intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn học và Văn hoá Việt Nam: Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

49
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bố cục của luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được triển khai ở 3 chương: Chương 1 - Khái Hưng và tiểu thuyết luận đề; Chương 2 - Các luận đề trong tiểu thuyết của Khái Hưng; Chương 3 - Nghệ thuật tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn học và Văn hoá Việt Nam: Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN QUỐC LINH TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ CỦA KHÁI HƯNG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2018
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN QUỐC LINH TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ CỦA KHÁI HƯNG Nghành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHAN TRỌNG THƯỞNG THÁI NGUYÊN - 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình. Tác giả luận văn Nguyễn Quốc Linh i
  4. LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp cuối khóa, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giảng viên, các nhà nghiên cứu khoa học, Ban lãnh đạo khoa Ngữ văn, phòng Sau Đại học, Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Đặc biệt Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và hoàn thành đề tài này. Em xin cảm ơn quý thầy cô, các phòng ban, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường Đại học Sư phạm Thái nguyên đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành khóa học. Bằng cả tấm lòng mình, em xin gửi tới Phó giáo sư -Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất. Em xin cảm ơn Ban lãnh đạo Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Thái nguyên, Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông Lê Hồng Phong, các bạn bè, đồng nghiệp, những người thân đã nhiệt tình ủng hộ, chia sẻ khó khăn, khích lệ tinh thần trong suốt thời gian qua. Em xin trân trọng cảm ơn! Thái Nguyên, ngày 14 tháng 4 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Quốc Linh ii
  5. MỤC LỤC Lời cam đoan ........................................................................................................ i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 8 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 9 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 9 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 10 NỘI DUNG ....................................................................................................... 11 Chương 1: KHÁI HƯNG VÀ TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ.......................... 11 1.1. Khái Hưng .............................................................................................. 11 1.1.1. Cuộc đời và con người..................................................................... 11 1.1.2. Mối quan hệ với nhóm Tự lực văn đoàn ......................................... 14 1.2. Tiểu thuyết luận đề ................................................................................. 18 1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết và tiểu thuyết luận đề ................................... 18 1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn và Khái Hưng ................ 20 Chương 2: CÁC LUẬN ĐỀ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA KHÁI HƯNG ... 25 2.1. Chống lễ giáo và đại gia đình phong kiến .............................................. 25 2.2. Đề cao cái tôi cá nhân và nếp sống âu hóa ............................................. 36 2.3. Thể hiện ước mơ cải cách xã hội ............................................................ 44 Chương 3: NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ CỦA KHÁI HƯNG....47 3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và kết cấu ............................................ 47 3.1.1. Cốt truyện ........................................................................................ 47 iii
  6. 3.1.2. Kết cấu ............................................................................................. 55 3.2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật ............................................. 61 3.2.1. Các tiểu loại nhân vật ...................................................................... 64 3.2.2. Các phương thức, biện pháp miêu tả nhân vật ................................ 72 3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu .......................................... 78 3.3.1. Ngôn ngữ ......................................................................................... 78 3.3.2. Giọng điệu ....................................................................................... 87 KẾT LUẬN....................................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 95 iv
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tự lực văn đoàn có nhiều đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết. Trong sự tồn tại của nhóm, người ta không thể không nhắc đến Khái Hưng. Với tài năng và tinh thần sáng tạo không mệt mỏi, ông đã có những ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa văn học nước nhà đầu thế kỷ XX, đồng thời góp phần làm rạng danh tên tuổi của văn đoàn Tự lực. Khái Hưng để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn. Những sáng tác của ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp thanh niên trí thức Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XX, đồng thời tạo được sự ngưỡng mộ đối với độc giả yêu mến văn học. Khái Hưng sáng tác ở nhiều thể loại song có lẽ thành công nhất vẫn là tiểu thuyết, mà trước hết là tiểu thuyết luận đề. Những tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói chung, Khái Hưng nói riêng đã trở nên quen thuộc với độc giả yêu mến văn học và giới nghiên cứu phê bình. Vị trí của Khái Hưng ngày càng được khẳng định vững chắc. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về sự nghiệp văn chương của ông là minh chứng hùng hồn khẳng định điều đó. Những thành công trong tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng đã góp phần từng bước tạo ra diện mạo mới cho văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Trống mái, Gia đình, Thoát ly ,Thừa tự….là những cuốn tiểu thuyết tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu và bênh vực quyền được hưởng hạnh phúc của cá nhân con người. Trong tác phẩm của mình, Khái Hưng tỏ ra đặc biệt quan tâm tới thân phận đáng thương của người phụ nữ trong gia đình phong kiến. Ông xây dựng khá thành công hình tượng những người con gái có cá tính mạnh mẽ, dám đấu tranh chống lại những giáo lý lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân ta hàng nghìn năm qua. Đó là những cô gái tân thời có học thức, được tiếp xúc với văn minh phương Tây nên thấu hiểu sâu sắc những bất công mà họ là nạn nhân phải gánh chịu. Vì thế khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu ở những người phụ nữ này mạnh 1
  8. mẽ hơn ai hết. Hành động chống đối lại xã hội ấy là điều hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển. Tác phẩm của Khái Hưng là những tiếng nói đả phá hủ tục phong kiến, đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, hướng tới cải cách xã hội. Đây chính là đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Đến với tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng, chúng tôi muốn góp tiếng nói khẳng định giá trị trong sáng tác của ông trên cả hai khía cạnh nội dung và nghệ thuật. 2. Lịch sử vấn đề Như trên đã nói, Tự lực văn đoàn và nhất là Khái Hưng đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị. Tuy nhiên đây cũng là hiện tượng tạo nên nhiều tranh luận trong lịch sử văn học nước nhà. Việc nghiên cứu, đánh giá tác phẩm của Khái Hưng nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung khá phức tạp. Mỗi một thời người ta lại có những quan điểm khác nhau. Có khi trong cùng một thời nhưng hai miền Nam-Bắc cũng không đồng nhất ý kiến . Chúng tôi tạm chia những đánh giá về Tự lực văn đoàn và Khái Hưng làm 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (trước năm1945): Đây là giai đoạn Tự lực văn đoàn đang hoạt động và thu hút được sự chú ý của độc giả. Khái Hưng được người đọc đón nhận nồng nhiệt, nhất là ở thể loại tiểu thuyết. Ông cũng là một trong những tác giả được giới nghiên cứu phê bình quan tâm rất nhiều. Người ta nhắc đến Khái Hưng qua các bài đánh giá chung về nhà văn, hoặc các bài phê bình, giới thiệu sách. Đó là các ý kiến của Trương Tửu, Đức Phiên, Trần Thanh Mại, Vũ Ngọc Phan… đăng trên các báo Loa, Sông Hương, Phụ nữ thời đàm, Ngọ báo, Nhật tân, Ích hữu… Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khác quan tâm tới tiểu thuyết của Khái Hưng. Khi nhận xét về tác phẩm của Khái Hưng Dương Quảng Hàm đã viết trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu (1942): “Tuy vẫn có khuynh hướng xã hội nhưng lại thiên về mặt lý tưởng và có thi vị riêng … Khái Hưng có một cách tả người và tả cảnh tuy xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng, thanh tú khiến cho người đọc thấy cảm” [11, tr. 455]. 2
  9. Trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) Vũ Ngọc Phan đã đánh giá tiểu thuyết của Khái Hưng như sau: “Nhưng dù ở tiểu thuyết lý tưởng, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm lí, cái đặc sắc mà người ta thấy trong các tác phẩm của Khái Hưng là sự xét nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt Nam” [37, tr. 780]. Tiểu thuyết của Khái Hưng thời kì này được đánh giá cao về mặt nội dung tư tưởng: chống lại chế độ phong kiến, muốn giải phóng cá nhân, giải thoát cho người phụ nữ. Trên báo Loa (1935) Trương Chính cho rằng: “Nửa chừng xuân là cuốn truyện ghi dấu sự phấn đấu giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện luận cho quan hệ nhân sinh mới và công bố sự bất hợp thời của những tập quán do nền luân lí cổ truyền tạo ra” [9, tr. 313]. Nhìn chung, giới phê bình trước năm 1945 đánh giá cao Khái Hưng và nhóm Tự lực văn đoàn. Chủ đề chống lễ giáo phong kiến và giải phóng cá nhân được chú ý quan tâm. Song một số nhà nghiên cứu đương thời lại cho rằng tiểu thuyết của Khái Hưng vẫn còn một số hạn chế: đôi khi tư tưởng không thiết thực, có tác phẩm kết cấu không chặt chẽ, thậm chí còn có những lỗi dùng từ đặt câu …Các đánh giá này chỉ là những bước gợi mở chứ chưa đi sâu khám phá những đóng góp trên phương diện nghệ thuật. Các công trình này còn chung chung và có phần đơn giản. Giai đoạn thứ hai (từ 1946-1986): Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh cho nên suốt một thời gian dài tiểu thuyết của Khái Hưng không được quan tâm. Sau năm 1954 nó mới được đề cập đến. Nhưng do sự phức tạp của tình hình chính trị nên ở hai miền Nam - Bắc có cách đánh giá khác nhau. Ở miền Bắc: Các tác phẩm của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn có thời gian dài bị cấm. Năm 1957, sau khi tái bản cuốn Tiêu sơn tráng sĩ, trên các báo Văn nghệ quân đội, Độc lập, Tổ quốc, Tuần báo văn, các tác giả Trần Thanh Mại, Vĩnh Mai, Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Phú, Trương Chính, Lê Long, Trần Tín, Trần Chân Dung đã tranh luận sôi nổi về tác phẩm này. Cuối thập niên 50 và đầu thập niên 3
  10. 60 của thế kỷ XX xuất hiện một số công trình nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn. Cụ thể là: Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957) của nhóm Lê Quý Đôn; Văn học Việt Nam 1930-1945 (1961) của Bạch Năng Thi và Phan Cự Đệ; Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam 1930-1945 (1964) của Viện Văn học…Đến những năm 70 thì những công trình như: Bàn về cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại (1930-1945) của Vũ Đức Phúc (1971), Tiểu thuyết Việt Nam của Phan Cự Đệ, tập 1 (1974) và các bài phê bình của Nguyễn Đức Đàn, Nam Mộc…đều nhắc đến Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết của Khái Hưng. Nhưng nhìn chung do quá chú trọng vào chức năng giáo dục của văn học, do các nhà phê bình đã căn cứ vào những tiêu chí chính trị của văn học cách mạng và lấy đó làm thước đo các giá trị của văn chương lãng mạn nên một số người đánh giá có phần quá nghiêm khắc, với nhiều định kiến nặng nề. Họ cho rằng, văn học là phải phản ánh nỗi khổ của người dân bị áp bức bóc lột mà quên đi đời sống nội tâm với bao dằn vặt, day dứt của thanh niên trí thức. Bởi thế cho nên văn chương của Khái Hưng nói riêng, văn chương Tự lực văn đoàn nói chung mới chỉ được khen ngợi môt chút về nội dung chống phong kiến và về những cách tân trong nghệ thuật tiểu thuyết. Nhìn chung tiểu thuyết của Khái Hưng và của Tự lực văn đoàn thường được hiểu là: xa rời thưc tiễn, tiêu cực, bạc nhược suy đồi, phản động, có hại…Chẳng hạn như cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1939 - 1945 có ghi nhận xét: “Trong những tác phẩm được xuất bản từ 1936 đến 1943, tuy vẫn có một số yếu tố tốt như chống quan lại phong kiến trong gia đình, phản ánh sự ty tiện của những con người đặt đồng tiền lên trên tất cả, phê phán một số địa chủ tham lam, ngu dốt, nhưng những mặt tiêu cực trong tư tưởng, tình cảm của Khái Hưng phát triển mạnh hơn. Tiêu sơn tráng sĩ (…), ca ngợi bọn phục vụ cho một chế độ suy tàn, không nghĩ tới nhân dân (…).Trống mái tô vẽ lối sống của tư sản (…).Chủ nghĩa cải lương phản động biểu hiện rõ rệt nhất trong Gia đình. Ở đây tác giả muốn địa chủ là những người vừa có học, vừa rộng rãi, muốn cải thiện đời sống cho dân nghèo…” [23, tr. 87]. 4
  11. Ở cuốn Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam cũng có nhận định: “Chỉ hiềm một điều ông (tức Khái Hưng) ít chú ý đến xã hội, đến những vấn đề mấu chốt của xã hội, chỉ quanh quẩn với những người trong giai cấp của mình, với một nhân sinh quan đặc tiểu tư sản cho nên nội dung tư tưởng của ông rất nghèo nàn” [32, tr. 337]. Ở miền Nam: Tự lực văn đoàn lại được đề cao, chú trọng quá mức. Nhiều tác phẩm của văn đoàn này được in lại và phổ biến rộng rãi. Ngoài các bài viết đăng trên các tạp chí, còn có các công trình văn học được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, tiêu biểu như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) của Nguyễn Văn Xung; Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1960) của Phạm Thế Ngũ; Tự lực văn đoàn (1960) của Doãn Quốc Sỹ; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1972) của Nguyễn Xuân Bào…Có những công trình nghiên cứu riêng về Khái Hưng như: Khảo luận về Khái Hưng của Lê Hữu Mục; Luận đề về Khái Hưng của Nguyễn Duy Diễn và Bằng Phong; Luận đề về Khái Hưng của Nguyễn Bá Lương và Tạ Văn Ru… Có các bài báo, hồi ký viết về tiểu sử, về những kỷ niệm sống và sáng tác của Khái Hưng như: Ba tôi của Trần Khánh Triệu; Tưởng nhớ Khái Hưng của Vũ Bằng…Có các bài báo đánh giá lại những tiểu thuyết của Khái Hưng theo phương pháp mới như: Hồn bướm mơ tiên của Tam Ích; Tình yêu hiến dâng trong Hồn Bướm mơ tiên của Nguyễn Văn Trung… Đặc biệt là có một số văn bản đi sâu nghiên cứu thân thế và tác phẩm của Khái Hưng như: Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1932-1945, của Thế Phong; Khái Hưng thân thế và tác phẩm của Thư Trung; Khái Hưng người thứ nhất muốn làm nguyên soái của văn chương sáng giá của Hồ Hữu Tương; Nhân nghĩ về Khái Hưng, Khái Hưng nhà văn và cuộc phấn đấu của Dương Nghiễm Mậu; Về tiểu thuyết của Khái Hưng của Đặng Phùng Quân; Thế giới nhân vật của Khái Hưng của Đào Trương Phúc; Người đàn bà trong tác phẩm của Khái Hưng của Vũ Hạnh… Số ít ý kiến chưa công nhận, họ cảm thấy những tác phẩm của Khái Hưng và Tự lực văn đoàn có “một cái gì đó nhạt nhẽo, giả tạo, hời hợt, vụng về” [34, tr. 16]. 5
  12. Song phần đông đánh giá cao tiểu thuyết của Khái Hưng. Chẳng hạn Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Văn nghệ Tự lực văn đoàn còn như trăng mới lên, hoa mới nở, người ta muốn vui, muốn nhìn đời qua cặp kính hồng” [30, tr. 424]. “Đến Tự lực văn đoàn đưa ra chủ trương viết giản dị, dễ hiểu, ít chữ Nho (…). Văn ấy có thể thấy mẫu mực trong tác phẩm đầu tay của Khái Hưng: Hồn bướm mơ tiên” [30, tr. 429]. Thư Trung nhận ra rằng: “những tác phẩm của Khái Hưng quả thật đã đặt ra những vấn đề quan trọng, đã đóng góp công lao vào sự tiến hoá của xã hội Việt Nam (….) biết Khái Hưng là nhà văn của tuổi trẻ, của gia đình,ba mươi năm trước; biết Khái Hưng là nhà văn có lòng yêu thương rộng rãi, có lòng tin vào cuộc sống, biết Khái Hưng là nhà văn phong tục, nhà văn tâm lý có biệt tài; biết học trong văn Khái Hưng những mẫu mực của một bút pháp trong sáng, mực thước” [34, tr. 17]. Thế Phong ca ngợi: “Khái Hưng có thiên bẩm viết tiểu thuyết (...) về nghệ thuật tiểu thuyết, không phải mỗi lúc lại có thể có một Khái Hưng (…) có thể gọi Khái Hưng là người đầu tiên biết viết tiểu thuyết trong lịch sử cực thịnh của văn chương Việt Nam ở giai đoạn đầu” [39, tr. 46+47]. Có thể nói rằng các ý kiến đánh giá về Khái Hưng và Tự lực văn đoàn ở giai đoạn này chưa có nhiều điểm mới so với giai đoạn trước. Phần lớn các ý kiến đều đề cao, ghi nhận song còn mờ nhạt, chưa làm nổi bật được những đóng góp cũng như hạn chế. Giai đoạn thứ ba (từ sau 1986): Cùng với tiến trình đổi mới của đất nước, hoạt động sáng tác, xuất bản, phê bình văn học cũng từng bước có sự thay đổi. Với quan điểm thông thoáng và khách quan hơn nên việc nghiên cứu Tự lực văn đoàn nói chung và Khái Hưng nói riêng đã thay đổi rõ rệt. Cho đến thời điểm này hầu hết tiểu thuyết của ông đã được tái bản, hoạt động nghiên cứu, đánh giá, phê bình diễn ra sôi nổi. Người ta đã tổ chức các hội nghị khoa học để xem xét lại văn chương của Tự lực văn đoàn. Ngày 27-5-1989 khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phối hợp với Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp tổ chức cuộc Hội thảo văn chương Tự lực văn đoàn. Tại đây các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu có tên 6
  13. tuổi như: Tô Hoài, Huy Cận, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trương Chính, Phong Lê, Nguyễn Hoành Khung…đã tập trung khẳng định vai trò và những đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. Sau hội thảo này, nhiều bài báo, chương sách có giá trị nghiên cứu về sáng tác của Tự lực văn đoàn đã được xuất bản. Khi in lại các tác phẩm của Khái Hưng, giới nghiên cứu đã có những đánh giá mới. Trong lời giới thiệu các tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Gia đình, Thừa tự, giáo sư Hà Minh Đức vừa phân tích rất sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nghệ thuật, vừa chỉ ra những hạn chế của tác giả. Giáo sư Phan Cự Đệ viết những bài giới thiệu cho các tiểu thuyết: Tiêu sơn tráng sĩ, Trống mái, Gia đình, Đẹp, Băn khoăn, Thoát ly. Qua đó ông đưa ra nhiều ý kiến vừa mới mẻ vừa có sức thuyết phục. Ví dụ: “Cuốn tiểu thuyết (Đẹp) đã ca ngợi niềm say mê sáng tạo của những người nghệ sĩ chân chính” [29, tr. 330]. Hoặc: “Không thể xem Băn khoăn là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn (…). Phần lớn được xây dựng bằng bút pháp hiện thực” [29, tr. 346]. Phó Giáo sư Nguyễn Hoành Khung và Phó Giáo sư Lê Thị Đức Hạnh cũng đã có các bài viết về Tự lực văn đoàn, văn xuôi lãng mạn Việt Nam và phong trào Thơ mới…Qua những bài viết và các công trình nghiên cứu này, những giá trị hiện thực, giá trị tiến bộ trong sáng tác của Tự lực văn đoàn nói chung, của Khái Hưng nói riêng được ghi nhận, đánh giá đúng mức, công bằng hơn. Những hạn chế cũng được nhìn nhận, phê phán thấu tình đạt lý hơn so với giai đoan trước. Giáo sư Phan Cự Đệ đã viết trong Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương: “So với tiểu thuyết trước năm 1930, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã đi sâu hơn nhiều vào thế giới nội tâm phong phú của con người” [4, tr. 370]. Mặc dầu vậy, theo Giáo sư, ở những tác phẩm thời kỳ cuối Khái Hưng, Nhất Linh không những không đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, mà còn có xu hướng đẩy con người vào chủ nghĩa duy tâm và định mệnh” [4, tr. 330]. Theo thời gian, ngày càng có nhiều người nghiên cứu về Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết của Khái Hưng. Tiêu biểu là các tác giả Đào Trọng Thức, Tào Văn Ân, Trịnh Hồ Khoa, Lê Thị Dục Tú, Vũ Thị Khánh Dần, Dương Thị Hương, Nguyễn Thị Tuyến, Trần Thị Kim Hoa, Đào Thu Hằng. Nhiều công 7
  14. trình nghiên cứu đã được công bố, chẳng hạn như: luận án tiến sĩ “Bàn về tiểu thuyết của Khái Hưng của tác giả Ngô Văn Thư; luận văn thạc sĩ “Những nhận định bước đầu về tiểu thuyết của Khái Hưng” của Phạm Ngọc Phúc (tức Vu Gia), “Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng” của Lại Thị Thúy Vân, “Nghệ thuật tiểu thuyết Khái Hưng” của Nguyễn Hạ Uyên…Bằng sự nỗ lực kháo sát công phu, kỹ lưỡng, kết hợp với việc vận dụng những phương pháp tiếp cận mới, họ đã có những khám phá mới mẻ và xác đáng. Đóng góp của Khái Hưng và của Tự lực văn đoàn ngày càng được đánh giá phù hợp. Nhìn chung, mọi người đều phải ghi nhận giá trị trong sáng tác của văn đoàn này. Chẳng hạn, Trịnh Hồ Khoa viết: “Phải đến thế hệ nhà văn 32 (1932), bắt đầu từ Tự lực văn đoàn, ngôn ngữ văn học mới được hoàn toàn đổi mới” [18, tr. 60]. 3. Mục đích nghiên cứu Như trên đã nói, việc nghiên cứu về Khái Hưng và Tự lực văn đoàn ngày càng có những kết quả mới mẻ và xác đáng. Tuy nhiên giới nghiên cứu chủ yếu đánh giá chung về văn chương Tự lực văn đoàn hoặc bàn về tất cả các tiểu thuyết của Khái Hưng. Việc đi sâu nghiên cứu các luận đề và nghệ thuật trong tiểu thuyết luận đề của ông thì vẫn còn ít người để ý tới. Bởi thế chúng tôi mạnh dạn đi nghiên cứu các tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng để thấy sự tôn chỉ mục đích sáng tác của nhóm Tự lực văn đoàn ở nhà văn này. Trong luận văn, chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu cặn kẽ việc triển khai các luận đề và nhất là nghệ thuật trong tiểu thuyết luận đề của ông. Qua luận văn chúng tôi muốn đưa một tiếng nói nhỏ bé của mình vào để khẳng định, tôn vinh những đóng góp của Khái Hưng trong việc thúc đẩy sự phát triển của văn chương và tiến bộ của xã hội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.2. Đối tượng Chúng tôi tập trung nghiên cứu luận đề chống lễ giáo phong kiến, giải phóng cá nhân, hướng tới cải cách xã hội trong các tiểu thuyết của Khái Hưng. Để làm rõ các luận đề này chúng tôi quan tâm tới hai kiểu nhân vật đối lập 8
  15. nhau. Một bên là những người có học thức, được tiếp xúc với văn minh phương Tây, đại diện cho tư tưởng mới mẻ, tiến bộ. Một bên là những con người mang nặng tư tưởng phong kiến cổ hủ, lạc hậu. Chúng tôi đi sâu phân tích tâm lý và hành động của kiểu người thứ nhất để thấy tiếng nói chống phong kiến. Tương tự như vậy chúng tôi đi sâu phân tích tâm lý của kiểu người thứ hai để thấy tiếng nói đấu tranh giải phóng cá nhân, giải phóng phụ nữ, hướng tới cải cách xã hội. Về phương diện nghệ thuật, chúng tôi quan tâm tới sự đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng. 4.1. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi khảo sát chính là các tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng như: Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Trống mái, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự. Chúng tôi nghiên cứu thêm một số tiểu thuyết của Nhất Linh như: Lạnh lùng, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió và tiểu thuyết Con đường sáng của Hoàng Đạo nhằm bổ trợ thêm những hiểu biết về Tự lực văn đoàn. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau : - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp thống kê phân loại - Phương pháp văn học sử 6. Đóng góp của luận văn Với luận văn này, chúng tôi mong muốn tiếp tục ghi nhận những đóng góp của Tự lực văn đoàn nói chung và của Khái Hưng nói riêng đối với văn học Việt Nam. Luận văn đi vào khảo sát cụ thể các tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng để thấy để thấy được những ảnh hưởng của ông trên cả hai lĩnh vực văn chương và xã hội. Nghiên cứu tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng chúng tôi muốn chỉ ra công lao của ông trong công cuộc đấu tranh bênh vực cho cái mới, cái tiến bộ, lên tiếng đòi phá bỏ những cái lạc hậu, khẳng định quyền sống tự do của cá nhân con người, nhất là người phụ nữ. Đồng thời chúng tôi cũng nói lên những cách 9
  16. tân trong nghệ thuật tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng. Qua đó chúng tôi khẳng định những ảnh hưởng quan trọng của ông trong việc tạo nên bước đổi thay tích cực của văn chương Việt Nam hiện đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn đươc triển khai ở 3 chương: Chương 1: Khái Hưng và tiểu thuyết luận đề Chương 2: Các luận đề trong tiểu thuyết của Khái Hưng Chương 3: Nghệ thuật tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng 10
  17. NỘI DUNG Chương 1 KHÁI HƯNG VÀ TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ 1.1. Khái Hưng 1.1.1. Cuộc đời và con người Khái Hưng sinh năm 1897 tại làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, nay thuộc thành phố Hải Phòng. Người dân Cổ Am nổi tiếng hiếu học, coi trọng văn hóa và thực tế đã từng có nhiều người đỗ đạt trong các khoa thi Hán học. Bởi vậy từ xưa ở đây người ta đã tự hào mà nói: Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện. Thân phụ của ông là cụ Trần Mỹ (cụ vốn xuất thân trong gia đình dòng dõi khoa bảng), một cử nhân Hán học, từng làm tuần phủ tỉnh Thái Bình. Cụ Trần Mỹ có tới năm người vợ nên rất đông con. Khái Hưng là con của bà vợ cả và là anh trai nhà văn Trần Tiêu. Nhạc phụ của Khái Hưng là cụ Lê văn Đính (nguyên mẫu nhân vật Báo trong tiểu thuyết Gia đình), người làng Dịch Diệp (một làng xưa nay đều có rất nhiều người đỗ đạt), huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Cụ Đính cũng xuất thân trong gia đình khoa bảng, là cử nhân Hán học và từng làm tuần phủ, tổng đốc rồi thượng thư. Như vậy, cả thân phụ và nhạc phụ của Khái Hưng đều là đại quan, đều làm công chức cho Pháp, nhưng có gốc văn hóa cũ, không phải là bọn tay sai bán nước cầu vinh hoặc xuất thân từ thầu khoán, bếp bồi, thông ngôn,… mới phất. Cho nên, tuy làm việc cho Pháp nhưng họ không thật sự được tin dùng và phần nào cũng có tư tưởng ghét Tây. Khái Hưng sống trong môi trường trưởng giả, nhưng ông cũng có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với tư tưởng, ý thức, nếp sống và văn hóa phương Tây. Nhà văn từng chứng kiến, trải nghiệm cuộc sống đại gia đình phong kiến với bao hủ tục, luật lệ phiền toái, lạc hậu. Song ông cũng thấy rõ trong hai cái đại gia đình Trần - Lê của mình vẫn còn những dấu ấn đẹp của văn hóa cổ truyền. Những điều đó có ảnh hưởng đến sáng tác của Khái Hưng. 11
  18. Theo gia phả họ Trần ở làng Cổ Am, Khái Hưng tên thật là Trần Dư. Khi buôn dầu ở Ninh Giang ông mới đổi thành Trần Khánh Giư. Khái Hưng là bút danh chính do xếp chữ theo lối anagramme mà thành. Ngoài ra ông còn có các bút danh khác như: Bán than, Nhát dao cạo, Chàng lẩn thẩn, Tò mò và Nhị Linh. Lúc còn nhỏ Khái Hưng học chữ Nho, từ năm 12 tuổi mới theo Tây học. Ở trường Albert Sarraut, ông nổi tiếng là tinh nghịch và giỏi Pháp văn. Ngay ở thời kỳ này Khái Hưng đã hoạt động văn hóa văn nghệ và đạt được những thành tích đáng trân trọng (ông dịch vở hài kịch Les Pleideurs của Racine được Hội Trí tri Nam Định trao tặng giải nhất, dịch bài thơ Tình tuyệt vọng của Arve và bài thơ Dưới trăng uống rượu một mình của Lí Bạch, Khái Hưng còn là tác giả của bức họa Trăng xưa mô tả nỗi buồn nhớ Nhất Linh, người bạn thân thiết vì công việc chống Pháp phải bỏ đi xa). Khái Hưng đậu tú tài Pháp phần một (ban triết học) năm 1927, nhưng sau đó ông không tiếp tục học lên để ra làm quan như đa số bạn học cùng thời mà đã bỏ đi buôn dầu tại Ninh Giang. Do tính phóng khoáng, bán chịu không thu được nợ nên ông đã thất bại sau 3 năm kinh doanh. Nhà văn bỏ Ninh Giang lên Hà Nội dạy học ở trường tư thục Thăng Long, một trường nổi tiếng lúc bấy giờ. Vừa dạy học Khái Hưng vừa làm chủ bút và viết một số bài đăng trên báo Phong hóa của Phạm Hữu Ninh từ số 1 đến số 13. Ngoài ra ông còn viết nhiều bài nghị luận đăng trên Văn học tạp chí. Ở trường Thăng Long Khái Hưng đã gặp Nhất Linh. Bởi cùng chung một quan niệm về văn chương và xã hội nên hai người nhanh chóng trở nên thân thiết. (Nhất Linh đã viết trong lời đề từ tác phẩm Đoạn tuyệt của mình rằng: “Tặng Khái Hưng, tác giả Nửa chừng xuân, nhà văn cùng quan niệm với tôi về xã hội hiện thời”). Về sau, tình cảm hai người càng trở nên gắn bó khăng khít hơn. Khi thấy vợ chồng Khái Hưng hiếm muộn, ông bà Nhất Linh còn cho một người con trai thứ về làm con nuôi họ Trần. Cùng với Nhất Linh, Khái Hưng là một trong những người đầu tiên tham gia vào ban biên tập báo Phong hóa, sau này trở thành nhà văn chủ chốt, có đóng góp lớn cho nhóm Tự lực văn đoàn. 12
  19. Thời thế thay đổi, năm 1939 Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, nhóm Tự lực văn đoàn nghiêng về hoạt động chính trị. Khái Hưng cũng tham gia phong trào này nhưng chủ yếu do tình bạn chứ không phải là có tham vọng. Trần Khánh Triệu kể: “Theo lời mẹ tôi thì bản chất ba tôi là con người nghệ sĩ, nhưng về sau tham gia hoạt động chính trị cũng chỉ là thấy anh em làm, ba tôi cũng tha thiết muốn làm với anh em” [50, tr. 25]. Năm 1945, Khái Hưng có nhận viết cho tờ Việt Nam, tờ Chính nghĩa, bởi lẽ “anh Tam, anh Long đã làm chả lẽ mình lại xa anh em” [50, tr. 26]. Bởi không tìm ra con đường đúng, phù hợp với hướng đi của lịch sử nên cuối đời Khái Hưng có lúc chống phá cách mạng chứ không phải là cam tâm bán nước cầu vinh, cúi đầu làm nô lệ. Con người của Khái Hưng là con người của văn chương, của những tư tưởng lãng mạn chứ không phải là con người của hành động, của thực tiễn làm chính trị. Khái Hưng còn có tư tưởng bài Pháp và chống quan lại từ rất sớm. Ở truyện ngắn Tây xông nhà ông có kể rằng, vào tết năm 1930 gia đình nhà văn đã bị bọn quan Pháp xông nhà và đe dọa: “Ông nói lí với tôi, phải không? Ông nên biết: những ý tưởng bài Pháp, chống quan lại của ông sẽ chỉ đưa tai hại đến cho ông. Rồi ông sẽ thấy” [16, tr. 46]. Trong văn chương của mình Khái Hưng đã từng đả kích, châm biếm bọn quan Tây rất mạnh mẽ. Cũng ở truyện ngắn Tây xông nhà ông chỉ trích tên quan đại là tội nhân, là tiểu nhân. Ông viết: “Tôi đã được Tây xông nhà. Người Tây đó tên là Heineshilk - ấy là tôi theo vần đọc mà viết ra, chứ tôi cũng chưa trông thấy tên hắn trên giấy bao giờ. Theo lời đồn, hắn là một người Áo can án tử hình bỏ trốn sang nước Pháp đăng lính Lê dương đi Ma rốc dự chiến. Mãn hạn hắn nhập Pháp tịch và được bổ đi coi một đồn lính khố xanh. Nếu muốn tìm một kiểu mẫu tiểu nhân thì hắn thực là một người hoàn toàn. Đối với dân gian hắn hống hách, đàn áp, bóc lột, chuyên chế như một ông vua chuyên chế. Trái lại đối với ông Sứ hay ông Giám binh thì hắn quỵ lụy, nịnh nọt, đút lót trung thành như tên mọi trung thành với chủ” [16, tr. 40]. Truyện ngắn Quan công sứ cũng là một tiếng nói bài Pháp. Ở đó Khái Hưng đã để cho các nhân vật chế giễu viên công sứ là dốt nát, xấu xa. Khái Hưng mất năm 1947 ở Nam Định. 13
  20. 1.1.2. Mối quan hệ với nhóm Tự lực văn đoàn Người đứng đầu nhóm Tự lực văn đoàn là Nhất Linh, tức Nguyễn Tường Tam. Ông sinh năm 1906 trong một gia đình quan lại ở tỉnh Hải Dương. Vào đời, ông bắt đầu làm việc ở Sở tài chính Đông Dương. Nhưng rồi ông bỏ việc và vào học trường Cao đẳng Mỹ thuật. Năm 1927 được học bổng của Hội Như tây du học, ông sang Pháp học khoa học tự nhiên. Ba năm sau về nước với bằng cử nhân, Nhất Linh mua lại trường tư thục của Nguyễn Văn Tòng, lấy giáo sư mới (trong số ấy có Trần Khánh Giư) đổi tên trường là Thăng Long. Đầu năm 1932, ông mua lại tờ Phong hóa của Nguyễn Xuân Mai đã ra được 13 số đổi thành một tờ báo hài hước, dùng tiếng cười làm vũ khí chế giễu những tệ nạn của phong hóa An Nam. Phong hóa mới làm ăn phát đạt, Nguyễn Tường Tam nhường trường cho một nhóm giáo sư khác và cùng với Trần Khánh Giư rút về làm báo, viết sách, lập Tự lực văn đoàn, mở nhà xuất bản Đời nay. Tự lực văn đoàn thành lập vào tháng 3 năm 1933 với các thành viên chính thức là Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Về sau thêm Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu), Trần Tiêu (em Khái Hưng) nữa. Cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này còn có các nhà thơ của phong trào Thơ Mới như : Huy Cận, Anh Thơ, Lưu Trọng Lư, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh; các nhà văn như: Nguyên Hồng, Đỗ Đức Thu, Phan Văn Dật, Mạnh Phú Tư, Vi Huyền Đắc… ; các họa sĩ nổi tiếng như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường... Cơ quan ngôn luận của nhóm là tờ báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng cửa (năm 1936) thì có tờ Ngày nay thay thế. Tự lực văn đoàn làm việc theo tinh thần anh em một nhà, dựa vào sức mình, tổ chức không quá mười người nên không phải xin phép nhà nước. Nhóm hoạt động với tư cách độc lập không theo một chỉ thị nào ngoài đường lối do chính họ vạch ra. Không cần văn bản điều lệ, họ lấy lòng tin nhau làm cốt. Họ nêu mục đích tôn chỉ, anh em trong nội bộ nhóm tự nguyện, tự giác tuân theo. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2