VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ UYÊN VUI
CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ UYÊN VUI
CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO PHÁP LUẬT
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành
: Luật Kinh tế
Mã số
: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ NGỌC HIỂN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Võ Thị Uyên Vui
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ
PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN .......................... 5
1.1. Khái quát về cổ phần ............................................................................................ 5
1.2. Khái niệm, đặc điểm của chuyển nhượng cổ phần ............................................ 13
1.3. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần................................................................. 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ
PHẦN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CHUYỂN NHƯỢNG
CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 29
2.1. Các quy định về quyền của cổ đông trong việc chuyển nhượng cổ phần .............. 29
2.2. Các quy định về thủ tục và hình thức chuyển nhượng cổ phần ......................... 39
2.3. Hệ quả pháp lý của chuyển nhượng cổ phần ..................................................... 43
2.4. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần .................................................................... 55
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN
NHƯỢNG CỔ PHẦN ............................................................................................. 65
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần ............................................................................................ 65
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần ............................................................................................ 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC THAM KHẢO
DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 CTCP Công ty cổ phần
2 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
3 CTHD Công ty hợp danh
4 HĐQT Hội đồng quản trị
5 TTCK Thị trường chứng khoán
6 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
7 NXB Nhà xuất bản
8 TNCN Thu nhập cá nhân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chuyển nhượng phần vốn góp trong
công ty là hoạt động có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và pháp lý. Hệ quả pháp lý của
chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty tạo ra khả năng chuyển quyền sở hữu
tài sản của thành viên, cổ đông sang cho người khác, đồng thời ràng buộc nghĩa vụ
và mang đến quyền lợi cho các thành viên, cổ đông của công ty đó. Xu hướng mua
bán phần vốn góp ngày càng phổ biến tại nước ta khi mà các doanh nghiệp trong
nước do thiếu vốn, thiếu nhân lực, kinh nghiệm có nguy cơ phá sản sẽ có nhu cầu
mở cửa cho các nhà đầu tư tham gia vào công ty của mình. Bên cạnh việc tăng thêm
nguồn vốn, việc có thêm chia sẻ kinh nghiệm sẽ giúp công ty phát triển hơn. Vì vậy,
hiện nay, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều có nhu cầu đầu tư vào các
công ty Việt Nam thông qua việc chuyển nhượng phần vốn góp.
Do xuất phát từ quan niệm coi CTCP là mô hình tổ chức theo hình thức đối
vốn, có tính chất đại chúng (phản ánh cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển đổi
dễ dàng mà không làm mất đi tính ổn định trong cấu trúc vốn) khác hẳn với mô hình
tổ chức theo hình thức đối nhân nên việc chuyển nhượng vốn trong CTCP dễ dàng
hơn so với công ty TNHH và CTHD. Chuyển nhượng cổ phần là hình thức chuyển
nhượng vốn phổ biến hiện nay.
Mặc dù nhu cầu thị trường về việc chuyển nhượng cổ phần đang diễn ra
thường xuyên, tuy nhiên pháp luật về chuyển nhượng cổ phần chỉ là một nội dung
trong pháp luật doanh nghiệp và chưa được quy định hướng dẫn chi tiết, dẫn đến
doanh nghiệp áp dụng chưa thực sự hiệu quả cũng như có những lỗ hổng dẫn đến
các doanh nghiệp bị mua lại, thôn tính. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Chuyển nhượng
cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu với mong
muốn phân tích bản chất của chuyển nhượng cổ phần, thực tiễn chuyển nhượng cổ
phần trong nền kinh tế hiện nay nhằm tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.
1
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay có nhiều bài viết, luận án, luận văn… về vốn, về cấu trúc của công
ty cổ phần, nhưng nghiên cứu chuyên sâu về nội dung chuyển nhượng cổ phần
trong công ty cổ phần thì chưa có nhiều công trình. Trong khi đó, nền kinh tế thị
trường hiện nay với hội nhập kinh tế, chính sách thu hút đầu tư dẫn đến nhu cầu
mua bán, sát nhập giữa các công ty với nhau, trong đó việc thỏa thuận chuyển
nhượng cổ phần để các nhà đầu tư có thể nhanh chóng trở thành chủ sở hữu của
công ty cổ phần là một trong những hình thức chuyển nhượng vốn phổ biến hiện
nay. Mặc dù thực trạng nhu cầu ngày một tăng song quy định pháp luật trong luật
doanh nghiệp năm 2014 chưa có nhiều quy định chi tiết về nội dung này.
Kế thừa một số nhận định của giới chuyên ngành trên các tạp chí về nội dung
chuyển nhượng cổ phần, tác giả đã tham khảo thêm các quy định pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần để có cơ sở cho luận văn nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam. Từ đó, đưa
ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Để đạt được mục đích trên thì luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, phân tích khái niệm, đặc điểm của chuyển nhượng cổ phần và
pháp luật chuyển nhượng cổ phần.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng và thực tiễn về chuyển nhượng cổ phần và
pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam hiện nay.
- Thứ ba, đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển
nhượng cổ phần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật và thực tiễn về chuyển
nhượng cổ phần.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
2
tiễn về chuyển nhượng cổ phần thông qua việc nghiên cứu, đánh giá các quy định
pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm phương pháp luận để luận giải
những vấn đề lý luận và thực tiễn cho cả luận văn.
Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh được sử
dụng ở chương 1 để nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuyển nhượng cổ phần
theo pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam.
Phương pháp phân tích, phương pháp đối chiếu, phương pháp đánh giá được
sử dụng ở chương 2 để phân tích, đánh giá, bình luận về thực trạng chuyển nhượng
cổ phần theo pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam hiện nay.
Phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải được sử dụng ở chương 3 để
khái quát hóa và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ
phần.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Qua nghiên cứu, luận văn này sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về chuyển nhượng cổ phần. Từ đó, góp phần hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả về hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam
hiện nay.
Là tư liệu tham khảo cho các cơ quan giảng dạy, các doanh nghiệp, doanh
nhân và các thành phần khác trong nền kinh tế thị trường liên quan đến hoạt động
chuyển nhượng cổ phần trong các CTCP.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được thực hiện trong 3 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chuyển nhượng cổ phần và pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần và thực tiễn thực
3
hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về cổ phần
1.1.1. Khái niệm cổ phần
Khái niệm công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và phát
triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển của
CTCP gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. “Công ty
cồ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức
phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và
qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” [4, tr. 18].
Về mặt lịch sử hình thành trên thế giới, CTCP ra đời sau so với các loại hình
công ty đối nhân như Công ty TNHH, CTHD nhưng lại là công ty đầu tiên về đối
vốn. Khác với sự ra đời của hình thức công ty TNHH là sản phẩm của các nhà lập
pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình thành trong
hoạt động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được
pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý.
Ở nước ta, do đặc thù phát triển kinh tế - chính trị, khái niệm công ty, đặc
biệt là CTCP được hiểu đúng bản chất muộn hơn so với các nước. Trước khi Luật
công ty được ban hành ngày 21/12/1990, các hình thức công ty nói chung và CTCP
nói riêng hầu như không được pháp luật thừa nhận. Sau đó, từ Luật Doanh nghiệp
1999, Luật Doanh nghiệp 2005, quy định CTCP được quy định dần tiệm cận với
chuẩn mực quy định chung của thế giới.
Khái niệm CTCP được quy định khá chi tiết, rõ ràng trong Điều 110 Luật
Doanh nghiệp 2014. Theo đó, CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn.
Vốn của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Chủ sở hữu
cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân và tối thiểu phải có từ 03
5
cổ đông trở lên, không giới hạn số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi cổ phần mà họ sở hữu. Cổ đông có các
quyền và nghĩa vụ tương ứng với phần cổ phần mà mình nắm giữ trong công ty.
Khái niệm cổ phần
“Cổ phần” là khái niệm đặc trưng của CTCP và được sử dụng rộng rãi trên
thế giới. Có hai cách định nghĩa khái niệm cổ phần. Tại các nước theo truyền thống
dân luật, khái niệm cổ phần được định nghĩa là đơn vị để phân chia quyền sở hữu
công ty. Do đó, cổ phần không có mối liên hệ đến vốn điều lệ của công ty. Giá trị
thực của cổ phần phụ thuộc vào khả năng phát triển của công ty cũng như nhu cầu
đầu tư của xã hội vào công ty. Bên cạnh đó, tại một số nước Châu Âu, khái niệm cổ
phần lại được định nghĩa như sau: “Vốn điều lệ khi được chia nhỏ thành những
phần bằng nhau thì mỗi phần đó gọi là cổ phần, vì vậy cổ phần là một phần của vốn
điều lệ”. Tuy nhiên, trong thực tế, cổ phần cũng phản ánh mức độ quyền sở hữu đối
với công ty của một cổ đông nào đó. Cổ đông góp vốn vào CTCP bằng cách mua cổ
phần; khi mua cổ phần người mua sẽ trở hành chủ sở hữu công ty. [11, tr 11].
Ở Việt Nam, quan điểm về “cổ phần” được tiếp cận theo hướng thứ hai,
nghĩa là cổ phần là một phần của vốn điều lệ.
Trong từ điển Pháp – Việt pháp luật hành chính của Học viện Hành chính
Quốc gia, NXB Thế giới, năm 1992 ghi nhận: “Cổ phần là giấy nhận thực biểu thị
một phần vốn và cụ thể hóa những quyền của hội viên trong một công ty vô danh
hoặc công ty cổ phần. Giá trị danh nghĩa của cổ phần chỉ rõ giới hạn trách nhiệm
của cổ đông. Cổ đông không chịu trách nhiệm với công ty vượt quá số tiền cổ phần.
Cổ phần có thể chuyển dịch, có ghi tên hoặc thuộc người giữ phiếu. Với cổ phần, cổ
đông có quyền tham gia các Đại hội đồng của công ty và được quyền biểu quyết”.
Từ điển Bách Khoa Việt Nam của Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách Khoa
Việt Nam, năm 1995, định nghĩa về cổ phần như sau: “Cổ phần là tư bản (vốn)
bằng nhau mà mỗi thành viên (cổ đông) tham gia công ty cổ phần phải đóng góp
dưới hình thức mua cổ phiếu”.
Khái niệm cổ phần được quy định lần đầu tiên tại Điều 30, Khoản 2, Luật
6
Công ty (1990): “Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau
gọi là cổ phần”. Khái niệm này được các nhà lập pháp xây dựng khá chính xác và
được tiếp tục kế thừa tại Luật Doanh nghiệp (2005) và Luật Doanh nghiệp (2014)
(Điều 110, Khoản 1, Điểm a).
Theo đó vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng
nhau được gọi là cổ phần. Cổ phần là đặc điểm pháp lý đặc trưng mà chỉ có CTCP
mới có, đó là công cụ tài chính đặc biệt và đóng vai trò quan trọng trong CTCP khi
huy động vốn.
1.1.2. Đặc điểm của cổ phần
Theo phân tích khái niệm về cổ phần và CTCP, nhìn chung cổ phần có
những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, cổ phần là biểu hiện quyền sở hữu tài sản trong CTCP
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, cổ đông là cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất
một cổ phần của CTCP. Nó là căn cứ pháp lý xác lập tư cách thành viên của CTCP,
bất kể họ có tham gia thành lập CTCP hay không. Khi họ nắm giữ cổ phần họ sẽ trở
thành cổ đông của công ty, được hưởng các quyền và nghĩa vụ như những thành
viên CTCP khác. Cổ phần xác lập quyền sở hữu của cổ đông như một tài sản thuộc
sở hữu của cổ đông, cổ đông sẽ có quyền tuyệt đối để định đoạt tài sản của mình,
đồng thời sử dụng cổ phần như là quyền biểu quyết với tất cả các hoạt động của
công ty.
Thứ hai, CTCP quyết định mệnh giá của cổ phần và thể hiện nó trên cổ phiếu.
Theo Khoản 1, Điều 120 Luật Doanh nghiệp 2014 thì cổ phiếu là chứng chỉ
do CTCP phát hành, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử xác nhận quyền sở hữu
một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Như vậy, để có căn cứ xác nhận quyền sở
hữu cổ phần, CTCP sẽ cung cấp cổ phiếu với các thông tin của cổ đông, số lượng cổ
phần, mệnh giá… cho các cổ đông.
Mệnh giá cổ phần có thể khác với giá chào bán cổ phần. Giá chào bán cổ
phần do HĐQT của CTCP quyết định nhưng không được thấp hơn giá thị trường tại
thời điểm chào bán. Giá trị của cổ phần có thể được ghi trong sổ sách của công ty
7
tại thời điểm gần nhất, trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. (Khoản 1,
2, 3, 4, Điều 125 Luật Doanh nghiệp 2014).
Thứ ba, cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng.
Chuyển nhượng cổ phần là đặc điểm đặc trưng của công ty đối vốn như
CTCP. Việc chuyển nhượng cổ phần dễ dàng sẽ tạo sự năng động trong việc chuyển
giao quyền sở hữu, cho phép nhiều người có thể tham gia vào công ty dễ dàng
nhưng lại không làm thay đổi cấu trúc vốn của công ty.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh nên kể từ ngày đăng ký vốn điều lệ thành lập công ty, tài sản
này của công ty sẽ tách bạch với tài sản thành viên góp vốn vào đó. Nghĩa là cổ
đông không thể rút vốn ra trừ khi CTCP giải thể. Như vậy cổ đông chỉ có thể yêu
cầu công ty mua lại cổ phần hoặc chuyển nhượng cổ phần cho người khác. Việc
mua lại cổ phần sẽ làm giảm vốn của CTCP nhưng việc chuyển nhượng cổ phần thì
cổ đông vừa có thể thu hồi vốn, công ty vẫn bảo toàn tài chính hoạt đông. Đây là
đặc trưng giúp mô hình công ty này mở rộng quy mô và phát triển.
1.1.3. Các loại cổ phần
Cổ phần của CTCP được chia làm hai loại: Cổ phần phổ thông và cổ phần ưu
đãi. Cổ phần ưu đãi bao gồm các loại: Cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ
tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do điều lệ CTCP quy
định. Mỗi loại cổ phần sẽ có những quy định về quyền lợi đặc thù riêng mà cổ đông
sẽ lựa chọn mua theo nhu cầu riêng của mình.
Ở nước ta, vào những ngày đầu, CTCP không được phát hành nhiều loại cổ
phần. Theo Luật công ty năm 1990 thì CTCP chỉ có thể phát hành cổ phiếu dưới
dạng cổ phiếu có ghi tên và cổ phiếu không ghi tên. Cổ phiếu có ghi tên là cổ phiếu
của các thành viên sáng lập và các thành viên của HĐQT. Loại cổ phiếu này chỉ
được phép tự do chuyển nhượng khi được sự đồng ý của HĐQT và sau hai năm, khi
thành viên đó thôi giữ chức thành viên HĐQT. Sự hạn chế trong việc chuyển
nhượng các loại cổ phiếu làm cơ cấu vốn điều lệ trong CTCP cứng nhắc, không hấp
dẫn nhà đầu tư và kìm hãm sự phát triển của TTCK.
8
Mỗi thành riêng khi tham gia vào CTCP sẽ có những nhu cầu đầu tư riêng,
cổ đông có mục đích là tham gia vào quản lý doanh nghiệp sẽ lựa chọn cổ phần ưu
đãi biểu quyết, cổ đông chỉ quan tâm đến lợi nhuận thì sẽ lựa chọn cổ phần ưu đãi…
Vì vậy CTCP thu hút nhiều người cùng tham gia vào công ty, pháp luật quy định
nhiều loại cổ phần để thuận tiện cho các nhà đầu tư tham gia đầu cơ, phát triển
TTCK Việt Nam như những nước phát triển trên thế giới.
Theo Điều 113, Luật Doanh nghiệp 2014 thì CTCP sẽ có các loại cổ phần sau:
Thứ nhất, cổ phần phổ thông
Cổ phần phổ thông là cổ phần bắt buộc mà tất cả CTCP phải phát hành. Pháp
luật ở thế giới hay Việt Nam đều quy định về cổ phần phổ thông là nền tảng của
CTCP với tỷ lệ lớn nhất.
Loại cổ phần bắt buộc phải có của tất cả các CTCP là cổ phần phổ thông. Chỉ
cần sở hữu cổ phần phổ thông, một người đã có thể trở thành cổ đông phổ thông với
các quyền và nghĩa vụ cơ bản. Cổ phần phổ thông của CTCP không thể chuyển
thành cổ phần ưu đãi. Nhưng cổ phần ưu đãi có thể chuyển thành cổ phần phổ thông
theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Theo Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm
2014, cổ đông phổ thông có các quyền cơ bản sau:
Một là, tham dự và phát biểu trong các Đại hội đồng cổ đông và thực hiện
quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền hoặc theo hình
thức khác do pháp luật, Điều lệ CTCP quy định. Mỗi cổ phần phổ thông là một
phiếu biểu quyết;
Hai là, nhận cổ tức với định mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông;
Ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng
cổ đông trong công ty;
Ba là, tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường
hợp pháp luật về doanh nghiệp có quy định khác; Xem xét, tra cứu và trích lục các
thông tin trong danh sách cổ đông có quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông
tin không chính xác;
Bốn là, xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ CTCP, biên bản họp
9
Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;
Năm là, khi CTCP giải thể hoặc phá sản, được nhận một phần tài sản còn lại
tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại CTCP.
Bên cạnh các quyền lợi, cổ đông phổ thông cũng có các nghĩa vụ sau (Điều
115, Luật Doanh nghiệp năm 2014):
Một là, thanh toán đủ và đúng thời hạn số cổ phần cam kết mua, tức là trong
vòng 90 ngày kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ
đông phổ thông phải hoàn thành số tiền góp vốn đã đăng ký;
Hai là, không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi CTCP
dưới mọi hình thức, trừ khi được CTCP hoặc người khác mua lại cổ phần;
Ba là, tuân thủ Điều lệ, quy chế nội bộ của Công ty.
Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập
Theo Khoản 4, Điều 2 Luật Doanh nghiệp 2014 “Cổ đông sáng lập là cổ
đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng
lập công ty cổ phần”. Ngoài ra, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua
ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký
doanh nghiệp và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90
ngày, kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Điều đó
cho thấy quy định pháp luật quy định rất rõ về vai trò của cổ phần phổ thông là nền
tảng quan trọng trong CTCP. Mỗi cổ đông sáng lập phải sở hữu ít nhất một cổ phần
phổ thông và cùng nhau giữ tỷ lệ ít nhất 20% cổ phần phổ thông của công ty.
Thứ hai, cổ phần ưu đãi
Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần quy định các quyền lợi đặc biệt hơn so với cổ
phần phổ thông. Khác với cổ phần phổ thông bắt buộc phải có ở mỗi CTCP, cổ
phần ưu đãi có thể có hoặc không tùy vào mục đích phát hành của từng CTCP. Cổ
đông sở hữu cổ phần ưu đãi sẽ trở thành cổ đông ưu đãi. Khoản 2. Điều 113 Luật
Doanh nghiệp 2014 quy định cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
Một là, cổ phần ưu đãi biểu quyết
Cổ phần ưu đãi biểu quyết có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần
10
phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ CTCP
quy định. Trong CTCP, quyền của cổ đông thể hiện ở quyền biểu quyết đối với các
nội dung trọng yếu của công ty. Thông thường một cổ phần tương ứng với một
phiếu biểu quyết, tuy nhiên đối với một cổ phần ưu đãi biểu quyết thì một cổ phần
ưu đãi biểu quyết có phiếu biểu quyết cao hơn một, và mức độ cao hơn bao nhiêu là
do Điều lệ công ty quy định. Vì tính đặc biệt đó, nên không phải chủ thể nào cũng
được sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết. Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy quyền và
cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Sau thời hạn ba
năm, kể từ khi CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần ưu
đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
Do tính đặc biệt của cổ phần ưu đãi biểu quyền khi có quyền biểu quyết cao
hơn so với cổ phần phổ thông nên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không
được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. Quyền chuyển nhượng ở đây
không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là việc mua bán mà cần phải hiểu bao gồm cả
bán, tặng cho, thừa kế…Ngoài hạn chế như đã nêu thì cổ đông sở hữu cổ phần ưu
đãi biểu quyết có những quyền khác như cổ đông phổ thông.
Hai là, cổ phần ưu đãi cổ tức
Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với
mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia
hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc
vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác
định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức.
Cổ đông sở hữu ưu đãi cổ tức có hạn chế là không có quyền biểu quyết, dự
họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát, còn lại có
quyền như những cổ đông phổ thông khác. Như vậy có thể thấy, cổ đông ưu đãi cổ
tức là cổ đông chỉ quan tâm đến lợi nhuận thu được từ việc đầu tư mua cổ phần ở
CTCP mà không muốn tham gia vào việc quản lý, vận hành công ty.
Ba là, cổ phần ưu đãi hoàn lại
Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp theo yêu
11
cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu
đãi hoàn lại. Trừ hạn chế cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền
dự họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông, không được đề cử người vào HĐQT
và Ban kiểm soát. Ngoài ra, họ có các quyền và nghĩa vụ như cổ đông phổ thông.
Điều lệ CTCP quy định cụ thể hoặc Đại hội đồng cổ đông quyết định việc ai được
mua cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại.
Như vậy, so với cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi
hoàn lại khác ở điểm là không có quyền dự họp và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ
đông, không được đề cử người vào HĐQT và Ban kiểm soát. Điều đó cho thấy cổ
đông mua cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại là những cổ đông quan
tâm đến cổ tức, lợi nhuận cũng như muốn giảm rủi ro, bảo toàn số vốn góp của
mình trong trường hợp công ty có thua lỗ. Đồng thời họ có thể không có kinh
nghiệm quản lý điều hành công ty nên không muốn tham gia quản lý vận hành.
Bốn là, cổ phần ưu đãi khác do điều lệ CTCP quy định
Đây là một quy định mở để cho CTCP chủ động phát hành cổ phần ưu đãi
nhằm thu hút nhà đầu tư, kêu gọi vốn. Có thể trên thực tế sẽ có những nhà đầu tư có
nhu cầu khác nên nhằm tăng sự linh hoạt trong chiến lược kinh doanh của CTCP,
luật quy định cho phép CTCP phát hành những cổ phần ưu đãi khác, được quy định
chi tiết và điều chỉnh bởi Điều lệ công ty.
Tham khảo pháp luật của các nước tương đồng Việt Nam như Thái Lan,
Philippine, Malaysia về quy định cổ phần ưu đãi thì ở các nước này bao gồm: Ưu
đãi cơ bản, ưu đãi bỏ phiếu, ưu đãi không bỏ phiếu, ưu đãi dồn lãi, ưu đãi không
dồn lãi, ưu đãi phức hợp, ưu đãi có thể chuyển đổi.
Thực tế hiện nay chưa có nhiều CTCP quy định về cổ phần ưu đãi khác theo
Điều lệ công ty, có thể do Luật và Nghị định hướng dẫn không có quy định nên các
CTCP chỉ phát hành những loại cổ phần ưu đãi theo quy định. Tuy nhiên, với làn
sóng hội nhập thì trong tương lai, chắc chắn nhu cầu của các nhà đầu tư sẽ phong
phú và đa dạng hơn, CTCP cũng thay đổi linh hoạt để đáp ứng thì nội dung này là
một công cụ hữu ích để CTCP thực hiện điều đó.
12
1.2. Khái niệm, đặc điểm của chuyển nhượng cổ phần
1.2.1. Khái niệm chuyển nhượng cổ phần
Chuyển nhượng cổ phần trước hết là mang bản chất của chuyển nhượng, tức
là có sự chuyển giao quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thế khác. Tiếp theo là do
sự đặc thù của cổ phần nên chuyển nhượng cổ phần mang đặc trưng riêng. Chuyển
nhượng cổ phần trong CTCP là việc cổ đông chuyển quyền sở hữu một phần hoặc
toàn bộ số cổ phần mà mình đang nắm giữ cho người khác (có thể là cổ đông hoặc
không phải là cổ đông của công ty). Bản chất của hành vi chuyển nhượng cổ phần là
sự dịch chuyển quyền sở hữu của cổ đông đối với cổ phần của họ trong công ty.
Việc chuyển nhượng cổ phần là hành vi làm thay đổi (mua bán, tặng cho, thừa kế...)
số lượng cổ phần mình đang nắm giữ hay nói cách khác là việc chuyển số cổ phần
mình đang nắm giữ cho người khác. Việc chuyển nhượng cổ phần của người sở hữu
cổ phần phải theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Chuyển nhượng cổ
phần theo nguyên tắc tự do, trừ các trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng. Chính sự
thuận lợi, linh hoạt trong việc chuyển nhượng cổ phần đã mang lại cho nền kinh tế
sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản
công ty.
Phân biệt chuyển nhượng cổ phần và mua lại cổ phần.
Chuyển nhượng cổ phần và mua lại cổ phần đều có bản chất là quan hệ mua
bán, làm thay đổi chủ sở hữu đối với cổ phần được bán hoặc chuyển nhượng trong
CTCP. Căn cứ theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 có thể phân biệt hoạt
động chuyển nhượng cổ phần và mua lại cổ phần ở những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Chủ thể của hoạt động chuyển nhượng cổ phần bao gồm bên bán là các cổ
đông và bên mua là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu góp vốn.
Còn chủ thể của hoạt động mua lại cổ phần bao gồm bên bán là cổ đông và
bên mua chính là CTCP.
13
Thứ hai, điều kiện chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ hai trường hợp bị hạn chế.
Một là, cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển
nhượng cổ phần đó cho người khác (Khoản 3, Điều 116 Luật Doanh nghiệp 2014).
Hai là, trong thời hạn ba năm, kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ
thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần
phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp
thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng
cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó. Các hạn
chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập được bãi bỏ sau thời hạn ba
năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Các hạn
chế của quy định này không áp dụng đối với cổ phần mà cổ đông sáng lập có thêm
sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và cổ phần mà cổ đông sáng lập chuyển
nhượng cho người khác không phải là cổ đông sáng lập của công ty (Khoản 3 - 4,
Điều 119 Luật Doanh nghiệp 2014).
Trong khi đó, việc mua lại cổ phần chỉ được thực hiện trong trường hợp:
Một là, cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại công ty
hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền
yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình (Khoản 1, Điều 129 Luật Doanh nghiệp
2014).
Hai là, HĐQT có quyền quyết định mua lại không quá 10% tổng số cổ phần
của từng loại đã được chào bán trong 12 tháng. Trường hợp khác, việc mua lại cổ
phần do Đại hội đồng cổ đông quyết định, tuy nhiên cũng không quá 30% tổng số
cổ phần phổ thông đã bán, một phần hoặc toàn bộ cổ phần ưu đãi cổ tức đã bán
(Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2014).
Thứ ba, trình tự thủ tục chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Đối với giao dịch chuyển nhượng cổ phần
14
Một là, việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách thông
thường hoặc thông qua giao dịch trên TTCK. Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp
đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển
nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua
giao dịch trên TTCK, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy
định của pháp luật về chứng khoán.
Hai là, trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì cổ phiếu cũ bị
hủy bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng
và số cổ phần còn lại.
Đối với giao dịch yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Một là, cổ đông yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình phải gửi yêu cầu
bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại,
giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được gửi đến công ty
trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua nghị quyết.
Hai là, công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông với giá thị
trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời
hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về
giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá.
Công ty giới thiệu ít nhất ba tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa
chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng.
Ba là, cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu cổ phần đã được mua lại phải được
tiêu hủy ngay sau khi cổ phần tương ứng đã được thanh toán đủ. Chủ tịch HĐQT và
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại do không
tiêu hủy hoặc chậm tiêu hủy cổ phiếu gây ra đối với công ty.
Bốn là, sau khi thanh toán hết số cổ phần mua lại, nếu tổng giá trị tài sản
được ghi trong sổ kế toán của công ty giảm hơn 10% thì công ty phải thông báo cho
tất cả các chủ nợ biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thanh toán hết số cổ phần
mua lại.
15
Đối với việc mua lại cổ phần theo quyết định của công ty
Công ty có thể mua lại cổ phần của từng cổ đông tương ứng với tỷ lệ cổ phần
của họ trong công ty. Trường hợp này, quyết định mua lại cổ phần của công ty phải
được thông báo bằng phương thức bảo đảm đến được tất cả cổ đông trong thời hạn
30 ngày, kể từ ngày quyết định đó được thông qua. Thông báo phải có tên, địa chỉ
trụ sở chính của công ty, tổng số cổ phần và loại cổ phần được mua lại, giá mua lại
hoặc nguyên tắc định giá mua lại, thủ tục và thời hạn thanh toán, thủ tục và thời hạn
để cổ đông chào bán cổ phần của họ cho công ty.
Cổ đông đồng ý bán lại cổ phần phải gửi chào bán cổ phần của mình bằng
phương thức bảo đảm đến được công ty trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông
báo. Công ty chỉ mua lại cổ phần được chào bán trong thời hạn nói trên.
Thứ tư, hậu quả pháp lý của giao dịch chuyển nhượng và mua lại cổ phần
Đối với giao dịch chuyển nhượng
Người nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ trở thành cổ đông công ty từ thời
điểm các thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông.
Vốn điều lệ của công ty không đổi, số cổ phần nắm giữ, tỷ lệ sở hữu cổ phần
của các cổ đông không đổi.
Đối với giao dịch yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Cổ phần được mua lại được coi là cổ phần chưa bán (Cổ phần chưa bán là cổ
phần được quyền chào bán và chưa được thanh toán). Công ty phải làm thủ tục điều
chỉnh giảm vốn điều lệ tương ứng với tổng giá trị mệnh giá các cổ phần được công
ty mua lại trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc thanh toán mua lại cổ
phần, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác.
1.2.2. Đặc điểm chuyển nhượng cổ phần
Theo pháp luật Việt Nam, chuyển nhượng cổ phần có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chuyển nhượng cổ phần là sự dịch chuyển quyền sở hữu của cổ
đông đối với cổ phần của họ trong công ty.
Dù là hành vi mua bán, tặng cho, thừa kế... thì chuyển nhượng cổ phần chính
là chuyển số lượng cổ phần (một phần hay tất cả) mình đang nắm giữ cho người
16
khác. Như vậy, cổ đông chuyển nhượng sẽ giảm đi số lượng cổ phần đối với việc
chuyển nhượng một phần hoặc không còn là cổ đông của công ty nếu như chuyển
nhượng toàn bộ cổ phần. Và người nhận chuyển nhượng cổ phần sẽ trở thành cổ
đông mới của công ty, được hưởng tất cả các quyền và nghĩa vụ như các cổ đông
hiện hữu khác của công ty.
Thứ hai, chuyển nhượng cổ phần không làm thay đổi số vốn của CTCP trên
thực tế.
Chuyển nhượng cổ phần không làm tăng thêm hay giảm đi số cổ phần thực
tế mà công ty đã phát hành. Việc chuyển nhượng cổ phần chỉ làm thay đổi chủ sở
hữu cổ phần chứ không làm mất đi giá trị cũng như số lượng cổ phần. Vì vậy, trên
thực tế, số cổ phần công ty đã chào bán vẫn được bảo toàn và vốn của công ty vẫn
như cũ. Chính điều này là một trong những ưu điểm của chuyển nhượng cổ phần
trong CTCP. Việc thay đổi cổ đông, đôi khi là những cổ đông tiềm năng giúp cho
hoạt động phát triển của công ty thêm vững mạnh nhưng không làm ảnh hưởng đến
quy mô sản xuất hay năng lực tài chính của CTCP đó trên thị trường.
Thứ ba, chuyển nhượng cổ phần có thể phát sinh lợi nhuận hoặc không.
Chuyển nhượng cổ phần là hoạt động mua bán nhằm tìm kiếm lợi nhuận của
người sở hữu cổ phần đó. Họ là những nhà đầu tư ban đầu mua cổ phần khi công ty
mới thành lập và theo sự phát triển của công ty, giá trị cổ phần tăng lên họ có thể
chuyển nhượng cho người khác có nhu cầu tham gia công ty để tìm kiếm lợi nhuận
từ khoản chênh lệch giá trị cổ phần so với ban đầu. Đây là một trong những kênh
đầu tư ưa thích của các nhà đầu tư, đôi khi họ không có ý định đồng hành lâu dài
cùng công ty, họ đón đầu những làn sóng đầu tư để mua vào với giá thấp nhất và
bán đi với giá tốt nhất. Đó là nguyên lý cơ bản của TTCK. Chuyển nhượng cổ phần
theo hình thức gián tiếp thông qua TTCK hoạt động theo nguyên tắc như vậy.
Tuy nhiên, chuyển nhượng cổ phần có thể là tặng cho hoặc thừa kế cổ phần.
Trong trường hợp này thì người chuyển nhượng không vì mục đích lợi nhuận và vì
muốn chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người nhận chuyển nhượng. Vì thế,
chuyển nhượng cổ phần tùy vào mục đích của người chuyển nhượng mà có thể phát
17
sinh lợi nhuận hoặc không.
Thứ tư, việc chuyển nhượng cổ phần của người sở hữu cổ phần phải theo
quy định của pháp luật và Điều lệ công ty
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ hạn chế cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập trong vòng
ba năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên việc
chuyển nhượng cổ phần không chỉ theo quy định của pháp luật mà còn theo Điều lệ
công ty. Nếu Điều lệ công ty có quy định về hạn chế cổ phần và nêu rõ trong cổ
phiếu của cổ phần tương ứng thì việc chuyển nhượng phải tuân theo quy định của
Điều lệ công ty. Đây là một đặc điểm cần lưu ý vì quy định pháp luật là chung
nhưng Điều lệ thì có đặc thù riêng, mỗi Điều lệ công ty sẽ có những quy định khác
nhau và trong trường hợp quy định hạn chế chuyển nhượng thì hành vi chuyển
nhượng cổ phần đó sẽ không được công nhận.
Thứ năm, chuyển nhượng cổ phần phải nộp thuế thu nhập cá nhân từ hoạt
động chuyển nhượng cổ phần
Theo Khoản b, Điều 4 Thông tư 25/2018/TT-BTC thì:
“Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán, bao gồm: thu nhập từ chuyển
nhượng cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ quỹ và các
loại chứng khoán khác theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán; Thu
nhập từ chuyển nhượng cổ phiếu của các cá nhân trong công ty cổ Phần theo quy
định tại khoản 2 Điều 6 Luật Chứng khoán và Điều 120 Luật Doanh nghiệp.”
Như vậy, thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần được hiểu là thu nhập từ
chuyển nhượng chứng khoán.
Căn cứ theo Điều 16 Thông tư 92/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung điểm a và
điểm b khoản 2 Điều 11 Thông tư số 111/2013/TT-BTC thì:
“Thuế suất và cách tính thuế
Cá nhân chuyển nhượng chứng khoán nộp thuế theo thuế suất 0,1% trên giá
chuyển nhượng chứng khoán từng lần.
Cách tính thuế: Thuế thu nhập cá nhân phải nộp = Giá chuyển nhượng
18
chứng khoán từng lần x Thuế suất 0,1%” [6].
Căn cứ vào quy định trên, khi chuyển nhượng cổ phần bằng với giá gốc hay
hơn giá gốc lúc đầu thì vẫn phải nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) từ hoạt động
chuyển nhượng vốn. Đây là điểm khác biệt giữa việc chuyển nhượng cổ phần và
chuyển nhượng vốn góp trong công ty TNHH. Đối với chuyển nhượng vốn góp
trong công ty TNHH, nếu chuyển nhượng ngang giá, không phát sinh thu nhập thì
không phải nộp thuế TNCN từ hoạt động chuyển nhượng đó. Tuy nhiên đối với
công ty cổ phần, khi chuyển nhượng cổ phần dù ngang giá không phát sinh thu nhập
vẫn phải nộp thuế TNCN với mức thuế suất 0,1%.
1.3. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Khái niệm pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong CTCP là khái niệm ít được
nghiên cứu trong khoa học pháp lý Việt Nam. Pháp luật về các lĩnh vực khác nhau
hình thành trên cơ sở tập hợp các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội có cùng đặc điểm về nội dung, tính chất.
Trong nền kinh tế chuyển đổi, các quan hệ kinh tế hình thành, phát triển đa dạng và
với tốc độ nhanh. Nhiều quan hệ kinh tế đã trở thành “cơ bản, điển hình, phổ biến
có liên quan tới đời sống xã hội…” được pháp luật điều chỉnh. [27, tr 25]
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực thay đổi quyền sở hữu cổ phần cũng như quyền và nghĩa vụ của cổ đông
trong CTCP. Với các quy định đó, Nhà nước ghi nhận quyền tự do chuyển nhượng
cổ phần của cổ đông như quyền chuyển giao một loại quyền tài sản trong giao lưu
dân sự. Pháp luật chuyển nhượng cổ phần điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản sau:
Một là, quan hệ giữa bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng;
Hai là, quan hệ giữa bên nhận chuyển nhượng cổ phần mới với CTCP và với
các cổ đông trong CTCP;
Ba là, quan hệ giữa bên chuyển nhượng với cơ quan quản lý nhà nước về
19
nghĩa vụ thuế…
Đặc điểm pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Thứ nhất, chuyển nhượng cổ phần được điều chỉnh trực tiếp bởi Luật Doanh
nghiệp và Luật Chứng khoán
Chuyển nhượng cổ phần có hai hình thức, hoặc là trực tiếp thông qua văn
bản hợp đồng chuyển nhượng, hoặc là gián tiếp thông qua giao dịch trên TTCK.
Nếu chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải được
bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký.
Trường hợp này được quy định và điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp.
Nếu chuyển nhượng thông qua giao dịch trên TTCK, trình tự, thủ tục và việc
ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán. Như vậy,
trường hợp này được quy định và điều chỉnh bởi Luật chứng khoán.
Như vậy, tùy vào hình thức chuyển nhượng trực tiếp hay gián tiếp mà
chuyển nhượng cổ phần sẽ do Luật Doanh nghiệp hay Luật Chứng khoán điều
chỉnh.
Bên cạnh được điều chỉnh trực tiếp bằng Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng
khoán thì tùy vào hệ quả pháp lý mà trường hợp chuyển nhượng cổ phần có thể
được điều chỉnh bởi Luật Dân sự, Luật Thuế... Như trong trường hợp cổ đông là cá
nhân chết mà không có người thừa tế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị
truất quyền thừa kế thì số cổ phần đó được giải quyết theo quy định của pháp luật
dân sự. Hoặc trong trường hợp chuyển nhượng các bên phải tuân theo quy định về
thuế chuyển nhượng được điều chỉnh bởi Luật Thuế.
Thứ hai, quy định về chuyển nhượng cổ phần chỉ thể hiện tại Điều 126 Luật
Doanh nghiệp 2014
Luật Doanh nghiệp 2005 không có điều khoản riêng quy định về chuyển
nhượng cổ phần. Chuyển nhượng cổ phần chỉ được thể hiện tại Khoản 5, Điều 87
Luật Doanh nghiệp 2005 và lồng ghép chung với nội dung chào bán cổ phần. Cụ
thể:
“Các cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định tại khoản
20
3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này. Việc chuyển nhượng được thực hiện
bằng văn bản theo cách thông thường hoặc bằng cách trao tay cổ phiếu. Giấy tờ
chuyển nhượng phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc
đại diện uỷ quyền của họ ký. Bên chuyển nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có
liên quan cho đến khi tên của người nhận chuyển nhượng được đăng ký vào sổ đăng
ký cổ đông.”
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định hai trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ
phần là đối với cổ đông sáng lập trong ba năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh và cổ phần ưu đãi.
Luật Doanh nghiệp 2014 tiến bộ hơn khi tách nội dung về chào bán cổ phần
và chuyển nhượng cổ phần thành các điều khoản riêng. Tại Điều 126 Luật Doanh
nghiệp 2014 có 07 nội dung quy định về chuyển nhượng cổ phần. Đặc biệt, so với
Luật Doanh nghiệp 2005 về hạn chế chuyển nhượng cổ phần thì ngoài hai trường
hợp là đối với cổ đông sáng lập trong ba năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh và cổ phần ưu đãi biểu quyết thì còn trường hợp hạn chế
chuyển nhượng cổ phần theo Điều lệ công ty. Khi Điều lệ công ty có quy định về
hạn chế cổ phần và nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng thì không được
chuyển nhượng cổ phần. Quy định mới này phù hợp với thực tiễn và giúp các doanh
nghiệp tự chủ hơn trong việc quy định về chuyển nhượng cổ phần để không ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Vì xét cho cùng,
chuyển nhượng cổ phần không thay đổi cấu trúc vốn nhưng thay đổi chủ sở hữu cổ
phần trong CTCP, tức là thay đổi thành viên trong công ty sẽ ảnh hưởng ít nhiều
đến quản trị trong doanh nghiệp. Thêm điều khoản mở về hạn chế chuyển nhượng
cổ phần theo Điều lệ công ty là để doanh nghiệp chủ động trong chiến lược phát
triển công ty.
Tuy nhiên, mặc dù Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cụ thể hơn Luật Doanh
nghiệp 2005 thì tất cả nội dung điều chỉnh về chuyển nhượng cổ phần chỉ mới được
quy định tại Điều 126. Trong các văn bản hướng dẫn chi tiết Luật Doanh nghiệp
2014 không có thêm nội dung hướng dẫn nào cho nội dung chuyển nhượng cổ phần.
21
Bên cạnh đó, chuyển nhượng cổ phần còn bị điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp và
Luật Chứng khoán tùy vào hình thức chuyển nhượng. Luật Doanh nghiệp 2014
không định nghĩa cụ thể thế nào là chuyển nhượng cổ phần. Đồng thời cả Luật
Doanh nghiệp 2014 và Luật Chứng khoán 2006 được sửa đổi bổ sung năm 2010 đều
không phân biệt rạch ròi giữa chuyển nhượng cổ phần và mua bán cổ phần, cổ phiếu
nên thường gây nhầm lẫn trên thực tế.
Thứ ba, quy định chuyển nhượng cổ phần theo phương thức liệt kê các
trường hợp cụ thể
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần không khái quát, định nghĩa cụ thể
chuyển nhượng cổ phần là gì mà chỉ liệt kê những trường hợp cơ bản của hoạt động
chuyển nhượng cổ phần. Điều này có thể phù hợp với thời điểm mà các nhà làm luật
xây dựng, tuy nhiên với các quy định theo hướng liệt kê các trường hợp cụ thể sẽ có
những hạn chế sau:
Một là, giới hạn phạm vi điều chỉnh của pháp luật chuyển nhượng cổ phần.
Thực tế, có những phát sinh chuyển nhượng không giống hoàn toàn với quy định tại
Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014, không thuộc các trường hợp cụ thể quy định,
người áp dụng sẽ boăn khoăn vì có những trường hợp quy định cụ thể, trường hợp
không. Với các trường hợp không có quy định sẽ không biết thực hiện chuyển
nhượng đó là đúng theo quy định pháp luật hay không.
Hai là, hoạt động chuyển nhượng cổ phần ngày càng phổ biến trên thị trường
kinh doanh, các hoạt động mua bán, sát nhập, nhu cầu đầu tư sẽ khiến cho hoạt
động chuyển nhượng cổ phần phong phú và đa dạng. Việc quy định điều luật theo
phương thức liệt kê sẽ dẫn đến thiếu đi các trường hợp khác phát sinh sau này.
1.3.2. Nội dung pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Pháp luật chuyển nhượng cổ phần hiện hành gồm các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật về điều kiện chuyển nhượng cổ phần.
Quy định về điều kiện chuyển nhượng cổ phần gồm có các quy định chung và các
điều kiện riêng cho từng loại cổ phần riêng biệt.
Một là, các điều kiện chung về chuyển nhượng cổ phần
22
Theo Bộ Luật Dân sự năm 2015, để giao dịch dân sự có hiệu lực thì người
tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự nguyện, mục đích
và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội.
Chuyển nhượng cổ phần là một loại giao dịch dân sự, vì thế phải đáp ứng các
điều kiện chung của pháp luật dân sự. Chủ thể tham gia chuyển nhượng cổ phần
phải đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình quyết định chuyển nhượng quyền sở
hữu của mình. Trong trường hợp chủ thể là người chưa thành niên thì phải có sự
đồng ý của người đại diện pháp luật.
Trong chuyển nhượng cổ phần, các bên phải tuân thủ các quy định chung
như cổ phần phải thuộc sở hữu hợp pháp của mình, các quyền và nghĩa vụ phải
được xác định rõ bằng văn bản là thực hiện đúng theo thời hạn thỏa thuận. Sau khi
hai bên hoàn thành nghĩa vụ đã thỏa thuận thì phải thông báo để CTCP ghi thông tin
vào sổ đăng ký thông tin của CTCP.
Hai là, các quy định về điều kiện riêng cho từng loại cổ phần riêng biệt.
Công ty cổ phần có nhiều loại cổ phần là cổ phần phổ thông và các loại cổ
phần ưu đãi, và không phải tất cả các loại cổ phần đều có điều kiện chuyển nhượng
như nhau. Ví dụ như trường hợp chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông
sáng lập trong vòng ba năm kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, nếu muốn chuyển nhượng cho người không phải cổ đông sáng lập thì
phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Như vậy trong trường hợp này
có thêm điều kiện là sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông, triệu tập họp và thông
qua nghị quyết Đại hội đồng cổ đông phải tuân theo quy định pháp luật.
Thứ hai, các quy định về nguyên tắc chuyển nhượng cổ phần.
Nguyên tắc chung của nhượng cổ phần là tự do chuyển nhượng trừ ba trường
hợp hạn chế là cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần của cổ đông sáng lập trong ba
năm kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và hạn chế
chuyển nhượng theo Điều lệ công ty có thể hiện trên cổ phiếu của cổ phần tương
ứng. Lý do hạn chế của ba trường hợp này do mục đích của CTCP trong ba năm đầu
23
cần sự ổn định về quản lý và vận hành doanh nghiệp trước khi mở cửa tự do cho tất
cả đối tượng tham gia vào công ty. Tuy nhiên, hạn chế đối với cổ phần ưu đãi biểu
quyết, cổ phần của cổ đông sáng lập trong ba năm kể từ ngày CTCP được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh sau ba năm cũng bị gỡ bỏ. Cổ phần ưu đãi biểu
quyết sau ba năm sẽ chuyển thành cổ phần phổ thông, cổ đông sáng lập sau ba năm
cũng không còn ràng buộc quyền tự do chuyển nhượng. Sau đó, vẫn quay về
nguyên tắc tự do chuyển nhượng, chủ sở hữu tự do định đoạt quyền sở hữu với cổ
phần của mình.
Nguyên tắc tự do chuyển nhượng cổ phần là nguyên tắc tạo nên đặc trưng
cho CTCP. Với cấu trúc đối vốn, không quan trọng về thành viên tham gia, mục
đích của CTCP là linh hoạt trong việc huy động vốn thông qua việc phát hành cổ
phần, chứng khoán. Khi cổ đông sở hữu không còn muốn nắm giữ cổ phần thì có
thể chuyển nhượng cho người khác để thu hồi vốn. Điều này sẽ thu hút nhiều nhà
đầu tư tham gia vì nguyên tắc chuyển nhượng cổ phần tự do giúp họ không bị ràng
buộc và gắn bó mãi với CTCP, họ có thể lựa chọn tham gia và rời khỏi bất kỳ khi
nào họ muốn.
Thứ ba, các quy định về hình thức pháp lý của chuyển nhượng cổ phần.
Pháp luật chuyển nhượng cổ phần quy định định hình thức pháp lý của
chuyển nhượng gồm có hai hình thức hoặc là thông qua hợp đồng chuyển nhượng,
hoặc là thông qua giao dịch trên TTCK.
Với hình thức thông qua hợp đồng chuyển nhượng thì phải tuân thủ nội dung
cơ bản của pháp luật về hợp đồng để đảm bảo hợp đồng chuyển nhượng có hiệu lực
pháp lý.
Với hình thức pháp lý là thông qua giao dịch trên TTCK phải tuân thủ các
điều kiện nghiêm ngặt về tính minh bạch tài chính, về khả năng sinh lời, phải được
Ủy ban Chứng khoán thẩm định và phải tuân thủ các quy tắc kiểm toán theo pháp
luật về chứng khoán.
1.3.3. Pháp luật chuyển nhượng cổ phần ở các nước trên thế giới
Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ 18, 19
24
cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất hiện loại hình
CTCP từ rất sớm. CTCP xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn (East
India Company) của Anh (1600-1874) [31, tr 10]. Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh.
Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính TNHH dành cho các công ty sản
xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn kia trở thành phổ
biến vì bang nào không dùng đến nó là không thu hút được vốn [4, tr 25].
So với thế giới, CTCP ở Việt Nam ra đời muộn hơn, khi Luật công ty được
ban hành ngày 21/12/1990, hình thức CTCP mới chính thức được quy định cụ thể.
Có thể nói, pháp luật về CTCP nói chung và pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
nói riêng ở các nước phát triển được quy định chặt chẽ và phát triển hơn Việt Nam.
Ở Pháp, CTCP được gọi là công ty vô danh, phải đảm bảo điều kiện có ít
nhất 7 cổ đông; vốn pháp định tối thiểu là 25.000 FF đối với các công ty không phát
hành chứng khoán và 1.500.000 FF đối với các công ty phát hành chứng khoán;
mệnh giá thống nhất ở mỗi cổ phiếu là 100 FF đối với các công ty phát hành chứng
khoán [3, tr 7]. Theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần. Người nhận chuyển nhượng phần vốn góp phải làm thủ tục thông
báo cho CTCP về việc chuyển nhượng bằng một công chứng thư. Việc thông báo
này được học thuyết pháp lý của nước này lý giải như sau: Người sở hữu phần vốn
góp có một quyền chủ nợ kép đối với CTCP. Điều đó có nghĩa là: Một mặt, họ có
quyền yêu cầu CTCP trả một khoản lợi nhuận/cổ tức hàng năm từ một khoản lợi
nhuận có thể chia của CTCP. Mặt khác, họ có quyền yêu cầu CTCP chia tài sản còn
lại của công ty khi CTCP giải thể tương ứng với giá trị phần vốn góp của họ. Hợp
đồng chuyển nhượng phần vốn góp còn mang tính chất là một hợp đồng chuyển
nhượng quyền chủ nợ. Hay nói các khác, pháp luật của Cộng hòa Pháp (Điều 1690,
Bộ luật Dân sự Pháp) không quy định bắt buộc phải có thủ tục đăng ký quyền sở
hữu đối với tài sản là phần vốn góp [30]. Nhìn từ điểm này có thể thấy pháp luật
chuyển nhượng cổ phần ở Pháp tối thiểu hóa thủ tục cho các cổ đông hơn Việt Nam
khi không phải đăng ký quyền sở hữu tài sản để việc chuyển nhượng tuân theo
nguyên tắc tự do tuyệt đối hơn. Đây có thể là nội dung pháp luật Việt Nam có thể
25
tham khảo để đưa bản chất CTCP về tiệm cận với quy định chung của pháp luật thế
giới.
Đối với Nhật Bản, CTCP được coi là trụ cột của nền kinh tế. Luật Thương
mại của Nhật Bản với bề dày lịch sử hàng trăm năm đã công nhận sự tồn tại của
CTCP. Luật Doanh nghiệp của Việt Nam và Luật Công ty của Nhật Bản có các quy
định tương đồng về CTCP, ví dụ như quy định về vốn điều lệ, cổ phần, quyền của
cổ đông, chuyển nhượng cổ phần, tổ chức nội bộ, v.v…Pháp luật của Nhật Bản
cũng quy định các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần. Tuy nhiên, có
trường hợp ngoại lệ là người lao động cũng có thể được CTCP cho nắm giữ cổ phần.
Một số CTCP tại Nhật Bản quy định người lao động có thể nắm giữ cổ phần
nhằm tạo ra cơ cấu cổ đông ổn định. Pháp luật của Nhật Bản quy định cổ phần do
người lao động nắm giữ không được phân phối, chuyển nhượng cho người bên
ngoài. Khi người lao động thôi việc thì phải bán lại cho Hội nắm cổ phần (Hội nắm
cổ phần của người lao động do CTCP lập ra và đại diện Công ty mua cổ phần và
phân phối cho người lao động) [14]. Ở Việt Nam, với những CTCP lớn muốn tạo
sự gắn kết của người lao động với CTCP sẽ phát hành cổ phiếu ưu tiên ESOP
(Employee Stock Ownership Plan) nghĩa là kế hoạch sở hữu cổ phần của người lao
động. Bản chất của cổ phiếu ESOP là việc CTCP (thường là giá rẻ hơn giá thị
trường) cho các thành viên trong HĐQT, ban giám đốc, trưởng các phòng ban và
các nhân viên có đóng góp tích cực cho doanh nghiệp. Mục đích của cổ phiếu ESOP
là để gắn lợi ích của nhân viên với kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì khi đã sở hữu một phần công ty thì nhân viên sẽ đóng góp công sức nhiều hơn
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là nét tương đồng giữa Việt Nam
và Nhật Bản, tuy nhiên trong khi Nhật Bản có sự kiểm soát về quyền tự do chuyển
nhượng trong trường hợp này thì ở Việt Nam chưa thấy quy định chặt chẽ. Trên
thực tế, khi người lao động nghỉ việc họ sẽ chuyển nhượng cổ phần tự do cho đối
tượng họ mong muốn trừ khi Điều lệ CTCP có quy định hạn chế và thông báo trước
với nhân viên công ty. Ngoài ra, việc ứng dụng phát hành cổ phiếu ESOP tại Việt
Nam cũng gây nhiều tranh cãi khi nó ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông hiện
26
hữu, áp dụng không đúng mục đích ban đầu vì chỉ để phục vụ cho đối tượng lãnh
đạo của công ty mà không vì tạo động lực cho toàn thể nhân viên Công ty. Vì vậy,
khi tham khảo các quy định pháp luật về chuyển nhượng cổ phần của các nước phát
triển cần áp dụng từng bước có chọn lọc, có cân nhắc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam đồng thời có biện pháp kiểm soát nó.
Tiểu kết chương 1
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chuyển nhượng cổ phần là hoạt động
phổ biến và quan trọng. Hệ quả pháp lý của chuyển nhượng cổ phần trong công ty
tạo ra khả năng chuyển quyền sở hữu tài sản của cổ đông sang cho người khác (có
thể là thành viên hoặc không phải là thành viên của công ty), đồng thời ràng buộc
nghĩa vụ và mang đến quyền lợi cho các thành viên, cổ đông của công ty đó.
Ở các nước phát triển, với cơ chế tự do chuyển nhượng, liên kết nguồn vốn
đã thu hút các nguồn đầu tư, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế. Trong xu thế chung
của toàn cầu, Việt Nam cũng mở cửa thị trường thu hút đầu tư. Việc quy định về
chuyển nhượng cổ phần trong CTCP là một trong những hình thức thu hút đầu tư
hiệu quả khi các nhà đầu tư, bằng cách mua lại cổ phần sẽ trở thành cổ đông của
công ty đó, có thể tham gia tác động trực tiếp đến kế hoạch phát triển của công ty.
Hiện nay, nền kinh tế của nước ta còn nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp thiếu
vốn, thiếu nhân lực, kinh nghiệm lâm vào tình trạng phá sản hoặc bị thôn tính. Việc
chuyển nhượng cổ phần sẽ san sẻ một phần gánh nặng về nhân lực khi họ có thể
chuyển nhượng cho những cổ đông là những nhà đầu tư chiến lược nhằm giúp công
ty phát triển mạnh mẽ hơn.
Ngoài ra, theo đánh giá chung, xu hướng mua bán, sáp nhập doanh nghiệp
(M&A) sẽ được đẩy nhanh khi thị trường Việt Nam trở thành đối tượng quan tâm
của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Với hình thức liên kết hoặc mua lại doanh nghiệp
nội địa, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ nhanh chóng tiếp cận thị trường hơn thay vì
khởi động một dự án kinh doanh từ đầu. Xu hướng này cũng phù hợp với những gì
27
đang diễn ra trên thế giới và khu vực thời gian gần đây [37]. Hoạt động M&A tại
Việt Nam khởi động từ năm 2000 và gia tăng nhanh chóng về số lượng và giá trị
các thương vụ. Các giao dịch M&A năm sau đã gấp 5-6 lần năm trước về tổng giá
trị và gấp 2- 3 lần về số lượng. Và một trong các hình thức M&A là mua lại phần
vốn góp hoặc cổ phần, vì thế, quy định về chuyển nhượng cổ phần cũng là một
trong những cách góp phần thúc đẩy hoạt động M&A tại Việt Nam phát triển.
Với nhu cầu thực tiễn, pháp luật về chuyển nhượng cổ phần của nước ta hiện
nay cũng bắt đầu định hình và điều chỉnh quan hệ chuyển nhượng cổ phần, là những
quy định cơ bản để đối tượng chuyển nhượng cổ phần có căn cứ áp dụng, đảm bảo
mục tiêu phát triển chung của CTCP và nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
28
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CHUYỂN NHƯỢNG
CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các quy định về quyền của cổ đông trong việc chuyển nhượng cổ phần
2.1.1. Quy định về quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
Tham khảo pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở các nước, mặc dù mỗi
quốc gia có những quy định riêng, nhưng nguyên tắc chung đều quy định về quyền
tự do chuyển nhượng cổ phần.
Pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức quy định cổ đông của CTCP có thể là
cá nhân hoặc tổ chức. Cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
CTCP trong phạm vi giá trị cổ phần mà mình sở hữu. Cổ phần của CTCP được tự
do chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng cổ phần của CTCP có thể được thực hiện
dễ dàng trên thị trường chứng khoán. [1, tr 5]
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này. Theo Luật Doanh nghiệp 2014 thì cổ phần được tự do chuyển nhượng, không
bị giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng cũng như giới hạn về số lượng
cổ phần được chuyển nhượng. Điều đó có nghĩa là người sở hữu cổ phần có thể
chuyển nhượng một phần hay toàn bộ số cổ phần mình nắm giữ cho người khác,
nếu không thuộc ba trường hợp mà pháp luật hạn chế chuyển nhượng.
Phân tích về ba trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần, về nguyên tắc
thì chuyển nhượng cổ phần là tự do, nhưng pháp luật lại quy định về trường hợp
hạn chế tự do chuyển nhượng là vì tính đặc biệt nó.
Thứ nhất, đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết.
Theo Khoản 1, Điều 116 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Cổ phần ưu đãi biểu
quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số
phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định”.
Trong CTCP, quyền của cổ đông thể hiện ở quyền biểu quyết đối với các
29
hoạt động của công ty. Thông thường một cổ phần tương ứng với một phiếu biểu
quyết, tuy nhiên đối với một cổ phần ưu đãi biểu quyết thì phiếu biểu quyết cao hơn
một, còn mức độ cao hơn bao nhiêu là do Điều lệ công ty quy định. Vì tính đặc biệt
đó, nên không phải chủ thể nào cũng được sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết. Theo
Khoản 3, Điều 113 Luật Doanh nghiệp 2014 “Chỉ có tổ chức được Chính phủ ủy
quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi
biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong 03 năm, kể từ ngày công ty
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi
biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông”.
Sở dĩ giới hạn chủ thể sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết là tổ chức được
Chính phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập vì tổ chức được Chính phủ ủy quyền tham
gia vào công ty thì ngành nghề của công ty đó là một trong những ngành nghề trọng
điểm của nền kinh tế. Nên để đảm bảo trật tự nền kinh tế, tổ chức đại diện cho
Chính phủ phải có quyền biểu quyết cao hơn thông thường nên được sở hữu cổ
phần ưu đãi biểu quyết. Và thời hạn sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết đối với tổ
chức được Chính phủ ủy quyền là không giới hạn. Còn đối với trường hợp cổ đông
sáng lập được sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết là do mục tiêu phát triển của công
ty. Những nhà sáng lập công ty sẽ có định hướng phát triển công ty của mình từ
ngày thành lập, việc sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết giúp cho các cổ đông sáng
lập có lợi thế hơn trong việc biểu quyết các nội dung quan trọng của công ty để đảm
bảo công ty theo đúng định hướng phát triển ban đầu đề ra mà không bị tác động
bởi những cổ đông khác không phải cổ đông sáng lập nhưng sở hữu tỷ lệ cổ phần
cao trong công ty. Tuy nhiên đặc quyền này của cổ đông sáng lập chỉ trong vòng ba
năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời
hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần
phổ thông. Quy định này hợp lý vì trong ba năm đầu, khi công ty mới thành lập cần
sự ổn định trong chiến lược và định hướng phát triển nên cổ đông sáng lập vì mục
tiêu đó cần được đảm bảo tính quyết định thông qua sở hữu cổ phần ưu đãi biểu
quyết. Tuy nhiên sau ba năm, công ty dần đi vào hoạt động ổn định, lúc này để đảm
30
bảo sự công bằng giữa các cổ đông thì cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng
lập phải chuyển sang cổ phần phổ thông như những cổ đông khác để đảm bảo các
cổ đông là có quyền biểu quyết như nhau đối với các hoạt động của công ty.
Từ phân tích trên cho thấy tính đặc biệt của cổ phần ưu đãi biểu quyết chỉ áp
dụng cho đối tượng đặc thù, nên cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển
nhượng. Vì chuyển nhượng cổ phần sẽ dịch chuyển quyền sở hữu, chủ thể sở hữu
cổ phần ưu đãi lúc này có thể là chủ thể khác với quy định và mục đích dành cho
đối tượng sở hữu cổ phần ưu đãi, dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các cổ đông trong
công ty mà không vì mục tiêu phát triển chung của công ty.
Thứ hai, đối với cổ phần của cổ đông sáng lập trong vòng ba năm kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Quyền tự do chuyển nhượng của cổ đông sáng lập bị thu hẹp về đối tượng
nhận chuyển nhượng là các cổ đông sáng lập khác, nếu đối tượng nhận chuyển
nhượng không phải là cổ đông sáng lập, thì chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ
thông khi được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Quy định như vậy nhằm
mục đích ổn định tổ chức của công ty trong ba năm đầu. Khi công ty mới thành lập,
bên cạnh đó cũng nhằm buộc cổ đông sáng lập phải chịu trách nhiệm với công ty
khi công ty vừa được thành lập và đang trong giai đoạn phát triển. Sau ba năm kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp thì mọi hạn chế đối
với cổ đông sáng lập được bãi bỏ. Việc hạn chế chuyển nhượng đối với cổ phần của
cổ đông sáng lập một phần cũng nhằm để bảo vệ lợi ích cho người mua cổ phần là
người không tham gia thành lập công ty cổ phần, không biết được thực trạng công
ty khi mới thành lập.
Mặc dù là một trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần, nhưng so với
hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết là tuyệt đối thì hạn chế chuyển
nhượng đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập lại tương đối. Trong trường
hợp được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông, tức là được tất cả các cổ đông
trong công ty chấp thuận thì cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập có thể chuyển
nhượng cho người khác không phải là cổ đông sáng lập. Quy định mở này bên cạnh
31
việc bảo vệ lợi ích của tất cả cổ đông trong công ty còn tạo sự linh hoạt trong quản
trị CTCP. Nếu xét thấy, vì lý do chính đáng, việc chuyển nhượng đó không ảnh
hưởng đến quyền lợi chung cũng như sự phát triển của công ty thì Đại hội đồng cổ
đông có thể linh hoạt đồng ý sự chuyển nhượng đó.
Thứ ba, hạn chế chuyển nhượng theo Điều lệ công ty
Như phân tích ở trên, hạn chế chuyển nhượng theo Điều lệ công ty là một
quy định mới so với Luật Doanh nghiệp 2005. Đây là một quy định mới phù hợp
với nhu cầu phát triển hiện nay của doanh nghiệp. Điều lệ công ty là đại diện chung
cho ý chí của tất cả cổ đông trong công ty, nó như cơ sở pháp lý nội bộ trong doanh
nghiệp, tùy theo từng đặc thù riêng mà doanh nghiệp xét thấy hạn chế chuyển
nhượng là quan trọng với doanh nghiệp mình, các cổ đông thống nhất thì hạn chế đó
là phù hợp. Tuy nhiên để hạn chế chuyển nhượng theo Điều lệ có hiệu lực thì bắt
buộc các quy định này phải được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.
Đồng thời các quy định này phải phù hợp và không trái các quy định của pháp luật.
Nguyên tắc tự do chuyển nhượng cổ phần là đặc trưng cơ bản của CTCP, và
được quy định ở nhiều điều khoản khác nhau trong Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Điều 110, Khoản 1, Điểm d, quy định: “d) Cổ đông có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3,
Điều 119 và khoản 1, Điều 126 của Luật này”;
Điều 114, Khoản 1, Điểm d quy định về quyền của cổ đông phổ thông: “d)
Tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định
tại khoản 3, Điều 119 và khoản 1, Điều 126 của Luật này”;
Điều 126, Khoản 1, quy định: “1. Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3, Điều 119 của Luật này và Điều lệ công ty có quy
định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn
chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ
trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng”.
Công ty cổ phần là mô hình doanh nghiệp có tính chất đại chúng (phản ánh
cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển đổi dễ dàng mà không làm mất đi tính ổn
32
định trong cấu trúc vốn) khác hẳn với mô hình doanh nghiệp có tính chất đối nhân,
nên việc chuyển nhượng vốn trong CTCP dễ dàng hơn so với trong công ty TNHH
và CTHD vì vậy cổ đông CTCP“không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ
thông dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ
phần” (Điều 115, Khoản 1, Luật Doanh nghiệp 2014). Pháp luật quy định như vậy
nhằm bảo toàn vốn của CTCP trong suốt quá trình hoạt động. Tuy nhiên, bên cạnh
ưu điểm không được rút vốn để bảo toàn vốn thì điều này hạn chế quyền tự do của
cổ đông sẽ dẫn đến bó buộc thành viên tham gia CTCP. Vì thế pháp luật đã mở
thêm điều khoản là tuy không được rút vốn nhưng các cổ đông “được tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác và cho người không phải là cổ đông”
(Điều 114, Khoản 1, Điểm d, Luật Doanh nghiệp 2014. Việc chuyển nhượng cổ
phần vừa giúp các cổ đông linh hoạt trong mục đích sử dụng vốn của mình, đồng
thời không ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của CTCP. Đây là một quy định vô cùng
hữu ích với mô hình công ty này.
Nguyên tắc tự do chuyển nhượng cổ phần là nguyên tắc quan trọng đối với
những cổ đông hiện hữu cũng như những nhà đầu tư muốn tham gia vào CTCP. Với
những cổ đông hiện hữu, khi họ không muốn tiếp tục tham gia vào CTCP, muốn sử
dụng vốn vào mục đích khác hoặc đơn giản hơn là mua cổ phần là một hoạt động
tìm kiếm lợi nhuận, tại thời điểm thuận lợi họ không muốn tiếp tục nắm giữ và
muốn chuyển giao để thu lợi từ chênh lệch giá mua và giá chuyển nhượng. Quy
định tự do chuyển nhượng sẽ thu hút họ đầu tư ban đầu vì họ có thể tự do rút khỏi
khi nào họ có nhu cầu. Về phía nhà đầu tư, quyền tự do chuyển nhượng cổ phần tạo
điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện chiến lược đầu tư trưng mua cổ phần của CTCP
nhằm giành quyền khống chế, sau đó cải tạo và sắp xếp lại bộ máy quản lý, điều
hành của CTCP. Đối với những CTCP hoạt động không hiệu quả hoặc thua lỗ, việc
tự do chuyển nhượng cổ phần sẽ giúp họ tìm kiếm được nhà đầu tư chiến lược, nhận
chuyển nhượng cổ phần, trở thành thành viên công ty, các nhà đầu tư giúp cơ cấu lại
tổ chức và hồi sinh công ty.
33
2.1.2. Quy định pháp luật về các trường hợp chuyển nhượng cổ phần
Cổ đông có thể chuyển nhượng cổ phần mà mình nắm giữ trong trường hợp
chuyển nhượng thông thường và trường hợp đặc biệt khi cổ đông là cá nhân chết
hoặc cổ đông tặng, cho cổ phần hay sử dụng cổ phần để trả nợ.
Thứ nhất, trường hợp chuyển nhượng thông thường
Công ty cổ phần có thể trực tiếp bán cổ phần của mình cho người mua.
Người muốn mua cổ phần của công ty có thể mua trực tiếp khi công ty chào bán cổ
phần hoặc nhận chuyển nhượng từ cổ đông khác. Như vậy, chuyển nhượng cổ phần
thực chất là hoạt động mua bán cổ phần giữa cổ đông của công ty với người khác.
Đây là một loại giao dịch dựa trên sự thỏa thuận giữa cổ đông là người muốn bán
một phần hoặc toàn bộ cổ phần của mình và người muốn mua cổ phần để trở thành
cổ đông của công ty.
Như phân tích ở phần khái niệm, cần phân biệt chuyển nhượng cổ phần với
bán cổ phần và mua lại cổ phần vì tuy cùng đều có bản chất là quan hệ mua bán,
làm thay đổi chủ sở hữu đối với cổ phần được bán hoặc chuyển nhượng trong công
ty cổ phần nhưng bản chất của ba dạng thức mua bán này hoàn toàn khác nhau.
Về chủ thể: Chủ thể của hoạt động chuyển nhượng cổ phần bao gồm bên bán
là các cổ đông và bên mua là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu góp vốn. Chủ thể của
hoạt động bán cổ phần bao gồm bên bán là công ty phát hành cổ phần, bên mua là
cổ đông và công chúng. Còn mua lại cổ phần bao gồm bên bán là cổ đông và bên
mua chính là công ty phát hành cổ phần.
Về mục đích và điều kiện: Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
của mình cho người khác, trừ trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng. Trong khi đó,
việc mua lại cổ phần chỉ được thực hiện trong trường hợp: cổ đông biểu quyết phản
đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ
đông quy định tại Điều lệ. Bán cổ phần không quy định về điều kiện, song mục đích
của việc bán cổ phần là nhằm tăng vốn điều lệ của công ty.
Về hậu quả pháp lí: Việc chuyển nhượng cổ phần sẽ không làm thay đổi cấu
trúc vốn điều lệ của CTCP. Còn với việc bán cổ phần, việc tăng thêm số lượng cổ
34
phần được chào bán và bán các cổ phần đó sẽ làm tăng thêm vốn điều lệ của công
ty. Với việc mua lại cổ phần thì vốn điều lệ của công ty cũng không giảm ngay,
nhưng nếu hết đợt chào bán cổ phần, mà công ty không chào bán được số cổ phần
mua lại thì công ty phải đăng kí giảm vốn điều lệ.
Như vậy, chuyển nhượng cổ phần thông thường sẽ là hoạt động mua bán
phần cổ phần mà cổ đông của công ty sở hữu.
Thứ hai, trường hợp cổ đông là cá nhân chết
Khoản 3, Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định về việc chuyển
nhượng cổ phần trong trường hợp cổ đông là cá nhân chết như sau: “Trường hợp cổ
đông là cá nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của cổ
đông đó là cổ đông của công ty.”
Như vậy, việc chuyển nhượng cổ phần trong trường hợp này sẽ căn cứ vào di
chúc của cổ đông đó. Với quyền tự cho chuyển nhượng của mình, cổ đông có thể di
chúc lại việc chuyển nhượng một phần hay toàn bộ số cổ phần mà mình nắm giữ,
cho một người hay nhiều người tùy thuộc vào ý chí của mình. Hoặc nếu không có di
chúc thì cổ phần của cổ đông sẽ được điều chỉnh theo pháp luật về thừa kế. Việc
quy định trường hợp này nhằm đảm bảo lợi ích của cổ đông, vì cổ phần là một loại
tài sản hợp pháp nên sau khi cổ đông chết thì số tài sản này được chia thừa kế như
những loại tài sản khác.
Tuy nhiên, còn có những trường hợp khác quy định tại khoản 4 Điều 126
Luật Doanh nghiệp 2014 “Trường hợp cổ phần của cổ đông là cá nhân chết mà
không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận thừa kế hoặc bị truất quyền
thừa kế thì số cổ phần đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự”.
Đây là những trường hợp đặc biệt mà Luật Doanh nghiệp không quy định cụ thể.
Theo pháp luật dân sự thì những trường hợp này giải quyết như sau: “Trường hợp
không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước.” (Điều
622 – BLDS 2015) [21]. Đây là trường hợp hiếm xảy ra, nhưng khi xảy ra trên thực
35
tế thì phần cổ phần của cổ đông đó thường được để lại cho công ty. Như vậy đặt ra
câu hỏi liệu quy định của luật doanh nghiệp trong trường hợp này có phù hợp với
thực tiễn hay không? Đây là một vấn đề cần được dự liệu và xem xét kĩ hơn.
Một trường hợp nữa là nếu cá nhân chết là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi
biểu quyết hoặc cổ phần hạn chế chuyển nhượng thì sau khi cá nhân đó chết, việc
thừa kế cổ phần có được thực hiện theo pháp luật về dân sự hay không? Về nguyên
tắc, cổ phần là một loại tài sản hợp pháp nên sau khi cổ đông chết thì số tài sản này
được chia thừa kế như những loại tài sản khác. Tuy nhiên, tài sản này lại là cổ phần
hạn chế chuyển nhượng theo quy định pháp luật thì việc bảo vệ quyền lợi cổ đông
và quyền lợi công ty sẽ được thực hiện như thế nào? Điểm này hiện quy định pháp
luật còn bỏ ngõ. Có thể suy luận trong trường hợp cá nhân chết là cổ đông sáng lập
hay Điều lệ quy định hạn chế thì có thể thông qua Đại hội đồng cổ đông để quyết
định. Tuy nhiên trong trường hợp là cổ phần ưu đãi biểu quyết, khi quy định pháp
luật là tuyệt đối không được chuyển nhượng thì lúc này giải quyết như thế nào. Liệu
Đại hội đồng cổ đông có đủ thẩm quyền để quyết định trong trường hợp này? Đây
là vấn đề mà quy định cần cân nhắc mở rộng thêm.
Thứ ba, trường hợp cổ đông tặng cho cổ phần hoặc sử dụng cổ phần để trả nợ
Khoản 5, Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Cổ đông có quyền
tặng cho một phần hoặc toàn bộ cổ phần của mình tại công ty cho người khác; sử
dụng cổ phần để trả nợ. Trường hợp này, người được tặng cho hoặc nhận trả nợ
bằng cổ phần sẽ là cổ đông của công ty.”
Việc tặng cho một phần hay toàn bộ cổ phần tùy thuộc vào ý chí của cổ đông
sở hữu cổ phần đó mà không cần thiết phải có sự thỏa thuận giữa bên tặng, cho và
bên nhận. Còn việc dùng cổ phần để trả nợ thì buộc phải có sự thỏa thuận giữa hai
bên. Sử dụng cổ phần để trả nợ thực chất là việc chuyển quyền sở hữu số cổ phần
mình nắm giữ cho chủ nợ, việc trả nợ dựa trên việc quy đổi giá trị của cổ phần theo
giá thị trường hoặc theo thỏa thuận của hai bên.
Cổ phần là tài sản thuộc sở hữu của cổ đông, như những tài sản khác, cổ
đông có quyền tặng cho hoặc sử dụng cổ phần để trả nợ chỉ cần không thuộc các
trường hợp hạn chế chuyển nhượng cổ phần.
36
2.1.3. Chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài
Trong nền kinh tế hội nhập, nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh, các doanh
nghiệp có xu hướng mở cửa đón nhận những nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào
doanh nghiệp để tận dụng nguồn vốn cũng như kinh nghiệm của các nhà đầu tư
nước ngoài. Hình thức thông thường các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn là góp vốn
hoặc mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam. Trong nhiều trường hợp, CTCP
không muốn pha loãng tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông hiện hữu sẽ áp dụng
hình thức chuyển nhượng cổ phần. Hoặc cổ đông tìm kiếm được người mua cổ phần
là người nước ngoài muốn mua lại với giá cao hơn sẽ thực hiện quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài là việc cổ đông trong
CTCP tiến hành chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số cổ phần mà họ nắm giữ
cho nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước
ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam.
Mặc dù, pháp luật quy định về quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ
đông, tuy nhiên đối tượng nhận chuyển nhượng trong trường hợp này là có yếu tố
nước ngoài nên bên cạnh quy định không thuộc các trường hợp hạn chế chuyển
nhượng cổ phần thì pháp luật có thêm những quy định khác chặt chẽ hơn đối với
đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ nhất, về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài
Nhà đầu tư nước ngoài khi muốn sở hữu cổ phần của doanh nghiệp Việt
Nam cần phải xét xem quy định trong Biểu cam kết WTO cho phép nhà đầu tư nước
ngoài được sở hữu với tỷ lệ phần vốn góp là bao nhiêu. Tỷ lệ phần vốn góp của nhà
đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào từng loại ngành nghề nhà đầu tư dự định đầu tư.
Một số ngành nghề quy định trong Biểu cam kết WTO hạn chế tỷ lệ phần góp vốn
của nhà đầu tư nước ngoài như ngành sản xuất phim (phần vốn góp của nhà đầu tư
nước ngoài không được vượt quá 51%), dịch vụ xếp dỡ container (phần vốn góp của
nhà đầu tư nước ngoài không được vượt quá 50%, dịch vụ giải trí nhà hát, nhạc
37
sống, xiếc (phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không được vượt quá 49%),
dịch vụ vận tải đường sắt (phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không được
vượt quá 49%), kinh doanh trò chơi điện tử (phần vốn góp của nhà đầu tư nước
ngoài không được vượt quá 49%) ...
Bên cạnh những hạn chế về tỷ lệ sở hữu phần vốn góp được quy định tại
Biểu cam kết WTO, pháp luật còn quy định riêng về tỷ lệ vốn góp trong lĩnh vực
chứng khoán, cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước đối với nhà đầu tư
nước ngoài. Trừ những trường hợp trên đây thì nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu
vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế.
Vì vậy, khi muốn chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài hay
nói cách khác là nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của CTCP, thì nhà đầu tư cần
phải xét xem doanh nghiệp đó kinh doanh lĩnh vực gì, có bị hạn chế tỷ lệ sở hữu
không? Nếu sở hữu cổ phần của doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề bị hạn chế
phần vốn góp đối với nhà đầu tư nước ngoài, mà tỷ lệ vốn góp nhà đầu tư nước
ngoài vượt quá phạm vi cho phép, thì nhà đầu tư cần phải xem xét việc không nhận
chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng cổ phần ít lại để đảm bảo điều kiện hoặc nếu
doanh nghiệp muốn chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài thì phải làm
thủ tục rút ngành nghề kinh doanh đó.
Thứ hai, về thủ tục thông báo thay đổi cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài
trong công ty cổ phần chưa niêm yết
Theo Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân thì
Công ty niêm yết (listed company) là công ty công cộng có cổ phiếu được phép mua
bán trên các TTCK. Từ đây có thể hiểu, công ty cổ phần chưa niêm yết là CTCP
chưa được phép mua bán trên các TTCK.
Trong CTCP chưa niêm yết, chuyển nhượng cổ phần mà người nhận chuyển
nhượng là nhà đầu tư nước ngoài thì bên cạnh việc thông báo với CTCP để ghi vào
sổ cổ đông thì pháp luật còn quy định về việc CTCP đó phải thực hiện thủ tục thông
báo thay đổi cổ đông là nhà đầu tư nước với Phòng đăng ký kinh doanh trong thời
hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày có thay đổi. Nếu không làm thủ tục thông báo sẽ bị
38
xử phạt theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
kế hoạch và đầu tư. (Điều 52, Nghị định 78/2015/NĐ-CP).
Nếu doanh nghiệp không công bố thông tin thay đổi cổ đông là nhà đầu tư
nước với phòng đăng ký kinh doanh đúng hạn sẽ bị phạt từ 1.000.000 đồng –
2.000.000 đồng và phải khắc phục hậu quả là buộc phải công bố nội dung đăng ký
doanh nghiệp trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. (Điều 26,
Nghị định 50/2016/NĐ-CP).
Sở dĩ pháp luật chuyển nhượng cổ phần quy định chặt chẽ hơn đối với trường
hợp đối tượng nhận chuyển nhượng cổ phần là nhà đầu tư nước ngoài vì mục đích
kiểm soát chung của nền kinh tế thị trường, đảm bảo thị trường kinh doanh đúng
định hướng của Đảng và Nhà nước. Pháp luật quy định để kiểm soát và kịp thời can
thiệp tránh trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thâu tóm các ngành kinh tế trọng
điểm của Việt Nam.
2.2. Các quy định về thủ tục và hình thức chuyển nhượng cổ phần
2.2.1. Các quy định về thủ tục chuyển nhượng cổ phần
Thủ tục chuyển nhượng cổ phần trong CTCP được quy định như sau:
Thứ nhất, đối với việc chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập
Một là, các bên liên quan ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Hai là, tiến hành lập biên bản xác nhận về việc đã hoàn thành thủ tục chuyển
nhượng cổ phần.
Ba là, tổ chức cuộc họp Đại Hội đồng cổ đông để thông qua việc chuyển
nhượng cổ phần.
Bốn là, tiến hành chỉnh sửa, bổ sung thông tin trong Sổ đăng ký cổ đông của
công ty.
Năm là, tiến hành đăng ký thay đổi cổ đông sáng lập theo quy định.
Thứ hai, đối với cổ phần phổ thông của cổ đông phổ thông:
Một là, các bên liên quan ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Hai là, tiến hành lập biên bản xác nhận về việc đã hoàn thành thủ tục chuyển
nhượng cổ phần.
39
Ba là, tiến hành chỉnh sửa, bổ sung thông tin trong Sổ đăng ký cổ đông.
Bốn là, tiến hành đăng ký cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần trở lên với
Cơ quan đăng ký kinh doanh (nếu có).
Khi thực hiện thủ tục chuyển nhượng cổ phần, các bên cần lưu ý những điểm sau:
Thứ nhất, bên chuyển nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có liên quan cho
đến khi thông tin của người nhận chuyển nhượng được đăng ký vào Sổ đăng ký cổ
đông. Cổ phần được coi là đã bán khi được thanh toán đủ và những thông tin về
người mua được ghi đúng, ghi đủ vào Sổ đăng ký cổ đông, kể từ thời điểm đó,
người mua cổ phần trở thành cổ đông của CTCP.
Thứ hai, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu
quyết về việc chuyển nhượng cổ phần đó. Quy định này đảm bảo sự khách quan
trong việc biểu quyết thông qua việc chuyển nhượng cổ phần trong CTCP.
Thứ ba, thông báo thay đổi thông tin cổ đông sáng lập. [18]
Luật Doanh nghiệp 2005 trước đây quy định người nhận chuyển nhượng cổ
phần của cổ đông sáng lập trong ba năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Tuy
nhiên Luật Doanh nghiệp 2014 quy định này đã được sửa đổi. Mặc dù nhận chuyển
nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập trong vòng ba năm kể từ khi được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh nhưng những người nhận chuyển nhượng này cũng
không được coi là cổ đông sáng lập trong công ty.
Ngoài ra, trước đây cổ đông sáng lập khi chuyển nhượng phải thông báo với
phòng đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên từ 10/10/2018 theo quy định mới của Nghị
định 108/2018/NĐ-CP thì với trường hợp này doanh nghiệp không cần nộp hồ sơ
thay đổi đăng ký kinh doanh chỉ cần lưu giữ hồ sơ nội bộ về chuyển nhượng cổ
phần và thực hiện khai và nộp thuế thu nhập cá nhân do chuyển nhượng cổ phần.
[8]
Một lưu ý là khi cổ đông sáng lập đã chuyển nhượng cổ phần, thông tin về cổ
đông sáng lập đó vẫn được lưu trên hệ thống thông tin của công ty với toàn bộ
thông tin ban đầu (bao gồm cả số vốn đã góp). Cổ đông mới nhận chuyển nhượng
40
không phải là cổ đông sáng lập của công ty do vậy thông tin về người đó sẽ không
được lưu trữ trên hệ thống thông tin quốc gia về doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ lập
danh sách cổ đông, sổ đăng ký cổ đông ghi nhận thông tin các cổ đông trong công ty.
Thứ tư, khai thuế TNCN do chuyển nhượng cổ phần
Cá nhân hoặc doanh nghiệp nộp thay phải làm thủ tục khai thuế TNCN do
chuyển nhượng cổ phần trong vòng 10 ngày kể từ ngày phát sinh việc chuyển
nhượng nếu không muốn bị xử phạt (mức phạt dự kiến 2.500.000 VNĐ). Hồ sơ nộp
tại cơ quan thuế quản lý của doanh nghiệp nơi có cổ đông chuyển nhượng cổ phần
gồm có:
Một là, tờ khai mẫu số 04/CNV-TNCN ban hành kèm theo Thông tư số
92/2015/TT-BTC;
Hai là, bản chụp Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
2.2.2. Hình thức chuyển nhượng cổ phần
Khoản 2 Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về phương thức chuyển
nhượng cổ phần thông thường như sau: “Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng
hợp đồng theo cách thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng
khoán. Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng phải
được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của
họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua giao dịch trên thị trường chứng
khoán, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở hữu thực hiện theo quy định của pháp
luật về chứng khoán”.
Như vậy, có hai phương thức để thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần,
hoặc là thông qua hợp đồng chuyển nhượng theo cách thông thường, hoặc là thông
qua giao dịch trên TTCK.
Chuyển nhượng trực tiếp thông qua hợp đồng chuyển nhượng được điều
chỉnh bởi pháp luật doanh nghiệp và chuyển nhượng gián tiếp thông qua giao dịch
trên TTCK được điều chỉnh bởi pháp luật chứng khoán.
Thứ nhất, thông qua hợp đồng chuyển nhượng
Luật Doanh nghiệp quy định việc chuyển nhượng thực hiện bằng hợp đồng
41
theo cách thông thường, nhưng không cụ thể hợp đồng gồm những nội dung bắt
buộc nào. Vì vậy, căn cứ theo Luật Dân sự về những nội dung cơ bản của hợp đồng
thì chuyển nhượng cổ phần theo hợp đồng chuyển nhượng cần tuân theo các quy
định của pháp luật sau:
Một là, về hồ sơ chuyển nhượng cổ phần
Để chứng minh tài sản là cổ phần thuộc sở hữu hợp pháp của mình, để giao
dịch bằng hợp đồng có hiệu lực cần chuẩn bị thông tin cá nhân cũng như những
giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể giao dịch.
Đối với cổ đông là cá nhân, hồ sơ chuyển nhượng cổ phần bao gồm: Giấy đề
nghị chuyển nhượng cổ phần; CMTND/CCCD của bên chuyển nhượng và bên nhận
chuyển nhượng; Sổ chứng nhận cổ phần của bên chuyển nhượng; Sổ chứng nhận cổ
phần của bên nhận chuyển nhượng (nếu là cổ đông hiện hữu); Giấy ủy quyền có xác
nhận của địa phương hoặc công chứng (trong trường hợp người chuyển nhượng
không trực tiếp đến làm thủ tục chuyển nhượng).
Đối với cổ đông là tổ chức, hồ sơ bao gồm: Giấy đề nghị chuyển nhượng cổ
phần; Bản sao công chứng Đăng ký kinh doanh hiện hành (bên chuyển nhượng và
bên nhận chuyển nhượng); Sổ chứng nhận cổ phần của bên chuyển nhượng; Sổ
chứng nhận cổ phần của bên nhận chuyển nhượng (nếu là cổ đông hiện hữu); Quyết
định hợp pháp của tổ chức về việc cho phép chuyển nhượng cổ phiếu; Giấy ủy
quyền của tổ chức cho người đại diện giao dịch chuyển nhượng (nếu người thực
hiện giao dịch không phải là đại diện của tổ chức đó).
Hai là, về thủ tục chuyển nhượng cổ phần: Thủ tục chuyển nhượng cổ phần
được tiến hành theo trình tự như sau:
Bước một, tổ chức cuộc họp Đại Hội đồng cổ đông để thông qua việc chuyển
nhượng cổ phần (đối với những trường hợp cần sự chấp thuận của Đại Hội đồng
cổ đông).
Bước hai, các bên liên quan ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần.
Bước ba, tiến hành lập biên bản xác nhận về việc đã hoàn thành thủ tục
42
chuyển nhượng cổ phần.
Bước bốn, tiến hành chỉnh sửa, bổ sung thông tin trong Sổ đăng ký cổ đông
của công ty.
Bước năm, tiến hành đăng ký thay đổi cổ đông theo quy định (đối với những
trường hợp bắt buộc đăng ký thay đổi cổ đông).
Chỉ khi nào thực hiện xong đầy đủ các thủ tục trên thì việc chuyển nhượng
cổ phần mới hoàn thành một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, đây là hợp đồng chuyển
nhượng thông thường. Với việc chuyển nhượng bằng tặng cho thì phải dùng hợp
đồng tặng cho, hoặc chuyển nhượng cổ phần khi cổ đông chết thì lại cần những hợp
đồng cá biệt khác. Căn cứ xây dựng hợp đồng cá biệt theo điều chỉnh của pháp luật
về dân sự.
Thứ hai, thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán
Việc chuyển nhượng thông qua giao dịch trên TTCK được quy định trong
pháp luật về chứng khoán. Chuyển nhượng cổ phần trên TTCK được biểu hiện bằng
việc mua bán cổ phiếu. Giao dịch này dựa trên nguyên tắc thỏa thuận tự do giữa bên
mua và bên bán, tuy nhiên việc mua bán diễn ra trên TTCK. Người mua cổ phần
cần tìm hiểu kĩ về công ty mình mua cổ phần cũng như các vấn đề liên quan đến cổ
phần mình định mua, các quyền và nghĩa vụ để tránh rủi ro.
2.3. Hệ quả pháp lý của chuyển nhượng cổ phần
2.3.1. Tư cách cổ đông
Thứ nhất, về phía cổ đông chuyển nhượng
Cổ đông sau khi đã chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của mình cho người
khác hoặc chết sẽ không còn là cổ đông của công ty, tức là không còn tên trong Sổ
đăng kí cổ đông.
“Trường hợp cổ đông chuyển nhượng một số cổ phần thì cổ phiếu cũ bị hủy
bỏ và công ty phát hành cổ phiếu mới ghi nhận số cổ phần đã chuyển nhượng và số
cổ phần còn lại” (Khoản 6, Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014). Lúc này cổ đông
vẫn giữ một phần cổ phần của mình và là cổ đông với cổ phần ít hơn, đồng thời các
quyền và nghĩa vụ của cổ đông này thay đổi, giảm đi, tương ứng với phần cổ phần
43
còn lại mà mình sở hữu.
Thứ hai, về phía người được nhận cổ phần chuyển nhượng
Người nhận cổ phần (thông qua mua bán, tặng cho, thừa kế, nhận trả nợ bằng
cổ phần) sẽ là cổ đông của công ty. Tuy nhiên, “người nhận cổ phần trong các
trường hợp quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông công ty từ thời điểm các
thông tin của họ quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này được ghi đầy đủ vào
sổ đăng ký cổ đông” (Khoản 7, Điều 126 Luật Doanh nghiệp 2014).
Theo Khoản 2, Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2014 thì các thông tin bao gồm:
Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; Tổng số cổ phần được quyền chào bán, loại cổ
phần được quyền chào bán và số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; Tổng
số cổ phần đã bán của từng loại và giá trị vốn cổ phần đã góp; Họ, tên, địa chỉ
thường trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ
chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác đối với cổ đông là cá nhân/tên, mã số
doanh nghiệp hoặc số quyết định thành lập, địa chỉ trụ sở chính đối với cổ đông là
tổ chức; Số lượng cổ phần từng loại của mỗi cổ đông, ngày đăng ký cổ phần.
Quy định này nhằm đảm bảo tính chặt chẽ trong việc quản lý cổ đông cũng
như cổ phần của công ty. Khi trở thành cổ đông của công ty, người nhận chuyển
nhượng được hưởng quyền và nghĩa vụ tương ứng với phần cổ phần mà mình được
chuyển nhượng. Đồng thời, phần lớn chuyển nhượng cổ phần là tự do chuyển
nhượng, tuy không thuộc các trường hợp hạn chế chuyển nhượng nhưng cũng cần
thông báo với CTCP đó để công ty biết sự thay đổi cổ đông để cập nhận thành viên
công ty. Đây là một điểm cần lưu ý của các bên khi chuyển nhượng, nếu như không
thông báo với công ty để được ghi thông tin đầy đủ vào sổ đăng ý cổ đông thì dù
hợp đồng chuyển nhượng là hợp pháp thì người nhận chuyển nhượng cũng không
mặc nhiên trở thành cổ đông của công ty. Đây cũng là quy định giúp CTCP kiểm
soát nhưng trường hợp chuyển nhượng không được phép (thuộc các trường hợp hạn
chế chuyển nhượng) thì công ty sẽ thông báo chuyển nhượng không được phép, các
bên không được chuyển nhượng cổ phần trong trường hợp đó.
Bản án dưới đây thể hiện rõ điều này:
44
Bản án 11/2018/KDTM-PT ngày 24/04/2018 về tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần [28]
Nội dung vụ án:
Bà Lê Hoàng Y (bà Y) là cổ đông sáng lập kiêm Tổng Giám đốc (TGĐ)
Công ty Cổ phần Truyền thông mạng V (viết là V Media) được Sở Kế hoạch và
Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (SKHĐT) cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh (GCNĐKKD) số 4103008966 ngày 03/01/2008, vốn điều lệ 10.000.000.000
đồng (Mười tỷ đồng) tương đương 1.000.000 cổ phần, người đại diện theo pháp luật
là bà Y. Bà Y nắm giữ 85% tổng số cổ phần, gồm 850.000 cổ phần Của V Media.
Ngày 19/01/2010, bà Y ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần (HĐCNCP)
cho ông T Konishi 10% tổng số cổ phần Của V Media trong số cổ phần do bà Y sở
hữu, tương đương 100.000 cổ phần phổ thông với giá 75.200USD.
Theo yêu cầu của bà Y, ông T đã chuyển số tiền 75.200USD từ tài khoản của
ông tại Nhật Bản vào tài khoản của bà Y tại Việt Nam. Hai bên thỏa thuận sau khi
hoàn thành việc thanh toán số tiền chuyển nhượng cổ phần ông T sẽ trở thành cổ
đông của V Media, cụ thể là tên của ông T sẽ được đăng ký xác nhận trong sổ đăng
ký cổ đông và cấp giấy chứng nhận sở hữu cổ phần của V Media. Tuy nhiên sau 08
tháng, ông T chưa nhận được bất kỳ thông tin, báo cáo nào liên quan đến tình trạng
hoạt động, tài chính, lợi nhuận của V Media, mặc dù ông T đã nhiều lần yêu cầu bà
Y cung cấp.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam, bà Y và V Media
có nghĩa vụ phải đăng ký tên của ông T vào danh sách cổ đông với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, đến khi ông T khởi kiện, bà Y và V Media vẫn
chưa thực hiện. Ông T đã nhiều lần liên lạc và làm việc với bà Y và đại diện của V
Media để yêu cầu trả lời cho những vấn đề nêu trên, nhưng không nhận được sự
hợp tác từ bà Y và đại diện V Media.
Ngày 16/9/2011, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ Biên bản
hòa giải thành lập ngày 08/9/2011, đã ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự, số 1752/2011/QĐST-KDTM ngày 16/9/2011, nội dung: Bà Lê
45
Hoàng Y cùng với Công ty cổ phần truyền thông mạng V có trách nhiệm liên đới
thanh toán cho ông T Konishi số tiền là 75.200 USD (thanh toán bằng tiền đồng
Việt Nam tại thời điểm thanh toán).
Ngày 29/4/2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số
755/TATP-TKT đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị quyết định
công nhận sự thỏa thuận nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm do vi phạm về thủ xét
xử Biên bản hòa giải thành ngày 08/09/2011 vì chỉ có chữ ký của Thẩm phán,
không đóng dấu của Tòa án.
Ngày 19/3/2015, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý lại sơ
thẩm vụ án, số thụ lý 24/2015/KDTM-ST. Tại đây, các nội dung tranh chấp về
chuyển nhượng cổ phần được phân tích rõ ràng hơn.
Thứ nhất, về chủ thể hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Ngày 19/01/2010, ông T Konishi ký hợp đồng mua bán cổ phần với Công ty
cổ phần truyền thông mạng V, nội dung ông T Konishi mua 10% cổ phần do bà Lê
Hoàng Y nắm giữ, loại cổ phần phổ thông, số cổ phần 100.000, giá trị cổ phần
75.200USD. Trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng, ông T Konishi đã chuyển vào tài
khoản của bà Lê Hoàng Y mở tại Ngân hàng A 75.200USD để thanh toán.
Mặc dù, hợp đồng ngày 19/01/2010 ký kết giữa người bán là Công ty cổ
phần truyền thông mạng V (đại diện theo pháp luật là bà Lê Hoàng Y) với người
mua là ông T Konishi. Tuy nhiên, căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
số 4103008966 đăng ký lần đầu ngày 03/01/2008, đăng ký thay đổi lần thứ hai ngày
26/9/2008 thì Công ty cổ phần truyền thông mạng V có 03 thành viên sáng lập,
trong đó bà Lê Hoàng Y giữ tỷ lệ vốn góp 85%, ông Nguyễn Tống Minh H4 giữ
10% và ông Nguyễn Hiền H1 giữ 5%, tất cả số cổ phần của Công ty cổ phần truyền
thông mạng V đã có chủ sở hữu. Số cổ phần mà ông T Konishi mua thuộc quyền sở
hữu của bà Lê Hoàng Y. Tại biên bản họp đại hội đồng cổ đông ngày 02/01/2010,
Quyết định của Đại hội đồng ngày 25/01/2010 về việc thông báo danh sách cổ đông
mới đều xác định cổ phần mà ông T Konishi có được là do nhận chuyển nhượng từ
cổ phần của bà Lê Hoàng Y. Như vậy, người trực tiếp giao dịch và chuyển nhượng
46
là bà Lê Hoàng Y, ông T Konishi thanh toán trực tiếp vào tài khoản cá nhân của bà Y.
Thứ hai, về phương thức thanh toán dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu
Việc ông T Konishi và bà Lê Hoàng Y ký hợp đồng mua bán nội dung thanh
toán bằng ngoại tệ và thực tế cũng thanh toán bằng ngoại tệ số tiền 75.200USD là vi
phạm Pháp lệnh ngoại hối năm 2005, Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày
18/12/2006 của Chính phủ quy định chi tiết về Pháp lệnh ngoại hối. Do đó, Tòa án
xác định hợp đồng mua bán cổ phần ngày 19/01/2010 vô hiệu.
Do hợp đồng vô hiệu nên các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Tòa án
cấp sơ thẩm buộc bà Lê Hoàng Y hoàn trả lại cho ông T Konishi tiền bán cổ phần
Của Công ty truyền thông mạng V 1.387.530.000 đồng (tương ứng với
75.200USD).
Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia chuyển nhượng cổ phần
Bà Lê Hoàng Y và Công ty cổ phần truyền thông mạng V kháng cáo cho
rằng ông T Konishi khởi kiện không đúng đối tượng vì bên chuyển nhượng trong
hợp đồng là Công ty truyền thông mạng V. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần trên,
thực chất ông T Konishi nhận chuyển nhượng cổ phần từ bà Y và chuyển tiền trực
tiếp vào tài khoản của bà Y tại ngân hàng A. Do đó, việc ông T Konishi khởi kiện
yêu cầu bà Y hoàn trả tiền là đúng quy định. Bà Y và Công ty cổ phần truyền thông
mạng V cho rằng việc không đăng ký tên ông T Konishi vào danh sách cổ đông là
do lỗi của ông T Konishi nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Từ
những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần
truyền thông mạng V. Tòa kết luận:
Một là, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ký ngày 19/01/2010 giữa
Công ty cổ phần truyền thông mạng V do bà Lê Hoàng Y đại diện với ông T
Konishi là vô hiệu.
Hai là, bác yêu cầu của ông T Konishi về việc yêu cầu Công ty cổ phần
truyền thông mạng V có trách nhiệm liên đới với bà Lê Hoàng Y trong việc hoàn trả
lại tiền mua bán cổ phần theo hợp đồng mua bán cổ phần ngày 19/01/2010.
47
Ba là, bà Lê Hoàng Y có trách nhiệm hoàn trả cho ông T Konishi tiền bán cổ
phần Của Công ty cổ phần truyền thông mạng V thuộc sở hữu của bà Lê Hoàng Y
theo hợp đồng chuyển nhượng cổ phần ngày 19/01/2010.
Từ phân tích bản án trên, có thể thấy, theo đúng quy định pháp luật thì bà Y
và công ty X phải có trách nhiệm ghi nhận thông tin của ông T vào sổ cổ đông của
công ty. Đồng thời ông T là người nước ngoài nên phải thông báo với phòng đăng
ký kinh doanh về cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài.
Trên thực tế, có nhiều hợp đồng chuyển nhượng đã hoàn thành về nghĩa vụ
mua bán, thanh toán trong hợp đồng nhưng tư cách cổ đông vẫn chưa được thay đổi.
Các bên khi tham gia giao dịch chuyển nhượng cổ phần phải chú ý thời điểm xác
lập tư cách cổ đông đối với CTCP bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình.
2.3.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sau khi thực hiện
chuyển nhượng cổ phần
Chuyển nhượng cổ phần là giao dịch dân sự dựa trên nguyên tắc tự do định
đoạt tài sản của chủ sở hữu là các cổ đông. Vì vậy sau khi thực hiện chuyển nhượng
sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên. Trên thực tế, có nhiều tranh chấp do các
bên sau khi chuyển nhượng đã vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ do thực hiện
không đầy đủ, không đúng dẫn đến hợp đồng vô hiệu, giao dịch chuyển nhượng cổ
phần không được thực hiện. Dưới đây là trường hợp tranh chấp do các bên vi phạm
quyền và nghĩa vụ của các bên sau khi thực hiện chuyển nhượng cổ phần.
Vụ việc thứ nhất: Tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần giữa các thành
viên Công ty cổ phần Sản xuất hàng xuất nhập khẩu và xuất nhập khẩu Đống
Đa (Dasimex) năm 2015
Dasimex vốn là CTCP chuyển đổi từ loại hình doanh nghiệp nhà nước từ
năm 1999. Giấy phép thay đổi lần thứ 4 thể hiện vốn điều lệ của Dasimex là 2,2 tỷ
đồng, do bà Trần Tố Anh làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Người đại diện
Công ty. Dasimex có 9 cổ đông, trong đó nhiều người có quan hệ họ hàng.
Nguyên cớ xuất phát từ cuối năm 2014 - đầu năm 2015, khi cổ đông cá nhân
là bà Phạm Thị Vinh nhận chuyển nhượng tổng cộng 20.496 cổ phần từ 4 cổ đông
48
khác là bà Trần Tố Anh (3.175 cổ phần), ông Đỗ Công Đoán (2.300 cổ phần), bà
Hoàng Thị Thúy Hiền (1.420 cổ phần), bà Trần Thị Thoa (821 cổ phần). Các bên
mới ký hợp đồng chuyển nhượng, chưa thanh toán tiền.
Ngày 30/5/2015, do bà Trần Tố Anh đi công tác nước ngoài nên ký giấy ủy
quyền cho bà Phạm Thị Quế toàn quyền điều hành hoạt động Công ty.
Ngày 5/6/2015, bà Phạm Thị Vinh thực hiện chuyển nhượng cổ phần cho 2
con gái là bà Trần Phạm Bạch Dương (8.551 cổ phần) và bà Trần Phạm Việt Hà
(4.400 cổ phần).
Nhờ việc được ủy quyền, bà Phạm Thị Quế ghi tên các cổ đông mới vào sổ
đăng ký cổ đông, đồng thời xóa tên 4 cổ đông cũ. Mặt khác, bà Phạm Thị Vinh
mang toàn bộ tài liệu, con dấu Công ty về nhà cất giấu.
Ngày 10/8/2015, bà Phạm Thị Quế và bà Phạm Thị Vinh ký biên bản họp
Đại hội đồng cổ đông với thành phần 5 người, nhưng ký tên chỉ có bà Quế, bà Vinh.
Ngày 25/8/2015, Phòng đăng ký kinh doanh số 2 Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hà
Nội xác nhận thay đổi thông tin của Dasimex.
Đầu tháng 9/2015, bà Trần Tố Anh trở về nước và hủy giấy ủy quyền của bà
Phạm Thị Quế, đồng thời tiếp nhận công việc. Khi tiến hành cuộc họp Hội đồng
quản trị, bà Phạm Thị Vinh thừa nhận ký chuyển nhượng cổ phần cho 2 cổ đông mới.
Do quyền lợi bị ảnh hưởng, nhóm cổ đông cũ khởi kiện vụ việc tranh chấp
thành viên công ty ra Tòa án nhân dân TP. Hà Nội, đề nghị hủy toàn bộ hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần vì bên mua là bà Phạm Thị Vinh vi phạm nghĩa vụ thanh
toán. Nguyên đơn cũng buộc Dasimex phải hủy tư cách cổ đông của các bà Phạm
Thị Vinh, Trần Phạm Bạch Dương và Trần Phạm Việt Hà đối với số cổ phần trên,
đồng thời khôi phục lại tư cách 4 cổ đông cũ.
Trình bày tại tòa, các bên cho biết, các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần,
phiếu thu chỉ là hình thức. Viện dẫn quy định tại Khoản 3, Điều 87, Luật Doanh
nghiệp 2005, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cho biết, cổ phần được coi là đã bán
khi được thanh toán đủ và những thông tin về người mua quy định tại Khoản 2,
Điều 86 của luật này được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng ký cổ đông và kể từ thời
49
điểm đó, người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty.
Trong khi đó, bà Phạm Thị Vinh và các nguyên đơn cũng thừa nhận không
có việc thanh toán tiền. Như vậy, theo quy định pháp luật, việc chuyển nhượng cổ
phần chưa hoàn thành. Bà Phạm Thị Vinh không được coi là chủ sở hữu hợp pháp
của 20.496 cổ phần. Do các đương sự không cung cấp hợp đồng gốc, nên không có
căn cứ xem xét các hợp đồng chuyển nhượng bị vô hiệu do giả tạo.
Sau khi xem xét, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội chấp nhận yêu cầu khởi kiện,
khôi phục tư cách cổ đông của các nguyên đơn. Đồng thời, tuyên hủy các hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần giữa bà Phạm Thị Vinh và các cổ đông cũ.
Qua phân tích vụ việc trên có thể thấy:
Thứ nhất, về nghĩa vụ của các bên sau khi thực hiện chuyển nhượng cổ phần
Vụ việc trên có nhiều điểm vi phạm pháp luật từ việc chuyển nhượng cổ
phần đến lạm dụng việc được ủy quyền thực hiện quá quyền hạn. Nhưng quay lại
bản chất mấu chốt chính là việc vi phạm thực hiện nghĩa vụ của các bên mà cụ thể
là nghĩa vụ thanh toán tiền mua chuyển nhượng cổ phần. Bà Phạm Thị Vinh ký kết
hợp đồng nhận chuyển nhượng 20.496 cổ phần từ 4 cổ đông khác nhưng lại chưa
thanh toán số tiền mua cổ phần này cho bên chuyển nhượng. Như vậy là Bà Vinh đã
không thực hiện nghĩa vụ của mình dẫn đến hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu.
Thứ hai, về quyền của các bên sau khi thực hiện chuyển nhượng cổ phần
Theo nguyên tắc, trong hợp đồng, nghĩa vụ của bên này chính là quyền lợi
của bên kia. Nếu bà Vinh thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán tiền mua cổ phần thì
sẽ có quyền yêu cầu 04 cổ đông này cũng như công ty Dasimex ghi nhận thông tin
của mình vào Sổ đăng ký cổ đông. Từ đó, việc bà Vinh chuyển nhượng lại cho 02
con của mình là quyền lợi hợp pháp. Tuy nhiên, bà Vinh không thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình thì các cổ đông chuyển nhượng lại có quyền bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình, không ghi nhận tên bà Vinh vào trong công ty cũng như khởi
kiện. Và thực tế, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội chấp nhận yêu cầu khởi kiện, khôi
phục tư cách cổ đông của các cổ đông này. Đồng thời, tuyên hủy các hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần giữa bà Vinh và các cổ đông cũ.
50
Như vậy, có thể thấy, sau khi chuyển nhượng cổ phần, các bên phải biết
được quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mình để hoàn thành thì giao dịch chuyển
nhượng cổ phần mới hoàn tất, các bên đạt được mục đích của mình.
Vụ việc thứ hai: Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty
nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với thành viên công ty [29]
Vào ngày 02/5/2016, bà Hà Thị Quý N và bà Nguyễn Phương L1 ký hợp
đồng số 01/052016/HĐ-CNCP với nội dung bà Nguyễn Phương L1 đang sở hữu
318.500 cổ phần trị giá 3.185.000.000 đồng, chiếm 65% vốn điều lệ của CTCP E.
Bà Hà Thị Quý N nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Phương L1 49.000 cổ phần
và thỏa thuận giá chuyển nhượng 49.000 cổ phần là 200.000.000 đồng. Bà Hà Thị
Quý N đã thanh toán đủ tiền cho bà Nguyễn Phương L1. Sau đó, bà Hà Thị Quý N
tìm hiểu thì được xác nhận rằng bà Nguyễn Phương L1 không có đủ thẩm quyền để
chuyển nhượng số cổ phần và không đúng số cổ phần thực tế mà bà Nguyễn
Phương L1 đang sở hữu. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của CTCP E thể hiện các cổ
đông sáng lập gồm bà Nguyễn Phương L1 40% cổ phần, Nguyễn Kinh L2 30% cổ
phần và Nguyễn Duy Thiên A 30% cổ phần. Nếu bà Nguyễn Phương L1 sở hữu số
cổ phần tương ứng 65% vốn điều lệ công ty, thì bà Nguyễn Phương L1 phải chứng
minh bà đã nhận chuyển nhượng cổ phần của các thành viên còn lại và tỷ lệ cổ phần
của các cổ đông phải được điều chỉnh, nhưng trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh bà Hà Thị Quý N trích lục tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí
Minh thì số cổ phần của các cổ đông vẫn giữ nguyên.
Thứ hai, cùng ngày 02/5/2016, bà Hà Thị Quý N cũng đồng thời nhận
chuyển nhượng cổ phần của ông Nguyễn Văn T thể hiện ông Nguyễn Văn T sở hữu
số cổ phần chiếm 35% vốn điều lệ của công ty. Như vậy, bà Nguyễn Phương L1 và
ông Nguyễn Văn T sở hữu số cổ phần bằng 100% vốn điều lệ công ty. Theo quy
định của pháp luật thì công ty Cổ phần phải có tối thiểu 03 cổ đông, như vậy bà
Nguyễn Phương L1 và ông Nguyễn Văn T đã vi phạm nghiêm trọng quy định của
pháp luật.
51
Từ các lý do trên, bà Hà Thị Quý N khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Hợp
đồng số 01/052016/HĐ_CNCP ngày 02/5/2016 và buộc bà Nguyễn Phương L1 trả
lại cho bà số tiền đã nhận là 200.000.000 đồng.
CTCP E thành lập với 03 thành viên sáng lập là Nguyễn Phương L1 (nắm
giữ 40% cổ phần), Nguyễn Kinh L2 (nắm giữ 30% cổ phần) và Nguyễn Duy Thiên
A (nắm giữ 30% cổ phần).
Ngày 03/3/2016 theo quyết định của đại hội cổ đông đồng ý cho: Ông
Nguyễn Kinh L2 chuyển nhượng 122.500 cổ phần (25%) cho bà Nguyễn Phương
L1 và chuyển nhượng 24.500 cổ phần (5%) cho ông Nguyễn Văn T; Ông Nguyễn
Duy Thiên A chuyển nhượng 73.500 cổ phần (15%) cho bà Nguyễn Thị Kim H và
chuyển nhượng 73.500 cổ phần (15%) cho ông Nguyễn Văn T.
Sau khi chuyển nhượng thì danh sách cổ đông như sau: Bà Nguyễn Phương
L1 nắm giữ 318.500 cổ phần (65%), ông Nguyễn Văn T nắm giữ 98.000 cổ phần
(20%) và bà Nguyễn Thị Kim H nắm giữ 73.500 cổ phần (15%).
Hà Thị Quý N kháng cáo yêu cầu vì khi xem xét theo xác nhận của Sở Kế
hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh thì bà L1 chỉ có 40% cổ phần, không phải
là 65% cổ phần như bà L1 đã xác định trong hợp đồng số 01/052016/HĐ_CNCP
ngày 02/5/2016. Theo các hợp đồng chuyển nhượng cổ phần thì bà L1 sở hữu 65%
cổ phần, ông T sở hữu 35% cổ phần. Như vậy CTCP E chỉ có 02 thành viên là bà
L1 và ông T đã sở hữu 100% cổ phần là trái với quy định của pháp luật là CTCP
phải có tối thiểu 03 thành viên. Bà N đã mua cổ phần nhưng không được ghi tên
vào danh sách thành viên của CTCP E. Do đó, bà nghị hủy hợp đồng chuyển
nhượng số 01/052016/HĐ_CNCP ngày 02/5/2016 và buộc bà Nguyễn Phương L1
trả lại cho bà N số tiền 200.000.000 đồng.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Thứ nhất, CTCP E được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu
ngày 07/11/2014 với 03 thành viên sáng lập là Nguyễn Phương L1 sở hữu 196.000
cổ phần (chiếm 40% vốn điều lệ); Nguyễn Kinh L2 và Nguyễn Duy Thiên A mỗi
52
người sở hữu 147.000 cổ phần (chiếm 30% vốn điều lệ).
Đại hội đồng cổ đông ngày 03/3/2016 đã đồng ý cho: Ông Nguyễn Kinh L2
chuyển nhượng 122.500 cổ phần (25%) cho bà Nguyễn Phương L1 và chuyển
nhượng 24.500 cổ phần (5%) cho ông Nguyễn Văn T; Ông Nguyễn Duy Thiên A
chuyển nhượng 73.500 cổ phần (15%) cho bà Nguyễn Thị Kim H và chuyển
nhượng 73.500 cổ phần (15%) cho ông Nguyễn Văn T. Các bên có liên quan đã
thực hiện việc chuyển nhượng cổ phần cho nhau theo Nghị quyết của Đại hội đồng
cổ đông ngày 03/3/2016 bằng các hợp đồng chuyển nhượng ngày 03/3/2016. Sau
khi chuyển nhượng thì danh sách cổ đông như sau: Bà Nguyễn Phương L1 nắm giữ
318.500 cổ phần (65%), ông Nguyễn Văn T nắm giữ 98.000 cổ phần (20%) và bà
Nguyễn Thị Kim H nắm giữ 73.500 cổ phần (15%). Đại hội đồng cổ đông ngày
28/4/2016 đã đồng ý cho bà Nguyễn Phương L1 chuyển nhượng 49.000 cổ phần
(chiếm 10% vốn điều lệ) cho bà Hà Thị Quý N. Vào ngày 02/5/2016, bà Nguyễn
Phương L1 ký hợp đồng số 01/052016/HĐ_CNCP chuyển nhượng cho bà Hà Thị
Quý N 49.000 cổ phần. Như vậy hợp đồng chuyển nhượng là hợp pháp.
Thứ hai, đối với kháng cáo của bà Hà Thị Quý N, thì:
Một là, việc chuyển nhượng cổ phần giữa các cổ đông sáng lập và giữa cổ
đông sáng lập chuyển nhượng cổ phần cho bà Hà Thị Quý N (là người không phải
là cổ đông sáng lập) đã nêu trên đều được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận, đã tuân
thủ đúng theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 119, Điều 126 Luật Doanh
nghiệp. Do vậy, kháng cáo của bà Hà Thị Quý N cho rằng bà Nguyễn Phương L1
không có quyền chuyển nhượng cổ phần là không có căn cứ.
Hai là, xét việc bà Hà Thị Quý N kháng cáo cho rằng vào thời điểm bà
Phương L1 chuyển nhượng cổ phần cho bà thì CTCP E chỉ có hai thành viên và bà
Phương L1 chuyển nhượng cổ phần cho bà trong khi bà Phương L1 không sở hữu
số cổ phần chiếm 65% vốn điều lệ của Công ty. Hội đồng xét xử thấy vào thời điểm
bà Nguyễn Phương L1 chuyển nhượng cổ phần cho bà Hà Thị Quý N ngày
02/5/2016 thì CTCP E có ba thành viên là bà Nguyễn Phương L1 nắm giữ 318.500
cổ phần (65%), ông Nguyễn Văn T nắm giữ 98.000 cổ phần (20%) và bà Nguyễn
53
Thị Kim H nắm giữ 73.500 cổ phần (15%). Do vậy, kháng cáo của bà Hà Thị Quý
N là không có cơ sở.
Ba là, xét kháng cáo của bà Hà Thị Quý N về việc bà không có tên trong
danh sách thành viên của CTCP E. Hội đồng xét xử nhận thấy tại Điều 32 Luật
Doanh nghiệp năm 2014 và Điều 51 Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của
Chính phủ quy định doanh nghiệp chỉ phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh
doanh khi có sự thay đổi cổ đông sáng lập. Bà Hà Thị Quý N chỉ là cổ đông của
công ty (người nhận chuyển nhượng cổ phần), không phải là cổ đông sáng lập nên
không có tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty là đúng quy định của pháp
luật. Theo quy định tại Điều 121 và 126 Luật Doanh nghiệp thì người nhận cổ phần
trở thành cổ đông của công ty kể từ thời điểm các thông tin của họ được ghi đầy đủ
vào Sổ đăng ký cổ đông. Ngày 05/5/2016, CTCP E đã cấp Giấy chứng nhận sở hữu
cổ phần cho bà Hà Thị Quý N với số lượng 73.500 cổ phần (Do bà Hà Thị Quý N
có mua của thành viên sáng lập khác của Công ty với số lượng 24.500 cổ phần), nên
việc bà N cho rằng bà không được CTCP E thừa nhận bà là cổ đông của Công ty
cũng là không đúng.
Từ phân tích vụ việc trên thì thấy trong trường hợp này, tranh chấp là do bà
N cho rằng bà Phương L và CTCP E không thực hiện đầy đủ nghĩa cụ của bà N,
khiến cho quyền lợi của bà N chưa được đảm bảo. Cụ thể bà cho rằng thông tin cổ
đông ghi nhận tại Sở Kế hoạch là thông tin đầy đủ và chứng minh hợp pháp cho tư
cách của cổ đông. Nên khi không thấy tên mình được ghi nhận tại đó thì bà khởi
kiện. Tuy nhiên, như Tòa đã phán quyết, bà N nhận chuyển nhượng cổ phần từ cổ
đông sáng lập không có nghĩa bà trở thành cổ đông sáng lập nên không cần thông
báo với Phòng đăng ký kinh doanh. Và theo quy định mới của Nghị định
108/2018/NĐ-CP thì kể cả chuyển nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập thì hiện
nay cũng không cần làm thủ tục thông báo.
Trong những trường hợp này, sự xác nhận của CTCP, ghi nhận thông tin cổ
đông vào sổ đăng ký cổ đông cũng như cấp giấy chứng nhận sở hữu cổ phần thì
quyền sở hữu của cổ đông nhận chuyển nhượng đã được xác lập hợp pháp. Ngày
54
05/5/2016, CTCP E đã cấp Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần cho bà Hà Thị Quý N
với số lượng 73.500 cổ phần (Do bà Hà Thị Quý N có mua của thành viên sáng lập
khác của Công ty với số lượng 24.500 cổ phần). Vậy bà N nên xem sổ cổ đông của
CTCP E đã có thông tin đầy đủ và chính xác của bà chưa, nếu thông tin của bà N đã
được ghi nhận vào sổ cổ đông của CTCP E thì bà N là cổ đông của CTCP E, được
hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ như những cổ đông hiện hữu của CTCP E.
Qua đây, có thể rút ra, khi tham gia chuyển nhượng cổ phần, các bên có
quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ
thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên cần phải biết là xác nhận quyền lợi của mình trên căn
cứ pháp luật nào. Nắm được điều đó, đối tượng tham gia chuyển nhượng cổ phần sẽ
biết bảo vệ quyền lợi của mình đúng cách, tiết kiệm thời gian, tiền bạc cũng như
mối quan hệ giữa các bên.
2.4. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
Chuyển nhượng cổ phần có hai hình thức hoặc là chuyển nhượng trực tiếp
thông qua hợp đồng hoặc chuyển nhượng gián tiếp thông qua TTCK. Đối với
chuyển nhượng gián tiếp thông qua TTCK được quy định và điều chỉnh bởi Luật
Chứng khoán. Còn về hình thức chuyển nhượng cổ phần trực tiếp thông qua hợp
đồng thì chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế, các
tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần đa số sẽ bị tuyên hợp đồng vô hiệu, vì vậy,
phân tích về hợp đồng chuyển nhượng là một nội dung quan trọng trong pháp luật
chuyển nhượng cổ phần.
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần là một dạng của hợp đồng, vì thế, hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần muốn đủ căn cứ phát sinh hiệu lực phải đáp ứng các
nội dung cơ bản của hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 398, Bộ luật Dân sự 2015 về nội dung của hợp đồng thì:
“1. Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:
a) Đối tượng của hợp đồng;
b) Số lượng, chất lượng;
55
c) Giá, phương thức thanh toán;
d) Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
đ) Quyền, nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
g) Phương thức giải quyết tranh chấp.”
Như vậy, hợp đồng chuyển nhượng thì hai bên có quyền thỏa thuận về các
nội dung cụ thể nhưng phải có những nội dung cơ bản như đối tượng của hợp đồng
là cổ phần chuyển nhượng, số lượng cụ thể, giá chuyển nhượng và phương thức
thanh toán. Bên cạnh đó, nội dung về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng cũng như phương thức giải quyết tranh chấp cũng cần được đề cập trong
hợp đồng chuyển nhượng cổ phần.
Xét cho cùng, trong pháp luật chuyển nhượng cổ phần trực tiếp, hợp đồng
chuyển nhượng là căn cứ pháp lý quan trọng nhất để xem xét quyền và nghĩa vụ của
các bên khi phát sinh tranh chấp. Vì vậy, các bên tham gia chuyển nhượng cổ phần
phải cẩn trọng, thỏa thuận chi tiết những điều khoản. Phân tích trường hợp sau đây
để thấy sự quan trong về nội dung của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần:
Vụ việc: Hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu bị vô hiệu khi bên chuyển
nhượng chưa có quyền sở hữu [15]
Mô tả tóm lược: Ông Đoàn Cửu Vân và ông Trần Linh ký kết 02 hợp đồng
mua bán cổ phiếu phổ thông của CTCP thủy điện Sông Ba Hạ, cụ thể như sau:
Hợp đồng thứ nhất: lập ngày 30/5/2008 có nội dung ông Trần Linh (bên A)
chuyển nhượng 20.000 cổ phiếu của CTCP thủy điện sông Ba Hạ cho ông Đoàn
Cửu Vân (Bên B) có giá gốc là 10.000 đồng/cổ phiếu.
Hợp đồng thứ 2: được lập ngày 23/6/2008, Trần Linh tiếp tục chuyển
nhượng 5.000 cổ phiếu của CTCP thuỷ điện sông Ba Hạ cho ông Đoàn Cửu Vân
với giá chuyến nhượng là 13.500 đồng/1 cổ phiếu.
Thực hiện hai hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu trên, ông Đoàn Cửu Vân đã
thanh toán cho ông Trần Linh tổng số tiền 169.500.000 đồng. Khi ký kết hai hợp
đồng mua bán cổ phiếu trên, ông được biết CTCP thủy điện sông Ba Hạ chưa phát
56
hành cổ phiếu và ông Trần Linh không có cổ phiếu để chuyển nhượng. Vì vậy, ông
yêu cầu Tòa án tuyên hủy 2 hợp đồng mua bán cổ phiếu nêu trên và yêu cầu ông
Trần Linh trả lại cho ông số tiền 169.500.000 đồng và tiền lãi theo lãi suất của Ngân
hàng nhà nước. Về sự việc trên, các bên có ý kiến như sau:
Ý kiến của ông Trần Linh: Tại thời điếm ký hợp đồng mua bán cổ phiếu, ông
đã được quyền sở hữu 59.560 cổ phiếu phổ thông của CTCP thủy điện sông Ba Hạ
nên ông có toàn quyền tự do chuyển nhượng, ông đề nghị tiếp tục thực hiện hai hợp
đồng mua bán cổ phiếu đã được ký kết và ông chịu trách nhiệm chuyển sổ cổ đông
tương ứng với 8.000 cổ phiếu cho ông Đoàn Cửu Vân.
Ý kiến của người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Tại thời điểm ông Trần
Linh bán cổ phiếu cho ông Đoàn Cửu Vân, thì CTCP thủy điện sông Ba Hạ chưa
phát hành cổ phiếu cũng như chưa cấp sổ cổ đông cho các cổ đông góp vốn. Hiện
nay, Công ty đang chốt lại danh sách các thể nhân (là các cán bộ, công nhân viên)
góp vốn để tiến đến cấp sổ cổ đông cho các cổ đông cũng như đang thực hiện các
thủ tục pháp lý để chứng nhận cổ đông góp vốn.
Vụ việc tranh chấp này qua qua cấp xét xử, từ sơ thẩm, đến phúc thẩm và
giám đốc thẩm:
Phán quyết của Tòa sơ thẩm: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đoàn Cửu
Vân. Hủy hai hợp đồng mua bán cổ phiếu phổ thông của CTCP thủy điện sông Ba
Hạ lập vào các ngày 30/5/2008 và ngày 23/6/2008. Buộc ông Trần Linh có nghĩa vụ
trả lại ông Đoàn Cửu Vân số tiền 169.500.000 đồng và phải bồi thường cho ông
Đoàn Cửu Vân 32.159.000 đồng.
Phán quyết của Tòa phúc thẩm: Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm
số 05/2011/KDTM-ST ngày 23/3/2011 của Tòa án nhân tỉnh PY và đình chỉ giải
quyết vụ án với lý do thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết.
Quyết định giám đốc thẩm: Hủy phán quyết của Tòa phúc thẩm để xét xử
phúc thẩm lại.
Tòa phúc thẩm lập luận:
Thứ nhất, về việc ông Linh chưa phải là cổ đông của Công ty
57
Theo CTCP thủy điện sông Ba Hạ xác nhận tại thời điểm chuyển nhượng cổ
phiếu thì CTCP thủy điện sông Ba Hạ chưa phát hành cổ phiến và chưa chứng nhận
quyền sở hữu cổ phần của mỗi cổ đông góp vốn, chưa cấp sổ cổ đông cho ông Linh,
đồng thời không biết việc chuyển nhượng và cũng không xác nhận việc ông Linh
chuyển nhượng cổ phần cho ông Vân. Thực tế, ông Linh chưa nộp tiền vào Công ty,
nên ông Linh chưa phải là cổ đông của Công ty.
Thứ hai, về hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu vô hiệu
Do ông Trần Linh không có tài sản (cổ phiếu đứng tên ông Trần Linh) hoặc
quyền sở hữu cổ phần để giao dịch với ông Đoàn Cửu Vân, nên việc ông Trần Linh
ký hai hợp đồng mua bán chuyển nhượng cho ông Vân 25.000 cổ phiếu phổ thông
của CTCP thủy điện sông Ba Hạ là trái với quy định tại Khoản 3 Điều 6 Điều lệ
Công ty “Mọi việc chuyến nhượng, nhận chuyển nhượng và các giao dịch khác liên
quan đến cổ phân và việc sở hữu cổ phần phải thông qua thủ tục chuyển nhượng tại
Công ty hoặc đơn vị được Công ty ủy quyền và phải được người đại diện theo pháp
luật của Công ty hoặc đại diện được ủy quyền của người đó xác nhận...”; Khoản 2
Điều 8 Điều lệ Công ty “Cổ phần chưa được thanh toán đầy đủ không được chuyển
nhượng và hưởng cổ tức.” và Khoản 3 Điều 87 Luật Doanh nghiệp “cổ phần được
coi là đã bán khi được thanh toán đủ và những thông tin về người mua được quy
định tại khoản 2 Điều 86 Luật Doanh nghiệp được ghi đúng, ghi đủ vào sổ đăng ký
cổ đông, từ thời điểm đó, người mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty”.
Các hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu giữa ông Linh và ông Vân này bị coi
là vô hiệu, lỗi hoàn toàn thuộc về ông Linh, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định hợp
đồng chuyển nhượng cổ phiếu giữa ông Linh và ông Vân là hợp pháp là không đúng.
Thứ ba, vẫn còn thời hiệu khởi kiện
Ông Vân thanh toán tiền cho ông Linh vào các ngày 30/5/2008, 23/8/2008
và 09/02/2010 với tổng số tiền là 169.500.000 đồng. Sau ngày 09/02/2010, các bên
mới xảy ra tranh chấp, và ngày 16/12/2010 ông Đoàn Cửu Vân có đơn khởi kiện là
trong thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hợp đồng được ký ngày
30/5/2008 và ngày 26/8/2008, nên ngày 16/12/2010, ông Đoàn Cửu Vân mới khởi
58
kiện là đã quá thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật dân
sự để quyết định hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2011/KDTM-
ST ngày 23/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh PY và đình chỉ giải quyết vụ án là
không đúng.
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần
và yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng [35]
Ngày 4/3/2019, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ra Thông báo số 19/TB-VC2-
V3 rút kinh nghiệm vụ án “Tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau về việc
chuyển nhượng cổ phần và yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu”.
Nội dung vụ án:
Công ty cổ phần đầu tư xây dựng L được thành lập năm 2006, vốn điều lệ
100 tỷ đồng gồm 5 cổ đông, trong đó, ông Lê Tấn H góp vốn tỷ lệ 61% (tương
đương 61 tỷ đồng). Ngân hàng TMCP D góp vốn tỷ lệ 11% (tương đương 11 tỷ
đồng). Ngày 07/8/2014, Ngân hàng S và ông Lê Tấn H ký Biên bản thỏa thuận về
việc chuyển nhượng cổ phần CTCP đầu tư xây dựng L (nay là CTCP P), theo đó,
Ngân hàng S chuyển nhượng cho ông Lê Tấn H 110.000 cổ phần của CTCP đầu tư
xây dựng L, tương ứng số tiền 11.000.000.000 đồng. Thời điểm thực hiện chuyển
nhượng dự kiến không quá ngày 30/9/2014. Sau đó, Ngân hàng S và ông Lê Tấn H
ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số 01/2014/HĐCN (không có ngày,
tháng) năm 2014. Theo đó, Ngân hàng S chuyển nhượng cho ông Lê Tấn H 110.000
cổ phần (tương ứng với tỷ lệ 11% vốn điều lệ) của Công ty với tổng giá trị chuyển
nhượng 100.000đ/CP, tương ứng với số tiền là 11.000.000.000 đồng.
Do ông Lê Tấn H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nên Ngân hàng S
khởi kiện, yêu cầu ông Lê Tấn H trả cho Ngân hàng số tiền 13.502.500.000 đồng,
trong đó, tiền gốc là 11.000.000.000 đồng và tiền nợ phạt chậm trả theo quy định
của hợp đồng là 2.502.500.000 đồng.
Ông Lê Tấn H có đơn phản tố với nội dung: Việc ký hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần giữa ông và Ngân hàng S xuất phát từ lý do: Năm 2012, vì Ngân
hàng Nhà nước không cho các Ngân hàng thương mại đầu tư ngoài ngành nên Ngân
59
hàng S rút vốn khỏi CTCP đầu tư xây dựng L (nay là Công ty CP P). Đến năm
2014, do không tìm được đối tác mua lại số cổ phần trên nhưng đã hết thời hạn báo
cáo với Ngân hàng Nhà nước nên hai bên đã ký kết Hợp đồng chuyển nhượng số
01/2014/HĐCN nhằm mục đích để Ngân hàng S hợp thức hóa hồ sơ báo cáo với
Ngân hàng Nhà nước về việc rút vốn khỏi CTCP đầu tư xây dựng L, nên Hợp đồng
01/2014/HĐCN không ghi ngày, tháng, không có thời hạn chuyển nhượng cổ phần,
thời hạn thanh toán.
Ông Lê Tấn H không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S.
Đồng thời, yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số
01/2014/HĐCN (không ghi ngày, tháng) năm 2014 vô hiệu.
Một trong những vấn đề cần rút kinh nghiệm mà VKSND nhấn mạnh là về
hình thức hợp đồng, cụ thể:
Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần số 01/2014/HĐCN giữa ông Lê Tấn H và
Ngân hàng S không ghi ngày, tháng, chỉ ghi năm 2014 và không thỏa thuận về thời
hạn thanh toán là chưa đảm bảo chặt chẽ về mặt hình thức. Căn cứ khoản 2 Điều
404 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi
phạm về hình thức trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Nhưng bản án sơ
thẩm xác định là Hợp đồng vô hiệu để xử không chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân
hàng S là chưa có căn cứ vững chắc. Bởi lẽ:
Tại Điều 2 Hợp đồng số 01 có quy định về thời hạn, phương thức thanh toán
nhưng không thể hiện cụ thể thời hạn thanh toán là ngày, tháng, năm nào. Sau khi
ký kết Hợp đồng, các bên đều không thực hiện nghĩa vụ của mình theo Hợp đồng.
Nhưng tại Biên bản họp Đại hội cổ đông ngày 16/4/2015, ông H tham gia và tiếp
tục thỏa thuận việc mua 110.000 cổ phần của Ngân hàng S và xác định thời điểm
chuyển nhượng là ngày 16/4/2015. Sau đó, CTCP đầu tư xây dựng L làm thủ tục
báo cáo lên Phòng Đăng ký kinh doanh – Sở Kế hoạch và đầu tư xin phép đăng ký
kinh doanh thay đổi lần thứ 4, nội dung thay đổi bao gồm tên Công ty và phần
chuyển nhượng vốn góp của các cổ đông, trong đó, có Ngân hàng S. Giấy phép kinh
doanh được cấp ngày 07/5/2015, sửa đổi lần thứ 4, thể hiện ông Lê Tấn H nắm giữ
60
972 000 cổ phần, chiếm tỷ lệ 97,27%; cổ phần của Ngân hàng S là 0 (không).
Tại Biên bản xác minh ngày 21/9/2017, Phòng Đăng ký kinh doanh – Sở Kế
hoạch và đầu tư xác định: Ngân hàng S không phải là cổ đông sáng lập của Công ty,
nên việc chuyển nhượng cổ phần của Ngân hàng S cho các cá nhân, tổ chức không
phải thông báo cho Phòng Đăng ký kinh doanh, mà chỉ thực hiện thông báo cho nội
bộ CTCP đầu tư xây dựng L và ghi nhận trong số cổ đông của CTCP đầu tư xây
dựng L. Khoản 5 Điều 87 Luật Doanh nghiệp năm 2005 (nay là Điều 126 Luật
Doanh nghiệp năm 2014) quy định: “Giấy tờ chuyển nhượng phải được bên chuyển
nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại diện ủy quyền của họ ký. Bên chuyển
nhượng vẫn là người sở hữu cổ phần có liên quan cho đến khi tên của người nhận
chuyển nhượng được đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông”, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm
chưa thu thập tài liệu, chứng cứ “Sổ đăng ký cổ đông” của CTCP đầu tư xây dựng L
để xem xét, đánh giá hiệu lực của việc chuyển nhượng cổ phần giữa Ngân hàng S
và ông Lê Tấn H đã được đăng ký vào sổ đăng ký cổ đông hay chưa? Án sơ thẩm
chỉ căn cứ vào lời khai nhận của ông H và CTCP đầu tư xây dựng L là chưa đủ căn cứ.
Ngoài ra, cấp sơ thẩm chưa xác định, làm rõ thời điểm phát sinh tranh chấp
việc chuyển nhượng cổ phần giữa Ngân hàng S và ông Lê Tấn H để làm căn cứ xác
định việc chậm nghĩa vụ thanh toán như trong Hợp đồng chuyển nhượng đã ký là
chưa đảm bảo đúng pháp luật. Việc ông Lê Tấn H cho rằng việc hai bên ký kết hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần số 01/2014/HĐCN chỉ nhằm mục đích để Ngân hàng
hợp thức hóa hồ sơ báo cáo Ngân hàng Nhà nước về việc rút vốn khỏi CTCP đầu tư
xây dựng L có thực hay không? Có vi phạm việc đầu tư ngoài ngành hay không?
Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục được các vi phạm nêu trên, cần hủy bản
án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo đúng pháp luật.
Qua vụ việc tranh chấp trên, tác giả cho rằng cần lưu ý về hợp đồng chuyển
nhượng cổ phần như sau:
Một là, hợp đồng chuyển nhượng cổ phần cần phải có xác nhận của CTCP
Thông thường, pháp luật không quy định hợp đồng chuyển nhượng cổ phần
phải có xác nhận của CTCP. Tuy nhiên, để đảm bảo tính an toàn nên có mục xác
61
nhận việc chuyển nhượng cổ phần giữa hai bên với nhau. Như trường hợp trên, nếu
có xác nhận của CTCP thủy điện sông Ba Hạ thì sẽ phát hiện ngay từ đầu việc
CTCP Ba Hạ chưa phát hành cổ phiến và chưa chứng nhận quyền sở hữu cổ phần
của mỗi cổ đông góp vốn, chưa cấp sổ cổ đông cho ông Linh. Như vậy ông Linh
chưa nộp tiền vào Công ty, chưa phải là cổ đông của Công ty nên không có quyền
chuyển nhượng cổ phần cho ông Vân.
Bên cạnh đó, khi hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có xác nhận của CTCP
thì khi hai bên hoàn thành nghĩa vụ CTCP đó sẽ có trách nhiệm thay đổi thông tin
cổ đông và ghi nhận vào trong sổ đăng ký cổ đông, đây là quyền lợi của bên nhận
chuyển nhượng. Vì vậy trong hợp đồng chuyển nhượng cổ phần có có sự xác nhận
của CTCP.
Hai là, hợp đồng chuyển nhượng phải quy định cụ thể, chặt chẽ về điều
khoản thanh toán, điều kiện và phương thức thanh toán.
Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận, tự do ý chí của các bên, do vậy khi
xảy ra tranh chấp, rất khó xác định nếu như các bên không quy định chi tiết và thể
hiện nó trên hợp đồng. Như vụ việc trên, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định hợp đồng
chuyển nhượng cổ phiếu giữa ông Linh và ông Vân là hợp pháp cho thấy thực tế xét
xử về hợp đồng là một trong những nội dung phức tạp.
Vì vậy để đảm bảo quyền lợi, các bên phải quy định cụ thể, chặt chẽ về điều
khoản thanh toán, điều kiện và phương thức thanh toán. Đây là những vấn đề dễ
phát sinh tranh chấp, nhất là đối với việc chuyển nhượng hay mua bán cổ phần và
có thể gặp phải nhiều rủi ro.
62
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở lý luận của pháp luật chuyển nhượng cổ phần, phân tích thực
trạng và thực hiện pháp luật chuyển nhượng cổ phần Việt Nam hiện nay có thể thấy:
Một là, pháp luật chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam tuân thủ nguyên tắc tự
do chuyển nhượng như các nước trên thế giới. Ưu điểm nổi bật của CTCP là tính
chất đối vốn, phản ánh cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng chuyển đổi dễ dàng mà
không làm mất đi tính ổn định trong cấu trúc vốn. Vì thế, ở các nước phát triển, quy
định về pháp luật chuyển nhượng cổ phần tuân thủ nguyên tắc tự do chuyển nhượng
để đảm bảo bản chất của CTCP. Về điểm này, pháp luật chuyển nhượng Việt Nam
quy định và điều chỉnh tương tự. Các cổ đông sở hữu cổ phần nếu không thuộc
trường hợp chuyển nhượng cổ phần sẽ được tự do định đoạt và chuyển nhượng cổ
phần thuộc sở hữu của mình.
Mặc dù pháp luật có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần trong ba
trường hợp là cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần của cổ đông sáng lập trong ba
năm đầu kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và hạn chế theo
Điều lệ công ty có thể hiện trên cổ phần tương ứng. Do tính đặc thù của trường hợp
này nhằm bảo vệ quyền tự chủ cũng như ổn định của CTCP trong ba năm đầu nên
pháp luật mới quy định hạn chế. Tuy nhiên sau ba năm, tất cả hạn chế đều được gỡ
bỏ đưa tất cả quay về vận hành theo nguyên tắc chuyển nhượng tự do này.
Tính tự do chuyển nhượng cổ phần mang lại cho nền kinh tế sự vận động
nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty. Quy
định này giúp cho việc chuyển nhượng cổ phần dễ dàng và thuận lợi thông qua hợp
đồng chuyển nhượng hoặc TTCK. Nhờ đặc này đã góp phần đưa CTCP trở thành
một hình thức tổ chức kinh doanh có khả năng huy động một số lượng vốn lớn
ngầm chảy trong các tầng lớp dân cư, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô
khổng lồ, có thể coi là lớn nhất trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay.
Hai là, quy định về thủ tục và hình thức chuyển nhượng cụ thể tạo điều kiện
thuận lợi cho các đối tượng. Trên nguyên tắc tự do chuyển nhượng cổ phần nên thủ
63
tục chuyển nhượng cổ phần quy định đối với cổ đông phổ thông và cổ đông sáng
lập cũng được quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi để các bên chuyển nhượng cổ
phần. Đặc biệt là quy định mới của Nghị định 108/2018/NĐ-CP về việc chuyển
nhượng cổ phần của cổ đông sáng lập doanh nghiệp không cần nộp hồ sơ thay đổi
đăng ký kinh doanh chỉ cần lưu giữ hồ sơ nội bộ về chuyển nhượng cổ phần và thực
hiện khai nộp thuế thu nhập cá nhân do chuyển nhượng cổ phần. Đây là một điểm
sáng cho thấy pháp luật chuyển nhượng cổ phần linh hoạt điều chỉnh theo thực tiễn
để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động chuyển nhượng cổ phần trong nền
kinh tế hội nhập hiện nay.
Đối với hình thức chuyển nhượng cổ phần thông qua hợp đồng chuyển
nhượng, pháp luật doanh nghiệp không có quy định riêng biệt cho chuyển nhượng
cổ phần mà chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng. Thực tế cho thấy khi xảy
ra tranh chấp, hầu hết Tòa án đều tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Điều đó cho thấy, hợp
đồng chuyển nhượng rất quan trọng mà các bên cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật hợp đồng để hợp đồng có hiệu lực. Đúc kết từ các vụ việc tranh chấp
về chuyển nhượng cổ phần, một điểm cần lưu ý trong hợp đồng chuyển nhượng là
có xác nhận của CTCP. Pháp luật không quy định hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần phải có xác nhận của CTCP. Tuy nhiên, để đảm bảo tính an toàn nên có mục
xác nhận việc chuyển nhượng cổ phần giữa hai bên với nhau.
Thứ ba, là quyền và nghĩa vụ của các bên trong chuyển nhượng cổ phần cần
được làm rõ và đảm bảo thực hiện. Mọi tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần đều
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Chủ thể tham gia chuyển nhượng cổ
phần cần nắm rõ các quy định của pháp luật chuyển nhượng cổ phần cũng như điều
lệ riêng của CTCP, số cổ phần mình định mua là loại cổ phần gì, khi chuyển
nhượng cần có các điều kiện và thủ tục chuyển nhượng như thế nào có cơ sở bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình. Ngoài ra, nguyên tắc cơ bản của hợp đồng là thiện
chí và thỏa thuận, khi đã thống nhất với nhau, các bên cần hoàn thành tất cả các
nghĩa vụ đã cam kết để các bên đạt được mục đích giao dịch, tránh mất thời gian,
tiền bạc và mối quan hệ khi đưa vụ việc tranh chấp tại cơ quan xét xử.
64
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần là một trong những quy định pháp luật
mới được hình thành gần đây theo các giai đoạn phát triển của nền kinh tế và nhu
cầu của các CTCP. Ở nước ta, do đặc dù phát triển kinh tế - chính trị, CTCP ra đời
muộn hơn so với các nước. Trước khi Luật công ty được ban hành ngày 21/12/1990,
các hình thức công ty hầu như không được pháp luật thừa nhận. Pháp luật về CTCP
nói chung và pháp luật chuyển nhượng cổ phần nói riêng được quy định và hoàn
thiện qua Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp
2014. Càng ngày, quy định pháp luật chuyển nhượng cổ phần càng hoàn thiện để
dần tiệm cận với chuẩn mực chung của thế giới. Như trong Luật Doanh nghiệp 2005
không có điều khoản riêng quy định về chuyển nhượng cổ phần. Chuyển nhượng cổ
phần chỉ được thể hiện lồng ghép chung với nội dung chào bán cổ phần. Trong khi
đó, Luật Doanh nghiệp 2014 tiến bộ hơn khi tách nội dung về chào bán cổ phần và
chuyển nhượng cổ phần thành các điều khoản riêng.
Luật Doanh nghiệp 2014 có nhiều điểm mới và thành công, nhưng vẫn còn
bất cập và hạn chế, trong đó có các quy định về chuyển nhượng cổ phần trong
CTCP. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về chuyển nhượng cổ phần
là cần thiết trong thời gian đến với các hướng tiếp cận sau:
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật chuyển nhượng cổ phần theo chủ
trương, chính sách của Nhà nước về quản lý doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, pháp luật doanh nghiệp không thể tách rời với chính sách phát triển
65
kinh tế chung của Đảng và Nhà nước. Thực tế những điểm mới của pháp luật
chuyển nhượng cổ phần được điều chỉnh do chính sách mở cửa hội nhập nên các
quy định về thủ tục cũng được đơn giản hóa để thu hút nhiều chủ thể tham gia. Và
tất nhiên, khi các doanh nghiệp hoạt động theo quy luật tự do thì để kiểm soát tất cả
vừa vặn trong chuẩn mực cho phép thì vai trò của Nhà nước trong quy định về quản
lý doanh nghiệp là cấp thiết. Nâng cao tính hiện đại của pháp luật như những nước
phát triển trong khu vực và thế giới cũng phải có sự đánh giá và điều chỉnh bởi cơ
quan tối cao. Xét cho cùng, Nhà nước là cơ quan duy nhất có đủ thẩm quyền để
đánh giá toàn diện sự tác động của một văn bản pháp luật, khi thay đổi một nội
dung pháp luật cần có sự tiên đoán về hệ quả pháp lý của nó lên tất cả lĩnh vực kinh
tế - chính trị. Vì vậy việc hoàn thiện pháp luật phải tiếp tục gắn liền với sự quản lý
của cơ quan Nhà nước vì điều đó giúp cho pháp luật được thực thi cũng như được
kiểm soát toàn diện.
3.1.2. Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh về hoạt động
chuyển nhượng cổ phần trong CTCP
Chuyển nhượng cổ phần là hoạt động mới nên chưa có hệ thống pháp luật
riêng điều chỉnh hoạt động này, chuyển nhượng cổ phần được điều chỉnh bởi nhiều
quy phạm pháp luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán, Luật Dân sự, Luật
Đầu tư.... Cho từng trường cụ thể sẽ viện dẫn đến luật chuyên ngành để giải quyết
các vấn đề về chuyển nhượng cổ phần. Tuy nhiên, thực tế hiện nay hoạt động
chuyển nhượng diễn ra phổ biến hằng ngày cho thấy tầm quan trọng của nó, chuyển
nhượng cổ phần góp phần thúc đẩy phát triển CTCP. Do vậy, cần có sự đầu tư xây
dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về chuyển nhượng cổ phần trong
CTCP. Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần cần phải có vị trí trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
Hoạt động của CTCP chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Do
đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động chuyển nhượng cổ phần không chỉ là
hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp mà còn bao gồm cả pháp luật về dân sự, pháp
luật hành chính, pháp luật thương mại, pháp luật chứng khoán… Bên cạnh đó cần
66
có sự hệ thống hóa bởi khi các quy phạm pháp luật điều chỉnh nằm rải rác ở những
ngành luật khác nhau sẽ khiến cho người áp dụng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
các căn cứ pháp lý cũng như tìm hiểu về quy định pháp luật về chuyển nhượng cổ phần.
Ngoài ra, hiện nay, Chính phủ và các bộ đã ban hành nhiều văn bản hướng
dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp. Tuy nhiên, một số lĩnh vực vẫn chưa có văn bản
hướng dẫn thi hành chi tiết và chuyển nhượng cổ phần là một trong số đó. Luật quy
định về các trường hợp chuyển nhượng cổ phần nhưng thủ tục cụ thể cho từng
trường hợp chuyển nhượng thì các văn bản hướng dẫn chi tiết chưa có. Vì vậy, như
nội dung đăng ký kinh doanh được hệ thống với các văn bản rõ ràng và chi tiết thì
nội dung chuyển nhượng cổ phần cũng cần quy định cụ thể như vậy để chủ thể
chuyển nhượng cũng như cơ quan quản lý có cơ sở áp dụng và kiểm soát.
3.1.3. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
kinh doanh
Từ trước đến nay, các thành phần kinh tế quốc doanh vẫn được hưởng những
ưu đãi hơn so với thành phần kinh tế tư nhân đã tạo nên sự bất bình đẳng trong quan
hệ kinh doanh. Bên cạnh đó, đối với chủ thể là nhà đầu tư nước ngoài pháp luật
cũng có những hạn chế nhất định đối với chủ thể này. Nếu đã là nền kinh tế thị
trường vận động theo quy luật của nền kinh tế thì các chủ để cần có môi trường
bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ. Ví dụ như việc giới hạn các nhà đầu
tư nước ngoài chỉ được tham gia các ngành nghề với tỷ lệ sở hữu quy định của cam
kết WTO sẽ gây thiệt cho những CTCP muốn kêu gọi sự tham gia của nhà đầu tư
nước ngoài có kinh nghiệm ở những ngành nghề không thuộc cam kết WTO. Đồng
thời, đây cũng là hạn chế đối tượng tiếp cận của các cổ đông muốn chuyển nhượng
cho các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài nhằm mục đích kiếm lợi cao hơn.
Ngoài ra, chuyển nhượng cổ phần theo nguyên tắc tự do chuyển nhượng trừ
ba trường hợp hạn chế. Đối với trường hợp hạn chế chuyển nhượng theo Điều lệ
công ty là do sự thỏa thuận chung của tất cả các cổ đông xây dựng nên, đó là sự
thống nhất ý chí của các cổ đông về quyền tự do của mình. Đứng ở góc độ đó, có
thể thấy, nguyên tắc tự do này vẫn được đảm bảo. Đối với cổ phần ưu đãi biểu
67
quyết của cổ đông sáng lập và cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn chế
trong ba năm đầu, sau đó được tự do chuyển nhượng. Duy đối với cổ phần ưu đãi
biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy quyền lại không quy định về thời gian
chuyển đổi thành cổ phần phổ thông là bao lâu, điều đó cho thấy tổ chức được
Chính phủ ủy quyền được sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không thời hạn. Điều
này có thể xem là không công bằng cho cổ đông của CTCP đó cũng như tổ chức
được Chính phủ ủy quyền. Việc nắm cổ phần ưu đãi biểu quyết thời gian không giới
hạn sẽ ảnh hưởng đến quyền biểu quyết chung giữa các cổ đông với nhau đồng thời
chính tổ chức được Chính phủ ủy quyền này cũng không thể chuyển nhượng cổ
phần. Vì vậy, pháp luật chuyển nhượng cần xem xét điều chỉnh nội dung này.
Tóm lại, cần xây dựng một môi trường kinh doanh mà tại đó tất cả các chủ
thể tham gia đều bình đằng về quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, lúc đó, các bên sẽ
lấy quy phạm pháp luật làm cơ sở duy nhất để thỏa thuận và kinh doanh, đảm bảo
tính thi hành của pháp luật.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
Thực tiễn thi hành pháp luật về vốn trong CTCP vẫn còn tồn tại một số hạn
chế trong thủ tục chuyển nhượng. Do đó, các quy định về chuyển nhượng cổ phần
cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho CTCP
dễ dàng hoạt động và phát huy hơn nữa vai trò là nơi tập trung những nguồn vốn
lớn của xã hội, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần
cần triển khai trong hiện nay gồm:
Thứ nhất, bổ sung, sửa đổi quy định về thủ tục chuyển nhượng cổ phần
Dù đã có quy định mới về thủ tục chuyển nhượng cổ phần đối với cổ đông
sáng lập hiện nay không cần thông báo thay đổi thông tin cổ đông với phòng đăng
ký kinh doanh, tuy nhiên thủ tục về chuyển nhượng cổ phần vẫn còn tồn tại bất cập
khi triển khai trên thực tế, vì vậy cần bổ sung, sửa đổi thủ tục như sau:
68
Một là, xóa bỏ quy định người nhận cổ phần chỉ trở thành cổ đông công ty từ
thời điểm các thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông.
Quy định về tư cách cổ đông trong CTCP sau khi hai bên thực hiện chuyển
nhượng cổ phần chỉ được ghi nhận từ thời điểm thông tin cổ đông nhận chuyển
nhượng được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đồng là một quy định khiến cho các bên
gặp khó khăn trên thực tế và phát sinh tranh chấp. Về vấn đề này, cần có sự xem xét
và thay đổi.
Việc thông báo thông tin cổ đông nhận chuyển nhượng cổ phần với CTCP để
cập nhật vào Sổ đăng ký cổ đông chỉ mang mục đích giúp CTCP quản lý thông tin
của cổ đông công ty chứ không mang tính quyết định tư cách cổ đông của cổ đông
nhận chuyển nhượng. Chuyển nhượng cổ phần là quyền tự do của các cổ đông, khi
hai bên hoàn thành các quyền và nghĩa vụ với nhau thì tư cách cổ đông cũng được
chuyển giao từ thời điểm hoàn thành đó. Nên bỏ quy định phải có sự xác nhận tư
cách cổ đông của CTCP, vì trên thực tế hai bên đã hoàn thành việc chuyển nhượng
cổ phần và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần, nhưng CTCP lại không xác nhận tư cách cổ đông mới,
khiến cho quyền lợi của người nhận chuyển nhượng cổ phần bị ảnh hưởng, phải đưa
vụ việc ra Tòa án yêu cầu giải quyết.
Pháp luật nên sửa đổi nội dung xác nhận của CTCP là thủ tục mang tính hành
chính, quản lý về mặt sổ sách thông tin của cổ đông để đảm bảo quyền lợi chính
đáng cho tất cả các cổ đông cũ và mới gia nhập CTCP. Quy định bắt buộc phải có
sự xác nhận của CTCP mới được công nhận là cổ đông công ty là một hạn chế đối
mới chuyển nhượng cổ phần.
Ngoài ra, có thể xem xét thời hạn quy định phải có sự xác nhận của CTCP về
tư cách cổ đông là trong vòng ba năm kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh. Đề xuất này xuất phát từ điểm chung đối với quy định hạn chế
chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của cổ đông sáng lập trong
vòng ba năm kể từ ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Vì
quan điểm chung, trong ba năm đầu, CTCP cần có sự ổn định về mặt tổ chức, nhân
69
sự trước khi tiếp nhận thành viên mới để đảm bảo được chiến lược phát triển chung.
Thì với quan điểm này, có thể vẫn duy trì quy định cần có sự xác nhận của CTCP,
ghi vào sổ cổ đông thì mới phát sinh tư cách cổ đông của người nhận chuyển
nhượng. Nhưng phải giới hạn thời gian, quy về điểm mốc chung là ba năm kể từ
ngày CTCP được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, sau đó, quy định này
phải được bãi bỏ. Các bên chỉ cần thông báo sự thay đổi để CTCP cập nhật lại dữ
liệu cổ đông để quản lý, việc này không ảnh hưởng đến quyền trở thành cổ đông
hợp pháp của cổ đông nhận chuyển nhượng.
Hai là, tạo điều kiện thuận lợi hơn về thủ tục chuyển nhượng cổ phần đối với
trường hợp người nhận chuyển nhượng là nhà đầu tư nước ngoài.
Một trong những chính sách kinh tế hàng đầu hiện nay là thu hút đầu tư nước
ngoài thì các quy định pháp luật phải cùng xu hướng với chính sách kinh tế để đảm
bảo tính thống nhất. Muốn thu hút đầu tư thì phải tạo điều kiện thuận lợi cho các
nhà đầu tư nước ngoài.
Muốn làm được điều đó, trước hết ngành nghề và tỷ lệ sở hữu theo cam kết
WTO đối với nhà đầu tư nước ngoài cần được mở rộng dần dần theo từng giai đoạn
để các CTCP với các ngành nghề khác nhau có cùng cơ hội trong việc thu hút nhà
đầu tư đầu tư vào lĩnh vực của CTCP đó.
Tiếp theo thủ tục thông báo với cơ quan quản lý đối với trường hợp người
nhận chuyển nhượng là nhà đầu tư nước ngoài cần xem xét có thể giảm đi như đối
với trường hợp cổ đông sáng lập chuyển nhượng cổ phần không cần thông báo với
phòng đăng ký kinh doanh. Nếu có thể thay bằng cách thức quản lý khác đối với đối
tượng cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài sẽ giúp cho việc chuyển nhượng cổ phần
thuận lợi và phát triển hơn.
Thứ hai, quy định giới hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của
tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ cổ phần tại CTCP.
Như đã phân tích cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần đặc biệt áp dụng cho
hai đối tượng là cổ đông sáng lập và tổ chức được Chính phủ ủy quyền vì mục đích
nâng cao vai trò của hai chủ thể này trong quản trị CTCP và kiểm soát đối với
70
những ngành kinh tế trọng điểm. Tuy nhiên nếu cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ
đông sáng lập sẽ được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông sau ba năm vì lúc này
công ty bắt đầu đi vào hoạt động ổn định, thì cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức
được Chính phủ ủy quyền lại không giới hạn thời gian. Điều này sẽ tạo sự bất bình
đằng giữa quyền biểu quyết của các cổ đông trong CTCP. Trong CTCP, mọi vấn đề
quan trọng đều thông qua biểu quyết, vì vậy cần giới hạn thời gian nắm giữ của của
tổ chức được Chính phủ ủy quyền như những giới hạn khác là trong vòng ba năm,
sau ba năm phải chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Thực tế, nếu một CTCP có
của tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữa cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ có lợi
thế trong việc chi phối các hoạt động trong CTCP tạo sự bất bình với cổ đông hiện
hữu, sự quan ngại đối với các nhà đầu tư muốn tham gia vào CTCP đó. Vì vậy việc
quy định giới hạn khoảng thời gian đại diện cho phần vốn góp của Nhà nước nắm
giữ các cổ phần ưu đãi biểu quyết sẽ khắc phục được sự can thiệp quá sâu của Nhà
nước vào hoạt động của CTCP, đồng thời tạo ra sự bình đẳng giữa các loại cổ đông.
Thứ ba, quy định rõ hơn khái niệm cổ phần và chuyển nhượng cổ phần
Hiện nay, khi áp dụng pháp luật doanh nghiệp rất nhiều người phân vân về
hai thuật ngữ “cổ phần” và “chứng khoán”.
Tại khoản 1, khoản 2 Điều 6 Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 quy định:
“1. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán
được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao
gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
2. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.” [22]
Từ quy định này có thể hiểu cổ phần cũng là một loại chứng khoán được thể
hiện dưới hình thức cổ phiếu? Chuyển nhượng cổ phần có thể được gọi là chuyển
71
nhượng cổ phiếu? Bên cạnh đó, việc quy định về hình thức chuyển nhượng cổ phần
hoặc thông qua hợp đồng chuyển nhượng hoặc thông qua TTCK cũng khiến cho
người áp dụng lúng túng về các khái niệm.
Vì vậy, để thống nhất và tạo điều kiện thuận lợi cho người áp dụng, pháp luật
doanh nghiệp nói chung và pháp luật chuyển nhượng cổ phần nói riêng cần quy
định khái niệm cổ phần, chuyển nhượng cổ phần rõ ràng và cụ thể hơn.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng
cổ phần
Từ những tranh chấp phát sinh trên thực tế cho thấy việc thực hiện pháp luật
chuyển nhượng cổ phần còn nhiều khuyết điểm, vì vậy cần có những giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần. Những giải pháp có
thể triển khai trong thời gian đến gồm:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý
nhà nước, Tòa án và hệ thống các cơ quan tư pháp
Có thể nói các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là cơ quan đăng ký kinh
doanh là đơn vị trực tiếp và thường xuyên làm việc với các doanh nghiệp. Việc
nâng cao nâng lực của các cán bộ chuyên môn sẽ giúp cho việc tư vấn, hỗ trợ các
doanh nghiệp thực hiện pháp luật chuyển nhượng cổ phần đầy đủ và chính xác.
Ngoài ra, các vụ việc tranh chấp về nội dung chuyển nhượng cổ phần thường
được xét xử qua nhiều cấp xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc thẩm. Đặc
biệt từ thông rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần và yêu
cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của VKSND cấp cao tại Đà Nẵng cho thấy sự quan
trọng của việc nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án và hệ thống các cơ quan tư
pháp đối với tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần. Đây là nội dung mới và biến
đổi theo sự phát triển chung của Việt Nam nên việc nâng cao chất lượng cơ quan
xét xử để tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho các bên tranh chấp là nội dung cấp thiết
cần xem xét triển khai sớm trong thời gian đến.
Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền (cơ quan nhà nước, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, các Hiệp hội ngành, nghề....) cần đẩy mạnh việc tuyên
72
truyền, giải thích, phổ biến pháp luật về doanh nghiệp, đặc biệt là các quy định về
chuyển nhượng cổ phần trong CTCP tại các CTCP hoặc cho các nhà đầu tư.
Pháp luật về chuyển nhượng cổ phần là quy định pháp luật không chỉ được
điều chỉnh bởi luật doanh nghiệp mà còn chịu sự tác động từ những pháp luật khác
như dân sư, đầu tư, chứng khoán, thuế… Trên thực tế, rất nhiều nhà đầu tư, CTCP
không nắm được tất cả quy định về pháp luật chuyển nhượng cổ phần. Chưa kể đến,
pháp luật chuyển nhượng cổ phần cũng thường xuyên được cập nhật và đổi mới và
doanh nghiệp chưa biết. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần đẩy mạnh việc
tuyên truyền, giải thích, phổ biến pháp luật về doanh nghiệp đặc biệt là các quy định
về chuyển nhượng cổ phần.
Hình thức nâng cao kiến thức về pháp luật chuyển nhượng cổ phần có thể
thông qua:
Một là, các buổi hội thảo, tập huấn kiến thức miễn phí của các cơ quan có
thẩm quyền cho các CTCP và các nhà đầu tư.
Hai là, trên các trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước thường xuyên
có những bài phân tích và những điểm cần lưu ý về pháp luật chuyển nhượng cổ
phần. Đồng thời trên các trang thông tin điển tử cần có cổng tương tác giữa người
hỏi và trả lời về các nội dung cụ thể. Cần có nhân sự trực trang điện tử thường
xuyên để có thể phản hồi nhanh chóng đến các nội dung mà các chủ thể muốn tìm
hiểu và đặt vấn đề.
73
Tiểu kết chương 3
Nhìn chung, pháp luật về chuyển nhượng cổ phần là một trong những nội
dung quan trọng của pháp luật doanh nghiệp. Hiện nay, nội dung này đang được
đông đảo cơ quan chức năng, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư quan tâm và đề xuất
hoàn thiện qua từng giai đoạn. Hoàn thiện pháp luật chuyển nhượng cổ phần và
nâng cao tính hiệu quả của thực thi pháp luật chuyển nhượng cổ phần là nhiệm vụ
hàng đầu của các cơ quan chức năng nếu muốn hệ thống pháp luật phát triển, cụ thể:
Một là, định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về chuyển nhượng cổ phần phải theo chủ trương, chính sách của Nhà nước về
quản lý doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Một quốc gia phát triển là quốc
gia có nền kinh tế, chính trị và pháp luật thống nhất với nhau vì một chiến lược phát
triển chung.
Tiếp đến cần hệ thống hóa văn bản pháp luật hoàn chỉnh về hoạt động
chuyển nhượng cổ phần trong CTCP để giúp các chủ thể có cái nhìn tổng thể trong
việc thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu cổ phần. Ngoài ra trong nền kinh tế tự
vận động theo thị trường tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật thì phải được đặt
trong môi trường công bằng để các chủ thể tham gia đều có những lợi thế như nhau
mới đạt được hiệu quả mong muốn.
Hai là, các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về chuyển nhượng cổ phần cần được triển khai ngay trong thời gian đến.
Đầu tiên là việc quy định chi tiết, cụ thể hơn về các khái niệm cổ phần, chuyển
nhượng cổ phần, thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của các tổ chức được
Chính phủ ủy quyền tham gia CTCP. Sau đó là nâng cao hoạt động của cơ quan
chức năng trong quản lý, tuyên truyền pháp luật và đặc biệt là Tòa án trong hoạt
động xét xử để các bên có tham gia pháp luật chuyển nhượng đạt được ý chỉ thỏa
thuận, giảm thiểu tranh chấp phát sinh.
74
KẾT LUẬN
Từ nghiên cứu các vấn đề lý luận về chuyển nhượng cổ phần và pháp luật
chuyển nhượng cổ phần kết hợp với việc tìm hiểu thực trạng pháp luật của một số
nước trên thế giới, nghiên cứu thực trạng pháp luật cũng như việc thực thi pháp luật
về chuyển nhượng cổ phần trên thực tế có thể kết luận những nội dung chính sau:
Thứ nhất, các quy định pháp luật chuyển nhượng cổ phần cơ bản được hoàn
thiện với các quy định về điều kiện, nguyên tắc và thủ tục chuyển nhượng cổ phần,
các quyền và nghĩa vụ của bên chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng và của các
bên có liên quan. Trên cơ sở tham khảo hệ thống pháp luật chuyển nhượng cổ phần
của các nước trên thế giới, pháp luật chuyển nhượng cổ phần ở Việt Nam có sự kế
thừa và áp dựng chọn lọc để cùng quy định chuẩn chung của thế giới nhưng phù
hợp với nền kinh tế đặc trưng tại Việt Nam. Vì thế, quy định pháp luật chuyển
nhượng cổ phần cần thường xuyên sửa đổi, bổ sung theo tình hình hoạt động thực tế
của CTCP cũng như nhu cầu chung của thị trường kinh doanh.
Thứ hai, thực trạng pháp luật chuyển nhượng cổ phần và thực tiễn thi hành
pháp luật chuyển nhượng cổ phần hiện nay đạt một số thành công khi các chủ thể
tham gia chuyển nhượng cổ phần có cơ sở pháp lý để làm căn cứ thỏa thuận và tiêu
chuẩn để thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những tranh
chấp phát sinh trên thực tế cho thấy pháp luật chuyển nhượng cổ phần còn nhiều
điểm thiếu xót cần khắc phục.
Một là, về nguyên tắc tự do chuyển nhượng cổ phần. Tự do chuyển nhượng
cổ phần là nguyên tắc cơ bản của pháp luật chuyển nhượng cổ phần. Căn bản pháp
luật cũng quy định và bảo vệ nguyên tắc này. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng cho
thấy, có những quy định về thủ tục điều kiện chuyển nhượng cổ phần vô tình hạn
chế quyền tự do này. Như việc cổ đông nhận chuyển nhượng cổ phần, dù đã hoàn
thành các nghĩa vụ trong thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần nhưng vẫn chưa được
xem là cổ đông công ty nếu như chưa được ghi thông tin vào sổ cổ đông công ty.
Điều này là một trong những hạn chế quyền tự do của các chủ thể. Khi đạt thỏa
thuận giữa hai bên thì được xem là giao dịch thành, các bên chính thức chuyển
75
nhượng tư cách cổ đông cho nhau mà không có điều kiện bắt buộc xác nhận của
CTCP.
Hai là, về quyền và nghĩa vụ phát sinh sau khi chuyển nhượng cổ phần. Trên
thực tế, có nhiều tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần mà hầu hết đều xuất phát từ
việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của các bên. Khi tham gia chuyển nhượng cổ phần,
các bên cần nắm rõ các quy định chung của pháp luật chuyển nhượng cổ phần, quy
định riêng của điều lệ CTCP để biết được cổ phần mình đang thỏa thuận chuyển
nhượng sẽ dẫn đến phát sinh quyền và nghĩa vụ như thế nào. Có như thế các bên
mới bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng như phạm vi nghĩa vụ phải thực hiện
sau khi chuyển nhượng cổ phần.
Ba là, về hợp đồng chuyển nhượng cổ phần. Hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần là nội dung quan trọng khi chuyển nhượng cổ phần, đó là một trong hai hình
thức của chuyển nhượng cổ phần, là cơ sở thỏa thuận của các bên và là căn cứ xét
xử của Tòa án khi có tranh chấp. Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần phải đảm bảo
các nội dung cơ bản của hợp đồng, nếu không sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu khiến
cho các chủ thể tham gia chuyển nhượng cổ phần tốn kém thời gian, công sức và
tiền bạc. Các nội dung thỏa thuận trong hợp đồng chuyển nhượng cần được chi tiết,
cụ thể và đúng theo quy định pháp luật để ý chí thỏa thuận của các bên có thể đạt được.
Thứ ba, qua các phân tích về quy định pháp luật chuyển nhượng cổ phần,
thực trạng thực hiện pháp luật chuyển nhượng cổ phần cũng như giải quyết tranh
chấp giữa các chủ thể, có thể thấy việc định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về chuyển nhượng cổ phần là cần thiết. Đầu tiên cần
tiếp tục định hướng pháp luật chuyển nhượng cổ phần theo định hướng phát triển
chung của Đảng và Nhà nước. Tiếp theo là xác định vai trò của nhà nước trong việc
đảm bảo quyền tự do của các chủ thể trong chuẩn mực chung để kiểm tra, giám sát.
Sau đó đó xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi chủ thể để vai trò
của pháp luật được nâng cao khi đó là cơ sở để các bên dùng để thương thảo, thỏa thuận.
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật chuyển nhượng cổ phần trước hết ở sự hệ thống
hóa các quy phạm pháp luật chuyển nhượng cổ phần để chủ thể áp dụng dễ dàng
76
trong việc tìm hiểu và vận dụng. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
chuyển nhượng cổ phần là: sửa đổi bổ sung các quy định về thủ tục chuyển nhượng
cổ phần; quy định giới hạn thời gian nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết của tổ chức
được Chính phủ ủy quyền tại CTCP; quy định rõ hơn về khái niệm cổ phần, chuyển
nhượng; tăng cường hiệu quả thực thi của pháp luật chuyển nhượng trên thực tế và
tăng cường nhận thức, kiến thức pháp luật cho CTCP, cho các cổ đông nhằm qua đó
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của bên chuyển nhượng cổ phần, bên nhận chuyển
nhượng cổ phần và các bên khác có liên quan để tạo điều kiện cho nền kinh tế thị
trường ngày càng phát triển.
77
1/ Trần Quỳnh Anh (2012), Tìm hiểu pháp luật công ty của Cộng hòa Liên bang
DANH MỤC THAM KHẢO
Đức, Bài nghiên cứu Châu Âu – European Studies review, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
2/ Nguyễn Phương Anh (2012), Chế độ pháp lý về vốn trong công ty cổ phần
theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
3/ Đào Thùy Anh (2014), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức quản lý
công ty cổ phần – Góc nhìn từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Luận văn Thạc sĩ,
Trường đại học Luật Hà Nội.
4/ Nguyễn Ngọc Bích (2003), Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong CTCP,
Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
5/ Bộ tài chính (2018), Thông tư số 25/2018/TT-BTC hướng dẫn Nghị định
146/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính Phủ và sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính,
Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính, ban hành
ngày 16/3/2018, Hà Nội.
6/ Bộ tài chính (2015), Thông tư số 92/2015/TT-BTC hướng dẫn thực hiện thuế
giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú hoặc có hoạt
động kinh doanh; hướng dẫn thực hiện một số nội dung sửa đổi, bổ sung về
thuế thu nhập cá nhân quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các
Luật về thuế 71/2014/QH13 và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung của các Luật
về Thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế, ban hành
ngày 15/6/2015 Hà Nội.
7/ Chính phủ (2015), Nghị định số 78/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký
doanh nghiệp, ban hành ngày 14/9/2015, Hà Nội.
8/ Chính phủ (2018), Nghị định số 108/2018/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ
về đăng ký doanh nghiệp, ban hành ngày 23/8/2018, Hà Nội.
9/ TS. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong
pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10/ TS. Nguyễn Thị Dung (2008), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu
tư - Những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11/ Nguyễn Thị Việt Hà (2010), Thực trạng pháp luật Việt Nam về Cổ phần trong
quá trình thành lập và hoạt động của CTCP, Khóa luận Tốt nghiệp, Đại học
Luật Hà Nội.
12/ Bùi Xuân Hải (2011), Luật Doanh nghiệp bảo vệ cổ đông - Pháp luật và thực
tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13/ Đỗ Thị Khánh Huyền (2013), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công ty cổ
phần theo kinh nghiệm của một số nước, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
14/ Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về cổng ty cổ phần theo Luật
Công ty Nhật bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội, Luật học, tr 87-93.
15/ Hội đồng thẩm phán TANDTC (2018) “Hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu bị
vô hiệu khi bên chuyển nhượng chưa có quyền sở hữu”, <
https://caselaw.vn/du-doan-ket-qua-tranh-chap/hop-dong-chuyen-nhuong-co-
phieu-bi-vo-hieu-khi-ben-chuyen-nhuong-chua-co-quyen-so-huu>,
(14/8/2019).
16/ ThS. Bùi Thanh Lam (2008), Điều kiện xây dựng, phát triển thị trường mua bán
và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 4.
17/ Michael E.S. Frankel (2009), Mua lại và sáp nhập căn bản: Các bước quan
trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư, Nxb Tri Thức, Hà
Nội.
18/ Phạm Vũ Phương (2019) “Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng phần vốn
góp trong công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014”, <
http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-phap-luat-ve-chuyen-nhuong-
phan-von-gop-trong-cong-ty-co-phan-theo-quy-dinh-cua-luat-doanh-nghiep-
nam-2014-62271.htm>, (14/8/2019).
19/ Lê Vệ Quốc (2001), Tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về chuyển
nhượng vốn đối với công ty TNHH và công ty cổ phần, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 11, tr. 41-47.
20/ Quách Thúy Quỳnh (2010), Quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật Việt
Nam, Tạp chí Luật học, tháng 4/2010, tr. 19.
21/ Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự Việt Nam, ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội.
22/ Quốc hội (2006), Luật Chứng khoán, Hà Nội.
23/ Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 29/11/2005, Hà Nội.
24/ Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 26/11/2014, Hà Nội.
25/ Quốc hội (2014), Luật Đầu tư, ban hành ngày 26/11/2014, Hà Nội.
26/ Scott Moeller và Chris Brady (2009), Mua lại và sáp nhập thông minh - Kim chỉ
nam trên trận đồ sáp nhập và mua lại, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
27/ Phạm Thị Tâm (2016), Pháp luật về chuyển nhượng phần vốn góp trong Công
ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội.
28/ Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (2018) “Bản án
11/2018/KDTM-PT ngày 24/04/2018 về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
cổ phần”, ngay-24042018-ve-tranh-chap-hop-dong-chuyen-nhuong-co-phan-72515>, (14/8/2019). 29/ Tòa án nhân dân tối cao (2017), “Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty”, 30/ Cao Thị Kim Trinh (2004), Tổ chức quản lý nội bộ CTCP những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. 31/ Đoàn Văn Trường (1996), Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động CTCP, Nxb Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội 32/ Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật Dân sự, tập I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 33/ Tổ chức thương mại thế giới (2006) “Phần II - Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ”, 15435.aspx>, (14/8/2019). 34/ Viện Kinh tế Thế giới (1991), Công ty cổ phần - Các nước phát triển - Quá trình thành lập, tổ chức quản lý, Nxb Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội. 35/ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2018) “Thông báo rút kinh nghiệm vụ án tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần và yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu”, 36/ Lại Thị Hải Yến (2012), Quy chế pháp lý về vốn của công ty cổ phần - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh 37/ Andrew J. Sherman and Milledge A. Hart (2006), Mergers and Acquisitions from A to Z. 38/ Evangelos Perakis (2002), Rights of Minority shareholders (XVIth Congress of the International Academy of Comparative Law), Brisbane (Australia), pg. 743. 39/ International Business Law Commission (2015), General Report: Rights of Minority Shareholders, London 2015. 40/ Michael Blakeney (2011), Curriculum on intellectual propetty, Queen Mary Intellectual Property research Institue, University of London. 41/ Pehr-Johan Norback and Lars Persson (2008), Cross-border Mergers and Acquisitions policy in Service Markets, Research Institute of Industrial Economics, 04. 42/ The Law society of Scotland (2007), Buying and Selling a company: Understanding the process, 02