LUẬN VĂN:

Bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh

Bình hiện nay

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bảo hiểm xã hội là một chính sách trong những nội dung của hệ thống tài chính Nhà

nước nhằm góp phần thực hiện ổn định kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống

người lao động. Cùng với các nội dung nhiệm vụ và chính sách kinh tế Đảng và Nhà nước

luôn luôn quan tâm đến công tác bảo hiểm xã hội (BHXH).

Bước vào thời kỳ đổi mới, hoạt động bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã hội nói riêng

đã có bước phát triển khá, tăng nguồn thu quỹ BHXH hàng năm để sử dụng vào sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội.

Đồng thời BHXH góp phần đảm bảo chi cho các đối tượng được hưởng chính sách,

không ngừng nâng cao đời sống, ổn định kinh tế - xã hội.

Những năm qua cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN, các thành phần kinh tế trong nước phát triển cả về số lượng và chất lượng, công

tác BHXH càng có cơ hội tạo địa bàn hoạt động, tăng nguồn thu, mở rộng đối tượng thu

không những trong khu vực kinh tế Nhà nước mà lan tỏa sang các thành phần kinh tế khác.

Nhận thức của nhân dân về bảo hiểm và BHXH ngày càng cao, ý thức chấp hành ngày

càng tốt, hoạt động BHXH ngày càng phát triển.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chính sách BHXH đối với người lao động

thuộc các thành phần kinh tế. Bước vào thời kỳ đổi mới, để phù hợp với chủ trương phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước ta đã ban hành Bộ luật lao động

và Điều lệ BHXH nhằm thống nhất thực hiện BHXH trong phạm vi toàn quốc đối với mọi

người lao động. Từ tháng 7 năm 1995, quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của

người lao động, người sử dụng lao động và độc lập với ngân sách nhà nước. Hướng phát

triển sẽ trở thành nguồn tài chính chủ yếu bảo đảm cho các nhu cầu hoạt động và chi trả

cho các đối tượng của BHXH trong tương lai. Khác với các loại hình bảo hiểm khác, quỹ

BHXH được Nhà nước bảo trợ để bảo đảm ổn định và tăng trưởng quỹ.

Ninh Bình là một tỉnh được tái lập từ năm 1992, công tác BHXH được đặc biệt quan

tâm. Từ đó đến nay hoạt động thu - chi, đảm bảo chính sách cho đối tượng tham gia

BHXH ngày càng tăng trưởng khá. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới, BHXH chưa khai

thác hết tiềm năng, thế mạnh. Đặc biệt từ khi có quyết định 20/TTg/2002 của Thủ tướng

chính phủ về việc sát nhập Bảo hiểm Y tế vào BHXH, mặc dù đối tượng phát triển ngày

một tăng nhưng nhiều vấn đề phát sinh bên cạnh đó gây bức xúc trong đời sống xã hội.

Để có đánh giá khách quan, khoa học về BHXH nói chung và BHXH ở tỉnh Ninh

Bình, vấn đề “Bảo hiểm xó hội ở tỉnh Ninh Bỡnh hiện nay” được chọn làm đề tài nghiên

cứu của Luận văn. Nhằm góp phần sáng tỏ hơn về mặt lý luận, đánh giá khách quan khoa

học về bảo hiểm Ninh Bình hiện nay. Từ đó đề xuất các giải pháp có hiệu quả đối với loại

hình này.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn

ở nước ta trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về

BHXH nhằm phân tích những ưu điểm và hạn chế của chính sách, chế độ và đề ra những

giải pháp hoàn thiện chính sách BHXH đã được nhiều cơ quan, các bộ ngành BHXH thực

hiện, cụ thể:

- Đỗ Văn Sinh: “Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ kinh tế,

Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2005. Luận án đề xuất những giải pháp

nâng cao hiệu quả quản lý quỹ Bảo hiểm Việt Nam.

- Đặng Ngọc Liên: “ Quản lý thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư nhân tại Hà Nội”.

Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, năm 2004. Luận văn nghiên cứu BHXH

dưới góc độ quản lý nguồn thu trên địa bàn Hà Nội, thời gian 1997 - 2004 và các giải pháp để

nâng cao hiệu quả quản lý thu bảo hiểm.

- Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến: “góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo

hiểm xã hội ở nước ta hiện nay”, sách tham khảo, NXB Chính trị Quốc gia, năm 1996.

Tác giả đề xuất những giải pháp góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo hiểm ở

nước ta hiện nay.

- Bảo hiểm xã hội Việt Nam: “Lộ trình mở rộng đối tượng tham gia BHXH theo nghị

định 01/2003/NĐ - CP”. Các tác giả đã đề xuất lộ trình mở rộng đối tượng tham gia

BHXH.

- Phạm Duy Đỉnh: Nghiên cứu “Dịch vụ BHXH Hà Nội”. Luận văn thạc sỹ kinh tế,

Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.

Luận văn nêu rõ dịch vụ BHXH là một loại hình dịch vụ đặc thù. Những thành công

phát triển dịch vụ BHXH của Hà Nội và đề xuất giải pháp mở rộng dịch vụ trong giai đoạn

đến 2010.

- Trần Quang Lâm: “Bảo hiểm Y tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa”. Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm

2006. Luận văn nêu BHXH Việt Nam, chương trình phát triển ngành BHXH Việt Nam

đến 2010. Chương trình đề cập mục tiêu, quy hoạch và phương hướng phát triển ngành

BHXH Việt Nam trên cơ sở phân tích dự báo xu hướng phát triển trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế và gia nhập WTO.

Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí chuyên ngành nghiên cứu đánh giá những vấn đề

BHXH đang đặt ra như quản lý, mở rộng đối tượng tham gia BHXH. Đề xuất các giải

pháp chi trả bảo hiểm đúng đối tượng, thời gian. Cũng như biện pháp hành chính, chế tài

đối với những đối tượng trốn tránh trách nhiệm BHXH. Tuy nhiên, vấn đề BHXH ở tỉnh

Ninh Bình hiện nay chưa có đề tài trùng lắp.

Với đề tài luận văn này, mong muốn từ thực tiễn việc thực hiện công tác BHXH trên

địa bàn tỉnh Ninh Bình trong những năm vừa qua. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp

nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác BHXH đối với người lao động trong quá trình phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích nghiên cứu:

- Hệ thống và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận về BHXH trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách BHXH trong thời gian qua.

- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển BHXH ở Ninh Bình giai đoạn hiện nay

đến 2015

* Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về BHXH, các chế độ chính sách

BHXH đang thực hiện ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Phân tích thực trạng của BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chỉ rõ các thành tựu,

những tồn tại và nguyên nhân.

- Đề xuất các giải pháp thiết thực, có khả thi nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của

BHXH tỉnh Ninh Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu BHXH ở Ninh Bình thể hiện trong việc thực hiện các quy định

của pháp luật về BHXH trên địa bàn các mặt công tác chủ yếu:

- Thu BHXH.

- Chi trả các chế độ BHXH.

- Công tác giải quyết chế độ chính sách.

- Công tác quản lý đối tượng đóng và hưởng BHXH.

- Công tác khai thác mở rộng đối tượng tham gia BHXH.

Các nội dung trên được nghiên cứu trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành

phần và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2000 đến nay, đặc biệt các số liệu từ năm 2003

khi có sát nhập bảo hiểm y tế.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ta đã đề ra trong các

kỳ Đại hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới kể từ Đại hội VI đến nay về các lĩnh vực kinh tế,

tài chính, xã hội.

Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu tổng kết đánh giá thực trạng, kết hợp lý luận với

thực tiễn, thông qua việc phân tích, so sánh các số liệu thống kê để làm rõ các vấn đề cần

nghiên cứu của luận văn.

6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Làm rõ thêm các khái niệm, phạm trù về bản chất, vai trò, vị trí của BHXH trong hệ

thống các chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa BHXH với các loại

hình bảo hiểm khác.

- Khẳng định sự cần thiết, vai trò và giải pháp cụ thể của việc mở rộng đối tượng tham

gia BHXH trong các thành phần kinh tế trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về BHXH

theo xu hướng phát triển và hội nhập. Các quan điểm chỉ đạo của tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân

tỉnh về việc thực hiện BHXH ở Ninh Bình.

- Luận văn là công trình nghiên cứu khá toàn diện về BHXH tại Ninh Bình sau hơn

10 năm thực hiện chính sách BHXH mới trong cơ chế thị trường. Đặc biệt từ khi sát nhập

bảo hiểm y tế vào BHXH. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất

lượng, hiệu quả của công tác BHXH trên địa bàn tỉnh.

- Đây là đề tài nghiên cứu việc thực hiện một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà

nước ở tỉnh Ninh Bình nhìn dưới góc độ BHXH là một bộ phận của hệ thống tài chính

phục vụ người lao động trong các thành phần kinh tế. Có thể làm tài liệu nghiên cứu và

giảng dạy môn Kinh tế chính trị.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương, 7 tiết.

Chương 1

Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm xã hội

Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa

1.1. Bảo hiểm xã hội và những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội

1.1.1. Bảo hiểm xã hội, vị trí, vai trò của bảo hiểm xã hội

1.1.1.1. Bảo hiểm và bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do trong thực tế cuộc sống có nhiều rủi ro xảy

ra, gây nên tổn thất về người và của. Mặc dù con người đã luôn chú ý phòng tránh nhưng

những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra, do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể do thiên

nhiên gây ra, do môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, do sự biến động và phát triển không

ngừng của khoa học và công nghệ…

Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm

soát cũng như khắc phục hậu quả của chúng gây ra. Ví dụ như phòng ngừa và hạn chế tối

đa các rủi ro có thể xảy ra; tự bảo hiểm (tự bỏ ra nguồn tài chính nhất định để bù đắp

những thiệt hại xảy ra với mình trong cuộc sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh

doanh); mua bảo hiểm (đóng một số tiền nhất định cho người quản lý bảo hiểm và người

quản lý bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm về rủi ro). Bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ

sở hợp đồng. Bảo hiểm ra đời, tồn tại và phát triển là do đòi hỏi khách quan của cuộc sống,

của hoạt động sản xuất kinh doanh.

BHXH xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi

quốc gia. Theo tổ chức lao động Quốc tế (ILO), Phổ là quốc gia đầu tiên trên thế giới ban

hành chế độ bảo hiểm ốm đau vào năm 1883, đánh dấu sự ra đời của BHXH bằng luật

định.

Đồng thời tổ chức này cũng khuyến nghị quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các

đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối

tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Theo Công ước số 102, ngày 04 tháng 6 năm 1952 của

Tổ chức lao động quốc tế về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội, trong đó quy định 9 chế

độ về trợ cấp sau đây:

1. Chăm sóc y tế

2. Trợ cấp ốm đau

3. Trợ cấp thất nghiệp

4. Trợ cấp tuổi già

5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

6. Trợ cấp gia đình

7. Trợ cấp sinh đẻ

8. Trợ cấp khi tàn phế

9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) [14, tr.286].

Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế

xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác

nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong

năm chế độ (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên

những cơ sở kinh tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương v v... Đồng thời tuỳ từng chế độ

khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu

cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong...

Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu

tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng

hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là

tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu

trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những

nước quy định: nam 65 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những nước

quy định: nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi... Hoặc khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp cho chế

độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố như: điều kiện môi

trường lao động, bảo hộ lao động,... Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua lại

với nhau và ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống

các chế độ BHXH.

Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng

trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương ứng

giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung

của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao

động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền

công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so

với mức tiền công hay tiền lương. ở các nước kinh tế phát triển do mức lương cao nên tỷ lệ

này thường thấp và ngược lại ở những nước đang phát triển do mức lương còn thấp nên

phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở Pháp mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% mức

lương cao nhất (với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm), ốm đau được hưởng trợ cấp bằng

50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con được

hưởng trợ cấp BHXH bằng 90% tiền lương trong vòng 16 tuần... Còn ở Philipin, mức trợ cấp

hưu trí từ 42% đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau được hưởng 65%,

sinh con được nghỉ 45 ngày và được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương...

Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền

lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã phải tìm

cách khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu, hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm

của một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.

Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho

chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu

hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác... Phần quỹ nhàn rỗi phải

được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng

nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận,

có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội.

Từ những quan niệm, các cách hiểu và các cách tiếp cận khác nhau ở các nước và

các thời kỳ nhất định, vì vậy cho đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm. ở

Việt Nam, trong sách “Giáo trình bảo hiểm” của trường Đại học Kinh tế quốc dân, nhà xuất

bản thống kê xuất bản năm 2005, khái niệm chung nhất về bảo hiểm được định nghĩa như sau:

“Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo

hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp

1 khoản phí cho chính anh ta hoặc người thứ ba” [45, tr.13].

Định nghĩa trên mang tính chung nhất của bảo hiểm, nó chỉ rõ việc người tham gia

bảo hiểm chuyển rủi ro cho người bảo hiểm (thường là một tổ chức kinh doanh) thông qua

việc nộp một khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia bảo hiểm gặp khó

khăn dẫn đến tổn thất, cơ quan bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại

thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm đăng ký với tổ chức bảo hiểm.

Hoạt động bảo hiểm thực chất là quá trình phân phối lại thu nhập giữa những người

tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn rủi ro gây tổn thất đối với

người tham gia bảo hiểm. Điều này thể hiện trong việc hình thành quỹ bảo hiểm từ sự

đóng phí của người tham gia bảo hiểm. Khi người tham gia bảo hiểm gặp biến cố theo hợp

đồng sẽ được quỹ bảo hiểm đền bù theo thoả thuận. Như vậy, phần thu nhập của nhiều

người sẽ được chuyển cho một người, điều này thể hiện tính nhân văn. Quá trình phân phối

lại thu nhập trong bảo hiểm được thực hiện.

Sự phân phối trong bảo hiểm là sự phân phối không đều, không bằng nhau, nghĩa là

không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối một số tiền bằng nhau. Chỉ có

một số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm mới

nhận được sự phân phối, cũng có nghĩa phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi

hoàn, tức là dù có tham gia đóng vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được

phân phối. Tuy nhiên, trong các loại hình bảo hiểm, đặc điểm này cũng thể hiện khác

nhau. Cụ thể, với đa số các loại hình BHTM, sự phân phối không mang tính bồi hoàn thể

hiện rõ. Ví dụ: bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm cháy, nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo

hiểm tài sản. bảo hiểm sức khoẻ… phần đông người mua bảo hiểm không được phân phối

vì không gặp biến cố, chỉ có một số ít người được đền bù. Trong một số dịch vụ bảo hiểm

nhân thọ đang thực hiện như bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm Đại học, bảo hiểm khi kết hôn

(do hãng bảo hiểm quốc tế Prudential thực hiện) hoặc bảo hiểm hưu trí trong BHXH, tính

chất bồi hoàn trong phân phối thể hiện khá rõ. Trong các hình thức bảo hiểm này, những

người tham gia bảo hiểm hầu hết được bảo hiểm khi đạt đến các điều kiện do hai bên thoả

thuận.

Qua sự phân tích trên ta thấy, hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc "số đông bù số

ít" thể hiện trong qúa trình lập quỹ dự trữ bảo hiểm cũng như quá trình phân phối bồi

thường. Nguyên tắc này còn thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc của xã

hội trước rủi ro của mỗi thành viên.

Trong hoạt động kinh tế - xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển được trước

hết phải ăn, mặc, ở và đi lại… Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao

động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời

sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy,

việc thoả mãn nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng

lao động của họ. Nhưng trong thực tế, con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi, có

đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp

khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho con người ta bị giảm hoặc mất thu

nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hoặc bị tai nạn

trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già đến khả năng lao động hay khả năng tự phục

vụ bị suy giảm… Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống

không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số

nhu cầu mới như: cần được khám và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải

có người chăm sóc nuôi dưỡng… Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người

và xã hội loài người phải tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn

nhau trong một nội bộ cộng đồng; đi vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà

nước… Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.

Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu

người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết bảo đảm cho người

làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu cần thiết khi ốm đau,

tai nạn, thai sản… Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ

không phải chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải

bỏ ra trong một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ

phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này

diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy,

Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm

tăng vai trò của nhà nước, mặt khác buộc các giới chủ và giới thợ phải đóng một khoản

tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối

với người làm thuê. Số tiền đóng góp của các chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập

trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách nhà nước khi cần

thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.

Chính những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn

trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới

chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh

được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập

ngày càng lớn và nhanh chóng, khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng

đảm bảo.

Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế

giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế

hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm

giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền

tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an

toàn xã hội.

BHXH là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước;

BHXH rất cần cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội, bất luận là người giàu hay nghèo,

người có địa vị cao hay thấp. Xã hội nào có hệ thống BHXH phát triển mạnh bao nhiêu thì

xã hội đó càng phát triển và ổn định bấy nhiêu, làm cho người lao động yên tâm, phấn

khởi, tích cực sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Trên tinh thần ấy, theo từ điển

bách khoa Việt Nam “BHXH là sự đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho

người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả

năng lao động hoặc sức lao động không được sử dụng thông qua việc hình thành và sử

dụng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo

an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã

hội”.

ở nước ta, trước thời ký đổi mới, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 Chính phủ đã ban

hành sắc lệnh về các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho công

nhân viên chức nhà nước đó là: Sắc lệnh số 29/SL ngày 12 tháng 3 năm 1947 do Chủ

tịch Hồ Chí Minh ký quy định chế độ trợ cấp cho công nhân; Sắc lệnh số 76/SL ngày

20 tháng 5 năm 1950 và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 do Hồ Chủ Tịch

ký, quy định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ

công nhân viên chức.

Tiếp theo là Nghị định số 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 của Hội đồng Chính

phủ về Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức, Nghị định số

161/CP ngày 30 tháng 10 năm 1964 của Hội đồng chính phủ về điều lệ đãi ngộ đối với

quân nhân. Đây là văn bản đầu tiên và quan trọng nhất về BHXH ở nước ta trong thời kỳ

này, các văn bản đã quy định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh. Quy định các chế độ

BHXH gồm 6 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp, mất sức lao

động, hưu trí, tử tuất. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan trong BHXH.

Các chế độ BHXH được thiết lập dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động, nhằm

khuyến khích mọi người tích cực làm việc đẩy mạnh sản xuất, góp phần ổn định lực lượng

lao động trong nền kinh tế quốc dân. Mức trợ cấp BHXH được căn cứ vào thời gian công

tác, tuổi đời, vào điều kiện làm việc, vào tình trạng suy giảm khả năng lao động. Mức trợ

cấp BHXH gắn chặt với tiền lương và nguyên tắc phải thấp hơn mức tiền lương khi làm

việc. Về tổ chức và quản lý thì Bộ Lao động thương binh và Xã hội quản lý 3 chế độ mất

sức lao động, hưu trí, tử tuất. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản thực hiện 3 chế độ

ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp.

Nghị định số 236/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985 của Hội đồng bộ trưởng về các

chế độ BHXH được sửa chữa có tính đến các chính sách ưu đãi đối với những người tham

gia trong hai cuộc kháng chiến và những công nhân viên chức làm việc tại những nơi xa

xôi, khó khăn gian khổ và hải đảo. Nghị định số 236/HĐBT bổ sung quy đổi thời gian

công tác theo hệ số. Quyết định số 133/HĐBT ngày 01 tháng 11 năm 1985 của Hội đồng

bộ trưởng là nâng tỷ lệ trợ cấp hưu trí lên cao nhất bằng 95% tiền lương tháng trước khi

nghỉ hưu.

Chính sách BHXH trong thời kỳ này còn nhiều hạn chế như: Đối tượng tham gia và

hưởng các chế độ BHXH mới chỉ được thực hiện đối với công nhân viên chức nhà nước và

lực lượng vũ trang, chính sách BHXH còn đan xen với nhiều chính sách khác như chính

sách ưu đãi xã hội, chính sách dân số, chính sách cán bộ... nguồn tài chính BHXH phụ

thuộc chủ yếu vào ngân sách Nhà nước, quan hệ tài chính Bảo hiểm xã hội chưa được coi

trọng như thu, chi BHXH. Mặc dù vậy, chính sách BHXH trong thời kỳ này đã cụ thể hoá

đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất

nước thời kỳ này.

Trong điều 140 của Bộ luât lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

quy định “Nhà nước quy định về chính sách BHXH nhằm từng bước mở rộng và nâng cao

việc bảo đảm vật chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình họ trong

các trường hợp lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp, mất việc làm gặp rủi ro hoặc các khó khăn. Chế độ BHXH là cụ thể hoá

những quy định chính sách xã hội của nhà nước, quy định của các hình thức bảo đảm, những

điều kiện về vật chất và tinh thần cho người lao động và các thành viên trong gia đình họ khi

gặp trường hợp bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Nhà nước ta coi BHXH là một chính sách

quan trọng xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội.

Từ ngày thành lập BHXH, ngày 26 tháng 1 năm 1995 Chính phủ ban hành điều lệ

BHXH kèm theo nghị định 12/CP đối với người lao động làm việc trong các thành phần

kinh tế và BHXH đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội

nhân dân và công an nhân dân. Điều lệ BHXH bao gồm 5 chế độ cụ thể như sau:

- Chế độ ốm đau.

- Chế độ thai sản.

- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.

- Chế độ hưu trí.

- Chế độ tử tuất.

Về đối tượng BHXH được áp dụng đối với người làm công ăn lương trong các thành

phần kinh tế, mở rộng đối tượng đến xã viên hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ,

nông nghiệp, ngư nghiệp, lao động tự do… thành lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách

nhà nước, từng bước thực hiện việc cân đối quỹ BHXH. Quỹ BHXH có 3 nguồn đóng góp

là Nhà nước, chủ sử dụng lao động và người lao động trong đó:

+ Người lao động đóng góp bằng 5% tiền lương hàng tháng.

+ Người chủ sử dụng lao động đóng bằng 15% tổng quĩ lương của doanh nghiệp.

Ngày 12 tháng 11 năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị định 93/1998/NĐ-CP sửa đổi bổ

sung một số điều của điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng

01 năm 1995 và nghị định số 94/1999/NĐ-CP ngày 8 tháng 9 năm 1999 về việc sửa đổi,

bổ sung một số điều lệ của Điều lệ BHXH đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ

sỹ quan, binh sỹ quân đội và công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP

ngày 15 tháng 7 năm 1995.

Điều lệ BHXH quy định rõ chức năng quản lý Nhà nước về BHXH và chức năng

hoạt động sự nghiệp BHXH, quản lý Nhà nước về BHXH do Bộ lao động - thương binh và

xã hội đảm nhiệm, việc tổ chức quản lý thực hiện pháp luật BHXH do BHXH Việt Nam

đảm nhiệm.

Ngày 24 tháng 1 năm 2002 Chính phủ ra quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về việc

chuyển giao BHYT sang BHXH Việt Nam quản lý, ngày 06 tháng 01 năm 2003 Chính phủ

đã ban hành Nghị định số 100/NĐ - CP quy định về chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của

BHXH Việt Nam sau khi tiếp nhận cơ quan BHYT sang. Với việc ban hành Điều lệ

BHXH mới, chính sách BHXH đã thể chế hóa đường lối của Đảng, phù hợp với thời kì

mới góp phần ổn định đời sống cho người hưởng BHXH, giảm dần bao cấp ngân sách Nhà

nước, mở rộng đối tượng tham gia BHXH.

Chính sách BHXH đã được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, thực hiện

sự công bằng về quyền được hưởng trợ cấp của mọi người lao động, thực hiện quan hệ hữu

cơ giữa nghĩa vụ về đóng góp và quyền lợi hưởng thụ về BHXH, mở rộng mạng lưới trợ

cấp BHXH đến mọi người lao động nhằm bảo đảm an toàn xã hội.

1.1.1.2. Vị trí, vai trò của bảo hiểm xã hội trong kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa

Về vị trí của BHXH:

BHXH chiếm một vị trí quan trọng nhất và là thành phần chính của hệ thống bảo trợ

xã hội ở các nước trên thế giới. Nhiều nước hiện nay, các nguồn thu về đóng góp BHXH

chiếm đến 10% GDP và chi cho các chế độ BHXH chiếm tỷ trọng đến 60 - 70 % tổng chi

tiêu cho các hoạt động bảo đảm xã hội của toàn quốc gia.

ở Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần bảo đảm

ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự xã hội, thúc đẩy sự nghiệp

xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. BHXH đã được Nhà nước quan tâm ngay từ ngày đầu

thành lập và được thể chế hoá bằng các sắc lệnh của Chính phủ. Chính sách này đã giúp cho

đội ngũ công nhân viên chức và những người làm việc trong lực lượng vũ trang yên tâm, hăng

say công tác, góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Ngày nay, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, quỹ BHXH ở Việt Nam đã được thành lập một cách độc lập với ngân sách

Nhà nước và triển vọng trở thành nguồn chủ yếu trong việc đảm bảo các nhu cầu chi của

BHXH trong tương lai.

Về vai trò của BHXH:

Đối với người lao động có rất nhiều rủi ro đều có thể xảy ra đối với bất cứ người lao

động nào, tại bất cứ thời điểm nào. Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, những bất

cập về mặt xã hội và những rủi ro này có xu hướng xảy ra thường xuyên và có tính chất

phổ biến hơn vì thị trường lao động và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn vận

động và đứng trước sự kém ổn định và bền vững. Khi rủi ro xảy ra đối với những người

lao động sẽ gây cho họ những khó khăn cả về vật chất và tinh thần, ảnh hưởng không tốt

không chỉ cho chính người lao động, gia đình họ mà còn cả cộng đồng và xã hội loài

nguời. BHXH với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước sẽ

góp phần trợ giúp cho những người lao động đang gặp phải rủi ro, bất hạnh, nhanh chóng

khắc phục những khó khăn bằng cách tạo cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện

sinh hoạt thuận lợi… giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ niềm

tin vào tương lai, từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như

tinh thần nỗ lực vì sự phát triển của doanh nghiệp, cơ quan họ đang làm việc nói riêng và

cho toàn xã hội nói chung.

Đối với người sử dụng lao động, để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của

con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào qúa

trình lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những

người biết vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính là những người chủ sử

dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ phải

tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách

nhịêm của mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có

niềm tin vào cuộc sống. Từ đó, họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm

tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của người chủ sử dụng lao động hoạt động

đạt kết quả cao. Muốn vậy, người chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho

những người lao động của mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời

đến người lao động khi họ gặp những rủi ro bất trắc. Việc tham gia đóng BHXH cho người

lao động của người chủ sử dụng lao động đã góp phần vào quá trình hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao

động sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp

phần vào sự phát triển của đất nước.

Đối với xã hội, trước hết nếu BHXH là một loại dịch vụ. Hoạt động BHXH giống

như một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho người lao động, một

loại dịch vụ cần cho mọi người chứ không phải chỉ là cán bộ, công nhân viên chức. Khi

các tổ chức này sản xuất và cung ứng ngày càng nhiều loại dịch vụ bảo hiểm, đáp ứng đa

dạng các nhu cầu của người dân, thì giá trị của những dịch vụ này ngày càng tăng và là

một bộ phận trực tiếp làm gia tăng tổng sản phẩm xã hội. Dưới giác độ này, BHXH được

xem như một ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế.

Hai là, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước,

BHXH sẽ giải quyết những “rủi ro” xảy ra đối với những người lao động, góp phần tích

cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của họ và tác động

trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Thông qua sự trợ giúp của BHXH

đối với người lao động khi họ gặp rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế. BHXH đã gián

tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia, kích thích tiêu dùng của xã hội, hỗ trợ và

bổ sung các chính sách vĩ mô khác của chính phủ.

Ba là, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống

tài chính quốc gia, tới hoạt động của hệ thống tín dụng, tiền tệ, ngân hàng. Do đó, trong

các hoạt động của BHXH luôn đặt ra một yêu cầu là quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát

triển bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong đó có hình thức đầu tư và phát triển phần

“nhàn rỗi” của quỹ. Đây là một trong những kênh vốn quan trọng, có tác động không nhỏ

tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước, là một trong những nguồn đầu tư lớn tạo ra

những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần quan trọng tạo ra công ăn việc làm cho

người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao

động và tăng tổng sản phẩm quốc dân.

Bốn là, BHXH cũng là một chính sách nhằm thực hiện công bằng xã hội, là công cụ

phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này

được tiến hành qua hai cách: phân phối lại giữa người khoẻ và người già, giữa người đang

làm việc và người đã về nghỉ hưu, người trẻ tuổi và người cao tuổi, giữa nam và nữ, người

đang hưởng trợ cấp và người chưa được hưởng trợ cấp. Đây được gọi là phân phối lại theo

chiều ngang. Còn phân phối lại theo chiều dọc là thực hiện điều tiết giữa người có thu

nhập thấp và người có thu nhập cao, giữa người giàu và người nghèo. Đây là một mục tiêu

quan trọng trong các chính sách kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô. BHXH không hàm ý phân

phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người nghèo một cách

cứng nhắc. Tư tưởng chủ đạo của BHXH dựa trên đạo lý: “lá lành đùm lá rách”, đoàn kết

tương trợ, phát huy tính nhân văn, sống hoà nhập, có tình, có nghĩa giữa các cá nhân, các

nhóm trong cùng cộng đồng với nhau.

1.1.2. Bản chất và những đặc trưng cơ bản của bảo hiểm xã hội trong phát triển

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

1.1.2.1. Bản chất bảo hiểm xã hội

BHXH là một loại hình bảo hiểm đặc biệt gắn liền với các chính sách an sinh xã hội.

Vì vậy, khi xem xét bản chất của BHXH theo quan điểm kinh tế chính trị nó sẽ được thể

hiện rõ hơn.

BHXH xét dưới góc độ như là một loại hình kinh tế dịch vụ. Để thấy rõ hơn về vấn

đề này, có thể xem các quy định về đóng, hưởng BHXH hiện nay như những thoả thuận

đạt được giữa người tham gia bảo hiểm và cơ quan bảo hiểm chỉ đơn thuần có tính kinh tế.

Tức là ta coi BHXH thuần tuý là một loại hình dịch vụ, một loại hàng hoá.

Khi viết về dịch vụ với tư cách là một loại hàng hoá, C.Mác đã viết: “những sự phục vụ

này với tư cách là những sự phục vụ cũng có giá trị sử dụng và do những chi phí sản xuất của

chúng nên chúng có giá trị trao đổi” [28, tr.215].

Như vậy, bảo hiểm nói chung hay BHXH nói riêng đều là một loại dịch vụ nên nó

có giá rị và giá trị sử dụng.

Dưới góc độ giá trị, BHXH có giá trị là kết tinh hao phí sức lao động trong quá

trình thực hiện các giao dịch về BHXH của những người làm công tác BHXH trong các cơ

quan BHXH khi thực hiện các công việc về thu, chi, quản lý chính sách, quản lý sử dụng

quỹ BHXH và được tính vào giá trị của dịch vụ BHXH bao gồm cả những hao phí lao

động trong quá trình thiết kế, hoạch định chế độ chính sách, chi phí quản lý nhà nước…

của cơ quan nhà nước có liên quan việc xác định giá trị của dịch vụ BHXH là một quá

trình phức tạp vì nó liên quan đến nhiều chi phí lao động sống của nhiều lao động có trình

độ lao động cao, phức tạp.

Biểu hiện ra bên ngoài hay giá trị trao đổi của BHXH là một phần trong khoản chi

phí phải đóng BHXH của những đối tượng được BHXH. Phí phải đóng BHXH ở nước ta

hiện tại là 23% tính trên tổng quỹ tiền lương cơ bản của đơn vị sử dụng lao động. Trong đó

đơn vị đóng 17%, người lao động 6 %. Kinh phí chi cho bộ máy quản lý BHXH được lấy

trong phần lãi phát sinh do đầu tư tăng trưởng qũy. Ngân sách nhà nước chi cho bộ máy

quản lý nhà nước về BHXH và hỗ trợ quỹ BHXH trong trường hợp cần thiết khi không

đáp ứng khả năng tài chính chi trả các chế độ BHXH cho người lao động.

Dưới góc độ giá trị sử dụng, người tham gia BHXH sẽ được đảm bảo về thu nhập

hoặc bù đắp một phần về thu nhập khi gặp rủi ro bất ngờ hoặc sau quá trình làm việc nhất

định (trợ cấp tuổi già hay hưu trí). Giá trị sử dụng của dịch vụ bảo hiểm nói chung đều

mang tính bù đắp, theo nguyên tắc “số đông bù số ít”.

Giá trị sử dụng của dịch vụ BHXH có thể là ngắn hạn hoặc có hiệu lực dài hạn. Với

các dịch vụ BHXH ngắn hạn hoặc không được tiêu dùng nó phụ thuộc vào những sự kiện

bảo hiểm đã thoả thuận trước có thể xảy ra hay không. Ví dụ, trong chế độ ốm đau, người

tham gia BHXH đóng phí bảo hiểm để được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền lương nếu

trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động không may phải nghỉ việc do ốm đau. Quá

trình đóng phí thường xuyên trong quá trình lao động nếu anh ta không bị ốm đau thì cũng

không được hưởng trợ cấp này. Đối với các chế độ BHXH dài hạn, ví dụ chế độ hưu trí, tử

tuất, người tham gia bảo hiểm có nhiều khả năng được tiêu dùng dịch vụ BHXH hơn. ở

đây, người tham gia bảo hiểm sẽ được hưởng nếu đã tham gia BHXH đủ điều kiện nhất

định đã thoả thuận. Nhưng điều này cũng có thể sẽ không xảy ra, tức là người tham gia bảo

hiểm cũng có trường hợp không được tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ như người lao động đủ điều

kiện hưởng hưu trí nhưng không may bị chết đương nhiên người đó không được hưởng

hưu, thay vào đó gia đình người tham gia bảo hiểm được hưởng chế độ tử tuất theo quy

định. Như vậy, cũng như dịch vụ bảo hiểm nói chung, người “mua” dịch vụ BHXH có thể

được tiêu dùng hoặc không được tiêu dùng nó phụ thuộc vào những sự kiện bảo hiểm đã

thoả thuận trước có thể xảy ra hay không.

Tuy nhiên, BHXH không đơn thuần như là một dịch vụ hàng hoá thông thường. Vì

BHXH là một bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống các chính sách an sinh an toàn xã

hội của mỗi quốc gia. Do đó, dịch vụ BHXH bị chi phối nhiều yếu tố phi dịch vụ. Các yếu

tố này mang nặng tính xã hội, nhằm mục tiêu ổn định, an toàn xã hội mà không có tính

kinh tế. Vì vậy, tính chất dịch vụ của BHXH thường không rõ các quy định của cơ quan

quản lý còn nhiều, người tham gia BHXH thường ít có cơ hội lựa chọn.

Dưới góc độ kinh tế chính trị, về bản chất của BHXH trong nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là phấn đấu để mọi người lao động ngày càng được

đảm bảo tốt hơn các điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần. Đặc biệt trong khi gặp khó

khăn và cả khi mất sức lao động. Nếu xem xét bản chất của BHXH theo quan hệ sản xuất -

Tư bản chủ nghĩa, người lao động là một yếu tố của quá trình sản xuất. Khi các điều kiện

sản xuất tốt, người lao động có khả năng sáng tạo ra nhiều giá trị thặng dư góp phần làm

giàu cho giai cấp Tư sản và các điều kiện phúc lợi xã hội tốt hơn, tạo điều kiện ổn định xã

hội, phát triển sản xuất và quy luật tích luỹ tư bản ngày càng bộc lộ rõ hơn.

Nói chung, BHXH là một nhu cầu khách quan trong đời sống xã hội, đặc biệt ở các

nước có nền kinh tế hàng hoá phát triển. BHXH nhằm triển khai các chính sách BHXH của

mỗi quốc gia. BHXH thực hiện mối quan hệ ba bên là người lao động, đơn vị sử dụng lao

động và cơ quan BHXH. Nguyên tắc hoạt động của BHXH cũng mang những đặc trưng cơ

bản của các loại hình dịch vụ bảo hiểm nói chung. Đó là nguyên tắc “cộng đồng chia sẻ rủi

ro”, “số đông bù số ít”, “có đóng có hưởng”. Tuy vậy, BHXH mang tính xã hội rõ nét hơn

tính kinh tế xuất phát từ mục tiêu an toàn, an sinh xã hội được nhà nước bảo trợ và chi

phối. Do vậy, BHXH trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng

Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 như sau: “Tất cả

mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt

cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và

sự tự do phát triển con người” [14, tr.8].

ý nghĩa sâu xa nhất ở đây là BHXH đã thể hiện được tính xã hội và nhân văn. Trước

hết ta phải khẳng định rằng BHXH là sự bảo đảm của xã hội, đối với yếu tố lao động sản

xuất tức là hoạt động nhằm đảm bảo cho người lao động mà cụ thể là người lao động phụ

thuộc (người lao động không có tư liệu sản xuất, người lao động làm công hưởng lương,

có quan hệ với người sử dụng lao động) ổn định cuộc sống bằng cách bù đắp một phần

hoặc toàn bộ những thiếu hụt, mất mát về thu nhập trước những rủi ro như: ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chăm sóc y tế, mất việc làm, mất khả năng

lao động, già cả, chết. Những người lao động này phải trong độ tuổi lao động theo qui

định của pháp luật, có khă năng và nhu cầu việc làm đều phải có nghĩa vụ tham gia

BHXH để được hưởng quyền lợi BHXH, khi người lao động đóng BHXH sẽ tạo được

cơ sở vững chắc về tâm lý xã hội trong cuộc sống, nó nhắc nhở ý thức, trách nhiệm của

họ với cuộc sống của chính mình, với xã hội hiện tại và tương lai, đồng thời bảo vệ

nhân phẩm của người lao động, vì nó xác lập quyền lợi bình đẳng của họ được hưởng

BHXH theo qui định của pháp luật.

BHXH ngày càng được hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, bảo đảm

đầy đủ hơn đời sống của người lao động và thân quyến của họ. BHXH ngày nay đã thực sự

trở thành một công cụ đắc lực của chính xã hội ở từng quốc gia, trong công cuộc giữ gìn

sự ổn định xã hội. Đối với người Việt Nam, chính sách BHXH càng nêu cao truyền thống

nhân văn của dân tộc, vì BHXH là sự bảo đảm của xã hội trước những rủi ro bằng phương

thức đóng và tiếp nhận phúc lợi xã hội. Tính xã hội trong BHXH được hiểu là tính thống

nhất trong phạm vi một quốc gia và do nhà nước đứng ra chịu trách nhiệm, cụ thể hoá tính

xã hội của hoạt động BHXH là ở chỗ nó được thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước

theo một thể chế pháp luật và được thực hiện bình đẳng cho mọi người lao động và có đủ

điều kiện tham gia.

Tính nhân văn của chính sách BHXH còn thể hiện ở chỗ trợ giúp về vật chất cần thiết

được pháp luật quy định, nhằm phục hồi nhanh chóng sức khoẻ, duy trì sức lao động xã

hội, góp phần giảm bớt khó khăn về kinh tế ổn định đời sống người lao động và gia đình

họ. Do vậy, bản chất của BHXH khác hẳn với bản chất của các loại hình bảo hiểm thương

mại khác.

1.1.2.2. Những đặc trưng cơ bản

Bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá trình lao động. Nói cách khác, khi đã

tham gia vào hệ thống BHXH, người lao động được bảo hiểm cho đến lúc chết. ở nước ta,

căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, BHXH có một số đặc trưng sau:

Một là, khi còn làm việc, người lao động được đảm bảo nếu bị ốm đau. Cụ thể, về

thời gian hưởng chế độ ốm đau trong một năm tính theo ngày làm việc, không kể ngày

nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ hàng tuần (tuỳ theo số năm người lao động đã đóng BHXH) được

quy định như sau:

Nếu người lao động làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng từ 30 đến

60 ngày. Nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ y tế ban hành thì được hưởng từ 40 đến 70

ngày. Người lao động mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ y tế ban

hành thì được hưởng tối đa không quá 180 ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ

tết, nghỉ hàng tuần. Hết thời hạn 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế

độ ốm đau vời mức thấp hơn. Ngoài ra còn có chế độ khi con ốm.

Về mức trợ cấp ốm đau: 75% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước

khi nghỉ việc.

Hai là, lao động nữ được trợ cấp thai sản khi sinh con, cụ thể, thời gian hưởng chế

độ thai sản từ 4 đến 6 tháng tuỳ theo công việc, sức khoẻ…

Về mức trợ cấp, người lao động được hưởng 100% mức bình quân tiền lương tháng

đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ

thai sản được tính là thời gian đóng BHXH.

Ba là, người bị tai nạn lao động được trợ cấp tai nạn lao động, tuỳ vào tỷ lệ suy giảm

khả năng lao động mà người lao động hưởng trợ cấp một lần hoặc hàng tháng.

Bốn là, khi không còn làm việc nữa thì được hưởng tiền hưu trí, tuỳ vào số năm đóng

BHXH mà người lao động được hưởng mức lương hưu từ 45% đến 75% mức bình quân

tiền lương tháng đóng BHXH. Ngoài ra, còn được hưởng trợ cấp 1 lần nều đóng BHXH

trên 30 năm đối với nam và trên 25 năm đối với nữ, cứ mỗi năm đóng BHXH được trợ cấp

bằng 0.5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH.

Năm là, khi chết thì được tiền mai táng và gia đình được hưởng trợ cấp tiền tuất...

Đây là đặc trưng riêng của BHXH mà không một loại hình bảo hiểm nào có được.

Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro xã hội của người lao động trong BHXH liên quan

đến thu nhập của họ gồm: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc

làm, già yếu, chết... Do những sự kiện và rủi ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất

khả năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng, dẫn đến họ bị giảm hoặc

mất nguồn thu nhập. Vì vậy, người lao động cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn

định cuộc sống và sự bù đắp này được thông qua các trợ cấp BHXH, đây là đặc trưng rất

cơ bản của BHXH.

Người lao động khi tham gia BHXH có quyền được hưởng trợ cấp BHXH, tuy nhiên

quyền này chỉ có thể trở thành hiện thực khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH.

Người chủ sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động

mà mình thuê mướn.

Sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, bao gồm người lao động, người sử dụng

lao động và Nhà nước là nguồn hình thành cơ bản của quỹ BHXH. Ngoài ra, nguồn thu

của quỹ BHXH còn có các nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư phần nhàn rỗi tương đối

của quỹ BHXH; khoản nộp phạt của các doanh nghiệp, đơn vị chậm nộp BHXH theo quy

định của pháp luật và các nguồn thu hợp pháp khác. Quỹ BHXH dùng để chi trả các trợ cấp

BHXH và chi phí cho các hoạt động quản lý của bộ máy BHXH. Như vậy, có thể thấy quỹ

BHXH là một quỹ xã hội, nhưng vừa là quỹ tài chính, vừa là quỹ phát triển.

Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các chế độ BHXH

cũng do luật định. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động của BHXH. BHXH còn chịu

sự giám sát chặt chẽ của người lao động (thông qua tổ chức công đoàn) và người sử dụng

lao động (thông qua tổ chức của giới chủ) theo cơ chế ba bên, đây cũng là đặc trưng rất

riêng của BHXH. Tất cả những khía cạnh nêu trên, một lần nữa cho thấy: BHXH được lập

ra để tác động vào thu nhập theo lao động của người lao động tham gia BHXH. Nói cách

khác, BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho người lao động trong

trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm, do đó bị mất hoặc giảm

khoản thu nhập được thay thế, nhằm bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu

cho họ.

1.1.3. Mối quan hệ bảo hiểm xã hội với loại hình bảo hiểm khác và các chính

sách xã hội

1.1.3.1. Quan hệ bảo hiểm xã hội với Bảo hiểm Nhân thọ

Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia

bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng

quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra

(người được bảo hiểm sống đến một thời điểm nhất định hoặc bị chết), còn người tham gia

phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm cho

các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.

Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm của Việt Nam thì: "Bảo hiểm nhân thọ là hình thức

bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết". Người được bảo hiểm và

người tham gia BHNT rất rộng, có thể bao gồm mọi người ở các lứa tuổi khác nhau.

Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì người

ta càng có điều kiện để chăm lo cho bản thân và gia đình. Ngoài bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế, các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ ra đời là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng mọi nhu cầu

của các tầng lớp dân cư trong xã hội.

Bảo hiểm nhân thọ, nằm trong bảo hiểm con người và là loại hình của bảo hiểm

thương mại, là hình thức bổ sung cho bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế. Nhằm bảo đảm ổn

định đời sống cho mọi thành viên trong xã hội trước những rủi ro tai nạn bất ngờ đối với

thân thể, tính mạng, sự giảm sút hoặc mất thu nhập và đáp ứng một số nhu cầu khác của

người tham gia bảo hiểm. So với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nhân thọ có đối tượng tham

gia rộng hơn, quỹ bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ phí bảo hiểm do những người

tham gia đóng góp, số tiền chi trả căn cứ vào sự thỏa thuận và cam kết trong hợp đồng.

Hình thức bảo hiểm là tự nguyện. Còn đối với bảo hiểm xã hội, phí bảo hiểm được xác

định căn cứ vào tiền lương của người lao động do Nhà nước quy định. Ngoài ra, sự khác

nhau còn được thể hiện ở cơ sở pháp lý của sự cam kết, cơ quan tổ chức thực hiện…

Tuy nhiên sự khác nhau giữa hai hệ thống bảo hiểm này không tạo ra sự đối lập, mâu

thuẫn, mà trái lại chúng bổ sung cho nhau. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có thể thay

thế bảo hiểm xã hội trong những trường hợp, những khu vực của nền kinh tế, những nơi

mà bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện hoặc có nhưng không đủ bù đắp thu nhập của

người lao động bị giảm sút. Mặc dù người lao động làm công ăn lương được hưởng trợ cấp

bảo hiểm xã hội, nhưng đôi khi có những rủi ro, những nhu cầu nằm ngoài phạm vi bảo

hiểm xã hội hoặc các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội không đáp ứng được những nhu cầu

khắc phục hậu quả rủi ro. Phần chênh lệch và thiếu hụt về mặt tài chính sẽ được bảo hiểm

nhân thọ bù đắp.

1.1.3.2. Bảo hiểm xã hội với chính sách xã hội

Chính sách xã hội là một vấn đề rộng lớn, nó là tổng thể những tư tưởng quan điểm,

những phương thức, giải pháp và công cụ của nhà nước, được cụ thể hoá và thể chế hoá

bằng pháp luật. Phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và từng

nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng

về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân... chính sách bao trùm lên mọi cuộc

sống của con người. Tuỳ theo đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá

của mỗi nước và trong từng thời kỳ lịch sử nhất định mà nhà nước có thể ban hành những

chính sách xã hội cụ thể, ví dụ như chính sách giáo dục, y tế, văn hoá, dân số, trẻ em, xoá

đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, việc làm và tiền lương, BHXH...

Trong hệ thống các chính sách xã hội thì BHXH là một chính sách quan trọng. Chính sách

BHXH và các chính sách xã hội khác có mối quan hệ biện chứng với nhau, các chính sách

này hỗ trợ lẫn nhau để giải quyết các vấn đề xã hội. Thực hiện tốt các chính sách BHXH sẽ

góp phần thực hiện tốt các chính sách xã hội khác. Chẳng hạn như, việc thực hiện tốt

BHXH cho mọi người lao động trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay sẽ làm cho mọi

người lao động trong các thành phần kinh tế được hưởng bảo hiểm góp phần tạo ra sự bình

đẳng về quyền lợi của người lao động, giảm sức ép về việc làm trong khu vực kinh tế Nhà

nước, giảm gánh nặng của ngân sách cho cứu trợ xã hội. Từ đó tăng khả năng chi của Nhà

nước cho việc thực hiện các chính sách xã hội khác.

Chính sách việc làm có liên quan đến chính sách BHXH được thể hiện khá rõ nét, số

người làm việc ngày càng nhiều và mức thu nhập ổn định sẽ tạo cho BHXH có nguồn thu

ổn định, ngược lại chính sách giảm biên chế giảm lao động làm việc trong các doanh

nghiệp như quyết định 176/HĐBT, quyết định 111/CP ... dẫn đến tăng số người về nghỉ

chế độ ... làm tăng nguồn chi BHXH như hiện nay ngân sách hàng năm phải cấp bù rất lớn.

Ngoài ra chính sách BHXH cũng có tác động rất lớn đến chính sách dân số kế hoạch hoá

gia đình, chính sách đối với những người tham gia chiến tranh ...

Như vậy, mở rộng đối tượng và quyền lợi BHXH sẽ giảm thiểu các chi phí cho các

chính sách khác trong bảo trợ xã hội.

1.2. Sự cần thiết và yêu cầu của mở rộng đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội

trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

1.2.1. Bảo hiểm xã hội xét dưới góc độ kinh tế

Người lao động đóng phí BHXH, phần đóng góp này là khoản tiền mà người lao

động phải đóng góp hàng tháng để được hưởng trợ cấp khi gặp phải rủi ro hoặc sự cố theo

các chế độ bảo hiểm. Đây là mục đích kinh tế của người lao động, khoản được trợ cấp

thường xấp xỉ với giá trị của khoản đã đóng BHXH, thậm chí còn có thể cao hơn như

trường hợp sống lâu. Rủi ro để được hưởng trợ cấp thường là tuổi già, chết, tai nạn lao

động và bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản. ở Việt Nam, Nghị định 12/CP ngày

26/01/1995 đã quy định người lao động đóng BHXH hàng tháng bằng 5% tiền lương.

BHXH cũng phục vụ lợi ích người sử dụng lao động vì góp phần duy trì ổn định lao

động trong xã hội. Người sử dụng lao động trả lương cho người lao động và cả khi họ

không còn đủ khả năng làm việc để được hưởng lương.

Người lao động được bảo hiểm sẽ yên tâm phấn khởi làm việc, nâng cao năng suất

lao động và chất lượng sản phẩm góp phần giữ vững, thậm chí làm tăng lợi nhuận của

người sử dụng lao động. Điều lệ BHXH của nước ta quy định người sử dụng lao động phải

đóng 15% so với tổng quỹ lương của những người lao động được bảo hiểm trong đơn vị.

Đối với ngân sách, BHXH góp phần làm giảm “gánh nặng” cho ngân sách Nhà nước.

Do đặc điểm nước ta chiến tranh kéo dài, người hưởng BHXH nhiều. Hàng năm ngân sách

Nhà nước phải bỏ ra khoảng 4.500 tỷ đồng để trả lương cho hưu trí và mất sức. Khi có chế

độ BHXH mới, hàng năm thu được của người lao động khoảng 1.800 tỷ. Khoản chi của

ngân sách Nhà nước cho trợ cấp hưu trí, mất sức... nhờ đó cũng giảm được một phần.

Đồng thời, phần “nhàn rỗi” của quỹ BHXH kết hợp với phần tiết kiệm cho ngân sách

Nhà nước tạo thành nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế. Đối với những nước có dân số trẻ,

nguồn thu BHXH là một nguồn tiết kiệm nội bộ rất quan trọng vì các khoản chi trợ cấp,

trước hết là chi trợ cấp tuổi già ít dùng đến ngay.

Nguồn thu được tích tụ dài ngày, có nhiều tiền nhàn rỗi. Hiện nay pháp luật của hầu

hết các nước đều cho phép sử dụng tiền nhàn rỗi của quỹ bhxh để đầu tư sinh lợi, tăng

trưởng quỹ. Tuy nhiên nguyên tắc đầu tư phải đảm bảo, bảo tồn và phát triển vốn, thanh

toán được chắc chắn như mọi hạng mục đầu tư khác. Vì phải đảm bảo kịp thời, đầy đủ các

mức trợ cấp khi phát sinh trường hợp bảo hiểm, cho nên việc đầu tư của quỹ BHXH phải

được nhà nước xét duyệt một cách chặt chẽ, phải đầu tư vào các hạng mục đầu tư của Nhà

nước, có ích đối với xã hội và nền kinh tế quốc dân. Thường Nhà nước khuyến khích đầu

tư vào phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, cơ sở sử dụng nhiều lao động, mở ra nhiều

việc làm mới.

Như vậy, việc mở rộng, phát triển đối tượng tham gia BHXH có ý nghĩa kinh tế vì nó

làm tăng trưởng nguồn quỹ, giảm thiểu rủi ro, tăng khả năng chi trả và tạo sự an toàn cho

quỹ.

Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, vấn đề mở rộng đối tượng tham gia BHXH càng

có tầm quan trọng đặc biệt xuất phát từ việc quỹ BHXH mới được hình thành (năm 1995).

Số tồn tích chưa nhiều trong khi đối tượng thụ hưởng BHXH gia tăng nhanh chóng. Việc

mở rộng nguồn thu thông qua việc phát triển đối tượng tham gia BHXH vì vậy có tầm

quan trọng đặc biệt.

1.2.2. Bảo hiểm xã hội xét dưới góc độ chính trị - xã hội

Tính xã hội của BHXH thể hiện ở việc những người trong tuổi lao động, có khả năng

và nhu cầu về việc làm đều có quyền tham gia và hưởng BHXH. Việc người lao động

đóng BHXH có tầm quan trọng về tâm lý, nó nhắc nhở ý thức trách nhiệm và bảo vệ nhân

phẩm của người lao động, xác lập quyền của người lao động được hưởng trợ cấp BHXH.

Người sử dụng lao động cũng như Nhà nước phải có trách nhiệm BHXH cho người lao

động qua việc đóng góp vào quỹ BHXH. Sự đóng góp này chính là nhằm san sẻ bớt gánh

nặng cho người lao động, nhân danh tình đoàn kết xã hội.

Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay, đặc biệt trong công

cuộc đổi mới phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chăm sóc ngày

càng tốt hơn đời sống của nhân dân nói chung và người lao động làm công ăn lương nói

riêng.

Một nội dung quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi của người lao động là việc

thực hiện các chính sách BHXH. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, chính

sách nhằm từng bước mở rộng cả về đối tượng và quyền lợi của người lao động về BHXH.

Trước năm 1995, BHXH chủ yếu được thực hiện cho người lao động làm việc trong

khu vực Nhà nước nhưng từ khi có Nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 1 năm 2003

của Chính phủ, đối tượng BHXH đã mở rộng đến mọi người lao động làm công ăn lương

trong các cơ quan, đơn vị, hộ kinh doanh cá thể... trong mọi thành phần kinh tế.

Việc thực hiện BHXH đến mọi người lao động trong các thành phần kinh tế góp phần

xoá bỏ tư tưởng bao cấp trước đây. Nhất là tâm lý chỉ muốn làm việc trong khu vực nhà

nước, là người của Nhà nước được vào biên chế ... Tạo ra sự bình đẳng, cân bằng hơn về

giá cả sức lao động trên thị trường. Tạo ra sự phân bổ hợp lý nguồn lực lao động giữa các

khu vực, các ngành, vùng kinh tế trong cả nước để tăng trưởng và phát triển.

Từ đó cho thấy, việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH không chỉ có ý nghĩa trong

việc tăng trưởng nguồn thu, cải thiện nguồn tài chính cho BHXH còn là thực hiện một

chính sách xã hội lớn của quốc gia trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động.

1.2.3. Bảo hiểm xã hội xét dưới góc độ hội nhập kinh tế quốc tế

Việt Nam gia nhập WTO chính là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế

giới, từng bước đưa nền kinh tế nước ta trở thành bộ phận của nền kinh tế thế giới và thị

trường nước ta trở thành bộ phận cấu thành của thị trường thế giới.

Việc gia nhập WTO đã mở ra một cơ hội rộng lớn cho sự tác động trực tiếp, toàn diện

vào các thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ và thị trường sức lao động... trong nước. Sự

tác động này sẽ tạo ra một động lực mới, một không gian mới cho sự cạnh và phát triển.

Dưới góc độ phân tích những tác động trực tiếp của việc gia nhập WTO đến thị

trường sức lao động ở nước ta và ảnh hưởng gián tiếp của nó đến hoạt động BHXH. Sở dĩ

bắt đầu từ thị trường sức lao động vì BHXH là sự bảo đảm của yếu tố lao động trong quá

trình sản xuất. Hoạt động BHXH là hoạt động điều tiết thu nhập lao động nhằm ổn định

đời sống của người lao động và các thành viên trong gia đình của họ trước những rủi ro

mang tính xã hội. Sự hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta cũng đồng nghĩa với việc nước

ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, sự phân công lao động

này không phải là sự phân công lao động thuần túy theo nghĩa của sự hợp tác kinh tế quốc

tế giữa các quốc gia nhằm đảm bảo một cách cân đối và có kế hoạch mà là sự phân công

thực hiện trên cơ sở của sự cạnh tranh quốc tế. Quốc gia nào biết phát huy thế mạnh của

mình về nguồn tài nguyên, về lao động và công nghệ để tạo ra những hàng hoá có nhu cầu

thích ứng với thị trường, với giá cả và chất lượng tối ưu thì quốc gia đó sẽ có lợi thế về

phân công lao động quốc tế. Như vậy, chúng ta phải biết chủ động và tạo ra các thế chủ

động trong việc sử dụng nguồn lao động trong nước thông qua một chương trình phát triển

nguồn nhân lực kể cả trước mắt và lâu dài mà trong đó chiến lược về cơ cấu ngành nghề và

đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động là trọng tâm.

Sự thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ kéo theo tác

động chuyển đổi cơ cấu kinh tế tương ứng và phân bổ lại lao động và dân cư. Nguồn lao

động từ nông nghiệp sẽ nhanh chóng được thu hút vào các khu vực công nghiệp và dịch

vụ. Sự hình thành các khu công nghiệp và các điểm dân cư sẽ làm giảm dần lưu lượng dân

cư lưu trú ở nông thôn và tăng thêm dân cư thành thị. Thực tế cho thấy, ngay trong năm

2007, dòng vốn đầu tư từ nước ngoài chảy vào Việt Nam đã lên tới trên 20,3 tỷ USD, tăng

cao so với các năm trước đây.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài và sự chủ động đầu tư trong nước là cơ sở để cải thiện

bền vững tình trạng “cung cầu” hiện rất đang căng thẳng trên thị trường sức lao động ở

nước ta. Nhiều chỗ làm việc mới được tạo ra, nguồn lao động được đào tạo và nâng cao

kịp thời theo yêu cầu sử dụng về kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Đồng thời với tính cạnh

tranh “nghiệt ngã” trên thị trường hàng hóa thì tác động của nó cũng làm cho thị trường

sức lao động nước ta hoàn thiện hơn và “tính thuần tuý” của thị trường sẽ được thực hiện

đầy đủ hơn. Trong nhiều năm qua, dưới góc độ nhìn nhận của các chuyên gia nước ngoài

thì thị trường sức lao động ở nước ta chưa phát triển cao hay có thể hiểu là thị trường lao

động từng phần. Điều đó thể hiện ở quy mô thị trường lao động còn hạn hẹp, mới có 20%

lực lượng lao động tham gia vào thị trường lao động. Khi các doanh nghiệp với các loại

hình tổ chức quản lý khác nhau cùng tham gia vào thị trường lao động sẽ kéo theo sự cạnh

tranh lẫn nhau trong việc sử dụng lao động. Tính linh hoạt trên thị trường sức lao động sẽ

tăng cao. Người lao động sẽ chủ động hơn trong việc lựa chọn chỗ làm việc và cũng phải

thích ứng về chuyên môn với yêu cầu của công việc. Vị thế của các doanh nghiệp nhất là

các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân được bình đẳng hơn và do vậy tạo nên tâm

lý yên tâm cho mọi người lao động khi họ làm việc trong các thành phần kinh tế khác

nhau. Khi đó tiền lương sẽ mềm dẻo hơn trên thị trường lao động, tiền lương sẽ thể hiện

giá cả của sức lao động, là sự thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động

và nó thực sự là công cụ để điều tiết trên thị trường lao động. Sự cạnh tranh trên thị

trường lao động ở nước ta có tín hiệu đáng mừng cho người lao động vì theo xu thế chung

tiền lương sẽ được tăng lên do phải thống nhất tiền lương tối thiểu giữa các doanh nghiệp.

Theo xu hướng đó, người lao động sẽ có nhiều cơ hội hơn đề lựa chọn chỗ làm việc

phù hợp với mức lương cao hơn. Tương tự như vậy, nhiều doanh nghiệp phải có chính

sách tiền lương hấp dẫn để giữ người lao động làm việc lâu dài cho doanh nghiệp của

mình. Kinh nghiệm ở nhiều nước công nghiệp phát triển cho thấy, nhiều doanh nghiệp lớn,

có thương hiệu nổi tiếng thì bên cạnh chế độ tiền lương họ còn có các chính sách xã hội

khác của doanh nghiệp. Theo chính sách này những người làm việc lâu năm sẽ được

khuyến khích thêm về tiền lương, về trợ cấp khi về hưu ngoài chính sách hưu trí của Nhà

nước, về con cái của họ sẽ được doanh nghiệp cử đi đào tạo và tiếp nhận vào làm việc. Có

nhiều doanh nghiệp còn có chính sách tiền lương ưu đãi đối với người có tài năng...

Tuy nhiên, cũng phải đề cập đến những mặt trái của thị trường sức lao động trong

quá trình hội nhập. Do quá trình cạnh tranh, một số doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ bị thu hẹp

sản xuất, thậm chí có doanh nghiệp bị phá sản , một bộ phận lao động sẽ bị thất nghiệp.

Điều đáng nói là đối với những người lao động ở độ tuổi trên, dưới 50, nhất là đối với lao

động nữ sẽ rất khó có cơ hội để tìm kiếm chỗ làm việc mới, trong khi đó việc đào tạo lại

một nghề nghiệp mới cũng không phải thực hiện dễ dàng trong thời gian ngắn.

Như vậy, có thể khái quát những tác động của việc gia nhập WTO đến thị trường lao

động như sau: Chuyển đổi cơ cấu lao động và nâng cao chất lượng nguồn lao động theo

hướng hiện đại hoá. Tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, giảm

lao động nông nghiệp: Thúc đẩy sự phát triển thị trường sức lao động trong phạm vi cả

nước: Tăng tính linh hoạt trên thị trường sức lao động, xu hướng lao động ở khu vực các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh và

thường xuyên chuyển dịch: Xóa bỏ dần sự bất bình đẳng về tiền lương và thu nhập giữa

các khu vực kinh tế, giữa các doanh nghiệp khác nhau và giữa các vùng khác nhau trong

cả nước: Tạo thêm nhiều việc làm mới, gắn kết giữa đào tạo nghề với sử dụng lao động,

tăng thu nhập của một bộ phận lao động.

Đồng thời, những tác động tiêu cực của quá trình này cũng xuất hiện. Hội nhập

khiến cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt sẽ dẫn đến nhiều

doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản, một bộ phận lao động bị thất nghiệp, sức ép về việc làm

ngày càng lớn; cường độ lao động gia tăng; tranh chấp lao động ngày càng phức tạp; gia

tăng sự phân hoá giàu nghèo; điều kiện sống của một bộ phận lao động sẽ khó khăn hơn,

nhất là vấn đề nhà ở. Hậu quả của vấn đề lao động nghỉ việc, mất việc làm từ các lĩnh vực,

các ngành có sức cạnh tranh kém, các doanh nghiệp, các lĩnh vực được Nhà nước bảo hộ

trước đây và người lao động không đáp ứng nhu cầu công nghệ mới sẽ diễn ra khá mạnh

trong thời kỳ đầu hội nhập là bài toán đặt ra đối với sự trợ giúp của cộng đồng xã hội. Thị

trường sức lao động và quan hệ lao động phát triển, số người tham gia vào thị trường lao

động tăng lên, tiền lương và thu nhập bình quân chung của người lao động được nâng cao

chính là điều kiện để mở rộng và tăng cường hệ thống BHXH .

Như vậy, hoạt động của BHXH sẽ chịu sự tác động gián tiếp của quá trình gia nhập

WTO nhưng nó phải thích ứng chung với các quy chuẩn về chế độ BHXH của các nước

trong điều kiện cho phép của kinh tế xã hội ở nước ta. ở đây cần phân biệt rõ hơn về

BHXH với bảo hiểm cá nhân, loại hình bảo hiểm thương mại thuộc lĩnh vực ngành dịch vụ

và cũng là một trong những nội dung được thương lượng căng thẳng nhất trên bàn đàm

phán gia nhập WTO. ở nhiều nước phát triển thì hoạt động bảo hiểm cá nhân thuộc lĩnh

vực kinh doanh khá hấp dẫn và luôn là sự cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp.

Người ta cũng đã nhìn thấy tác động cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm khi gia

nhập WTO sẽ một mặt nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm chi phí dịch vụ, năng lực thị

trường được mở rộng, công nghệ quản lý mới được chuyển giao… Nhưng mặt khác, sẽ tạo

ra khả năng gây bất ổn về thị trường tài chính, mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế

Nhà nước... Như vậy, hoạt động bảo hiểm thương mại sẽ chịu tác động trực tiếp của sự

cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước, nhất là phải đương đầu

với các doanh nghiệp nước ngoài mạnh về vốn và công nghệ quản lý. Trái lại, BHXH là

một bộ phận của chính sách xã hội, nó sẽ chịu tác động gián tiếp thông qua mối quan hệ

tương tác về kinh tế xã hội của một quốc gia cũng như vai trò tích cực trong việc điều tiết

xã hội của Nhà nước đó.

Nói chung, ở mọi quốc gia sự ổn định xã hội cũng luôn được đặt ra tương ứng với

mục tiêu phát triển kinh tế, chỉ có sự khác biệt về phương pháp thực hiện mà thôi. ở nước

ta, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn là kim chỉ nam cho các

chính sách ổn định xã hội. Ngược lại, sự ổn định xã hội sẽ là nền tảng cho sự phát triển

bền vững. Lịch sử phát triển của BHXH cho thấy quá trình công nghiệp hoá vào thế kỷ 18

đã làm nền tảng cho sự hình thành và phát triển mạng lưới BHXH ở một số nước trên thế

giới. Theo đó, BHXH được hiểu là sự bảo đảm của xã hội cho yếu tố lao động của quá

trình sản xuất, là sự bảo đảm cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá mà trong đó đời

sống của người lao động và gia đình họ sẽ không bị xâm hại khi họ gặp phải các rủi ro

như: mất việc làm, ốm đau, tai nạn hoặc già yếu.

Việc gia nhập WTO là điều kiện kinh tế cần thiết thúc đẩy nhanh chóng quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta và cũng đòi hỏi sự mở rộng mạng lưới BHXH đến

mọi người lao động. Qua kinh nghiệm hơn 20 năm của công cuộc đổi mới ở nước ta cho

thấy, sự phát triển kinh tế bền vững phải dựa trên nền tảng của sự công bằng và bình đẳng

xã hội. Nhà nước sẽ giữ vai trò điều tiết thu nhập hợp lý giữa các nhóm lao động và dân cư

có thu nhập khác nhau bằng các công cụ quản lý khác nhau.

Đến nay, Nhà nước đã thực sự trở thành trung tâm của các hoạt động điều tiết xã hội,

điều tiết, phân phối lại giữa những người lao động có mức thu nhập cao, thấp khác nhau,

điều tiết giữa các nhóm dân cư có điều kiện sống, điều kiện sức khoẻ giữa các vùng miền

khác nhau nhằm giữ gìn mức sống cho một bộ phận dân cư “yếu thế” hơn trong xã hội

(những người bị hạn chế về sức khoẻ, hạn chế về năng lực nghề nghiệp, gia đình đông con

. . .) góp phần tạo ra sự ổn định và bình đẳng trong xã hội. Do vậy, cùng với các công cụ

điều tiết khác như: chính sách thuế, chính sách an sinh xã hội, thì BHXH đang trở thành

một công cụ đắc lực của Nhà nước ta trong việc điều tiết cân bằng xã hội vì nó liên quan

trực tiếp đến nhiều lĩnh vực cấp thiết của đời sống xã hội và được nhiều tầng lớp dân cư

hưởng ứng. Như vậy, nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở

nước ta chính là khẳng định vị trí và vai trò của hoạt động BHXH trong hệ thống chính

sách xã hội và sự thích ứng kịp thời của nó với các chính sách kinh tế hiện hành.

Trên cơ sở đó, luật BHXH ban hành ngày 12/7/2006 và có hiệu lực thi hành từ

1/1/2007, riêng đối với BHXH tự nguyện từ 1/1/2008 và bảo hiểm thất nghiệp sẽ triển khai

từ 1/1/2009 sẽ là hành lang pháp lý cho triển khai mạnh mẽ chính sách BHXH ở nước ta.

Trong nhiều năm qua, kể từ khi thực hiện cải cách BHXH từ năm 1995, chính sách

BHXH của nước ta cũng không ngừng đổi mới cho phù hợp với nhu cầu tham gia BHXH

của người lao động, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế xã hội nói chung, và điều đáng

lưu ý là các chính sách BHXH mới đã có nhiều điểm tương đồng trong sự hội nhập với hệ

thống BHXH của các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới. Định hướng

phát triển BHXH khi Việt Nam gia nhập WTO đã được Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng

sản Việt Nam lần thứ X nêu rõ: Đổi mới hệ thống BHXH, đa dạng hoá hình thức bảo hiểm

phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp…

Phát triển và nâng cao chất lượng BHYT, xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến tới BHYT

toàn dân; phát triển mạnh loại hình BHYT tự nguyện, BHYT cộng đồng. Mở rộng toàn diện

các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập khám chữa bệnh theo BHYT. Hạn chế và giảm dần

hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh. Đổi mới phương thức thanh toán viện

phí qua quỹ BHYT.

Quán triệt định hướng của Đảng, những nhiệm vụ cần phải đạt được của hệ thống

BHXH trong những năm tới là: Thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH theo quy định của

Luật BHXH, trong đó cần chú trọng triển khai chế độ BHXH tự nguyện và chế độ BHXH

thất nghiệp; triển khai đa dạng và linh hoạt cả loại hình BHXH, BHYT bắt buộc và

BHXH, BHYT tự nguyện cho phù hợp với từng nhóm đối tượng và thích ứng với từng giai

đoạn phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia

BHXH, BHYT. Tăng nhanh nguồn thu của quỹ từ sự đóng góp của các bên tham gia

BHXH, BHYT. Thực hiện chi trả đúng, chi đủ và chi kịp thời các chế độ BHXH hiện

hành. Không ngừng nâng cao chất lượng KCB cho người có thẻ BHYT, đảm bảo mức

sống của người về hưu gắn liền với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.

Sự hội nhập kinh tế thế giới sẽ kéo theo sự di chuyển nguồn lao động từ trong nước ra

nước ngoài cũng như dòng lao động từ nước ngoài vào nước ta. Tương ứng như vậy, việc

đóng góp tham gia BHXH cũng như quyền lợi về BHXH của người lao động Việt Nam tại

nước ngoài cũng như người lao động nước ngoài tại Việt Nam cần phải được đảm bảo theo

hướng phù hợp với chính sách BHXH của nước sở tại: cụ thể các chế độ ngắn hạn như:

chế độ khám chữa bệnh khi ốm đau, khi bị tai nạn lao động... và chế độ dài hạn như: hưu

trí, tử tuất. Điều đó đã đặt ra trách nhiệm cho Nhà nước ta phải ký kết các hiệp định khung

về BHXH với các nước có yếu tố về sử dụng lao động đồng thời với các quy định về luật

pháp lao động khác.

Hoạt động BHXH là điều tiết thu nhập từ lao động của những người lao động trong

một khoảng nhất định. Vì vậy, trong Luật BHXH ban hành đã quy định mức giới hạn trên

làm căn cứ tham gia BHXH là không quá 20 lần mức lương tối thiểu chung (được hiểu là

mức lương tối thiểu trong khu vực Nhà nước). Vậy những người có mức thu nhập vượt

mức kể trên thì có thể tiếp tục tham gia BHXH theo hình thức nào nữa không? Đây là vấn

đề cần đặt ra vì trong quá trình hội nhập, số người có thu nhập cao vượt giới hạn trên làm

căn cứ đóng BHXH không phải là ít. Và ở các nước công nghiệp phát triển người ta đã có

lời giải cho bài toán này bằng loại hình BHXH tự nguyện mà chúng ta có thể tham khảo và

vận dụng.

Tác động của thị trường y tế cũng sẽ ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của người tham

gia BHYT. Khi thị trường hàng hoá mở rộng, nguồn thuốc cung cấp cũng dồi dào và

phong phú, đó là cơ hội để chúng ta chống độc quyền trong việc cung cấp thuốc và loại

trừ các đợt sốt giá thuốc như trong những năm vừa qua. Tuy nhiên, việc quản lý chất lượng

thuốc cũng như quản lý việc xuất nhập khẩu thuốc cũng cần tiến hành thường xuyên mới

đảm bảo được quyền lợi cho người bệnh. Chúng ta cũng tính đến những khả năng đầu tư

nước ngoài trong việc lập ra các bệnh viện, phòng khám trong nước nhằm giảm sự căng

thẳng về cung cầu, chỗ khám chữa bệnh hiện nay.

Điều đáng quan tâm nữa là phải nâng cao công nghệ quản lý của bộ máy BHXH Việt

Nam theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính, sử dụng công nghệ thông tin ngay từ

các khâu thu và chi trả các chế độ BHXH, hạn chế sử dụng bằng tiền mặt, cần chuyển

khoản thông qua hệ thống ngân hàng. Việc gia nhập WTO sẽ là cú hích cho chúng ta sớm

thực hiện mục tiêu BHXH cho mọi người lao động và tiến tới thực hiện BHYT toàn dân,

một mặt là đảm bảo cuộc sống ổn định của cán bộ, công chức, quân nhân và người lao

động, mặt khác cũng chính là nhằm mở rộng phạm vi điều tiết xã hội của Nhà nước trong

tiến trình xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

1.3. Kinh nghiệm Bảo hiểm xã hội của một số tỉnh

1.3.1. Kinh nghiệm bảo hiểm xã hội của Quảng Ninh

Quảng Ninh là một tỉnh lớn ở địa đầu phía Đông Bắc của Việt Nam, có dáng một

hình chữ nhật lệch nằm chếch theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Có biên giới quốc gia và

hải phận giáp với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và nằm trong dải hành lang biển lớn

của Bắc Bộ, trên đó có mạng lưới đường bộ, đường sắt và cảng biển lớn đang được mở

rộng và phát triển. Cùng với Hải Phòng, Quảng Ninh giữ vai trò cửa mở lớn ra biển cho cả

nước ở phía Bắc (có thể cho cả các tỉnh Tây - Nam Trung Quốc và Bắc Lào) để chuyển tải

hàng hóa xuất nhập khẩu, đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các vùng khác trong cả nước và

với nước ngoài, đồng thời còn có khả năng thiết lập mối quan hệ hàng hải và hàng không

với các nước trong khu vực Đông á, Đông Nam á và thế giới. Đây là ưu thế đặc biệt của

Quảng Ninh.

Với các tỉnh bạn trong nước, Quảng Ninh có hơn 300 km giáp Lạng Sơn, Bắc Giang,

Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Là một cực trong tam giác phát triển của vùng kinh tế

trọng điểm Bắc Bộ, Quảng Ninh có quan hệ mật thiết về các hoạt động kinh tế, khoa học

và văn hóa xã hội với thủ đô Hà Nội, Hải Phòng, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và ven

biển với hệ thống quốc lộ 4B, quốc lộ 10, quốc lộ 18 đi qua địa bàn của tỉnh.

Từ đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của Quảng Ninh, với chính sách phát triển các

thành phần kinh tế, những năm của thời kỳ đổi mới lực lượng lao động tham gia các loại

hình kinh tế ngày càng đông đảo, đặc biệt là kinh tế tư nhân trong ngành dịch vụ, du lịch

và kinh tế nhà nước trong ngành khai thác, chế biến xuất khẩu than. Đây chính là thị

trường lớn cho hoạt động BHXH phát triển.

Để thực hiện tốt công tác BHXH trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, cơ quan BHXH tỉnh

đã quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản hướng dẫn của ngành BHXH. Đồng

thời, xuất phát từ tình hình thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức đơn vị

trên địa bàn có kế hạch công tác phù hợp. Cụ thể, phân công chuyên trách cán bộ theo dõi

các mảng công tác. Ngoài nhiệm vụ chi trả BHXH hàng tháng, BHXH phối hợp với các tổ

chức công đoàn, đoàn thanh niên, hôi phụ nữ...cử người phối hợp theo dõi, động viên đóng

BHXH đúng chế độ và thời gian. Có chế độ khen thưởng kịp thời, đồng thời phát hiện và

thông báo những cơ quan, đơn vị chậm nộp bảo hiểm hoặc cố tình trốn tránh nghĩa vụ bảo

hiểm. Việc làm công khai minh bạch, kịp thời được dư luận ủng hộ. Do đó liên tục qua các

năm, BHXH Quảng Ninh hoàn thành và vượt mức kế hoạch.

Năm 2008 BHXH tỉnh Quảng Ninh được BHXH Việt Nam giao kế hoạch thu là 903

tỷ đồng, tăng 233 tỷ đồng so với năm 2007. Xác định công tác thu là nhiệm vụ trọng tâm

của ngành cho nên ngay từ đầu năm BHXH tỉnh đã thực hiện giao kế hoạch cụ thể cho

từng cơ quan BHXH huyện, thị xã, thành phố và thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc công tác

thu, nộp BHXH. Tính đến ngày 15/6/2008 toàn tỉnh đã thu được 334 tỷ đồng, đạt 37% kế

hoạch năm. Ước đến 30/6/2008 thu được 406 tỷ đồng, đạt 45% kế hoạch năm, tăng 63 tỷ

đồng so với cùng kỳ năm trước.

Cách thức thực hiện về công tác chi trả cụ thể như sau: các phường có số đối tượng

hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH lớn, địa bàn rộng được chia thành nhiều điểm chi để tạo

điều kiện thuận lợi cho đối tượng đến lĩnh tiền và giúp cho công tác quản lý chi trả chặt chẽ và

an toàn. Sự phối kết hợp giữa phường, xã, với cơ quan BHXH trong công tác quản lý chi trả

ngày càng tốt hơn.

Với công tác mở rộng đối tượng, duy trì thường xuyên chuyên mục “Bảo hiểm xã hội

với cuộc sống” trên sóng của Đài phát thanh và truyền hình tỉnh, mỗi tháng một lần với nội

dung tuyên truyền về: Luật BHXH, BHYT tự nguyện, ứng dụng công nghệ thông tin trong

việc giải quyết chế độ chính sách của ngành. Phối hợp với LĐLĐ tỉnh xuất bản cuốn Sổ

tay tuyên truyền Bộ luật lao động và Luật BHXH.

1.3.2. Kinh nghiệm bảo hiểm xã hội của tỉnh Thanh Hóa Thanh hóa là tỉnh Bắc trung bộ, có diện tích tự nhiên rộng lớn 11.106.09 km2, là tỉnh

có cả vùng núi miền cao biên giới, vùng đồng bằng và miền biển, xếp thứ năm về diện tích

cả nước. Dân số Thanh Hóa đến năm 2006 là 3.701.297 người, xếp thứ 2 trong cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh. Mật độ dân số trung bình 328 người/km2. Về tổ chức hành

chính, gồm 27 đơn vị hành chính cấp huyện (24 huyện, 1 thành phố, 2 thị xã), với 637 đơn

vị hành chính cấp xã. Cơ cấu kinh tế đang từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa. Có sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế tư

nhân có tốc độ gia tăng cao.

Từ đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của tỉnh, ngành BHXH căn cứ vào điều kiện

cụ thể để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác. Trong đó tập trung ngay từ khâu tổ

chức, bố trí cán bộ theo hệ thống mạng lưới, đặc biệt chú ý đến địa bàn vùng núi, vùng

sâu, vùng xa đi lại khó khăn.

Ngoài việc tổ chức dịch vụ chi trả BHXH theo tuyến huyện, xã, ngành còn phân theo

khu vực cụ thể để có chính sách cho phù hợp. Đối với thành phố, thị xã, những khu vực

đối tượng tham gia BHXH đông, triệt để ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu

suất công tác. Đối với vùng núi, đi lại khó khăn, ngành BHXH kết hợp cơ chế ba bên: cán

bộ của ngành, cán bộ chuyên trách cơ sở và cán bộ địa phương để phối hợp thực hiện

nhiệm vụ.

Điểm đáng lưu ý ở Thanh Hóa là công tác tuyên truyền hướng dẫn và phổ biến kiến

thức. Ngành trích quỹ thường xuyên để tổ chức các ấn phẩm, các trang tin cũng như công

tác tuyên truyền qua đài phát thanh, vô tuyến truyền hình thành bản tin cố định có mở

rộng. Ngoài việc tuyên truyền phổ biến, còn bổ sung thêm, đưa thông tin những đơn vị có

nhiều thành tích thực hiện công tác này. Đồng thời nhắc nhở những cá nhân, tổ chức chưa

có ý thức chấp hành tốt công tác BHXH.

Kết quả là, BHXH Thanh Hóa đảm bảo chỉ tiêu cấp phát và chỉ tiêu tăng trưởng

nguồn thu BHXH trong điều kịên thu nhập của dân cư còn thấp và địa bàn công tác gặp

nhiều khó khăn. Từ đó, gây được niềm tin tưởng trong nhân dân, góp phần vào ổn định

kinh tế - xã hội.

1.3.3. Một số bài học kinh nghiệm rút ra

Từ kinh nghiệm thực tế ở Thanh Hóa và Quảng Ninh về những thành tích đạt được trong

công tác BHXH có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây:

Một là, công tác tổ chức, ngoài tổ chức biên chế theo quy định của ngành nói chung,

tỉnh phải căn cứ vào đặc điểm kinh tế - xã hội cụ thể để bố trí lực lượng cán bộ thực hiện

công tác BHXH cho phù hợp. Đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa điều kiện đi lại khó khăn

cần có cán bộ chuyên trách giải quyết công việc theo định kỳ.

Hai là, công tác thông tin tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật và đề cao ý

nghĩa, tác dụng của việc tham gia BHXH, coi đó như quyền lợi, nghĩa vụ của công

dân, giúp cho nhân dân hiểu được, không chỉ là cán bộ công chức nhà nước mà công

dân trong mọi thành phần kinh tế đều được hưởng quyền bình đẳng về BHXH nếu

chấp hành đúng pháp luật và tuân thủ nguyên tắc về BHXH. Góp phần nâng cao ý thức

cộng đồng và ổn định xã hội.

Ba là, hiện đại hóa phương tiện làm việc của ngành. ứng dụng các phần mềm quản lý

hiện đại để nâng cao hiệu suất công tác, giải quyết nhanh chóng các thủ tục phát sinh,

từng bước cải cách thủ tục hành chính, tránh phiền hà cho dân khi giải quyết các quyền lợi

về bảo hiểm nói chung.

Bốn là, phối hợp tốt với các tổ chức quần chúng, đoàn thể để thực hiện BHXH nhằm

phát hiện nhanh chóng những bất cập trong quá trình cấp phát và mở rộng đối tượng, đặc

biệt quản lý đối tượng thu đúng, đủ và kịp thời. Đồng thời có chế độ khen thưởng bằng vật

chất thỏa đáng để động viên khuyến khích và sử phạt theo chế tài đối với hành vi cố tình

không đóng hoặc trốn tránh nghĩa vụ BHXH.

Kết luận chương 1

Xuất phát từ việc nghiên cứu BHXH, vị trí, vai trò của BHXH trong nền sản xuất - xã

hội nói chung. Đồng thời phân tích những đặc trưng cơ bản của BHXH, những vấn đề về

bản chất nhân văn của BHXH nói chung, của BHXH Việt Nam nói riêng. Từ đó, khẳng

định BHXH là lĩnh vực kinh tế cần thiết nhằm bảo đảm sự vận động và phát triển xã hội

bình ổn. Chương này đi sâu phân tích thêm những nhân tố ảnh hưởng và tác động đến hoạt

động BHXH dưới các cách tiếp cận khác nhau. Mục đích để chỉ ra BHXH thuộc lĩnh vực

tài chính nhà nước khác với chính sách xã hội nhưng có nét tương đồng. Hoạt động BHXH

phát triển sẽ có tác dụng lan tỏa góp phần thực hiện mục tiêu chung của phát triển kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện mục tiêu tổng quát trong

đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Nghị quyết đại hội Đảng đã đề ra "Dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Luận văn nghiên cứu kinh nghiệm về BHXH của hai tỉnh có nét tương đồng và đạt

được nhiều thành tích về hoạt động BHXH trong những năm qua để rút ra những bài học

kinh nghiệm cho lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động BHXH ở Ninh Bình tốt hơn trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.

Chương 2

Thực trạng bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình

hiện nay

2.1. Vài nét về tình hình kinh tế - xã hội và bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình

2.1.1. Khái quát về tình hình tỉnh Ninh Bình

Về đặc điểm tự nhiên: Ninh Bình nằm ở vùng cực Nam đồng bằng châu thổ Sông

Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây giáp 2 tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá, phía

Đông giáp tỉnh Nam Định, phía Nam giáp biển Đông. Ninh Bình có diện tích tự nhiên hơn

1.400 km², với bờ biển dài hơn 15 km. Toàn tỉnh có 67.000 ha đất nông nghiệp, trong đó

đất canh tác 55.000 ha; đất lâm nghiệp 13.000 ha; rừng tự nhiên 10.400 ha và trên 20.000

ha diện tích núi đá với trữ lượng hàng chục tỷ m³ đá vôi; rừng núi chiếm 22% diện tích tự

nhiên toàn tỉnh. Dân số trên 93 vạn người.

Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá

giữa lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng núi

rừng Tây Bắc của Tổ quốc. Trên địa bàn tỉnh có Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10; 12A; 12B và

đường sắt Bắc Nam chạy qua cùng hệ thống sông ngòi dày đặc như: sông Đáy, sông

Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, Sông Vân...tạo thành mạng lưới giao thông thuỷ, bộ rất

thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế trong và ngoài tỉnh.

Những năm qua, nhất là từ sau ngày tái lập tỉnh đến nay, Đảng bộ, quân dân Ninh

Bình đã đoàn kết, vượt mọi khó khăn, triển khai thực hiện thắng lợi tương đối toàn diện

các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và

XIV đề ra với kết quả năm sau cao hơn năm trước. Năm 2002 so với năm 1992 (tái lập

tỉnh) nhịp độ tăng trưởng GDP gấp 2,4 lần, bình quân tăng 10,4%/ năm; giá trị sản xuất

nông nghiệp tăng gấp 2 lần; công nghiệp tăng gấp 3 lần; thu ngân sách tăng gấp 6 lần; vốn

đầu tư xây dựng cơ bản tăng 40 lần...

Về nông nghiệp: tỉnh đã tập trung chỉ đạo chuyển được gần 9.000 ha đất nông nghiệp

trồng cây có giá trị thấp sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế cao như: nuôi

tôm sú, trồng cói ở Kim Sơn, nuôi tôm càng xanh, trồng dứa ở Tam Điệp, Nho Quan, nuôi

thả cá chim trắng ở Gia Viễn, Hoa Lư, cấy các giồng lúa đặc sản: tám, nếp, dự... ở Kim

Sơn, Yên Khánh.... bình quân lương thực đầu người đạt 518 kg. Cả tỉnh có 294 trang trại

mỗi năm doanh thu bình quân từ 20 triệu đồng trở lên.

Về công nghiệp: tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 khu công nghiệp, cụm công nghiệp

với diện tích 880 ha trong đó có các khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn như: khu công

nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, cụm công nghiệp Gián Khẩu.... Ninh Bình

đã ban hành các cơ chế, chính sách như: chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào các

khu công nghiệp, khu du lịch; chính sách khuyến khích tài năng thu hút nhân tài; quỹ

khuyến công ; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển. Tỉnh đã tổ chức gặp mặt các doanh nhân trong

và ngoài tỉnh để kêu gọi đầu tư. Tính đến thời điểm hiện nay, tỉnh đã chấp thuận trên 30 dự

án với tổng số vốn đăng ký trên 1.400 tỷ đồng đầu tư vào tỉnh.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn hàng năm đạt gần 2.200 tỷ đồng. Trong vài

năm gần đây trên địa bàn tỉnh đã khởi công nhiều công trình lớn về giao thông, thuỷ lợi, du

lịch, thể thao như: hồ Yên Thắng; dự án phân lũ, chậm lũ Nho Quan và Gia Viễn; sân vận

động, Nhà thi đấu trung tâm; Nhà máy cán thép Tam Điệp công suất 36 vạn tấn/ năm; Nhà

máy xi măng Tam Điệp công suất 1,4 triệu tấn/ năm... Các công trình đầu tư trên lần lượt

đưa vào sử dụng sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.

Các hoạt động dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tín dụng, du lịch...

đều đạt mức tăng trưởng bình quân trên 25%/ năm. Thu ngân sách tăng bình quân trên

20%/ năm.

Về văn hoá xã hội: tỉnh Ninh Bình đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục

THCS từ tháng 12/ 2002; có 7/8 huyện, thị xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ

tuổi; 100% số xã, phường, thị trấn trong tỉnh có trường học cao tầng, kiên cố; 3 trường

mầm non, 106 trường tiểu học và 1 trường trung học cơ sở được Bộ Giáo dục và Đào tạo

công nhận đạt chuẩn quốc gia. Đến nay, 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế; có 49,7%

trạm y tế có bác sỹ. 1622/1622 thôn, bản, phố xây dựng được hương ước, quy ước; có

4.192 gia đình văn hóa, 130 làng văn hoá và 90 cơ quan đạt tiêu chuẩn văn hoá. Phong trào

thể dục thể thao quần chúng phát triển rộng khắp, có 17% dân số tham gia luyện tập TDTT

thường xuyên; 12% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao, có 320 câu lạc bộ TDTT hoạt

động thường xuyên; tại Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ IV, đoàn vận động viên của Ninh

Bình được xếp thứ 24/64 đoàn tham gia. Việc thực hiện các chính sách xã hội đã có nhiều

cố gắng, tỉnh đã đào tạo, truyền nghề cho 58.000 người; giải quyết việc làm cho 38.625

lượt người, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm được 1,8% [48].

Tuy nhiên, Ninh Bình vẫn còn là một tỉnh nghèo, điểm xuất phát thấp, kinh tế chậm

phát triển, cơ cấu kinh tế lạc hậu, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, tốc độ phát triển kinh tế

chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của một tỉnh đồng bằng có điều kiện phát

triển kinh tế toàn diện.

Những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế - xã hội nêu trên có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi

mặt đời sống kinh tế xã hội của tỉnh, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của BHXH trên địa

bàn tỉnh.

2.1.2. Tổng quan những nội dung cơ bản về bảo hiểm xã hội ở tỉnh Ninh Bình

BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần đảm

bảo ổn định đời sống cho cán bộ CNVC, quân nhân và người lao động, ổn định chính trị,

trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa. Do vậy, ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm

đến việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH đối với cán bộ công chức, viên chức,

quân nhân và người lao động thuộc các thành phần kinh tế.

Để phù hợp với đường lối phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới, từ năm 1995 Nhà nước ta

bắt đầu đổi mới các chế độ BHXH theo quy định tại Bộ luật lao động của nước Cộng hòa

XHCN Việt Nam. Thực hiện nghị định số 19/Cp của Chính phủ, BHXH Việt Nam được

thành lập từ ngày 16/02/1995 thống nhất các tổ chức BHXH từ Trung ương đến địa

phương và quản lý quỹ BHXH, thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo quy định của

pháp luật Nhà nước.

Cùng với sự ra đời của hệ thống BHXH các tỉnh thành phố trong cả nước, BHXH

tỉnh Ninh Bình được thành lập theo quyết định số 02/QĐ - CT ngày 15/6/1995 của Tổng

Giám đốc BHXH Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động theo chức năng nhiệm vụ của

mình từ 01/10/1995.

Thực hiện Nghị định 100/2002/NĐ-CP của Chính phủ từ ngày 01/01/2003 ngành

được tiếp nhận thêm toàn bộ hệ thống tổ chức và chức năng nhiệm vụ của BHYT chuyển

sang, đây cũng là yếu tố quan trọng tạo thêm sức mạnh về vị thế của ngành trong xã hội.

Về hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến BHXH ở tỉnh Ninh Bình:

Để phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ khi BHXH ra

đời (1995), Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh các chính sách

BHXH, cụ thể như sau:

Bộ Luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông

qua ngày 28 tháng 6 năm 1994, có hiệu lực từ tháng 1/1995. Bộ Luật này đến năm 2002

được Quốc hội khoá X sửa đổi, bổ sung một số điều cho phù hợp tình hình thực tế. Trong

đó, chương 12 qui định về chế độ BHXH bắt buộc áp dụng cho người lao động làm việc

theo hợp đồng lao động trong các tổ chức, cơ quan doanh nghiệp thuộc các thành phần

kinh tế.

Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26 tháng 1 năm 1995

(đến tháng 1/2003 được sửa đổi theo Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9 tháng 1 năm

2003) của Chính phủ. Điều lệ BHXH nhằm cụ thể hoá chương 12 của Bộ Luật lao động về

chế độ BHXH bắt buộc. Các chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp ốm

đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu

trí và chế độ tử tuất. Đối tượng bắt buộc áp dụng BHXH theo điều lệ bao gồm:

Thứ nhất, người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động không thời hạn hoặc

có thời hạn từ 3 tháng trở lên trong các cơ quan, tổ chức sau đây:

- Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật DNNN.

- Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

- Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

- Hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác.

- Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ

chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, lực lượng vũ trang.

- Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo,

khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác.

- Trạm y tế xã, phường, thị trấn.

- Các cơ quan , tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

- Các tổ chức khác có sử dụng lao động.

Thứ hai, cán bộ, công chức, viên chức theo pháp lệnh cán bộ, công chức.

Thứ ba, người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo HĐLĐ trong các

hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã.

Ngoài ra, tại nghị định số 01/2003/NĐ - CP còn quy định thêm:

1. Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản

1, khoản 3 và khoản 6 Điều này, làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3

tháng, khi hết hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết

hợp đồng lao động mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia BHXH

bắt buộc.

2. Người lao động quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và khoản 6 Điều này đi học, thực

tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì

cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc.

3. Người lao động làm việc và hưởng tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động từ

đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm

nghiệp.

Đối với người lao động làm việc tại các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư

nghiệp, diêm nghiệp đã thực hiện giao khoán đất có quy định riêng.

Nghị định số 45/Cp ngày 15/7/1995, (năm 2003 được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị

định số 89/2003/NĐ-CP ngày 5/8/2003) của chính phủ ban hành Điều lệ BHXH đối với sĩ

quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân

dân. Các chế độ BHXH áp dụng trong điều lệ này cũng bao gồm cả 5 chế độ: ốm đau, thai

sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất. Mức đóng BHXH cũng là 20%

tiền lương. Trong đó ngân sách nhà nước cấp đóng BHXH là 15%, sỹ quan đóng 5%. Điều

kiện, mức hưởng có tính đến đặc thù của lực lượng vũ trang.

Nghị đinh 89/2003 còn quy định:

Hàng tháng, cơ quan tài chính quân đội, công an có trách nhiệm đóng BHXH theo

quy định tại khoản 1 điều 34 và trích từ tiền lương của quân nhân, công an nhân dân (kể cả

những người được Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý) theo quy định tại khoản 2 điều 34

Điều lệ này để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH. Tiền lương tháng làm căn cứ đóng

BHXH bao gồm lương cấp hàm hoặc lương ngạch, bậc và các khoản phụ cấp thâm niên,

khu vực, chức vụ, đắt đỏ và hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có).

Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 (đã được sửa đổi bổ sung bằng nghị

định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003) của Chính phủ quy định chế độ BHXH đối với

cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Theo Nghị định này, một số chức danh cán bộ chủ

chốt ở xã như Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ xã, Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND,

trưởng các đoàn thể như Hội cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội phụ nữ… và các chức

danh công chức cấp xã là địa chính - nhà đất, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn

phòng - thống kê, văn hoá - xã hội được tham gia BHXH. Tuy nhiên, đối tượng tham gia

BHXH ở đây còn rất hạn chế (mỗi xã phường, tuỳ theo theo số dân, chỉ có từ 19 đến 25

cán bộ chủ chốt trong các chức danh đã quy định. Các chế độ BHXH đối với cán bộ, công

chức xã, phường, thị trấn được áp dụng đầy đủ theo qui định tại điều lệ BHXH hiện hành.

Cán bộ chuyên trách, công chức xã được thực hiện chế độ BHXH như: Chế độ trợ

cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động, chế độ hưu trí, chế độ

tử tuất, chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ và chế độ bảo hiểm y tế (trước đây chỉ

có chế độ hưu trí, chế độ tử tuất).

Mức đóng BHXH bằng 20%, tiền lương tiền công hàng tháng bao gồm: mức lương

theo ngạch bậc, chức vụ: phụ cấp tái cử và hệ số bảo lưu của cán bộ chuyên trách, công

chức cấp xã: trong đó cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã đóng bằng 5% người sử dụng

lao động (UBND cấp xã) đóng bằng 15% (trước đây đóng 15%) [20, tr.7].

Nghị định số 07/CP ngày 20 tháng 1 năm 1995 sau đó sửa đổi, bổ sung bằng nghị

định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 qui định về người lao động ra nước ngoài làm

việc. Trong đó quy định lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo các hình thức đấu

thầu công trình, xuất khẩu lao động, đi làm chuyên gia được tham gia 2 chế độ BHXH là

hưu trí và tử tuất.

Ngoài ra, còn rất nhiều thông tư của các bộ ngành có liên quan như Bộ Lao động

Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các Nghị định của

Chính phủ về BHXH. Bên cạnh đó là các văn bản quy định của Chính phủ về cơ cấu tổ

chức, quy chế quản lý tài chính của hệ thống BHXH Việt Nam. Những văn bản quy định

của Nhà nước về BHXH là cơ sở pháp lý điều chỉnh các dịch vụ BHXH trong phạm vi

toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng.

Hiện tại, văn bản pháp lý cao nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao

động về BHXH là Luật BHXH (số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006) của Quốc

hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2007. Luật này

quy định về chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ

quan, tổ chức BHXH; quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về

BHXH (luật này không áp dụng đối với BHYT, bảo hiểm tiền gửi và bảo hiểm mang tính

kinh doanh). Ngoài BHXH bắt buộc, luật còn bổ sung thêm BHXH tự nguyện và Bảo hiểm

thất nghiệp.

Điểm mới của văn bản Luật này là, ngoài hình thức BHXH bắt buộc, việc mở rộng

hình thức BHXH tự nguyện và hình thức Bảo hiểm thất nghiệp, đã được quy định tại

Chương IV và Chương V. Đây là đổi mới quan trọng trong chính sách BHXH của Đảng và

Nhà nước ta để tiến tới BHXH cho mọi người lao động ở bất cứ thành phần kinh tế nào

cũng đều có nghĩa vụ tham gia và thụ hưởng những quyền lợi về chế độ BHXH đáp ứng

được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Như vậy các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm:

- Bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm các chế độ ốm đau; Thai sản; Tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp; Hưu trí; Tử tuất.

- Bảo hiểm xã hội tự nguyện gồm các chế độ: Hưu trí; Tử tuất.

- Bảo hiểm thất nghiệp gồm các chế độ Trợ cấp thất nghiệp; Hỗ trợ học nghề; Hỗ trợ

tìm việc làm.

Đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy

định mức bình quân của tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ

cấp một lần đối với người lao động tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 đến

trước ngày Luật BHXH có hiệu lực trước khi nghỉ hưu được qui định tại mục 4 điều 59

như sau:

"Tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 01 năm 1995 đến ngày

31-12 năm 2000 thì tính bình quân của tiền luơng tháng đóng BHXH của 6 năm cuối trước

khi nghỉ hưu; Tham gia BHXH trong khoảng thời gian từ ngày 01tháng 01 năm 2001 đến

ngày 31-12-2006 thì tính bình quân của tiền luơng tháng đóng BHXH của 8 năm cuối

trước khi nghỉ hưu" (Đối với người lao động bắt đầu tham gia BHXH trước ngày ngày 01

tháng 01 năm 1995 thì cách tính lương hưu vẫn như qui định hiện hành).

Mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp

một lần đối với người lao động tham gia BHXH, từ ngày Luật BHXH có hiệu lực được

quy định tại điều 60 mục 1: “Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương

do Nhà nước qui định có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương thì tính

bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của mười năm cuối trước khi nghỉ hưu”.

Mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền

lương, tiền công của người lao động. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được tính trên

cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn

mức lương tối thiểu chung.

Mức hưởng bảo hiểm xã hội được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã

hội và có chia sẻ giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội.

Người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vừa có thời gian

đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở

thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.

Một điểm khác nữa là Luật không khống chế số tháng được hưởng trợ cấp 1 lần khi

nghỉ hưu mà “Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ ba

mươi mốt trở đi đối với nam và năm thứ hai mươi sáu trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng

BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng

BHXH” - Khoản 2 điều 54.

Đối tượng áp dụng của các hình thức bảo hiểm trên:

Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm: người làm

việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ

ba tháng trở lên; Cán bộ, công chức, viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân công

an; Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ

quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng

lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân

dân, công an nhân dân phục vụ có thời hạn; Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà

trước đó đã đóng BHXH bắt buộc (A).

Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự

nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị

xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước

ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh

doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho

người lao động (B).

Người tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng

lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác

định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử dụng lao động quy định tại (B).

Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là người sử dụng lao động

quy định tại (B) có sử dụng từ mười lao động trở lên.

Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động,

không thuộc quy định tại (A).

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH.

Bên cạnh các văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp BHXH phải kể đến hệ thống các

văn bản điều chỉnh về BHYT vì hiện nay, BHXH là cơ quan thực hiện cả hai loại dịch vụ

này. Một số mặt công tác đã lồng ghép thực hiện chung. Ví dụ, công tác thu BHXH được

thực hiện song cùng với thu BHYT bắt buộc, công tác chi trả các chế độ ốm đau thai sản

có liên hệ đối chiếu với công tác giám định chi phí điều trị của dịch vụ BHYT… Hiện tại,

dịch vụ BHYT đang được điều chỉnh theo Nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của

chính phủ. Chính phủ cũng đang xây dựng dự thảo Luật BHYT với mục tiêu hướng tới là

thực hiện BHYT toàn dân.

Về hệ thống văn bản điều chỉnh BHXH của BHXH Việt Nam:

Các dịch vụ: thu, chi, giải quyết chính sách, quản lý đối tượng hưởng BHXH đang thực hiện

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng và các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung đều được

BHXH Việt Nam quy định khá cụ thể. Tuỳ theo tình hình cụ thể từng địa phương, việc thực hiện

có thể vận dụng khác nhau. Tuy nhiên, những quy định của BHXH Việt Nam là căn cứ pháp lý

trực tiếp điều chỉnh BHXH tại các tỉnh, thành phố. Những văn bản quy định của BHXH Việt Nam

gồm có:

Đối với quản lý thu BHXH

Từ khi thành lập, BHXH Việt Nam đã ban hành nhiều quy định hướng dẫn về công

tác thu BHXH cho các tỉnh, thành phố. Sau nhiều lần sửa đổi cho phù hợp, quy trình quản

lý thu hiện nay được ban hành kèm theo Quyết định 902/QĐ-BHXH-BT ngày 26/6/2007

của BHXH Việt Nam ban hành về quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc theo Luật BHXH.

Trong đó có các quy định cụ thể về phân cấp tổ chức công tác thu, quy trình thực hiện, hệ

thống sổ sách báo cáo. Đây là tài liệu quan trọng để BHXH các tỉnh, thành phố triển khai

dịch vụ thu BHXH, BHYT trên địa bàn.

Nội dung quản lý thu BHXH bắt buộc hiện tại bao gồm:

- Thu BHXH bắt buộc được gắn liền với thu BHYT bắt buộc. Các đơn vị sử dụng lao

động trích nộp BHXH, BHYT hàng tháng. Mức nộp là 23% quỹ lương cơ bản. Trong đó,

tỷ lệ đóng góp cho quỹ BHXH là 20%, người lao động góp 5%, chủ sử dụng lao động

15%. Mức trích nộp BHYT là 3%, người lao động góp 1%, đơn vị góp 2% [12].

- Thu BHXH thực hiện theo địa bàn tỉnh thành phố. BHXH tỉnh, thành phố tuỳ theo

tình hình cụ thể phân cấp các BHXH quận huyện thực hiện. Toàn bộ tiền thu BHXH,

BHYT theo định kỳ chuyển về quỹ BHXH, BHYT tập trung ở trung ương do BHXH Việt

Nam thống nhất quản lý.

- Thực hiện sổ biểu theo dõi hạch toán kết quả thu BHXH, BHYT chi tiết đến từng

đơn vị sử dụng lao động, từng người lao động. Kết quả đóng BHXH của từng người lao

động (bao gồm cả phần đơn vị trích nộp) được ghi vào sổ BHXH làm căn cứ xét giải quyết

chế độ chính sách BHXH khi có phát sinh.

Đối với quản lý chi trả BHXH:

BHXH Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn công tác chi trả BHXH.

Có thể tóm tắt những quy định đó như sau:

+ Đối với chi các chế độ BHXH ngắn hạn, chi các khoản trợ cấp 1 lần:

Cơ quan BHXH chi trả cho người lao động thông qua đơn vị sử dụng lao động các

khoản trợ cấp ốm đau, thai sản, chi nghỉ dưỡng sức. Đối với các khoản trợ cấp BHXH một

lần khi nghỉ hưu hoặc trợ cấp hưu 1 lần đối với người không đủ điều kiện hưởng hưu hàng

tháng, trả trực tiếp cho người lao động tại cơ quan BHXH tỉnh, thành phố.

+ Đối với chi trả lương hưu, trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng theo địa bàn xã,

phường nơi đối tượng cư trú thông qua các ban đại diện chi trả do UBND xã, phường, thị trấn

lập ra. Một số nơi có thể thực hiện thông qua các đại lý chi trả có ký hợp đồng với cơ quan

BHXH. Cơ quan BHXH tỉnh lập danh sách và chuyển tiền thông qua các ban đại diện chi trả,

hoặc đại lý chi trả đến tay đối tượng thụ hưởng BHXH. Hình thức chi trả trực tiếp bằng tiền

mặt là phổ biến.

Đối với công tác xét hưởng chế độ, chính sách BHXH và quản lý đối tượng hưởng

BHXH hàng tháng

Giải quyết chế độ chính sách là việc thực hiện các thủ tục hồ sơ cần thiết để có đủ căn

cứ chi trả BHXH cho đối tượng tham gia BHXH khi phát sinh các điều kiện hưởng chế độ

BHXH theo luật định. Đây là công việc khá phức tạp và nhạy cảm. ở Việt Nam, việc thực

hiện dịch vụ này còn gặp khó khăn nhất là với việc giải quyết chế độ hưu trí.

Nguyên nhân chủ yếu do thời gian trước đây không quy định người lao động đóng

BHXH. Thời gian công tác dược tính hưởng BHXH của họ được căn cứ vào hồ sơ lý lịch

công tác do các đơn vị sử dụng lao động cung cấp. Do chiến tranh, thiên tai hoặc thời gian

trước đây một số đơn vị quản lý hồ sơ không tốt dẫn đến việc mất mát hoặc thiếu hồ sơ gốc.

Cá biệt, không ít trường hợp đã khai không đúng về tuổi đời hoặc thời gian công tác hưởng

BHXH. Điều này gây khó khăn trong việc giải quyết thụ hưởng BHXH cho người lao động.

BHXH Việt Nam căn cứ vào các văn bản pháp lý của chính phủ để quy định về thủ

tục, trình tự xét hưởng các chế độ BHXH như sau:

- Với chế độ BHXH ngắn hạn như ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức. Các chứng nhận

nghỉ việc vì ốm đau, thai sản, chứng từ nghỉ dưỡng sức và kết quả đóng BHXH của người

lao động trước khi nghỉ việc là căn cứ thanh toán. Đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm

lập danh sách người hưởng, tổng hợp chứng từ theo quy định. Cơ quan BHXH theo phân cấp

quản lý có trách nhiệm xét duyệt và chuyển tiền về đơn vị sử dụng lao động để chi trả cho

người lao động.

- Với các trường hợp nghỉ hưu trí, tử tuất, hưởng BHXH 1 lần: Việc xét duyệt hồ sơ

và cấp chứng nhận hưởng chế độ do phòng chế độ chính sách của cơ quan BHXH tỉnh,

trực tiếp xem xét. Căn cứ pháp lý chủ yếu để giải quyết là sổ BHXH do cơ quan BHXH

cấp và ghi chép đầy đủ về nhân thân và quá trình làm việc có đóng BHXH của người lao

động.

Sau khi duyệt và cấp chứng nhận được hưởng chế độ BHXH cho người lao động khi

nghỉ hưu, BHXH một lần hoặc thân nhân người lao động khi hưởng tuất. BHXH tỉnh,

thành phố lập danh sách chi trả theo các xã, phường hoặc đại lý chi trả chuyển cho BHXH

các quận, huyện quản lý để chi trả hàng tháng tại nơi đối tượng cư trú.

Việc quản lý đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH gắn liền với việc quản lý

nhân khẩu tại địa phương. Đối tượng khi nghỉ việc muốn đăng ký lĩnh lương hưu, trợ cấp

BHXH tại địa bàn phải có hộ khẩu thường trú. Khi di chuyển nơi nhận lương hưu phải di

chuyển hộ khẩu hoặc đăng ký hổ khẩu tạm trú.

Khi thay đổi nơi lĩnh lương hưu, trợ cấp do di chuyển địa bàn cư trú, đối tượng có

đơn đề nghị, BHXH các huyện, thị xã lập danh sách báo cáo về tỉnh để điều chỉnh danh

sách chi trả. Trường hợp di chuyển sang tỉnh khác, BHXH tỉnh, thành phố nơi đi lập hồ sơ

di chuyển gửi đến BHXH tỉnh, thành phố nơi đến quản lý và chi trả.

Trường hợp đối tượng bị chết, BHXH các huyện, thị xã căn cứ giấy báo tử và đề nghị

của thân nhân người lao động để giải quyết tạm ứng tiền mai táng phí trong chế độ tử tuất.

Sau đó gửi hồ sơ về để BHXH tỉnh thẩm định và ra quyết định hưởng chế độ cho thân

nhân đối tượng.

Tóm lại, hệ thống các văn bản pháp lý điều chỉnh công tác BHXH ở Việt Nam có khá

nhiều và đang được tiếp tục hoàn chỉnh theo hướng ngày càng chi tiết, cụ thể, rõ ràng hơn.

Các văn bản pháp lý về BHXH luôn bám sát tình hình thực tế trong từng thời kỳ phát

triển của đất nước. Hệ thống văn bản BHXH làm cho mọi người lao động thấy được quyền

lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia hoạt động BHXH, coi đó như một tất yếu trong hoạt

động kinh tế - xã hội và cộng đồng.

Tuy nhiên, do đặc thù BHXH là một chính sách xã hội nên hệ thống văn bản pháp

luật dưới góc độ nào đó còn mang tính chất hành chính, pháp lệnh. Điều này làm cho

BHXH chưa thực sự thể hiện đúng ý nghĩa của nó.

Mặc dù vậy, BHXH Ninh Bình cũng quán triệt và thực hiện nghiêm túc theo các văn bản

hướng dẫn của Chính phủ và ngành BHXH Việt Nam. Đồng thời vận dụng linh hoạt, phù hợp

với đặc thù kinh tế - xã hội của tỉnh để các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và

ngành đến với dân một cách hiệu quả nhất.

2.2. Thực trạng về bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

2.2.1. Mô hình tổ chức bộ máy và phân cấp thực hiện các nhiệm vụ của Bảo

hiểm xã hội tỉnh Ninh Bình

BHXH tỉnh Ninh Bình trực thuộc BHXH Việt Nam, là đơn vị quản lý sự nghiệp trên

địa bàn tỉnh Ninh Bình. Về cơ cấu tổ chức hiện có 8 phòng chức năng và 08 BHXH huyện,

thị xã trực thuộc. Mô hình tổ chức bộ máy được thể hiện ở sơ đồ 2.1.

Sơ đồ 2.1: tổ chức bộ máy BHXH tỉnh Ninh Bình

Giám đốc

Phó Giám đốc Phó Giám đốc

Phòng tổ Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng Phòng

chức cán kế hoạch bảo hiểm thu giám kiểm tra chế độ công

bộ tài chính tự nguyện định chi pháp chế chính nghệ

sách thông

tin

BHXH BHXH BHXH BHXH BHXH BHXH BHXH BHXH

T.P Ninh TX huyện huyện huyện huyện huyện huyện

Bình Tam Yên Yên Mô Hoa Lư Gia Viễn Nho Kim

Điệp Khánh Quan Sơn

Với mô hình tổ chức bộ máy như trên, gắn với sự phân công công tác chuyên

môn chuyên trách từng lĩnh vực cụ thể vừa có tính chất bao quát toàn bộ công tác

BHXH hiện nay, vừa đi vào nghiệp vụ chuyên sâu tạo ra tính đồng bộ thống nhất để

bộ máy làm việc nhịp nhàng, trôi chảy. Tuy nhiên trong thực tế sự liên kết phối hợp

giữa BHXH bộ phận với nhau cần có một cơ chế phù hợp, nếu không có sự phối

hợp tốt sẽ dẫn đến tình trạng ách tắc. Điều này đòi hỏi tầm lãnh đạo quản lý của

giám đốc và phó giám đốc.

Về nhân lực, BHXH tỉnh Ninh Bình hiện có 144 cán bộ, công chức, trong đó

trình độ đại học trở lên là 79 người (chiếm 55%), trung cấp 60 người (chiếm

41,6%), sơ cấp 5 người (chiếm 3,4%) [2, tr.3]. Nhìn chung đội ngũ đã bước đầu đáp

ứng được yêu cầu công tác trước mắt. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, nhân lực

BHXH Ninh Bình cần nâng cao cả số lượng và chất lượng.

2.2.2. Những kết quả đạt được

2.2.2.1. Đối với công tác thu bảo hiểm xã hội

Công tác thu BHXH là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của ngành

nhằm đáp ứng các yêu cầu về sự tăng trưởng nguồn quỹ BHXH và các yêu cầu về

chi trả các chế độ BHXH, BHYT đối với người lao động.

Về cơ bản, công tác thu BHXH ở tỉnh Ninh Bình hiện nay được tiến hành như

sau:

Xác định mục tiêu cơ bản của ngành là không ngừng mở rộng và phục vụ đối

tượng tham gia, thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Trong đó có công tác thu là

một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đáp ứng các yêu cầu về sự tăng trưởng

quỹ và đảm bảo chi trả các chế độ BHXH, BHYT đối với người lao động. Vì vậy

hàng năm, ngay từ đầu BHXH tỉnh đã tiến hành rà soát chặt chẽ lao động tiền

lương, cân đối, giao chỉ tiêu thu cho các đơn vị và phân công cán bộ chuyên quản

phụ trách từng đơn vị, từng khu vực, thường xuyên bám sát cơ sở, kiểm tra nắm

chắc diễn biến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Đồng thời

thực hiện tốt công tác đôn đốc thu gắn liền với việc cấp sổ BHXH, chi trả kịp thời

các chế độ BHXH, BHYT, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động. Đặc

biệt trong những năm qua, BHXH tỉnh Ninh Bình đã chủ động triển khai sâu rộng

những nội dung của luật BHXH và các văn bản hướng dẫn thi hành tới 1.500 đơn vị

trên địa bàn thông qua các hội nghị tập huấn, hướng dẫn những nội dung mới của

chính sách BHXH, BHYT. Qua đó đã góp phần tích cực nâng cao ý thức, trách

nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể. Các đơn vị sử dụng lao động và

người lao động về chấp hành tốt chính sách của Đảng và Nhà nước về BHXH,

BHYT, tạo thuận lợi rất lớn trong công tác thu của ngành. Kết quả đạt được về số

liệu tham gia BHXH tại Ninh Bình năm 2003 đến nay thể hiện ở biểu số 2.1. như

sau:

Biểu 2.1: Kết quả thu BHXH từ năm 2003 đến 2007

Số năm 2003 2004 2005 2006 2007

Số đơn vị đóng BHXH 595 873 1 010 1 077 1 218

Số lao động (Người) 40 260 42 212 42 618 41 946 43 428

Số tiền (Triệu đồng) 77 268 82 943 104 173 121 506 152 319

Nguồn: BHXH Ninh Bình - Báo cáo kết quả thu các năm 2003 - 2007.

Bảng số liệu trên cho ta thấy: Số đơn vị, số lao động và số tiền thu BHXH

ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Sự tăng nhanh đối tượng tham gia

BHXH thể hiện thành tích đáng kể của đơn vị thu BHXH.

Số lao động năm sau tăng cao hơn năm trước là do: Năm 2003 BHXH tỉnh

Ninh Bình thực hiện thu BHXH theo nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003

của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của điều lệ. BHXH ban hành

kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ. Theo nghị

định này đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc mở rộng hơn so với nghị định 12/CP.

Về hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã, hộ sản xuất được tham gia BHXH.

Nếu như năm 2003 khối hợp tác xã có 8 đầu mối tham gia BHXH với tổng số 54

lao động thì năm 2004 khối hợp tác xã, tổ dịch vụ tăng lên 106 đầu mối với 416 lao

động tăng hơn so với năm 2003 là 408 đầu mối với 362 lao động. Năm 2005 khối

này tăng lên 206 đầu mối với 716 lao động tăng hơn so với năm 2004 là 100 đầu

mối và tăng hơn 300 lao động.

Về điều kiện tham gia BHXH bắt buộc của doanh nghiệp ngoài quốc doanh

theo NĐ 12/CP chỉ có người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các

thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên mới được

tham gia. ở nghị định số 01/2003/NĐ-CP thì các đối tượng này không bị ràng buộc

bởi số lao động trong đơn vị nữa nên lao động của các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh tăng mạnh, các doanh nghiệp nhỏ ít lao động có cơ hội tham gia BHXH.

Năm 2003, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh 60 đầu mối với 2006 lao động đến

năm 2004 tăng lên 119 đầu mối có 3.130 lao động, tăng hơn so với năm 2003 là 59

đầu mối tăng 1.124 lao động.

Năm 2005 ở khối này tăng lên 179 đầu mối và số lao động là 8.267 lao động

tăng cao hơn so với năm 2004: cụ thể tăng hơn năm 2004 là 60 đầu mối với số lao

động tăng lên 5.137 lao động chiếm 12.7% so với tổng số lao động tham gia BHXH

trên địa bàn tỉnh. Năm 2006 số lao động ở khối này tiếp tục tăng lên 241 đầu mối

với 12.023 lao động. So với 2005 đã tăng thêm 62 đầu mối với số lao động 3.756

lao động chiếm 8.9% so với tổng số lao động tham gia BHXH đến thời điểm này

trên địa bàn.

Năm 2007 số đầu mối ở khối này tăng lên 306 với 13.256 lao động tăng hơn

so với 2006 là 65 đầu mối với 1.233 lao động [3, tr.3].

Từ việc thu BHXH đã tạo lập được mối quan hệ chặt chẽ, có sự giám sát lẫn

nhau giữa cơ quan BHXH tỉnh với hơn 1.218 đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn.

Trong đó có 522 đơn vị hành chính sự nghiệp ở địa phương; 41 doanh nghiệp nhà

nước, 306 doanh nghiệp ngoài quốc doanh; 147 đơn vị xã phường; 169 hợp tác xã,

tổ dịch vụ. Có 43.428 lao động tham gia BHXH từ đó phát sinh hàng trăm ngàn

lượt người lao động tham gia BHXH trong mối quan hệ đóng và hưởng BHXH.

Thiết lập theo dõi 56.000 hồ sơ cá nhân thông qua việc cấp và ghi sổ BHXH hoặc

bản kê khai tham gia trích nộp BHXH .

Tổng số thu BHXH từ năm 1995 đến 2007 của Ninh Bình đạt 780,325 tỷ

đồng. Đây là nguồn quỹ đáng kể bổ sung vào quỹ BHXH tại Việt Nam để chi trả

các chế độ BHXH.

Đồng thời, từ khi nghị định 01/2003/NĐ-CP ra đời đã có ảnh hưởng rất lớn đối

với công tác phát triển, mở rộng đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn tỉnh, đầu

mối và số lao động qua các năm tăng lên rõ rệt qua từng năm, từ đó số thu BHXH

của đơn vị BHXH tỉnh Ninh Bình qua các năm luôn đạt và vượt kế hoạch do BHXH

Việt Nam giao.

2.2.2.2. Đối với công tác giải quyết chế độ chính sách bảo hiểm xã hội (đặc

biệt đối với bảo hiểm y tế)

Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, thực hiện đúng các chế độ

chính sách của Đảng và Nhà nước quy định đối với những người được hưởng chế độ

BHXH và bảo hiểm y tế, tỉnh đã tập trung chỉ đạo việc thực hiện công tác tiếp nhận hồ

sơ và giải quyết chế độ chính sách BHXH theo cơ chế “một cửa”, đảm bảo nhanh

chóng, kịp thời, chính xác và thuận lợi tránh được các biểu hiện tiêu cực phiền hà cho

đối tượng được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ.

Hiện tại các chính sách BHXH bao gồm:

- Trợ cấp thai sản

- Trợ cấp ốm đau

- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,

- Hưu trí

- Tử tuất

- Chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe.

Đây là các chế độ BHXH khác nhau nhưng người lao động có thể hưởng từ 1

đến cả 6 chế độ trong cuộc đời của mình. Có thể tìm hiểu về nội dung của từng chế

độ như sau:

Thứ nhất, về trợ cấp thai sản, được trả bằng 100% tiền lương tham gia BHXH

cho lao động nữ trong thời gian nghỉ thai sản theo luật định.

Thứ hai, về trợ cấp ốm đau, là trợ cấp trả thay tiền lương (thông thường là

75% tiền lương đóng BHXH, trường hợp nghỉ dài ngày mức thấp hơn nhưng tối

thiểu cũng bằng 65% tiền lương). Khoản trợ cấp này chi trả cho người lao động

đang trong quá trình tham gia BHXH không may bị ốm đau, tai nạn, rủi ro phải

nghỉ việc.

Thứ ba, về trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là khoản tiền trả một lần

hay hàng tháng cho người lao động không may bị tai nạn hoặc mắc bệnh nghề

nghiệp trong quá trình lao động có tham gia BHXH. Căn cứ theo mức độ suy giảm

khả năng lao động.

Thứ tư, về trợ cấp hưu trí là chế độ BHXH dài hạn trả cho người lao động đã có

thời gian làm việc nhất định và đủ tuổi lao động. Hoặc người lao động có từ 20 năm

đóng BHXH trở lên và đã đạt 1 độ tuổi nhất định. Đồng thời bị suy giảm khả năng lao

động từ 61% trở lên. Một số trường hợp chưa hết tuổi lao động nhưng có đủ thời gian

quy định làm các nghề nặng nhọc, độc hại được giảm 5 tuổi đời. Trường hợp không đủ

điều kiện hưởng hàng tháng được trả trợ cấp hưu 1 lần.

Thứ năm, về tử tuất, là trợ cấp trả cho gia đình người lao động đang làm việc,

đang ngừng việc nhưng trước đó có tham gia BHXH hoặc đã nghỉ việc hưởng

BHXH hàng tháng bị chết. Trợ cấp gồm 2 khoản: tiền mai táng phí và trợ cấp tuất

hàng tháng cho những người phải nuôi dưỡng. Trường hợp không còn đối tượng

phải nuôi dưỡng được hưởng tuất 1 lần.

Thứ sáu, về chi dưỡng sức, phục hồi sức khỏe là chế độ mà người lao động

tham gia BHXH bắt buộc được hưởng trong các trường hợp: có đủ 3 năm đóng

BHXH trở lên tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức mà bị suy giảm sức khỏe sau

khi điều trị do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp vần chưa phục hồi sức

khỏe, lao động nữ bị giảm sức khỏe sau thai sản.

Căn cứ vào nội dung của các chính sách trợ cấp trên, BHXH ở Ninh Bình

được thực hiện như sau:

Một là, tổ chức thực hiện tốt công tác cấp sổ BHXH cho người lao động.

Đây là khâu đổi mới quan trọng không chỉ đơn thuần là hoạt động chuyên môn

của ngành mà còn là giải pháp có tính cơ bản lâu dài. Là sự kết hợp giữa cơ quan

BHXH với các đơn vị sử dụng lao động trong việc quản lý, theo dõi quá trình công tác,

đóng và thực hiện các chế độ BHXH một cách chính xác công bằng cho người lao

động. Trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2007 BHXH tỉnh đã thẩm định và cấp

được 56.380 sổ BHXH, đạt 99,9% số lao động đăng ký tham gia BHXH, đã cấp đủ thẻ

bảo hiểm y tế và phiếu khám chữa bệnh cho 100% số lao động tham gia BHYT. Điều

đó thể hiện sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo và ý thức trách nhiệm của cán bộ BHXH

Ninh Bình góp phần thực hiện tốt chế độ, chính sách BHXH, BHYT của Đảng và Nhà

nước.

Trong những năm qua, BHXH tỉnh Ninh Bình tuân thủ các quy định của Nhà

nước về chính sách BHXH như đã được quy định theo Điều lệ BHXH về các văn

bản hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Đảm bảo việc thực hiện đúng chính sách, kịp

thời cho người lao động. Duy trì thường xuyên việc tiếp nhận hồ sơ và giải quyết 5

chế độ BHXH theo quy định cải tiến thủ tục hành chính “một cửa”. Qua thực tế việc

cải tiến thủ tục hành chính trên đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh, BHXH Việt Nam

đánh giá cao, được các cơ quan đơn vị doanh nghiệp đồng tình hưởng ứng, thuận

tiện, tránh phiền hà, giảm đi lại, chờ đợi của cơ quan sử dụng lao động và người lao

động. Song về chuyên môn, quản lý nghiệp vụ thuộc bộ ngành vẫn đảm bảo tính

chặt chẽ. Cụ thể là, BHXH Ninh Bình hàng năm trung bình đã giải quyết chế độ

chính sách BHXH cho:

- 1.505 đối tượng hưởng chế độ hưu trí thường xuyên

- 318 đối tượng hưởng chế độ tuất thường xuyên.

- Giải quyết cho hàng nghìn lượt người hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn,

một lần.

- Cắt giảm đối tượng hưởng BHXH trên 800 người.

- Di chuyển hồ sơ hưởng BHXH trên 500 hồ sơ.

Ra quyết định hưởng tiếp cho 267 đối tượng mất sức lao động, hưởng tiếp trợ

cấp hàng tháng theo công văn 329/BHXH- CĐCS của BHXH Việt Nam, 06 đối

tượng mất sức lao động đã mất 81% khả năng lao động hưởng tiếp trợ cấp hàng

tháng và 01 đối tượng hưởng lại do tạm dừng từ tháng 1 năm 2004.

Duyệt tăng, giảm đối tượng, phục vụ công tác chi trả cho 8 huyện, thị xã,

thành phố đảm bảo đúng, đủ, kịp thời.

Sau khi có văn bản mới về việc điều chỉnh lương hưu, trợ cấp và thực hiện

việc giải quyết chính sách đối với những trường hợp hưởng chế độ mất sức lao động

được giải quyết tiếp sau thời gian thôi hưởng, ngành BHXH đã kịp thời tổ chức tập

huấn cán bộ nghiệp vụ hướng dẫn BHXH huyện, thị xã tiến hành kê khai làm thủ tục

tăng điều chỉnh lương hưu, trợ cấp theo mức mới và xét duyệt giải quyết chính sách

đảm bảo kịp thời cho người lao động hưởng BHXH.

Hai là, đổi mới phương pháp quản lý hồ sơ, đối tượng, tập trung cán bộ kiểm

tra đối chiếu hồ sơ đối tượng hưởng chính sách BHXH thường xuyên.

áp dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý đối tượng, quản lý chính sách đã

rút ngắn được thời gian thụ lý hồ sơ. Mặt khác, chương trình thẩm kế và in ấn hồ sơ

trên máy tính giúp cho việc xác định chính xác mức lương, giảm nhẹ khối lượng

giấy tờ viết tay. Đây là những tiến bộ đáng kể trong công tác giải quyết chế độ

chính sách BHXH ở tỉnh Ninh Bình.

Kết quả giải quyết chính sách trong 5 năm (từ năm 2003 đến năm 2007) thể

hiện ở các số liệu chi tiết trong biểu 2.2.

Biểu 2.2: Số lượng đối tượng được giải quyết chính sách BHXH

tại Ninh Bình từ năm 2003 - 2007

Đơn vị tính: người

TT Loại đối tượng 2003 2004 2005 2006 2007

I Thường xuyên 1 228 1 508 2 024 2 642 1 855

1 Hưu trí 813 1 015 1 276 1 904 1.505

2 TNLĐ - BNN 42 38 44 35 32

3 Cán bộ xã, phường 9 20 83 100 -

4 Tuất 364 435 621 603 318

II Trợ cấp 1 lần 1 444 1 623 2 115 3 457 2 359

1 Trên 30 năm 520 815 923 1 560 1203

2 Theo điều 28 25 11 15 - -

3 Cán bộ xã, phường 215 223 425 621 627

4 Mai táng phí 452 456 654 925 311

5 Tuất 232 118 98 351 218

Cộng 2 672 3131 4 139 6 099 4 214

Nguồn: BHXH Ninh Bình - Báo cáo kết quả giải quyết chế độ chính sách các

năm 2003 - 2007.

Các chỉ tiêu ở biểu 2.2 cho thấy do đổi mới quy trình và áp dụng công nghệ

thông tin, từng bước hiện đại hóa các khâu công tác do đó kết quả giải quyết chính

sách cho các đối tượng ngày càng tăng và bảo đảm đúng chế độ chính sách. Đây là

công việc khó, rất phức tạp liên quan đến nhiều loại đối tượng và có tính nhạy cảm

xã hội cao. Phát huy được hiệu quả công tác trên là sự nỗ lực của cán bộ, công nhân

viên chức toàn ngành, đây là kết quả tốt đáng ghi nhận và phát huy.

2.2.2.3. Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp

Công tác chi trả lương hưu và trợ cấp được tiến hành thường xuyên, hàng

tháng cho các đối tượng hưởng các chế độ BHXH dài hạn đang sinh sống tại các địa

bàn phường, xã, thị trấn của tỉnh Ninh Bình.

Hiện nay, Ninh Bình có 49.193 đối tượng hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng

đang sinh sống tại 142 xã, phường, thị trấn. Con số này liên tục thay đổi theo hướng

tăng lên. Số tiền chi trả bình quân mỗi tháng xấp xỉ khoảng 51 tỷ đồng. Với số

lượng phải chi trả lớn như vậy và mức chi trả khác nhau với từng loại đối tượng.

Đồng thời, việc chi trả phải tiến hành thường xuyên hàng tháng, phải đảm bảo đúng

yêu cầu đúng kỳ hạn, đủ số lượng, đến tận tay người hưởng. Do vậy, nếu không tổ

chức tốt, phù hợp với từng địa bàn quản lý sẽ xảy ra nhầm lẫn, mất mát ảnh hưởng

đến đối tượng có thể gây ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội trên địa bàn tỉnh, hơn

nữa có thể làm mất uy tín đối với các đối tượng quản lý....

Chi trả trợ cấp BHXH hàng tháng hiện nay do 2 nguồn: một là, ngân sách nhà

nước chi cho các đối tượng nghỉ việc trước 1/1995 (thời điểm áp dụng Bộ Luật lao

động) với số tiền hiện tại khoảng 2/3 số chi hàng tháng. Số chi này giảm dần theo

thời gian vì đối tượng không phát sinh và số nghỉ hưu lâu năm do tuổi già mất đi.

Hai là, nguồn quỹ BHXH hiện chi khoảng 1/3 số chi hàng tháng, số chi từ quỹ đang

tăng dần theo thời gian vì từ tháng 1/1995 toàn bộ số chi do quỹ BHXH chi trả [1,

tr.9].

Chi trả lương hưu, trợ cấp hàng tháng tại Ninh Bình được thực hiện thông qua

hai hình thức.

Một là, dán tiếp: các Ban chi trả xã, phường, thị trấn được thành lập theo chỉ

đạo của UBND tỉnh Ninh Bình.

Hai là, trực tiếp: cán bộ huyện, thị trực tiếp đi chi trả đến tận tay đối tượng

hưởng BHXH.

Việc chi trả thực hiện bằng tiền mặt là một công việc khá nặng nề và

phức tạp phải thực hiện thường xuyên, kịp thời hàng tháng của BHXH Ninh

Bình.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH

hàng tháng, BHXH tỉnh đã chủ động phối kết hợp với các đơn vị có liên quan như

Kho bạc nhà nước, Ngân hàng, Công an...để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Đặc biệt là

sự phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền địa phương để tổ chức mạng lưới chi

trả. Bằng việc, các địa phương cử người có uy tín, trách nhiệm… ký hợp đồng chi

trả với BHXH các huyện, thành phố thuộc tỉnh đảm nhiệm, tránh lợi dụng vốn tiền

mặt vào các mục đích khác hoặc cố tình trả chậm. Trường hợp phát hiện cán bộ có

biểu hiện tiêu cực hoặc không hoàn thành nhiệm vụ thì thay thế ngay…

Vì vậy, trong suốt thời gian qua, do tổ chức tốt dịch vụ này, Ninh Bình luôn

đảm bảo chi trả an toàn, đến tay người hưởng, đúng kỳ, đủ số được đông đảo người

hưởng BHXH đồng tình, dư luận xã hội ủng hộ.

Những năm gần đây, do ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chi trả.

Việc thiết lập hồ sơ các đối tượng hưởng BHXH hàng tháng trên máy theo chương

trình thuận lợi cho việc lập danh sách. Xác định mức chi trả, tổng hợp nguồn chi,

điều chỉnh mức chi khi nhà nước thay đổi chính sách lương hưu, trợ cấp BHXH.

Công tác này sẽ càng đi vào ổn định và sẽ được thực hiện tốt hơn trong những năm

tới.

2.2.2.4. Về công tác mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (đối với

các thành phần kinh tế)

Trong thời gian qua, đặc biệt từ năm 2003 đến nay, công tác phát triển đối

tượng luôn được BHXH tỉnh chú trọng quan tâm, tìm tòi các biện pháp để thực

hiện. Các biện pháp chủ yếu đã áp dụng để mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở

Ninh Bình bao gồm:

Thứ nhất, đẩy mạnh việc tuyên truyền để phổ biến các quy định của pháp luật

về BHXH dưới các hình thức khác nhau. Đối với các cơ quan, đoàn thể, doanh

nghiệp có thành lập tổ chức Công đoàn, thông qua chương trình phối hợp liên

ngành BHXH và Liên đoàn lao động thành phố để tổ chức tuyên truyền. Thực hiện

tuyên truyền qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình...

Thứ hai, phối kết hợp cơ quan có liên quan như Liên đoàn lao động, các Chi

cục thuế, nhất là UBND xã, thị trấn, thị xã để điều tra, thống kê nắm bắt các đơn vị

thuộc diện tham gia BHXH để hướng dẫn và đôn đốc kê khai trích nộp BHXH cho

người lao động.

Thứ ba, giao kế hoạch phát triển đối tượng mới phải phấn đấu thực hiện hàng

năm đến BHXH các huyện, thị để đề ra kế hoạch chương trình thực hiện cho phù

hợp với đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.

Thứ tư, thực hiện các biện pháp cải cách về thủ tục tham gia BHXH, giảm bớt

giấy tờ, mẫu biểu, công khai thủ tục. Giao trách nhiệm cho cán bộ thu phải đi sát cơ

sở để hướng dẫn, không để đối tượng đi lại nhiều lần. Đồng thời có chế độ thưởng

phạt rất rõ ràng, cụ thể như hàng năm cơ quan bảo hiểm giao chỉ tiêu thu trong đó

việc mở rộng đối tượng là một trong những tiêu chí để đánh giá xét thi đua khen

thưởng. Nếu tỷ lệ thu thấp là không hoàn thành kế hoạch, nếu tỷ lệ thu cao thì được

khen thưởng bằng vật chất.

Thứ năm, kết hợp với các đơn vị có chức năng quản lý nhà nước về BHXH

hoặc các cơ quan pháp luật như Sở Lao động, Viện Kiểm sát, Công an kinh tế...

tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý để buộc các chủ sử dụng lao động

tham gia đóng BHXH cho người lao động.

Thứ sáu, thực hiện một số khuyến khích vật chất cho các đơn vị làm tốt công

tác khai thác phát triển đối tượng thông qua các hình thức khen thưởng, hỗ trợ.

Với cách tổ chức sâu sát như vậy, kết quả đối tượng đóng BHXH tăng liên tục,

thể hiện ở biểu 2.3 như sau:

Biểu 2.3: Tỷ lệ tăng trưởng của đơn vị, lao động tham gia BHXH

(2003 - 2007)

Chỉ tiêu tăng trưởng 2003 2004 2005 2006 2007

Số đơn vị tăng so với năm trước liền kề (đơn vị) 75 278 137 67 141

14.4 15.7 15.7 6.6 13.1 Tỷ lệ đơn vị tăng so với năm trước liền kề

(lao động)

1022 1952 406 -672 1482 Số lao động tăng so với năm trước liền kề

(lao động)

2.6 4.8 0.90 .0 3.5 Tỷ lệ lao động tăng so với năm trước liền kề

(%)

Nguồn: BHXH Ninh Bình - Báo cáo công tác mở rộng đối tượng tham gia

BHXH các năm 2003 - 2007.

Trong bảng số liệu, số đơn vị tham gia BHXH trong những năm gần đây có

tăng trưởng. Năm 2007 có thêm 141 đơn vị mới tham gia BHXH tăng 13,1% so với

năm trước. Năm 2006 số lao động giảm 672 người là do Nhà nước chuyển đổi cơ

chế đối với Công ty nhà nước thành công ty cổ phần nên số lao động nghỉ theo NĐ

41/2002/NĐ - CP tăng đột biến. Kết quả trên đóng góp hoàn thành chương trình

mục tiêu kế hoạch mà ngành BHXH đặt ra đúng hướng, kịp thời.

Từ kết quả biểu trên cho thấy đến năm 2007, sau nhiều nỗ lực phấn đấu, số đối

tượng tham gia tăng 1,45 lần so với năm 2003. Ninh Bình hiện có 43.428 đối tượng

tham gia BHXH. Bình quân mỗi năm số lao động tăng ròng 1.385 lao động. Nếu

tính cả số lao động tăng bù so với người nghỉ việc; trợ cấp 1 lần, di

chuyển...(khoảng 2.777 người/năm). Số lao động thực tế hàng năm tăng mới khoảng

4.162 lao động.

2.2.2.5. Đối với quản lý đối tượng đóng và hưởng bảo hiểm xã hội

Việc quản lý đối tượng đóng và hưởng BHXH là một trong việc có nhiều khó

khăn, nhưng từ kinh nghiệm, cách quản lý khoa học và phân công chuyên trách

BHXH Ninh Bình đã đơn giản hoá thủ tục và quản lý ngày càng chặt chẽ.

Đến nay, với 43.428 đối tượng đang đóng BHXH và 49.193 đối tượng hưởng

BHXH hàng tháng tại các xã, phường, thị trấn công tác quản lý theo dõi di biến

động cũng là một việc rất lớn của BHXH tỉnh Ninh Bình.

Đối với đối tượng đóng BHXH, việc thay đổi mức lương tham gia BHXH, di

chuyển trong và ngoài địa bàn diễn ra khá phổ biến, các đơn vị vẫn theo dõi thủ

công nên việc quản lý biến động đối tượng cũng rất khó.

Người lao động tham gia BHXH ở các đơn vị thường rất đông, việc quản lý

lao động của các cơ quan, doanh nghiệp thông qua các mẫu biểu, tờ khai BHXH

thay đổi thường xuyên nên việc kê khai danh sách lao động tham gia BHXH có

nhiều sai sót, trùng lặp, khó kiểm soát. Có hiện tượng một người lao động đóng

BHXH ở hai nơi, hoặc có trường hợp người lao động bị bỏ sót hoặc việc kê khai tên

đệm, ngày, tháng, năm sinh không chính xác. Điều này làm cho việc quản lý đối

tượng đóng BHXH của cơ quan BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn.

Với đối tượng đang hưởng BHXH ở các xã, phường, thị trấn, tỉnh Ninh Bình

đang quản lý các chế độ BHXH thường xuyên hàng tháng. Số lượng hàng tháng

tăng khoảng 500 người. Do đối tượng chi trả hàng tháng thường xuyên biến động

(tăng, giảm, do chuyển đến, chuyển đi, chết, hết hạn hưởng…) nên việc quản lý đối

tượng phức tạp.

Riêng đối tuợng chuyển đi tỉnh ngoài, hoặc từ tỉnh ngoài chuyển đến lĩnh

lương hưu, trợ cấp BHXH từ năm 2003 đến năm 2007 là: 2.883 trường hợp. Số liệu

di chuyển thể hiện ở biểu 2.4.

Biểu 2.4. Số liệu đối tượng chuyển ngoại tỉnh từ năm 2003 đến 2007

Đơn vị tính: người

Mờt Tai Bệnh Tuất Loại đối Hưu Hưu sức nạn Tổng nghề hàng Năm tượng CNVC QĐ lao lao cộng nghiệp tháng động động

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)

Chuyển đi 124 39 4 3 173 2 1 2003 Chuyển đến 113 16 98 11 241 3 -

Chuyển đi 96 2 2 0 100 0 0 2004 Chuyển đến 400 15 35 0 452 2 0

Chuyển đi 140 3 0 0 143 0 0 2005 Chuyển đến 450 4 20 0 477 0 0

Chuyển đi 80 40 12 6 138 0 0 2006 Chuyển đến 500 119 30 5 654 0 0

Chuyển đi 200 20 6 0 226 0 0 2007 Chuyển đến 218 35 29 0 282 0 0

24 9 780 2 1 Chuyển đi 640 104 Tổng

Cộng 5 0 Chuyển đến 1.681 301 100 16 2.103

Nguồn: BHXH Ninh Bình - Báo cáo công tác mở rộng đối tượng tham gia

BHXH các năm 2003 - 2007.

Từ năm 2003 đến 2006, các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh

Bình thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà

nước theo Nghị định số 41/2002/NĐ - CP ngày 11/4/2002 của chính phủ.

Người lao động dôi dư đủ điều kiện về hưu nhiều nên số người về hưu trên

địa bàn tỉnh tăng cao.

Vấn đề quản lý đối tượng hưởng BHXH còn khó khăn vì các đối tượng sống ở

địa phương, quản lý theo hộ khẩu thường trú nên phụ thuộc rất nhiều vào UBND

các xã, phường, thị trấn. Việc đối tượng tạm trú, tạm vắng, di chuyển không khai

báo càng làm khó khăn cho công tác quản lý. Ví dụ như một số trường hợp chết

không báo giảm vẫn được chi trả.

Trong điều kiện như vậy, để làm tốt công tác quản lý đối tượng, BHXH Ninh

Bình đã thực hiện nhiều biện pháp sau:

- Phân cấp cụ thể, rõ ràng cho BHXH các huyện, thị, các phòng trực thuộc

trong từng khâu quản lý. Ví dụ, trong việc phân cấp quản lý đối tượng đóng BHXH,

giao trách nhiệm quản lý đơn vị cho từng cán bộ thu cụ thể. Thực hiện thường

xuyên việc kiểm tra, đối chiếu, ghi xác nhận sổ BHXH đến từng người lao động.

Đối với đối tượng hưởng lương hưu trên địa bàn, UBND xã, phường có trách nhiệm

báo giảm khi đối tượng di chuyển, chết. BHXH huyện, thị tổng hợp danh sách tăng,

giảm hàng háng để BHXH tỉnh điều chỉnh danh sách chi trả. Hồ sơ đối tượng thực

hiện lưu trữ 2 cấp cả ở tỉnh và huyện đề phòng mất mát thuận tiện cho việc kiểm tra,

đối chiếu.

- Qua kinh nghiệm quản lý, xác định các thời điểm có phát sinh khối lượng

công việc lớn để tăng cường bố trí cán bộ. Ví dụ, với đối tượng đóng BHXH, cuối

các quý, cuối năm thường phát sinh nhiều công việc đối chiếu, ghi chép sổ biểu

theo dõi quản lý đối tượng. Đối với đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng, thường

có sự gia tăng đột biến… trong các thời gian phát sinh khối lượng công việc nhiều,

cơ quan BHXH phải tập trung lực lượng và hỗ trợ cán bộ từ các phòng ban khác để

kịp thời giải quyết các thủ tục, phục vụ tốt đối tượng và quản lý chặt chẽ sự di biến

động.

- Khai thác sử dụng các thành tựu công nghệ thông tin vào quản lý đối tượng.

Ninh Bình đã triển khai từng bước các phần mềm quản lý thu, chi BHXH nhắm

theo dõi chính xác các thông tin của đối tượng đóng và hưởng BHXH trên máy tính.

Thực hiện nối mạng giữa BHXH thành phố và quận huyện để phối hợp trong quản

lý đối tượng.

- Có sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị sử dụng lao động trong việc theo dõi

di biến động đối tượng đóng BHXH. UBND các xã, phường, thị trấn thông qua các

ban chi trả, các tổ hưu trí thực hiện giám sát chặt chẽ đối tượng lĩnh lương hưu, trợ

cấp. BHXH các quận huyện đã bố trí cán bộ theo dõi, kiểm tra công tác chi trả ở xã,

phường trong các đợt chi trả hàng tháng. Tiếp nhận và xử lý nghiêm túc các thông

tin phản hồi từ cơ sở đối với các trường hợp có dấu hiệu tiêu cực.

Kết quả là, Ninh Bình được BHXH Việt Nam đánh giá là một đơn vị làm tốt

công tác quản lý đối tượng đóng và hưởng BHXH. Với số lượng đối tượng phải

phục vụ lớn, hàng tháng tăng cao như vậy nhưng các dịch vụ quản lý vẫn đảm bảo

kịp thời, chính xác, không ứ đọng hồ sơ, được đối tượng đồng tình. Bảo đảm trợ cấp

đủ, đúng, kịp thời với các đối tượng hưởng chính sách xã hội. Đặc biệt, với các đối

tượng là lão thành cách mạng, thương binh, hưu trí… Vì đây là các đối tượng có

công cho đất nước và rất nhạy cảm tâm lý. Nếu để xảy ra sơ suất một việc nhỏ cũng

có thể gây dư luận lớn. Điều này càng thể hiện rõ hơn tính chất nhân văn của

BHXH.

2.2.3. Vấn đề đặt ra và nguyên nhân

2.2.3.1. Những vấn đề đặt ra

Một là, tỷ lệ thu BHXH còn đạt thấp so với khả năng hiện có.

Theo số liệu thống kê công tác thu hàng năm của BHXH tỉnh Ninh Bình còn

thấp so với thực tế, tình trạng nợ đọng BHXH trong những năm gần đây là khá phổ

biến và có xu hướng gia tăng số nợ đọng BHXH từ năm 2003 đến năm 2007 thể

hiện trong biểu 2.5.

Biểu 2.5: Số dư nợ BHXH trong các năm từ 2003 đến 2007

Năm 2003 2004 2005 2006 2007

Số nợ BHXH cuối năm 5,178 1,726 8,205 8,766 11,600 (Đơn vị tính: tỷ đồng)

Tỷ lệ so với số đã thu trong 6,7 2,08 7,87 7,21 7,6 năm (%)

Nguồn: Tổng hợp từ BHXH Ninh Bình.

Từ số liệu trên cho thấy, số dư nợ năm 2004 giảm từ 5.178 tỷ đồng năm 2003

xuống còn 1.726 tỷ đồng là do: trong năm tham gia với UBND tỉnh ban hành 02

văn bản chỉ đạo thực hiện công tác thu BHXH - BHYT bắt buộc, 04 văn bản chỉ

đạo công tác thu làm căn cứ mở rộng đối tượng và thu nợ tiền BHXH. Vì vậy, đã

vận động được 118 đơn vị ngoài Nhà nước với 2.026 lao động tham gia BHXH,

nâng số lao động tăng 5.05% so với năm 2003. Mặt khác là do tiến tới năm 2005

các công ty sẽ chuyển sang cổ phần nên các công ty này cũng giải quyết tối đa vấn

đề nợ đọng. Năm 2005 tăng đột biến vì từ năm 2005 đến nay, do Nhà nước điều

chỉnh mức lương tối thiểu từ 290.000đ lên 350.000đ và hiện nay là 540.000đ kèm

theo là thay đổi hệ số lương trong thang bảng lương, nên tỷ lệ này có tăng cao hơn

[3, tr.2].

Quỹ lương có xu hướng tăng qua các năm. Quỹ lương thay đổi là do các yếu tố

như: đối tượng tham gia tăng, mức lương trích nộp tăng thông qua các quyết định

tăng lương của Chính phủ, khai báo của chủ sử dụng lao động… Quỹ lương tăng là

điều đáng mừng thể hiện đời sống của người lao động được nâng lên. Nhưng thực tế

cơ quan BHXH chỉ có thể nắm tới tiền lương trên giấy tờ mà các cơ quan đơn vị

tham gia BHXH thường không thể khai chính xác quỹ lương thực tế. Điều này gây

nhiều khó khăn cho cơ quan BHXH.

Công tác thu nộp BHXH còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng nợ đọng, trốn

tránh trích nộp BHXH, gây thất thoát nguồn thu:

Theo số liệu thống kê công tác thu hàng năm của BHXH tỉnh Ninh Bình, tình

trạng nợ đọng BHXH có xu hướng tăng lên.

Bảng số liệu nợ đọng BHXH, cho thấy số dư nợ BHXH hàng năm ở tỉnh Ninh

Bình còn rất lớn, chiếm từ 2.08% đến 7.87% tổng số tiền đã thu trong các năm 2003

đến 2007. Tính bình quân, số nợ BHXH ở tỉnh Ninh Bình cuối năm khoảng 4.9% số

thu trong năm [3]. Nếu so với số phải nộp của tháng cuối năm (tháng 12) số nợ này

chiếm khoảng 0.6 số phải nộp.

So với bình quân chung của cả nước năm 2007 là 0,45, trong đó có hơn 50 địa

phương số nợ và chậm nộp BHXH chỉ còn từ 0,1- 0,3 tháng lương.

Qua đó, các chế tài xử phạt hành vi vi phạm các quy định của Luật BHXH cần

phát huy tác dụng hơn nữa cùng với việc thực hiện thường xuyên, quyết liệt các

biện pháp truy thu tiền đóng BHXH sẽ khắc phục được tình trạng chây ỳ, chậm nộp

BHXH.

Năm 2007 do có nhiều doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần

nên tình trạng nợ đọng có cao hơn.

Tình trạng nợ đọng BHXH thường xảy ra dưới dạng chậm nộp. Theo luật

BHXH các đơn vị phải trích nộp BHXH hàng tháng ngay sau khi trả lương cho

người lao động.

Đa số các đơn vị đều chấp hành nghiêm việc trích nộp BHXH, chỉ còn các

công ty cổ phần còn để dư nợ đến 6 tháng.

Theo số liệu báo cáo công tác thu quý II/2007 của BHXH tỉnh Ninh Bình, tính

đến ngày 30/6/2007, trên địa bàn còn nhiều đơn vị nợ đọng, điển hình như: Công ty

khai thác công trình Thuỷ lợi: 1.223.816.000 đồng. Tương đương 6 tháng đóng

BHXH. Công ty cổ phần May xuất khẩu Ninh Bình: 869.203.163 đồng. Tương

đương 6 tháng đóng BHXH. Công ty cổ phần cơ khí lắp máy Ninh Bình:

984.786.327 đồng. Tương đương 6 háng đóng BHXH. Công ty cổ phần vận tải thuỷ

Ninh Bình: 335.991.404 đồng. Tương đương 9 tháng đóng BHXH [3].

Nguyên nhân chủ yếu, do các công ty nhà nước chuyển đổi sang công ty cổ

phần nên về cơ cấu tổ chức phải sắp xếp lại, tình trạng sản xuất, kinh doanh chưa ổn

định dẫn đến nợ BHXH lớn.

Về phía người lao động trong các công ty cổ phần đa số đều là công nhân mới

vào nghề, chưa hiểu rõ quyền lợi của mình được hưởng các dịch vụ BHXH, các chế

độ BHXH đối với họ còn rất xa vời, họ nghĩ chỉ có trong cơ quan nhà nước mới

được hưởng.

Về phía doanh nghiệp, trước hết phải kể đến số doanh nghiệp do không hiểu

biết hoặc chưa quan tâm đúng mức đến các quan hệ lao động, trong đó có BHXH

nên dẫn đến những tranh chấp. Ngoài ra, đó là những doanh nghiệp mặc dù hiểu

nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia BHXH cho người lao động, nhưng do nhiều nhân

tố, họ không có khả năng tham gia hoặc tham gia BHXH không đầy đủ. Chẳng hạn,

việc trượt giá và điều chỉnh mức lương tối thiểu cho người lao động khiến mức

đóng BHXH tăng lên khá nhiều, doanh nghiệp không xoay xở kịp. Phần lớn các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa thích nghi kịp với cơ chế thị trường, tính cạnh

tranh của các mặt hàng còn kém (giá thành cao, tiêu thụ chậm), làm ăn kém hiệu

quả, thu nhập của người lao động thấp, doanh nghiệp không có khả năng thực hiện

nghĩa vụ BHXH. Hay đối với phần lớn các doanh nghiệp nợ đọng trong ngành xây

dựng, dệt may, giầy da và giao thông vận tải thì nguyên nhân chủ yếu là do làm ăn

thua lỗ, người lao động nghỉ việc không lương kéo dài nên không có khả năng đóng

BHXH. Đối với ngành xây dựng, một thực tế nhiều công trình thi công xong, đã

bàn giao nhưng nhà đầu tư chưa thanh toán lại nên họ không có khả năng trả lương

và đóng BHXH cho người lao động. Đôi khi do việc hoàn tất thủ tục thanh quyết

toán của các dự án còn chậm nên doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc đóng

BHXH. Số còn lại, dù nắm vững luật nhưng vẫn cố tình vi phạm nhằm giảm các chi

phí cho công đoạn sản xuất, kinh doanh hoặc chiếm dụng vốn. Nhiều chủ doanh

nghiệp đã cố tình thiếu trách nhiệm, lợi dụng kẽ hở của luật pháp nhằm lách luật để

hưởng lợi từ việc không phải mất 15% tổng quỹ lương đơn vị để đóng tiền BHXH

cho người lao động hay cố tình trây ỳ để chiếm dụng vốn.

Từ khi Luật BHXH ra đời, đã có nhiều chế tài xử phạt việc chậm nộp BHXH

nhưng vai trò các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH còn yếu dẫn đến nhiều doanh

nghiệp né tránh trích nộp BHXH.

Việc nợ đọng BHXH gây ảnh hưởng xấu đến tính bền vững của quỹ BHXH và

nhất là ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. Điều đó gây nên tâm lý hoang

mang cho người lao động khi họ không nhận được kịp thời các khoản trợ cấp

BHXH trong trường hợp đơn vị nợ đọng.

Trong đơn vị tham gia BHXH nếu để tình trạng nợ đọng kéo dài sẽ gây nên sự

mất uy tín của đơn vị đối với người lao động. Đã có nhiều trường hợp người lao

động không được hưởng chế độ hưu trí trong nhiều năm do họ đến tuổi nghỉ hưu mà

đơn vị không đóng hết BHXH do tình trạng nợ đọng kéo dài, điều này gây thiệt thòi

về quyền lợi hưởng bảo hiểm của người lao động.

Hiện nay việc thu nộp BHXH còn làm thủ công, mối liên hệ giữa BHXH với

người lao động chủ yếu qua đơn vị tham gia BHXH nên tình trạng khai báo không đầy

đủ lao động, khai giảm quỹ tiền lương tham gia BHXH còn xảy ra ở nhiều đơn vị nhất

là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Hai là, chi trả BHXH chưa đúng và chưa đủ đối tượng.

Chi BHXH là một mặt hoạt động thường xuyên và liên tục của các cơ quan

BHXH, chi BHXH là một hoạt động dạng phức tạp và có tính nhạy cảm xã hội cao

vì người nghỉ hưu, mất sức thì lương hưu là khoản thu nhập để chi tiêu trong cuộc

sống hàng ngày. Nếu chi trả chậm đã khó khăn, chi trả không đúng hay thất lạc lại

càng khó khăn hơn. Có thể hiểu hoạt động chi quỹ BHXH như sau: chi BHXH là

các khoản chi phí cần thiết để thực hiện hoạt động của BHXH và các hoạt động

khác có liên quan tới công tác BHXH. Chi BHXH là hoạt động quan trọng trong

công tác BHXH, là một hoạt động không thể thiếu công tác thực hiện chế độ

BHXH.

Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH cũng như việc quản lý đối tượng

hưởng BHXH ở Ninh Bình hiện tại cũng còn rất nhiều khó khăn, bất cập cần kịp

thời khắc phục, cụ thể:

Do việc quản lý lương hưu, trợ cấp phải gắn liền với việc quản lý hồ sơ đối

tượng, số lượng hồ sơ hưởng các chế độ BHXH nhiều chủng loại như : hồ sơ hưu

trí, mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, cán bộ xã, phường, tiền

tuất. Ngoài ra còn có loại hồ sơ chờ hưởng chế độ BHXH, hồ sơ một lần… Việc xác

nhận hồ sơ công tác trước năm 1995 rất khó khăn. Nguyên nhân là do quá trình

quản lý hồ sơ gốc của các đơn vị để thất lạc nhiều. Do việc chi trả lương hưu và trợ

cấp BHXH được thực hiện tại nơi đối tượng có hộ khẩu thường trú vì vậy khi thực

hiện đăng ký quản lý cho đối tượng nhất thiết phải kiểm tra hộ khẩu thường trú. Tuy

nhiên có nhiều trường hợp hồ sơ và hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân sai lệch họ

tên, năm sinh… nhưng do quản lý không chặt chẽ nên vẫn được chi trả. Có trường

hợp đối tượng được giải quyết chính sách căn cứ theo hồ sơ gốc tại đơn vị cũng vẫn

có một số sai lệch giữa các thông tin cá nhân. Vì vậy, cần có quy định thống nhất để

khắc phục tình trạng này.

Do một vài quy định về chi trả còn bất cập với thực tế, gây khó khăn, phiền hà

trong chi trả lương hưu và trợ cấp. Ví dụ, như đối tượng sống ở một nơi, đăng ký hộ

khẩu một nơi, gia đình muốn lĩnh hộ lương hưu cũng phải có giấy ủy quyền. Trong

khi đó việc xin giấy ủy quyền cũng rất khó khăn do ngành tư pháp quy định chỉ cấp

huyện mới có thẩm quyền xác nhận ủy quyền. Do đó, các quy định về chi trả lương

hưu trợ cấp cũng phải tính đến những khó khăn này.

Do các đối tượng hưởng lương hưu trợ cấp BHXH cũng đồng thời là đối tượng

người có công với cách mạng. Trong khi đó, việc chi trả lương hưu và trợ cấp

BHXH do ngành BHXH thực hiện, còn chi trả trợ cấp người có công do ngành Lao

động thương bình và xã hội thực hiện và đều chi trả thông qua Ban chi trả của các

phường, xã. Nhưng nguồn kinh phí chuyển về không đồng thời nên hàng tháng các

Ban chi trả phải tổ chức chi trả 2 lần và đối tượng cũng phải đi lĩnh tiền 2 lần. Đây

cũng chỉ là một bất cập cần khắc phục để không làm mất thời gian, công sức của

các Ban chi trả và đối tượng thụ hưởng.

Ba là, chi trả cho bảo hiểm y tế vượt quá khả năng quỹ BHXH.

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, số lượt khám, chữa bệnh (KCB) BHYT

và chi phí KCB ngày càng tăng. Nếu như năm 2006 có 60 triệu lượt người KCB

BHYT (bằng 164% so với năm 2005) thì năm 2007, ước tính sẽ có trên 83 triệu lượt

người tham gia, bằng 128% so với năm ngoái. Năm 2007, tổng thu BHYT khoảng

5.821 tỷ đồng, trong đó quĩ KCB là 5.477 tỷ đồng, tổng số chi KCB BHYT là 7.684

tỷ, như vậy số bội chi lên đến 2.207 tỷ đồng, và bội chi theo số thu là 1.863 tỷ đồng.

Như vậy, BHXH phải sử dụng hết số kết dư quĩ BHYT của hơn 10 năm trước để lại

vẫn không có khả năng cân đối, thu không đủ chi. Đây là một thực trạng và khó

khăn chung của toàn ngành BHXH Việt Nam hiện nay.

Một nguyên nhân khác nữa là, quyền lợi trong KCB của người tham gia

BHYT được mở rộng quá mức, không tương xứng giữa phạm vi chi trả của BHYT

với nguồn thu BHXH là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bội chi

quĩ BHYT. Mức giá các dịch vụ kỹ thuật của khung giá quá cao so với chi phí thực

tế đang được thực hiện thu của các bệnh viện tư nhân, sự chênh lệch giữa giá tối đa

và tối thiểu trên một dịch vụ kỹ thuật quá cao, có loại gấp 10 lần. Ngoài ra, một loạt

các quyền lợi khác đúng ra không thuộc phạm vi chi trả của quĩ BHYT như thanh

toán chi phí điều trị tai nạn giao thông, chi phí cho các bệnh bẩm sinh... là những

bệnh có chi phí rất lớn trong điều trị, đồng thời việc xác định để thanh toán gặp

nhiều khó khăn và dễ bị lạm dụng cũng được đưa vào quyền lợi để quĩ BHYT thanh

toán.

Khoản chi phí thuốc trong KCB BHYT với cách quản lý như hiện nay là giao

tất cả cho cơ sở KCB BHYT thì chất lượng thuốc và giá thuốc không thể kiểm soát

được. Do vậy, đã có tình trạng giá thuốc thanh toán BHYT cao hơn 30% so với giá

thị trường trong cùng thời điểm (như BV Bạch Mai, BV Bình Định). Để khắc phục

tình trạng trên, trong khi Nhà nước chưa có cơ chế quản lý giá thuốc chung toàn

quốc, BHXH Việt Nam muốn được phép quản lý và cung ứng thuốc BHYT để các

loại thuốc đều được đấu thầu, giá thuốc thống nhất trong toàn quốc, đảm bảo sự

công bằng về giá thuốc giữa các vùng miền, có sự chọn lọc ưu tiên sử dụng thuốc

nội, chi phí thuốc BHYT được quản lý chặt chẽ và hiệu quả hơn.

Đối với tỉnh Ninh Bình, tính đến thời điểm hiện nay, trên điạ bàn tỉnh có

khoảng trên 400.000 thẻ BHYT, tăng so với năm 2005 là 30%, chiếm tỷ lệ 45% dân

số cả tỉnh. Tổng chi phí quỹ BHYT (bao gồm cả chi phí đa tuyến Trung ương, khám

chữa bệnh tự chọn) là trên 11,1 tỷ đồng, bội chi quỹ khám chữa bệnh BHYT 2,2 tỷ.

Đặc biệt trong số các cơ sở vượt quỹ có bệnh viện đa khoa tỉnh vượt trên 1,4 tỷ

đồng, bệnh viện thị xã Tam Điệp, bệnh viện Quân Y 5 mỗi cơ sở đều vượt khoảng

trên dưới 30 triệu đồng…chiều hướng chi khám chưã bệnh BHYT ngày càng tăng

nhanh, nhất là sau khi chính phủ ban hành Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày

16/5/2005 về BHYT [6, tr.6].

Nguyên nhân khách quan và quan trọng nhất dẫn tới việc bội chi quĩ BHYT đó

là việc năm 2005, chính phủ ban hành nghị định mới về BHYT trong đó có việc mở

rộng tối đa quyền lợi cho người tham gia BHYT. Hai nội dung mở rộng quyền lợi

có ảnh hưởng tới việc gia tăng mạnh chi phí khám chữa bệnh là việc bỏ cùng chi trả

20% và bỏ trần thanh toán nội trú ở các cơ sở khám chữa bệnh. Người bệnh không

cần phải kiểm soát các dịch vụ kỹ thuật, chi phí khám chữa bệnh. Ngoài ra, còn có một

số yếu tố khác tham gia vào việc gia tăng chi phí khám chữa bệnh BHYT là cơ sở KCB

tăng cường trang thiết bị y tế hiện đại chi phí cao, danh mục sử dụng thuốc do Bộ y tế

ban hành quá rộng rãi. Nhiều dịch vụ và dịch vụ kỹ thuật cao theo phân tuyến của Bộ y

tế chưa được triển khai thực hiện tại các bệnh viện trong tỉnh. Vì thế, bệnh nhân được

chuyển lên điều trị tại tuyến Trung ương nhiều, chi phí lớn. Số lượng thẻ đăng ký khám

chữa bệnh ban đầu ở bệnh viện tỉnh chiếm tỷ lệ rất cao, trên 52.000 thẻ, bình quân đơn

và bệnh án cao hơn tuyến dưới dẫn đến chi phí lớn. Đồng thời, việc cấp giấy chứng

nhận nghỉ hưởng BHXH chưa chặt chẽ, có tình trạng người lao động ở các đơn vị

không có việc làm ổn định, đi khám chữa bệnh ngoại trú tràn lan để được lĩnh thuốc

BHYT tại cơ sở KCB. Và vừa có chứng từ thanh toán nghỉ ốm với cơ quan BHXH

cũng là một nguyên nhân gây nên việc bội chi quỹ khám chữa bệnh BHYT. Như

trường hợp công ty may xuất khẩu Ninh Bình, cơ quan BHXH kiểm tra có hiện tượng

công nhân có giấy nghỉ ốm bệnh viện đa khoa tỉnh để nghỉ hưởng BHXH nhưng vẫn

đi làm, bảng chấm công hàng ngày bị tẩy xóa, sửa chữa để hợp lý hóa việc nghỉ ốm

tràn lan của công nhân. Có một thực tế là nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh

của nhân dân ngày càng cao, nhưng mức thẻ BHYT với mệnh giá thấp, trong khi giá

các dịch vụ kỹ thuật, giá thuốc, vật tư có chiều hướng tăng, cũng là một nguyên nhân

dẫn tới nguy cơ không đảm bảo nguồn quỹ BHYT.

Bốn là, mô hình tổ chức bộ máy quản lý đang bộc lộ những bất cập.

Mặc dù ngành đã nỗ lực nhiều trong tổ chức thực hiện chính sách BHXH và

đạt được những kết quả khả quan, nhưng hoạt động quản lý BHXH vẫn còn một số

bất cập cần tìm giải pháp khắc phục. Trong đó, có những bất cập khách quan cơ bản

sau:

Thứ nhất, mô hình Bảo hiểm xã hội Việt Nam được tổ chức theo hệ thống dọc,

tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương tương ứng với tổ chức hành

chính. Hoạt động quản lý chủ yếu dựa vào phương thức quản lý hành chính thủ

công truyền thống. Nhận thức được những hạn chế của mô hình tổ chức, ngành

BHXH đã có những nỗ lực để hạn chế tình trạng hành chính hoá trong quản lý

BHXH như giảm thủ tục hành chính, thực hiện một cửa trong tiếp nhận, giải quyết

các chế độ BHXH. Đồng thời đưa CNTT vào quản lý đối tượng hưởng BHXH hàng

tháng, chuyển đổi tác phong hành chính sang tác phong phục vụ v.v..., nhưng hiệu

quả quản lý vẫn còn thấp. Điều đó là tất yếu và tự nhiên đối với một tổ chức vừa

mới được hình thành trong điều kiện các cơ chế, chính sách nhất là các chính sách

an sinh xã hội, các thể chế của nền kinh tế thị trường đang từng bước định hình như

nước ta hiện nay.

Phương thức quản lý BHXH thủ công nên đã chi phối hầu hết các quy trình,

tác nghiệp quản lý.

Các mối quan hệ (bao gồm cả quan hệ ngang và dọc) trong quá trình quản lý

đều chưa được liên kết, liên thông một cách chặt chẽ để trao đổi, chia sẻ thông tin

nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý của tổ chức Bảo hiểm xã hội các cấp.

Phương thức quản lý thủ công là một trong những nguyên nhân dẫn đến những

hạn chế trên các lĩnh vực công tác của ngành như: Quản lý thu BHXH, quản lý đối

tượng tham gia BHXH; quản lý chế độ chính sách BHXH; quản lý chi BHXH; quản

lý phiếu khám chữa bệnh (KCB) và chi phí KCB, quản lý tài chính BHXH v.v…

Thứ hai, đối tượng, phạm vi BHXH đang được mở rộng theo Luật BHXH. Đối

tượng tham gia BHYT cũng đang được Chính phủ nghiên cứu sửa đổi theo hướng

đồng bộ với đối tượng tham gia BHXH và từng bước mở rộng phạm vi nhằm thực

hiện lộ trình BHYT toàn dân. Sự gia tăng về đối tượng đã mở ra hướng phát triển

mới đầy triển vọng cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó chúng ta

phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức khi mở rộng đối tượng, phạm vi

BHXH. áp lực của sự gia tăng về đối tượng tham gia BHXH sẽ làm cho bộ máy

quản lý vận hành gặp nhiều khó khăn, nặng nề nếu không có sự chuyển đổi thích

ứng.

Thứ ba, dưới tác động của xu thế hội nhập, cơ chế thị trường và hiệu ứng lan

toả của những dịch vụ công, đối tượng đang tham gia và hưởng BHXH đòi hỏi sự

cung cấp, bảo đảm những dịch vụ tốt nhất từ phía tổ chức BHXH. Đó là đòi hỏi

khách quan, phù hợp thời đại.

Từ mô hình tổ chức bộ máy theo ngành dọc như trên của BHXH Việt Nam,

BHXH tỉnh Ninh Bình áp dụng nguyên mẫu, trong thực tế nảy sinh những bất cập,

đặc biệt là sự không đồng đều về dân số, điều kiện vật chất - kỹ thuật và khả năng

ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý giữa các đầu mối. Đối với vùng xa,

vùng khó khăn thì sự phối hợp càng phức tạp và tính liên kết thiếu chặt chẽ. Do đó,

hàng năm khi tổng kết có sự khác biệt nhau về mức độ hoàn thành nhiệm vụ chung

mà ngành BHXH giao cho.

2.2.3.1. Nguyên nhân

Thực trạng về kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra đối với BHXH Ninh

Bình ngoài những nguyên nhân trực tiếp đã trình bày trên, khái quát hơn có những

nguyên nhân chủ quan và khách quan sau:

Về chủ quan:

Đầu tiên là, nhận thức của đối tượng. Có một số người lao động nhận thức

chưa được đúng hoặc chưa đầy đủ về quyền lợi và lợi ích của họ khi họ tham gia

BHXH. Đặc biệt có một bộ phận người lao động vẫn còn thói quen, nếp sống thời

bao cấp muốn ỷ lại ngân sách Nhà nước, muốn hưởng BHXH nhưng lại không

muốn đóng góp. Một số trường hợp khác lại do tâm lý sợ mất việc làm nên không

giám đấu tranh đòi quyền lợi, buộc người sử dụng lao động phải đóng BHXH cho

mình. Bên cạnh đó có một số người lao động lại muốn tham gia BHXH, được chủ

sử dụng cho phép nhưng lại không có ý định tham gia vì mức thu nhập hiện tại của

họ quá thấp, không đủ cho họ trang trải các chi phí sinh hoạt hàng ngày. Thực ra, có

nhiều người lao động nghĩ rằng đóng BHXH là một quá trình tích lũy của họ trong

suốt quá trình lao động nhưng đến khi rủi ro xảy ra hay khi nghỉ hưu thì khoản tiền họ

thu về được lại ít hơn nhiều so với số tiền họ đã đóng. Chính vì vậy họ không mặn mà

với BHXH.

Hai là, xuất phát từ người sử dụng lao động. Có rất nhiều cơ quan đơn vị,

doanh nghiệp không muốn đóng BHXH cho người lao động nhằm tận dụng nguồn

kinh phí này cho đầu tư sản xuất đồng thời làm giảm giá thành sản phẩm, tăng sức

mạnh cạnh tranh trên thị trường, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.

Vì vậy, họ luôn tìm mọi cách né tránh như: Thuê mướn công nhân, lao động theo

tính thời vụ, thuê lao động làm việc dưới 3 tháng hoặc trên 3 tháng nhưng lại cố

tình chậm trễ trong việc ký kết Hợp đồng với lý do đó là thời gian thử việc. Lợi

dụng sự kém hiểu biết của người lao động về các văn bản quy phạm pháp luật về

BHXH, lợi dụng việc không có chế tài quy định chặt chẽ buộc họ phải tham gia

BHXH. Một số doanh nghiệp vẫn tuyên truyền với người lao động là họ sẽ đảm bảo

quyền lợi tham gia BHXH cho người lao động nhưng thực tế là họ lại tham gia loại

hình bảo hiểm khác có số chi phí ít hơn như mua bảo hiểm sinh mạng có thời hạn…

Bên cạnh những đơn vị cố tình không đóng BHXH thì cũng có nhiều đơn vị mong

muốn đóng BHXH cho người lao động nhưng lại không thực hiện được do tình hình

sản xuất kinh doanh trên những lĩnh vực gặp đầy rủi ro nên khả năng tài chính

thường không ổn định, nguồn vốn kinh doanh không đủ đóng BHXH liên tục cho

người lao động.

Ba là, về vai trò của các tổ chức Đảng, đoàn thể. Công đoàn là tổ chức đại diện

hợp pháp, bảo vệ quyền lợi cho người lao động nhưng ở các doanh nghiệp trốn, nợ

BHXH, đặc biệt trong khu vực ngoài quốc doanh, các tổ chức đoàn thể như công

đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ vừa thiếu, vừa yếu, thậm chí có rất nhiều doanh

nghiệp chưa có tổ chức công đoàn cơ sở. Tiếng nói của cán bộ công đoàn kiêm

nhiệm hưởng lương chưa đủ sức mạnh buộc doanh nghiệp thực hiện đúng luật, chưa

kể nhiều công đoàn cơ sở hoạt động lơ là, tắc trách, mặc kệ doanh nghiệp làm trái

luật.

Bốn là, do quản lí kém. Đó chính là việc đề ra cơ chế, chính sách, các chế độ

ban hành chưa đồng bộ, chưa sát với thực tế, quá trình triển khai chậm chạp, và còn

tồn tại sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Ví dụ, đối với khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh, các cơ quan Nhà nước chưa đánh giá đúng về tầm quan trọng cuả

thành phần kinh tế này, nên còn thiếu sự phối kết hợp trong chỉ đạo quản lí. Điều

này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí người lao động, và chính bản thân họ cũng

tìm cách tránh né tham gia BHXH. Bên cạnh đó, chức năng kiểm tra, giám sát, xử lí

của cơ quan BHXH đối với những đơn vị vi phạm chính sách còn hạn chế, chế tài

xử phạt chưa đồng bộ và chưa đủ mạnh, tính pháp lý chưa nghiêm do đó nhiều

doanh nghiệp trốn tránh, dây dưa nộp chậm và nợ đọng trong thời gian dài với số

tiền rất lớn mà không bị xử lí. Đồng thời, sự phối kết hợp giữa các ban ngành trong

việc giải quyết vấn đề nợ đọng và trốn nộp BHXH chưa cao, việc xử còn chậm và

qua nhiều khâu, nhiều cấp, chưa có một cơ chế cụ thể. Ngành bảo hiểm vẫn chưa có

sự kết hợp chặt chẽ với các ngân hàng mặc dù đã có Quyết định 02 của Thủ tướng

Chính phủ về việc cho phép cơ quan BHXH có quyền đề nghị kho bạc, ngân hàng

trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp để đóng BHXH cho người lao động. Cuối

cùng, BHXH là cơ quan quản lí trực tiếp việc thực hiện chính sách BHXH nhưng

lại không có thẩm quyền kiểm tra và xử phạt các đơn vị trốn hoặc nợ kéo dài.

Khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa với rất nhiều ưu điểm nhưng cũng tồn tại không ít hạn chế, Đảng và

Nhà nước ta đã luôn quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc

biệt là chính sách BHXH cho người lao động. Tuy nhiên, như đã phân tích, tình

trạng trốn, nợ BHXH đã tái diễn nhiều năm và ngày càng phức tạp, gây nhiều khó

khăn cho hoạt động của quỹ BHXH.

Hiện nay, một số vấn đề BHXH và nội dung của Luật lao động chưa được thực

hiện tốt ở Ninh Bình. Điều đó ngoài trách nhiệm của các đơn vị quản lý sử dụng lao

động, cơ quan thực hiện sự nghiệp là BHXH, còn thấy sự yếu kém bất cập của các

đơn vị có chức năng quản lý Nhà nước về lao động trên địa bàn.

Cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước về BHXH trên địa bàn là Sở lao động

thương binh xã hội còn lúng túng trong việc xử lý vi phạm cũng như xây dựng các

chế tài buộc các đơn vị quản lý lao động tuân thủ pháp luật lao động. Sự phối hợp

giữa cơ quan BHXH, Liên đoàn lao động, Thanh tra lao động để kiểm tra giám sát

doanh nghiệp còn hạn chế, chưa thường xuyên.

Thống kê, qua các đợt thanh tra, kiểm tra thực hiện Luật Lao động nói chung

và BHXH nói riêng trong các năm gần đây của liên ngành: Lao động, thương binh

xã hội - BHXH tỉnh và Liên đoàn lao động tỉnh cho thấy: Tình trạng vi phạm các

qui định về pháp luật lao động còn khá phổ biến. Các dạng sai phạm thường gặp là:

Tuyển dụng lao động còn tuỳ tiện, không thự hiện kí kết hợp đồng lao động

hoặc kí kết hợp đồng không rõ ràng, ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của người lao

động.

Không khai trình việc sử dụng lao động, không tham gia BHXH cho người lao

động.

Kê khai mức đóng BHXH không đầy đủ, thấp hơn mức lương phải đóng BHXH.

Kéo dài thời gian thử việc quá qui định, người lao động được tham gia BHXH

thường chậm hơn so với qui định.

Có thể nói, việc thực hiện các qui định pháp luật về lao động trên địa bàn còn

nhiều bất cập ở nhiều đơn vị sử dụng lao động. Lý do chủ yếu do ý thức chấp hành

pháp luật của một số chủ sử dụng lao động chưa cao, vai trò giám sát của tổ chức

công đoàn cơ sở chưa đạt yêu cầu, lực lượng thanh tra viên về lao động còn thiếu về

số lượng, yếu về chất lượng, việc xử lý các hành vi vi phạm chưa được triệt để, kiên

quyết, sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong kiểm tra, giám sát doanh

nghiệp chưa tốt…

Về khách quan:

BHXH là đơn vị được giao thực hiện các chế độ chính sách về BHXH tại các

cơ quan, đơn vị nhưng BHXH không có chức năng thanh tra xử lý vi phạm. Không

có các thông tin đầu vào về việc sử dụng lao động của các đơn vị sử dụng lao động.

Vì vậy, rất khó khăn trong kiểm tra để thu đúng, thu đủ cũng như thực hiện đầy đủ

quyền lợi BHXH cho mọi người lao động trong các cơ quan đơn vị.

Tác dụng của Luật BHXH và việc tổ chức thực hiện đã đem lại một kết quả

đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong thực tiễn tổ chức thực hiện Luật BHXH vẫn còn

một số vấn đề cần phải xem xét:

Về mở rộng đối tượng tham gia BHXH, đã được quy định rõ trong Luật

BHXH và các văn bản dưới luật nhưng vẫn còn nhiều đơn vị chưa tự giác tham gia

BHXH cho người lao động. Tình trạng này còn phổ biến ở khu vực kinh tế ngoài

quốc doanh và kinh tế hợp tác xã. Nguyên nhân là do mức phạt quy định còn quá

nhẹ, tối đa là 20 triệu đồng, cơ chế phối hợp để có thể xử phạt phức tạp, kéo dài,

nhưng thực tế rất ít khi thực hiện được. Lao động ở khu vực này biến động thường

xuyên liên tục, không thực hiện giao kết hợp đồng lao động, tiền lương vẫn còn

diễn ra nên việc quản lý lao động rất khó khăn, việc khai thác thu BHXH lại càng

khó khăn hơn.

Việc giải quyết chế độ chính sách cho người lao động: Luật BHXH có hiệu

lực thi hành từ 1-1-2007 nhưng các văn bản hướng dẫn chậm và chưa rõ ràng dẫn

đến sự lúng túng, cứng nhắc trong việc tiếp nhận và giải quyết chế độ chính sách

cho người lao động. Trong quá trình giải quyết chế độ cho người lao động còn có

những nội dung vướng mắc như: Quy định người về hưu không được hưởng trợ cấp

khu vực, mức chi trả trợ cấp BHXH một lần của người lao động nghỉ việc, hay

người chết đã cao hơn 1,5 lần so với trước đây; chế độ này vừa gây ra sự mất tương

quan trong chính sách vừa có tình trạng đóng ít hưởng nhiều là nguyên nhân gây

mất cân đối quỹ. Bên cạnh đó còn có một số nội dung chưa được hướng dẫn thí dụ

như: Trường hợp người lao động nghỉ việc đi khám, chữa bệnh tại nước ngoài; hạng

doanh nghiệp làm căn cứ để tính hưởng BHXH đối với doanh nghiệp Nhà nước đã

chuyển thành công ty cổ phần; công ty TNHH.

Kết luận chương 2

Toàn bộ nội dung chương hai tập trung làm rõ thực trạng phát triển BHXH

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Thông qua trình bày khái quát hệ thống các văn bản

pháp quy liên quan đến BHXH và giới thiệu khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế

xã hội, các điều kiện đặc trưng khác để khẳng định Ninh Bình có tiềm năng to lớn

để mở rộng đối tượng tham gia BHXH và khả năng hoạt động có hiệu quả công tác

này.

Từ các số liệu thống kê, tổng kết, đánh giá một cách khái quát những đóng góp

của BHXH vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Ninh Bình trong những năm

qua dưới góc độ thu, chi, quản lý...

Một mặt phân tích các mặt tổ chức, bộ máy quản lý BHXH ở Ninh Bình. Mặt

khác phân tích cụ thể các nguyên nhân của những vấn đề đã nêu và đưa ra bản nhận

xét về thực trạng BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Phân tích và đưa ra những đánh giá về những kết quả và những tồn tại của

BHXH trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua.

Toàn bộ nội dung về thực trạng BHXH Ninh Bình được trình bày là căn cứ

nêu ra quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác trong

nhưng năm của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế góp phần

thực hiện đường lối định hướng XHCN của Đảng.

Chương 3

phương hướng và những giải pháp chủ yếu

đối với bảo hiểm xã hội Ninh Bình phát triển

trong thời gian tới

3.1. Những phương hướng cơ bản Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội

3.1.1. Phương hướng của Đảng và Nhà nước

Quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

đồng thời phải thực hiện nhiều chính sách, biện pháp để kết hợp mục tiêu tăng

trưởng, phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội. Trong mục tiêu và phương

hướng phát triển đất nước (2006 - 2010) Nghị quyết Đại hội X đã khẳng định: “Đẩy

mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho

CNH, HĐH đất nước, phát triển mới, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng

cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội

nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi

tình trạng kém phát triển”... Trong đó “Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát

triển” là mục tiêu trực tiếp của Đại hội X. Đây là điều mong ước thiết tha và đòi hỏi

bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta, thể hiện sự nhìn nhận nghiêm túc, khách quan

về tình hình đất nước hiện nay, đồng thời cổ vũ nhân dân ta vươn lên với tinh thần

tự tin dân dân tộc và quyết tâm cao để đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát

triển không chỉ ở mức thu nhập bình quân đầu người thấp mà còn ở những lĩnh vực

khác như hạ tầng kinh tế - xã hội, các chỉ số phát triển con người HDI. Mục tiêu ấy

đã hàm chứa nội dung cơ bản vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, vừa thực hiện

tốt tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu phải đồng

thời thực hiện nhiều chính sách, trong đó chính sách tài chính quốc gia là chính sách

hàng đầu. BHXH là một trong những chính sách thuộc tài chính quốc gia phải được

quan tâm, có phương hướng phát triển đồng bộ và toàn diện. Từ đó, chính sách bảo

hiểm xã hội trong những năm gần đây đã tạo cơ hội mở rộng cho nhiều tầng lớp

nhân dân tham gia với các hình thức phù hợp. Tuy nhiên, việc hỗ trợ người nghèo

tham gia BHXH vẫn đang là mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước.

Bước vào thời kỳ đổi mới năm1986, Đảng ta đã chủ trương “Thực hiện chế độ

Bảo hiểm xã hội cho người lao động ở mọi thành phần kinh tế” (Chỉ thị 68-CT/TW

ngày 24/5/1986 của Ban Bí thư Trung ương Đảng). Chủ trương đó đã được thể chế

hoá trong Bộ luật lao động năm 1994 và ngày 26-1 năm 1995 Chính phủ đã ban

hành Nghị định 12/CP ban hành Điều lệ BHXH. Sự phát triển tư tưởng lãnh đạo của

Đảng về BHXH đối với người lao động đã được thể hiên tại Luật Bảo hiểm xã hội

ngày 29 tháng 06 năm 2006 được quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 9 và

có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007, Luật BHXH không chỉ quy định các chế độ

chính sách BHXH bắt buộc mà điều chỉnh cả những loại hình mới là BHXH tự

nguyện và BHXH thất nghiệp. BHXH tự nguyện có hiệu lực từ ngày 1/1/2008 và

bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2009. Có thể nói, BHXH tự nguyện ra

đời là một buớc phát triển mới, tất yếu của chính sách BHXH của nước ta trong

điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo định hướng XHCN, là điều

kiện để mở rộng hơn nữa đối tuợng tham gia BHXH.

3.1.2. Phương hướng chỉ đạo của bảo hiểm xã hội Việt Nam

Phương hướng chỉ đạo của BHXH Việt Nam được nêu trong “Chiến lược phát

triển của ngành đến năm 2010” thể hiện ở một số nội dung sau đây:

Thứ nhất, quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất, hạch toán độc lập với

Ngân sách Nhà nước và được Nhà nước ủng hộ. Không thành lập các quỹ thành

phần, không chia tách nhỏ quỹ theo các loại hình lao động hoặc theo chế độ trợ cấp.

Việc tạo lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất sẽ tạo ra một quỹ tài chính mạnh,

tăng khả năng chi trả và cân đối quỹ trong mọi trường hợp.

Thứ hai, mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tiến tới mọi người lao động đều

được hưởng BHXH là mục tiêu chiến lược của ngành. Trước mắt cần tập trung làm

tốt công tác khai thác phát triển đối tượng theo Nghị định 01/2003 ngày 9 tháng 1

năm 2003 của Chính phủ. Theo nghị định này, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

được mở rộng đến mọi người lao động làm công hưởng lương theo hợp đồng lao

động trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất kinh

doanh…thuộc các thành phần kinh tế (không hạn chế số lao động sử dụng).

Quỹ BHXH chủ yếu được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và

chủ sử dụng lao động, từ lãi hoạt động đầu tư tăng trưởng. Được Nhà nước bảo hộ

trong trường hợp cần thiết. Quỹ BHXH được tồn tích và chuyển giao qua các thế

hệ. Các mức hưởng BHXH được xây dựng theo nguyên tắc điều tiết phân phối lại,

có lợi cho những cá nhân có thu nhập thấp.

Thứ ba, hoàn thiện tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ và điều kiện làm

việc, đổi mới tác phong phục vụ, nâng cao chất lượng phục vụ đối tượng tham gia

BHXH.

Thứ tư, cần đẩy mạnh hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư để bảo

toàn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH. Nguồn quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi được

đầu tư và tăng trưởng nguồn quỹ, vừa bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế theo định

hướng của Đảng và Nhà nước. Do việc đầu tư phải bảo đảm khả năng an toàn cao

nên hình thức đầu tư cần thận trọng. Trước mắt chủ yếu thông qua mua trái phiếu

Chính phủ. Trong tương lai, có thể mở rộng sang các hình thức đầu tư khác nhưng

phải đảm bảo an toàn theo đúng quy định của Chính phủ.

Thứ năm, BHXH các địa phương thông qua quá trình thực hiện các quy định

pháp luật về BHXH trên địa bàn, tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm. Mạnh dạn tìm

kiếm các mô hình hoạt động có hiệu quả. Kịp thời kiến nghị điều chỉnh những quy

trình, chế độ chính sách bất hợp lý.

Về lộ trình triển khai:

- Năm 2008 triển khai BHXH tự nguyện.

- Năm 2009 triển khai BHXH thất nghiệp.

- Năm 2012 thực hiện luật BHYT, có thể chuyển BHYT học sinh sang loại

hình bắt buộc.

- Năm 2014 triển khai BHYT toàn dân.

3.1.3. Phương hướng của Bảo hiểm xã hội tỉnh Ninh Bình

Quán triệt quan điểm, phương hướng chỉ đạo của Đảng, chính phủ đối với

công tác BHXH. Đặc biệt và trực tiếp phương hướng chỉ đạo cuả ngành BHXH

Việt Nam, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Ninh Bình đã chỉ đạo, tuyên truyền, phổ biến rộng

rãi để nâng cao nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ BHXH đến toàn dân. Trực tiếp

giao nhiệm vụ cho cơ quan BHXH tỉnh thực hiện.

Phát huy những kết quả, thành tích và những kinh nghiệm qua hơn 12 năm

hoạt động và truởng thành, những năm tới Ninh Bình cần tập trung sự chỉ đạo, động

viên cán bộ công chức trong toàn ngành thực hiện tốt mục tiêu “BHXH cho mọi

người lao động, tiến tới BHYT toàn dân” bằng những phương hướng chủ yếu sau

đây:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn để mọi cấp, mọi

ngành và các đơn vị nhận thức đúng đắn về chính sách BHXH. Thông qua công tác

tuyên truyền làm cho cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống nhận thức rõ trách nhiệm

của mình trong việc thực hiện công tác BHXH. Đây là nhiệm vụ thường xuyên lâu dài

để tạo ra phong trào toàn xã hội tham gia công tác BHXH.

Hai là, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị định của chính phủ

về sửa đổi, bổ sung điều lệ BHYT, về chế độ tiền lương và trợ cấp BHXH.

Ba là, tích cực tham mưu với cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương phối hợp

chặt chẽ với các ngành hữu quan để mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT.

Thực hiện công bằng trong thụ hưởng các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà

nước.

Bốn là, thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng CNTT vào quản lý các hoạt động

chuyên môn. Tập trung vào công tác xét duyệt, quản lý hồ sơ, quản lý đối tượng

hưởng BHXH, công tác thu BHXH - BHYT, công tác quản lý tài chính và giám

định y tế.

Năm là, chăm lo công tác tổ chức cán bộ, đổi mới, sắp xếp bộ máy cho phù

hợp với yêu cầu thực tiễn, tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật, kỷ cương hành

chính, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực đội ngũ công chức -

viên chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới

3.2. Các giải pháp chủ yếu

3.2.1. Giải pháp về tổ chức bộ máy và cán bộ, mạng lưới nhân viên nghiệp

vụ, hiện đại hoá nghiệp vụ quản lý ngành

Thực hiện sự chỉ đạo của BHXH Việt Nam về việc triển khai cơ chế một cửa

liên thông tại các đơn vị trực thuộc, từ ngày 15/11/2007 BHXH tỉnh Ninh Bình tổ

chức thành lập bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo “cơ chế một cửa” thay cho việc

bố trí giải quyết công việc theo từng phòng chức năng như trước đây. Vì vậy đã tiết

kiệm được thời gian, đơn giản thủ tục khi giải quyết công việc của các tổ chức,

doanh nghiệp, cá nhân. Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại

như năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ở một số cán bộ công chức, viên

chức trong ngành còn hạn chế, chưa nhiệt tình trong việc phục vụ đối tượng, giải

quyết công việc đôi khi còn chưa thấu tình đạt lý để đối tượng còn thắc mắc. Khắc

phục tồn tại trên, BHXH tỉnh Ninh Bình cần thực hiện biện pháp sau:

- Cần sắp xếp tổ chức bộ máy và cán bộ theo hướng chuyên sâu.

- Củng cố kiện toàn tổ chức, bộ máy BHXH từ thành phố Ninh Bình đến các

huyện, thị xã. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ cán bộ

quản lý nghiệp vụ, nâng cao chất lượng hoạt động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

thời kỳ mới. Các cấp ủy Đảng định kỳ nghe lãnh đạo cơ quan BHXH báo cáo việc

thực hiện các chế độ BHXH để uấn nắn kịp thời những tồn tại, sai sót trong quá

trình thực hiện.

- Tăng cường cơ sở vật chất theo hướng hiện đại hoá công sở là yêu cầu cần

thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đảm bảo thông tin kịp thời.

- Trong thời gian tới, để triển khai Luật Bảo hiểm xã hội được hiệu quả hơn,

BHXH Ninh Bình thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, để làm tốt khâu ổn định tổ chức cần nghiên cứu, vận động làm tốt công

tác tư tưởng điều động, bố trí cán bộ theo đúng năng lực, trình độ của mỗi cán bộ

công chức. Đối với những trường hợp năng lực yếu, không đáp ứng được yêu cầu

nghiệp vụ, có chính sách phù hợp hoặc thuyên chuyển công tác để tinh lọc đội ngũ.

Đồng thời đề ra các tiêu chí để cán bộ ngành BHXH tỉnh làm căn cứ phấn đấu tự

giác học tập rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu công việc.

Hai là, xây dựng quy trình giải quyết từng khâu công việc theo hướng ổn định

có sự điều chỉnh một số quy trình chuẩn đã được công nhận cho phù hợp với yêu

cầu cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các phòng chức năng.

Đồng thời xây dựng, ban hành quy định mối quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trực

thuộc BHXH tỉnh để công việc được giải quyết trong thời gian ngắn hơn. Trước mắt

là khắc phục những yếu kém trong giải quyết các trường hợp vướng mắc liên quan

đến nhiều phòng ban chức năng.

Ba là, tăng cường cán bộ cho bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ theo cơ chế “một

cửa” thuộc phòng Tiếp nhận và Quản lý hồ sơ, đảm bảo hồ sơ được tiếp nhận đúng

quy định. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các phòng chức năng sử lý hồ sơ không

phải trả lại tổ chức và công dân. Có như vậy mới đảm bảo thời gian hẹn trả, đồng

thời thực hiện đúng yêu cầu nộp và nhận hồ sơ một nơi không đi lại nhiều lần, giảm

lãng phí xã hội.

Bốn là, tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao năng lực trình độ

đội ngũ cán bộ công chức. Để đảm bảo có được đội ngũ cán bộ công tâm, thạo việc

BHXH coi trọng bồi dưỡng cập nhật chế độ chính sách mới, kiến thức quản lý nhà

nước và trình độ công nghệ thông tin. Đồng thời, bồi dưỡng rèn luyện nâng cao tinh

thần thái độ phục vụ để khi điều động, luân chuyển có thể bắt tay vào công việc mới

không bị ảnh hưởng quy trình chung.

Năm là, tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao năng suất làm việc hiệu quả công

tác của cán bộ, công chức của cơ quan. Trong điều kiện hiện nay, ứng dụng công

nghệ thông tin đang là yêu cầu khách quan trong sử lý công việc, cùng với việc tăng

cường thiết bị công nghệ thông tin theo hướng 100% cán bộ giải quyết công việc

đều được trang bị máy vi tính. Tích cực hoàn thiện các phần mềm đã có, tiếp nhận

một số phần mềm mới như thu BHXH, theo dõi cấp phát sổ, trả lời giải đáp chế độ

chính sách, BHXH, BHYT cho đối tượng tham gia BHXH, BHYT, thực hiện nối

mạng liên thông với bộ phận “một cửa” ở các cơ sở là rất cần thiết.

3.2.2. Giải pháp về thông tin tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật

Hiện nay số đối tượng tham gia BHXH ở tỉnh Ninh Bình còn thấp, nhiều

người lao động, chủ sử dụng lao động chưa hiểu rõ về chính sách BHXH. Đặc biệt,

người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

nên chưa tham gia hoặc tìm cách trốn tránh nộp BHXH. Một trong những nguyên

nhân trên là do công tác thông tin tuyên truyền về quyền lợi, nghĩa vụ, các tiện ích

của BHXH đến các đơn vị sử dụng lao động và người lao động còn hạn chế. Để đẩy

mạnh và tăng tính hiệu quả của công tác này cần thực hiện như sau:

- Phối hợp, liên kết chặt chẽ với báo chí phát thanh, truyền hình, thông qua báo

chí để hướng dẫn, giới thiệu chính sách, nêu bật trách nhiệm của người sử dụng lao

động phải quan tâm lợi ích hợp pháp của người lao động. Mặt khác, nêu rõ quyền

và trách nhiệm của tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp trong việc tham mưu,

bàn giải pháp để chủ doanh nghiệp có nhận thức và thái độ đúng trong việc thực

hiện nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động. Báo chí có thể phổ biến các kiến

thức pháp luật về lao động, về Luật BHXH, về nghĩa vụ và quyền lợi hợp pháp của

người lao động khi tham gia BHXH. Bên cạnh đó, báo chí còn là cầu nối, đưa chính

sách, chế độ mới về BHXH, BHYT đến người lao động, tạo điều kiện để các bên

tham gia làm tròn trách nhiệm

- BHXH Tỉnh cần chủ động thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan

thông tin đại chúng như: văn hoá thể thao, truyền hình, đài, apphích... để tổ chức tốt

công tác này như: tuyên truyền theo trọng điểm, theo đợt, phải đồng bộ... cung cấp

thông tin nhanh chóng, kịp thời, chính xác, dễ tiếp thu, đáp ứng nhu cầu thông tin

của nhân dân.

- Sử dụng công nghệ thông tin, mở trang Web của ngành để cung cấp các văn

bản chính sách về BHXH, thông tin hoạt động, hướng dẫn thủ tục, tiếp nhận các

thông tin phản hồi của người tham gia BHXH để xem xét điều chỉnh, nâng cao tính

hấp dẫn của chế độ chính sách BHXH.

- Tổ chức thường xuyên các cuộc thi tìm hiểu kiến thức, thi tuyên truyền viên giỏi

về BHXH nhằm bổ sung nhận thức và khả năng tuyên truyền cho cán bộ công chức

trong ngành. Đồng thời nâng cao ý thức của cộng đồng về BHXH.

Tổ chức các đoàn tham quan, học tập kinh nghiệm về hoạt động BHXH dưới các

mặt: tổ chức, mở rộng mạng lưới thu, chi, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại

chúng của một số tỉnh điển hình có nhiều thành tích. Qua đó rút kinh nghiệm và bổ sung

những khiếm khuyết trong qúa trình công tác của mình.

Đất nước ta bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và

hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra những yêu cầu mới cao hơn đối với công tác

truyền thông về các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, an sinh xã hội và

BHXH nói riêng. Hệ thống BHXH cần đầu tư kinh phí cho công tác này nhiều hơn,

nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tổ chức, thực hiện công tác tuyên truyền ở cơ sở

tốt hơn góp phần tích cực thực hiện tốt mục tiêu BHXH cho mọi người lao động và

BHYT toàn dân theo định hướng của Đảng.

3.2.3. Giải pháp về tổ chức quản lý, cơ chế chính sách

Bảo hiểm xã hội Ninh Bình đã đạt được những kết quả quan trọng trong tổ

chức thực hiện chính sách BHXH theo cơ chế mới, đã có những bước tiến vững

chắc trong tổ chức thực hiện chính sách BHXH; đối tượng tham gia BHXH ngày

càng tăng, phạm vi BHXH ngày càng mở rộng, Quỹ BHXH có số thu ngày càng lớn,

các chế độ BHXH được thực hiện đúng, đủ, chính xác, kịp thời; được đối tượng và dư

luận xã hội đồng tình, ủng hộ; tiếp tục khẳng định sự đúng đắn về đường lối, chính

sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về BHXH.

Để đáp ứng yêu cầu mở rộng đối tượng, phạm vi BHXH, bên cạnh nhiều giải

pháp quan trọng thì việc nâng cao năng lực quản lý của bộ máy BHXH là một trong

những giải pháp then chốt.

Để phát triển, hội nhập, nâng cao vị thế của mình và vì an sinh xã hội, tổ chức

BHXH phải đáp ứng sự đòi hỏi của đối tượng đang tham gia và hưởng BHXH; coi việc

cung cấp, bảo đảm những dịch vụ tốt nhất cho đối tượng đang tham gia và hưởng BHXH

là một trong những phương châm hoạt động để phát triển.

Để thực hiện tốt chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước, chúng ta phải nâng

cao hiệu quả quản lý BHXH trên cơ sở cải thiện các bất cập nêu trên. Điều đó có

nghĩa phải thay đổi phương thức quản lý từ hành chính thủ công sang phương thức

quản lý hiện đại, chuyên nghiệp hơn phù hợp với đặc thù của ngành là tổ chức sự

nghiệp công. Và ứng dụng CNTT là lựa chọn tất yếu để xây dựng phương thức

quản lý hiện đại, chuyên nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý BHXH.

Tổ chức BHXH phải ứng dụng CNTT để đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm

cung cấp, bảo đảm những dịch vụ tốt nhất đến các bên tham gia BHXH, đồng thời

qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh với loại hình Bảo hiểm thương mại khi tuyên

truyền, thực hiện BHXH tự nguyện. Để ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả

ngoài việc đầu tư trang thiết bị hiện đại, nâng cao trình độ tin học cho cán bộ công

chức trong ngành. Vấn đề thiết thực hơn nữa là mạnh dạn áp dụng các phần mềm

quản lý BHXH. Đến nay, từng nghiệp vụ BHXH cụ thể như: Thu BHXH, giải quyết

chế độ, chính sách, chi trả lương hưu trợ cấp, quản lý khai thác hồ sơ, cấp sổ

BHXH, quản lý đối tượng... đều có các quy trình tác nghiệp cụ thể. Nhưng thực sự

chưa hoàn thiện và thiếu sự phối kết hợp giữa các khâu nghiệp vụ. Việc áp dụng

phần mềm quản lý chung, tổng quát cho phép các bộ phận tác nghiệp vừa có khả năng

tác nghiệp chuyên sâu, vừa có sự trợ giúp thông tin của các bộ phận khác. Kết quả thực

hiện một quy trình sử lý thông tin, ra quyết định sẽ nhanh, gọn, nâng cao hiệu quả công

tác.

3.2.4. Giải pháp bổ sung nhằm tăng cường thu và mở rộng đối tượng

tham gia bảo hiểm xã hội

BHXH Ninh Bình chưa thực hiện tốt việc thu BHXH, BHYT bắt buộc theo tháng

trong quy định của luật BHXH, vẫn còn để dồn vào các tháng cuối quý.

Việc trốn đóng BHXH đang diễn ra chủ yếu ở các doanh nghiệp tư nhân,

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hình thức trốn tránh BHXH chủ yếu là

khai man số lao động; hạ thấp quỹ lương đóng BHXH, thà chịu nộp phạt chứ không

đóng BHXH.

Công tác mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở một số BHXH các huyện, thị

xã, thị trấn chưa được chú trọng đúng mức.

Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH vẫn ở mức thấp, chưa xứng với tiềm

năng của tỉnh. Trong số những đơn vị đã thực hiện, có nhiều đơn vị chỉ nộp hình

thức, chiếu lệ cho số ít lao động; nộp không thường xuyên, không đầy đủ; nộp theo

mức lương thấp bằng các thủ thuật như chỉ ký hợp đồng thời vụ, ngắn hạn, thậm

chí không ký hợp đồng với người lao động… Có nhiều nguyên nhân khiến công tác

thu BHXH khu vực ngoài Nhà nước gặp khó khăn: trình độ dân trí không đồng đều,

nhận thức về BHXH còn hạn chế; nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ,

thiếu tính bền vững; nhiều chủ sử dụng lao động chưa nhận thức đầy đủ về trách

nhiệm tham gia BHXH hoặc cố tình né tránh; sự phối hợp kiểm tra, giám sát của

các ngành chức năng còn hạn chế; bản thân người lao động cũng thiếu hiểu biết về

chính sách BHXH nên quyền lợi của mình không được thực hiện mà không biết…

Để mọi người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế đều được tham

gia và thụ hưởng chính sách BHXH, thực hiện mục tiêu chiến lược của Đảng và

Nhà nước “… tiến tới áp dụng chế độ BHXH cho mọi người lao động…”, BHXH

tỉnh cần thực hiện các giải pháp như:

- Tổ chức các buổi thảo luận, hoặc xây dựng đề án nhằm đẩy mạnh mở rộng

đối tượng tham gia BHXH ở khu vực ngoài Nhà nước.

Đối với tình trạng trốn, nợ BHXH, để hạn chế, cần thực hiện đồng bộ các giải

pháp sau:

- Thực hiện nghiêm Luật BHXH đã được ban hành. Theo đó, sẽ hạn chế tình

trạng ký hợp đồng lao động ngắn hạn của các doanh nghiệp để trốn đóng BHXH

bằng cách chỉ cho phép doanh nghiệp ký hợp đồng lao động xác định thời hạn đến

lần thứ hai, sau đó phải chuyển thành hợp đồng không xác định thời hạn. Xử phạt

nghiêm minh thậm chí có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với lãnh đạo các

doanh nghiệp cố tình trốn, nợ và chiếm dụng tiền BHXH của người lao động. Phối

hợp với ngân hàng trích nộp BHXH và lãi của số tiền này từ tài khoản doanh nghiệp

hoặc phong tỏa tài khoản đến khi doanh nghiệp nộp đủ tiền. Để người sử dụng lao

động không còn cơ hội trốn, nợ đóng BHXH, cần có hệ thống đồng bộ các văn bản

pháp quy hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật BHXH, đồng thời quán

triệt sâu sắc cho cán bộ công chức, viên chức trong toàn ngành về Luật BHXH.

- Phải đưa vào hợp đồng lao động các điều khoản về BHXH một cách rõ ràng

để người lao động ý thức được trách nhiệm của mình và doanh nghiệp trong việc

tham gia BHXH.

- Công đoàn cơ sở nên đứng ra hợp tác với ngành BHXH để thực hiện thu tiền

đóng góp BHXH của người lao động. Bên cạnh đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt

Nam nên có sự giám sát chặt chẽ trong việc hình thành và hoạt động của các công

đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trốn, nợ BHXH để

công đoàn thực sự trở thành tổ chức bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động.

- BHXH phối hợp với các cơ quan chức năng như Phòng LĐTBXH, Liên

đoàn Lao động và các tổ chức công đoàn cơ sở tổ chức các đợt kiểm tra liên ngành

thường xuyên về việc thực hiện pháp luật lao động và Luật BHXH.

Đôn đốc các đơn vị trích nộp BHXH đúng, đủ, kịp thời hàng tháng là công

việc khó khăn nhất hiện nay của ngành BHXH. Mặc dù trong các văn bản pháp luật

đã quy định rõ nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động về việc nộp BHXH hàng

tháng. Nhưng tình trạng nợ đọng BHXH còn nhiều. Trên thực tế, một số đơn vị sử

dụng lao động có những khó khăn khách quan trong những thời điểm nhất định như

thiếu vốn, nợ không thu hồi được, sản phẩm ứ đọng… nên chậm nộp BHXH. Tuy

nhiên, số đơn vị tham gia BHXH có khó khăn thực sự không nhiều. Nguyên nhân

chủ yếu của tình trạng chậm nộp BHXH là ý thức chấp hành pháp luật không

nghiêm của các đơn vị sử dụng lao động nhưng chưa được xử lý kiên quyết.

Nhằm khắc phục tình trạng trên, đảm bảo thu kịp thời cho quỹ BHXH cần thực

hiện đồng bộ các biện pháp sau đây:

Một là, cán bộ phải bám sát cơ sở, kịp thời đối chiếu xác định số phải nộp

BHXH của đơn vị. Thường xuyên đôn đốc đơn vị thực hiện nghĩa vụ trích nộp

BHXH. Đây được coi là biện pháp hiệu quả nhất hiện nay.

Hai là, sử dụng các biện pháp được pháp luật cho phép để thu BHXH.

Hiện tại, Chính phủ cho phép sử dụng các biện pháp sau để buộc các đơn vị

đóng BHXH đúng kỳ hạn

- Yêu cầu Ngân hàng, Kho bạc trích trừ trên tài khoản của đơn vị.

- Tính lãi chậm nộp theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đối với các khoản

chậm nộp từ 30 ngày trở lên

- Yên cầu cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính

- Truy tố theo pháp luật

Việc xử lý theo các quy định trên thực tế gặp một số khó khăn. Ví dụ, yêu cầu

ngân hàng khấu trừ trên tài khoản nhưng đa số các ngân hàng né tránh vì muốn giữ

khách hàng hoặc đơn vị không có tiền trên tài khoản.

Việc tính lãi chậm nộp hiện chưa có hướng dẫn thống nhất cách tính và thu lãi

cũng rất khó khăn khi đơn vị không có nguồn nộp. Việc xử phạt hành chính thì do

mức phạt nhẹ nên không đủ khả năng răn đe… Tuy nhiên, ở đây chưa có cơ chế phối

hợp giữa các đơn vị có liên quan để xử lý kiên quyết. Để thực hiện, trong toàn hệ thống

BHXH cần có những quy định cụ thể và thống nhất.

Ba là, cần phối hợp tốt với các cấp uỷ Đảng, cơ quan chủ quản doanh nghiệp,

Hội đồng thi đua khen thưởng các cấp, và các tổ chức khác thông qua chức năng

quản lý của mình đôn đốc đơn vị thực hiện đúng các quy định về trích nộp BHXH.

Thực tế cho thấy, các đơn vị sử dụng lao động chịu nhiều sự chỉ đạo, quản lý,

đánh giá của các tổ chức khác nhau. Nếu BHXH phối hợp tốt với các đơn vị này sẽ

có nhiều khả năng để thực hiện hiệu quả dịch vụ thu BHXH nói riêng và các dịch

vụ khác về BHXH nói chung.

3.2.5. Giải quyết tốt mối quan hệ bảo hiểm xã hội với các loại hình bảo

hiểm khác trên địa bàn

BHXH là một trong những nội dung của BH nói chung. Sự phát triển của

BHXH không nằm ngoài những vấn đề của BH và kinh tế bảo hiểm. Vì vậy, thực

hiện tốt mối quan hệ giữa BHXH với các loại hình bảo hiểm khác (BH con người,

BH tài sản, BH trách nhiệm dân sự...) là những giải pháp cần quan tâm trong thời

gian tới.

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều sản phẩm dịch vụ bảo hiểm khác nhau.

Theo tạp chí Tài chính số 1/2005 trang 56, đến nay các doanh nghiệp bảo hiểm

cung cấp trên các sản phẩm bảo hiểm thuộc 3 lĩnh vực chủ yếu: BH con người, BH

tài sản, BH trách nhiệm dân sự... Để tổ chức quản lý có hiệu quả các loại bảo hiểm

trên. Một mặt phải đi sâu vào chi tiết chuyên môn của từng loại bảo hiểm để phát

hiện nhu cầu, thị hiếu, những khiếm khuyết và mặt tích cực so với yêu cầu thực tế.

Mặt khác phải liên kết các loại bảo hiểm theo hiệp hội chung, nhằm hỗ trợ, bổ sung

cho nhau trong hệ thống liên kết ngành. Trên tinh thần ấy, ở Ninh Bình cần phối

hợp tốt BHXH với các loại hình BH khác như BHXH có tính chất bắt buộc, pháp

lý, tạo ra những ràng buộc có lợi cho cả ba bên: Nhà nước, ngành BHXH và bản

thân người lao động, từ đó hình thành tâm lý yên tâm, nâng cao nhận thức và trách

nhiệm dân sự trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên của xã hội. Khi

hoạt động BHXH đã thực hiện tốt, thường xuyên, ổn định sẽ góp phần nâng cao

trình độ nhận thức cho nhân dân, hiểu biết sâu sắc thêm về lợi ích của các loại hình

bảo hiểm thương mại khác. Các loại hình bảo hiểm thương mại sẽ hướng vào việc

bổ sung những thiếu sót của BHXH để hoàn thiện và tạo ra tính an toàn chung với

mọi hoạt động knh tế - xã hội trong đời sống. Việc thực hiện BHXH có tính chất bắt

buộc, coi đó là nghĩa vụ của các cá nhân và tổ chức phải thực thi theo luật. Hoạt

động này chỉ thực hiện trong một số lĩnh vực đặc thù nhằm mục đích bảo vệ lợi ích

công cộng. BHXH liên kết BHTM (con người, tài sản) sẽ phát huy được tính tự giác

của các đối tượng. Liên kết BHXH với các loại hình BHXH khác không chỉ dừng

lại hình thức. Trong tổ chức, quản lý hồ sơ, quản lý đối tượng cũng có thể hỗ trợ

cho nhau. Đặc biệt quản lý và sử dụng nguồn quỹ thu BHXH. Trong nhiều trường

hợp bảo hiểm thương mại cần nguồn chi lớn cho các hoạt động đột biến xảy ra, khi

mà BHXH lại chi có tính chất thường xuyên ổn định. Sự hỗ trợ lẫn nhau trong quản

lý và sử dụng vốn sẽ tạo ra tính ổn định chung. BHXH Ninh Bình kết hợp tốt nội

dung trên hoạt động sẽ đi vào chiều sâu, ổn định và tăng trưởng tốt.

3.2.6. Các giải pháp về vấn đề chi bảo hiểm y tế trong quỹ bảo hiểm xã hội

Để khắc phục tình trạng chi trả cho BHYT vượt quá khả năng quỹ BHXH,

trước mắt hai ngành BHYT và Sở Y tế cần phải phối kết hợp tổ chức thực hiện

Nghị định 63/NĐ-CP tốt hơn nữa trong công tác quản lý khám chữa bệnh BHYT.

Hạn chế tối đa chi phí y tế không hợp lý, giảm dần tình trạng bội chi quỹ. Ngành Y

tế giao cho các bệnh viện tuyến huyện, BHXH tỉnh giao cho BHXH các huyện cùng

phối hợp rà xoát thêm những trạm y tế trên địa bàn mình quản lý nếu có đủ điều

kiện ký thêm hợp đồng KCB BHYT năm 2006, nâng tỷ lệ trạm y tế đăng ký KCB

BHYT lên khoảng 75%, để giảm tải tại các bệnh viện huyện, tỉnh đáp ứng nhu cầu

100% người dân được chăm sóc sức khỏe ban đầu tại tuyến y tế cơ sở, tiến tới mục

tiêu BHYT toàn dân vào năm 2010. Đặc biệt đối với bệnh viện đa khoa tỉnh là bệnh

viện tuyến II theo phân tuyến chuyển viện của Bộ y tế, do đó chỉ tiếp nhận 30.000

thẻ BHYT đăng kí khám chữa bệnh ban đầu để tiếp nhận bệnh nhân nặng do tuyến

dưới chuyển lên. Tập trung vào các chuyên khoa sâu, khẳng định là cơ sở KCB đầu

ngành của tỉnh. Tăng cường các biện pháp quản lý tốt việc chuyển viện, hạn chế tối

đa chuyển lên tuyến trên. Tích cực thực hiện công tác kiểm tra tại các cơ quan khám

chữa bệnh, các trạm y tế ở các xí nghiệp, công ty nhằm hạn chế tình trạng cấp giấy

nghỉ việc tràn lan để hưởng BHXH. Đồng thời hai ngành BHXH và Sở y tế cần đẩy

mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền chính sách BHYT tới mọi tầng lớp nhân dân,

giúp nhân dân hiểu rõ hơn tính cộng đồng và nhân đạo sâu sắc mà BHYT mang lại

và tự nguyện tham gia BHYT nhằm đảm bảo nguyên tắc lấy số đông bù lại số ít,

đảm bảo khả năng cân đối quỹ BHYT trong lộ trình tiến tới BHYT toàn dân và

chăm sóc sức khỏe toàn dân của Đảng và Nhà nước.

Để đảm bảo cân đối thu, chi BHYT với mức thu một phần viện phí, BHXH

Việt Nam cho rằng, mức đóng BHYT của đối tượng bắt buộc phải tương ứng với

mức viện phí là 5% lương (hiện nay là 3%). Người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi có

mức đóng bình quân bằng 3% lương tối thiểu, đối tượng tự nguyện nhân dân có

mức đóng tương đương với mức hưởng, trường hợp nếu mức đóng của đối tượng tự

nguyện tương đương mức bình quân chung của đối tượng bắt buộc thì được hưởng

quyền lợi như bắt buộc. Đồng thời đề nghị Chính Phủ sớm sửa đổi Điều lệ BHYT,

theo đó, qui đinh rõ hơn về gói quyền lợi BHYT cơ bản, phù hợp với khả năng đóng

góp tài chính của người tham gia BHYT. Ngoài ra, không đưa những chi phí điều trị

thuộc dạng như tai nạn giao thông, điều trị các bệnh bẩm sinh... vào gói quyền lợi

BHYT.

kết luận

Bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội

của Đảng và nhà nước ta. Thực chất đây là chính sách đối với con người nhằm đáp

ứng một trong những quyền và nhu cầu tất yếu của người lao động, nhu cầu an toàn

về việc làm, an toàn lao động hơn nữa là an toàn xã hội. Chính sách bảo hiểm xã hội

còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và

trình độ quản lý của mỗi quốc gia. Trong chừng mực nào đó, bảo hiểm xã hội thể

hiện tính ưu việt, tính nhân văn của mỗi chế độ xã hội.

Sau 12 năm, hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập, đi vào hoạt

động, tổ chức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội trên phạm vi toàn quốc đã

giải quyết được những vấn đề cơ bản, có tác dụng nhiều mặt trong việc đảm bảo an

toàn xã hội, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, chính

sách bảo hiểm xã hội không phải xây dựng mới hoàn toàn mà là sự kế thừa chính

sách bảo hiểm xã hội trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chính vì vậy mà chính

sách bảo hiểm xã hội hiện hành không tránh khỏi những bất cập như: mối quan hệ

giữa đóng góp và hưởng thụ, những bất cập về lương hưu của những người nghỉ

trước tháng 4/1993, trước tháng 9/1985 với những người nghỉ hưu sau 01/01/1995;

phạm vi, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã được mở rộng. Để

khắc phục những bất cập và hạn chế của chính sách bảo hiểm xã hội, xây dựng một

chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế nhiều

thành phần, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao

động và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong giai đoạn hịên nay. Việc

đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội, củng cố và hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã

hội là hết sức cần thiết.

Với mục đích nghiên cứu đã đặt ra, dựa trên cơ sở nghiên cứu BHXH Ninh

Bình, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn của một số tỉnh, luận văn đã tổng

hợp được những vấn đề lý luận cơ bản, nghiên cứu thực trạng BHXH ở Ninh Bình

và từ đó đề xuất những giải pháp nhằm mở rộng đối tượng tham gia BHXH tỉnh

Ninh Bình.

Tác giả mong muốn các giải pháp đưa ra ở trên sẽ được áp dụng trong thực

tiễn, góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của BHXH Ninh Bình. Do hạn chế

về mặt thời gian nghiên cứu và nhận thức của mình, luận văn không tránh khỏi những

khiếm khuyết. Tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cô

giáo, các bạn đồng nghiệp và những ai có quan tâm đến vấn đề nghiên cứu này để luận

văn được hoàn thiện hơn.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Bảo hiểm Xã hội Ninh Bình (2007), Báo cáo quyết toán chi BHXH các năm từ

1995 - 2007.

2. Bảo hiểm Xã hội Ninh Bình (2007), Báo cáo 10 năm xây dựng và trưởng thành

(1997 - 2007).

3. Bảo hiểm Xã hội Ninh Bình (2007), Báo cáo kết quả thu BHXH các năm 2003 -

2007.

4. Bảo hiểm Xã hội Ninh Bình (2007), Báo cáo kết quả giải quyết chính sách

BHXH các năm 2003 - 2007.

5. Bảo hiểm Xã hội Ninh Bình (2007), Công tác mở rộng đối tượng tham gia

BHXH từ năm 2003 đến năm 2007.

6. Bảo hiểm Xã hội Ninh Bình (2007), Báo cáo giám định chi BHYT các năm

2003-2007.

7. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (1998), Tạp chí BHXH số 12.

8. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2000), Chương trình phát triển ngành BHXH Việt

Nam đến năm 2010.

9. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2001), Tạp chí BHXH số 7.

10. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2003), Lộ trình mở rộng đối tượng tham gia

BHXH theo Nghị định 01/2003/NĐ-CP, tháng 5/2003.

11. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2005), Báo cáo 10 năm xây dựng và trưởng thành

(1997 - 2007).

12. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (2007), Quyết định 902/QĐ/BHXH ngày 26/6/2007

về quản lý thu BHXH, BHYT bắt buộc theo Luật BHXH.

13. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1993), Một số công ước của Tổ chức lao

động quốc tế (ILO), Nxb Lao động, Hà Nội.

14. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2001), Bảo hiểm xã hội, những điều cần

biết, Nxb Thống kê, Hà Nội.

15. Bộ Lao động Thương binh và xã hội (1999), Dự án phát triển và đào tạo

BHXH. Hỏi đáp về BHXH, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

16. Chính phủ (1995), Nghị định số 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập Bảo

hiểm xã hội Việt Nam.

17. Chính phủ (1999), Nghị định 152/1999/NĐ-CP (1999) quy định về người lao

động ra nước ngoài làm việc.

18. Chính phủ (2002), Nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam.

19. Chính phủ (2002), Quyết định số 20/2002/QĐ-TTG về việc chuyển giao BHYT

sang BHXH Việt Nam quản lý.

20. Chính phủ (2003), Nghị định 121/2003/NĐ-CP quy định chế độ BHXH đối với

cán bộ, công chức, xã, phường, thị trấn.

21. Chính phủ (2003), Nghị định 89/2003/NĐ-CP ban hành điều lệ BHXH đối với

sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sỹ Quân đội nhân

dân và Công an nhân dân.

22. Điều lệ BHXH (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Duy Đỉnh (2006), Dịch vụ BHXH ở Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sỹ

Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội..

24. Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về chính sách BHXH (2003), Nxb

Lao động - xã hội, Hà Nội.

25. Hội đồng Bộ trưởng (1985), Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 về việc bổ

sung, sửa đổi một số chế độ về TBXH.

26. Hội đồng Chính phủ (1961), Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành

kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên

chức Nhà nước.

27. Đặng Ngọc Liên (2004), Quản lý thu BHXH đối với khu vực kinh tế tư nhân tại

Hà Nội, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

28. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Một số văn bản quy phạm pháp luật và văn bản của ngành hướng dẫn thực hiện

BHXH, BHYT (2007) BHXH Việt Nam.

30. Những văn bản hướng dẫn mới về tiền lương, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,

BHXH, thi đua khen thưởng (2000), Nxb Lao động, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Bảo hiểm xã

hội, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.

32. Quy định mới của Pháp luật về Lao động tiền lương và BHXH (Theo Bộ luật

lao động mới sửa đổi, bổ sung năm 2002 (2002), Nxb Lao động, Hà

Nội.

33. Đỗ Văn Sinh (2006), Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ

kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

34. Tạp chí Bảo hiểm xã hội tháng 5 năm 2008.

35. Tạp chí Đảng Cộng sản Việt Nam.

36. Thời báo tài chính.

37. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 02/2003/QĐ-TTg ngày 02/01/2003 về

việc ban hành Quy chế tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

38. Tổng cục Thống kê (2000), Niên giám thống kê năm 2000, Hà Nội.

39. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám thống kê năm 2001, Hà Nội.

40. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám thống kê năm 2002, Hà Nội.

41. Tổng cục Thống kê (2003), Niên giám thống kê năm 2003, Hà Nội.

42. Tổng cục Thống kê (2004), Niên giám thống kê năm 2004, Hà Nội.

43. Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám thống kê năm 2005, Hà Nội.

44. Trường Đại học Công đoàn (2006), Giáo trình kinh tế bảo hiểm, Nxb Lao

Động, Hà Nội.

45. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2005), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

46. Nguyễn Duy Vy (1999), Hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH hiện hành, Nxb

Lao động, Hà Nội.

47. Website - Bộ Lao động Thương binh và xã hội.

48. www.ninhbinhtouris.com.vn.

49. www.tapchibhxh.com.vn.