 và trường hợp Tòa án cần xét xử theo tội danh nặng hơn tội

danh mà VKS truy tố thì phải xử lý như thế nào. Thực tế xét xử cho thấy, trong giai

81

đoạn này Tòa án các cấp vẫn còn nhận thức và thực hiện theo hướng dẫn của Thông

tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988 khi xét thấy cần xét

xử bị cáo tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố trong bản cáo trạng. Quy định giới

hạn của việc xét xử sơ thẩm trong BLTTHS năm 2003 gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà

VKS truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Nội dung quy định này giữ nguyên

toàn bộ nội dung quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm tại Điều 170 BLTTHS

năm 1988. Quyền xét xử của Tòa án trên cơ sở quyết định truy tố của VKS về số

lượng bị cáo, tính chất hành vi theo tội danh cụ thể và Tòa án đã quyết định đưa vụ

án ra xét xử.

Thứ hai, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy

tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã

truy tố. Nội dung này gồm:

Một là, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố

trong cùng một điều luật, nghĩa là Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nhẹ hơn

hoặc nặng hơn khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật. Tòa án có quyền

quyết định độc lập việc xét xử hành vi phạm tội của bị cáo theo khung hình phạt nhẹ

khung hình phạt mà VKS viện dẫn trong bản cáo trạng. Nội dung này phù hợp với

nguyên tắc nhân đạo trong tư pháp của Nhà nước ta - theo hướng có lợi cho bị cáo,

Tòa án xét xử đúng “theo tội danh mà VKS truy tố”. Mặt khác, Tòa án cũng có thể

xét xử hành vi của bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn khung hình phạt mà VKS

viện dẫn trong bản cáo trạng. Về vấn đề này, hiện vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Ý

kiến thứ nhất cho rằng: Tòa án được quyền xét xử hành vi của bị cáo theo khung hình

phạt nặng hơn khung hình phạt mà VKS truy tố là phù hợp, bảo đảm được nguyên

tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và nguyên

tắc “xác định sự thật vụ án”[68; 98]. Ý kiến khác lại cho rằng: quy định Tòa án được

quyền xét xử hành vi phạm tội của bị cáo theo khung hình phạt nặng hơn khung hình

phạt mà VKS truy tố là “làm xấu đi tình trạng của bị cáo” và vi phạm nguyên tắc

bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tại phiên tòa [95]. Mỗi quan điểm đều có yếu tố

hợp lý của chúng, nhưng NCS cho rằng: xuất phát từ các chức năng cơ bản của TTHS,

82

mỗi cơ quan THTT đều có chức năng, nhiệm vụ riêng mà Hiến pháp và BLTTHS

quy định nhưng đều có mục đích tố tụng chung, vì thế buộc họ phải phối hợp với

nhau vì mục đích chung đó. Quan trọng là Nhà nước ta ưu tiên cho mục đích nào

trong TTHS để thống nhất trong tư duy lập pháp về nội dung GHXX sơ thẩm, để bảo

đảm cho các cơ quan THTT luôn thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ Hiến định và

bảo vệ quyền con người.

Hai là, Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà

VKS đã truy tố, có nghĩa là với những hành vi mà VKS truy tố, Tòa án có thể xét xử

bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố. Để xác định như

thế nào là “tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội VKS đã truy tố”, Nghị quyết số

04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 đã hướng dẫn cụ thể.

Qua phân tích, nội dung quy định về GHXX sơ thẩm tại Điều 196 BLTTHS

năm 2003 cho thấy: về cơ bản không có gì mới về mặt nhận thức pháp lý cũng như

thực tiễn áp dụng, vì thế những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng quy định

về GHXX sơ thẩm trong BLTTHS năm 1988 vẫn còn tồn tại trong BLTTHS năm

2003. Tuy nhiên, về kỹ thuật lập pháp thì tiến bộ hơn, quy định cụ thể phạm vi, quyền

xét xử của Tòa án đối với nội dung truy tố của VKS ngay trong BLTTHS (trước đây

chỉ được hướng dẫn trong Thông tư liên tịch). Trong tiến trình cải cách tư pháp, Đảng

và Nhà nước ta đã khẳng định vị trí, vai trò và hoạt động xét xử của Tòa án có ý nghĩa

vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ công lý; bảo vệ quyền con người, quyền công

dân; đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo đảm công bằng xã hội; góp phần xây

dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Do đó, việc tạo ra các cơ

chế bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng chức năng là điều hết sức cấp bách, trong đó

có cơ chế bảo đảm về mặt pháp luật, vì thế cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các

quy định pháp luật TTHS nói chung và quy định về GHXX sơ thẩm nói riêng.

3.1.2. Quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) về cơ bản đã kế thừa Điều 196

của BLTTHS 2003 tại khoản 1 và khoản 2 Điều 298. Khoản 1 tiếp tục khẳng định sự

phụ thuộc của Tòa án đối với nội dung truy tố của VKS về bị can và về hành vi bị

truy tố (bao gồm tình tiết thực tế và tội danh của hành vi). Khoản 2 thừa nhận khả

83

năng thay đổi nội dung truy tố ban đầu tại phiên tòa. Khoản 3 Điều 298 là quy định

mới với nội dung: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội

danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị

cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh

đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.” Nội dung này

đề cập đến tình huống khi các tình tiết của vụ án không thay đổi, chỉ có sự khác biệt

về đánh giá pháp lý (tội danh nặng hơn) của Tòa án so với tội danh mà VKS truy tố.

GHXX trong BLTTHS năm 2015 có thể xem là mô hình “mở tuyệt đối có điều kiện”:

Tòa án vẫn bị giới hạn không được xét xử người mới, tội mới tại phiên tòa so với truy

tố của VKS kể cả khi có căn cứ. Tòa án chỉ có quyền trả hồ sơ cho VKS để điều tra

bổ sung, hoặc khởi tố vụ án, trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung (Điều 280; Điều 326

BLTTHS năm 2015). Tuy nhiên, khi có sự đánh giá pháp lý về hành vi truy tố (định

tội danh) của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa và của HĐXX theo hướng

nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố thì Tòa án có quyền xét xử theo tội danh

nặng hơn đó. Điều kiện luật bắt buộc tuân thủ trong trường hợp này là Thẩm phán

được phân công chủ tọa phiên tòa phải trả hồ sơ cho VKS để "truy tố lại" và thông

báo cho bên bào chữa biết về khả năng thay đổi tội danh theo hướng nặng hơn, nếu

VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử theo tội danh nặng hơn.

Quy định nội dung khoản 3 Điều 298 BLTTHS 2015 là luật đã hoàn toàn giải

phóng Tòa án khỏi sự ràng buộc về tội danh mà VKS truy tố khi thực hiện CNXX

của mình. Theo NCS, để nhìn nhận một cách toàn diện về nội dung GHXX sơ thẩm

trong TTHS phải xuất phát từ mối quan hệ của ba chức năng cơ bản trong TTHS:

buộc tội, bào chữa và xét xử. Mỗi chức năng có tính độc lập riêng của mình, ba chức

năng này lại có quan hệ hài hòa với nhau. VKS là cơ quan được Nhà nước giao cho

chức năng công tố, thay mặt Nhà nước truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử - thực

hiện chức năng buộc tội. Chức năng của bên bào chữa là phản biện, bác bỏ buộc tội

của VKS, để giảm nhẹ tội, phủ nhận trách nhiệm hình sự của bên bị buộc tội - thực

hiện chức năng gỡ tội. Tòa án thực hiện CNXX - nội dung của chức năng là xem xét,

quyết định người bị buộc tội có tội hay không và xác định hình sự đối người có tội.

Chức năng này chỉ xuất hiện khi có buộc tội của VKS. Cho nên, nội dung quy định

84

giới hạn của việc XXST phải bảo đảm sự hài hòa cho việc thực hiện các chức năng

cơ bản trong TTHS, chứ không nên chỉ quan tâm, chú trọng đến các chức năng cơ

bản đại diện Nhà nước thực hiện. Tất cả mọi sự nhìn nhận phiến diện đó đều có thể

dẫn đến oan sai trong quá trình giải quyết VAHS. Qua nghiên cứu khoản 3 Điều 298

BLTTHS, NCS nhận thấy bộc lộ một số bất cập như sau:

Thứ nhất, xuất phát từ lý luận các chức năng cơ bản trong TTHS thì nội dung

quy định tại Điều 298 BLTTHS chưa phù hợp với chức năng, vai trò của các chủ thể

tham gia tố tụng trong VAHS. Bởi lẽ, VKS là cơ quan đại diện (thay mặt) Nhà nước

thực hành quyền công tố trong TTHS Việt Nam - thực hiện chức năng buộc tội. Chức

năng của VKS trong TTHS là phát hiện người phạm tội và chứng minh lỗi của người

đó bằng bản cáo trạng; minh chứng cho các chủ thể tham gia tố tụng khác trong

VAHS thấy rõ nội dung của bản cáo trạng là có cơ sở, có căn cứ bằng việc thể hiện

bản luận tội tại phiên tòa. Theo đó, người bị buộc tội dựa trên phạm vi bản cáo trạng

mà chuẩn bị nội dung bào chữa, chống lại lời buộc tội của bên buộc tội, chủ động lựa

chọn hình thức bào chữa để bảo vệ mình. Còn Tòa án thực hiện CNXX. Trách nhiệm

của Tòa án là kiểm tra, đánh giá một cách công khai các chứng cứ được thu thập trong

giai đoạn điều tra, truy tố để từ đó chấp nhận hay loại trừ các chứng cứ. Nếu chấp

nhận các chứng cứ do cơ quan điều tra, truy tố thu thập thì Hội đồng xét xử sẽ xử

dụng các chứng cứ đó để chứng minh các các vấn đề theo yêu cầu tại Điều 85

BLTTHS để từ đó đưa ra các phán quyết với đầy đủ các căn cứ thể hiện trong bản án

chỉ chịu trách nhiệm đối với các phán quyết đó. Sự phân định chức năng trong TTHS

đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan THTT trong quá trình giải quyết

VAHS, nếu “vượt qua” sự phân định đó thì việc quy định chức năng, nhiệm vụ của

các cơ quan có thẩm quyền THTT sẽ không còn ý nghĩa. Vì thế, quy định cho phép

Tòa án có quyền xét xử tội danh khác nặng hơn tội danh mà VKS truy tố thì Tòa án

đã vượt qua CNXX, vì có đã làm thay chức năng của VKS - buộc tội. Như vậy, thử

hỏi Tòa án có còn đóng vai trò là “trọng tài” công tâm, xét xử khách quan hay không?

Nội dung quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS đã vô hình chung phủ nhận quyết

định truy tố của VKS và bản án của Tòa án có các yếu tố của chức năng buộc tội.

Như vậy, việc quy định quyền bào chữa của bị cáo không có ý nghĩa thực tiễn, tức là

85

chức năng bào chữa trong TTHS không được thực hiện - điều này dẫn đến VAHS

giải quyết một cách phiến diện, không khách quan, chưa bảo đảm quyền con người

trong TTHS. Qua đó cho thấy, việc mở rộng quyền xét xử của Tòa án chưa giải quyết

hài hòa mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS.

Thứ hai, nội dung quy định khoản 3 Điều 298 BLTTHS đã vi phạm nguyên tắc

suy đoán vô tội, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và làm

“vô hiệu hóa” quy định giới hạn của việc xét xử. Nội dung khoản 3 Điều 298

BLTTHS đề cập đến tình huống khi các tình tiết của vụ án không thay đổi, chỉ có sự

khác biệt về đánh giá pháp lý (tội danh nặng hơn) của Tòa án so với tội danh mà VKS

truy tố. GHXX trong BLTTHS năm 2015 có thể xem là mô hình “mở tuyệt đối có

điều kiện”: Tòa án vẫn bị giới hạn không được xét xử người mới, tội mới tại phiên

tòa so với truy tố của VKS kể cả khi có căn cứ. Tòa án chỉ có quyền trả hồ sơ cho

VKS để điều tra bổ sung, hoặc khởi tố vụ án, trả hồ sơ cho VKS điều tra bổ sung

(Điều 280; Điều 326 BLTTHS năm 2015). Tuy nhiên, khi có sự đánh giá pháp lý về

hành vi truy tố (định tội danh) của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa và

của HĐXX theo hướng nặng hơn so với tội danh mà VKS truy tố thì Tòa án có quyền

xét xử theo tội danh nặng hơn đó. Điều kiện luật bắt buộc tuân thủ trong trường hợp

này là Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải trả hồ sơ cho VKS để "truy

tố lại" và thông báo cho bên bào chữa biết về khả năng thay đổi tội danh theo hướng

nặng hơn, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử theo tội

danh nặng hơn. Mặt khác, nội dung quy định tại khoản 3 Điều 298 không thể hiện cụ

thể: việc trả hồ sơ để VKS truy tố lại khi nào (thời điểm nào), vậy nếu việc trả hồ sơ

trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử (tức trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ

thẩm) thì việc nhận định “bị cáo phạm tội theo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS

truy tố”, chỉ là đánh giá chủ quan của Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa

đối với hành vi phạm tội của bị cáo và vô hình trung đã phủ nhận nguyên tắc tranh

tụng trong tố tụng hình sự. Còn nếu việc trả hồ sơ tại phiên tòa, thì Tòa án (HĐXX)

đã “lấn sân” thực hiện chức năng của VKS, vừa buộc tội vừa xét xử vì HĐXX đã

định kiến cho rằng “bị cáo phạm tội nặng hơn” và đề nghị VKS truy tố lại. Như vậy,

việc xét xử có bảo đảm khách quan, có vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội đã được

86

ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS Việt Nam? Trong trường hợp VKS vẫn giữ

nguyên quan điểm truy tố, không đồng ý truy tố theo tội danh nặng hơn mà Tòa án

yêu cầu thì “Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”. Lúc này sẽ

xuất hiện “buộc tội mới” từ Tòa án, mà trong bản cáo trạng không truy tố bị cáo và

hành vi phạm tội “theo tội danh mà Tòa án đưa ra xét xử”. Như vậy, vấn đề đặt ra là

Tòa án căn cứ vào đâu thực hiện thẩm quyền này? trong khi đó, Tòa án chưa mở

phiên tòa, chưa kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện? Mặt khác, buộc tội

nào có giá trị pháp lý hay cả hai buộc tội (bản cáo trạng của VKS và quyết định đưa

ra xét xử theo tội danh nặng hơn của Tòa án) đều có giá trị pháp lý để bên bào chữa

có hướng bào chữa? Một luận điểm đã được thống nhất và ghi nhận trong pháp luật

TTHS thể hiện mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa VKS và Tòa án, đó là: sự kiện

pháp lý làm phát sinh việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm là

quyết định truy tố của VKS (bằng bản cáo trạng). Bào chữa là quyền tố tụng quan

trọng của bị cáo và tương ứng với quyền tố tụng này là nghĩa vụ tố tụng của các cơ

quan THTT, trong đó có Tòa án phải tôn trọng, tạo mọi điều kiện để bị cáo thực hiện

quyền tố tụng của mình một cách tốt nhất, không được vi phạm. Quy định như vậy

sẽ làm hạn chế khả năng bào chữa của bị cáo, do bị cáo không thể lựa chọn phương

án bào chữa tốt nhất cho mình; đồng thời, quy định “giới hạn của việc xét xử” sơ

thẩm trong BLTTHS không còn ý nghĩa về ngôn từ và nội dung của nó, vì “đã vượt”

qua phạm vi, mức độ cho phép về quyền xét xử.

Từ phân tích trên, có thể thấy quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm

2015 là luật đã hoàn toàn “giải phóng” Tòa án khỏi sự ràng buộc về tội danh mà

VKS truy tố, khi thực hiện CNXX của mình. Thiết nghĩ, không phải ngẫu nhiên trong

lịch sử lập pháp từ BLTTHS năm 1988 đến BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2021) khi đề cập giới hạn của việc xét xử sơ thẩm đều ghi nhận: Tòa án xét xử

những bị cáo và hành vi theo tội danh mà VKS đã truy tố và Tòa án đã có quyết định

đưa ra xét xử. Bởi lẽ, đã truy tố thì phải có đối tượng cụ thể (truy tố ai? Hành vi phạm

tội gì? tội danh gì?) cho nên phải là những cá nhân, tội danh cụ thể, chứ không thể là

hành vi chung chung, con người chung chung. Đối với bên bào chữa, khi thực hiện

chức năng gỡ tội, họ cần phải biết những con người và tội danh cụ thể nào bị buộc tội

87

để có hướng bào chữa, cho nên không thể buộc tội mà không kèm theo tội danh cụ

thể. Với vai trò là “trọng tài”- xét xử khách quan, Tòa án có trách nhiệm đưa ra phán

quyết trên cơ sở những gì VKS truy tố và kết quả kiểm tra chứng cứ, xét hỏi, tranh tụng

tại phiên tòa giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Tòa án thực hiện CNXX trong phạm vi

những con người, tội danh cụ thể bị truy tố là hoàn toàn phù hợp, bảo đảm thực hiện hài

hòa nội dung các chức năng cơ bản trong TTHS.

Thứ ba, nội dung giới hạn của việc xét xử sơ thẩm còn hạn chế so với quá trình

hình thành và phát triển của quy định này.

Nội dung BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) có một bước tiến rất

quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân cũng như xác định

rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan THTT, … Nhưng khi đối chiếu đến quy

định về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, tác giả nhận thấy vẫn còn nội dung chưa

thực sự phân định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia giải quyết

VAHS. Điều 23 BLTTHS năm 2015 quy định "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật", độc lập xét xử nhưng không có nghĩa là việc xét xử của

Tòa án là “vô hạn” mà điều đó bị giới hạn trong một phạm vi nhất định theo quy định

của pháp luật. Bởi lẽ, pháp luật có chức năng hạn chế của nó - chức năng này tạo ra

tính tích cực, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan THTT khi thực hiện chức năng,

quyền hạn [143]. CNXX được thực hiện trên cơ sở và trong giới hạn của chức năng

buộc tội. BLTTHS năm 2015 đã đề cao mục tiêu “kiểm soát tội phạm”, làm cho việc

thực hiện CNXX và chức năng buộc tội không được rạch ròi. VKS được giao thực

hiện chức năng buộc tội, thay mặt Nhà nước phát hiện tội phạm, cáo buộc và đề nghị

Tòa án xét xử. Nếu VKS đánh giá không phạm tội nặng hơn tội mà VKS đã truy tố

thì Tòa án cũng không nên làm thay VKS, buộc tội nặng hơn. Dưới góc độ này,

BLTTHS năm 2015 đã “đi một bước lùi” trong lịch sử phát triển pháp luật TTHS

(nội dung quy định tương tự như những hướng dẫn thực hiện thủ tục xét xử sơ thẩm

trước khi có BLTTHS năm 1988), chính sách hình sự không nhất quán, thay vì mở

rộng theo hướng tăng cường tính tranh tụng tại phiên tòa; đề cao dân chủ, bảo đảm

quyền con người và quyền công dân thì lại quay về mục tiêu “kiểm soát tội phạm”,

quy định Tòa án được quyền xét xử bị cáo về hành vi phạm tội theo tội danh ngoài

88

phạm vi truy tố của VKS, mà chưa quan tâm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa việc

thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội với quyền công tố và quyền xét xử.

Trong khi đó, quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS hiện hành chỉ mới đề cập

“...Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người

đại diện của bị cáo, người bào chữa biết;...” còn thời hạn để bảo đảm cho việc thực

hiện quyền bào chữa thì chưa được quy định.

Mặt khác, việc quy định Tòa án có quyền xét xử tội danh nặng hơn đó trong một

số trường hợp có thể dẫn đến xét xử bị cáo với mức hình phạt cao nhất là tử hình,

chẳng hạn: VKS truy tố bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” vì đã có hành vi xâm phạm

tính mạng, sức khỏe người khác có hậu quả làm chết người với mức hình phạt cao

nhất là tù chung thân, nhưng qua nghiên cứu hồ sơ vụ án Thẩm phán được phân công

xét xử cho rằng với tính chất, mức độ của hành vi đó thì phải xét xử theo tội “Giết

người” với mức hình phạt cao nhất là tử hình. Vậy thử hỏi Tòa án (HĐXX) có thực

hiện đúng quyền đó không, xét về góc độ “niềm tin nội tâm”? Việc quy định mở rộng

quyền xét xử của Tòa án có ý nghĩa trong việc không để VAHS bị kéo dài, đùn đẩy

trách nhiệm giữa các cơ quan THTT, hạn chế ảnh hưởng các quyền tố tụng của các

chủ thể tham gia. Tuy nhiên, quy định đó cần phải được xác định trên những cơ sở,

căn cứ khoa học của TTHS, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THTT và phải bảo đảm

được quyền con người trong TTHS,... Về mặt pháp lý, cho thấy ngay từ đầu hoạt

động xét xử của Tòa án đã phụ thuộc vào hoạt động truy tố của VKS; nội dung, phạm

vi truy tố xác định nội dung hoạt động xét xử của Tòa án (hoạt động bào chữa cũng

phụ thuộc vào nội dung và phạm vi truy tố). Quyết định đưa vụ án ra xét xử chỉ là sự

thừa nhận chính thức của Tòa án về việc nội dung truy tố sẽ là đối tượng và phạm vi

xét xử của Tòa án tại phiên tòa. GHXX không thể ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử

của Tòa án, là yếu tố bảo đảm cho Tòa án luôn là cơ quan thực hiện CNXX, không

cho phép Tòa án có thể làm xấu tình trạng của bị cáo so với nội dung truy tố; nguyên

tắc không được làm xấu tình trạng của bị cáo và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa

của bị cáo là hai yếu tố phải được cân nhắc khi giải quyết sự khác biệt về đánh giá

pháp lý giữa quyết định truy tố và quyết định của Tòa án, Tòa án có thể vượt quá

89

GHXX như là “một ngoại lệ”, nếu điều đó không làm xấu tình trạng của bị cáo và

không vi phạm quyền bào chữa của bị cáo [90].

3.2. Thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình

sự Việt Nam

3.2.1. Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 2015 đến năm 2023

Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng được đánh dấu từ Đại hội

Đảng lần thứ VI đã và đang từng bước mang lại cho đất nước ta nhiều thành tựu quan

trọng, làm cho thế và lực của ta ngày càng lớn mạnh hơn, nền kinh tế thay đổi một

cách toàn diện và phát triển khá nhanh; văn hoá xã hội có những bước tiến mới, đời

sống của người dân được tiếp tục cải thiện và nâng cao; hệ thống chính trị tiếp tục

được đổi mới; quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng mở

rộng thêm; chính trị - xã hội được ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Trong

những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới đó, các cơ quan tư pháp đã luôn luôn

đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật XHCN, đấu tranh

có hiệu quả với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Có thể nói, quyền lực tư

pháp đã thực hiện có hiệu quả với sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.

Tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp theo tinh thần các Nghị quyết của Bộ chính

trị, gần đây là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung

ương khoá XIII về “việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, hoạt động tư pháp đã có những chuyển

biến rất quan trọng, nhất là trong công tác xét xử của Tòa án, tăng cường đổi mới

công tác đào tạo, bồi dưỡng (tập trung tự đào tạo thông qua việc tổ chức các phiên

toà rút kinh nghiệm, trong năm 2023 tổ chức 13.492 phiên toà hình sự) [132], qua đó

giúp Thẩm phán đề cao tinh thần trách nhiệm trong chuẩn bị xét xử, nâng cao kinh

nghiệm tổ chức phiên toà; công tác công bố bản án và phát triển án lệ được quan tâm

và pháp điển hoá làm nguồn bổ trợ cho công tác xét xử; việc đầu tư cơ sở vật chất,

ứng dụng công nghệ thông tin trong việc hướng dẫn, giải thích pháp luật được lãnh

đạo ngành Tòa án quan tâm phát triển. Theo báo cáo thống kê của VKSNDTC, số

90

VAHS được giải quyết có chiều hướng gia tăng; chất lượng xét xử của Tòa án các

cấp ngày càng quan tâm, chú trọng:

- Về số lượng: Đối với Tòa án cấp sơ thẩm, nếu năm 2015 Tòa án các cấp trong

cả nước đã xét xử sơ thẩm được 59.696 vụ/71.804 vụ đã thụ lý, đạt tỷ lệ 83,14% thì

đến cuối năm 2023 Tòa án các cấp trong cả nước đã xét xử sơ thẩm xong 76.590

vụ/91.996 vụ đã thụ lý, đạt 83,3%; đối với xét xử phúc thẩm, nếu năm 2015 trong cả

nước Tòa án các cấp đã xét xử được 10.262 vụ/16.101 vụ, chiếm 63,7% thì cuối năm

2023, Tòa án các cấp đã xét xử 10.524 vụ/17.465, chiếm 60,26%; đối với án phải giải

quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu năm 2015 giải quyết được 70/117 vụ,

chiếm 59,8% thì năm 2023 giải quyết được 168/252 vụ chiếm tỷ lệ 66,67% (xem

thêm Phụ lục 1 và Biểu đồ 1 Phụ lục 2) [156].

- Về chất lượng: Vấn đề này được thể hiện thông qua kết quả xét xử phúc thẩm

và giám đốc thẩm của Tòa án các cấp.

+ Đối với án xét xử sơ thẩm: Số vụ án xét xử sơ thẩm ngày càng gia tăng. Số vụ

án VKS kiến nghị sau khi xét xử sơ thẩm có xu hướng tăng, nếu năm 2015 là

555/59.696 vụ, chiếm 0,93% thì năm 2023 tỷ lệ này lên 1,55% (1.190/76.590 vụ);

trung bình từ năm 2015-2023: có 08 bị cáo/năm tuyên không phạm tội (xem thêm

Phụ lục 1 và Biểu đồ 2 Phụ lục 2) [156].

+ Đối với án xét xử phúc thẩm: Số vụ án phải xét xử phúc thẩm có chiều hướng

giảm, nếu năm 2015 có 16.101/59.696 vụ án đã xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng

nghị, chiếm 26.97% thì năm 2023 có 17.465/76.590 vụ án đã xét xử sơ thẩm bị kháng

cáo, kháng nghị chiếm 22,8%. Năm 2015, Tòa án đã xét xử phúc thẩm 10.262/16.101

vụ, trong đó số vụ VKS kháng nghị đã xét xử là 940 vụ, HĐXX chấp nhận 637 vụ,

chiếm 67,7% thì đến năm 2023, Tòa án đã xét xử phúc thẩm 10.524/17.465 vụ, trong

đó số vụ VKS kháng nghị đã xét xử là 806 vụ, HĐXX chấp nhận 636 vụ, chiếm

78,9%; trung bình từ năm 2015-2023: có 04 bị cáo/năm tuyên không phạm tội (xem

thêm Phụ lục 1 và Biểu đồ 3 Phụ lục 2) [156].

+ Đối với án giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: nếu năm 2015,

số vụ án đã xét xử phúc thẩm bị kháng nghị phải giải quyết theo thủ tục giám đốc

91

thẩm là 1,14% thì đến năm 2018 lên đến 5,0%, nhưng từ năm 2019 đến năm 2023 có

chiều hướng giảm, chiếm 2,39%, trong đó: năm 2023 tỷ lệ kháng nghị HĐXX chấp

nhận chiếm 93,9%; không có trường hợp Tòa án tuyên không phạm tội (xem thêm

Phụ lục 1 và Biểu đồ 4 Phụ lục 2) [156].

Thực tế cho thấy, việc xét xử các VAHS ở cấp sơ thẩm đã có những bước tiến

bộ nhất định. Điều này thể hiện ở chỗ, mặc dù tỷ lệ giải quyết án sơ thẩm tăng không

nhiều, nhưng số vụ VAHS đã xét xử sơ thẩm tăng (nếu năm 2015 xét xử được 59.696

vụ thì năm 2023 xét xử đến 76.590 vụ). Chất lượng xét xử từng bước được nâng lên;

số lượng án bị kháng cáo, kháng nghị có chiều hướng thuyên giảm. Tuy nhiên, số

lượng án đã xét xử phúc thẩm so với yêu cầu phải giải quyết còn chậm, nếu năm 2015

tỷ lệ án đã xét xử phúc thẩm chiếm 63,7% thì năm 2023 giảm còn 60,26%; số lượng

án bị xét xử phúc thẩm theo hướng chấp nhận kháng nghị với yêu cầu của kháng nghị

chiếm tỷ lệ khá cao (nếu năm 2015 chiếm 67,7% thì năm 2023 chiếm 78,9%); trường

hợp HĐXX tuyên không phạm tội vẫn còn tồn tại ở cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.

Những kết quả trên đạt được là do sự nỗ lực, phấn đấu của hệ thống các cơ quan

tư pháp nói chung và ngành Tòa án nói riêng; của đội ngũ cán bộ Tòa án (Thẩm phán

và Hội thẩm nhân dân) ngày càng được nâng lên về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

cũng như kỹ năng xét xử. Đến thời điểm hiện tại (năm 2023), đội ngũ công chức, cán

bộ tòa án có khoảng 13.385 người. Số Thẩm phán TAND địa phương có trình độ đại

học luật trở lên là 97%, số thẩm phán còn lại đều có trình độ tương đương đại học

luật. Số lượng hội thẩm đương nhiệm là 16.783 người [132]; nhận thức được vai trò,

trách nhiệm của mình trong hoạt động TTHS, họ ý thức được từng hành động, ý kiến

của mình sẽ ảnh hưởng đến số phận pháp lý của một con người trong xã hội.

Qua những số liệu cụ thể nêu trên, chứng tỏ công tác xét xử các VAHS tương

đối tốt, ngày càng được nâng cao về “chất”. Các vụ án có kháng cáo, kháng nghị

theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm có chiều hướng giảm. Qua đó, cho thấy Tòa

án các cấp đã hoàn thành tốt công tác xét xử, về số lượng cũng như chất lượng được

tăng lên liên tục. Những kết quả tích cực đó đã góp phần vào việc tăng cường pháp

chế; bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và của công dân.

92

Đồng thời là sự ghi nhận những thành công bước đầu của công cuộc cải cách tư pháp

mà Đảng và Nhà nước ta đề ra. Tuy nhiên, so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm hiện nay thì kết quả đó vẫn còn khiêm tốn.

3.2.2. Thực trạng áp dụng quy định giới hạn xét xử trong xét xử sơ thẩm vụ

án hình sự

Qua khảo sát thực tiễn, đa phần các VAHS có quan điểm khác nhau về việc xác

định hành vi và tội phạm đều được Tòa án và VKS trao đổi, hội ý để thống nhất quan

điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Vì thế, để thu thập các VAHS liên quan

đến vướng mắc, bất cập phát sinh từ quy định GHXX sơ thẩm trong BLTTHS năm

2015 không được nhiều. NCS nêu và phân tích một số VAHS cụ thể để chúng ta rõ

hơn nội dung Điều 298 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) như sau:

Vụ án thứ nhất: VKSND tỉnh PY truy tố bị can Lưu Hoàng V là người phụ trách

Phòng bảo hiểm PJICO khu vực thị xã Sông Cầu với tội danh “Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản” số tiền 208 triệu đồng (sau khi trừ đi một số khoản hợp lý) về

hành vi của V đã ký kết 41 hợp đồng bảo hiểm có tổng trị giá hơn 332 triệu đồng

nhưng V chỉ nộp về Công ty PJICO PY 57 triệu đồng, phần còn lại V chiếm đoạt sử

dụng cá nhân bằng thủ đoạn báo cáo số liệu hợp đồng ít hơn rất nhiều so với thực tế,

không xuất hoá đơn cho bên mua bảo hiểm, thậm chí sử dụng hoá đơn cũ để tẩy xoá

thời gian giao cho khách hàng khi có yêu cầu. Sau khi tiếp nhận cáo trạng và hồ sơ

vụ án, TAND tỉnh PY hai lần trả hồ sơ đề nghị VKS điều tra bổ sung theo hướng truy

tố bị can Lưu Hoàng V về tội “Tham ô tài sản”. Tuy nhiên, VKS tỉnh PY giữ nguyên

quan điểm truy tố V về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Trong Quyết

định đưa vụ án ra xét xử, TAND tỉnh PY đã thông báo cho bị cáo, người bào chữa,

nguyên đơn dân sự trong VAHS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết Lưu

Hoàng V bị truy tố về tội danh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhưng có

thể bị xét xử về tội “Tham ô tài sản”. Tại phiên xử hình sự sơ thẩm, đại diện VKSND

tỉnh PY giữ quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX bị cáo từ 7 đến 8 năm tù về

tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. TAND tỉnh PY căn cứ giới hạn của

việc xét xử được quy đinh tại Điều 298 BLTTHS tuyên phạt bị cáo Lưu Hoàng V 7

năm tù về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại Điều 353 Bộ luật hình sự [160].

93

Vụ án thứ hai: VKSNDTC truy tố Huỳnh Tấn Đ về tội “Lạm dụng chức vụ,

quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 355 Bộ luật

Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với số tiền 931.000.000 đồng về hành

vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Huỳnh Tấn Đ là Thư ký TAND

cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh được lãnh đạo TAND cấp cao giao nhiệm vụ tiếp

nhận, nghiên cứu phân loại đơn kháng cáo tại phòng Hành chính tư pháp – TAND

cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua tiếp nhận, phân loại đơn thì Đ biết được số

điện thoại của những người có liên quan nên đã chủ động liên hệ với các bị cáo và

nguyên đơn và xưng mình là “Thư ký Tòa án đang tiếp nhận giải quyết vụ án”; đồng

thời, đặt vấn đề nếu cần hỗ trợ, giúp đỡ thì liên lạc với Đạt, từ đó các bị cáo (trong

VAHS) và nguyên đơn trong các vụ tranh chấp dân sự đã liên lạc, gặp gỡ, trao đổi,

đặt vấn đề nhờ Đ giúp. Đ đã yêu cầu họ phải đưa tiền cho Đ, để Đ lo cho họ được

hưởng án treo, giảm nhẹ hình phạt và thắng kiện trong vụ tranh chấp dân sự. Thông

qua hành vi và thủ đoạn trên, Đ đã chiếm đoạt của các bị cáo trong VAHS tổng số

tiền 731.000.000 đồng và nguyên đơn trong vụ tranh chấp quyền sử dụng đất với số

tiền 200.000.000 đồng. Trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử, TAND Thành phố Hồ

Chí Minh đã thông báo cho bị cáo, người bào chữa, nguyên đơn dân sự trong VAHS,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết Huỳnh Tấn Đ bị truy tố về tội “Lạm dụng

chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”, nhưng có thể bị xét xử về tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên xử hình sự sơ thẩm, đại diện VKS giữ quyền công tố

tại phiên tòa giữ nguyên truy tố bị cáo Huỳnh Tấn Đ với tội danh “Lạm dụng chức

vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 355 Bộ

luật hình sự và đề nghị HĐXX bị cáo từ 13 đến 20 năm tù. TAND Thành phố Hồ Chí

Minh căn cứ giới hạn của việc xét xử được quy đinh tại Điều 298 BLTTHS tuyên

phạt bị cáo Huỳnh Tấn Đ 13 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy

định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự. Tòa án cho rằng VKS giữ quyền

công tố nhận định sai về tội danh nhưng thấy có cơ sở chấp nhận về mức hình phạt

mà VKS đề xuất đối với bị cáo; đồng thời, không chấp nhận lời bào chữa của luật sư

cũng như lời bào chữa của bị cáo về việc bị cáo phạm tội “lạm dụng chức vụ, quyền

hạn chiếm đoạt tài sản” [133]

94

Vụ án thứ ba: Trần Đình T được người tên Hoàng (chưa rõ lai lịch) thuê đem

một gói hình chữ nhật bên trong chứa ma tuý được gói bằng một túi nylon màu cam

đến Bến xe Miền Đông giao cho người mua, rồi đem tiền về cho Hoàng và sẽ được

Hoàng trả tiền công 2.000. 000 đồng. Hoàng cung cấp thông tin người mua tên Tuấn

và số điện thoại cho Đình T để liên lạc gặp nhau. Nhưng Tuấn không đến gặp Đình

T nhận mà cho Đình T số điện thoại của Đoàn Giai T và Giai T sẽ là người nhận

hàng. Việc giao nhận đang thực hiện thì Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện

bắt quả tang, Đình T bỏ chạy, bỏ lại tiền vừa nhận từ Giai T, còn Giai T thì bị bắt giữ

với tang vật là một gói bọc màu cam, qua giám định là ma tuý thể rắn có trọng lượng

1.008,30 gam. Tại cơ quan công an, Giai T khai nhận được người tên Tuấn (chưa rõ

lai lịch) thuê nhận số hàng do người tên Đình T giao và nếu giao nhận thành công

Giai T được Tuấn trả công 5.000.000 đồng. VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã truy

tố bị cáo Trần Đình T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4

Điều 251 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Đoàn Giai T về

tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 249 BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017 theo Cáo trạng 356/CT-VKS-P2 ngày 08/7/2021. Tại

phiên toà sơ thẩm ngày 25/5/2022, theo nội dung bản Cáo trạng, đại diệnVKSND

thực hành quyền công tố đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Trần Đình T tù chung thân

về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và xử phạt bị cáo Đoàn Giai T tù chung thân

về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội

theo nội dung bản cáo trạng và luật sư bào chữa cho các bị cáo cũng thống nhất quan

điểm truy tố của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh. Sau phần xét hỏi, HĐXX quyết

định trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu làm rõ hành vi của bị cáo Đoàn Giai T, nhưng

VKSND Thành phố Hồ Chí Minh phản hồi bằng Công văn số 164/VKS-P2 ngày

17/6/2022 là giữ nguyên nội dung truy tố theo Cáo trạng số 356/CT-VKS-P2. Căn cứ

khoản 3 Điều 298 BLTTHS, HĐXX quyết định xét xử bị cáo Đoàn Giai T về tội

“Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 251 BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại bản án số 329/2022/HS-ST ngày 22/7/2022 của

TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định xử phạt bị cáo Trần Đình T: Tử hình

95

về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; xử phạt bị cáo Đoàn Giai T: Tử hình về tội

“Mua bán trái phép chất ma tuý”[134].

Vụ án thứ tư: Nguyễn Thúc M là người sử dụng ma tuý và có hành vi mua bán

chất ma tuý nhiều lần. Nguồn ma tuý mà Thúc M có để bán cho các con nghiện lấy

từ Phùng Thị Ngọc A. Phùng Thị Ngọc A có hành vi mua bán ma tuý cho nhiều đối

tượng trong thời gian nhiều và nhiều lần, có lúc Ngọc A trực tiếp đi bán, có lúc thì

nhờ Dương Thanh T (người sống như vợ như chồng với Ngọc A) giúp đem ma tuý

giao khách. Thanh T phụ giúp Ngọc A giao ma tuý cho khách hàng 02 lần theo lời

khai của Thanh T và Ngọc A, hành vi chia nhỏ ma tuý để bán và thu lợi bất chính của

Ngọc A và việc mua bán ma tuý giữa Thúc M và Ngọc A đều có mặt Thanh T. Hành

vi mua bán trái phép chất ma tuý của các đối tượng bị bắt quả tang. Tại bản án số:

126/CT-VKSTPHCM-P1 ngày 03/3/2022, VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã truy

tố bị cáo Nguyễn Thúc M về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản

4 Điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Phùng Thị Ngọc A về tội “Mua bán trái phép chất

ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 251 BLHS; truy tố bị cáo Dương Thanh T về tội

“Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251 BLHS. Tại phiên

toà, các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và các luật sư

bào chữa đều thống nhất tội danh truy tố của VKSND Thành phố Hồ Chí Minh. Qua

nghiên cứu hồ sơ vụ án, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã trả hồ sơ điều tra bổ sung

đề nghị thay đổi điều khoản truy tố bị cáo Dương Thanh T theo điểm b khoản 3 Điều

251 BLHS nhưng VKSND Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố

đối với bị cáo Dương Thanh T theo Cáo trạng số:126/CT-VKSTPHCM-P1. Căn cứ

khoản 2 Điều 298 BLTTHS, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử bị cáo Dương

Thanh T theo điểm b khoản 3 Điều 251 BLHS với mức xử phạt 15 năm tù về tội

“Mua bán trái phép chất ma tuý” [136].

Vụ án thứ năm: VKSND Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Tiến V,

Trần Hùng V, Lê Tấn N, Trần Quốc H và Hồng Chí Q về tội “Giữ người trái phép”

theo quy định tại khoản 1 Điều 157 BLHS và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy

định điểm a khoản 4 Điều 170 BLHS. Các đối tượng đã đưa tiền cho ông Phạm Đình

96

Thịnh đầu tư, kinh doanh tiền điện tử, do bị thu lỗ thường xuyên nên nghĩ rằng bị ông

Thịnh lừa lấy tiền nên đã có hành vi dụ ông Thịnh đến nhà ông Tiến V, bày cách đe

doẹ buộc ông Thịnh trả tiền lại cho mình. Để thực hiện điều đó, các đối tượng trên đã

đe doạ dùng vũ lực đối với ông Thịnh như đòi chặt tay, chôn sống,.... các đối tượng

đã tác động đến ông Phạm Đình Vân (cha ông Thịnh) quay hình ảnh ông Thịnh để

doạ, buộc ông Vân đem tiền lại trả. Để đợi ông Vân tìm tiền và đem lại nhà Tiến V

giao, thì các đối tượng trên đã bàn người giữ ông Thịnh không để ông ấy trốn thoát.

Hành vi của các đối tượng trên VKSND Thành phố Hồ Chí Minh nhận định và thể

hiện quan điểm truy tố tội danh tại Cáo trạng số 289/Ctr- VKSTPHCM-P2 ngày

23/5/2023. Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án chuẩn bị xét xử, Tòa án đã trả hồ sơ cho

VKS yêu cầu thay đổi một phần Cáo trạng, truy tố các bị cáo về tội “Cướp tài sản”

theo điểm a khoản 4 Điều 168 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 vì Tòa án

nhận định các bị cáo đã “có hành vi dùng vũ lực tấn công ông Thịnh và ông Thịnh đã

lâm vào tình trạng không thể chống cực được, buộc ông phải làm theo mệnh lệnh của

các bị cáo là gọi ông Vân cha của bị hại mang tiền đến giao cho bị cáo...”, hành vi

của các bị cáo đã chuyển hoá tội phạm từ tội cưỡng đoạt tài sản sang tội cướp tài sản,

nhưng VKS giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”,

căn cứ khoản 3 Điều 298 BLTTHS, Toà đã xét xử các bị cáo về tội “Cướp tài sản”.

Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện VKS giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy

tố như nội dung bản cáo trạng. Các bị cáo và luật sư bào chữa thống nhất quan điểm

truy tố tội “Cưỡng đoạt tài sản” nhưng không cho rằng các bị cáo phạm tội “Giữ

người trái phép” với lý lẽ là các bị cáo không có hành vi canh giữ, không cho bị hại

tự do rời căn hộ nhà Nguyễn Tiến V. Tại bản án số: 547/2023/HS-ST ngày 23/11/2023

của TAND Thành phố Hồ Chí Minh, HĐXX đã xử phạt các bị cáo nêu trên với 02

tội danh: Tội “Giữ người trái phép” và tội “Cướp tài sản”[138].

Vụ án thứ sáu: Vũ Thành Tr bị VKSND tỉnh Đồng Nai truy tố hai tội: Tội “Lạm

dụng tín dụng chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 175 BLHS và tội “sử

dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS

với lý do bị cáo đã có hành vi ký hợp đồng thuê xe ô tô hết thời hạn thuê nhưng không

97

trả xe lại cho chủ thuê, sau đó có ý định chiếm đoạt nên đem xe ô tô cầm cố cho người

tên Nguyễn Quang C để lấy số tiền 250 triệu đồng. Để thực hiện việc đó, Vũ Thành

Tr đã đặt làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô mang biển số xe bị cáo thuê và

giấy chứng minh nhân dân giả tên của chủ xe là Đặng Văn Q và thuê người giả làm

ông Q đến gặp ông C để thực hiện việc cầm cố xe ô tô chiếm đoạt 250 triệu đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, TAND tỉnh Đồng Nai trả hồ sơ đề nghị VKS điều tra bổ

sung về tội danh khác với tội danh VKS truy tố nhưng VKS đã phản hồi bằng Công

văn 691/VKS-P2 ngày 17/7/2023 giữ nguyên quan điểm truy tố tại Cáo trạng số

42/CT-VKS-P2 ngày 09/3/2023 của VKSND tỉnh Đồng Nai. Tại phiên toà sơ thẩm

bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của VKS, luật

sư bào chữa cho bị cáo thống nhất quan điểm truy tố tội danh đối với bị cáo và không

tranh luận gì thêm. Còn HĐXX của TAND tỉnh Đồng Nai áp dụng Điều 298 BLTTHS

đã xét xử và xử phạt bị cáo Vũ Thành Tr về hai tội: Tội “Lạm dụng tín dụng chiếm

đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 175 BLHS và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài

sản” theo khoản 3 Điều 174 BLHS với nhận định: hành vi lạm dụng tín dụng để bị

cáo chiếm đoạt tài sản của bị hại là có căn cứ; hành vi bị cáo làm giả giấy tờ, tài liệu

đã đủ cơ sở như VKS phân tích, nhưng việc thuê người giả ông Q (chủ xe) để đến

ông C cầm cố xe là hành vi lừa đảo ông C, đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản” do tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là tội nhẹ

nên bị hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”[139].

Qua thực tiễn xét xử các VAHS nêu trên, NCS có thể đưa ra một số nhận định

như sau:

Điều 298 BLTTHS năm 2015 đã vô hiệu hóa nguyên tắc tranh tụng (khoản 5

Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 26 BLTTHS năm 2015), bởi những lý do sau:

Thực hiện chức năng tố tụng cơ quan điều tra đã thu thập chứng cứ và kết luận điều

tra đề nghị VKS truy tố, VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp đã truy tố bị cáo bằng Quyết định truy tố (bản cáo trạng). Theo lẽ chung, VKS

truy tố gì thì bị cáo và người bào chữa “chỉ lo” tìm những tình tiết, chứng cứ để bào

chữa cho mình, đối chiếu nội dung Cáo trạng. Thực tế, từ khi khởi tố bị can đến khi

98

xét xử tại phiên toà sơ thẩm việc tranh tụng chỉ tập trung nội dung bản cáo trạng của

VKS - nó được xem là “trục chính” làm phát sinh các hoạt động: buộc tội - bào chữa

và xét xử. Tại phiên toà, trong vụ án thứ nhất chỉ có tranh tụng về tội “Lạm dụng tín

nhiệm chiếm đoạt tài sản” giữa bên buộc tội và bên bào chữa mà không có tranh tụng

về tội “Tham ô tài sản” vi phạm quy định “Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ

xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng

điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt,

mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý

nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản

án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và

kết quả tranh tụng tại phiên tòa” (Điều 26 BLTTHS năm 2015). Nhưng bản án của

Tòa lại kết án về tội “Tham ô tài sản”, điều này có nghĩa là HĐXX chỉ căn cứ vào ý

thức chủ quan của mình về tội danh để xét xử. Kết quả tranh tụng của các bên (về tội

“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”) hoàn toàn không có ý nghĩa gì với HĐXX

và bản án về tội “Tham ô tài sản” không căn cứ vào kết quả tranh tụng. Vị thế và

hoạt động thực hành quyền công tố - quyền hiến định của đại diện VKS (Điều 107

Hiến pháp 2013) bị hạ thấp. Lúc này quyết định truy tố của VKS không còn ý nghĩa.

VKS là người truy tố bị cáo ra Tòa, trong khi đó Tòa án tự mình quyết định đưa vụ

án ra xét xử về tội nặng hơn và chính Tòa án lại là người tuyên án theo tội nặng hơn

đó thì việc xét xử sẽ không bảo đảm tính khách quan. Bị cáo sẽ không có cơ sở để có

thể tin rằng phán quyết của người vừa buộc tội mình nặng hơn, vừa xét xử mình là

chân lý, là công minh. Tương tự, trong VAHS thứ hai, tại phiên tòa bên buộc tội – đại

diện VKS giữ quyền công tố truy tố bị cáo Huỳnh Tấn Đ về tội “Lạm dụng chức vụ,

quyền hạn chiếm đoạt tài sản” và bên bào chữa - luật sư, bị cáo chỉ tập trung tìm tình

tiết, chứng cứ để tranh luận, làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm và tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ mà không có tranh tụng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, nhưng

khi kết luận về hành vi thì Tòa án lại chủ quan đánh giá là hành vi lừa đảo và tuyên

án là tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà hoàn toàn không căn cứ vào kết quả tranh

tụng tại phiên tòa. Trong vụ án thứ ba, với kết quả điều tra, đánh giá chứng chứ, hành

vi phạm tội của các bị cáo VKS đã truy tố bị cáo Trần Đình T về tội “Mua bán trái

99

phép chất ma tuý” theo khoản 4 Điều 251 BLHS; bị cáo Đoàn Giai T về tội “Tàng

trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 4 Điều 249 BLHS và đề nghị xử phạt hai bị

cáo này mức tù chung thân. Tại phiên toà, bên bào chữa và bên buộc tội tập trung làm

sáng tỏ tình tiết vụ án và chứng minh tội danh có phù hợp với hành vi phạm tội. Quá

trình tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa đối với hành vi của bị cáo Đoàn

Giai T là hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, không tranh luận về hành vi mua bán

trái phép chất ma tuý nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Thẩm phán

được phân công chủ toạ HĐXX nhận thấy hành vi của bị cáo Giai T là hành vi mua

bán trái phép chất cấm nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung đề nghị VKS thay đổi tội

danh đối với bị cáo Giai T nhưng VKS giữ nguyên quan điểm truy tố. Ở đây, không

đề cập đến việc đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội của cơ quan nào đúng, chính

xác hơn nhưng một điều có thể thấy là quy định khoản 3 Điều 298 BLTTHS chưa

được thấu đáo, chưa tạo cơ sở để nguyên tắc tranh tụng trong TTHS được thực hiện

một cách thiết thực, để bản án Toà tuyên thật sự từ kết quả của quá trình tranh tụng

và kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại phiên toà. Đối với vụ án thứ tư, thì đánh giá pháp

lý về hành vi phạm tội của VKS và Tòa án có điểm tương đồng tuy nhiên việc xác

định tình tiết định khung của Tòa án đối với hành vi của bị cáo Dương Thanh T thì

nặng hơn so với VKS truy tố về cùng tội danh. Việc tranh tụng giữa VKS và bị cáo,

người bào chữa tập trung khoản 2 Điều 251 BLHS nhưng HĐXX nhận thấy tình tiết

thuộc cấu thành khoản 3 Điều 251 BLHS nên xét xử và xử phạt bị cáo khoản 3 Điều

251 BLHS. Kết luận này của Tòa án cũng không xuất phát từ kết quả tranh tụng, mà

cũng từ nhận thấy chủ quan của HĐXX, ít nhiều nó cũng ảnh hưởng đến quyền bào

chữa của bị cáo.

Vụ án thứ năm, VKS truy tố các bị cáo về tội “Giữ người trái phép” và tội

“Cưỡng đoạt tài sản”, tuy nhiên Tòa án lại nhận định khác nên quyết định xét xử và

xử phạt các bị cáo về tội tội “Giữ người trái phép” và tội “Cướp tài sản” vì HĐXX

cho rằng đã chuyển hoá tội phạm từ cưỡng đoạt tài sản sang cướp tài sản. Như trên

đã nêu, ở đây không đề cập đến việc đánh giá pháp lý đối với hành vi phạm tội nhưng

căn cứ chức năng, nhiệm vụ của VKS và Tòa án thì quy định GHXX sơ thẩm đã quá

đề cao nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án mà chưa xử lý hài hoà mối quan hệ với

100

các nguyên tắc cơ bản khác trong TTHS, trong đó có nguyên tắc tranh tụng. Như đã

biết, VKS ngoài thực hiện chức năng thực hành quyền công tố còn thực hiện chức

năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, nên thiết nghĩ VKS không phải chỉ dừng lại ở

việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và kết luận điều tra để quyết định truy tố hay không truy

tố, mà VKS còn thực hiện các hoạt động tố tụng theo thẩm quyền để làm rõ tình tiết

chứng minh tội phạm và người phạm tội - những hoạt động tố tụng mà chỉ có VKS

mới có thẩm quyền thực hiện để có thể ra quyết định truy tố bị cáo và hành vi phạm

tội của bị cáo. Trong vụ án này, VKS truy tố tội “Cưỡng đoạt tài sản”, Thẩm phán

phân công chủ toạ chỉ qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhận thấy hành vi của các bị cáo

là “hành vi dùng vũ lực uy hiếp tinh thần bị hại để chiếm đoạt tài sản” nên trả hồ sơ

yêu cầu VKS điều tra bổ sung và đề nghị truy tố theo tội “Cướp tài sản”, nhưng VKS

vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố ban đầu đối với các bị cáo là tội “Cưỡng đoạt tài

sản”, căn cứ khoản 3 Điều 298 BLTTHS Tòa án đã quyết định xét xử các bị cáo tội

nặng hơn, đó là tội “Cướp tài sản”. Tội “Cướp tài sản” là tội nặng hơn tội “Cưỡng

đoạt tài sản” vì mức hình phạt cao nhất của tội này là “tù chung thân”, trong khi đó

tội “cưỡng đoạt tài sản” mức hình phạt cao nhất là “tù 20 năm”. Vấn đề đặt ra ở đây

là tại phiên toà xét xử, bên buộc tội thì không buộc tội “Cướp tài sản” mà bên bào

chữa cũng không bào chữa tội này mà lại tập trung làm rõ quan điểm truy tố tội

“Cưỡng đoạt tài sản” của VKS. Bản án Tòa án lại kết tội các bị cáo về tội “Giữ

người trái phép” và tội “Cướp tài sản”, rõ ràng cơ sở để HĐXX tuyên các bị cáo về

tội “Cướp tài sản” không dựa trên kết quả tranh tụng; các chủ thể theo BLTTHS quy

định phải tham gia tranh tụng làm rõ các đối tượng cần chứng minh trong vụ án, có

vẻ “đứng ngoài lề” với nhận định của HĐXX - điều này mâu thuẫn với Điều 26

BLTTHS, chưa kể đến việc có bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong trường hợp

này. Vụ án thứ sáu, cũng tương tự như vụ án thứ năm, VKS truy tố bị cáo hai tội

“Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của

cơ quan, tổ chức” nhưng nhận định của Tòa án khác quan điểm truy tố của VKS về

hành vi làm giả giấy tờ và thuê người giả làm chủ tài sản để cầm cố tài sản chiếm tiền

bất hợp pháp là hành vi đủ căn cứ truy tố tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ

quan, tổ chức” tuy nhiên tội này nhẹ nên được hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài

101

sản” được xem là tội nặng hơn nên xét xử và xử phạt bị cáo tội “Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản”. Tương tự vậy, tại phiên toà bên buộc tội và bên bào chữa chỉ bào chữa và

buộc tội theo nội dung truy tố của VKS, đó là tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản” và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tội “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản” không được đại diện VKS tham gia tranh tụng thì cơ sở nào bên bào

chữa tập trung thực hiện việc bào chữa, không lẽ lúc đó, bị cáo và luật sư chuyển sang

bào chữa tội danh theo nhận định của HĐXX. Nếu điều này xảy ra thì rất không hợp

lý, bởi lẽ lúc này Tòa án không còn thực hiện CNXX mà thực hiện buộc tội. Như vậy,

nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTHS chỉ mang tính hình

thức, không có ý nghĩa đối với mục đích TTHS mà Nhà nước ta đặt ra. Thiết nghĩ,

bản chất của một nền tư pháp dân chủ, hiện đại phải thật sự thực hiện đúng và tốt

nguyên tắc này trong TTHS. Được biết vụ án này, bị cáo đã kháng cáo, VKSND tỉnh

Đồng Nai và VKSND cấp cao đã kháng nghị. Bản án số 285/2024/HS-PT ngày 23-

4-2024 của TAND cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định như sau: “ …

Tòa sơ thẩm cho rằng để chiếm đoạt được số tiền 250.000.000 đồng của anh Nguyễn

Quang C thì hành vi của bị cáo Tr đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng con dấu, tài liệu

giả của cơ quan tổ chức” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 và tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017). Đồng thời cho rằng hành vi này của bị cáo Tr thuộc trường hợp

người thực hiện hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn dấu hiệu cấu thành của nhiều tội

thì bị truy cứu trách nhiệm về tội nặng hơn nên tội “Sử dụng tài liệu, con dấu giả của

cơ quan, tổ chức” bị thu hút vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại

khoản 3 Điều 174 của BLHS là sai lầm trong áp dụng pháp luật và vi phạm giới hạn

của việc xét xử được quy định tại Điều 298 BLTTHS năm 2015. Đó là “Tòa án xét xử

những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và Toà án quyết định

đưa vụ án ra xét xử.” và “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà

VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội

mà VKS đã truy tố”. Theo đó Tòa án có thể xét xử về một tội khác nặng hơn tội danh

mà VKS truy tố, tuy nhiên phải cùng một hành vi đã được truy tố. Trong vụ án này,

VKS chỉ truy tố bị cáo Vũ Thành Tr đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả của cơ quan,

102

tổ chức. Do đó, nếu Tòa sơ thẩm cho rằng bỏ lọt hành vi chiếm đoạt tài sản khi có

dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà sau khi trả hồ sơ điều tra bổ sung,

VKS vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố thì Tòa án cũng chỉ có quyền kiến nghị theo

quy định mà không được quyền xét xử….” với nhận định này, HĐXX đã tuyên:

“…Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 193/2023/HS-ST ngày 01 tháng 12 năm 2023 của

TAND tỉnh Đồng Nai. Giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm

lại…”

Điều 298 BLTTHS năm 2015 vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của

bị cáo (Điều 103 Hiến pháp 2013 và Điều 16 BLTTHS năm 2015). Nếu chúng ta cho

rằng quyết định đưa vụ án ra xét xử đã thông báo rõ về việc Tòa án thấy “cần xét xử

bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố” là bảo đảm quyền bào

chữa của bị cáo thì mặc nhiên chúng ta đã thừa nhận Tòa án thực hiện chức năng buộc

tội. Trong các tình huống trên, bất kỳ người bào chữa nào cũng phải chuẩn bị bào

chữa vừa chống lại buộc tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trong vụ án

thứ nhất; tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” trong vụ án thứ hai,

tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” trong vụ án thứ ba; tội “Cưỡng đoạt tài sản”

trong vụ án thứ năm và tội “Sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” trong

vụ án thứ sáu của VKS vừa chống lại buộc tội “Tham ô tài sản”; “Lừa đảo chiếm

đoạt tài sản” trong vụ án thứ hai, tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” trong vụ án

thứ ba; tội “Cướp tài sản” trong vụ án thứ năm và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

trong vụ án thứ sáu của HĐXX. Khó khăn của bên bào chữa đã bị nhân đôi và tại

phiên tòa bên bào chữa không có cơ hội, điều kiện bào chữa về các tội mà HĐXX

nhận định và đưa ra xét xử (vì không được tranh luận với HĐXX về các tội danh này)

nhưng bị cáo vẫn bị Tòa án kết tội về các tội mà HĐXX đưa ra xét xử tương ứng

trong từng VAHS nêu trên. Bị kết án về tội mà mình không được bào chữa như vậy

quyền bào chữa của bị cáo có được bảo đảm hay không trong tình huống bất lợi này?

Điều 298 BLTTHS năm 2015 vi phạm nguyên tắc Suy đoán vô tội (Điều 31

Hiến pháp 2013 và Điều 13 BLTTHS năm 2015) theo đó bị cáo chỉ bị coi là có tội

khi tội của bị cáo (bao gồm hành vi và tội danh của hành vi) được chứng minh theo

tự thủ tục do BLTTHS quy định. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn chuẩn

103

bị xét xử là hết sức cần thiết, quan trọng để Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên

toà chủ động áp dụng quy định pháp luật TTHS liên quan làm rõ đối tượng chứng

minh trong vụ án và các biện pháp tư pháp phù hợp bảo đảm quá trình giải quyết

VAHS được đúng đắn, khách quan. Tuy nhiên, không có nghĩa là Thẩm phán quá tin

tưởng vào nhận thức của mình, có định kiến trước về hành vi và tội danh của hành vi

- việc đó chỉ mang “tính chất tham khảo”, tất cả những “hoài nghi” đều phải được

đánh giá, kiểm tra tại phiên toà cùng với những tình tiết khác của vụ án đã được đánh

giá tính khách quan, trung thực. Thực tế cho thấy, việc áp dụng nội dung nguyên tắc

suy đoán vô tội vào quá trình xét xử VAHS cụ thể còn mang tính hình thức, các cơ

quan THTT chưa “thoát khỏi” cảm tính chủ quan, còn nặng “niềm tin nội tâm” qua

việc nghiên cứu hồ sơ vụ án mà chưa thật sự áp dụng, khai thác tốt việc tranh tụng tại

phiên toà và đánh giá chứng cứ, tình tiết một cách khách quan qua tranh luận giữa

các bên buộc tội và bào chữa, để làm cơ sở khi ban hành bản án, quyết định kết luận

“số phận pháp lý” của bị cáo. Trong trường hợp thứ nhất, tội “Tham ô tài sản” mới

chỉ hiện diện trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án và tại phiên tòa đại

diện VKS chỉ chứng minh về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quyết

định truy tố của mình, tội “Tham ô tài sản” chưa được chứng minh nhưng bị cáo vẫn

bị kết án về tội này. Trong trường hợp thứ hai, tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà

Tòa án tuyên đối với bị cáo chưa được chứng minh theo thủ tục BLTTHS quy định,

tội đó chỉ được HĐXX thể hiện trong quyết định đưa ra xét xử và chỉ được thể hiện

qua quan điểm chủ quan của HĐXX. Tương tự như vậy, đối với tội “Mua bán trái

phép chất ma tuý” mà HĐXX tuyên đối với bị cáo Đoàn Giai T trong vụ án thứ ba,

tội “Cướp tài sản” đối với các bị cáo trong vụ án thứ năm, tội “Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản” trong vụ án thứ sáu mà HĐXX tuyên đối với bị cáo chỉ được thể hiện trong

Quyết định đưa ra xét xử mà không được làm rõ, chứng minh qua việc tranh tụng tại

phiên toà. Điều này đã vi phạm nội dung nguyên tắc “suy đoán vô tội”, HĐXX đã

chủ quan, định kiến bị cáo có hành vi và có tội mà hành vi và tội danh của hành vi đó

chưa được chứng minh; hơn thế nữa, tại phiên tòa tội mà HĐXX tuyên không phải là

kết quả của quá trình tranh tụng của chủ thể buộc tội và chủ thể bào chữa, như vậy

chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ án được thuyết phục, khách quan.

104

Điều 298 BLTTHS năm 2015 đã xung đột với chế định “không được làm xấu

tình trạng bị can, bị cáo, người bị kết án” - chế định đầy tính nhân văn trong pháp

luật TTHS của nước ta mà nội dung của nó được thể hiện trong nhiều điều luật. Thí

dụ như quy định VKS thực hành quyền công tố tại phiên tòa chỉ có quyền kết luận về

tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà mình đã truy tố mặc dù có thể xuất hiện căn cứ về

tội nặng hơn. Tại phiên tòa VKS có quyền bổ sung ý kiến khi công bố cáo trạng nhưng

không được “làm xấu đi tình trạng của bị cáo” (Điều 266 và Điều 306 BLTTHS năm

2015). Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc, sửa bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật được quy định theo nguyên tắc có lợi, “không làm xấu đi tình trạng

người bị kết án” (Điều 379 và Điều 393 BLTTHS năm 2015). Điều khó lý giải ở đây

là trong khi VKS - cơ quan có chức năng hiến định thực hành quyền công tố - không

có quyền thay đổi tội danh truy tố theo hướng làm xấu tình trạng bị cáo tại phiên tòa

nhưng Điều 298 BLTTHS năm 2015 lại cho phép Tòa án - cơ quan xét xử - được

quyền làm điều đó khi áp dụng tội danh nặng hơn. Điều khó lý giải thứ hai là Điều

298 BLTTHS năm 2015 cho phép Tòa án sơ thẩm có quyền làm xấu tình trạng bị cáo

theo chủ quan của mình, trong khi Tòa án phúc thẩm lại không có quyền đó. Theo

Điều 357 BLTTHS năm 2015, Tòa án phúc thẩm chỉ có quyền sửa bản án sơ thẩm

theo hướng tăng hình phạt, áp dụng điều, khoản BLHS về tội nặng hơn,... khi có

kháng cáo, kháng nghị yêu cầu. Không có điều kiện này thì Tòa án phúc thẩm không

được tự mình sửa bản án“làm xấu tình trạng bị cáo” ngay cả khi có căn cứ cho rằng

Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điều luật không đúng (quá nhẹ) đối với bị cáo. Tại

sao lại có sự khác biệt này? Thiết nghĩ, có phải chăng xuất phát từ quan điểm “quá

đề cao” nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án mà quy định như vậy. NCS cho rằng,

“độc lập xét xử” là điều kiện cần thiết và tất yếu để Tòa án (HĐXX) luôn là chủ thể

thực hiện quyền tư pháp, nhưng nó không phải là “đặc quyền” muốn xét xử gì cũng

được mà phải có “giới hạn” vì có giới hạn thì Tòa án mới luôn là Tòa án - thực hiện

đúng chức năng của Tòa án, không khéo sẽ “lấn sân, chồng chéo” thì những quy

định của Nhà nước về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan THTT không còn ý

nghĩa, giá trị trong hoạt động nhà nước nói chung và hoạt động TTHS nói riêng.

Trong TTHS Việt Nam, ngoài nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, còn nhiều

105

nguyên tắc TTHS cơ bản mà chúng ta cần tôn trọng và thực hiện đúng, như: nguyên

tắc tranh tụng, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa, không làm xấu hơn tình

trạng bị can, bị cáo, xác định sự thật vụ án,... có như vậy, hoạt động tố tụng mới thực

hiện được mục đích tố tụng, VAHS được giải quyết khách quan, toàn diện và tạo

được niềm tin cho nhân dân.

3.2.3. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định giới hạn xét

xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam và nguyên nhân

3.2.3.1. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng quy định giới hạn xét

xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

Thứ nhất, nội dung quy định GHXX sơ thẩm chưa thống nhất, bất cập và chưa

đồng nhất với các quy định khác liên quan trong BLTTHS hiện hành như với nội

dung các nguyên tắc cơ bản trong TTHS, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan THTT,

việc rút quyết định truy tố (trước và tại phiên toà), vấn đề trả hồ sơ điều tra bổ sung,…

Khi ban hành BLTTHS năm 2015, đã có ý kiến cho rằng quy định Điều 298

BLTTHS “được xem đã gỡ” một số bất cập trong quá trình giải quyết VAHS, “phù

hợp với Hiến pháp 2013 và tinh thần cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị

quyết của Bộ Chính trị, đồng thời cũng tháo gỡ không ít khó khăn trong thực tiễn xét

xử của Tòa án, bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của

Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm

tra công khai tại phiên tòa” [129]. NCS có quan điểm khác. Như đã phân tích ở trên

(mục 3.2.2), NCS cho rằng Điều 298 BLTTHS năm 2015 là điều luật vi hiến vì đã vi

phạm các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử của Hiến pháp năm 2013. Thực

chất GHXX sơ thẩm trong Điều 298 BLTTHS năm 2015 không khác gì GHXX sơ

thẩm trong Thông tư 16-TATC ngày 27-9-1974. Đánh giá tổng thể chúng ta thấy

rằng: mô hình quy định GHXX sơ thẩm trong pháp luật TTHS nước ta đã có nhiều

thay đổi ở các thời kỳ khác nhau và sau hơn 40 năm nó đã trở lại xuất phát điểm ban

đầu, không theo kịp xu thế phát triển của thời đại và nhất là trong bối cảnh Hiến pháp

năm 2013 đã có nhiều nguyên tắc tiến bộ về xét xử. Quy định GHXX sơ thẩm trong

pháp luật TTHS nước ta vận động theo hướng ngày càng giải phóng Tòa án thoát

106

khỏi ràng buộc về nội dung truy tố của VKS và quyền bào chữa của bị cáo ngày càng

không được bảo đảm.

Mặt khác, qua nghiên cứu các vấn đề lý luận về GHXX sơ thẩm, NCS nhận thấy

về mặt kỹ thuật lập pháp chưa thống nhất, nên khi quy định mở rộng quyền cho Tòa

án thực hiện chức năng theo hướng “đề cao tuyệt đối nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật” như nội dung khoản 2, 3 Điều 298 BLTTHS đã phát sinh một

số vướng mắc. Chẳng hạn, khi TAND cấp huyện được phép xét xử bị cáo theo khoản

nặng hơn khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc theo tội danh nặng

hơn tội danh mà VKS đã truy tố, hai trường hợp này thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng thì dẫn đến vượt thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện. Những vướng mắc

đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giải quyết VAHS, cụ thể:

- Khoản 2 Điều 298 BLTTHS quy định: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản

khác với khoản mà Viện Kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội

khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện Kiểm sát đã truy tố”.

Trường hợp “Tòa án có thể xét xử bị cáo và hành vi của bị cáo theo khoản khác

với khoản mà Viện Kiểm sát truy tố trong cùng một điều luật”, có nghĩa là với những

hành vi mà VKS truy tố, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc nhẹ

hơn so với khoản mà VKS đã truy tố trong cùng một điều luật. Vấn đề đặt ra là khi

xét xử TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực thấy có đủ căn cứ để xác định hành

vi của bị cáo phạm tội theo khoản có khung hình phạt nặng hơn và thuộc thẩm quyền

xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp (TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu)

thì HĐXX ra quyết định trả hồ sơ vụ án cho VKS đã truy tố để chuyển đến VKS có

thẩm quyền truy tố (Điều 274 BLTTHS). Nhưng nếu VKS đã truy tố cho rằng vụ án

vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ và chuyển lại hồ sơ vụ án đến

Tòa án thì trong trường hợp này vụ án sẽ do Tòa án cấp nào có thẩm quyền giải quyết

khi quy định tại Điều 275 BLTTHS chỉ có quy định về thẩm quyền giải quyết tranh

chấp giữa các TAND cùng cấp (Tòa án quân sự cùng cấp) mà không có quy định về

giải quyết tranh chấp giữa TAND cấp trên (Tòa án quân sự cấp trên) và TAND cấp

dưới (Tòa án quân sự cấp dưới).

107

Thí dụ: VKSND huyện X, tỉnh Y. truy tố bị can A. về tội “Lừa đảo chiếm đoạt

tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS và chuyển hồ sơ vụ án đến

TAND huyện X., tỉnh Y. để xét xử theo thẩm quyền. Trong quá trình xét xử sơ thẩm

TAND huyện X thấy có căn cứ để xét xử bị cáo A. theo điểm a khoản 4 Điều 274

BLHS nên TAND huyện X. đã căn cứ Điều 274 BLTTHS để trả hồ sơ cho VKSND

huyện X. để chuyển lên VKS cấp trên truy tố theo thẩm quyền, tuy nhiên VKSND

huyện X cho rằng việc truy tố bị cáo A. theo điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS là đúng

quy định nên không chuyển hồ sơ lên VKSND tỉnh Y. Trong khi quy định tại Điều

275 BLTTHS lại không quy định về giải quyết tranh chấp trong trường hợp trên và

chưa có văn bản nào của cơ quan chuyên môn hướng dẫn về vấn đề này, dẫn đến Tòa

án có thẩm quyền không xét xử bị cáo A. theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS được.

- Khoản 3 Điều 298 BLTTHS quy định: “Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo

về tội danh nặng hơn tội danh Viện Kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện

Kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo,

người bào chữa biết; nếu Viện Kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có

quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó”.

Quy định trên chỉ phù hợp trong trường hợp Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án là TAND

cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu. Vì, theo quy định tại khoản 2 Điều 268

BLTTHS thì TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu có thẩm quyền xét xử

những vụ án về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiệm trọng và tội đặc

biệt nghiêm trọng. Trường hợp VKS truy tố bị can về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm

trọng, tội rất nghiêm trọng nhưng Tòa án cho rằng bị can phạm tội đặc biệt nghiêm

trọng nên đã trả hồ sơ để VKS truy tố lại. Tòa án đã thực hiện đúng quy định tại khoản

3 Điều 298 BLTTHS, nếu VKS vẫn giữ tội danh đã truy tố thì TAND cấp tỉnh, Tòa án

quân sự cấp Quân khu có quyền xét xử bị cáo về tội danh đặc biệt nghiêm trọng đó.

Trong trường hợp này, TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp Quân khu chỉ cần

thi hành đúng các quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp,

về thành phần HĐXX sơ thẩm, về bảo đảm quyền bào chữa,... Tuy nhiên, trường hợp

Tòa án đã thụ lý hồ sơ vụ án là TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực thì không

thể xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh mà VKS đã truy tố, nếu tội danh mà

108

Tòa án định xét xử là tội đặc biệt nghiêm trọng. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 1

Điều 268 BLTTHS, thì TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực chỉ có thẩm quyền

xét xử những VAHS về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

Trường hợp này TAND cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực tiến hành ra quyết định

trả hồ sơ cho VKS đã truy tố để chuyển VKS có thẩm quyền truy tố về tội danh nặng

hơn theo quy định tại khoản 1 Điều 274 BLTTHS.

Nếu VKS đã truy tố không đồng ý thay đổi tội danh, vẫn giữ nguyên quyết định

truy tố và không ban hành quyết định chuyển vụ án lên VKS cấp trên có thẩm quyền

mà trả lại hồ sơ cho TAND cấp huyện (Tòa án quân sự khu vực) thì TAND cấp huyện

(Tòa án quân sự khu vực) sẽ làm như thế nào trong khi Điều 275 BLTTHS chỉ quy

định giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các TAND cấp huyện trong

cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các Tòa án quân sự khu vực

trong cùng một Quân khu; giữa các TAND cấp huyện thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương khác nhau, giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các Quân khu khác

nhau; giữa các TAND cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự Quân khu; giữa TAND và

Tòa án quân sự mà không quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền

xét xử khi VKS cấp huyện không đồng ý thay đổi tội danh nặng hơn và không chuyển

vụ án lên VKS cấp trên để truy tố theo thẩm quyền.

Có thể thấy rõ vướng mắc trên qua vụ án cụ thể sau: Khoảng 08 giờ ngày

02/5/2018, Nguyễn Văn A. mang hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của

công ty đến phòng Lê Thanh B để trình ký nhưng B chưa ký ngay mà nói để kiểm

tra. Nghĩ rằng B gây khó khăn cho mình, A đi đến bếp ăn của công ty lấy 01 con dao

(loại dao chặt xương) bỏ vào trong cặp rồi quay lại phòng làm việc của B Lúc này B

đang ngồi ở bàn làm việc, A đến đứng sau lưng phía bên trái cách B khoảng 90cm,

thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình chưa được ký duyệt, A

lấy dao từ trong cặp ra, tay phải A cầm dao vung lên chém 01 nhát từ trên xuống dưới

vào phía sau đầu B, B ôm đầu đứng dậy, A tiếp tục chém nhát thứ 02 vào vùng sau

cổ của B khiến B gục tại chỗ, thấy vậy A. đi về phòng làm việc. Giám định pháp y

kết luận tỷ lệ thương tích của B. là 46%. VKSND huyện X, tỉnh Y truy tố A tội “Cố

ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS, sau đó chuyển hồ

109

sơ vụ án cho TAND huyện X tỉnh Y để xét xử theo thẩm quyền. Trong quá trình

nghiên cứu hồ sơ vụ án thẩm phán xét thấy hành vi của A có dấu hiệu của tội “Giết

người” (chưa đạt) nên đã trả hồ sơ cho VKSND huyện X để chuyển hồ sơ lên VKSND

tỉnh Y để truy tố theo thẩm quyền (theo Điều 274 BLTTHS), nhưng VKSND huyện

X cho rằng việc truy tố A theo điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS là đúng quy định và

không chuyển hồ sơ lên VKS cấp trên mà chuyển lại hồ sơ cho TAND huyện X để

xét xử theo thẩm quyền [76].

Một vướng mắc nữa từ quy định Điều 298 BLTTHS có thể nhìn thấy qua vụ án

sau: Nguyễn Minh T bị VKSND tỉnh Kiên Giang truy tố về tội “Vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a,b khoản 2 Điều 260 BLHS và tội “Sử

dụng con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS

vì Nguyễn Minh T có hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả điều khiển xe ô tô trong

trạng thái có rượu bia đụng vào hai người thanh niên điều khiển xe cùng chiều làm

cho anh Đậu Văn D tử vong tại chỗ do chấn thương sọ não và anh Cao Xuân N bị

thương tích 18%. Tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo thống

nhất quan điểm truy tố về tội danh của VKSND tỉnh Kiên Giang; đại diện hợp pháp

của bị hại Đậu Văn D và Luật sư - người bảo vệ và lợi ích hợp pháp của bị hại không

đồng ý quan điểm truy tố về tội danh của VKS, phản đối Cáo trạng và luận tội của

đại diện VKS, bởi lẽ cho rằng quá trình điều tra còn nhiều tình tiết chưa được làm rõ,

chưa xác định động cơ, mục đích thực hiện hành vi của bị cáo, qua xác minh được

biết bị cáo và bị hại cùng một số người chứng kiến có mâu thuẫn, xung đột và bị cáo

bị nhóm của người đó đánh trước nên rất căm tức và thù. Vì thế, quan điểm của đại

diện hợp pháp bị hại (Ông Đậu Văn D) và luật sư (người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đại diện bị hại) cho rằng hành vi của bị cáo là hành vi giết người, có chủ ý

chứ không phải vô ý, điều khiển xe thiếu quan sát làm người tử vong như nhận định

của VKS thể hiện trong Cáo trạng số 46/CT-VKSTKG-P2 ngày 16/6/2022, nên đề

nghị HĐXX áp dụng Điều 298 BLTTHS xét xử và xử phạt bị cáo tội “Giết người”.

HĐXX cho biết: quá trình giải quyết vụ án, ngày 13/4/2022, HĐXX đã ra Quyết định

số 32/2022/HSST-QĐ trả hồ sơ cho VKS đề nghị điều tra bổ sung làm rõ bị cáo có

hay không có hành vi giết người? nhưng qua quá trình điều tra bổ sung, VKS vẫn giữ

110

nguyên quan điểm truy tố về tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ”. HĐXX nhận định sau: tội “Giết người” là tội đặc biệt nghiêm trọng với mức

hình phạt cao nhất theo quy định của BLHS đối với tội này là chung thân, tử hình;

theo quy định tại Điều 254 BLTTHS thì HĐXX phải gồm hai thẩm phán và ba hội

thẩm cho nên theo quy định việc giới hạn của xét xử tại Điều 298 BLTTHS nên

HĐXX xét xử theo tội danh mà VKS đã truy tố, không chấp nhận đề nghị của luật sư

- người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đại diện bị hại [135].

Qua vụ án trên, chúng ta có thể thấy sự bất cập từ quy định pháp luật TTHS liên

quan đến việc áp dụng quy định GHXX sơ thẩm. Nội dung GHXX sơ thẩm quy định

cho phép Tòa án có quyền xét xử tội danh nặng hơn tội danh mà VKS truy tố trong

trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội nặng hơn đó, sau khi thực hiện các thủ

tục theo quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS, nhưng thực tế xét xử có Tòa án

nhận thấy “không ổn” khi thực hiện quyền đó, bởi lẽ liên quan đến quyền bào chữa

của bị cáo và các thủ tục tố tụng khác liên quan đến việc thực hiện quyền đó, nên họ

chọn cách xử lý theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan mà thi hành. Nội dung quy

định khoản 3 Điều 298BLTTHS vô hình trung làm kéo dài thêm thời gian giải quyết

vụ án mà không hiệu quả, minh chứng nhiều VAHS khi HĐXX áp dụng khoản 3

Điều 298 BLTTHS để “đủ thủ tục” xét xử bị cáo tội danh nặng hơn tội danh mà VKS

truy tố trong Cáo trạng thì đa phần VKS phản hồi “giữ nguyên quan điểm truy tố

trong Cáo trạng…”. Pháp luật TTHS quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan

THTT trong quá trình giải quyết VAHS tương đối đầy đủ, cụ thể; vì mục đích chung

của TTHS mà từng cơ quan THTT phải “tự nâng mình lên” về chuyên môn, kỹ thuật

nghiệp vụ và cả trách nhiệm giải trình trước cơ quan có thẩm quyền. Quy định GHXX

sơ thẩm trong BLTTHS như hiện nay đã làm cho các cơ quan THTT chưa phát huy

hết trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ và xuất hiện tình trạng “bất tác chiến” giữa

VKS và Tòa án do nội dung quy định không nhất quán, chồng chéo nên công tác phối

hợp giữa các cơ quan THTT còn gặp khó khăn.

Liên quan đến GHXX sơ thẩm, BLTTHS còn quy định việc rút quyết định truy

tố của VKS. Trong thực tế, việc VKS rút Quyết định truy tố có thể xảy ra trước khi

Tòa án xét xử, hoặc tại phiên tòa sau khi xét hỏi và tranh luận KSV thực hành quyền

111

công tố có thể rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố. Như vậy trường hợp

trước khi mở phiên tòa nếu VKS rút Quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ

vụ án thì Tòa án ra Quyết định đình chỉ vụ án (Điều 285 BLTTHS năm 2015), đây là

vấn đề phù hợp cả lý luận và thực tiễn. Nhưng việc rút quyết định truy tố tại phiên

tòa, hiện nay vẫn còn những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành:

Một là, quy định Điều 325 BLTTHS về xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc

kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa. KSV rút một phần quyết định truy tố hoặc kết

luận về tội danh nhẹ hơn thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án và ra bản án theo thủ

tục chung là hoàn toàn phù hợp bởi GHXX sơ thẩm VAHS trong trường hợp này vẫn

là phạm vi những bị cáo và những hành vi của bị cáo đã bị VKS truy tố và Tòa án đã

quyết định đưa vụ án ra xét xử. Cần lưu ý: Trong một bản cáo trạng có thể có một

hoặc nhiều quyết định truy tố và có một hoặc nhiều bị can, nên việc rút một phần nội

dung bản cáo trạng có thể là rút một phần quyết định truy tố và bản cáo trạng vẫn còn

một quyết định truy tố khác.

Hai là, tại phiên tòa KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án

HĐXX yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút quyết định

truy tố đó. Khi nghị án HĐXX xét thấy việc rút toàn bộ Quyết định truy tố là đúng

thì HĐXX ra bản án tuyên bố bị cáo không phạm tội, nếu thấy rằng bị cáo vẫn có tội

và việc rút quyết định truy tố của KSV tại phiên tòa không có co sở thì HĐXX ra

quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên VKS cấp trên trực tiếp (Khoản 4 Điều

326 BLTTHS 2015). Thực tế Tòa án và VKS cùng cấp vẫn thực hiện theo hướng dẫn

tại Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 08/12/1988. Trong trường hợp Tòa án kiến

nghị nếu VKS cấp trên cùng cấp thống nhất với ý kiến của VKS cấp dưới thì VKS ra

Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và thông báo cho Tòa án đã đình chỉ vụ án đó

biết. Trong trường hợp, nếu VKS cấp trên nhất trí với kiến nghị của Tòa án thì ra

quyết định hủy việc rút quyết định truy tố của VKS cấp dưới và chuyển hồ sơ vụ án

cho Tòa án đã tạm đình chỉ vụ án, Tòa án thụ lý lại vụ án và xét xử lại vụ án trong

thời hạn 30 ngày kể từ ngày thụ lý lại vụ án.

Đây là vấn đề còn có sự mâu thuẫn chưa hợp lý vì đối với cùng một vấn đề là

rút quyết định truy tố pháp luật lại qui định hai thủ tục khác nhau. Đó là, khi KSV rút

112

một phần quyết định truy tố thì HĐXX vẫn tiếp tục xét xử vụ án và tuyên án theo kết

quả đánh giá vụ án của chính mình. Còn ngược lại khi KSV rút toàn bộ quyết định

truy tố thì HĐXX chỉ được tuyên án nếu thấy bị cáo không phạm tội, ngược lại nếu

kết quả xét xử cho thấy bị cáo có tội lại không được tuyên bố bị cáo có tội ngay mà

phải ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và phải chờ xin ý kiến chỉ đạo của VKS cấp

trên. Theo quy định BLTTHS vô hình trung VKS cấp trên lại là “người” có thẩm

quyền quyết định quá trình giải quyết VAHS, điều này không đúng chức năng, nhiệm

vụ mà Hiến pháp, BLTTHS quy định cho các cơ quan THTT. Như vậy, việc rút một

phần tại phiên tòa xét xử sơ thẩm không làm thay đổi GHXX (gồm phạm vi xem xét

và phạm vi ra quyết định về vụ án), HĐXX vẫn có quyền xét xử toàn bộ những bị cáo

và hành vi đã bị VKS truy tố trong cáo trạng và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.

Còn trường hợp rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên tòa cũng không làm thay đổi

phạm vi xem xét của HĐXX, nhưng phạm vi ra quyết định của HĐXX bị hạn chế.

Theo NCS, nếu dựa theo chức năng, nhiệm vụ của VKS và Tòa án trong TTHS nói

chung và trong quá trình giải quyết VAHS nói riêng thì nội dung nêu trên chưa phù

hợp. Bởi lẽ, việc xét xử của Tòa án các cấp phát sinh trên cơ sở quyết định truy tố

(bản cáo trạng) của VKS. Hiến pháp và BLTTHS đã xác định VKS là cơ quan thực

hành quyền công tố, Tòa án là cơ quan tư pháp thực hiện CNXX. Vậy sao khi VKS

thực hành quyền công tố nhận thấy không có cơ sở để tiếp tục buộc tội bị cáo nữa

(không cần biết ở thời điểm nào của giai đoạn xét xử sơ thẩm) đã tuyên bố rút quyết

định truy tố, tức là lúc này cơ quan chức năng đã “từ bỏ” quyền buộc tội của mình,

thì Tòa án không còn cơ sở để xét xử. Và đương nhiên lúc đó chức năng bào chữa

(gỡ tội) cũng không còn. Ở đây, không thể nói là Tòa án đang thực hiện nguyên tắc

độc lập xét xử, nên tại phiên tòa có quyền chấp thuận hoặc không chấp thuận việc rút

quyết định truy tố của KSV thực hiện quyền công tố, luận giải như vậy rõ ràng có sự

nhầm lẫn, chồng chéo việc thực hiện chức năng giữa cơ quan xét xử với cơ quan thực

hành quyền công tố. NCS cho rằng nguyên tắc độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo

pháp luật của HĐXX là điều kiện cần thiết, gắn liền với CNXX của Tòa án nhưng

không phải là đặc quyền không có giới hạn của Tòa án (HĐXX). Do đó, thiết nghĩ

cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện quy định vần đề nêu trên để bảo đảm các

113

cơ quan THTT thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, đồng thời bảo đảm quy định

GHXX sơ thẩm được thực hiện đúng trong thực tiễn xét xử.

Thứ hai, tình trạng giải quyết, kết án hình sự còn oan, sai nhiều; một số trường

hợp thu thập, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội

chưa đúng, vội kết luận tuyên án dẫn đến bản án, quyết định bị hủy hoặc sửa để lại

nhiều hệ lụy cho bản thân người bị kết án oan, gia đình họ thì bị xã hội xa lánh, ít

nhiều làm giảm niềm tin của người dân vào nền tư pháp nước ta. Về nội dung này, có

thể đề cập một số vụ án oan sai điển hình mà người bị kết án oan và gia đình họ phải

gánh chịu những tổn thương lớn về mặt tinh thần và thể chất, cụ thể như Vụ án thứ

nhất: Vụ án Trần Văn Thêm - Người đã mang thân phận“tử tù” hơn suốt 40 năm qua,

tại hai cấp tòa sơ thẩm và phúc thẩm (TAND tỉnh Vĩnh Phú và TANDTC tại Hà Nội),

ông Thêm đều kêu oan nhưng tiếng kêu của ông đều không được chấp nhận. Ông bị

kết án tử hình về hai tội giết người, cướp tài sản. Sau gần 06 năm ngồi tù, chưa một

cơ quan nào xét xử và kết luận lại rằng ông Thêm vô tội. Sau 46 năm, với bao công

sức và tiền của, cuối cùng vào chiều 09/8/2016, TANDTC đã có cuộc họp liên ngành

và công bố kết luận chính thức về vụ án của ông Trần Văn Thêm (trú tại xã Yên Phụ,

huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) kéo dài 46 năm là oan sai. Vụ án thứ hai: Vụ án

Nguyễn Thanh Chấn ngồi tù 10 năm oan ở Bắc Giang. Qua hai lần xét xử sơ thẩm và

phúc thẩm, TANDTC đã tuyên ông Chấn phạm tội “giết người” có tính chất côn đồ

với mức án xử phạt là chung thân. Trong suốt 10 năm ở tù, vợ ông Nguyễn Thanh

Chấn là bà Nguyễn Thị Chiến liên tục gửi đơn kêu oan tới các cơ quan có thẩm quyền.

Ngày 09/7/2013, Phòng 1 cơ quan điều tra VKSNDTC tiếp nhận đơn kêu oan. Ngày

02/11/2013, ông Nguyễn Thanh Chấn được Viện trưởng VKSNDTC ra quyết định

trả tự do sau hơn 10 năm bị tù oan vì ngày 25/10/2013, Lý Nguyễn Chung đã ra đầu

thú thừa nhận hành vi giết người. Vụ án thứ ba: Vụ án Hàn Đức Long ở tỉnh Bắc

Giang, HĐXX không chấp nhận lời kêu oan của bị cáo và đã tuyên bị cáo Hàn Đức

Long phạm tội hiếp dâm, giết người với mức án tử hình. Nhờ gia đình và luật sư bào

chữa liên tục kêu oan, nên các bản án đã nhiều lần bị hủy bỏ để yêu cầu điều tra lại.

Đến ngày 20/12/2016, VKSND tỉnh Bắc Giang đã ra quyết định đình chỉ điều tra và

trả tự do cho ông Hàn Đức Long [162]

114

Thứ ba, tinh thần trách nhiệm của một số người THTT chưa cao, chưa vì “bảo

vệ công lý, bảo vệ quyền con người” để giải quyết VAHS; bản lĩnh chính trị không

vững vàng dễ bị “cám dỗ” bởi vật chất, lợi ích địa vị mà vi phạm pháp luật; một số

công chức Tòa án chưa chấp hành nghiêm kỷ luật công vụ, chưa rèn luyện nâng cao

phẩm chất chính trị, đạo đức dẫn đến bị xử lý theo quy định của Đảng và quy định

của pháp luật, làm giảm uy tín ngành tư pháp nói chung và ngành Tòa án, kiểm sát

nói riêng. Tại phiên họp thứ 21 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chánh án TANDTC

thông tin: từ năm 2021 đến nay, có 106 trường hợp bị xử lý kỷ luật, trong đó có 07

trường hợp tham nhũng, tiêu cực. Cụ thể, năm 2021 có 43 trường hợp bị xử lý kỷ

luật, trong đó 03 trường hợp tham nhũng, tiêu cực. Năm 2022, có 35 trường hợp bị

xử lý kỷ luật, trong đó 04 trường hợp tham nhũng, tiêu cực. Từ tháng 10 năm 2022

đến tháng 3 năm 2023, có 28 trường hợp bị xử lý kỷ luật, trong đó 02 trường hợp vi

phạm pháp luật [161]. Thiết nghĩ, hoạt động xét xử là hoạt động tố tụng nhân danh

Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quyết định “số phận pháp lý” của người bị buộc

tội, vì thế đòi hỏi người thực thi hoạt động này phải là người liêm chính, hiểu sâu sắc

những giá trị về quyền con người, vì con người vì công lý mà công tâm, khách quan

và đầy trách nhiệm khi ra phán quyết, rất khó để chấp nhận khi người “cần câm nảy

mực” lại tội phạm.

3.2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc

Thứ nhất, nhận thức và tư duy pháp luật chưa nhất quán về nội dung lẫn kỹ thuật

lập pháp về quy định GHXX sơ thẩm dẫn đến việc áp dụng pháp luật giải quyết VAHS

cụ thể còn khó khăn, vướng mắc nên chất lượng xét xử chưa cao, minh chứng là tỷ lệ

án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm còn cao, đặc biệt số vụ

án kháng nghị được HĐXX phúc thẩm chấp nhận cao (nếu năm 2015: 637/1.091 vụ,

chiếm 58% thì năm 2023: 636/788 vụ, chiếm 80,7%) (xem thêm Phụ lục 1).

Thứ hai, quy định pháp luật TTHS chưa thống nhất, đồng bộ, nhiều nội dung

trong BLTTHS chưa được hướng dẫn, cụ thể hoá để thực hiện như: các nguyên tắc

tiến bộ mới được ghi nhận trong BLTTHS như nguyên tắc tranh tụng, suy đoán vô

tội,...; quy định GHXX sơ thẩm (trường hợp xét xử tội nặng hơn tội danh VKS truy

tố mà vượt thẩm quyền của Tòa án đang thụ lý thì thủ tục tố tụng tiến hành trong các

115

trường hợp đó như thế nào); có nhiều quy định về nhiệm vụ tố tụng của các cơ quan

THTT không thuộc chức năng hiến định của cơ quan đó, dẫn đến thực tế thực thi

nhiệm vụ bị chồng chéo, đùn đẩy nhiệm vụ, khó khăn trong việc phối hợp.

Thứ ba, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ, công chức tư

pháp còn hạn chế; bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, chưa thật sự là “người cầm cân

nảy mực” phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân nên tinh thần trách nhiệm, ý thức

nghề nghiệp chưa cao cùng với sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, đơn vị chưa được

thường xuyên, tính kỷ cương kỷ luật trong hoạt động tư pháp chưa được quan tâm

đúng mức, nên vẫn còn tình trạng xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội;

công chức tư pháp bị xử lý kỷ luật do có hành vi vi phạm pháp luật (nội dung này

mục 3.2.3.1 đã minh chứng).

Thứ tư, trong quá trình giải quyết VAHS một số cơ quan TTHS chưa thực hiện

tốt công tác phối hợp, chưa thật sự lấy mục đích giải quyết VAHS “đúng người, đúng

tội, đúng luật”, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,... để làm hết trách nhiệm của

mình theo quy định của pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng. Thực tế cho thấy

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, khi quan điểm của Thẩm phán được phân

công chủ toạ phiên toà chủ trì nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa thống nhất nhận định của

VKS về truy tố tội danh hoặc khung hình phạt truy tố tội danh thì khi trao đổi, Tòa

án đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung thì đa phần kết quả phản hồi lại là “giữ nguyên

tội danh truy tố”. Có thể khách quan hoặc chủ quan của cơ quan điều tra, VKS mà

kết quả theo đề nghị của Tòa án về điều tra bổ sung không có thêm thông tin mới,

nên hệ quả là “việc ai nấy làm” theo quy định của pháp luật liên quan, làm cho bản

chất vụ án không được đạt đến “chân lý” của nó.

116

Tiểu kết chương 3

Sự hình thành, phát triển của quy định giới hạn xét xử sơ thẩm gắn liền với sự

phát triển pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Giới hạn xét xử sơ thẩm xác định phạm

vi xét xử và điều kiện thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa và là “nơi thể hiện” xử

lý hài hoà các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự. Đồng thời, là cơ sở để các cơ

quan tiến hành tố tụng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình;

căn cứ pháp lý giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án hình sự được

khách quan, toàn diện, bảo vệ quyền con người; góp phần duy trì sự ổn định trật tự

an toàn xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và đáp ứng yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, việc nghiên

cứu nội dung giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự luôn được quan tâm nghiên

cứu hoàn thiện về mặt lập pháp và thực tiễn thi hành.

Tuy nhiên, thực trạng luật pháp chưa thống nhất về mặt nhận thức dẫn đến qua

nhiều lần sửa đổi, bổ sung mà thực tiễn thi hành vẫn còn vướng mắc, bất cập. Nội

dung chương này đã phân tích, so sánh quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm trước khi

có Bộ luật tố tụng hình sự và nội dung quy định trong từng Bộ luật tố tụng hình sự

năm 1988, năm 2003 và năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021); phân tích thực tiễn

áp dụng quy định qua một số vụ án hình sự cụ thể và xác định nguyên nhân chính yếu

dẫn đến vướng mắc phát sinh. Từ đó, làm cơ sở đặt ra yêu cầu và hoàn thiện pháp

luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm một cách có hệ thống, đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay.

117

Chương 4

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG

QUY ĐỊNH GIỚI HẠN XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG

TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

4.1. Yêu cầu hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét

xử trong tố tụng hình sự Việt Nam

4.1.1. Yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam

Cải cách tư pháp là vấn đề lớn và rất quan trọng trong đời sống chính trị - xã

hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, cải cách tư pháp luôn được Đảng

và Nhà nước ta rất quan tâm, đã có nhiều Nghị quyết đại hội và Nghị quyết hội nghị

của Đảng về cải cách tư pháp, như: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, XI,XII, XIII;

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng pháp luật đến năm 2010 và định

hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-

2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII về “việc

tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai

đoạn mới” trong đó đã đưa ra yêu cầu của một nền tư pháp dân chủ, hiện đại. Một

trong những nội dung quan trọng của các Nghị quyết đều xác định: phòng ngừa và

đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm cũng như bảo đảm quyền con người,

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện chúng ta đang tiến hành xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, hoàn thiện

hệ thống pháp luật tố tụng là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên, để thực hiện nhiệm vụ

này cần phải được tiến hành bằng nhiều giải pháp, biện pháp khoa học và đồng bộ,

trong đó việc nâng cao hiệu quả thực hiện hoạt động xét xử là một biện pháp quan

trọng không thể thiếu, bởi lẽ tiến trình cải cách tư pháp xác định “…Tòa án có vị trí

trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm” [11]. Muốn vậy thì việc thường xuyên

hoàn thiện pháp luật TTHS liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án là một yêu cầu

tất yếu, khách quan.

118

Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta,

nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư

pháp, nâng cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời

kỳ hội nhập quốc tế; bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người trong hoạt động

tư pháp mà trong đó quyền tư pháp tập trung nhất ở hoạt động xét xử của Tòa án thể

hiện nền công lý công bằng và bình đẳng của các chủ thể trước pháp luật. Đây là sự

đòi hỏi khách quan để thích ứng với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, đổi mới về

hệ thống chính trị, đổi mới về bộ máy Nhà nước, nhằm từng bước xây dựng và hoàn

thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh”. Công cuộc cải cách tư pháp đang tiến hành theo tinh thần

của các Nghị quyết cùa Bộ Chính trị liên quan đến Chiến lược cải cách tư pháp ở

nước ta và gần đây Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII “về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới” cũng đã tiếp tục đề cập

đến vấn đề này. Để thực hiện tốt yêu cầu cải cách tư pháp, Đảng ta đã chỉ rõ: “... khi

xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,

thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên

tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên,

người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền,

lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục

và trong thời hạn pháp luật quy định” [9]. Cùng với đó, trong nhiều nghị quyết của

Quốc hội cũng đã đặt ra yêu cầu “Kiểm sát viên phải chủ động, tích cực tranh luận,

đối đáp tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự…TANDTC chỉ đạo các Tòa án tiếp tục

đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa…” [115];“…Nâng cao chất lượng tranh tụng

của kiểm sát viên tại phiên tòa, chủ động tham gia xét hỏi, luận tội có căn cứ thuyết

phục, đối đáp đầy đủ ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng

khác” [116].

Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân phải

được coi là công cụ để thực hiện có hiệu quả trước hết và trên hết là các quyền, các

119

lợi ích của người dân. Mục đích của Nhà nước pháp quyền là phục vụ các nhu cầu

của xã hội và của cá nhân. Nhưng pháp luật TTHS hiện hành và thực tiễn thực hiện

các mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền THTT với những người tham gia

tố tụng còn đang đề cao vị trí, vai trò, uy tín và lợi ích của Nhà nước và của bộ máy

nhà nước mà chưa thực sự quan tâm và tạo điều kiện để các quyền, lợi ích của cá

nhân, tổ chức được thực hiện một cách tốt nhất [22]. Do đó, trong quá trình đổi mới,

cải cách tư pháp cần xác định mục tiêu là đề cao quyền con người, quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và lợi ích chung của xã hội.

Có như vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân

dân mới thực chất chứ không phải chỉ là những câu khẩu hiệu suôn, những tuyên bố

đơn thuần. Có thể nói rằng, mọi cuộc cải cách, nội dung cải cách thì mục tiêu cuối

cùng cũng là vì con người, con người là động lực của sự phát triển.

Thông qua việc thực hiện CNXX, các kết quả của hoạt động buộc tội, bào chữa

được kiểm tra, đánh giá một cách công khai theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ mà

BLTTHS đã quy định. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết tuyên bố

một người có tội hay vô tội, nếu có tội thì phạm tội gì thuộc điều khoản nào của

BLHS, chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án đưa

ra những phán xét cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước, thể hiện công lý, sự

công bằng và bình đẳng, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ

thống cơ quan tư pháp trong bộ máy Nhà nước. Qua đó có thể thấy, để thực hiện công

cuộc cải cách tư pháp ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, đòi hỏi yêu cầu của công

việc, kế hoạch, chính sách khác nhau. Tuy nhiên, để thực hiện thành công công cuộc

cải cách tư pháp nói chung yêu cầu đối với hệ thống cơ quan tư pháp, người làm công

tác tư pháp phải “tự nâng mình lên” về mọi mặt: nhận thức, tư duy pháp luật, trình

độ, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm của người thực thi pháp luật để bảo vệ chế độ

XHCN, bảo vệ Nhà nước, quyền công dân trong thời kỳ mới - thời kỳ cuộc cách mạng

khoa học kỹ thuật công nghiệp tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống và trên phạm

vi toàn cầu.

Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng ta xác định đặt ra cho Tòa án

nhiệm vụ: bảo đảm cho mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật, phán quyết

120

của Tòa án chỉ được căn cứ vào pháp luật, phán quyết của Tòa án được đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, có sức thuyết phục cao nhằm góp phần bảo đảm sự ổn định

xã hội, giữ vững kỷ cương pháp luật, bảo vệ công lý và sự công bằng trong xã hội thì

việc hoàn thiện pháp luật TTHS nói chung và quy định về GHXX sơ thẩm nói riêng

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những yêu cầu cấp thiết của

công cuộc đổi mới nói chung và công cuộc cải cách tư pháp nói riêng. Vấn đề quan

trọng đặt ra cần xác định đúng đắn nội dung để hoàn thiện góp phần xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bảo đảm quyền con người trong TTHS thực sự

được tôn trọng và thực hiện trong Nhà nước - đó là một biểu hiện của nền tư pháp

dân chủ cần hướng đến.

4.1.2. Yêu cầu của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng trong

quá trình lập hiến. Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 thể hiện một cách tập trung

nhất ý chí và nguyện vọng của Nhân dân trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản

Việt Nam lãnh đạo. Đây không chỉ là sản phẩm của hoạt động lập hiến đơn thuần, mà

còn là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, kế thừa kết quả, tổng kết thực tiễn về công

cuộc đổi mới đất nước và tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt

Nam. Trên nền tảng đó, những định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật

TTHS về GHXX sơ thẩm cũng phải đặt ra phù hợp với việc xây dựng hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nội dung tinh thần Hiến pháp năm 2013.

BLTTHS là đạo luật quy định trình tự thủ tục TTHS giải quyết VAHS; quy định

chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể tham gia TTHS, đây là đạo luật liên quan trực

tiếp đến quyền con người, quyền công dân. Do đó, việc ban hành bộ luật này đòi hỏi

rất cẩn trọng, xem xét toàn diện các yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyền con người,

để chuẩn bị các điều kiện cần thiết bảo đảm quyền con người trong TTHS được thực

hiện đầy đủ, đúng đắn. BLTTHS năm 2015 đã có những quy định bảo đảm những

quyền cơ bản của con người, nhưng trong quá trình áp dụng đã bộc lộ những bất cập

làm hạn chế việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quy định về GHXX sơ thẩm

và những quy định có liên quan đến việc thực hiện quy định này (đã được đề cập

121

trong nội dung chương 3 luận án). Vì thế, việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS hiện hành

trong đó có quy định về GHXX sơ thẩm là nhu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm tốt hơn

quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.

Trên cơ sở yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và yêu cầu hoàn thiện pháp

luật phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND

hiện hành và thực tiễn áp dụng quy định GHXX sơ thẩm trong quá trình giải quyết

VAHS, NCS nhận thấy việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật TTHS về GHXX sơ

thẩm cần phải bảo đảm một số nội dung sau:

Thứ nhất, phải thật sự bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc đặc trưng cơ bản

của pháp luật TTHS, đó là: nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc bảo đảm quyền

bào chữa của người bị buộc tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm,

nguyên tắc xét xử độc lập và tuân theo pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật vụ án.

Khi xét xử, Tòa án (HĐXX) phải thật sự độc lập, dựa vào quy định của pháp luật có

liên quan và các tình tiết, chứng cứ đã được đánh giá, làm sáng tỏ thông qua các hoạt

động thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết thuyết phục lòng dân.

Thứ hai, phải bảo đảm sự phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa

án và VKS trong TTHS một cách rõ ràng. Chức năng, nhiệm vụ của VKS và Tòa án

được quy định trong Hiến pháp và BLTTHS là khác nhau và độc lập. Điều 102 và

Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: VKS thực hành quyền công tố, kiểm sát các

hoạt động tư pháp; TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,

thực hành quyền tư pháp. Nhiệm vụ của Tòa án và VKS vừa có điểm giống nhau vừa

có điểm khác nhau. Ngoài nhiệm vụ chung là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Điều 2 Luật tổ chức TAND còn quy định bằng hoạt

động của mình, Tòa án “góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp

hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức

đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác" và Điều 2

Luật tổ chức VKSND hiện hành quy định VKS có nhiệm vụ "góp phần bảo đảm pháp

luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Vì vậy, để nhiệm vụ chính trị

chung được thực hiện tốt, VKS và Tòa án cần phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng. Thực

122

chất, suy cho cùng đây đều là những cơ quan thực hiện công tác tư pháp, nên các

quyết định của cơ quan này ít nhiều ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức trong đời sống xã hội. Cho nên, sự phối hợp giữa Tòa án và VKS cũng

như giữa cơ quan Điều tra với VKS là rất cần thiết để cùng hợp tác, chế ước nhau

thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ hiến định.

Trong TTHS, việc quy định chức năng của các cơ quan THTT là để phù hợp

với yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Xuất phát từ mục

đích của TTHS là giải quyết VAHS một cách nhanh chóng, công minh và đúng pháp

luật, bảo vệ có hiệu quả lợi ích của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân nên các cơ quan THTT phải có trách nhiệm phối hợp với nhau. Tuy nhiên, để

tránh lạm quyền, bảo đảm giải quyết đúng đắn, khách quan VAHS thì ngoài các quy

định thể chế hóa sự phối hợp giữa các cơ quan THTT, pháp luật TTHS còn có nhiều

quy định thể chế hóa quan hệ chế ước giữa Tòa án và VKS, đó chính là quy định

GHXX sơ thẩm trong BLTTHS. GHXX sơ thẩm là ranh giới thể hiện rõ quyền hạn

của Tòa án và VKS khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ và là quy định giúp các chủ

thể tham gia tố tụng khác thực hiện đúng nghĩa vụ, quyền tố tụng của mình. Vì thế,

việc thường xuyên hoàn thiện quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS là yêu cầu tất

yếu trong công cuộc cải cách tư pháp hình sự.

Thứ ba, bảo đảm vị trí của Tòa án thật sự là trung tâm của hoạt động tố tụng; là

“trọng tài” trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa; là chủ thể nhân danh Nhà nước

thực hiện CNXX để bảo vệ công lý; bảo vệ quyền con người; bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; bảo đảm cho việc áp dụng pháp

luật chính xác, khách quan và công bằng. Công lý, lẽ phải có được thực thi hay không

là hoàn toàn phụ thuộc vào phán quyết của Tòa án, nên việc hoàn thiện pháp luật về

GHXX nói chung và GHXX sơ thẩm nói riêng cần phải bảo đảm cho Tòa án (HĐXX)

là “người trọng tài” trong hoạt động xét xử.

Thứ tư, hoàn thiện quy định GHXX phải bảo đảm sự phù hợp với các quy định

khác của BLTTHS. BLTTHS năm 2015 đã kế thừa và phát huy những giá trị pháp

luật TTHS truyền thống được hình thành qua các thời kỳ lịch sử của Việt Nam và thể

chế hóa một bước các chủ trương, quan điểm của Đảng, của Nhà nước ta về cải cách

123

tư pháp. Tuy nhiên, trước những yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn

diện trên mọi lĩnh vực, để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng như thủ tục tư

pháp nói riêng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập

kinh tế quốc tế, các Nghị quyết cùa Bộ Chính trị liên quan đến Chiến lược cải cách tư

pháp và gần đây Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung

ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII về “việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới” đã chỉ ra nhiều vấn đề

của TTHS như: hoạt động tư pháp, chất lượng tranh tụng tại phiên toà, vai trò của Tòa

án trong việc xây dựng nền tư pháp dân chủ, hiện đại, vấn đề bảo đảm, bảo vệ quyền

con người, lẽ công bằng, … cần phải được nghiên cứu, từng bước hoàn thiện.

Do vậy, việc sửa đổi BLTTHS phải đáp ứng được các yêu cầu trên và phải bảo

đảm tính thống nhất và khả thi. Theo đó, quy định về GHXX sơ thẩm cũng phải phù

hợp với các quy định khác của BLTTHS để tạo nên một đạo luật TTHS khoa học,

đồng bộ và logic. Cụ thể: quy định về GHXX sơ thẩm phải bảo đảm cho Tòa án thật

sự xét xử độc lập (không quy định nhiệm vụ không thuộc chức năng, việc tổ chức

Tòa án các cấp theo đơn vị hành chính, bổ nhiệm chức danh tư pháp theo nhiệm

kỳ,…); bảo đảm triệt để quyền bào chữa của người bị buộc tội; bảo đảm nguyên tắc

tranh tụng trong xét xử thông qua việc quy định trình tự xét hỏi; xử lý vấn đề rút quyết

định truy tố (một phần, toàn phần) tại phiên tòa,… Thiết nghĩ, nội dung GHXX sơ

thẩm được quy định phù hợp sẽ góp phần bảo đảm việc xét xử của Tòa án “đúng

người, đúng tội và đúng pháp luật”, có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội

phạm và tạo niềm tin cho Nhân dân.

4.1.3. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Kế thừa những giá trị, đặc trưng cơ bản, phổ biến của Nhà pháp pháp quyền như

quyền lực nhà nước là ở nhân dân, bảo đảm chủ quyền của nhân dân; Nhà nước đề

cao pháp luật, bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội;

bảo đảm tính độc lập của Tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật; Nhà

nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của nhân dân; hình thức

tổ chức quyền lực nhà nước phổ biến trong nhà nước pháp quyền là phân chia và chế

ước lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,... Trong thời kỳ đổi mới,

124

Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã xác định

nhiệm vụ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân

và vì Nhân dân”. Đây là lần đầu tiên Văn kiện của Đảng chính thức sử dụng khái

niệm “Nhà nước pháp quyền”. Từ đó đến nay, qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc,

Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn những yêu cầu, quan điểm, nguyên tắc, nội dung,

giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tiếp

tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ

thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác

định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Nhà

nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các

nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công

rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực Nhà nước” [150].

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng là

sự cụ thể hóa và phát triển Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Kế thừa các nội dung của Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ-

TW của Bộ Chính trị như khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và phù hợp với thực tiễn Việt Nam; các

định hướng mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật “thống nhất, đồng bộ, khả thi, công

khai, minh bạch”, xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm

minh”,... Nghị quyết số 27-NQ/TW có thêm nhiều nội dung mới, được bổ sung, phát

triển như: Xác định rõ tám đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

yêu cầu phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả quyền lực

nhà nước; yêu cầu hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, ổn định, dễ tiếp cận, được

thực hiện nghiêm minh và nhất quán; tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,

lợi ích nhóm trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật và thực thi công vụ; xây

dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính,

phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, trong đó xác định nội dung: “hoàn thiện chính

125

sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người,

quyền công dân…; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh

tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền,

hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công

dân…; xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư

pháp;…”. Bên cạnh đó, Nghị quyết 27-NQ/TW cũng đã xác định nội dung trọng tâm

trong việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là “Hoàn

thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất

quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân

lực pháp luật;…; đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo

thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”

[5]. Những giá trị tiến bộ, văn minh của Nhà nước pháp quyền được Đảng và Nhà

nước tiếp thu, chọn lọc để xây dựng Nhà nước pháp quyền XNCN ở Việt Nam là một

quá trình nhận thức phức tạp, đổi mới tư duy về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội để

xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện theo những tiêu

chuẩn chung mà thế giới thừa nhận về nhà nước pháp quyền. Để làm được điều đó,

đòi hỏi hệ thống chính trị phải nhận thức đúng, quyết tâm chính trị cao, thống nhất

thực hiện. Qua những nội dung được xác định trong Văn kiện Đại hội Đảng XIII và

Nghị quyết 27 việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta, có

thể thấy: việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ và bảo đảm thực

hiện nhất quán là điều quan trọng, cần thiết bậc nhất trong Nhà nước pháp quyền -

Nhà nước mà ở đó “pháp luật là tối thượng”; dân chủ được đề cao và mở rộng; đòi

hỏi một nền tư pháp độc lập và chuyên nghiệp. Hoạt động TTHS là một bộ phận cấu

thành nền tư pháp, tính hiệu quả của chúng (đặc biệt là hoạt động xét xử của Tòa án)

ảnh hưởng trực tiếp đến “số phận pháp lý của con người” và thể hiện tính chuyên

nghiệp của nền tư pháp nói chung. Do đó, việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật

TTHS nói chung và quy định GHXX sơ thẩm nói riêng cũng là một nội dung quan

trọng trong việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, công bằng; góp phần hoàn

thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, được thực hiện nghiêm minh và nhất

quán đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.

126

4.1.4. Yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự

Quyền con người là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm trừ trường hợp đặc biệt,

cần bảo vệ lợi ích của quốc gia, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của Hiến pháp và

pháp luật TTHS. Bảo đảm quyền con người không chỉ là nội dung, bản chất mà còn trở

thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở các quốc gia.

“Bảo đảm quyền con người được hiểu là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện chính

trị, kinh tế, xã hội, pháp luật và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công

dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật

ghi nhận”[45]. Trên quan điểm đó, có thể hiểu: Bảo đảm quyền con người trong

TTHS là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về mặt pháp luật, thiết lập cơ chế thực hiện

và đặt ra các biện pháp kiểm tra, giám sát, xử lý để những người tham gia tố tụng

thực hiện được các quyền con người mà pháp luật TTHS ghi nhận.

Bảo đảm quyền con người được thực hiện trong pháp luật TTHS bằng các

phương thức, biện pháp khác nhau, gồm các bảo đảm pháp lý, bảo đảm về tổ chức,

bảo đảm về con người và bảo đảm về trách nhiệm. Trong đó, các biện pháp quan

trọng nhất là bằng các quy định đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật TTHS và

bảo đảm các quy định đó được thực hiện trên thực tế. Dưới góc độ pháp lý, NCS nhận

thấy các quy định của BLTTHS năm 2015 đã cơ bản thể hiện các tiêu chuẩn quốc tế

và tinh thần Hiến pháp năm 2013 trong việc bảo đảm quyền con người, như quy định

các nguyên tắc cơ bản liên quan đến bảo vệ quyền con người; quy định tương đối rõ

ràng địa vị tố tụng của các chủ thể TTHS; đặc biệt là địa vị tố tụng của người tham

gia tố tụng nói chung, người bị buộc tội nói riêng,… Tuy nhiên, từ góc độ bảo vệ

quyền con người, hoạt động tố tụng theo BLTTHS hiện hành vẫn còn những bất cập,

hạn chế nhất định, đó là: chưa bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc tố tụng, nhất

là nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, nguyên

tắc tranh tụng; các thủ tục tố tụng chưa bảo đảm thể hiện tính khách quan, tạo điều

kiện để người tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng,... Do đó, thiết nghĩ các

quy định của BLTTHS liên quan thực hiện các chức năng tố tụng, trong đó có quy

định GHXX sơ thẩm cần được tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh, hoàn thiện để cơ chế

127

bảo đảm quyền con người trong TTHS về mặt pháp lý được thực thi trên thực tế, góp

phần từng bước xây dựng nền tư pháp dân chủ.

Trong các tuyên bố của Việt Nam về thành tựu quyền con người đã khẳng định:

“… việc bảo đảm và thúc đầy quyền con người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn

của mỗi quốc gia. Các quốc gia có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong

nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế… để bảo đảm cho

người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất” [67]. Trên tinh thần

này, Hiến pháp và BLTTHS năm 2015 đã chú trọng đặc biệt đến việc tôn trọng, bảo

đảm, bảo vệ quyền con người nói chung và trong quá trình tiến hành TTHS nói riêng.

TTHS là lĩnh vực hoạt động nhà nước nhạy cảm liên quan đến quyền con người. Hơn

ở đâu hết, quyền con người dễ bị xâm phạm nhất là trong TTHS và hậu quả của sự

xâm phạm đó thường là rất nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và tinh thần. Bởi lẽ,

“TTHS là một quá trình mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa một người ra xử lý

trước pháp luật, khi họ bị coi là đã thực hiện hành vi phạm tội. Lúc đó, xuất hiện

nhiều mối quan hệ xã hội cụ thể do pháp luật TTHS điều chỉnh, các bên tham gia

mang quyền và nghĩa vụ pháp luật TTHS quy định. Một bên đại diện Nhà nước nên

mang tính quyền lực với sức mạnh cưỡng chế - các cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng và một bên bị xem là “yếu thế” hơn - người bị buộc tội. Vì thế, hoạt động

TTHS trong bất cứ Nhà nước nào đều được xếp vào “nhóm nguy cơ cao” khi nói đến

vấn đề bảo vệ quyền con người” [59]. Vì thế, yêu cầu phải bảo đảm, bảo vệ quyền

con người trong TTHS là điều cần thiết, khách quan để các quyền con người trong

TTHS được ghi nhận không phải là hình thức, đồng thời đó cũng là cơ sở để các cơ

quan tiến hành tố tụng, người TTHS luôn thực hiện đúng chức năng, quyền hạn; có ý

thức tôn trọng các quyền con người của người tham gia tố tụng nói chung và người

bị buộc tội nói riêng. Có như vậy, quá trình giải quyết VAHS mới bảo đảm đúng đắn

và công bằng.

128

4.2. Giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét

xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

4.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng

hình sự Việt Nam

Với kết quả phân tích về mặt lý luận của quy định GHXX sơ thẩm trong TTHS

Việt Nam ở chương 2, những hạn chế, vướng mắc về thực tiễn áp dụng quy định ở

chương 3 và yêu cầu đặt ra cần hoàn thiện pháp luật TTHS về quy định GHXX sơ

thẩm thể hiện tại mục 4.1 chương 4. NCS xin đề xuất một số nội dung, như sau:

4.2.1.1. Xây dựng mô hình lý luận về giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình

sự Việt Nam

Giới hạn xét xử được quy định nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các

chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự. BLTTHS năm 2003 cho phép Tòa án sơ thẩm

được quyền xét xử bị cáo theo khoản khác nặng hơn khoản mà VKS đã truy tố trong

cùng một điều luật. BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) cũng quy định

tương tự cho phép Tòa án xét xử bị cáo theo khoản khác nặng hơn và tội danh nặng

hơn tội danh mà VKS đã truy tố. Quy định này theo NCS là không phù hợp, xuất phát

từ những lý do sau đây:

Thứ nhất, theo quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức TAND và BLTTHS thì

Tòa án thực hiện CNXX và có vai trò quan trọng bảo đảm cho hoạt động tranh tụng

trong xét xử diễn ra khách quan và công bằng. Việc BLTTHS cho phép Tòa án xét

xử theo khung hình phạt khác nặng hơn hoặc tội danh khác nặng hơn tội danh mà

VKS đã truy tố, tức là Tòa án đã thực hiện chức năng buộc tội. Điều này không phù

hợp với chức năng tố tụng của Tòa án đã được Hiến pháp và pháp luật quy định.

CNXX phát sinh trên cơ sở chức năng buộc tội, vì vậy GHXX của Tòa án là trong

phạm vi của chức năng buộc tội. Tòa án có thể xem xét và quyết định những vấn đề

khác với việc truy tố của VKS: xét xử theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố

trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy

tố, không thể vượt giới hạn để xét xử bị cáo theo khung hình phạt khác nặng hơn hay

tội danh khác nặng hơn.

129

Thứ hai, quy định cho phép Tòa án xét xử theo tội danh khác nặng hơn hoặc

khung hình phạt khác nặng hơn trong cùng một điều luật so với truy tố của VKS sẽ

vi phạm quyền bào chữa của bị cáo, mặc dù BLTTHS năm 2015 có quy định nếu cần

xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn thì Tòa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông

báo cho bị cáo, người bào chữa và đại diện hợp pháp của họ biết để chuẩn bị việc bào

chữa nhưng quy định này cũng không bảo đảm được quyền bào chữa của bị cáo ở

giai đoạn điều tra và truy tố. Đặc biệt là đối với những trường hợp mà việc xét xử

theo khung hình phạt khác nặng hơn hoặc tội danh nặng hơn so với việc truy tố của

VKS mà rơi vào trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa. Lúc này, vụ án không

được điều tra lại mà chỉ truy tố lại nên quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra khi

Tòa án xét xử theo khung hình phạt khác hoặc tội danh nặng hơn sẽ không được bảo

đảm. Trong trường hợp, Tòa án xét xử bị cáo theo tội danh khác nặng hơn, mặc dù

có thông báo cho bên bị buộc tội biết để chuẩn bị bào chữa nhưng việc thực hiện

quyền bào chữa tại phiên tòa sẽ gặp khó khăn do phạm vi tội danh mà Tòa án được

quyền xét xử bị cáo là quá rộng, bên bị buộc tội phải chuẩn bị mọi phương án mà Tòa

án có thể xét xử bị cáo và bên bị buộc tội không chỉ phải bào chữa, tranh luận với

VKS mà còn có cả Tòa án. Phiên tòa chưa được mở mà Tòa án đã có sự đánh giá

trước sẽ xét xử bị cáo với tội danh nặng hơn điều này trái với nguyên tắc tranh tụng

và trái với tinh thần cải cách tư pháp (bản án, quyết định phải căn cứ vào kết quả xét

hỏi, tranh luận tại phiên tòa).

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 đã chính thức ghi nhận

nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Nguyên tắc này có vai trò đặc biệt

quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền con người, quyền công

dân. Đồng thời, nguyên tắc này đã chi phối việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS

năm 2015 về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng, chứng cứ chứng minh và thủ

tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm cho các bên tham gia tranh tụng dân chủ, công

bằng và khách quan. Chính vì vậy, quy định về GHXX sơ thẩm bảo đảm cho Tòa án

chỉ thực hiện CNXX. Tuy nhiên, quy định của BLTTHS cho phép Tòa án xét xử theo

khung hình phạt khác hoặc tội danh khác nặng hơn so với truy tố của VKS, điều này

130

sẽ làm cho việc thực hiện các chức năng tố tụng tại phiên tòa trở nên phức tạp. Tòa

án xét xử và buộc tội, VKS thực hành quyền công tố để bảo vệ quan điểm của mình

theo hướng tội nhẹ hơn, khung hình phạt nhẹ hơn, bên bào chữa thực hiện bào chữa

chống lại việc buộc tội của VKS. Trong trường hợp này, sự thật vụ án có thể là sự

thật chủ quan của Tòa án và bản án, quyết định của Tòa án sẽ không dựa trên kết quả

tranh tụng tại phiên tòa.

Quy định cho phép Tòa án có thể xét xử theo khung hình phạt nặng hơn hoặc

tội danh khác nặng hơn so với truy tố của VKS có thể khắc phục được những vướng

mắc trong thực tiễn xét xử xảy ra trong thời gian qua khi không có sự thống nhất quan

điểm giữa VKS với Tòa án, nhưng thực tế lại phát sinh vướng mắc khác khi áp dụng

“tội danh khác nặng hơn so với truy tố của VKS” nó vượt thẩm quyền của Tòa án cấp

huyện thì xử lý như thế nào? Hiện chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện tình huống

này. Chúng ta không nên vì những bất cập xảy ra trong một số vụ án trên thực tiễn

mà đi ngược lại với những nguyên lý nền tảng trong TTHS là bảo vệ quyền con người,

bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và “không làm xấu hơn tình trạng của

bị cáo”. NCS cho rằng nguyên tắc “độc lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật” là

điều kiện cần thiết, gắn liền với CNXX của Tòa án, nhưng không phải là đặc quyền

không có giới hạn của Tòa án. Ở đây, rõ ràng có sự xung đột giữa yêu cầu xác định

sự thật của vụ án, độc lập xét xử của Tòa án với quyền, lợi ích hợp pháp và quyền

bào chữa của bị cáo, xung đột với các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô

tội...Theo ý kiến của NCS, xung đột này cần được giải quyết trên cơ sở ưu tiên bảo

đảm quyền bào chữa của bị cáo; bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng, nguyên

tắc suy đoán vô tội, theo đó Tòa án chỉ xét xử, không buộc tội. Những ưu tiên này

làm cho hoạt động TTHS của chúng ta tiến bộ hơn, nhân văn hơn. Còn về lọt tội (nếu

có) thì người phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước là VKS chứ không phải là Tòa

án. Hơn nữa, các quyết định tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm trái pháp luật, không có căn

cứ làm lọt tội, .... đều có thể bị hủy bỏ ở giai đoạn xét xử phúc thẩm thông qua kháng

cáo, kháng nghị.

Việc nêu vấn đề để tiếp tục nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau nhằm hoàn

thiện quy định GHXX sơ thẩm là điều cần thiết, thiết thực góp phần xây dựng pháp

131

luật TTHS hoàn chỉnh, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình

hình mới - thời kỳ hội nhập quốc tế. Với tinh thần đó, thiết nghĩ cần hoàn thiện chế

định GHXX sơ thẩm theo những định hướng có tính phương pháp luận sau đây:

Cần nhận thức thống nhất về bản chất đích thực của nội dung GHXX: đây là

một trong những biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, vì thế nội dung

của nó không thể thoát ly nội dung nguyên tắc tranh tụng. Tranh tụng là quy luật

khách quan vốn có của hoạt động TTHS đòi hỏi phải có sự phân định rạch ròi về chủ

thể (nhóm chủ thể) thực hiện các chức năng cơ bản khác nhau trong đó, Tòa án là cơ

quan chỉ thực hiện CNXX khi có nhu cầu giải quyết tranh chấp pháp lý giữa hai bên

tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền trong hoạt động chứng minh. Việc trao cho

Tòa án bất kỳ thẩm quyền nào không phù hợp với CNXX đều có thể làm biến dạng

vai trò, hình ảnh của Tòa án và phủ định nội dung của nguyên tắc tranh tụng. Theo

NCS, kinh nghiệm của BLTTHS hiện hành của Liên Bang Nga dứt khoát từ bỏ những

quy định, những thẩm quyền không thuộc về CNXX của Tòa án là rất đáng chú ý.

Cần nhận thức đúng đắn về nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và trong điều kiện thừa nhận tranh tụng là

nguyên tắc cơ bản của hoạt động TTHS. Độc lập của Thẩm phán gắn liền với CNXX.

Nhưng sự độc lập này cần được xem là như điều kiện cần thiết để thực hiện CNXX,

chứ không phải là đặc quyền không có giới hạn. Quy định GHXX trong pháp luật

TTHS ở nước ta từ Thông tư 16 năm 1974 đến BLTTHS hiện hành luôn giới hạn độc

lập xét xử của Tòa án về phạm vi bị cáo và phạm vi hành vi mà VKS truy tố. Tại

phiên tòa, mặc dù thấy có căn cứ nhưng Tòa án cũng không có quyền xét xử luôn

đồng phạm mới hoặc người phạm tội mới hoặc tội mới mà VKS không truy tố, bởi lẽ

vì như vậy sẽ phá vỡ nền tảng quan hệ tố tụng có truy tố mới có xét xử giữa VKS và

Tòa án, vi phạm quyền bào chữa của bị cáo (và của những người trước đó chưa bị

truy tố). Lịch sử phát triển quy định GHXX thế giới đã đề cập ở trên, cho thấy: GHXX

“mở tuyệt đối” đặc trưng cho mô hình TTHS trung cổ ở Châu Âu hoặc TTHS thời

phong kiến ở nước ta trước đây chính là những mô hình đã tuyệt đối hoá độc lập của

Thẩm phán như là một quyền năng không bị hạn chế. Chắc chắn cải cách tư pháp và

Hiến pháp ở nước ta không cần đến một tòa như vậy. Trường hợp các tình tiết thực

132

tế của vụ án không thay đổi, chỉ có đánh giá pháp lý đối với hành vi bị truy tố (định

tội danh) của Tòa án khác với VKS thì kinh nghiệm quốc tế nào là đáng để chúng ta

học hỏi? Theo quan điểm của NCS, kinh nghiệm pháp luật TTHS của Anh-Mỹ và

Liên bang Nga giải quyết khả năng thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa theo hướng

không được làm xấu tình trạng bị cáo và không được vi phạm quyền bào chữa của

chủ thể này là lựa chọn tốt nhất cho sửa đổi và hoàn thiện Điều 298 BLTTHS hiện

hành, vì nó phù hợp với chính những nguyên tắc hiến định mà Bộ luật này đã ghi

nhận, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Với

quan điểm nêu trên, NCS thiết nghĩ cần xây dựng mô hình quy định về GHXX sơ

thẩm để thống nhất trong tư duy lập pháp và áp dụng pháp luật TTHS liên quan trên

cơ sở tôn trọng Hiến pháp, các nguyên tắc cơ bản trong TTHS và bảo đảm các cơ

quan THTT thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình. Có như vậy, chúng ta

mới có thể hướng đến một nền tư pháp dân chủ, tiến bộ và nhân văn. Qua tìm hiểu,

NCS nhận thấy mô hình quy định GHXX “mở có điều kiện” là mô hình chúng ta có

thể vận dụng với điều kiện, đặc điểm tư duy pháp lý của nước ta với nội dung cần xác

định: thứ nhất, thể hiện mối quan hệ ràng buộc pháp lý giữa nội dung truy tố của VKS

và hoạt động xét xử của Tòa án (có truy tố mới có xét xử); thứ hai, thay đổi nội dung

truy tố tại phiên tòa khi bảo đảm hai điều kiện: không làm xấu tình trạng bị cáo và

không vi phạm quyền bào chữa của bị cáo.

4.2.1.2. Hoàn thiện những quy định pháp lý liên quan đến chế định giới hạn xét

xử sơ thẩm

Một là, hoàn thiện quy định về giới hạn xét xử sơ thẩm

Tính tối thượng của Hiến pháp năm 2013 đòi hỏi Điều 298 BLTTHS hiện hành

phải được sửa đổi và hoàn thiện. Để khắc phục những hạn chế của điều luật này cần

bắt đầu từ việc xác định đúng đắn nguyên nhân của những hạn chế đó. Nguyên nhân

chính có vai trò là nền tảng lý luận của Điều 298 BLTTHS hiện hành là quan điểm

“tuyệt đối hoá” nguyên tắc độc lập khi xét xử của Tòa án hoặc nguyên tắc xác định

sự thật của vụ án, không nhận diện đúng bản chất của quy định GHXX sơ thẩm.

Nguyên nhân thứ hai là thiếu sự nhất quán trong kỹ thuật lập pháp dẫn đến sự không

133

đồng bộ giữa các quy định của BLTTHS năm 2015. Với phương pháp luận hoàn thiện

quy định GHXX sơ thẩm trong BLTTHS năm 2015 như trên đã trình bày - đó chính

là cơ sở NCS kiến nghị sửa đổi Điều 298 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2021) theo hướng như sau:

- Giữ nguyên khoản 1 Điều 298. Đây là sự khẳng định nguyên lý từ cổ xưa về

mối quan hệ có tính phụ thuộc giữa truy tố và xét xử “Nemo nisi accusatus fuerit,

condemnari potets” - có truy tố mới có xét xử [163]. Theo nguyên tắc “cá thể hoá”

trách nhiệm hình sự thì hành vi bị truy tố của bị cáo luôn gắn liền với tội danh cụ thể

(đánh giá pháp lý về hành vi bị truy tố). Quyết định truy tố của VKS khi đã được

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là đối tượng và giới

hạn phạm vi của hoạt động xét xử. Tòa án không có quyền xét xử tội mới đối với bị

can, không có quyền xét xử người phạm tội mới.

- Sửa khoản 2 Điều 298 theo hướng khẳng định nguyên tắc việc thay đổi nội

dung truy tố tại phiên tòa chỉ được chấp nhận, nếu không làm xấu tình trạng bị cáo

và không vi phạm quyền bào chữa của chủ thể này.

- Bỏ khoản 3 Điều 298 BLTTHS

Từ quan điểm trên, NCS đề xuất sửa đổi nội dung Điều 298 BLTTHS như sau:

“Điều 298. Giới hạn của việc xét xử

1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát

truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã

truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện

kiểm sát đã truy tố, nhưng quá trình xét xử phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.”

Hai là, hoàn thiện các quy định liên quan đến việc áp dụng chế định giới hạn

xét xử sơ thẩm

Sửa đổi Điều 298 BLTTHS năm 2015 để bảo đảm tính nhất quán trong tư duy

lập pháp và kỹ thuật lập pháp của BLTTHS năm 2015. Ghi nhận tranh tụng là nguyên

tắc cơ bản tại Điều 26 chưa đủ để làm cho hoạt động tố tụng có tính tranh tụng mà

đòi hỏi nội dung của nguyên tắc này phải được cụ thể hóa một cách đồng bộ, xuyên

suốt trong các điều luật cụ thể, đặc biệt là những quy định về xét xử tại phiên tòa sơ

134

thẩm (trong đó có GHXX) bởi lẽ đây chính là giai đoạn giải quyết thực chất vụ án, là

nơi thể hiện tập trung nhất của nguyên tắc tranh tụng. Sửa đổi Điều 298 cũng chỉ có

ý nghĩa khi sửa đổi các quy định khác có liên quan của BLTTHS để bảo đảm đồng

bộ với nhiều nội dung của nguyên tắc “không làm xấu tình trạng bị cáo”. Có như

vậy, quy định GHXX sơ thẩm mới có thể được thực thi trên thực tế. Vì thế, qua nghiên

cứu NCS xin đề xuất bãi bỏ, sửa đổi một số nội dung các điều luật trong BLTTHS

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), cụ thể như sau:

Thứ nhất, “Điều 4. Giải thích từ ngữ” nên quy định tiêu chí xác định thế nào là

“tội nặng hơn”, thế nào là “tội nhẹ hơn”, trường hợp như thế nào là “làm xấu tình

trạng bị cáo”, thay đổi theo hướng bất lợi cho bị cáo và quyền bào chữa của chủ thể

này….trên cơ sở luật hóa nội dung các hướng dẫn đã có và tổng kết thực tiễn xét xử.

Thứ hai, cần bỏ quy định HĐXX có thẩm quyền khởi tố VAHS như quy định tại

khoản 4 Điều 153 và khoản 7 Điều 326 BLTTHS. Cần xem xét, nghiên cứu lại chức

năng, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán theo hướng tập trung vào hoạt động xét

xử bảo đảm tranh tụng dân chủ, công khai tại phiên tòa, có như vậy mới nâng cao

được vị thế của Thẩm phán cũng như hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án trong tiến

trình cải cách tư pháp; đồng thời để phù hợp, đồng nhất với quyền hạn, nhiệm vụ của

Tòa án được quy định trong Luật tổ chức TAND năm 2024.

Thứ ba, bổ sung nội dung Điều 279 BLTTHS giải quyết yêu cầu, đề nghị trước

khi mở phiên tòa về “yêu cầu của VKS rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố

trước khi mở phiên tòa” và Điều 281 BLTTHS về tạm đình chỉ vụ án không có quy

định về trường hợp “việc rút quyết định truy tố không có căn cứ”

Thứ tư, Điều 280 BLTTHS quy định các trường hợp Thẩm phán được trả hồ sơ

cho VKS để điều tra bổ sung như hiện nay là chưa hợp lý. Theo đó, cần quy định chỉ

khi Thẩm phán phát hiện ra những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cản trở

đến việc xét xử của HĐXX (giả sử VKS chưa giao cáo trạng cho bị cáo) thì mới trả

hồ sơ cho VKS. Còn vấn đề chứng cứ đã đủ hay chưa, chứng cứ nào là chứng cứ quan

trọng của vụ án, còn ai đồng phạm nữa không, ... là trách nhiệm của VKS đối với việc

bảo vệ cáo trạng của mình. Tòa án không có nhiệm vụ hỗ trợ chức năng buộc tội của

VKS. Vì vậy, NCS đề nghị sửa khoản 1 Điều 280 BLTTHS như sau:

135

“Điều 280. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung

1. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để

điều tra bổ sung khi phát hiện thấy có sự vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng

trong việc khởi tố, điều tra, truy tố”

Thứ năm, nghiên cứu nội dung Điều 325 BLTTHS quy định về xem xét việc rút

quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa cho thấy: Bản chất của

xét xử là việc Tòa án như một trọng tài đứng ra phân xử và phán quyết khi tồn tại sự

cáo buộc của bên này với bên kia. CNXX của Tòa án chỉ có hai mục đích là nhân

danh công lý và nước Cộng hoà XHCN Việt Nam để kết luận một người phạm tội

hay không phạm tội. Do đó, tuyên bố một người phạm tội nào đó phải dựa trên sự

buộc tội và tất nhiên cần xét xử, ngược lại không có sự buộc tội thì sự tuyên bố của

Tòa án sẽ không có ý nghĩa bởi không ai buộc tội bị cáo thì đương nhiên không có

tội và không cần thiết phải xét xử nữa. Như vậy, nếu sau khi xét hỏi mà KSV rút toàn

bộ quyết định truy tố thì Tòa án không có cơ sở để xét xử, hay nói cách khác, VKS

đã “từ bỏ” việc buộc tội của mình thì Tòa án không có lý do gì phải xem xét và xử lý

như quy định hiện hành. Mặt khác, nếu VKS đã rút quyết định truy tố mà Tòa án vẫn

xét xử thì Tòa án đã làm thay chức năng buộc tội của VKS dẫn đến tình trạng Tòa án

vừa buộc tội, vừa xét xử và ảnh hưởng đến tính khách quan, độc lập xét xử của Tòa

án, xâm phạm đến quyền lợi của người bị buộc tội. Vì vậy, NCS đề nghị sửa đổi Điều

325 theo hướng: khi KSV rút một phần quyết định truy tố thì HĐXX chỉ xét xử phần

quyết định truy tố không bị rút; khi KSV rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX ra

quyết định đình chỉ vụ án. Trên cơ sở đó, đề xuất điều chỉnh nội dung Điều 325

BLTTHS, như sau:

“Điều 325. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn

tại phiên tòa

1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử xét xử

phần còn lại; nếu Kiểm sát viên kết luận về tội nhẹ hơn tội đã truy tố thì Hội đồng xét

xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.

2. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử

ra quyết định đình chỉ vụ án.”

136

Thứ sáu, sửa khoản 4 Điều 326 theo hướng “Hội đồng xét xử ra quyết định đình

chỉ vụ án khi kiểm sát viên rút quyết định truy tố”. Trong tình huống này đối tượng

xét xử của Tòa án đã không còn nữa (vì KSV đã rút quyết định truy tố giống như

nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong tố tụng dân sự) nên Tòa án chỉ ra quyết định đình

chỉ vụ án chứ không phải tuyên bản án vô tội.

Đồng thời với việc sửa đổi Điều 298 BLTTHS cần hủy bỏ các quy định về thẩm

quyền của Tòa án không phù hợp với CNXX, với nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc

suy đoán vô tội, như: Trình tự xét hỏi (Điều 307) - Tòa án chỉ nên là người điều khiển

thủ tục xét hỏi tạo điều kiện tốt nhất cho các bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa

vụ của mình tại phiên tòa, còn bên buộc tội phải là người hỏi chính để thực hiện nghĩa

vụ chứng minh tội phạm của mình; huỷ bỏ quy định “Hội đồng xét xử phải quyết định

một trong các vấn đề:….. Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu

Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ” theo điểm c khoản 6 Điều 326 BLTTHS,

chỉ cho phép Tòa án trả hồ sơ cho VKS để khắc phục những vi phạm nghiêm trọng

về thủ tục tố tụng cản trở việc xét xử của Tòa án. Việc quy định HĐXX trả hồ sơ để

VKS điều tra bổ sung đã không còn phù hợp khi tranh tụng và suy đoán vô tội đã trở

thành những nguyên tắc hiến định của BLTTHS hiện hành.

4.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm

trong tố tụng hình sự Việt Nam

4.2.2.1. Nâng cao nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ

của đội ngũ xây dựng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Xây dựng hệ thống pháp luật có chất lượng về nội dung lẫn hình thức, đồng thời

tổ chức triển khai thực hiện có hiệu lực, hiệu quả là một trong những yêu cầu tất yếu,

khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và của công

cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. Vì vậy, công tác xây dựng pháp luật điều chỉnh các

quan hệ xã hội trong đời sống luôn được Nhân dân, người làm công tác pháp luật quan

tâm chú trọng, đặc biệt công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS - lĩnh vực ảnh

hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân thông qua việc thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan THTT trong việc giải quyết các VAHS cụ thể.

137

Hoạt động lập pháp là hoạt động khá phức tạp, mang tính sáng tạo, đòi hỏi phải

đầu tư nhiều thời gian, kinh phí và nhất là cán bộ phải có trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ cao về lĩnh vực phụ trách soạn thảo, vì đối tượng điều chỉnh của pháp luật luôn

luôn biến đổi. Nên phạm vi nhận thức được sự vận động và biến đổi đó để phản ánh

nhu cầu phát triển của các quan hệ xã hội vào nội dung văn bản là hết sức khó khăn.

Thời gian qua, có thể thấy công tác lập pháp của Quốc hội rất “quyết liệt”, nhất là đã

xây dựng và ban hành một khối lượng văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu

của công cuộc cải cách và phục vụ cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam, góp phần thiết thực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng

phát triển và phòng, ngừa tội phạm mới phát sinh. Bên cạnh kết quả đó, vẫn còn hiện

tượng thiếu sót trong công tác xây dựng pháp luật do nhiều nguyên nhân khác nhau,

điển hình như: sai sót trong việc xây dựng BLHS năm 2015; “nợ ban hành văn bản

hướng dẫn Bộ luật, Luật” quá nhiều, đến giờ văn bản hướng dẫn thi hành BLTTHS

năm 2015 vẫn còn hạn chế; việc xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật TTHS

nói riêng còn chấp vá, rời rạc.

Xuất phát từ công cuộc cải cách tư pháp và công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS, trong đó quan

tâm chú trọng hoàn thiện quy định GHXX sơ thẩm là hết sức cần thiết. Vì vậy, thiết

nghĩ trong thời gian tới Quốc hội cần tăng cường năng lực lập pháp với những giải

pháp sau:

Một là, lựa chọn, bồi dưỡng đội ngũ hoặc thuê chuyên gia, các nhà nghiên cứu

khoa học TTHS có uy tín, giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn tham gia

công tác xây dựng các dự án luật, bộ luật liên quan; có phẩm chất chính trị tốt; có tinh

thần công vụ cao.

Hai là, thay đổi nhận thức, tư duy lập pháp của đội ngũ tham gia xây dựng pháp

luật nói chung. Pháp luật của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là pháp luật

“phục vụ”, bảo vệ Nhân dân, chứ không phải bảo vệ lợi ích của một hoặc một nhóm

đối tượng; cần phát huy tối đa các quyền con người của công dân để họ có thể thực

hiện quyền làm chủ đất nước, tham gia giám sát các hoạt động của Nhà nước trong

đó có hoạt động xây dựng pháp luật, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi mới đất

138

nước, chứ không phải ban hành pháp luật là để “ép buộc” Nhân dân phải thực hiện

dù nội dung nó đúng hay sai vì do nó thể hiện ý chí của nhà cầm quyền (giai cấp

thống trị). Cho nên, cần phải đổi mới nhận thức, quan điểm trong công tác lập pháp

thì tất yếu người làm luật sẽ có tinh thần trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ mà Nhân

dân, Nhà nước giao phó.

Ba là, cần có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với hành vi thiếu trách nhiệm

trong công tác lập pháp, vi phạm quy trình xây dựng pháp luật dẫn đến sai sót, gây

tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, của Nhân dân và của xã hội.

Bốn là, nâng cao năng lực thẩm tra dự án luật cho các thành viên của Hội đồng

Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; tăng thêm số lượng các đại biểu chuyên trách, tạo

lập cơ chế khuyến khích các đại biểu Quốc hội thực hiện quyền sáng kiến lập pháp.

Năm là, tăng cường thường xuyên đổi mới các hình thức tiếp xúc cử tri của đại

biểu Quốc hội nhằm nâng cao sự hiểu biết thực tiễn cuộc sống để có thể đưa ra các

sáng kiến lập pháp và các dự luật phù hợp quyền lợi quốc gia, đáp ứng “dung hoà”

quyền lợi của các nhóm cử tri trong đời sống xã hội.

Sáu là, cần chú trọng quan tâm khâu khảo sát thực tế, thu thập thông tin chính

xác, khách quan để phản ánh vào trong đạo luật (bộ luật, luật). Phải xác định tính bắt

buộc của việc phân tích chính sách trong toàn bộ quy trình xây dựng văn bản luật.

Đặc biệt, việc hoạch định chính sách phải được tiến hành trước khi lập chương trình

xây dựng văn bản luật.

Bảy là, cần có cơ chế chính sách thu hút các hiệp hội, các tổ chức kinh tế, các

tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia vào việc nghiên cứu soạn thảo, thẩm

định, thẩm tra các dự án luật để bảo đảm pháp luật mang tính khả thi cao, dân chủ,

tuy nhiên cần chú ý tránh hiện tượng “tham nhũng chính sách” chỉ có lợi cho một

nhóm đối tượng.

4.2.2.2. Nâng cao năng lực chủ thể áp dụng pháp luật về giới hạn xét xử sơ

thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam

Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng, quyết định sự thành bại của mọi

vấn đề. Thực tế chứng minh, dù hệ thống pháp luật có quy định đúng đắn và chặt chẽ

139

nhưng người THTT không đủ về số lượng, không đáp ứng được yêu cầu về trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, năng lực cũng như tinh thần trách nhiệm công tác thì những

quy định đó cũng khó có thể phát huy hiệu quả.

Ở Việt Nam, thực tế cho thấy đội ngũ THTT hình sự nhiều nơi còn thiếu về

“lượng lẫn chất”, chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; một bộ phận Điều tra viên, KSV, Thẩm

phán thiếu bản lĩnh chính trị, bị sa ngã, tiêu cực trong công tác dẫn đến tình trạng cố

ý làm sai, vi phạm pháp luật phải bị xử lý. Mặt khác, trình độ chuyên môn, nghiệp

vụ, năng lực, tinh thần trách nhiệm công tác của một bộ phận cán bộ, công chức VKS,

Tòa án vẫn còn hạn chế; chưa thật sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác

xét xử; chưa theo kịp yêu cầu hội nhập quốc tế, việc thiếu cán bộ Thẩm phán ở một

số tòa án các tỉnh, huyện và yếu kém trong các hoạt động bổ trợ tư pháp là một thực

tế tồn tại nhiều năm nay cần được giải quyết… Để bảo đảm quy định GHXX sơ thẩm

nói riêng và các quy định về pháp luật TTHS nói chung được thi hành một cách đúng

đắn và có hiệu quả cần phải tiếp tục xây dựng đội ngũ Điều tra viên, KSV và Thẩm

phán đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong điều kiện hiện nay. Do đó, NCS

thiết nghĩ cần phải tiến hành đồng thời một số giải pháp sau đây:

Một là, phải thường xuyên tập huấn chuyên sâu, trao đổi nghiệp vụ, củng cố

kiến thức thực tiễn và phẩm chất đạo đức trong sạch cho đội ngũ cán bộ làm công tác

chuyên môn trong hoạt động tư pháp; có đủ đức, đủ tài, có bản lĩnh chính trị vững

vàng, kiên định trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vì lẽ phải công bằng

để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Nếu đội ngũ KSV, Thẩm phán và cán bộ làm

công tác tư pháp không được thường xuyên bồi dưỡng về kiến thức, rèn luyện về bản

lĩnh thì rất dễ bị cám dỗ, mua chuộc, sa ngã dẫn đến tình trạng giải quyết án phiến

diện, cố ý “bóp méo” sự thật vụ án, quyết định bản án oan, sai vì tư lợi, không bảo

vệ được công lý, không bảo vệ được pháp luật.

Hai là, cần thay đổi cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm và chính sách thu hút những

người có đức, có tài, có tâm huyết vào làm việc ở cơ quan Điều tra, VKS, Tòa án; mở

rộng nguồn cán bộ để bổ nhiệm vào các chức danh KSV, Thẩm phán, thực hiện cơ

140

chế thi tuyển công khai để lựa chọn những người có đủ năng lực bổ nhiệm vào các

chức năng tư pháp.

Ba là, Nhà nước phải bảo đảm về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, điều kiện

làm việc; tiếp tục đầu tư hệ thống phầm mềm, ứng dụng công nghệ thông tin trong

công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật và công khai bản án, án lệ đến xã hội; tăng

cường hơn nữa chế độ đãi ngộ cho đội ngũ công chức làm công tác chuyên môn trong

các cơ quan tư pháp để họ yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Không nên “đánh đồng” tính chất công việc của đội ngũ công chức làm công tác tư

pháp nói chung như đội ngũ cán bộ, công chức khác, vì thực tế trọng trách và áp lực

công việc của họ rất lớn, mọi quyết định của họ ảnh hưởng trực tiếp đến số phận

chính trị, pháp lý của con người tham gia TTHS. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh

tế thị trường với những mặt trái của nó đã và đang tác động không nhỏ đến đội ngũ

cán bộ, công chức Nhà nước, trong đó có các Điều tra viên, KSV và Thẩm phán. Để

họ không bị chi phối bởi các tiêu cực xã hội, ngoài các quy định cụ thể, rõ ràng của

pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự giám sát của Nhân dân, Nhà nước

cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ làm nhiệm vụ

bảo vệ công lý, có sự đãi ngộ đúng mức để họ có thể vô tư, khách quan trong khi làm

nhiệm vụ, chuyên tâm thực hiện “phụng công thủ pháp”.

Bên cạnh đó, với những quy định của pháp luật TTHS hiện hành, đội ngũ luật

sư và bổ trợ tư pháp cần tiếp tục nghiên cứu, phát huy hiệu quả các quyền tố tụng để

tham gia tố tụng một cách chủ động, tích cực và trách nhiệm. Đồng thời, cần thay đổi

nhận thức trong mối quan hệ với người bị buộc tội (thân chủ), ngoài mối quan hệ dân

sự “sòng phẳng” thông qua hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa các bên, còn là mối quan

hệ tình người với nhau. Cho nên, vì lẽ phải, vì công lý mà khi tham gia tố tụng luật

sư cũng như đội ngũ bổ trợ tư pháp cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, tránh làm việc

qua loa, hình thức, làm cho có “thủ tục”. Thực tế chứng minh, đội ngũ luật sư và bổ

trợ tư pháp thực hiện tốt vai trò của mình trong TTHS góp phần bảo đảm công bằng

xã hội, làm sáng tỏ VAHS; giúp cho các cơ quan THTT có những quyết định đúng

đắn, khách quan và hợp pháp, trên cơ sở đó có bản án “đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật”; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong TTHS.

141

4.2.2.3. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc áp

dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự

Giới hạn của việc xét xử thực chất là mối quan hệ TTHS giữa VKS và Tòa án

ở giai đoạn xét xử. Mối quan hệ này xuất hiện bắt đầu từ khi VKS gửi cáo trạng và

hồ sơ vụ án sang Tòa án và nó được thể hiện thông qua KSV được Viện trưởng VKS

ủy quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, làm cáo trạng và giữ quyền công tố trước tòa cùng

với Thẩm phán được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ tọa phiên

tòa nếu vụ án được đưa ra xét xử. Quan hệ giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn này

trở đi là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước lẫn nhau. Tuy nhiên thế nào là phối

hợp, phối hợp ở chỗ nào và cái gì? Phối hợp không phải là làm giúp nhau, "làm hộ

nhau" giữa Tòa án và VKS mà là sao cho mỗi cơ quan làm đúng chức năng, nhiệm

vụ theo thẩm quyền của mình cũng có thể coi là đã phối hợp. VKS làm tốt việc truy

tố sẽ tạo điều kiện cho việc xét xử của Tòa án chính xác, đúng pháp luật. Cũng như

vậy, một bản án công minh, tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm

tội được HĐXX ban hành cũng làm giảm bớt gánh nặng cho VKS khi kiểm sát hoạt

động xét xử của Tòa án.

Mục tiêu đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân thì trên thực tế việc

tăng cường quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS đã thực hiện được những nhiệm

vụ nhất định đó là phối hợp và đưa ra xét xử thành công nhiều vụ án trọng điểm,

những vụ án lớn được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, vẫn còn một số

nơi mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS chưa tạo được sự cân bằng, hợp lý

nhiều trường hợp quá coi trọng quan hệ phối hợp đến mức cả nể, bỏ qua cho nhau những

sai sót trong thực thi nhiệm vụ, mà quên đi trách nhiệm chế ước, hay quá nặng nề về chế

ước dẫn đến đối đầu, cản trở gây khó khăn cho nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ. Một

trong những biểu hiện của sự phối hợp quá mức này là nguyên nhân dẫn đến việc bỏ lọt

tội phạm hoặc làm oan người vô tội trong xét xử. Để GHXX sơ thẩm được bảo đảm thực

thi theo đúng pháp luật thì mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và VKS cần được củng cố

và tăng cường một cách chặt chẽ bằng các giải pháp, đó là:

142

Thứ nhất, đội ngũ KSV và Thẩm phán cần thay đổi tư duy tư pháp, xem trọng

giá trị quyền con người khi giải quyết VAHS trong nhà nước pháp quyền để luôn có

những hoạt động tố tụng đúng, khách quan, không định kiến và “sẵn sàng hợp tác”

để có một VAHS được giải quyết “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.

Thứ hai, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan trong TTHS mà nâng

cao tinh thần trách nhiệm trong việc xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự và

TTHS; tăng cường phối hợp kịp thời để ban hành các thông tư liên ngành, liên tịch

hướng dẫn thi hành chi tiết các qui định của pháp luật trong hoạt động TTHS tạo

“hành lang pháp lý” đầy đủ làm cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền THTT thực hiện

đồng bộ, bảo đảm quyền, lợi ích tố tụng của các chủ thể tham gia.

Thứ ba, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được phân định mà phối hợp - chế ước

trong quá trình xác định sự thật VAHS (vì mục đích TTHS mà phối hợp kịp thời

nhưng không “a dua” khi quan điểm không có căn cứ, cơ sở để đồng thuận, lúc đó

dựa vào chức năng, nhiệm vụ mà chế ước lẫn nhau để “đi tìm chân lý” của vụ án);

xây dựng quy chế phối hợp trong công tác, tổ chức họp liên ngành để xem xét, giải

quyết những vướng mắc về nhận thức và áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm áp dụng

đúng và thống nhất pháp luật trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ đã được

quy định trong Hiến pháp.

Thứ tư, thường xuyên phối hợp rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS,

BLTTHS liên quan đến hoạt động xét xử để kịp thời khắc phục những vướng mắc,

bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS.

Thứ năm, tiếp tục tăng cường công tác phối hợp tổ chức các phiên tòa mẫu,

phiên tòa rút kinh nghiệm theo hướng nâng cao chất lượng tranh tụng, phát huy vai

trò của Thẩm phán chủ toạ phiên toà và các bên tham gia tranh tụng để nâng cao hiệu

quả, hiệu lực của bản án, quyết định khi Tòa án nhân danh nước Cộng hoà XHCN

Việt Nam tuyên, như nội dung các Nghị quyết của Bộ Chính trị liên quan đến cải

cách tư pháp đề ra. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường công tác phối hợp tổ chức các

phiên tòa xét xử lưu động tùy thuộc vào điều kiện, tình hình thực tiễn của từng địa

phương nhằm đáp ứng yêu cầu chính trị, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và tinh

thần đấu tranh phòng chống tội phạm trong quần chúng nhân dân.

143

4.2.2.4. Các giải pháp khác

Cần tiếp tục tăng cường công tác tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm trong công

tác xét xử, đặc biệt chú trọng những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn xét xử và

xác định làm rõ nguyên nhân để định hướng tham mưu hoàn thiện; xây dựng, phát

triển án lệ liên quan; kịp thời ban hành hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn. Qua công

tác tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm cũng cần biểu dương, khen thưởng kịp thời

những cá nhân, tập thể, đơn vị có thành tích tốt, trách nhiệm, nêu gương nhằm lan toả

những yếu tố tích cực, tạo động lực phấn đấu cho đội ngũ cán bộ, tập thể khác trong

ngành. Đây là giải pháp bổ trợ rất thiết thực, nếu lãnh đạo ngành quan tâm, tổ chức

thường xuyên kịp thời và chất lượng sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc thực

tiễn gặp phải do pháp luật liên quan không quy định hoặc hướng dẫn. Từ đó, nâng

dần kỹ năng xử lý tình huống của cơ quan THTT, người THTT có thẩm quyền - điều

này cũng góp phần tạo cơ sở, bảo đảm VAHS được giải quyết đúng đắn và bảo vệ

quyền công dân được kịp thời, chủ động.

Tòa án và VKS cần thực hiện tốt việc thống kê hình sự tình hình tội phạm để có

định hướng hoạch định trong công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới

một cách chủ động, kịp thời và hiệu quả; tăng cường tổ chức Hội thảo, tập huấn

chuyên môn nghiệp vụ theo từng nhóm tội phạm, đặc biệt tội phạm liên quan đến

công nghệ cao, tội phạm với thủ đoạn tinh vi để chủ thể THTT được học hỏi kinh

nghiệm, mở rộng kiến thức, có tư duy đổi mới,… nhằm nâng cao năng lực áp dụng

quy định pháp luật TTHS một cách đúng đắn, bảo đảm kỷ cương, bảo vệ chế độ

XHCN Việt Nam. Để thực hiện giải pháp này, thiết nghĩ cần phải đầu tư hệ thống

phần mềm chuyên dụng hiện đại phục vụ công tác; có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ công chức tư pháp có kiến thức, chuyên môn kỹ thuật và kinh nghiệm phát

hiện, xử lý các vấn đề phát sinh một cách kịp thời. Mặt khác, cần tăng cường phối

hợp với cơ quan điều tra, VKS hướng dẫn người dân các kỹ năng nhận diện hành vi

phạm tội, để có ý thức phòng chống tội phạm cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức xã

hội trong giai đoạn công nghệ thông tin đang “chiếm lĩnh” hầu hết mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội thông qua thống kê hình sự tình hình phạm tội.

144

Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, cần quan tâm mở rộng hợp tác, đàm phán,

ký kết các hiệp định tư pháp với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới

để được tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm trong hoạt động tư pháp cũng như trong tư duy lập

pháp về TTHS; mở rộng hợp tác, giao lưu với các nước có nền tư pháp phát triển, dân chủ,….

từ đó chọn lọc những yếu tố tiến bộ, phù hợp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật TTHS

nói chung và quy định GHXX sơ thẩm nói riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị -

văn hoá - xã hội ở Việt Nam. Muốn thực hiện giải pháp này, đòi hỏi chúng ta phải đánh giá

thực chất kết quả xây dựng pháp luật TTHS, chúng ta đã thật sự tiếp thu những “tinh hoa”,

những yếu tố hợp lý của nền tư pháp trên thế giới liên quan đến mục đích chung của TTHS,

hoạt động xét xử, những giá trị về quyền con người, quyền công dân trong TTHS, việc cụ

thể hoá các nguyên tắc cơ bản trong TTHS vào quá trình THTT để giải quyết VAHS,…. để

thí điểm áp dụng vào điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội ở Việt Nam; đánh giá công tác triển

khai thực hiện công tác xét xử VAHS trong thời gian qua; nhận thức pháp lý, trình độ chuyên

môn và kỹ năng xác định, giải quyết vấn đề của đội ngũ THTT, từ đó xác định nội dung cần

học hỏi kinh nghiệm các nước để xây dựng, hoàn thiện nền tư pháp dân chủ trong Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam.

145

Tiểu kết chương 4

Nhà nước ta đã và đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp để tiến đến việc

xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân,

do Nhân dân và vì Nhân dân. Một nhà nước mà ở đó mọi chủ thể đều lấy “Pháp luật

là thước đo hành vi xử sự, quyền con người, công dân được mở rộng và phát triển”.

Cho nên, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật tố

tụng hình sự nói riêng là một trong những yêu cầu cơ bản, tất yếu. Giới hạn xét xử sơ

thẩm trong tố tụng hình sự là quy định thể hiện điển hình nhất mối quan hệ giữa các

chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (buộc tội, bào chữa và xét xử); thể hiện hài hòa

mối quan hệ tố tụng giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong việc thực hiện chức năng,

quyền hạn đồng thời bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.

Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận, pháp luật thực định

và thực tiễn áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự, luận án

đã đưa ra các yêu cầu cần phải hoàn thiện và bảo đảm thực hiện đúng quy định về

giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu sinh đề

xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan và bảo đảm thực

hiện đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm với mục đích nhằm góp phần xây dựng

hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý khoa học; nâng cao chất lượng giải

quyết vụ án hình sự, hạn chế thấp nhất vướng mắc phát sinh trong thực tiễn áp dụng

pháp luật có liên quan quy định giới hạn xét xử sơ thẩm; góp phần bảo vệ công lý,

bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đáp ứng

yêu cầu phòng, chống tội phạm trong thời kỳ hội nhập.

146

KẾT LUẬN

Giới hạn xét xử sơ thẩm là vấn đề đã được rất nhiều nhà luật học, nhà hoạt động

thực tiễn nghiên cứu, bàn luận với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, nhưng những

hạn chế, vướng mắc vẫn còn tồn tại chưa được giải quyết triệt để về mặt lý luận, pháp

lý và thực tiễn. Trong phạm vi đề tài của luận án, Nghiên cứu sinh đã nghiên cứu,

phân tích một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng quy định giới hạn

xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam; phân tích thực trạng quy định pháp

luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm để nhìn nhận toàn diện về tư duy lập

pháp của Nhà nước ta; đánh giá thực trạng áp dụng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm

trong xét xử vụ án hình sự, xác định những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân. Trên

cơ sở đó, đưa ra yêu cầu và đề xuất những giải pháp hoàn thiện, thực hiện đúng quy

định liên quan. Sau một thời gian dài nghiên cứu, Nghiên cứu sinh rút ra một số kết

luận như sau:

1. Giới hạn xét xử nói chung và giới hạn xét xử sơ thẩm nói riêng - đây là một

trong những vấn đề pháp lý phức tạp của tố tụng hình sự được quan tâm, bàn luận

khá nhiều trong thời gian dài (từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến

thời điểm hiện nay - Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)

được ban hành), nhưng nội dung quy định này vẫn còn thu hút nhiều sự chú ý không

chỉ của những nhà hoạt động thực tiễn mà cả những nhà nghiên cứu pháp luật và kể

cả những người làm công tác giảng dạy. Đã có nhiều công trình, bài viết chuyên môn,

quan điểm trao đổi về vấn đề này nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về mặt nhận thức,

nên về mặt lý luận, tư duy lập pháp và thực tiễn áp dụng vẫn còn tồn tại những vướng

mắc, hạn chế. Do đó, cần phải tập trung chỉ đạo, phát huy trí tuệ của giới khoa học

trong và ngoài nước về khoa học tố tụng hình sự Việt Nam, các cơ quan chức năng

đặc biệt là những cán bộ làm nhiệm vụ thực thi pháp luật, trong đó Nhà nước giữ vai

trò “chủ trì” tổ chức nghiên cứu bản chất nội dung quy định giới hạn xét xử sơ thẩm

trong tố tụng hình sự dưới nhiều góc độ khác nhau và đặt chúng trong mối quan hệ

biện chứng có liên quan với các quy định cơ bản khác trong tố tụng hình sự để thống

nhất trong nhận thức, lập pháp và thực thi.

147

2. Giới hạn xét xử sơ thẩm là chế định pháp lý quan trọng trong tố tụng hình sự.

Thực chất, giới hạn xét xử sơ thẩm chính là phạm vi thực hiện CNXX của Tòa án cấp

sơ thẩm do luật định nhằm mục đích bảo đảm sự phân định rạch ròi giữa các chức năng

cơ bản trong tố tụng hình sự tại phiên tòa sơ thẩm. Việc nhận thức đúng đắn bản chất

giới hạn của xét xử sơ thẩm trong tư duy lập pháp sẽ tạo cơ sở pháp lý góp phần làm

cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng chức năng, nhiệm

vụ Hiến định; khắc phục tình trạng “lấn sân” trong thực thi nhiệm vụ của các cơ quan

bảo vệ pháp luật. Để đạt được yêu cầu đó, đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện pháp

luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm phải được nghiên cứu một cách toàn

diện trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự đã được ghi nhận

trong Hiến pháp năm 2013, nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng hình sự và việc phân định

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng mà thực thi, phối

hợp và chế ước lẫn nhau. Đồng thời, chú trọng đến vai trò, trách nhiệm của các Tòa án

trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, ... Cần nhận thức rằng, nguyên tắc độc

lập khi xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử là điều kiện cần thiết, gắn

liền với CNXX của Tòa án nhưng không phải là đặc quyền, không có giới hạn của Tòa

án. Khi những yếu tố cần và đủ đó được bảo đảm thì quy định giới hạn xét xử sơ thẩm

vụ án hình sự sẽ được xác định một cách khoa học và hợp lý.

3. Qua nghiên cứu đề tài, luận án đã phân tích, đánh giá một cách có hệ thống,

tiếp cận đa ngành liên ngành về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng quy định

giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự, bước đầu luận án có được kết quả

nghiên cứu như sau: xây dựng khái niệm khoa học về “giới hạn xét xử sơ thẩm”, nội

dung và ý nghĩa của giới hạn xét xử sơ thẩm; phân tích làm rõ cơ sở lý luận về giới

hạn xét xử sơ thẩm, mối quan hệ giữa quy định này với các quy định khác trong Bộ

luật tố tụng hình sự; tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế về các mô hình quy định giới hạn

xét xử sơ thẩm để tham khảo xây dựng mô hình giới hạn xét xử sơ thẩm ở Việt Nam;

phân tích, đánh giá, so sánh quy định giới hạn của việc xét xử sơ thẩm qua các Bộ

luật tố tụng hình sự Việt Nam; tìm hiểu thực tiễn áp dụng quy định giới hạn của việc

xét xử sơ thẩm thông qua một số vụ án hình sự liên quan cụ thể điển hình, làm rõ

148

những mặt hạn chế, vướng mắc và xác định nguyên nhân chính của hạn chế, bất cập.

Trên cơ sở đó, đặt ra các yêu cầu và đề xuất giải pháp hoàn thiện, bảo đảm thực hiện

đúng quy định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự góp phần nâng cao hiệu

quả hoạt động tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở

nước ta hiện nay; làm phong phú, đa dạng về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn áp

dụng quy định, làm nguồn tài liệu hữu ích, có giá trị để nghiên cứu, học tập.

Với khả năng và nhận thức có hạn, quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi

những sai sót nhất định. Với tinh thần học hỏi, nghiên cứu sinh rất mong nhận được

sự đóng góp, chia sẻ quý báu của thầy cô, của các nhà khoa học, của các cán bộ làm

công tác thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và đồng nghiệp để nghiên cứu

sinh tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu góp phần hoàn thiện hơn những vấn đề liên quan

đến giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự về mặt nhận thức, lý luận, pháp lý

cũng như thực tiễn./.

149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Trần Thị Ánh (2019), Một số hạn chế trong quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015 về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội

(số 8-2019), tr.13 - tr.22.

2. Trần Thị Ánh (2020), Các yếu tố tác động đến việc áp dụng quy định của

pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử sơ thẩm, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã

hội (số 5-2020), tr.13 - tr.22.

3. Trần Thị Ánh (2023), Giới hạn xét xử sơ thẩm: mối quan hệ giữa các chức

năng cơ bản trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8-2023, tr.24 - tr.27.

4. Trần Thị Ánh (2024), Căn cứ xác định giới hạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng

hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8-2024, tr.25 - tr.30.

i

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt

1. Hoàng Ngọc Anh (2021), Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp

dụng Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về giới hạn xét xử và

hướng hoàn thiện, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại Tp Hồ

Chí Minh, http://tkshcm.edu.vn (24/10/2021).

2. Nguyễn Thị Lan Anh, Lê Xuân Lục (2023) Quyền được xét xử công bằng

nhìn từ góc độ pháp luật quốc tế và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,

https://kiemsat.vn (01/02/2023).

3. Trần Thị Ánh (2019), Một số hạn chế trong quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 về giới hạn của việc xét xử sơ thẩm, Tạp chí Nhân lực

Khoa học xã hội (số 8-2019), tr.13 – tr.22.

4. Trần Thị Ánh (2023), Giới hạn xét xử sơ thẩm: mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 8-2023,

tr.24 – tr.27.

5. Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 về “việc tiếp tục xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn

mới”, Hà Nội.

6. Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (2005), NXB Tư

pháp, Bộ Tư pháp Viện khoa học pháp lý, Hà Nội.

7. Hồ Quốc Bình (2016), Giới hạn xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Nguyễn Mai Bộ và Vũ Thị Hà (2022), Giới hạn xét xử và phạm vi quyết

định về hình sự của Hội đồng xét xử sơ thẩm, https://tapchitoaan.vn

(30/7/2022)

ii

9. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 “về một

số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", Hà Nội.

10. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 “về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng

đến năm 2020”, Hà Nội.

11. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 “về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.

12. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 “về việc tiếp

tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị

khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.

13. Bộ luật tố tụng hình sự nước Ba Lan

14. Bộ luật tố tụng hình sự nước Bungari

15. Bộ luật tố tụng hình sự nước Canada

16. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa liên bang Nga năm 1960, năm 2001

17. Bộ luật tố tụng hình sự nước Hàn Quốc

18. Bộ luật tố tụng hình sự nước Malaysia

19. Bộ luật tố tụng hình sự nước Rumani

20. Bộ luật tố tụng hình sự nước Thái Lan

21. Bộ Tư pháp Viện Khoa học pháp lý (2006), từ điển Luật học, NXB Từ điển

bách khoa, Hà Nội.

22. Lê Tiến Châu (2008), CNXX trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến

sĩ, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

23. Nguyễn Ngọc Chí (2009), Chức năng của Tòa án trong Tố tụng hình sự

trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà

Nội, Luật học 25, tr.163 - tr.171.

24. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên - 2015), Quyền con người trong lĩnh vực tư

pháp hình sự, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

25. Nguyễn Anh Chung (2020), Xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh

Viện kiểm sát truy tố - vướng mắc và kiến nghị, https://tapchitoaan.vn

(14/7/2020).

26. Phan Vĩnh Chuyển (2017), Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Ngô Ngọc Diễm – Đỗ Thị Hà (2022), Bàn về nguyên tắc suy đoán vô tội

trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện tử

(23/4/2023).

28. Nguyễn Đăng Dung (2014), Nguyên tắc độc lập của Tòa án và quy định

của Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20 (276), tháng

10/2014.

29. Hoàng Đình Dũng (2021), Giới hạn xét xử sơ thẩm VAHS và ảnh hưởng

đến thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm, Tạp chí TAND điện tử đăng

ngày 9/8/2021, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/gioi-han-xet-xu-

so-tham-vu-an-hinh-su-va-anh-huong-den-tham-quyen-cua-toa-an-cap-

phuc-tham.

30. Lê Trung Dũng (2018), Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các Tòa án Quân sự

Quân khu 2, luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Trịnh Văn Dũng (2023), Nguyên tắc xét xử độc lập của Tòa án: thực trạng

áp dụng và những bất cập, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (15/6/2023).

32. Phạm Tiến Đại (2019), Bàn về nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng

hình sự năm 2015, https://tapchitoaan.vn (18/6/2019).

33. Nguyễn Văn Điền (2019), Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

trên cơ sở Hiến định, Trang thông tin Bộ Tư pháp mục nghiên cứu trao đổi,

đăng cập nhật ngày 18/7/2019.

34. Trần Văn Độ (2000), Hoàn thiện các quy định về giới hạn xét xử, Tạp chí

TAND, (số 3), tr.1-3.

35. Trần Văn Độ (2015), Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong Hiến pháp

nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, http://www.moj.gov.vn.

36. Giáo trình tố tụng hình sự Xô Viết (1980), Matxcơva, NXB Văn học pháp

lý, tr.15 đến tr.20.

37. Giáo trình tố tụng hình sự Xô Viết (2000), Matxcơva, NXB Dersalo.

38. Phạm Hồng Hải (2003), Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 5), tr.68-

tr.72.

39. Phạm Hồng Hải (2003), Tiến tới xây dựng TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh

tụng, tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 07), tr.45

40. Phạm Hồng Hải (2014), Vấn đề giới hạn xét xử trong luật tố tụng hình sự,

http://www.phamhonghai.vn/van-de-gioi-han-cua-viec-xet-xu-trong-luat-

to-tung-hinh-su newsview.ápx?cate=248&id=259,(15/7/2014).

41. Vũ Đức Hạnh (2020), Hoàn thiện chế định quyền công tố trong tố tụng hình

sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam (kỳ 2), tạp chí Khoa học

kiểm sát Trường Đại học kiểm sát Hà Nội (số 04-2020).

42. Trần Thu Hạnh (2018), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử

vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Khoa học

ĐHQGHN: Luật học, tập 34, số 3.

43. Hoàng Văn Hạnh (2020), Quy định về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy

đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Dân chủ và

pháp luật, Bộ Tư pháp (30/5/2020).

44. Lương Thị Mỹ Hiền (2017), Giới hạn xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm theo

quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Trang Cổng thông tin Viện

kiểm sát nhân dân huyện Phong Điền, tỉnh Cần Thơ, đăng cập nhập ngày

14/4/2017.

45. Nguyễn Quang Hiền (2014), Pháp luật - phương thức quan trọng bảo vệ

quyền con người, Tạp chí Khoa học pháp lý (số 1).

46. Nguyễn Văn Hiện (1999), “Vấn đề giới hạn xét xử của Tòa án nhân dân”,

Tạp chí Tòa án nhân dân (số 8), tr.1- tr.5.

47. Mai Thanh Hiếu (2013), Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong giới

hạn xét xử sơ thẩm, Tạp chí Luật học (số 10), tr.13 - tr.19.

48. Mai Thanh Hiếu (2017), Giới hạn xét xử sơ thẩm theo truy tố, Tạp chí luật

học (số 3), tr.18 - tr.27.

49. Nguyễn Thị Hồng Hoa (2016), Giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ trường Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh.

50. Phan Trung Hoài (2016), Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2015, Sách chuyên khảo, NXB Chính trị quốc gia

– sự thật, Hà Nội.

51. Nguyễn Thị Thúy Hoàn (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giới

hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận

văn thạc sĩ trường Đại học Luật Hà Nội.

52. Nguyễn Anh Hoàng (2023), Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 06

(478), tháng 3/2023.

53. Vũ Văn Hoàng (2021), Bảo đảm quyền bào chữa đối với người bị buộc tội

trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,

https://tapchitoaan.vn (18/12/2021).

54. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số

04/2004/NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử

sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

55. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam:

những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Học viện Khoa học xã hội.

56. Phạm Mạnh Hùng (2015), Vấn đề kiểm sát việc thực hiện quyền tư pháp

giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong Tố tụng hình sự, Trường Đại học Kiểm

sát Hà Nội, trang chủ - thông tin khoa học – hinh su va to tung hinh su.

(http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet)

57. Trần Văn Hùng (2018), Giới hạn xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015, Trang thông tin Tạp chí Tòa án nhân dân mục nghiên

cứu – xây dựng pháp luật (đăng ngày 06/02/2018).

58. Trần Văn Hùng (2022), Bàn về trả hồ sơ điều tra, bổ sung, về giới hạn xét

xử, Trang thông tin Tạp chí Tòa án nhân dân mục nghiên cứu – xây dựng

pháp luật (26/4/2022).

59. Đinh Thế Hưng (2010), Các điều kiện bảo đảm quyền con người ở Việt

Nam, Hội thảo do Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Viện NN&PL tổ chức ngày

27/8/2010.

60. Đinh Thế Hưng (2019), Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng

hình sự Việt Nam, Tạp chí tòa án nhân dân điện tử (11/9/2019).

61. Đinh Thế Hưng (2020), Về tố tụng công bằng trong tố tụng hình sự Việt

Nam, Tạp chí tòa án nhân dân điện tử (13/8/2020).

62. Nguyễn Văn Huyên (1999), Những căn cứ để quy định giới hạn của việc

xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Luật học (số 2), tr.45 – 48 và tr. 52.

63. Nguyễn Văn Huyên (2002), Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, luận

án tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội

64. Nguyễn Văn Huyên (2003), Một số vấn đề về giới hạn xét xử, Tạp chí Luật

học (số 6), tr.47 – tr.51.

65. Nguyễn Văn Huyên, Lê Lan Chi (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố

tụng hình sự năm 2015, NXB Lao động, Hà Nội.

66. Khoa luật, Đại học quốc gia (2009), Giáo trình lý luận và nhà nước về quyền

con người, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2011), “Giới thiệu các văn kiện quốc

tế về quyền con người”, NXB Lao động xã hội.

68. Hà Thị Khuyên – Nguyễn Văn Đồng (2023), Bàn về nguyên tắc xét xử độc

lập trong các cấp Tòa án, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện tử (27/6/2023).

69. Nguyễn Xuân Kỳ (2022), Vấn đề giới hạn của việc xét xử quy định tại Điều

298 Bộ luật tố tụng hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam điện tử (27/02/2022).

70. Võ Thị Kim Oanh (2008), Xét xử sơ thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam,

Luận án tiến sĩ, Viện Nhà nước và pháp luật, Tp. Hồ Chí Minh.

71. Võ Thị Kim Oanh (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

72. Vũ Gia Lâm (2010), Phạm vi xét xử phúc thẩm về hình sự và quyền sửa bản

án sơ thẩm, Tạp chí luật học (số 5), tr.46 – tr.50.

73. Vũ Gia Lâm (2023), Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự về thẩm quyền của Tòa án nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, Tạp chí

Kiểm sát số 15/2023.

74. Nguyễn Quang Lộc, Phạm Thị Thu Thuỷ (2020), Bàn về rút quyết định truy

tố của Viện kiểm sát quy định trong BLTTHS năm 2015,

https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ban-ve-rut-quyet-dinh-truy-to-

cua-vien-kiem-sat-quy-dinh-trong-bltths-nam-2015

75. Đoàn Đức Lương (2008), Những yếu tố tác động đến hoạt động xét xử và

nhu cầu, phương hướng nâng cao hiệu quả ở nước ta hiện nay, Tạp chí Đại

học Huế (số 47), Thành phố Huế.

76. Đinh Minh Lượng, Đặng Thế Thanh (2021), Những vướng mắc trong thực

tiễn khi áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2015, https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/nhung-vuong-mac-trong-

thuc-tien-khi-ap-dung-khoan-2-khoan-3-dieu-298-bo-luat-to-tung-hinh-su-

nam-2015.

77. Đinh Thị Mai (2015), Các chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam: nhìn từ

lý thuyết chức năng, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội (số 05), tr.10 –tr.18.

78. Đinh Thị Mai (2017), Chức năng bảo vệ quyền con người: Hướng tiếp cận

mới về các chức năng của tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học và Giáo dục

tháng 01/2017.

79. Vũ Chi Mai (2004), Giới hạn xét xử của Tòa án, luận văn thạc sĩ luật học

trường Đại học luật Hà Nội.

80. Nguyễn Đức Minh (2020), Bàn về nguyên tắc suy đoán vô tội, Tạp chí tòa

án nhân dân điện tử (08/8/2020).

81. M.X.Xtrôgôvich (1951), Truy tố trong tố tụng hình sự, NXB Viện hàn lâm

Liên Xô, tr.15, tr.188

82. Nguyễn Duy Nam (2016), Bàn về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định

của pháp luật Tố tụng hình sự, Nghiên cứu – trao đổi trên trang web của Bộ

Tư pháp ngày 19/8/2016.

83. Nguyễn Hoài Nam (2010), Hạn chế trong quy định giới hạn xét xử của Bộ

luật tố tụng hình sự 2003, Tạp chí TAND (số 13), tr.29 – tr.31.

84. Lê Đình Nghĩa (2021), Một số bất cập thực hiện nguyên tắc tranh tụng

trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, https://tapchitoaan.vn

(04/10/2021).

85. Lê Hữu Nghĩa (2000), Bảo vệ và phát triển quyền con người, bản chất chế

độ ta, in trong Thông tin quyền con người, Trung tâm nghiên cứu quyền

con người, Học viện Chính trị quốc gia, số 1, tr.5 - tr.6.

86. Phan Gia Ngọc (2006), Tòa án không nên có chức năng buộc tội, Tạp chí

TAND (số 04).

87. Phạm Hồng Phong (2015), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực

hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử, Trang thông tin “Người

bảo vệ quyền lợi” - trang web của Trung tâm tư vấn pháp luật Tp. Hồ Chí

Minh - Trung ương Hội luật gia Việt Nam, đăng cập nhật 19/5/2015.

88. Lê Thanh Phong (2017), Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ

Chí Minh, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

89. Lê Thanh Phong (2018), Bàn về giới hạn xét xử trong bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát (số 13)

90. Nguyễn Thái Phúc (2003), Vấn đề về giới hạn xét xử trong Tố tụng hình sự,

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 11), tr 40 – 52.

91. Nguyễn Thái Phúc (2006), Nguyên tắc suy đoán vô tội, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật (số 11).

92. Nguyễn Thái Phúc (2007), Mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam – những vấn

đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí khoa học pháp lý Trường Đại học Luật Tp.

Hồ Chí Minh số 5 (42).

93. Nguyễn Thái Phúc (2008), Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng

trong Tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật (số 8), tr.58 – tr.67.

94. Nguyễn Thái Phúc (2016), “Suy đoán vô tội: Nét son trong tố tụng”, Báo

Pháp luật Tp. Hồ Chí Minh ngày 15/2/2016.

95. Nguyễn Thái Phúc (2019), Cần sửa đổi và hoàn thiện Điều 298 về Giới hạn

xét xử trong BLTTHS năm 2015, Tạp chí kiểm sát (số 02).

96. Nguyễn Thái Phúc (2020), Thay đổi nội dung truy tố tại phiên tòa hình sự

sơ thẩm, Tạp chí kiểm sát (số 08).

97. Đặng Quang Phương (1995), “Nguyên tắc độc lập xét xử và vấn đề giới hạn

xét xử trong tố tụng hình sự”, Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách

của tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, tr.43.

98. Đinh Thanh Phương (2012), Nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của

Tòa án nhân dân, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, tr.153 –

tr.161.

99. Đỗ Thị Phượng (2017), Quyền con người, quyền công dân và bảo đảm, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp

chí luật học (số 2), tr.39 – tr. 46.

100. P.X. Enkind (1963), Bản chất của luật tố tụng hình sự Xô Viết, Nxb MGU,

Matxcơva, tr.54.

101. Phạm Vũ Ngọc Quang (2004), Giới hạn của việc xét xử theo quy định của bộ

luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tạp chí kiểm sát (số 12), tr. 30 – 31 & tr.36.

102. Phạm Vũ Ngọc Quang (2007), Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong

trường hợp Tòa án xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn khoản Viện kiểm sát

truy tố, Tạp chí kiểm sát (số 23), tr.24 – tr.25.

103. Đinh Văn Quế (2006), Một số vấn đề về giới hạn của việc xét xử, Tạp chí

kiểm sát (số 4), tr.26-30, 35.

104. Đinh Văn Quế (2011), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt

Nam – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Kỷ yếu Hội thảo khoa học

“Hoàn thiện mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách

tư pháp – kinh nghiệm Cộng hòa liên bang Đức” do VKSNDTC và Quỹ

hợp tác quốc tế về pháp luật Cộng hòa liên bang Đức phối hợp tổ chức ngày

9 -10/6/2011, Hà Nội.

105. Vũ Mai Quỳnh (2021), Bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự và

một số vấn đề cần đặt ra, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Tạp chí Luật

sư Việt Nam điện tử.

106. Liên Hiệp Quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị,

Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc.

107. Liên Hiệp Quốc (1948), Tuyên ngôn Nhân quyền, Đại Hội đồng Liên Hiệp

Quốc.

108. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992, 2013), Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

109. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015, 2017), Bộ luật

Hình sự Việt Nam năm 1999, năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988, 2003, 2015),

Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988, năm 2003, năm 2015 (sửa đổi,

bổ sung năm 2021), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

111. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014, 2024), Luật Tổ

chức Tòa án nhân dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

113. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Luật Tổ chức

chính quyền địa phương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

114. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006, 2012), Luật

Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

115. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị quyết số

37/2012/QH13 ngày 23/11/1012 về công tác phòng, chống vi phạm pháp

luật và tội phạm, công tác của VKSND, Hà Nội.

116. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nghị quyết số

63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 về tăng cường các biện pháp đấu tranh

phòng, chống tội phạm, Hà Nội.

117. Phạm Thị Như Quỳnh (2017), Thực hiện quyền tư pháp trong tố tụng hình

sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

118. Nguyễn Ích Sáng (2013), Về giới hạn của việc xét xử trong Bộ luật tố tụng

hình sự và những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, Tạp chí dân chủ và pháp luật

(số 5), tr.5-12.

119. Hồ Sỹ Sơn (2011), Bảo vệ quyền con người trong tụng tố hình sự Việt Nam và

một số đề xuất về hoàn thiện pháp luật, Tạp chí Luật học (số 01), Hà Nội.

120. Khâu Văn Sĩ (2017), Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình

sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

121. Nguyễn Trương Tín (2008), Mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình

sự với CNXX của Tòa án, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (số 10)

122. Đặng Đình Thái (2023), Bàn về Quyền con người trong tố tụng hình sự, Tạp

chí TAND điện tử (27/11/2023)

123. Hoàng Đình Thanh (2023), Trao đổi về nội dung nguyên tắc tranh tụng

trong xét xử được bảo đảm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2015, https://kiemsat.vn (09/6/2023).

124. Lê Văn Thanh (2022), Bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn

xét xử sơ thẩm, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (29/8/2022).

125. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), Bàn về việc áp dụng Điều 196 Bộ luật tố

tụng hình sự, Tạp chí TAND (số 1), tr.31-32, 47.

126. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (2013), Những vấn đề lý

luận và thực tiễn cấp bách của việc Đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

127. Vũ Tiến Thọ và Đỗ Ngọc Bình (2021), Cần hoàn thiện các quy định về giới

hạn xét xử, https://tapchitoaan.vn (24/5/2021).

128. Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988

hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.

129. Nguyễn Văn Thuân (2016), Quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa

án trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát số 7/2016).

130. Tòa án nhân dân tối cao (1974), Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 hướng

dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm hình sự, Hà Nội.

131. Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2021), Báo cáo

về công tác của ngành kiểm sát nhân dân, ngành Tòa án nhân dân nhiệm

kỳ 2016 - 2021, trình trước Quốc hội ngày 25/3/2021.

132. Tòa án nhân dân tối cao (2022, 2023), Báo cáo tổng kết công tác năm 2022,

2023 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023, 2024 của các Tòa

án, Hà Nội.

133. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Bản án số: 182/2022/HS-

ST ngày 28-4-2022 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.

134. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Bản án số: 329/2022/HS-

ST ngày 22-7-2022 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.

135. Tòa án nhân dân Tỉnh Kiên Giang (2022), Bản án số: 70/2022/HS-ST ngày

12-8-2022 của TAND Tỉnh Kiên Giang.

136. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2022), Bản án số: 426/2022/HS-

ST ngày 13-9-2022 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.

137. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2023), Bản án số: 241/2023/HS-

ST ngày 24-5-2023 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.

138. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2023), Bản án số: 54/2023/HS-

ST ngày 23-11-2023 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.

139. Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai (2023), Bản án số: 193/2023/HS-ST ngày

01-12-2023 của TAND Tỉnh Đồng Nai.

140. Nguyễn Tất Trình (2022), Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận

về tội nhẹ hơn tại phiên tòa, Tạp chí điện tử luật sư Việt Nam (11/5/2022).

141. Trung tâm từ điển học (2005), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

142. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước

và Pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

143. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt

Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

144. Trường Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Tố tụng hình

sự Việt Nam (tái bản có sửa đổi, bổ sung), NXB Hồng Đức – Hội Luật gia

Việt Nam.

145. Nguyễn Văn Tuân (2010), Giới hạn xét xử và vấn đề bảo đảm quyền bào

chữa của bị cáo trong tố tụng hình sự, Tạp chí TAND (số 12), tr.7-14.

146. Nguyễn Văn Tuấn, Ý kiến Luật sư về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy

định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trên trang Thông tin điện tử

Công ty Lawfirm (cập nhật 16/11/2017)

147. Hoàng Anh Tuyên (2023), Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong

tố tụng hình sự - một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm

2015, Tạp chí kiểm sát (số 16), http://kiemsat.vn

148. Phạm Minh Tuyên (2020), Nguyên tắc suy đoán vô tội theo Bộ luật tố tụng

hình sự 2015 – lý luận và thực tiễn, https://tapchitoaan.vn

149. Đào Trí Úc (2011), Tổng quan về mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam thực

trạng và phương hướng hoàn thiện, Kỷ yếu Hội thảo khoa học“Hoàn thiện

mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp – kinh

nghiệm Cộng hòa liên bang Đức” do VKSNDTC và Quỹ hợp tác quốc tế

về pháp luật Cộng hòa liên bang Đức phối hợp tổ chức ngày 9-10/6/2011

tại Hà Nội.

150. Đào Trí Úc – Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Bàn về các nguyên tắc tố tụng

hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2 (247), tr 51 - 60.

151. Đào Trí Úc (2016), Cải cách tư pháp và việc hoàn thiện các nguyên tắc cơ

bản của Tố tụng hình sự Việt Nam, Thông tin khoa học Trường Đại học

Kiểm sát, (http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/216)

152. Đào Trí Úc (2016), Xác định Tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động

trọng tâm, Thông tin khoa học Trường Đại học Kiểm sát,

(http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/216)

153. Đào Trí Úc (2017), Nguyên tắc suy đoán suy đoán vô tội – nguyên tắc hiến

định quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Kiểm sát

số 02/2017.

154. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,X,XI,XII, XIII Đảng Cộng sản

Việt Nam (2001, 2006, 2011, 2016, 2021), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

155. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết thực tiễn 10 năm

thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ

9, Quốc hội khóa XIII, Hà Nội.

156. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021,

2022, 2023), Báo cáo tổng kết công tác năm và phương hướng hoạt động

của ngành Kiểm sát, Hà Nội.

157. Võ Khánh Vinh (2011), Sách chuyên khảo “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ

quyền con người”, NXB Khoa học xã học Hà Nội.

158. Đặng Văn Vương - Xuân Thoại (2022), Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

được bảo đảm quy định và thực tiễn thực hiện, Tạp chí điện tử Luật sư Việt

Nam (22/4/2022).

159. V.M. Xavitxki (1971), Buội tộc Nhà nước tại phiên tòa, NXB Khoa học

Matxcơva, tr.19.

160. http://cand.com.vn/Phap-luat/Vien-truy-to-toi-lam-dung-Toa-xet-xu-toi-

tham-o-536933/ truy cập ngày 17/3/2019.

161. https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/7-can-bo-toa-an-tham-phan-

tham-nhung-tieu-cuc-bi-xu-ly-trong-hon-2-nam-208287.html

162. https://phong-partners.com/top-15-vu-an-oan-noi-tieng-viet-nam

B. Tài liệu tiếng Nga

163. Чельцов-Бебутов М. А. Очерки по истории суда и уголовного процесса в рабовладельческих, феодальных и буржуазных государствах. М, 1957.

164. П а щ к е в и ч П. Ф. О необходимости расширения прав суда на изменение обвинения.— В кн.: Проблемы совершенствования советского законодательства. М., 1975, с. 187-199

165. Н. С. Алексеев В. Г. Даев Л. Д. Кокорев. Очерк развития науки

Советского уголовного процесса. Воронеж. Издательство

Воронежского университета 1980.

166. Постановление Конституционного Суда РФ от 14 января 2000 г. // СЗ

РФ. 2000. N 5. Ст. 611.

167. Большой юридический словарь.— М.: ИнфраМ. А. Я. Сухарев, В. Е.

Крутских, А.Я. Сухарева. 2003.

168. Хохряков. М А Исторические модели пределов судебного судопроизводстве. Актуальные в уголовном

разбирательства проблемы российского права 2/2012.

169. Хохряков М. А Пределы судебного разбирательства уголовного дел в

суде первой инстанции: законодательство,теория,практика.

Автореферат диссертации на соискание ученой степени кандидата

юридических наук.Москва 2013.

170. Бравилова Екатерина Александровна. Пределы судебного

разбирательства. http://lawtheses.com/predely-sudebnogo-razbiratelstva.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

STT

NỘI DUNG

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

I Giải quyết sơ thẩm các vụ án hình sự

71.804 71.291 68.362 66.994 67.497

72.263

81.596 83.464 91.996

1.1 Tổng số vụ tòa án đã thụ lý

59.696 60.496 57.879 61.669 61.850

59.343

65.696 68.896 76.590

1.2 Số vụ đã xét xử

Số bị cáo tòa tuyên không tội

27

10

09

08

04

03

0

07

01

-

485

617

456

-

381

369

454

473

517

1.3 Số vụ tòa đình chỉ xét xử

160

236

66

-

57

76

70

69

49

1.4 Số vụ tòa tạm đình chỉ xét xử

1.5 Số vụ tòa án trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều

2.578

2.039

1.728

2.115

1.267

1.127

1.198

1.340

1.218

tra bổ sung

1.6 Số kiến nghị của viện kiểm sát trong hoạt động

555

629

683

622

643

803

812

1.149

1.190

xét xử sơ thẩm

Giải quyết phúc thẩm các vụ án hình sự

II

1.091

1.473

1.012

809

1.328

907

792

828

788

2.1 Số vụ viện kiểm sát kháng nghị trong kỳ

16.101 16.317 14.490 13.557 14.533

15.466

15.222 17.374 17.465

2.2 Số vụ phải xét xử

10.262 10.730

9.250

9.085

9.743

8.755

8.290

10.417 10.524

2.3 Số vụ đã xét xử

Trong đó: Số vụ do VKS kháng nghị

940

1.310

1.096

864

958

756

920

806

805

-

-

637

695

653

563

761

585

697

636

614

Số vụ kháng nghị được HĐXX phúc thẩm chấp nhận

Số bị cáo tòa tuyên không tội

04

24

02

01

01

0

07

-

01

-

-

-

-

3.894

4.235

4.158

-

-

-

2.4 Số vụ tòa đình chỉ trong kỳ

iii

NỘI DUNG

2015

2016

2017

2018

2019

2020

2021

2022

2023

STT

2.5 Số kiến nghị của viện kiểm sát trong hoạt

105

121

149

-

144

159

216

-

-

động xét xử phúc thẩm

433

436

457

448

453

461

752

646

741

2.6 Số bản thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ

III Giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

29

82

114

135

209

146

205

153

150

3.1 Số vụ Viện kiểm sát kháng nghị trong kỳ

117

225

527

454

308

264

387

257

252

3.2 Số vụ phải giải quyết

70

123

401

388

254

171

269

190

168

3.3 Số vụ đã xét xử

Trong đó: số vụ do VKS kháng nghị

40

71

99

132

196

126

176

115

120

-

Số vụ kháng nghị được HĐXX chấp nhận

34

68

93

109

168

105

150

108

96

-

0

2

0

-

2

0

0

-

-

3.4 Số kiến nghị của viện kiểm sát trong hoạt động xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm và phương hướng hoạt động của Ngành Kiểm sát,

từ năm 2015 đến năm 2023

Phụ lục 2

100,000

91,996

90,000

83,464

81,596

83.25%

80,000

72,263

71,804

71,291

82.55%

68,362

67,497

66,994

80.51%

70,000

92.05%

91.63%

84.86%

82.12%

83.14%

84.67%

60,000

ụ v ố S

50,000

40,000

30,000

20,000

10,000

2.86%

3.59%

3.16%

1.32%

1.61%

2.53%

1.88%

1.47%

1.56%

0

2015

2016

2017

2018

2020

2021

2022

2023

2019 Năm

Tổng số vụ thụ lý

Số vụ đã xét xử

Số vụ trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung

Biểu đồ 1. Tỷ lệ số vụ án đã xét xử sơ thẩm và số vụ trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm 2015 đến 2023

1.80%

90,000

1.67%

1.60%

80,000

76,590

1.55%

68,896

1.35%

65,696

1.40%

70,000

61,850

61,669

60,496

59,696

59,343

57,879

1.20%

60,000

)

1.24%

%

(

ụ v

1.00%

50,000

1.18%

1.04%

ố S

1.04%

m ă r t

0.93%

1.01%

0.80%

40,000

n ầ h P

0.60%

30,000

0.40%

20,000

0.20%

10,000

1,190

1,149

803

622

812

683

643

629

555

0.00%

0

2015

2016

2017

2018

2020

2021

2022

2023

2019 Năm

Số vụ đã xét xử sơ thẩm

Số kiến nghị của VKS

Phần trăm kiến nghị của VKS/số vụ đã xét xử

Biểu đồ 2. Tỷ lệ Số vụ án đã xét xử sơ thẩm và số vụ án VKS kiến nghị sau khi xét xử sơ thẩm

90,000

26.97%

26.06%

26.97%

25.03%

25.22%

76,590

80,000

23.17%

23.50%

30%

21.98%

68,896

65,696

70,000

22.80%

61,669

60,496

61,850

59,696

59,343

57,879

60,000

25%

)

%

(

50,000

20%

m ắ r t

ụ v ố S

40,000

n ầ h P

30,000

15%

17,374

17,465

16,101

15,222

16,317

15,466

20,000

14,533

14,490

13,557

10%

10,000

0

5%

0%

2015 2016 2017 2018 2020 2021 2022 2023

Số vụ án đã xét xử sơ thẩm

Số vụ án phải xét xử phúc thẩm

Tỷ lệ phần trăm

2019 Năm

Biểu đồ 3. Tỷ lệ số vụ án đã xét xử sơ thẩm và số vụ án phải xét xử phúc thẩm

12,000

6%

5.70%

10,730

10,524

10,417

10,262

5.00%

9,743

9,250 9,085

4.67%

8,755

8,290

10,000 5%

)

3.16%

%

(

8,000 4%

m ă r t

ụ v ố S

2.47%

3.02%

2.39%

n ầ h P

2.10%

6,000 3%

1.14%

4,000 2%

2,000 1%

308

527 454 387 252 225 264 257 117

0 0%

2015 2016 2017 2018 2020 2021 2022 2023

2019 Năm

Số vụ án đã xét xử phúc thẩm

Số vụ án phải xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm

Tỷ lệ phần trăm

Biểu đồ 4. Tỷ lệ số vụ án đã xét xử phúc thẩm với số vụ án phải giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm