z
LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng tín dụng trung &
dài hạn tại SGD NHNo&PTNT
Lời nói đầu
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua gần 15
năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên, bước đầu khẳng định được
uy tín, chinh phục được mọi khách hàng, chiếm lĩnh thị trường lớn, ổn định góp phần
nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với chế mở cửa, các
thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo hiến pháp và pháp luật. Nhiều
loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự cạnh tranh
gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước ng như nước ngoài đòi hỏi các doanh
nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Theo tính toán dbáo nhu cầu vốn cho đầu phát triển trong tương lai
gần nhu cầu về vốn sẽ rất lớn để tạo ra nănglực sản xuất mới nâng cao khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước thể trực tiếp bố trí từ 35% đến 39%, còn lại sẽ huy động từ nhiều
nguồn vốn vay dưới nhiều hình thức... Như vậy nhu cầu vốn tín dụng trung dài hạn
của các thành phần kinh tế nhằm xây dựng mới, đổi mới công nghệ, cải tạo và m
rộng sản xuất trong thời gian tới rất lớn...Các tổ chức tín dụng hình thành mạng
lưới trên hầu khắp các địa bàn cả nước. Ngoài hệ thống ngân hàng thương mại quốc
doanh còn các ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh... Nghiệp vụ
ngân hàng cũng được đổi mới từng bước hiện đại hoá, tiếp cận với công nghệ
thông lệ quốc tế. Với hoạt động tín dụng và các dịch vụ đa dạng, ngân hàng đã phần
lớn thoả mãn nhu cầu của khách hàng, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước. Ngày nay ngân hàng đã tr thành một mắt xích quan trọng cấu
thành nên sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với các ngành kinh tế khác,
ngân hàng nhiệm vtham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kiềm chế đẩy lùi lạm
phát, tạo môi trường đầu thuận lợi, tạo ng ăn việc m cho người lao động, phát
triển thị trường ngoại hối.
Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời mới chuyển đổi sang
chế thị trường, môi trường kinh tế chưa ổn định, môi trường pháp đang dần
được thực hiện nên hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang gặp
nhiều khó khăn, nhất chất lượng tín dụng trung dài hạn chưa cao biểu hiện
nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn. Như vậy việc ng cao chất lượng n dụng trung dài
hạn là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của ngành ngân hàng. Vấn đề càng trở nên cần
thiết bức xúc với hệ thống NHNNo th trường tín dụng chủ yếu khu vực
nông thôn.
Xuất phát từ quan điểm đó, qua thời gian khảo sát khảo sát thực tế tại SGD
NHNo kết hợp với những thuyết được trang bị tại nhà trường, em đã lựa chọn đề
tài : ng cao chất lượng n dụng trung & dài hạn tại SGD NHNo&PTNT
mục đích nghiên cứu luận giải những vấn đề luận, thực tiễn để khẳng định :
Việc nâng cao chất lượng n dụng trung & dài hạn một nhu cầu cấp thiết để đất
nước từng bước hội nhập vào nền kinh tế.
Bài viết chia làm 3 chương:
Chương 1 : Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng
trung & dài hạn tại NHTM
Chương 2 : Thực trạng chất lượng tín dụng trung & dài
hạn tại SDG NHNo&PTNT VN
Chương 3 : Giảp pháp năng cao chất lượng tín dụng trung
& dài hạn tại SDGNHNo&PTNTVN
chương I
Phương pháp đánh giá
chất lượng tín dụng trung & dài hạn tại NHTM
I/ Tín dụng và các hình thức tín dụng nn hàng
1.Tín dụng Sự cn thiết can dng ngân hàng trong nền kinh tế.
-Tín dụng được coi mối quan hiện vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và nời đi vay trong điều kiện hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.
Hay nói một cách khác : Tín dụng một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ
kinh tế mà trong đó mỗi nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối
lượng gtrị hoặc hiện vật cho một nhân hay một tổ chức khác với những ràng
buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá
bán trao ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ
mua bán chịu chỉ diến ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. vậy
không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá
.Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, hội thường
xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời các tổ chức nhân này nhu cầu
thiếu vốn các tổ chức nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do sự
chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu các
tổ chức nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Vậy
để khắc phục tình trạng này thì chỉ ngân hàng một tổ chức chuyên kinh doanh
tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì ?
Tín dụng ngân hàng quan hệ tín dụng bằng tiền tệ một bên ngân
hàng một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên tất cả các
tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là nời đi vay, vừa
là người cho vay”.
Với cách người đi vay : ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức
cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội
Với cách người cho vay : Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tchức, cá nhân khi nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng
phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, luôn đáp
ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Có thể thấy rõ hơn khái niệm về tín dụng ngân hàng qua ví dụ sau :
Tiến tới Seagame 22 lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam, số lượng khách du lịch
cũng như cổ động viên rất lớn. Nếu biết tận dụng hội này thì việc xây dựng nên
khách sạn không những đem lại lợi nhuận cho chính bản thân còn đem lại sự
phát triển cho nền kinh tế. Nhưng đxây dựng được khách sạn đủ khả năng cạnh
tranh thì cần lượng vốn rất lớn nguồn vốn của chính bản thân thì không thể
đáp ứng. Trong khi đó một số người khác có món tiết kiệm do tích luỹ được trong
nhiều m, tạm gọi lượng tiền nhàn rỗi. Nếu 2 bên gặp được nhau và bên đối tác
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn thì kế hoạch strở thành hiện thực. Tuy nhiên, khả
năng gặp mặt giữa 2 bên xảy ra không? Trong nền kinh tế thị trường, hàng ngày
hàng giờ không biết xảy ra bao nhiêu mối quan hệ như vậy. đã hình thành nên :
một bên những người tiền tích luỹ, khả năng cung cấp phía bên kia
những người có nhu cầu vay cho đầu phát triển. Như vậy nảy sinh vấn đề làm
như thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn
được nhu cầu vốn đa dạng to lớn trong khi các nguồn tiết kiệm n đang nằm
phân tán trong hội. Không phải bất ai cũng khả năng hoặc đầu vay vốn
trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị trường tài chính đòi hỏi chi
phí về tiền bạc thời gian rất lớn. Do đó các ngân hàng thương mại với chức năng
bản trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng
cung ứng và nhu cầu vvốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn
đề nẩy sinh trên. Đồng thời với cách một trung gian, tín dụng ngân hàng đóng
vai trò người môi giới giữa một bên người tiền cho vay và một bên người
nhu cầu vay vốn. Thông qua chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng
động áp dụng các phương pháp kĩ thuật theo hướng hiện đại tiên tiến, ngân hàng
khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ trong xã hội để
chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh.