LuËn v¨n Th¹c sü Chuyªn ngµnh C«ng
nghÖ CTM
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Mạ composite đó là lớp mạ điện bình thường nhưng trong đó cấu tạo các
hạt cực nhỏ của một hay vài chất, những hạt này đồng kết tủa từ một dung dịch
huyền phù. Huyền phù được tạo ra bằng cách trộn lẫn một lượng bột xác định
vào chất điện phân mạ kim loại. Các chất bột có kích thước hạt cùng kích cỡ với
hạt tinh thể, dao động trong khoảng 0,01 đến 20m sẽ đồng kết tủa cùng kim
loại mạ và phân bố đồng đều trong toàn thể tích mạ những hạt cho vào là những
hạt có độ rắn cao, khó nóng chảy, bền về phương diện hoá học cũng như cơ học.
Các lớp mạ composite không chỉ có các tính chất của các phi kim loại như độ
bền hoá học cao, độ cứng cao, tính chịu mài mòn cao.
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật nói chung và
đặc biệt là tính chất bề mặt nói riêng, đã góp phần vào việc nghiên cứu và chế
tạo nhiều bề mặt chi tiết máy theo yêu cầu của công nghệ cao. Một trong những
ứng dụng mang tính phổ biến trong lĩnh vực tạo ra lớp mạ trên bề mặt chi tiết
máy nhằm giảm ma sát, tăng khả năng chống mòn trên bề mặt tiếp xúc, nâng cao
tính ổn định và cấu trúc toả nhiệt cao. Với những bề mặt có yêu cầu cao về công
nghệ, việc chế tạo khó khăn thì ứng dụng đó là một trong những giải pháp mang
tính đột phá thì mạ composite Chrome là một phương pháp như vậy.
Nghiên cứu trong và ngoài nước: Năm 1929 C.G Fink và J.D Prince thu
được lớp mạ tổ hợp Cu trong dung dịch axít có chứa các hạt Grafit. Năm 1939
Bajmakov đã thu được lớp mạ tổ hợp với sự đồng kết tủa của các hạt phi kim
loại. Trong các năm sau đó nhiều tác giả đã tạo ra lớp mạ Niken với sự kết tủa
NguyÔn TiÕn Tµi - 5 -
CHK10 - CTM