intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

153
lượt xem
52
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: nâng cao chất lượng tín dụng tại nhno & ptnt huyện đông triều, tỉnh quảng ninh', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh
  2. Lời mở đầu Trong những năm qua nền Kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi như nguồn vốn FDI tăng nhanh, Kinh tế - Xã hội phát triển, đời sống nhân nhân không ngừng tăng cao…. Đặc biệt sau khi gia nhập WTO ngày 01 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã và đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức cho nền Kinh tế. Song song với quá trình đó Ngân Hàng Thương Mại và các tổ chức tín dụng cũng đang đứng trước trước nhiều thách thức khó khăn. Xuất phát từ yêu cầu đó hệ thống Ngân Hàng Việt Nam nói chung cũng như NHNo & PTNT Huyện Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh nói riêng phải phát triển toàn diện về mọi mặt như: hoạt động huy động vốn, nâng cao chất lượng dịch vụ,… và một trong những mặt đang được hệ thống ngân hàng rất chú trọng là chất lượng tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại. Vì lý do đó, tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh”. Bằng việc kết hợp giữa lý luận và qua phân tích tình hình số liệu thực tế, chuyên đề đã được hình thành với các nội dung sau: Chương I: Những vấn đề lí luận chung về tín dụng ngân hàng Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Đông Triều Tỉnh Quảng Ninh. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ở NHNo&PTNT huyện Đông Triều
  3. Chương I Những vấn đề lí luận chung về tín dụng ngân hàng 1.1 Tín dụng ngân hàng Tín dụng ra đời từ rất lâu gắn liền với sự phát triển của loài người mà không ai có thể xác định rõ thời điểm tín dụng ra đời. Dưới góc độ nghiên cứu sự hình thành và phát triển của tín dụng có thể chia thời kì phát triển của tín dụng thành hai thời kì như sau: Thời kì sản suất hàng hóa chưa phát triển và thời kì sản xuất hàng hóa phát triển. Thời kì sản xuất hàng hóa chưa phát triển: Trong thời kì xã hội phân cấp, xã hội nói chung chia thành hai giai cấp: giai cấp thống trị là giai cấp chiếm tỉ lệ nhỏ trong xã hội như cường hào, địa chủ, tu viện, …; giai cấp bị trị là nông dân, người lao động, nô lệ, …., lực lượng này chiếm phần đông trong xã hội, họ là những người vô sản không có tư liệu sản xuất trong tay. Giai cấp thống trị là người nắm tư liệu sản xuất trong tay (quy trình sản xuất trong tay) trong khi giai cấp bị trị không có tư liệu sản suất do đó nảy sinh quan hệ tín dụng. Đặc trưng thứ nhất của thời kì này là tín dụng nặng lãi bản chất là khả năng trang trải của người sử dụng vốn. Đặc trưng thứ hai thời kì này là mang tính chất phi sản suất vì nông dân (giai cấp vô sản) thường vay về để ăn chống đói. Đối với Vua chúa vay về xây thành quách hưởng thụ hoặc vay về xây dựng thành lũy phục vụ cho các cuộc chiến tranh. Hầu như đều là mục đích tiêu dùng. Do đó cho vay dưới hình thức này tạo ra hai hướng tiêu cực cho nền kinh tế. Thứ nhất là người sản xuất nghèo đi do không có tư liệu sản xuất trong tay vì vậy làm nghèo nàn nền kinh tế. Thứ hai, những người đi vay họ trở thành người vô sản mà vốn tích tụ tập trung trong tay địa chủ và đây là mầm mống cho hình thức sản xuất tư bản. Trong thời kì sản xuất hàng hóa phát triển, quan hệ tín dụng gồm nhiều chủ thể khác nhau như: Cá nhân, Doanh nghiệp… . Họ khác nhau về quyền sở hữu, khác nhau về đặc điểm tuần hoàn luân chuyển vốn,… do quá trình khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất. Vì vậy xét trong bất kì thời điểm nào của nền kinh tế luôn có những doanh nghiệp bán được hàng hóa, đó là những doanh nghiệp thừa vốn một cách tương đối. Mặt khác, có những doanh nghiệp cần dự trữ nguyên vật liệu, hoặc là phải thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước… tại thời điểm nhất định là các doanh nghiệp đang
  4. trong giai đoạn thiếu vốn một cách tương đối. Đối với các doanh nghiệp thừa vốn họ có nhu cầu nhường lại quyền sử dụng vốn để tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất. Còn đối với các doanh nghiệp thiếu vốn có nhu cầu đi vay để duy trì sản xuất cũng vì mục tiêu tạo ra lợi nhuận sau này. Do vậy quan hệ tín dụng xảy ra. Đặc điểm tín dụng trong thời kì này là mang tính chất mùa vụ. Giả sử nếu không có quan hệ tín dụng, mà nhà nước điều tiết nền kinh tế một cách bao cấp thì các doanh nghiệp thừa vốn không muốn bị nhà nước chiếm dụng vốn, do họ không thích bị nhà nước lấy đi một phần vốn vì vậy họ kê khai không đúng. Còn đối với các doanh nghiệp thiếu vốn được nhà nước cấp vốn gây ra tình trạng ỷ lại không thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hóa. Do vậy hình thức điều tiết này của nhà nước gây khó khăn cản trở sự phát triển. Điều đó có nghĩa là quan hệ tín dụng có ý nghĩa hơn vì khi các doanh nghiệp cho vay tạo thêm lợi nhuận họ không muốn đồng vốn chết. Còn các doanh nghiệp đi vay có ý thức trả nợ khi có tiền để đỡ chịu thêm khoản lãi. Trong quan hệ tín dụng có một nguyên tắc muôn thủa đó là nguyên tắc về sự tin tưởng. Do vậy Cá nhân, Doanh nghiệp… đang thừa vốn một cách tương đối khi cho vay với Doanh nghiệp, Cá nhân… đang thiếu vốn một cách tương đối không phải tất cả họ đều tin tưởng lẫn nhau từ đó xuất hiện một người thứ ba có đủ năng lực tài chính đảm bảo cho sự tin tưởng của tất cả mọi người đứng ra làm trung gian. Có quan điểm cho rằng ngân hàng hình thành khi mà những người đãi vàng ở miền Tây nước Mĩ gửi tất cả số tiền của mình kiếm được cho một người trong giữ hộ (hình thức gửi tiền hình thành). Khi họ có nhiều người gửi mà không phải tất cả đều rút tiền ra cùng một lúc trong khi trong xã hội có những thương nhân thiếu vốn. Do đó những người nghĩ ra cho vay một phần vốn của mình để lấy lãi. Sau này, ngân hàng hình thành từ những ông chủ này cùng nhà nước chính quyền. Quan hệ tín dụng có hai chức năng chính là:  Tập trung vốn trong nền kinh tế : Trong nền kinh tế những người thừa vốn là: Dân cư, doanh nghiệp thừa vốn một cách tạm thời, Nước ngoài, Chính phủ, …. Và những người thiếu vốn là các doanh nghiệp, chính phủ, dân cư… như vậy qua hình thức tín dụng vốn được tập trung vào tay người sản xuất.
  5.  Kiểm soát giám đốc bằng đồng tiền đối với hoạt động kinh tế quốc dân: thông qua hoạt động tiền tệ kiểm soát tính hợp lệ thông qua quan hệ vay và cho vay. Nguyên nhân cơ bản hình thành ngân hàng thương mại:  Thứ nhất: Ngân hàng thương mại được thành lập từ những ông chủ có nguồn vốn lớn. Họ là những người có danh tiếng và sự tin tưởng của người dân vào chính quyền.  Thứ hai: Do vị trí quan trọng của ngân hàng trên thị trường cùng với vai trò của nó trong việc “tạo tiền” trong nền kinh tế cũng như quản lí của chính quyền về tài chính đối đất nước. Chính vì các lí do nói trên, từ đó ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng hình thành như một tất yếu trong quá trình phát triển của loài người. 1.1.1 Khái niệm Từ sự hình thành và phát triển của ngân hàng và tín dụng ngân hàng ta có thể đưa ra một khái niệm chung về tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng: Là mối quan hệ tín dụng của ngân hàng với các chủ thể còn lại trong nền kinh tế trong đó ngân hàng vừa là người đi vay và vừa là người cho vay bằng tiền. Như vậy chủ thể trong quan hệ này một bên là ngân hàng hoặc là các tổ chức tương tự như ngân hàng (quĩ tín dụng nhân dân) nhưng đều là hoạt động dưới hình thức huy động vốn cho vay với nền kinh tế. Điều khác biệt của tín dụng ngân hàng đối với tín dụng thương mại đó là cho vay bằng tiền. Về mặt ưu điểm thì tín dụng ngân hàng khắc phục gần hết nhược điểm của tín dụng thương mại, như chiều vận động thì tiền ưu điểm hơn hẳn so với chiều vận động của hàng hóa. Hơn nữa về quy mô các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thì quy mô là rất lớn do hoạt động ngân hàng có thể đi vay và cho vay. Bất cứ đối tượng nào có nhu cầu vay mà nhu cầu đó là chính đáng, hiệu quả thì ngân hàng đều đáp ứng được nhu cầu đó. Khác với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng cho phép chính phủ có thể kiểm soát với các doanh nghiệp và từ đó kiểm soát nền kinh tế. Tuy nhiên tín dụng ngân hàng có nhược điểm so với tín dụng thương mại đó là rủi ro trong tín dụng ngân hàng. Các rủi ro này chia ra 2 loại rủi ro trong hoạt động đi vay & rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Rủi ro trong việc đi vay là việc khách
  6. hàng rút tiền ra đột ngột trước hạn ảnh hưởng cân đối vốn. Trong khi tín dụng thương mại khó có thể sử dụng tài sản sai mục đích. Nhưng trong tín dụng ngân hàng thì đối tượng vay vốn rất dễ sử dụng vốn sai mục đích. Hơn nữa mức độ tín dụng ngân hàng tăng trưởng quá mức gây ra tình trạng lạm phát. Có thể thấy được vai trò vô cùng quan trọng của ngân hàng đối với nền kinh tế. Nó được gắn liền với sự phát triển tất yếu của loài người. 1.1.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng Trong quá trình phát triển kinh tế tín dụng ngân hàng đã phát huy được tính ưu việt của mình thể hiện qua các vai trò sau:  Tín dụng giúp cho quá trình sản suất kinh doanh diễn ra một cách liên tục giúp ổn định nền kinh tế: Vốn của doanh nghiệp là nhất định tuy nhiên nhu cầu vốn trong từng giai đoạn, quá trình sản xuất khác nhau. Có thể họ cần nhiều hơn vốn họ có hay cần ít hơn số vốn mà họ có tùy từng thời điểm khác nhau. Từ đó nếu không có quan hệ tín dụng thì hoạt động sản xuất kinh doanh không diễn ra một cách liên tục. Vì vậy, hàng hóa trong các thời điểm khác nhau trên thị trường cũng khác nhau và có thể tạo ra cú sốc về cung cầu hàng hóa làm mất ổn định nền kinh tế. Chính vì vậy quan hệ tín dụng góp phần duy trì sự ổn định và phát triển nền kinh tế một cách liên tục. Khi đó các doanh nghiệp có thể là con nợ của doanh nghiệp này nhưng lại có thể là chủ nợ của doanh nghiệp khác.  Tín dụng góp phần vào thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển cho nền kinh tế : Theo mô hình tăng trưởng kinh tế của hadossma I = F×K và mô hình của keyns G = I×K. Do vậy muốn có tăng trưởng phải có tiết kiệm và phải biến tiết kiệm thành đầu tư mà đây lại là chức năng của tín dụng. Do vậy tín dụng tạo ra sự tăng trưởng một cách nhảy vọt. Như các nước đang phát triển vẫn có thể sản xuất hàng hóa ở trình độ công nghệ cao tạo động lực phát triển cho nền kinh tế.  Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng: Sử dụng tín dụng để xóa đói giảm nghèo. Cho vay có phương tiện tạo ra của cải vật chất nâng cao mức sống.  Tín dụng ngân hàng có vai trò là phân bổ các nguồn lực như một công cụ chính sách của nhà nước. Thông qua chính sách tín dụng, hạn mức tín dụng, qui chế
  7. ưu tiên vốn có thể di chuyển nơi được sử dụng theo đúng chính sách định hướng của nhà nước. Có thể coi tín dụng là công cụ vĩ mô của nhà nước. Ví như khuyến khích cho hoạt động đánh bắt xa bờ người ta đầu tư ưu tiên cho vay mua thuyền, hay khuyến khích cho công nghiệp hóa dầu thì ưu tiên đầu tư khu công nghiệp Dung Quất...  Tín dụng ngân hàng được sử dụng chống lạm phát ổn định tiền tệ như việc thay đổi lãi suất ảnh hưởng nhu cầu tín dụng có tác dụng quan trọng đối với tổng đầu tư, tác động đến tổng cầu, sản lượng…  Tín dụng ngân hàng là cửa ngõ thực hiện giao lưu về kinh tế. Thông qua tín dụng người ta kiểm soát lượng vốn đi ra đi vào của nền kinh tế. Như vậy vai trò của tín dụng ngân hàng là rất lớn đối với nền kinh tế. 1.1.3 Các loại hình tín dụng ngân hàng Khi nghiên cứu về các hình thức tín dụng ngân hàng theo quan điểm chung nhất người ta phân chia thành bốn hình thức tín dụng: Chiết khấu thương phiếu, Cho vay, Tín dụng thuê mua, Tín dụng hình thức bảo lãnh. 1.1.3.1 Chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá Đây là hình thức tín dụng ngân hàng chiết khấu các thương phiếu trong hoạt động tín dụng thương mại. Để tìm hiểu rõ về vấn đề này trước hết ta phải hiểu Tín dụng thương mại, Tín dụng nhà nước là gì? - Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng được thể hiện giữa những người sản xuất và kinh doanh với nhau. Đối tượng là hàng hóa, chủ thể cho vay là những người sản xuất và người kinh doanh hàng hóa. Do vậy tín dụng thương mại không có sự tham gia của ngân hàng hay chính phủ, hộ gia đình. Ở đây chỉ có sự quan hệ giữa những người sản xuất và kinh doanh hàng hóa với nhau trên giác độ hàng hóa. Chỉ là quan hệ bán chịu hàng hóa và bên mua hàng trả cho bên sản xuất một thương phiếu. Thương phiếu có hai loại. Loại thứ nhất do người mua phát hành ra người ta gọi kì phiếu. Loại thứ hai do người bán phát hành ra là hối phiếu. Ngày nay hình thức chủ yếu là hối phiếu tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay chưa có hối phiếu.
  8. Đặc điểm của thương phiếu  Thứ nhất là trên thương phiếu không có mục đích của khoản nợ. Chỉ cho người ta biết nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp mua đối với doanh nghiệp bán. Khắc phục tính pháp lí cho biết nghĩa vụ tài chính từ đó xác định cung bậc xử lí căn cứ vào số tiền ghi trong thương phiếu.  Thứ hai là tính phải trả một cách vô điều kiện khi đến hạn. Khi không thực hiện được nghĩa vụ tài chính doanh nghiệp bắt buộc phải tuyên bố phá sản. Luật thanh toán quốc tế: Tất cả các hối phiếu LC1931. Nếu không có tiền phải tuyên bố phá sản. Thực tế các ngân hàng phục vụ cho doanh nghiệp có trách nhiệm trả tiền, người ta thường thông báo trước từ 2 đến 3 ngày làm việc của ngân hàng để cho doanh nghiệp chuẩn bị trước tránh rủi ro.  Thứ ba là thương phiếu được lưu thông như tiền (ví dụ: thương phiếu này có thể trả nợ thay cho thương phiếu khác, …). Với các lí do trên, tín dụng thương mại góp phần giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông giảm áp lực lạm phát. Ở Việt Nam đang cấm áp dụng hình thức tín dụng thương mại bởi ảnh hưởng của một số nhược điểm: Ví dụ như qui mô doanh nghiệp tăng một cách không giới hạn. Mặt khác tín dụng thương mại gây ra tình trạng vượt quá sự kiểm soát của nhà nước. - Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với dân cư và với các chủ thể khác. Trong đó nhà nước là người đi vay tiền nhằm mục đích bù đắp cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Việc nhà nước vay tiền của dân cư chi phí cơ hội sẽ thấp hơn việc nhà nước vay tiền của các doanh nghiệp. Việc nhà nước vay tiền của các doanh nghiệp sẽ làm giảm tăng trưởng của nền kinh tế. Do vậy đối tượng huy động vốn chủ yếu của nhà nước nên là dân cư. Về công cụ chính phủ sử dụng trái phiếu chính phủ:  Loại thứ nhất là trái phiếu chính phủ do chính quyền nhà nước trung ương phát hành ra thường có thời hạn dài.
  9.  Loại thứ hai là trái phiếu địa phương đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương. Tuy nhiên, để được phát hành trái phiếu địa phương phải được sự cho phép của Chính phủ.  Loại thứ ba là trái phiếu công trình huy động nguồn lực tài chính đáp ứng cho nhu cầu công trình. Ở Việt Nam có trái phiếu công trình đường dây 5000KW… . Sự khác nhau của trái phiếu công trình với trái phiếu khác là trái phiếu công trình có mục đích cụ thể. Đặc điểm giống nhau là thời hạn dài.  Loại thứ tư là tín phiếu kho bạc. Đó là các công cụ huy động vốn trong nước.  Loại thứ năm là trái phiếu quốc tế. Đó là trái phiếu của nước này nhưng phát hành ở nước khác bằng đồng tiền của nước sở tại.  Loại thứ sáu là trái phiếu Châu Âu. Đó là trái phiếu phát hành nước khác nhưng bằng đồng tiền của nước phát hành. Xét về ưu điểm thì tín dụng nhà nước có ưu thế tuyệt đối. Với nhà nước thì tín dụng nhà nước đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của nhà nước, không gây ra lạm phát và không bao giờ phải trả nợ bởi vì đây là loại nợ luân chuyển. Vậy chiết khấu thương phiếu là việc doanh nghiệp bên bán nhận thương phiếu của doanh nghiệp bên mua. Để đáp ứng nhu cầu thanh toán, doanh nghiệp bên bán đem thương phiếu (kì phiếu) đến ngân hàng chiết khấu. Ngân hàng sẽ thu khoản phí gọi là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng giữ thương phiếu chờ đến hạn, ngân hàng sẽ chuyển thương phiếu đến doanh nghiệp bên mua đòi tiền (nếu doanh nghiệp bên mua không trả tiền, ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên thương phiếu). Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu. Ví dụ: Nếu lãi suất chiết khấu là 6%/năm, doanh nghiệp bên bán có thương phiếu là 100tr, thời gian đáo hạn còn lại của thương phiếu là 9 tháng thì: Số tiền ngân hàng đưa ra là: 100 × (1 – 3×0,06/4) = 95,5 tr Sau 9 tháng ngân hàng nhận khoản tiền là 100 tr. Như vậy lãi trong 9 tháng là 4,5tr Lãi suất thực là : 4,5/95,5 × 4/3 = 6,28 %/năm
  10. Ngoài hình thức tín dụng chiết khấu thương phiếu, ngân hàng còn chiết khấu giấy tờ có giá, như một số loại trái phiếu chính phủ mà chính phủ cho phép ngân hàng trung ương tái chiết khấu cho các ngân hàng thương mại. Hình thức này thường nảy sinh từ hình thức tín dụng nhà nước. Tuy vậy, do tín dụng thương mại không áp dụng ở việt nam. Vì vậy hình thức chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá rất ít được áp dụng trong các ngân hàng ở Việt Nam. Hình thức tín dụng ngân hàng thứ 2 là hình thức cho vay bằng tiền. Ta tiếp tục đi tìm hiểu 1.1.3.2 Hình thức cho vay Cho vay là hình thức tín dụng phổ biến nhất tại các ngân hàng hiện nay. Dưới góc độ chung, người ta phân thành sáu hình thức cho vay khác nhau bao gồm: Cho vay thấu chi, Cho vay trực tiếp từng lần, Cho vay theo hạn mức, Cho vay luân chuyển, Cho vay trả góp, Cho vay gián tiếp. Sau đây là nội dung cụ thể của từng hình thức cho vay. 1.1.3.2.1 Cho vay thấu chi Cho vay thấu chi là nghiệp vụ cho vay, qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình, đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là giới hạn thấu chi. Các hình thức thực hiện thấu chi bao gồm: kí séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ … . Hình thức thấu chi dựa trên cơ sở các khoản thu chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và qui mô. Do vậy hình thức cho vay thấu chi thường áp dụng cho khách hàng trong quá trình thanh toán, đáp ứng nhu cầu chủ động nhanh chóng và kịp thời. Cho vay thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, thủ tục đơn giản linh hoạt và áp dụng với khách hàng truyền thống có độ tin cậy cao, chu kì kinh doanh ngắn và thường không có tài sản đảm bảo. Hình thức cho vay này thường áp dụng cho các doanh nghiệp thương mại, hoặc đối với các doanh nghiệp sản suất hàng hóa khi mua nguyên vật liệu trong ngắn hạn. Số lãi thấu chi phải trả = thời gian thấu chi × lãi suất thấu chi × số tiền thấu chi Trong tương lai thì hình thức cho vay này sẽ ngày càng phổ biến khi khách hàng doanh nghiệp với nhu cầu thanh toán tăng lên. Tiếp theo em xin nghiên cứu tiếp hình thức cho vay trực tiếp từng lần.
  11. 1.1.3.2.2 Cho vay trực tiếp từng lần Đây là hình thức cho vay phổ biến tại các ngân hàng hiện nay. Đây thường là các khách hàng không có quan hệ thường xuyên đối với ngân hàng. Hình thức này thường cho vay khi khách hàng đầu tư vào các tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh hay một khâu nào đó trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích sử dụng vốn thường mang tính chất dài hạn và thường bắt buộc có tài sản đảm bảo. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ, khế ước nhận nợ khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu vốn của khách hàng tại các thời điểm khác nhau dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh. Cho vay từng lần dựa trên tài sản đảm bảo: Số lượng cho vay = Giá trị tài sản đảm bảo × tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo. 1.1.3.2.3 Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được cấp theo nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kì (hình thức này thường có tài sản đảm bảo). Vấn đề đặt ra mỗi khách hàng đi vay ai cũng muốn có hạn mức cao. Xác định hạn mức dựa vào tài sản đảm bảo của khách hàng và tỉ lệ cho vay đối với tài sản đảm bảo đó. Trong trường hợp tài sản đảm bảo giá trị lớn mà nhu cầu vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh không cần thiết lượng vốn đó, ta cần xây dựng một hạn mức tín dụng phù hợp với khách hàng nhằm đảm bảo mục tiêu trả nợ với khách hàng, tránh lãng phí khi khách hàng có hạn mức tín dụng cao và vay nhiều hơn vốn họ cần từ đó có thể tạo ra rủi ro. Hơn nữa không có tình trạng nợ xấu đối với các món vay hay phải xử lí tài sản đảm bảo của khách hàng bởi ngân hàng luôn muốn khách hàng của mình làm ăn có lãi. Khi xây dựng hạn mức tín dụng cho khách hàng có ba phương pháp xác định một cách tương đối hạn mức tín dụng đối với một doanh nghiệp. * Xác định hạn mức dựa vào phương pháp xác định dự trữ hợp lí cao nhất của kì (thường áp dụng với các doanh nghiệp dự trữ hàng hóa nguyên vật liệu,hoặc với các doanh nghiệp thương mại): Bước 1: Xác định dự trữ hợp lí cao nhất của kì trước:
  12. Dự trữ hợp lí cao nhất của kì trước = Dự trữ thực tế cao nhất – hàng kém phẩm chất không thuộc đối tượng tài trợ của NH. Bước 2: Xác định dự trữ hợp lí cao nhất của kì này: Dự trữ hợp lí cao nhất của kì này = Dự trữ cao nhất của kì trước + tăng (giảm) do giá hàng hóa tăng + Dự trữ do kế hoạch tăng (giảm) sản lượng tiêu thụ. Bước 3: Hạn mức tín dụng cao nhất trong kì = Dự trữ hợp lí cao nhất của kì này – vốn chủ sở hữu và các nguồn tham gia dự trữ khác. * Xác định dựa vào nhu cầu sử dụng hàng hóa bình quân (thường áp dụng với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa): Bước 1: Xác định chênh lệch giữa dự trữ bình quân và dự trữ cao nhất của kì trước. Chênh lệch dự trữ kì trước = Dự trữ cao nhất của kì trước – Dự trữ bình quân Bước 2: Xác định nhu cầu dự trữ bình quân của kì này. Nhu cầu dự trữ bình quân của kì này = Doanh số dự đoán theo giá vốn của kì này/Vòng quay hàng hóa dự trữ kì này Vòng quay dự trữ hàng hóa kì này = Doanh số bán ra của kì trước/Dự trữ hàng hóa bình quân của kì trước Bước 3: Nhu cầu tín dụng cao nhất của kì này Nhu cầu tín dụng cao nhất của kì này = Nhu cầu dự trữ hàng hóa bình quân của kì này + chênh lệch dự trữ (tính theo kì trước) – Hàng hóa kém phẩm chất không thuộc đối tượng tài trợ của ngân hàng - Vốn chủ sở hữu tham gia và các nguồn tài trợ khác * Hạn mức tín dụng nếu nhu cầu vốn là dài hạn Hạn mức tín dụng = Nhu cầu đầu tư × tỷ lệ lạm phát – các nguồn tài trợ khác Đây là hình thức cho vay thuận tiện đối với khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ miễn là thời gian hạn mức tín dụng chưa hết. Khi khách hàng có thu nhập thì ngân hàng sẽ thu tạo sự chủ động cho khách hàng trong việc quản lí ngân quỹ doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên do ngân hàng không ấn định được kì hạn trả nợ nên việc quản lí với từng loại vốn vay khó có thể kiểm soát được mà chỉ có thể phát hiện khi khách hàng nộp báo cáo tài chính cho ngân hàng hay dư nợ lâu không giảm. Hình thức cho vay này sẽ phát triển mạnh trong tương lai.
  13. Một hình thức cho vay khác là hình thức cho vay luân chuyển cũng đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp. 1.1.3.2.4.1 Cho vay luân chuyển Cho vay luân chuyển là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hóa. Tức là ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay khi doanh nghiệp mua hàng hóa, nguyên vật liệu và thu nợ khi khách hàng bán hàng hóa. Trong hình thức cho vay này ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức cho vay, hạn mức tín dụng, nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ trong tương lai. Hạn mức tín dụng ở đây không phải là hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng quyết định có quan hệ nữa hay không. Hình thức cho vay này khi khách hàng gửi chứng từ, hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay tới ngân hàng. Với hình thức cho vay này thường áp dụng đói với các doanh ghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn, có quan hệ thường xuyên đối với ngân hàng. Cho vay dưới hình thức luân chuyển thuận tiện cho khách hàng thủ tục ngắn gọn chỉ cần làm một lần (hình thức cho vay cần có tài sản đảm bảo). Tuy nhiên nếu doanh nghiệp khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hóa sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Thực tế hình thức cho vay này ít được áp dụng trong thực tế. Trong thời gian tới khả năng cho vay dưới hình thức này sẽ ngày càng ít. Một hình thức cho vay khác cũng khá phổ biến là cho vay trả góp. 1.1.3.2.5 Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng trong việc cho vay trung và dài hạn. Phù hợp với hình thức cho vay tiêu dùng tài trợ cho các loại hàng hóa lâu bền thường là bất động sản nhà cửa. Thường việc cho vay thì ngân hàng sẽ trả tiền cho người bán và khách hàng thế chấp cho ngân hàng bằng tài sản trả góp. Thời hạn trả góp phụ thuộc vào khả năng trả nợ của người mua, thường thời hạn cho vay trả góp dài. Do rủi ro khi cho vay dưới hình thức này là cao nên lãi suất thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất của ngân hàng. Khách hàng của hình thức cho vay này chủ yếu là khách hàng cá nhân. 1.1.3.2.6 Cho vay gián tiếp
  14. Phần lớn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hình thức cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian như: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, … . Các tổ chức liên kết các thành viên với nhau mục đích chủ yếu là hỗ trợ lẫn nhau trong việc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, … . Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu sang tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay, … . Tổ chức trung gian đứng ra bảo đảm cho các thành viên vay. Điều thuận lợi khi khách hàng vay có thể không có đủ tài sản thế chấp và ngân hàng cho người bán lẻ vay phục vụ quá trình đầu vào của sản xuất. Hình thức cho vay như thế này đảm bảo người nhận tiền vay khó sử dụng vốn sai mục đích tránh những rủi ro không đáng có cho ngân hàng. Tuy nhiên hình thức này đang gặp phải những nhược điểm như sau: Các trung gian lợi dụng uy tín của mình để tăng lãi suất cho vay lại đối với các thành viên, hay giữ số tiền của các thành viên phục vụ cho mục đích của riêng mình… . Tuy vậy dưới hình thức cho vay này ngân hàng gắn trách nhiệm quản lí việc sử dụng vốn của các thành viên cho tổ chức trung gian, tiết kiệm chi phí quản lý cho ngân hàng. Hình thức thường áp dụng cho khu vực thị trường phân tán các món vay nhỏ, các món cho vay cá thể. Nguồn vốn cho vay ít, chủ yếu mục tiêu phát triển kinh tế nông thôn. Tóm lại hình thức cho vay là hình thức tín dụng ngân hàng mà các ngân hàng hiện nay hoạt động thường xuyên và phổ biến nhất. Ngoài các hình thức cho vay trên, hình thức tiếp theo của tín dụng ngân hàng mang nhiều ưu điểm đảm bảo cho người vay sử dụng vốn đúng mục đích là hình thức tín dụng thuê mua. 1.1.3.3 Hình thức tín dụng thuê mua Hình thức tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê phục vụ cho kế hoạch sản xuất kinh doanh. Hình thức này được áp dụng khi khách hàng không có đủ điều kiện vay, ngân hàng muốn mở rộng tín dụng. Ngân hàng có thể thu hồi tải sản để bán (do quyền sở hữu đối với tài sàn cho thuê) khi khách hàng không trả được nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Có ba hình thức chủ yếu của hoạt động thuê mua tài sản  Ngân hàng mua để cho thuê.
  15.  Ngân hàng mua tài sản của người đi thuê cho thuê lại: Trong trường hợp doanh nghiệp có tài sản cố định mà không có tiền mua nguyên vật liệu sản xuất thì ngân hàng sẽ đứng ra mua tài sản đó của doanh nghiệp để cho thuê lại. Khi đó doanh nghiệp sẽ có tiền mua nguyên vật liệu để sản xuất kinh doanh.  Ngân hàng thuê tài sản để cho thuê hoặc mua trả góp tài sản để cho thuê: Tùy theo điều kiện cụ thể ngân hàng với nhà cung cấp thỏa thuận mà ngân hàng mua trả góp tài sản hay thuê của nhà cung cấp. Hình thức nay thực chất ngân hàng dựa vào uy tín của mình để cho thuê lại. Tuy trong khi cho thuê tài sàn ngân hàng bắt buộc các doanh nghiệp mua bảo hiểm cho tài sản của mình. Tuy nhiên ngân hàng có thể gặp một số rủi ro như khi khách hàng kinh doanh không hiệu quả, tài sản thuê mang tính đặc chủng khó bán, khó thu hồi, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao, hay chi tiết của tài sản đã bị thay đổi không đồng bộ… . Ưu điểm của hình thức cho vay này là khách hàng khó có thể sử dụng tài sản sai mục đích. Hình thức tín dụng này chứa nhiều tiềm ẩn rủi ro. Hình thức tín dụng tiếp theo là hình thức tín dụng bảo lãnh. 1.1.3.4 Hình thức tín dụng bảo lãnh Bảo lãnh ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được đúng nghĩa vụ như cam kết với bên thứ 3. Hiện nay trên thị trường có 5 hình thức bảo lãnh là:  Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: Là hình thức bảo lãnh của ngân hàng đối với chủ đầu tư về việc thanh toán tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm những qui định của hợp đồng. Đây là hình thức chủ đầu tư yêu cầu bên dự thầu kí quỹ tránh tình trạng bỏ thầu. Bên dự thầu không muốn đọng vốn nên yêu cầu ngân hàng bảo lãnh.Ngân hàng sẽ thu phí bảo lãnh và tất nhiên doanh nghiệp được bảo lãnh phải là doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên và uy tín đối với ngân hàng hay có tài sản thế chấp.  Bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
  16. Là hình thức bảo lãnh của ngân hàng về việc thanh toán chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng vi phạm những qui định của hợp đồng, gây tổn thất cho bên thứ ba.  Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: Nhiều nhà cung cấp yêu cầu bên mua hàng hóa phải đặt trước một khoản tiền đặt cọc để bên sản xuất đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh hay đảm bảo khi nhà cung cấp sản xuất hàng hóa thì bên mua sẽ mua. Tuy nhiên cũng phải đề phòng người cung cấp không trả tiền cọc bên mua yêu cầu bên cung cấp phải được bảo lãnh của ngân hàng về việc trả tiền ứng trước do vậy bão lãnh tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không trả.  Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay: Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay yêu cầu đảm bảo bằng tài sản khi uy tín của người vay chưa cao nảy sinh nhu cầu bảo lãnh vay vốn. Bảo lãnh vay vốn là việc đảm bảo hoàn trả vốn vay về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu người vay không trả được nợ.  Bảo lãnh thanh toán: Là hình thức cam kết của ngân hàng sẽ thanh toán tiền đúng hợp đồng cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đầy đủ. Thường áp dụng bảo lãnh cho du học. 1.2 Chất lượng tín dụng Khi tìm hiểu về một ngân hàng, dưới góc độ quan sát tìm hiểu khác nhau, mà người ta đặt những câu hỏi khác nhau đại loại như: Ngân hàng này có những hình thức cho vay nào? Hiện nay có mối quan hệ tín dụng với đơn vị kinh tế nào? Nợ quá hạn là bao nhiêu? Có nợ khó đòi hay không? Dư nợ tín dụng là bao nhiêu?...Tất cả các câu hỏi trên đều liên quan đến một vấn đề quan trọng mang tính chất sống còn với một ngân hàng thương mại đó là chất lượng tín dụng. 1.2.1 Khái niệm Cho đến nay, định nghĩa về chất lượng tín dụng còn nhiều tranh cãi. Bởi đây là khái niệm hết sức trừu tượng và những chuẩn mực của nó luôn luôn thay đổi ở nơi này hay
  17. nơi khác, tại thời điểm này hay thời điểm khác. Nhưng có thể hiểu: “Chất lượng tín dụng là chất lượng của các khoản cho vay của Ngân Hàng”. Để tìm hiểu về chất lượng tín dụng, chúng ta cần hiểu một khoản tín dụng được coi là có chất lượng khi thỏa mãn một số yêu cầu cơ bản sau:  Ngân hàng có khả năng thu hồi khoản tiền cho vay hay không.  Ngân hàng không những thu hồi được số tiền gốc cho vay mà còn thu hồi được cả số tiền lãi kèm theo đúng hạn đã kí kết hợp đồng tín dụng.  Khả năng tín dụng ấy không chỉ mang lại thu nhập cho ngân hàng, mà còn tạo điếu kiện thuận lợi cho người đi vay thực hiện được kế hoạch đặt ra. Tiếp tục phát triển duy trì mối quan hệ với ngân hàng – khách hàng lâu dài. Ngoài ra còn có những yêu cầu khác ở mức cao hơn, ví dụ như khoản tín dụng đó tạo điều kiện phát triển một ngành, một lĩnh vực mà nhà nước đang khuyến khích phát triển. Là ngành trọng điểm của nền kinh tế, đồng thời có khả năng tránh được những rủi ro khác có thể xảy ra… . Tuy nhiên do những hạn chế nhất định , không thể đòi hỏi quá cao đối với chất lượng tín dụng trong điều kiện thị trường. Nước ta còn nước kém phát triển nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhiều rủi ro bất khả kháng có thể xảy ra. Tóm lại việc nâng cao chất lượng tín dụng là các hoạt động nhằm đạt được những yêu cầu cơ bản trên một số yêu cầu cụ thể khác. Tất cả đều nhằm vào mục tiêu mà bất cứ ngân hàng thương mại nào cũng phải đặt ra, đó là đảm bảo khả năng sinh lời, vừa đảm bảo tính an toàn của đồng vốn đầu tư cũng như khả năng hoàn thành kế hoạch của khách hàng. Nói đến chất lượng tín dụng không thể không nói đến quá trình thẩm định, đánh giá dự án. Bởi vậy trong quá trình nghiên cứu em tìm hiểu một cách tương đối chung nhất về các chỉ tiêu chất lượng tín dụng. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng  Đánh giá về tài sản: Đối với tài sản Ngân hàng bao gồm có ngân quỹ (gồm tiền gửi tại Ngân hàng khác, tiền mặt trong két và các khoản phải thu), các trái phiếu chính phủ và các giấy tờ có giá khác.  Đánh giá các khoản nợ:
  18. - Về thời gian: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn. Nhìn chung các khoản huy động không kỳ hạn tài trợ cho các hình thức cho vay ngắn hạn. Các khoản huy động có kỳ hạn thì tài trợ cho các khoản trung và dài hạn. - Đánh giá về tỷ lệ nợ quá hạn. - Đánh giá về các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác.  Đánh giá về khả năng thanh khoản: Khả năng thanh toán của Ngân hàng có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và sống còn của Ngân hàng. Tỷ lệ thanh toán càng cao thì ảnh hưởng đến mục tiêu lợi nhuận của Ngân hàng. Tỷ lệ thanh toán thấp thì ảnh hưởng đến khả năng chi trả của Ngân hàng. Tỷ lệ thanh toán nhanh = Ngân quỹ của người vay / Các khoản nợ hiện hành Tỷ lệ thanh toán trung bình = Tài sản lưu động / Nợ hiện hành  Đánh giá luồng tiền: Ngân hàng tạo ra lợi nhuận lớn. Nhưng khả năng thanh toán của Ngân Hàng phụ thuộc vào ngân quỹ. Kỳ hạn thu nợ có thể lệch pha với việc chi trả. Do vậy, các Ngân hàng cần phải chú trọng đến khả năng chi trả.  Đánh giá về khả năng tài trợ bằng vốn chủ: Thông thường các Ngân Hàng phải có vốn chủ đảm bảo một phần cho tài sản lưu động. Tỷ lệ tài trợ bằng vốn chủ = Vốn chủ sỡ hữu / Tổng tài sản. Tỷ lệ này cho thấy khả năng tài chính của Ngân Hàng. Thường đối với Ngân hàng tỷ lệ này ≈ 25 %.  Đánh giá về điều kiện kinh tế: Khi đánh giá về các chỉ tiêu tín dụng của Ngân Hàng cần bám sát thực tế của nền kinh tế, cũng như chính sách tiền tệ của chính phủ.  Đánh giá về hệ số an toàn vốn: Hệ số an toàn vốn = Vốn chủ / Tổng tài sản có thể chuyển đổi Hiện nay tại các Ngân hàng trên thế giới hệ số này ≈ 8% (Hệ số Cook) đối với Ngân Hàng thương mại. Hệ số này cho phép đảm bảo khả năng thanh toán của các Ngân hàng. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng  Năng lực vay nợ của người đi vay
  19. Đây là một ràng buộc mang tính chất pháp lí. Bởi vì hợp đồng tín dụng là một loại hợp đồng dân sự, đòi hỏi người tham gia hợp đồng phải có tư cách pháp lí, cụ thể người đi vay phải là người trưởng thành có đủ năng lực hành vi dân sự tham ra vào các quan hệ tín dụng, hơn nữa những trường hợp đi vay không phải cho một cá nhân, mà cho đơn vị có tư cách pháp nhân thì những ràng buộc phải chặt chẽ hơn nữa. Đó là người đứng tên xin vay phải là người đại diện hợp pháp cho đơn vị có thể là thủ trưởng cơ quan hoặc là người được thủ trưởng cơ quan ủy quyền một cách hợp pháp. Nếu doanh nghiệp do nhiều người góp phải có sự thống nhất của hội đồng thành viên vốn góp hay hội đồng quản trị. Hơn nữa ngân hàng còn phải xác định khả năng được ưu tiên trả nợ trước hay sau của các chủ nợ khác trong trường hợp tranh chấp xảy ra. Khi những điều kiện pháp lí được thỏa mãn thì ngân hàng có thể yên tâm khi biết được đối tượng quan hệ với mình là ai? Có vị trí như thế nào trong doanh nghiệp và ai sẽ là người chịu trách nhiệm về mặt pháp lí khi những rủi ro xảy ra.  Uy tín của người vay, của doanh nghiệp đi vay Uy tín của người vay là một vấn đề hết sức quan trọng thể hiện ở tinh thần sẵn sàng trả nợ đúng hạn của người vay, bởi thực tế có những người đi vay tại thời điểm đi vay có sẵn ý đồ không thanh toán nợ hoặc thanh toán không đúng kì hạn, cũng có người làm ăn kinh doanh có lãi nhưng vẫn chây ỳ, cố ý không trả nợ, những khách hàng như thế này ít nhiều gây khó khăn cho ngân hàng. Nói đến uy tín của người đi vay hay doanh nghiệp đi vay là đề cập đến tính thật thà của người đi vay (góc độ cá nhân đi vay) và uy tín hoạt động kinh doanh trên thị trường của doanh nghiệp. Ví dụ như qua tiếp xúc trao đổi trực tiếp, qua xác minh về tính đúng đắn của các báo cáo, số liệu thông kê của người đi vay, cán bộ tín dụng biết được phần nào sự thành thật liêm khiết của người đi vay. Đối với các đơn vị kinh tế thì uy tín được xác định thông qua các quan hệ và khả năng cạnh tranh với các đơn vị khác trên thị trường hay uy tín được tạo lập với các khách hàng và nhà cung cấp thông qua lịch sử quan hệ với các ngân hàng trên thị trường.  Khả năng phát triển của doanh nghiệp trên thị trường Đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng bởi vì những lí do sau đây:
  20. Thứ nhất theo kế hoạch kinh doanh hay dự án, kinh tế thị nguồn vốn doanh nghiệp dùng để trả nợ ngân hàng chủ yếu lấy từ lợi nhuận. do đó kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp khả năng tạo ra lợi nhuận thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán gốc và lãi cho ngân hàng. Thứ hai là ngân hàng luôn luôn mong muốn thu được nợ gốc và lãi từ lợi nhuận của doanh nghiệp chứ không phải từ phần vốn tự có của doanh nghiệp. thực chất là ngân hàng muốn khách hàng của mình làm ăn phát đạt để tiếp tục mối quan hệ duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Đánh giá khả năng tạo ra lợi tức của doanh nghiệp đi vay, trong thực tế việc xem xét kế hoạch kinh doanh hay đánh giá dự án kinh tế của doanh nghiệp có tính khả thi hay không? Hơn nữa cán bộ tín dụng phải dùng những thông tin thu thập được, những hiểu biết sẵn có của mình để đánh giá về thị trường, tiềm năng phát triển khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trưởng trong tương lai. Những yếu tố ngân hàng quan tâm đó là: Đặc điểm của doanh nghiệp, chất lượng hàng hóa, khả năng cạnh tranh, trình độ kĩ thuật của lực lượng lao động . khả năng khai thác giá thành, nguyên vật liệu đầu vào, quản lí doanh nghiệp, định hướng phát triển của doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp trong tương lai… . Mặc dù những hiểu biết trên thực tế thị trường về quản lí doanh nghiệp là vô cùng cần thiết giúp cho cán bộ tín dụng có thể đánh giá tương đối chính xác về khách hàng. Tuy nhiên những điều này là rất khó, thông thường căn cứ chủ yếu để quyết định cho vay thông qua phân tích kế hoạch kinh doanh hay dự án kinh tế của doanh nghiệp. Và thông qua một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Chương II Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo & PTNT Huyện Đông Triều Tỉnh Quảng Ninh 2.1 Giới thiệu về NHNo& PTNT Huyện Đông Triều
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2