BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

VÕ NHƢ TÙNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA KHỦNG HOẢNG

TÀI CHÍNH TOÀN CẦU GIAI ĐOẠN – Đ N

CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

CÁC CÔNG TY NIÊM Y T TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kế toán

Mã số: 60.34.03.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Đà Nẵng - Năm 15

Công trình đƣợc hoàn thành tại

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đoàn Thị Ngọc Trai

Phản biện 1: TS. Đoàn Ngọc Phi Anh

Phản biện 2: TS. Hồ Văn Nhàn

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp

Thạc sĩ Quản trị kinh doanh họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 19

tháng 12 năm 2015

Có thể tìm hiểu luận văn tại:

- Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng

- Thư viện trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kiểm toán là một chủ đề nghiên cứu rộng và được nhiều đối

tượng quan tâm vì tính chất vô cùng quan trọng của vấn đề này đối

với nhiều đối tượng, bao gồm: nhà đầu tư, các tổ chức tài chính, ngân

hàng, các cơ quan chính phủ… Kiểm toán quan trọng vì nó là cách

thức hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề đại diện giữa quyền sở hữu

và quản lý doanh nghiệp, phát sinh từ sự bất đối xứng thông tin và

xung đột lợi ích giữa hai đối tượng trên. Trong các nội dung rộng lớn

của kiểm toán thì chất lượng kiểm toán là một vấn đề phức tạp, khó

khăn để xác định và đo lường một cách chính xác và hiệu quả.

Nghiên cứu chất lượng kiểm toán có ý nghĩa quan trọng không chỉ

đánh giá xem các ý kiến kiểm toán chính xác có được ban hành hay

không mà còn xem xét xem liệu hoạt động kiểm toán được tiến hành

có nhằm hướng tới mục đích giải quyết các vấn đề đại điện giữa

người sở hữu và người quản lý doanh nghiệp hay không.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2007 với

cuộc khủng hoảng nhà đất tại Mỹ và lan rộng ra toàn cầu, tác động

nghiêm trọng tới mọi tổ chức, doanh nghiệp, định chế tài chính, kinh

tế khác nhau, gây nên cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khủng

hoảng tài chính toàn cầu cùng với sự đổ vỡ của các công ty dẫn đến

khủng hoảng đã làm gia tăng mức độ chỉ trích chất lượng kiểm toán

và gia tăng áp lực nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán. Việt Nam

với đặc thù là một nền kinh tế non trẻ, đang phát triển và hội nhập

sâu rộng với nền kinh tế thế giới đã chịu những ảnh hưởng nặng nề

của khủng hoảng tài chính đối với mọi mặt của nền kinh tế. Khủng

hoảng tài chính toàn cầu cũng đặt ra những áp lực to lớn tương tự đối

với kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong việc duy trì chất lượng

2

kiểm toán trong bối cảnh khó khăn tác động chung tới các doanh

nghiệp tại Việt Nam. Câu hỏi được đặt ra rằng liệu các công ty kiểm

toán, các kiểm toán viên tại Việt Nam ứng xử như thế nào trong

khủng hoảng tài chính toàn cầu và tác động của khủng hoảng tài

chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán tại Việt Nam.

Từ những vấn đề nêu trên, nhận thấy thực tiễn cần có một

nghiên cứu về chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính đối với các

công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong khủng

hoảng tài chính, tác giả xin được thực hiện nghiên cứu đề tài:

“Nghiên cứu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu giai

đoạn 2008 – đ n chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các

công ty niêm y t trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu là nghiên cứu tác động của cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài

chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Mục tiêu khác của nghiên cứu liên quan đến vấn đề đại diện đó

là nghiên cứu nhằm làm rõ xem liệu kiểm toán có thực hiện được vai

trò của mình trong việc giải quyết vấn đề đại diện trong bối cảnh

khủng hoảng tài chính toàn cầu hay không.

3. Câu hỏi nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đã nêu dẫn đến câu hỏi nghiên cứu của đề

tài là: “ Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm y t

trên thị trường chứng khoán Việt Nam bị ảnh hưởng như th nào bởi

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu?”

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính.

3

Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện đối với kiểm toán

báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán

Việt Nam (ngoại trừ các công ty thuộc nhóm tài chính – ngân hàng).

+ Về thời gian: Nghiên cứu được thực hiện dựa trên báo cáo tài

chính đã được kiểm toán của các công ty niêm yết trên sàn chứng

khoán Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2009.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đi theo hướng tiếp cận thực chứng bằng cách sử dụng

mô hình hồi quy tuyến tính đa biến nhằm chứng minh giả thuyết

nghiên cứu. Nghiên cứu đầu tiên được thực hiện bằng việc đưa ra giả

thuyết nghiên cứu, sau đó tiến hành thu thập số liệu báo cáo tài chính

sau kiểm toán, báo cáo kiểm toán trong phạm vi đối tượng và thời

gian nghiên cứu. Tiếp theo, tác giả tiến hành tính toán các dữ liệu thu

thập được và phân tích, mô tả mối quan hệ giữa các đối tượng trong

mô hình nghiên cứu dựa trên cơ sở dữ liệu tính toán, thu thập được.

Kết quả phân tích, mô tả này sẽ được sử dụng để đưa ra kết luận về

giả thuyết nghiên cứu.

6. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu

Nghiên cứu nhằm giúp các đối tượng sử dụng thông tin trên báo

cáo tài chính tại Việt Nam, bao gồm: Nhà đầu tư, cơ quan nhà nước,

các tổ chức tài chính, ngân hàng … nhận rõ được tác động của khủng

hoảng tài chính toàn cầu tới chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính

doanh nghiệp qua đó có những biện pháp phù hợp khi mà khủng

hoảng được nghiên cứu rằng mang tính chu kỳ.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng cung cấp một cơ sở thực tiễn về vấn

đề đại diện trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.

4

7. Cấu trúc luận văn

Cấu trúc luận văn bao gồm 4 chương:

- Chương 1: Cơ sở lý thuyết về chất lượng kiểm toán và đo

lường chất lượng kiểm toán

- Chương 2: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu

- Chương 3: Phân tích và trình bày kết quả

- Chương 4: Kết luận từ kết quả nghiên cứu và một số kiến nghị

nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới

chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị

trường chứng khoán Việt Nam.

5

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ THUY T VỀ CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN VÀ ĐO

LƢỜNG CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN

1.1. KIỂM TOÁN

Một định nghĩa được sử dụng rộng rãi về kiểm toán xem kiểm

toán như là: “Hệ thống quy trình khách quan nhằm thu thu thập và

đánh giá các bằng chứng của các cơ sở dẫn liệu liên quan đến các sự

kiện và hoạt động kinh tế; xác định mức độ phù hợp của các cơ sở

dẫn liệu này với các chuẩn mực, tiêu chuẩn thiết lập và công bố kết

quả hoạt động đến người quan tâm”

Có nhiều đối tượng sử dụng thông tin, do đó kiểm toán nhằm

phục vụ cho các loại đối tượng này cũng được chia thành nhiều loại

khác nhau. Nghiên cứu này tập trung vào đối tượng chính đó là kiểm

toán báo cáo tài chính được thực hiện bởi các kiểm toán viên độc lập.

1.2. CHẤT LƢỢNG KIỂM TOÁN

1.2.1. Định nghĩa chất lƣợng kiểm toán

Defond và Zhang (2013) định nghĩa chất lượng kiểm toán là sự

phản ánh liên kết giữa kiểm toán với chất lượng báo cáo tài chính, hệ

thống kế toán tài chính và các đặc điểm vốn có của khách hàng và

chất lượng kiểm toán cao hơn là một sự đảm bảo cao hơn rằng báo

cáo tài chính đã kiểm toán phản ánh thực tế tình hình hoạt động kinh

tế, hệ thống kế toán tài chính, đặc điểm vốn có của công ty.

Francis (2011), Svanstrom (2013), Defond và Zhang (2013) xem

chất lượng kiểm toán như một sự biến đổi liên tục.

1.2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng kiểm toán

a. Phí kiểm toán

b. Dịch vụ phi kiểm toán

6

c. Khuôn khổ pháp lý

d. Văn phòng thực hiện kiểm toán

e. Nhiệm kỳ kiểm toán

f. Nhiệm kỳ đối tác kiểm toán

g. Tính độc lập của kiểm toán viên

h. Quy mô khách hàng

i. Các yếu tố khác

Các yếu tố khác được nghiên cứu cho rằng ảnh hưởng đến chất

lượng kiểm toán bao gồm: Mức độ tăng trưởng của công ty, quỹ thời

gian kiểm toán, năng lực và khả năng phán đoán nghề nghiệp của

kiểm toán viên…

1.2.3. Mối quan hệ giữa chất lƣợng kiểm toán và chất lƣợng

báo cáo tài chính

a. Mối quan hệ giữa chất lượng kiểm toán và chất lượng báo

cáo tài chính.

Chất lượng kiểm toán là một phần của chất lượng báo cáo tài

chính (trong nghiên cứu này tác giả ngầm định báo cáo tài chính là

báo cáo tài chính sau kiểm toán) vì chất lượng kiểm toán làm tăng

chất lượng báo cáo tài chính (Defond và Zhang, 2013). Tuy nhiên

chất lượng kiểm toán không phải là thành phần duy nhất của chất

lượng báo cáo tài chính, chất lượng báo cáo tài chính còn bị ảnh

hưởng bởi chất lượng báo cáo tài chính trước kiểm toán được quyết

định bởi hệ thống báo cáo tài chính hay hệ thống thông tin tài chính

của công ty. Chất lượng kiểm toán có thể được suy ra từ chất lượng

lợi nhuận, chất lượng kiểm toán cao hơn là sự giảm bớt mức độ điều

chỉnh lợi nhuận và gia tăng tính thông tin của báo cáo tài chính.

7

b. Chất lượng lợi nhuận

Chất lượng lợi nhuận có được khi báo cáo lợi nhuận đảm bảo

cung cấp thông tin trung thực về chỉ tiêu lợi nhuận cũng như hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp. Quản trị lợi nhuận liên quan chặt

chẽ đến việc điều chỉnh mức độ dồn tích kế toán và các nhà quản lý

thường điều chỉnh mức độ dồn tích kế toán để đạt hay vượt mục tiêu

lợi nhuận đề ra. Quản trị lợi nhuận được nhiều nghiên cứu cho rằng

là một cách thức logic để đo lường cho chất lượng lợi nhuận.

1.2.4. Đo lƣờng chất lƣợng kiểm toán

Các nghiên cứu trước đây về chất lượng kiểm toán sử dụng

nhiều biến quan sát khác nhau để đo lường chất lượng kiểm toán.

Phần dưới đây trình bày các quan sát đại diện để đo lường chất lượng

kiểm toán. Các quan sát đại diện này được chia làm hai loại là đo

lường dựa vào yếu tố đầu vào và đo lường dựa vào yếu tố đầu ra.

a. Phép đo dựa vào yếu tố đầu vào

Đo lường dựa vào các yếu tố đầu vào được sử dụng cho các

nghiên cứu chú ý đến yếu tố đầu vào của kiểm toán. Nhưng vì đầu

vào kiểm toán không đảm bảo rằng chúng tương ứng với kết quả

kiểm toán và do đó quan sát này khá không ổn để do lường chất

lượng kiểm toán (Defond & Zhang, 2013). Dưới đây là các yếu tố

đầu vào dùng để đo lường chất lượng kiểm toán:

- Đặc điểm kiểm toán

- Phí kiểm toán

b. Phép đo dựa vào yếu tố đầu ra

Phép đo dựa vào các yếu tố đầu ra sử dụng các yếu tố đầu ra của

quá trình kiểm toán nhằm đo lường chất lượng kiểm toán. Dưới đây

là các quan sát theo yếu tố đầu ra dùng để đo lường chất lượng kiểm

toán:

8

- Sai sót trọng yếu.

- Ý kiến kiểm toán.

- Đánh giá của người sử dụng thông tin.

- Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh.

Trong nghiên cứu này tác giả sử dụng biến kế toán dồn tích có

thể điều chỉnh (DA) để đo lường cho chất lượng kiểm toán vì những

lợi thế của phép đo này bao gồm: Có thể điều chỉnh nắm bắt được sự

thay đổi nhỏ trong chất lượng kiểm toán và đồng nhất với nhận định

của tác giả về chất lượng kiểm toán là một biến biến đổi liên tục nên

tác giả cho rằng phù hợp khi sử dụng biến kế toán dồn tích có thể

điều chỉnh (DA) để đo lường cho chất lượng kiểm toán trong nghiên

cứu này. Ngoài ra một lợi thế khác của phép đo này mà tác giả cũng

cho rằng phù hợp trong nghiên cứu của tác giả là phép đo chất lượng

kiểm toán thông qua biến kế toán dồn tích (DA) phù hợp với một cỡ

mẫu nhỏ và một khung thời gian ngắn.

c. Các mô hình đo lường biến kế toán dồn tích có thể điều

chỉnh

Có nhiều mô hình nghiên cứu quản trị lợi nhuận thông qua đo

lường biến toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA) trên thế giới nhưng

những mô hình phổ biến nhất bao gồm: The Healy Model (1985),

The DeAngelo Model (1986), The Jones Model (1991), Modified

Jones Model (1995), The Friedlan (1994).

Mô hình Modified Jones (1995) được xem là mô hình phổ biến

nhất và hiệu quả nhất để đo lường biến kế toán dồn tích có thể điều

chỉnh (DA) hay phát hiện hành vi quản trị lợi nhuận (Tianran, 2010),

tuy nhiên việc áp dụng mô hình này hay mô hình Jones (1991) đòi

hỏi một cơ sở dữ liệu quá khứ lâu dài cần thiết để ước lượng các

tham số trong mô hình. Đối tượng của nghiên cứu này là các công ty

9

niêm yết tại Việt Nam mà hầu hết đều hết sức non trẻ trong bối cảnh

non trẻ chung của thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc thu thập

đầy đủ cơ sở dữ liệu quá khứ lâu dài để áp dụng mô hình Modified

Jones (1995) hay Jones (1991) là vô cùng khó khăn hay thậm chí

không khả thi. Mô hình Industry Jones (1991) lại không phù hợp với

nghiên cứu này khi đối tượng nghiên cứu của tác giả là toàn bộ các

công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động

trong giai đoạn nghiên cứu. Tổng hợp các điều kiện thực tế đó, tác

giả cho rằng phù hợp khi sử dụng mô hình Friedlan (1994) là một

biến thể cải tiến của mô hình DeAngelo (1986) để áp dụng tính toán

biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA) trong điều kiện Việt

Nam cũng như điều kiện của nghiên cứu này.

1.3. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU GIAI ĐOẠN

2008 – 2009

1.3.1. Khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ cuối

năm 2007 và là cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất trong

lịch sử kể từ cuộc đại khủng hoảng (Friedman & Friedman, 2009).

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 là một

sự điều chỉnh lại giá nhà đất tại Mỹ sau thời gian thực hiện chính

sách tiền tệ mở rộng và điều kiện tín dụng rộng rãi đối với thị trường

nhà đất tại Mỹ, nơi mà các khoản tín dụng này được chứng khoán

hóa và bán đi dưới dạng các công cụ tài chính phức tạp trên toàn thế

giới. Khi bong bóng thị trường nhà tại Mỹ vỡ ra, các khoản cho vay

tín dụng nhà đất dưới chuẩn tan biến, các ngân hàng phải gánh chịu

những tổn thất kinh tế to lớn, kéo theo niềm tin vào hệ thống ngân

hàng suy giảm nghiêm trọng. Mỹ là trung tâm của hệ thống tài chính

10

toàn cầu đo đó toàn bộ hệ thống tài chính toàn cầu bị cuốn vào khủng

hoảng.

Khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra những khó khăn cho hoạt

động của doanh nghiệp bao gồm nguy cơ hiệu quả hoạt động suy

giảm, kết quả kinh doanh thu lỗ, tình hình sản xuất đình đốn do đó

dẫn đến rủi ro kiểm toán cao hơn đối với kiểm toán viên.

1.3.2. Ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới

Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động mạnh tới nền

kinh tế Việt Nam với tư cách là nền kinh tế đang hội nhập sâu rộng

vào kinh tế toàn cầu. Việt Nam vừa mở rộng cánh cửa với thế giới

vào năm 2007 với việc trở thành thành viên chính thức của tổ chức

thương mại thế giới WTO thì năm 2008 Việt Nam đã phải đón nhận

cơn khủng hoảng kinh tế thế giới. Giai đoạn tăng trưởng GDP liên

tục trên mức 7% của kinh tế Việt Nam kết thúc, và suy giảm liên tục

trong hai năm khủng hoảng. Sự suy giảm này bao quát nhiều mặt của

nền kinh tế bao gồm: sản xuất kinh doanh, tiêu thụ, xuất khẩu, thị

trường chứng khoán…

Những khó khăn mà các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

gặp phải trong bối cảnh khủng hoảng đặt ra cho các kiểm toán viên,

công ty kiểm toán một rủi ro kiểm toán lớn hơn. Cách thức các kiểm

toán viên, công ty kiểm toán tại Việt Nam đối phó với những rủi ro

này còn là dấu hỏi trong bối cảnh hoạt động kiểm toán trên thế giới

bị chỉ trích mạnh mẽ bởi những thất bại trong kiểm toán và sự nghi

ngờ về tính độc lập của các kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong

bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.

11

CHƢƠNG

GIẢ THU T VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU

2.1. GIẢ THUY T NGHIÊN CỨU

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 gây

những khó khăn hết sức nghiêm trọng cho các doanh nghiệp trên

phạm vi toàn cầu trong đó có Việt Nam. Các doanh nghiệp, đặc biệt

là các công ty niêm yết khi đối mặt với những khó khăn của khủng

hoảng tài chính toàn cầu, ảnh hưởng đến hoạt động, đến lợi nhuận

của công ty thì thường tìm mọi cách nhằm giảm thiểu tác động này

trong đó có việc trình bày các báo cáo tài chính tốt hơn thực tế nhằm

che dấu hiệu quả kinh doanh tồi tệ thực tế trong khủng hoảng. Khủng

hoảng tài chính toàn ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán vì tình

trạng khó khăn của các doanh nghiệp tạo ra rủi ro kiểm toán lớn hơn

và cách thức mà các kiểm toán viên và công ty kiểm toán đối phó với

các rủi ro này quyết định sự thay đổi của chất lượng kiểm toán trong

bối cảnh khủng hoảng. Đặc biệt đối với các công ty niêm yết thì

động cơ điều chỉnh lợi nhuận của nhóm này rõ ràng hơn khi mà tác

động của hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận được trình bày trên báo cáo

tài chính ảnh hưởng mạnh tới giá trị thị trường, nguồn vốn, hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp, do đó rủi ro về việc đưa ra ý kiến

kiểm toán không chính xác hay rủi ro chất lượng kiểm toán đối với

nhóm công ty niêm yết suy giảm là nghiêm trọng hơn. Liệu chất

lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị

trường chứng khoán tại Việt Nam đã suy giảm dưới tác động của

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Giả thuyết nghiên cứu được đặt

ra là:

12

H1: Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm

yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam suy giảm trong cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu.

2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHI N CỨU

2.2.1. Chọn mẫu và dữ liệu thực hiện nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ tổng thể là các công ty

niêm yết giao dịch trên hai sàn giao dịch chứng khoán HNX và

HOSE trong giai đoạn 2005 – 2009 nhưng không bao gồm các công

ty tài chính và ngân hàng.

2.2.2. Đo lƣờng chất lƣợng kiểm toán

a. Đo lường chất lượng kiểm toán

Nhiều nghiên cứu trên thế giới nhận định rằng biến kế toán dồn

tích có thể điều chỉnh (DA) là một trong những quan sát phổ biến

nhất để đại diện cho chất lượng lợi nhuận cũng như chất lượng kiểm

toán. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán nhưng vẫn tồn tại hành vi

điều chỉnh lợi nhuận là sự phản ánh không thực tế tình hình lợi

nhuận cũng như hoạt động kinh tế của đơn vị tương ứng với sự suy

giảm chất lượng kiểm toán. Mức độ điều chỉnh lợi nhuận trên báo

cáo tài chính sau kiểm toán đi ngược lại với mức độ trung thực của

thông tin mà báo cáo tài chính sau kiểm toán truyền tải tới cổ đông,

nhà đầu tư và đối tượng sử dụng khác về tình hình lợi nhuận và thực

tế hoạt động sản xuất kinh doanh tại đơn vị, đo đó mức độ gia tăng

điều chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính sau kiểm toán là đi ngược

lại với chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Trong nghiên cứu

này, tác giả tính toán biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA)

dựa trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán của đơn vị nhằm đo

lường cho chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính. Đồng thời, trong

phạm vi nghiên cứu này thì tác giả ngầm định rằng báo cáo tài chính

13

là báo cáo tài chính sau kiểm toán và các số liệu được đưa ra tính

toán, trình bày đều được ngầm định là số liệu cuối cùng trên báo cáo

tài chính đã được kiểm toán của đơn vị.

b. Mô hình tính toán biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh

Tìm kiếm một mô hình hiệu quả để đo lường biến kế toán dồn

tích có thể điều chỉnh DA, tác giả nhận thấy mô hình Friedlan

(1994), điều chỉnh từ mô hình DeAngelo (1986) là phù hợp khi so

sánh hiệu quả, khả năng áp dụng vào thực tế điều kiện tại Việt Nam

của mô hình này so với những mô hình còn lại trong việc tính toán

biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA).

Mô hình Friedlan (1994) được sử dụng để phát hiện hành vi điều

chỉnh lợi nhuận thông qua việc đo lường biến kế toán dồn tích có thể

điều chỉnh. Biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh (DA) trong mô

hình này được tính toán theo công thức: iến ế toán n iến ế toán n iến ế toán

t cht t cht-1 n t ch c thể = - (TAt) (TAt-1) điều ch nht

(DAt) Doanh thut Doanh thut-1

Trong đó:

iến ế toán n t ch Lợi nhuận Lƣu chu ển tiền thuần = - (Total Accruals) au thuế từ hoạt đ ng inh oanh

2.2.3 Mô hình nghiên cứu

Mô hình nghiên cứu được phát triển trong nghiên cứu này là:

ABSDA = β1 + β2ROA + β3 IG4 + β4LOSS + β5LNASSET +

β6GROWTHASSET + β7CRISIS + Ɛi

14

Bảng 2.1. Bảng tổng hợp các biến trong mô hình

Biến số Định nghĩa Đo lƣờng/ Mã hóa

ABSDA Chất lượng kiểm toán Giá trị tuyệt đối của biến

kế toán dồn tích có thể

điều chỉnh DA (Giá trị

ABSDA càng cao thì chất

lượng kiểm toán càng

thấp)

CRISIS Quan sát đã được thực hiện 0= không trong thời gian

(KHỦNG HOẢNG) trong giai đoạn khủng hoảng khủng khoảng

1= trong thời gian khủng hay không (2008 – 2009)

hoảng.

ROA Đo lường hiệu quả hoạt Lợi nhuận sau thuế / Tổng

động của công ty được kiểm tài sản

toán

BIG4 Nếu các công ty kiểm toán là 0= không được kiểm toán

một trong 4 công ty kiểm bởi 4 công ty kiểm toán

toán lớn: KPMG, E&Y, lớn

D&T hoặc PWC. 1= được kiểm toán bởi

một trong 4 công ty kiểm

toán lớn.

LOSS (LỖ) Đo hiệu quả hoạt động của 0 = lợi nhuận sau thuế>0

công ty được kiểm toán 1 = lợi nhuận sau thuế<0

GROWTH ASSET Đo lường tăng trưởng của

(TĂNG TRƯỞNG công ty khách hàng (Tổng tài sản t/ tổng tài sản t-1) -1

TÀI SẢN)

LNASSET Quy mô của các công ty Logarit tự nhiên của tổng

( LN TÀI SẢN) khách hàng theo tổng tài sản tài sản công ty

15

CHƢƠNG 3

PHÂN TÍCH VÀ TRÌNH BÀY K T QUẢ

3.1. PHÂN TÍCH

3.1.1. Tính toán các biến

Sau khi xác định được mô hình nghiên cứu với các biến trong mô

hình bao gồm biến phụ thuộc ABSDA đại diện cho chất lượng kiểm

toán, các biến độc lập CRISIS, ROA, BIG4, LOSS, GROWTHASSET,

tác giả đi vào tính toán các biến trong mô hình tại từng công ty trong

mẫu nghiên cứu để ước lượng các tham số trong mô hình dựa vào các

tính toán này trước khi tiến hành phân tích kết quả.

3.1.2. Kết quả phân tích

a. Thống kê mô tả

Để kiểm tra ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

đến chất lượng kiểm toán, tác giả thu thập dữ liệu báo cáo tài chính

sau kiểm toán, báo cáo kiểm toán của 80 công ty trong giai đoạn

2004 – 2009 nhưng có 3 công ty bị loại do không thỏa mãn yêu cầu

thu thập dữ liệu.

b. Phân tích tương quan

Để phân tích mối quan hệ giữa các biến trong mô hình nghiên

cứu ta thực hiện phân tích tương quan. Mối tương quan có ý nghĩa

thống kê lớn nhất được tìm thấy là mối quan hệ tương quan thuận

giữa biến BIG4 và biến LNASSET với hệ số tương quan là 0.506.

Tương quan nghịch có ý nghĩa lớn nhất được tìm thấy là mối tương

quan giữa biến ROA và biến LOSS với hệ số tương quan là -0.400.

Hai mối quan hệ tương quan có ý nghĩa thống kê đáng chú ý được

phát hiện là mối quan hệ giữa biến ROA và biến ABSDA, giữa biến

LOSS và biến ABSDA cho thấy mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt

16

động và mức độ điều chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính (nghiên

cứu này mặc định rằng báo cáo tài chính là báo cáo tài chính sau

kiểm toán).

Mối quan hệ chính mà nghiên cứu này tìm hiểu là mối tương

quan giữa biến CRISIS và biến ABSDA, hệ số tương quan có ý

nghĩa thống kê giữa hai biến này là 0.229 là tương đối lớn, chỉ ra

rằng trong khủng hoảng thì các công ty niêm yết có mức độ điều

chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính cao hơn so với bình thường và

chỉ báo cho một chất lượng kiểm toán có khả năng bị suy giảm trong

khủng hoảng tài chính.

c. Phân tích hồi quy

Mô hình nghiên cứu được biểu diễn dưới dạng phương trình hồi

quy tuyến tính đa biến có dạng như sau:

ABSDA = β1 + β2ROA +β3 IG4 + β4LOSS + β5LNASSET +

β6GROWTHASSET + β7CRISIS + Ɛi

Thực hiện hồi quy các biến nghiên cứu trong mô hình ta được

bảng 3.7. Ý nghĩa thống kê của mô hình được thể hiện bởi giá trị sig

= 0.000 tức vô cùng bé hay mô hình thật sự có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.7 Bảng tổng hợp kết quả h i quy sau khi loại trừ các biến không phù hợp trong mô hình

Biến ROA LOSS CRISIS Hệ số -0.334 0.312 0.084 t-value -2.124 3.964 3.716 Sig 0.034 0.000 0.000 VIF 1.191 1.208 1.016

Adjusted R2 = 0.132 Sig = 0.000 Durbin-Watson = 2.002

17

d. Phân tích kết quả

Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến chất lượng

kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường

chứng khoán Việt Nam được xác nhận khi tồn tại mối quan hệ có ý

nghĩa thống kê giữa biến ABSDA đo lường cho chất lượng kiểm

toán và biến CRISIS đại diện cho giai đoạn khủng hoảng tài chính

toàn cầu với hệ số của biến CRISIS là 0.084 cho thấy chất lượng

kiểm toán suy giảm trong khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Kết quả phân tích hồi quy cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa

thống kê giữa biến ROA và biến LOSS với biến ABSDA. Hệ số hồi

quy của biến ROA là -0.334 và đây cũng là biến tác động mạnh nhất

đến biến ABSDA trong mô hình, điều này cho thấy nếu hiệu quả

hoạt động kinh doanh của công ty niêm yết bị suy giảm thì công ty sẽ

có động lực lớn để tăng cường điều chỉnh lợi nhuận tương ứng với

chất lượng báo cáo tài chính bị suy giảm. Hệ số hồi quy của biến

LOSS là 0.312 chỉ ra rằng nếu công ty có kết quả hoạt động kinh

doanh thua lỗ thì công ty sẽ tăng cường điều chỉnh lợi nhuận tương

ứng với sự suy giảm chất lượng kiểm toán hay việc thua lỗ trong

hoạt động kinh doanh của công ty là một trong những động lực khiến

doanh nghiệp tăng cường điều chỉnh lợi nhuận khiến cho chất lượng

kiểm toán suy giảm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và chất

lượng kiểm toán trong bối cảnh suy giảm chất lượng kiểm toán trong

khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến kết luận rằng sự thất bại của

kiểm toán viên và công ty kiểm toán tại Việt Nam trong việc ứng phó

với rủi ro suy giảm chất lượng kiểm toán mà khủng hoảng tài chính

toàn cầu mang đến là một trong những nguyên nhân làm suy giảm

18

chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết tại Việt

Nam trong giai đoạn này.

Một điều đáng quan tâm rằng không có mối quan hệ có ý nghĩa

thống kê được tìm thấy giữa biến BIG4 và biến phụ thuộc ABSDA.

Qua đó nghiên cứu này có ý nghĩa khi kết luận đối chất lượng kiểm

toán BCTC các công ty niêm yết trên toàn Việt Nam trong bối cảnh,

giai đoạn nghiên cứu đã đề cập mà không có sự khác biệt giữa hai

nhóm BIG 4 và Non BIG 4.

Nghiên cứu này cũng không phát hiện ra mối quan hệ có ý nghĩa

giữa biến LNASSET, GROWTHASSET và biến ABSDA. Tuy nhiên

điều đáng lưu ý đó là mối quan hệ giữa biến LNASSET và biến

ABSDA có ý nghĩa với mức ý nghĩa 10% và điều này để ngõ khả

năng rằng các công ty có quy mô càng lớn thì mức độ điều chỉnh lợi

nhuận trên báo tài chính càng lớn hơn hay khả năng tính độc lập của

kiểm toán viên bị ảnh hưởng khi kiểm toán cho các công ty lớn.

3.2. KIỂM ĐỊNH GIẢ THUY T NGHIÊN CỨU

3.2.1. Kiểm định giả thuyết

Mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động kinh doanh và chất lượng

kiểm toán trong bối cảnh chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các

công ty niêm yết suy giảm trong khủng hoảng, cùng các phân tích,

đánh giá, nghiên cứu trước đó đã được đề cập đã đặt ra cơ sở cho

khẳng định rằng hiệu quả hoạt động yếu kém của các công ty niêm

yết trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu là một trong

những nguyên nhân làm chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính suy

giảm trong khủng hoảng tài chính.

Mối quan hệ nghịch giữa ABSDA và hiệu quả hoạt động kinh

doanh được chứng minh ở trên cũng tương ứng với nhận định rằng

các công ty có kết quả hoạt động yếu kém thường có mức độ điều

19

chỉnh lợi nhuận trên báo cáo tài chính cao hơn. Điều này đặt ra câu

hỏi về vai trò của các kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong việc

đối phó với rủi ro của khủng hoảng tài chính toàn cầu khi các doanh

nghiệp có kết quả hoạt động không thuận lợi thường có một mức độ

điều chỉnh lợi nhuận cao hơn trên báo cáo tài chính của mình. Chất

lượng kiểm toán suy giảm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn

cầu do đó có nguyên nhân quan trọng bởi sự thất bại trong việc đối

phó với rủi ro mà cuộc khủng hoảng này mang lại của kiểm toán viên

và công ty kiểm toán.

Kết quả phân tích các biến trong mô hình bao gồm biến LOSS,

ROA và biến CRISIS cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với

biến ABSDA như đã phân tích ở trên đây chứng minh cho giả thuyết

được đưa ra rằng: “Chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công

ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam suy giảm trong

khủng hoảng tài chính toàn cầu” là đúng.

3.2.2. Kiểm tra các điều kiện vận dụng mô hình

a. Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến cho kết luận rằng mô hình

nghiên cứu không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến.

b. Kiểm tra hiện tượng tự tương quan

Kiểm tra hiện tượng tự tương quan cho kết luận rằng mô hình

nghiên cứu không tồn tại hiện tượng tự tương quan.

20

CHƢƠNG 4

K T LUẬN TỪ K T QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ

KI N NGHỊ NHẰM GIẢM THIỂU ẢNH HƢỞNG CỦA KHỦNG

HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU TỚI CHẤT LƢỢNG KIỂM

TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CÁC CÔNG TY NIÊM Y T TRÊN

THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

4.1. K T LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu với mục đích tìm hiểu tác động của cuộc khủng

hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 tới chất lượng kiểm

toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường chứng

khoán Việt Nam có kết quả đạt được rằng chất lượng kiểm toán báo

cáo tài chính các công ty niêm yết được đo lường bằng biến kế toán

dồn tích có thể điều chỉnh (DA) đã suy giảm trong giai đoạn khủng

hoảng. Kết quả này là ngược với kết quả trong nghiên cứu của

Sotheara Riel và Carl Tano (2014) khi nghiên cứu của Sotheara Riel

và Carl Tano cho kết quả rằng chất lượng kiểm toán được đo lường

bằng DA tăng lên trong giai đoạn khủng hoảng. Sự khác biệt trong

biến đổi chất lượng kiểm toán giữa hai nghiên cứu do sự khác biệt

trong cách thức ứng xử của kiểm toán viên, công ty kiểm toán tại

Việt Nam đối với rủi ro từ khủng hoảng tài chính toàn cầu so với các

kiểm toán viên, công ty kiểm toán tại Thụy Điển. Bên cạnh đó sự

khác biệt này cũng do sự khác biệt trong chất lượng kiểm toán được

cung cấp bởi các công ty kiểm toán, kiểm toán viên tại Thụy Điển so

với Việt Nam và sự khác biệt trong bối cảnh, khuôn khổ luật pháp,

chuẩn mực, quy định liên quan đến hoạt động kiểm toán, kế toán,

chứng khoán … mà hoạt động kiểm toán tại hai nước được tiến hành.

21

Kết quả nghiên cứu cũng đồng thời cho thấy ảnh hưởng của hiệu

quả và kết quả hoạt động kinh doanh của công ty niêm yết đến chất

lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty này thông qua hai biến

quan sát là LOSS và ROA. Các phân tích, đánh giá về mối qua hệ

giữa biến ROA, LOSS và biến ABSDA đã dẫn tác giả đến kết luận

rằng: Hiệu quả hoạt động và kết quả kinh doanh yếu kém của các

công ty niêm yết trong khủng hoảng tài chính toàn cầu là một trong

những nguyên nhân khiến chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các

công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam suy giảm

trong khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Kết quả nghiên cứu cũng dẫn đến kết luận rằng các công ty kiểm

toán và kiểm toán viên tại Việt Nam đã thất bại trong việc đối phó

với rủi ro của khủng hoảng tài chính toàn cầu, dẫn đến chất lượng

kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị trường

chứng khoán Việt Nam suy giảm trong khủng hoảng. Kết quả này là

phù hợp với những chỉ trích của Sikka (2009) nhằm vào chất lượng

kiểm toán trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thất bại

của các kiểm toán viên và công ty kiểm toán khi đối phó với khủng

hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến sự suy giảm chất lượng kiểm toán

tại Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng có thể do các kiểm toán

viên, công ty kiểm toán không có biện pháp đối phó với khủng hoảng

tài chính toàn cầu hoặc những biện pháp đối phó mà họ đưa ra là

không phù hợp.

Nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng vai trò quan trọng của

kiểm toán trong việc giải quyết vấn đề bất đối xứng thông tin, mâu

thuẫn lợi ích giữa nhà quản lý và chủ sở hữu doanh nghiệp đặc biệt

trong điều kiện khủng hoảng tài chính bị suy yếu hay thậm chí không

phát huy được vai trò của mình. Chất lượng thông tin trên thị trường

22

chứng khoán vì thế cũng có thể bị suy giảm trong điều kiện khủng

hoảng tài chính toàn cầu.

4.2. CÁC KI N NGHỊ

Tác giả đưa một số kiến nghị cho các bên liên quan nhằm mục

đích nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty

niêm yết trong khủng hoảng. Cải thiện chất lượng hoạt động kiểm

toán đòi hỏi cả sự gia tăng kiểm soát, quản lý đối với chất lượng

kiểm toán từ cả bên trong và bên ngoài. Do đó các kiến nghị được

đưa ra đối với cả nhóm đối tượng bên trong tức đối với các kiểm

toán viên, công ty kiểm toán và nhóm đối tượng bên ngoài bao gồm:

Bộ Tài chính, Hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán và các cơ

quan ban hành chính sách, kiểm soát liên quan khác.

- Đối với các kiểm toán viên và công ty kiểm toán:

+ Các công ty kiểm toán và kiểm toán viên cần xây dựng một

chương trình kiểm toán riêng biệt, phù hợp nhằm đối phó với những

rủi ro đặc thù trong điều kiện khủng hoảng kinh tế.

+ Các công ty kiểm toán cần xây dựng chương trình kiểm tra

chất lượng kiểm toán trong nội bộ đơn vị theo định kỳ hoặc đột xuất

trong và sau mùa kiểm toán.

+ Các kiểm toán viên cần nâng cao kiến thức về chứng khoán,

các công cụ tài chính hiện đại và các công ty kiểm toán có trách

nhiệm tài trợ hoặc xây dựng chương trình cập nhật kiến thức này cho

các kiểm toán viên.

+ Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên thông qua

các chương trình phù hợp.

- Đối với Hiệp hội nghề nghiệp k toán – kiểm toán và Bộ Tài

chính cùng các bên liên quan khác:

23

+ Xây dựng những cơ chế, quy định nhằm nâng cao vai trò,

trách nhiệm của kiểm toán viên, công ty kiểm toán trong hoạt động

kiểm toán cũng như những quy định nhằm gia tăng hoạt động giám

sát, kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên ngoài nhằm phát hiện, xử

lý kịp thời các công ty kiểm toán, kiểm toán viên không hoàn thành

đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình.

+ Hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán và Bộ Tài chính cần

tổ chức thường xuyên các khóa tập huấn, bồi dưỡng kiến thức

chuyên môn kế toán – kiểm toán, tài chính – chứng khoán, nhằm

nâng cao năng lực của kiểm toán viên khi kiểm toán trong bối cảnh

môi trường tài chính, chứng khoán ngày càng phức tạp, đa dạng hóa

như hiện nay.

+ Các khuôn khổ mà các hoạt động kiểm toán tuân thủ ảnh

hưởng đến chất lượng kiểm toán nên việc Hiệp hội nghề nghiệp và

các cơ quan chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các quy

định, văn bản, các cơ chế nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kế

toán, kiểm toán, tính minh bạch hay chất lượng thông tin công bố là

yêu cầu cần thiết để cải thiện chất lượng hoạt động kiểm toán.

Các cổ đông, ngân hàng, nhà đầu tư và các đối tượng khác cần

có các biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của việc suy giảm hiệu

quả của kiểm toán đến hoạt động đầu tư, cho vay … của mình. Tác

giả đồng thời đưa ra một số ý kiến như là công cụ bổ trợ cho kiểm

toán trong việc giải quyết vấn đề đại diện trong doanh nghiệp dưới

ảnh hưởng suy giảm hiệu quả của kiểm toán trong khủng hoảng.

24

K T LUẬN

Nghiên cứu được tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu tác động

của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 tới

chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty niêm yết trên thị

trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khi tác động tới Việt Nam đã

làm suy giảm chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính các công ty

niêm yết tại Việt Nam. Các phân tích, đánh giá trong nghiên cứu cho

thấy rằng sự suy giảm chất lượng kiểm toán đối với các công ty niêm

yết tại Việt Nam là do sự tổng hợp của hai mối quan hệ chính. Trong

khủng hoảng tài chính cùng với điều kiện khó khăn trong hoạt động

sản xuất kinh doanh thì các công ty niêm yết có một động lực lớn

nhằm tăng cường điều chỉnh lợi nhuận, điều này tạo ra những rủi ro

to lớn về khả năng mà chất lượng kiểm toán suy giảm trong khủng

hoảng. Những rủi ro này đòi hỏi các doanh nghiệp, công ty kiểm

toán phải có những biện pháp phù hợp để đối phó với rủi ro nhằm

bảo đảm, gia tăng chất lượng kiểm toán. Tuy nhiên kết quả nghiên

cứu cho thấy rằng các kiểm toán viên, công ty kiểm toán tại Việt

Nam đã thất bại trong việc đối phó với những rủi ro kiểm toán mà

khủng hoảng tài chính toàn cầu mang lại dẫn đến sự suy giảm chất

lượng kiểm toán trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Nghiên cứu này đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện,

kiểm soát, nâng cao chất lượng kiểm toán từ cả bên ngoài và bên

trong công ty kiểm toán. Tác giả cho rằng để có sự cải thiện chất

lượng kiểm toán cần có sự phối hợp của cả các cơ quan nhà nước,

Hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán và các công ty kiểm toán,

kiểm toán viên.