
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT
đối với các doanh nghiệp thuộc khối
công nghiệp trên địa bàn Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu chính của Ngân sách Nhà nước, thuế được sử dụng như
là một công cụ quan trọng nhằm bảo đảm thúc đẩy phát triển sản xuất, lưu thông
hàng hoá, khuyến khích đầu tư..Ngoài ra nó cũng góp phần đưa nền kinh tế phát triển
theo một quỹ đạo thống nhất, nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Ở nước ta thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT) trước đây được gọi là thuế
doanh nghiệp. Từ khi cải cách thuế bước 1 vào năm 1990 thì nó được đổi tên thành
thuế doanh thu. Thuế doanh thu có nhiều mức thuế suất, được phân biệt theo ngành
và mặt hàng, nó có nhược điểm lớn nhất là thu thuế trùng lắp cho nên khi chuyên
môn hoá càng sâu thì số thuế phải nộp lại càng nhiều. Do vậy, khi nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường, giá cà hàng hoá do cung - cầu trên thị trường quyết định
thì thuế doanh thu với nhiều mức thuế suất đã không còn phù hợp nữa, nếu ta vẫn
tiếp tục duy trì thì sẽ chỉ làm tăng lên khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo nhiều
kẽ hở cho việc trốn lậu thuế.
Thực hiện chương trình cải cách thuế bước 2, Luật thuế GTGT đã được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX thông qua tại kỳ họp
thứ 11 (từ ngày 2/4 đến ngày 10/5/1997); có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999 thay
cho Luật thuế doanh thu. Thuế GTGT ra đời đã chứng tỏ được những ưu thế của nó,
đặc biệt là vấn đề đảm bảo được số thu cho Ngân sách, khắc phục được tính trùng lặp
của thuế doanh thu. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành Luật thuế GTGT cũng nảy sinh
nhiều khó khăn vướng mắc mà bằng chứng của nó la Bộ tài chính đã phải ban hành
rất nhiều văn bản để hướng dẫn thi hành Luật. Trong số những vướng mắc ấy nổi
cộm lên là công tác hoàn thuế GTGT. Công tác hoàn thuế GTGT là một nghiệp vụ
của Luật thuế GTGT, nó bao hàm rất nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội và cũng là một
cách để các đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lợi dụng kẽ hở để lừa đảo, bòn rút tiền của
Nhà nước.

Phòng quản lý doanh nghiệp Nhà nước số 2 thuộc Cục thuế Hà Nội (còn gọi
là phòng quản lý các doanh nghiêp Nhà nước thuộc khối Công - nông - ngư nghiệp)
là phòng quản lý thu tập trung nhiều đơn vị trọng điểm có số thu Ngân sách lớn và số
thuế xin hoàn và được hoàn cao nhất toàn Cục thuế. Thực tế việc thực hiện công tác
thu thuế GTGT và hoàn thuế GTGT không phải lúc nào cũng diễn ra suôn sẻ, mà liên
tục nảy sinh những vấn đề cần phải hoàn thiện: các doanh nghiệp liên tiếp kêu ca về
việc hoàn thuế chậm, phiền phức; nhiều trường hợp lợi dụng hoàn thuế để lừa đảo
hàng chục tỷ đồng cũng bị phanh phui..Thực tế đó đòi hỏi phải nghiên cứu để hoàn
thiện công tác hoàn thuế GTGT nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh Luật thuế,
tránh làm thất thoát Ngân sách, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát triển
sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà em đã quyết định chọn đề tài:" Hoàn thiện
công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp thuộc khối công nghiệp trên
địa bàn Hà Nội" làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề gồm có ba phần chính sau đây:
Chương I: Lí luận chung về hoàn thuế và hoàn thuế GTGT
Chương II: Thực trạng công tác hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp
thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hoàn thuế đối với
các doanh nghiệp thuộc khối công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.

CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOÀN THUẾ VÀ HOÀN THUẾ GTGT
1. Lí luận chung về hoàn thuế:
1.1. Khái niệm:
Thuế tất yếu ra đời và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của Nhà nước
nhằm thực hiện hai mục đích chủ yếu là: đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Để thực hiện tốt các mục đích này, việc thực thi các hệ thống
thuế của mỗi quốc gia cần phải chú trọng tất cả các nội dung và phương diện của
công tác quản lý thu nộp thuế. Hoàn thuế chính là một trong những nội dung của
công tác này. Ta có thể khái niệm về hoàn thuế như sau:
Hoàn thuế là việc Ngân sách Nhà nước hoàn trả cho đối tượng nộp thuế
(ĐTNT) khoản thuế đã nộp theo những điều kiện đã quy định trong các Luật thuế.
1.2. Mục đích của hoàn thuế:
- Giảm bớt khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp là ĐTNT trong kinh
doanh: vốn luôn là vấn đề hết sức nóng bỏng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là
trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. Để khuyến khích đầu tư và mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước thực hiện hoàn thuế để tạo điều kiện
cho doanh nghiệp thu hồi được vốn đã ứng trước.
Ví dụ: trong Luật thuế GTGT có quy định đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mới
đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đang trong
giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, chưa phát sinh thuế đầu ra, nếu thời gian đầu
tư từ một năm trở lên sẽ được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT
đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được
xét hoàn thuế theo từng quý.
- Trả lại số thuế do thay đổi tính chất của việc sử dụng hàng hoá: đối với loại
hàng hoá được sản xuất tại Việt Nam nhưng không được tiêu dùng trong nước mà

đem xuất khẩu, về mặt nguyên tắc thuế gián thu không điều tiết, do vậy được hoàn
toàn bộ số thuế đầu vào đã trả nằm trong những hàng hoá đó.
Đối với những loại hàng hoá được mua bằng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ
không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân người nước ngoài thì được hoàn số thuế nằm
trong giá cả của hàng hoá đó, vì mục đích sử dụng những hàng hoá này mang tính
nhân đạo như cứu giúp đồng bào bị thiên tai, lũ lụt,..
- Thực hiện phát triển kinh tế theo định hướng của Nhà nước.
Ví dụ: nhằm khuyến khích phát triển lĩnh vực xuất khẩu, trong Luật thuế GTGT
Nhà nước quy định thuế suất bằng 0% đối với loại hàng hoá này, có nghĩa là thuế đầu
ra không những không phải đóng mà còn được hoàn lại toàn bộ số thuế đầu vào
nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
Trong Luật thuế xuất nhập khẩu, Nhà nước cho phép hoàn thuế nhập khẩu cho
nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu, hàng gia công cho nước ngoài.
Trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Nhà nước thực hiện hoàn thuế cho các
nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận để tái đầu tư…
1.3. Các yêu cầu cần thiết của công tác hoàn thuế:
Để thực hiện hoàn thuế đảm bảo cho các mục đích nói trên thì cả cơ quan thuế
và ĐTNT phải chấp hành tốt các quy định trong công tác hoàn thuế. Nếu thực hiện
không tốt, một mặt sẽ không đáp ứng được các mục đích của hoàn thuế, mặt khác sẽ
gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế xã hội như:Nhà nước sẽ thất thoát
nguồn thu khi phải chi ra nhiều hơn số tiền hoàn thuế, doanh nghiệp không được trả
vốn kịp thời để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh tạo đà cho các hành vi gian dối
của ĐTNT, hoặc là gây ra sự mất công bằng giữa các ĐTNT…Vì vậy, công tác hoàn
thuế phải được thực hiện đúng và đầy đủ các yêu cầu sau:
1.3.1. Yêu cầu đối với đối tượng nộp thuế (ĐTNT):
- Thực hiện đúng, đầy đủ nội dung quy định của các Luật thuế. Đối với các
trường hợp thuộc diện được hoàn thuế thì phải lập hồ sơ xin hoàn thuế. Hồ sơ phải
được lập một cách đầy đủ, đảm bảo phản ánh chính xác, trung thực tình hình thực tế