BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ HOÀNG KIM PHƯỢNG
PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN ĐẾN NĂM 2025
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ HOÀNG KIM PHƯỢNG
PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN ĐẾN NĂM 2025
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60310102
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN SÁNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích
dẫn nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Đề tài nghiên cứu chưa từng được nguời
khác công bố trong bất kỳ công trình nào.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH LOGISTICS VÀ HỘI NHẬP CỘNG
ĐỒNG KINH TẾ ASEAN .................................................................................................. 1
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH LOGISTICS .................................................................. 1
1.1.1 Khái niệm logistics ............................................................................................ 1
1.1.2 Phân loại logistics .............................................................................................. 3
1.1.2.1 Phân loại theo hình thức ................................................................................ 3
1.1.2.2 Phân loại theo quá trình ................................................................................. 4
1.1.2.3 Phân loại theo lĩnh vực hoạt động ................................................................. 4
1.1.2.4 Phân loại theo đối tượng hàng hóa ................................................................ 5
1.1.3 Vai trò của logistics ........................................................................................... 5
1.1.3.1 Vai trò của logistics đối với nền kinh tế ........................................................ 5
1.1.3.2 Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp .................................................... 7
1.1.4 Nội dung chủ yếu của hoạt động logistics và các nhân tố tác động đến sự phát
triển ngành logistics ...................................................................................................... 8
1.1.4.1 Nội dung chủ yếu của hoạt động logistics .................................................... 8
1.1.4.2 Các nhân tố tác động đến sự phát triển ngành logistics .............................. 10
1.1.5 Phát triển ngành logistics ................................................................................ 14
1.1.5.1 Nội dung phát triển ngành logistics ............................................................ 14
1.1.5.2 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành logistics ..................................... 15
1.2 SƠ LƯỢC VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN VÀ HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN ........................................................................................................... 18
1.2.1 Sơ lược về Cộng đồng kinh tế ASEAN........................................................... 18
1.2.2 Hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN ............................................................. 19
1.2.2.1 Sự cần thiết của việc hội nhập ngành logistics............................................ 19
1.2.2.2 Những yêu cầu đối với ngành logistics trong quá trình hội nhập Cộng đồng
kinh tế ASEAN ........................................................................................................ 20
1.3 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
THUỘC KHỐI ASEAN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM ............................................. 23
1.3.1 Kinh nghiệm phát triển ngành logistics của một số quốc gia thuộc khối
ASEAN ........................................................................................................................ 23
1.3.1.1 Singapore ..................................................................................................... 23
1.3.1.2 Malaysia ...................................................................................................... 24
1.3.2 Bài học cho phát triển ngành logistics của Việt Nam ..................................... 26
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ................................................................................................... 28
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2007-2014 ............................................................................................................... 29
2.1 SƠ LƯỢC VỀ NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM ................................................. 29
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007-
2014 ................................................................................................................................. 31
2.2.1 Dịch vụ vận tải và giao nhận hàng hoá ........................................................... 32
2.2.2 Dịch vụ bốc dỡ và lưu kho hàng hóa............................................................... 45
2.2.3 Dịch vụ kinh doanh kho bãi ............................................................................ 47
2.2.4 Dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì hàng hóa .............................................. 48
2.2.5 Dịch vụ công nghệ thông tin ........................................................................... 49
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2007-2014 .................................................................................................. 52
2.3.1 Thành tựu - hạn chế ......................................................................................... 53
2.3.1.1 Thành tựu .................................................................................................... 53
2.3.1.2 Hạn chế ........................................................................................................ 56
2.3.2 Cơ hội - thách thức trong quá trình hội nhập AEC ........................................ 62
2.3.2.1 Cơ hội .......................................................................................................... 62
2.3.2.2 Thách thức ................................................................................................... 64
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ................................................................................................... 65
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH
LOGISTICS VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH
TẾ ASEAN ĐẾN NĂM 2025 ............................................................................................ 66
3.1 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN LOGISTICS TẠI VIỆT NAM ................................... 66
3.2 QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH
LOGISTICS VIỆT NAM ................................................................................................ 69
3.2.1 Quan điểm phát triển ngành logistics Việt Nam ............................................. 69
3.2.2 Mục tiêu phát triển ngành logistics Việt Nam ................................................ 71
3.2.3 Phương hướng phát triển ngành logistics Việt Nam ....................................... 73
3.3 GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN ĐẾN NĂM 2025 ............ 74
3.3.1 Nhóm giải pháp chính sách, thể chế ................................................................ 74
3.3.2 Nhóm giải pháp tác nghiệp.............................................................................. 85
3.3.2.1 Nâng cao năng lực tài chính của các DN logistics Việt Nam ..................... 85
3.3.2.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN logistics Việt Nam .................. 86
3.3.3 Khuyến nghị đối với Chính phủ ...................................................................... 90
3.3.4 Khuyến nghị đối với các DN và hiệp hội ........................................................ 91
TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ................................................................................................... 92
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng Việt
AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng Kinh tế ASEAN
ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Công nghệ thông tin CNTT
Doanh nghiệp DN
Đơn vị đo năng lực vận tải an toàn của Deadweight tonnage DWT tàu tính bằng tấn
Logistics điện tử E-Logistics Electronic logistics
EURO European Monetary Unit Đơn vị tiền chung Châu Âu
Federation Internationale des
FIATA Associations de Transitaires et Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận
Assimiles
Fast Moving Consumer Goods Hàng tiêu dùng nhanh FMCG
Global Express Association Hiệp hội Chuyển phát nhanh toàn cầu GEA
Giao thông vận tải GTVT
Global Value Chain Chuỗi giá trị toàn cầu GVC
Inland Clearance Depot Cảng thông quan nội địa ICD
Logistics Performance Index Chỉ số hoạt động logistics LPI
Twenty Feet Equivalent Unit Đơn vị tương đương 20 feet TEU
Turku School of Economics Trường Kinh tế Turku TSE
Vietnam Logistics Business Hiệp hội doanh nghiệp logistics VLA Associtaion Việt Nam
World Bank Ngân hàng Thế giới WB
First Party Logistics Logistics bên thứ nhất 1PL
Second Party Logistics Logistics bên thứ hai 2PL
Third Party Logistics Logistics bên thứ ba 3PL
Fourth Party Logistics Logistics bên thứ tư 4PL
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 Xếp hạng về thể chế của Việt Nam năm 2014 ..................................................... 22
Bảng 2.1 Khối lượng hàng hoá vận chuyển phân theo ngành vận tải ................................. 33
Bảng 2.2 Sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển VN (2009 – 2014) ............... 38
Bảng 2.3 Thống kê tình hình vận tải hàng không (2010 – 2013) ........................................ 43
Bảng 2.4 Chất lượng của sân bay Tân Sơn Nhất ................................................................ 44
Bảng 2.5 Chất lượng của sân bay Nội Bài .......................................................................... 45
Bảng 2.6 Năng lực xếp dỡ container của các cảng chính Việt Nam năm 2013 .................. 46
Bảng 2.7 Trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực ......................................................... 51
Bảng 2.8 Chỉ số hoạt động logistics và xếp hạng của Việt Nam 2007-2014 ...................... 52
Bảng 2.9 Xếp hạng năm 2014 tại khu vực ASEAN ............................................................ 53
Bảng 2.10 So sánh hiệu quả của các quy trình xuất nhập khẩu của Việt Nam với Singapore,
Malaysia và Thái Lan, năm 2014 ........................................................................................ 59
Bảng 2.11 Ước tính chi phí cho ùn tắt giao thông trong vận tải đường bộ ở một số thành
phố, vùng miền của Việt Nam (số liệu 2010) ..................................................................... 60
Bảng 2.12 Khảo sát chất lượng hạ tầng tại các nước ASEAN ............................................ 64
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1 Các bộ phận cơ bản của logistics .......................................................................... 2
Sơ đồ 1.2 Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Micheal Porter ..................................... 13
Sơ đồ 1.3 Bốn trụ cột của Cộng đồng kinh tế ASEAN ....................................................... 19
Sơ đồ 2.1 Mật độ đường bộ phân theo vùng (Km/Km2) .................................................... 39
Sơ đồ 2.2 So sánh chi phí logistics ...................................................................................... 58
Sơ đồ 3.1 Thành phần các công ty logistics theo hình thức sở hữu năm 2014 ................... 67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu thế phát triển chung của các quốc gia trên
thế giới. Ngày càng nhiều các tổ chức, liên kết khu vực, hiệp định thương mại được ký kết
như: EU, WTO, ASEAN, FTA, TPP… Việt Nam (VN) cũng không nằm ngoài xu hướng
đó, thông qua việc lần lượt gia nhập vào các tổ chức của khu vực và toàn cầu.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đang khẳng định là một trong những
hình mẫu hợp tác khu vực thành công trên thế giới, đặc biệt trên phương diện kinh tế được
thể hiện thông qua liên kết nội khối: khu vực mậu dịch tự do AFTA. Sự ra đời của Cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC-2015) là sự tiếp nối của AFTA nhằm tiến tới một mức độ hội
nhập kinh tế cao hơn trong sự phát triển không ngừng của khu vực. AEC là một trong ba
trụ cột của ASEAN, cùng với Cộng đồng Chính trị - An ninh và Cộng đồng Văn hóa - Xã
hội. Hiện tại, đây được đánh giá là khu vực phát triển sôi động trên thế giới với hơn 640
triệu dân, tổng GDP khoảng 2.480 tỷ USD và kim ngạch thương mại đạt 2.530 tỷ USD
vào năm 2014. “GDP của ASEAN dự kiến sẽ đạt 4.700 tỷ USD vào năm 2020. Theo dự
báo, khu vực có tiềm năng trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2030. Có
rất nhiều lợi ích kinh tế mà chúng ta sẽ gặt hái được, qua đó mang lại cuộc sống sung túc
hơn cho tất cả người dân ASEAN”, Thủ tướng Malaysia Najib Razak phát biểu tại lễ ký
kết hồi tháng 11/2015. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ được nhiều lợi ích như: tăng
trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm, thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ hơn, phân bổ
các nguồn lực tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và cạnh tranh. Tuy nhiên, AEC cũng
tạo ra cho các quốc gia nói chung và các ngành kinh tế nói riêng những áp lực lớn về cạnh
tranh, về lợi thế, về khả năng hội nhập và thách thức tiềm ẩn.
Đối với VN, Đảng ta xác định ASEAN là đối tác chiến lược – một trong những trụ
cột quan trọng trong tiến trình thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tư chủ, đa phương
hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, ASEAN cũng là
đối tác thương mại hàng đầu và là động lực giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng
trưởng và xuất khẩu. Hiện ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của các doanh nghiệp
VN, sau Mỹ và Liên minh Châu Âu.
Khi xây dựng AEC, các nhà lãnh đạo ASEAN nhất trí đưa logistics vào lĩnh vực
thứ 12 trong danh mục các lĩnh vực ưu tiên hội nhập. Hiện logistics là ngành kinh tế đóng
vai trò đặc biệt quan trọng trong hỗ trợ phát triển kinh tế nói chung và trong hoạt động sản
xuất hàng hóa nói riêng. Logistics được hiểu bao gồm mạng lưới các hoạt động tác động
qua lại, tương tác với nhau ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế nhằm chuyển đổi và di dời các
nguồn lực kinh tế (nguồn nhân lực, nguyên liệu và các sản phẩm đầu vào khác) từ nơi các
nguồn lực đó được khai thác hoặc tập trung tới nơi cần thiết cho quá trình sản xuất, tiêu
dùng hàng hóa hoặc dịch vụ. Mạng lưới này bao gồm các mối liên kết giao thông vận tải,
thông tin viễn thông đa phương diện (dưới nhiều hình thức khác nhau), các nút trạm giao
thông liên quan đến sự chuyển giao, dự trữ, các loại giấy phép bàn giao thanh toán, quá
trình đóng gói và phân phối sản phẩm. Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan
trọng và hiệu quả to lớn từ ngành logistics, VN đã có nhiều chủ trương, chính sách xây
dựng và khuyến khích phát triển ngành dịch vụ khá non trẻ này. Nhiều doanh nghiệp (DN)
logistics đã được thành lập để cung cấp dịch vụ logistics; từng bước hình thành chuỗi cung
ứng hàng hóa, dịch vụ tới các vùng miền trong cả nước và trên thế giới. Những kết quả đạt
được của ngành logistics không chỉ thúc đẩy cơ cấu kinh tế VN chuyển dịch theo hướng
hoàn thiện hơn mà còn góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, nâng
cao uy tín và năng lực cạnh tranh của DN logistics Việt Nam.
Tuy nhiên, phải xem xét một cách khách quan rằng, những kết quả đạt được trong
phát triển ngành logitics ở nước ta còn rất khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng, thế
mạnh riêng của ngành này. Nhất là trong xu hướng hội nhập kinh tế, khu vực hóa đang
diễn ra ngày càng sâu rộng thì ngành logistics ở nước ta đã và đang bộc lộ nhiều bất cập
như: năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của dịch vụ logistics ở nước ta còn yếu; khả năng
cạnh tranh khá hạn chế của các doanh nghiệp logistics nội địa so với các công ty toàn cầu;
hệ thống vận tải – hạ tầng quá yếu kém, cản trở các doanh nghiệp logistics nội địa phát
triển theo chiều sâu… Những vấn đề đó trong thời gian qua đã và đang tiềm ẩn những rủi
ro, nguy cơ cho sự phát triển ngành logistics VN. Và vấn đề sẽ càng nghiêm trọng hơn nữa
nếu không được nhìn nhận và quan tâm đúng đắn khi mà Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN. Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực
tiễn trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Phát triển ngành logistics Việt Nam trong quá
trình hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN đến năm 2025” làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát: Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng cũng như
những tồn tại, yếu kém của ngành logistics Việt Nam khi bước vào “sân chơi chung” là
Cộng đồng Kinh tế ASEAN; từ đó xác lập những căn cứ khoa học và thực tiễn của việc đề
xuất các giải pháp, khuyến nghị để phát triển ngành này nhằm đáp ứng yêu cầu của hội
nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN đến năm 2025.
Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về logistics và phát triển logistics.
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển của ngành logistics tại Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển ngành logistics Việt Nam trong bối cảnh
Việt Nam đã chính thức hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Ngành logistics Việt Nam trong bối cảnh hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung, phạm vi nghiên cứu là sự phát triển ngành logistics Việt Nam đối
với yêu cầu hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN.
Về mặt không gian, phạm vi nghiên cứu chủ yếu là ở Việt Nam, có mở rộng ra các
nước tiên tiến trong khu vực ASEAN.
Về mặt thời gian, số liệu nghiên cứu từ năm 2007 đến năm 2014.
3. Câu hỏi và phương pháp nghiên cứu
3.1. Câu hỏi nghiên cứu
1- Những nhân tố tác động đến phát triển ngành logistics ở Việt Nam?
2- Thực trạng ngành logistics ở Việt Nam như thế nào?
3- Giải pháp phát triển ngành logistics Việt Nam trong quá trình hội nhập Cộng đồng
kinh tế ASEAN?
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
kết hợp với quan điểm thực tiễn về tính ứng dụng của đề tài trong thực tế.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Phương pháp thống kê, mô tả
Luận văn sử dụng nhiều nguồn số liệu thống kê được cung cấp từ các tài liệu của
Tổng cục Thống kê, Hiệp hội cảng biển Việt Nam, Cục hàng hải Việt Nam, Cục đường bộ
Việt Nam, Cục hàng không Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam
(VLA), Ngân hàng thế giới (WB),... Các tài liệu này được tập hợp và mô tả nhằm làm rõ
thực trạng ngành logistics Việt Nam.
Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh
Ngoài những tài liệu được cung cấp từ các cơ quan có liên quan còn có các tài liệu
thứ cấp khác được tác giả thu thập từ các sách báo, tạp chí chuyên ngành, mạng Internet và
các cuộc hội thảo. Các tài liệu này được tổng hợp, phân tích và so sánh chủ yếu nhằm tìm
ra những đặc điểm, điểm mạnh và điểm yếu của ngành logistics Việt Nam.
4. Tổng quan nghiên cứu
4.1. Một số nghiên cứu nước ngoài
Điển hình là các công trình nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát
triển Châu Á, các học giả trong khu vực như Philippine, Lào. Tiêu biểu là các tác phẩm:
1- Trade and Logistics: An East Asean Perspective, xuất bản năm 2005 của David
Hummels và Robin Caruthers. Tác phẩm này đã nêu lên được vai trò của logistics trong
hợp tác kinh tế và phân tích mối quan hệ giữa thương mại và logistics ở các nước Đông
Nam Á. Các tác giả đã chỉ rõ mối quan hệ này phụ thuộc vào mức độ mở cửa của mỗi
nước, khẳng định hậu cần có vai trò quan trọng trong việc tăng khối lượng thương mại và
đầu tư khu vực.
2- Philippine Logistics Study (2002) của tác giả John Arnold và Theresa Villareal,
School of Labor and Industrial Relations. Công trình nghiên cứu này đã nêu lên được sự
yếu kém của cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của các nước ASEAN nói chung, cũng như
của Philippine nói riêng là nguyên nhân dẫn đến mức tăng chi phí dịch vụ logistics, làm
giảm khối lượng trao đổi thương mại và đầu tư trong khu vực.
3- Logistics Development and Trade Facilitation in Lao PDR (2002) của 2 chuyên gia
kinh tế Lào Ruth Banomyong và Nipawis Ritthironk. Trong bài viết của mình, các tác giả
đã khẳng định vị trí quan trọng của logistics trong thúc đẩy hợp tác kinh tế Lào – Việt
Nam, đặc biệt vai trò của giao thông vận tải biển, chiếm tới hơn 30% khối lượng hàng hóa
trao đổi giữa 2 quốc gia.
4- Do standards Matter for Export Success của 3 tác giả thuộc Ngân hàng thế giới
(WB) là Maggie X. Chen, Tshunehiro Otsuki và John Wilson. Trong công trình này, các
tác giả đã nêu bật được các mối quan hệ giữa logistics và thương mại trong hợp tác kinh tế
nói chung, cũng như trong thúc đẩy phát triển Cộng đồng kinh tế ASEAN. Các tác giả đưa
ra một số gợi ý chính sách nhằm phát triển lĩnh vực này.
4.2. Một số nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam chưa có tác phẩm nào thực sực chuyên sâu nghiên cứu các nhân tố tác
động đến ngành logistics, vị trí và vai trò của ngành này trong thúc đẩy hợp tác khu vực.
Thậm chí, khái niệm về logistics cũng chưa được hiểu một cách rõ nét, toàn diện trong các
sách giáo khoa và từ điển. Chỉ có một số bài tham luận phản ánh thực trạng yếu kém của
ngành logistics trong nước như:
1- Đề tài nghiên cứu khoa học “Một số vấn đề về phát triển lĩnh vực dịch vụ hậu cần
trong tiến trình hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN” – 2008 của TS. Phạm Thị Thanh
Bình – Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Trong báo cáo, tác giả đề cập đến vai trò, lợi ích,
sự cần thiết của việc hội nhập nhanh ngành dịch vụ hậu cần vào nền kinh tế ASEAN. Đồng
thời vạch ra lộ trình hội nhập cho giai đoạn 2008-2015, chưa nêu lên các yếu tố tác động
cũng như thực trạng ngành này tại Việt Nam.
2- Nguy cơ thua trận của các doanh nghiệp Logistics nội của ông Bùi Văn Trung, Phó
Tổng giám đốc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines). Trong bài, ông khẳng định
mặc dù số lượng các DN logistics của Việt Nam không thua kém các nước trong khu vực,
song Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào đủ tầm kinh doanh logistics đúng nghĩa.
Theo ông Nguyễn Việt Hòa, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công
ty cổ phần Container Việt Nam (Vicoship Vietnam), ngành logistics của Việt Nam hiện
đang ở tình trạng phôi thai, chưa được thực hiện một cách thống nhất. Sách giáo khoa, tài
liệu tham khảo về loại hình dịch vụ này cũng chưa nhiều, các chuyên gia được đào tạo
chuyên nghiệp trong lĩnh vực này vẫn còn quá ít so với nhu cầu phát triển. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài này thực sự rất cần thiết ở Việt Nam.
4.3. Kết luận
Các nghiên cứu trên đã chỉ ra được vai trò của ngành logistics trong hợp tác kinh
tế, phát triển thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về vai
trò của ngành logistics trong hội nhập AEC, cũng như các yêu cầu của hội nhập đặt ra cho
ngành này. Do đó, tác giả nhận thấy đây là vấn đề cần làm sáng tỏ.
Các nghiên cứu nước ngoài có chỉ ra tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng trong việc
phát triển ngành logistics. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành này chịu tác động của rất
nhiều nhân tố chứ không chỉ riêng cơ sở hạ tầng. Đồng thời, mỗi quốc gia lại có môi
trường, điều kiện sống và làm việc khác biệt, tốc độ phát triển kinh tế không giống nhau
nên các nghiên cứu trên chỉ mang tính chất tham khảo, áp dụng trong từng thời kỳ hoặc
thời điểm nhất định. Còn đối với Việt Nam trong giai đoạn hội nhập Cộng đồng kinh tế
ASEAN hiện nay cần có những giải pháp và chính sách riêng.
5. Ý nghĩa và những đóng góp của luận văn
5.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu đề tài là một quá trình vận dụng các phương pháp nghiên cứu vào nhận
diện vấn đề đang được quan tâm trong sự phát triển kinh tế của một quốc gia nói chung và
một ngành kinh tế nói riêng, chính là việc hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về
logistics và phát triển logistics của nền kinh tế, chỉ ra các nhân tố tác động đến sự phát
triển của ngành này.
Qua việc nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng phát triển của ngành logistics,
tác giả hy vọng sự đóng góp này làm phong phú thêm nguồn lý luận và kinh nghiệm cho
sự tiếp cận và phân tích các công trình khoa học về sau, đồng thời có thể giúp cung cấp
thông tin cho những tác giả khác có quan tâm.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ngành logistics là một trong những ngành kinh tế chủ lực trong xuất khẩu và vận
tải nhưng hiện tại chất lượng ngành này còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao. Thực tế
các DN logistics Việt Nam hầu hết có quy mô nhỏ và vừa, thậm chí rất nhỏ nên khả năng
phát triển và hội nhập là yếu. Do đó, đề tài nghiên cứu làm sáng rõ thêm tình hình thực tế,
các nhân tố ảnh hưởng và giải pháp để phát triển ngành dịch vụ non trẻ này tại nước ta.
5.3. Những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hóa vấn đề lý luận về logistics và các nhân tố tác động đến ngành này;
kinh nghiệm phát triển logistics tại các nước tiên tiến trong khu vực.
Phân tích thực trạng ngành logistics Việt Nam giai đoạn 2007-2014.
Đề xuất các giải pháp phát triển ngành logistics để đáp ứng yêu cầu hội nhập cộng
đồng kinh tế ASEAN.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài bao gồm 92
trang được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về ngành logistics và hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN
Chương 2: Thực trạng phát triển ngành logistics Việt Nam giai đoạn 2007-2014
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển ngành logistics Việt Nam trong
quá trình hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN đến năm 2025
1
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH LOGISTICS VÀ
HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH LOGISTICS
1.1.1 Khái niệm logistics
Về mặt lịch sử, thuật ngữ logistics bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh cổ đại của đế
chế Hy Lạp và La Mã. Khi đó, những chiến binh có chức danh “Logistikas” được giao
nhiệm vụ chu cấp và phân phối vũ khí và nhu yếu phẩm, đảm bảo điều kiện cho quân sĩ
hành quân an toàn từ bản doanh đến một vị trí khác. Cùng với thời gian, thuật ngữ logistics
không chỉ được sử dụng trong lĩnh vực quân sự mà còn được sử dụng sang nhiều lĩnh vực
khác, trong đó có kinh tế và kinh doanh.
Hiện nay, logistics đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển nền kinh tế
quốc dân ở tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt trình độ phát triển cũng như
chế độ chính trị - xã hội. Tuy nhiên, khi bàn về “logistics”, có rất nhiều ý kiến khác nhau,
thậm chí cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đi đến sự thống nhất.
Các cách tiếp cận khác nhau sẽ đưa đến những quan niệm khác nhau về logistics.
Dưới đây là một số quan điểm nổi bật được nhìn nhận một cách rộng rãi và phổ biến:
Theo nghĩa rộng, logistics được xem là một quá trình tác động từ giai đoạn tiền sản
xuất tới khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng; tiêu biểu là các quan điểm sau:
- Logistics là một bộ phận của dây chuyền cung ứng, tiến hành lập ra kế hoạch, thực
hiện và kiểm soát công việc chu chuyển và lưu kho hàng hóa, cùng các dịch vụ và thông
tin có liên quan từ địa điểm xuất phát đến nơi tiêu dùng một cách hiệu quả nhằm đáp ứng
yêu cầu của khách hàng (The Council of Logistics Management – CLM, USA 1991).
- Logistics là quá trình quản trị chiến lược thu mua, di chuyển và dự trữ nguyên liệu,
bán thành phẩm và thành phẩm (và dòng thông tin tương ứng) trong một công ty và qua
các các kênh phân phối để tối đa hóa lợi nhuận hiện tại và tương lai thông qua hoàn tất các
đơn hàng với chi phí thấp nhất (Martin Christopher, 2005).
2
Theo các quan niệm này, logistics gắn liền cả quá trình nhập nguyên vật liệu làm
đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và đưa vào các kênh lưu thông phân
phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng, có sự phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp
dịch vụ đơn lẻ (giao nhận, vận tải) với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp.
Theo nghĩa hẹp, logistics được hiểu là các hoạt động dịch vụ gắn liền với quá trình
phân phối, lưu thông hàng hóa và nó là hoạt động thương mại gắn với các dịch vụ cụ thể:
- Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu
lưu kho, sản xuất ra sản phẩm, cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng.
Bến
Sơ đồ 1.1 Các bộ phận cơ bản của logistics
bãi
Nguyên vật liệu
chứa
Trung
Phụ tùng Khách Đóng Quá Kho Máy móc, thiết bị trình lưu hàng gói
tâm
Bán thành phẩm sản trữ
phân
Dịch vụ xuất thành
phẩm ….
phối Dòng chu chuyển vận tải Dòng thông tin lưu thông
Cung ứng
Quản lý vật tư
Phân phối
Logistics
Nguồn: Đoàn Thị Hồng Vân, 2010
- Logistics là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm
với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm (Douglas M.Lambert,
James R.Stock, Lisa M.Ellram, 1998).
- Luật thương mại năm 2005, tuy không đề cập đến khái niệm logistics nhưng đã đưa
ra khái niệm về dịch vụ logistics, theo đó quy định: “ Dịch vụ logistics là một hoạt động
3
thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm
nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư
vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Dù có rất nhiều cách tiếp cận và khái niệm khác nhau về logistics nhưng có thể rút
ra được một số điểm chung sau:
- Logistics là quá trình mang tính hệ thống, chặt chẽ và liên tục từ điểm đầu tiên của
dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
- Logistics là quá trình hoạch định, kiểm soát dòng chu chuyển và lưu kho bãi của
hàng hóa, dịch vụ từ điểm đầu tới khách hàng và thỏa mãn khách hàng. Nó bao gồm cả các
chu chuyển đi ra, đi vào, bên ngoài và bên trong của cả nguyên vật liệu thô và thành phẩm.
- Logistics không phải là hoạt động đơn lẻ, mà là một chuỗi các hoạt động liên tục từ
hoạch định, quản lý thực hiện và kiểm tra dòng chảy của hàng hóa, thông tin, vốn… trong
suốt quá trình từ đầu vào tới đầu ra của sản phẩm.
- Logistics không chỉ liên quan đến nguyên, nhiên vật liệu, mà còn liên quan đến tất
cả các nguồn tài nguyên, các yếu tố đầu vào cần thiết để tạo nên sản phẩm hay dịch vụ phù
hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
- Logistics là quá trình tối ưu hóa luồng vận động vật chất và thông tin về vị trí, thời
gian, chi phí, yêu cầu của khách hàng và hướng tới tối ưu hóa lợi nhuận.
1.1.2 Phân loại logistics
Logistics được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Dưới đây xin giới thiệu một
số cách phân loại của GS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân trong “Logistics những vấn đề cơ bản”.
1.1.2.1 Phân loại theo hình thức
Logistics bên thứ nhất (1PL – First Party Logistics): các nhà sản xuất, kinh doanh tự
thực hiện các hoạt động logistics. Họ sở hữu các nhà xưởng, kho bãi, phương tiện vận tải,
thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác để thực hiện hoạt động logistics.
Logistics bên thứ hai (2PL – Second Party Logistics): các nhà sản xuất, kinh doanh
không có hoặc có không đủ các nhà xưởng, kho bãi, phương tiện vận tải, thiết bị xếp dỡ và
4
các nguồn lực khác nên chưa tích hợp hoạt động logistics. Họ có thể thuê ngoài các dịch
vụ logistics từ người cung cấp dịch vụ logistics đơn lẻ trong chuỗi các hoạt động logistics
(giao nhận, vận tải, kho bãi, thủ tục Hải quan…).
Logistics bên thứ ba (3PL – Third Party Logistics): các nhà sản xuất, kinh doanh sử
dụng các công ty bên ngoài để thực hiện hoạt động logistics; bao gồm nhiều dịch vụ khác
nhau, có kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thông tin,… và có tính
tích hợp vào dây chuyền cung ứng.
Logistics bên thứ tư (4PL – Fourth Party Logistics): được phát triển trên nền tảng
của 3PL, hướng về khách hàng và linh hoạt hơn. 4PL quản lý và thực hiện các hoạt động
phức hợp như quản lý nguồn lực, trung tâm điều phối, kiểm soát và tích hợp các hoạt động
logistics. 4PL bao gồm các hoạt động của 3PL, các dịch vụ công nghệ thông tin (CNTT)
và quản lý các tiến trình kinh doanh nhằm hợp nhất, gắn kết các nguồn lực, tiềm năng, cơ
sở vật chất, khoa học kỹ thuật của người cung cấp dịch vụ và khách hàng để thiết kế, xây
dựng và vận hành chuỗi logistics. 4PL hướng đến quản trị cả quá trình logistics như nhận
hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
1.1.2.2 Phân loại theo quá trình
Logistics đầu vào (inbound logistics) là các hoạt động nhằm cung ứng một cách tối
ưu (cả về vị trí, thời gian và chi phí) các tài nguyên đầu vào.
Logistics đầu ra (outbound logistics) là các hoạt động nhằm cung cấp một cách tối
ưu (cả về vị trí, thời gian và chi phí) thành phẩm đến tay người tiêu dùng nhằm đem lại lợi
nhuận tối đa cho DN.
Logistics ngược (reverse logistics): là quá trình thu hồi các phụ phẩm, phế liệu, phế
phẩm, các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường phát sinh từ quá trình sản xuất, phân phối và
tiêu dùng trở về để tái chế hoặc xử lý.
1.1.2.3 Phân loại theo lĩnh vực hoạt động
Logistics sự kiện là tập hợp các hoạt động, các phương tiện vật chất – kỹ thuật và
con người cần thiết để tổ chức, sắp xếp lịch trình, nhằm triển khai các nguồn lực cho một
sự kiện được diễn ra hiệu quả và kết thúc tốt đẹp.
5
Logistics dịch vụ là các hoạt động thu nhận, lập chương trình, quản trị các điều kiện
cơ sở vật chất, con người và vật liệu nhằm hỗ trợ và duy trì cho các quá trình dịch vụ hoặc
các hoạt động kinh doanh.
Logistics kinh doanh là một phần của quá trình chuỗi cung ứng, nhằm hoạch định,
thực thi và kiểm soát một cách hiệu quả các dòng vận động, dự trữ sản phẩm, dịch vụ và
thông tin có liên quan; đảm bảo sự sẵn sàng, chính xác và hiệu quả cho các hoạt động này.
1.1.2.4 Phân loại theo đối tượng hàng hóa
Logistics tiêu dùng nhanh (FMCG logistics) là quá trình logistics cho hàng tiêu
dùng có thời hạn sử dụng ngắn như: quần áo, giày dép, thực phẩm…
Logistics hóa chất (chemical logistics): là hoạt động logistics phục vụ cho ngành
hóa chất.
Logistics ô tô (automotive logistics): là hoạt động logistics phục vụ cho ngành ô tô.
Logistics hàng điện tử (electronic logistics): là hoạt động logistics phục vụ cho
ngành điện tử.
Logistics dầu khí (petroleum logistics): là hoạt động logistics phục vụ cho ngành
dầu khí.
Ngoài các cách phân loại trên, có thể chia logistics thành logistics chuyên ngành,
logistics quốc gia, logistics toàn cầu... Các cách phân loại trên nhằm làm sáng rõ mục đích
sử dụng logistics để làm gì, logistics được sử dụng ở khâu nào của quá trình sản xuất và áp
dụng cho mặt hàng nào, lĩnh vực nào cũng như các dịch vụ logistics được cung cấp ra sao.
1.1.3 Vai trò của logistics
1.1.3.1 Vai trò của logistics đối với nền kinh tế
Thứ nhất, logistics là công cụ liên kết các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu
(GVC – Global Value Chain) như cung cấp, sản xuất, lưu thông, phân phối, mở rộng thị
trường cho các hoạt động kinh tế. Khi thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ về
công nghệ kỹ thuật, đặc biệt là việc mở cửa thị trường ở các nước đang và chậm phát triển,
logistics được coi là một công cụ, một phương tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau.
6
Thứ hai, logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong thương mại quốc tế,
tăng sự tuần hoàn và chu chuyển vốn, nâng cao mức hưởng thụ của người tiêu dùng, đồng
thời góp phần giải phóng các nguồn lực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và tăng khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế. Logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch
hàng hóa đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra.
Thứ ba, logistics tiết kiệm và giảm chi phí trong phân phối và lưu thông hàng hóa.
Dịch vụ logistics ngày càng hoàn thiện và hiện đại sẽ tiết kiệm chi phí vận tải và các chi
phí khác trong quá trình lưu thông. Chi phí vận tải lại chiếm tỷ lệ rất lớn trong chi phí lưu
thông. Từ đó, sẽ làm giảm chi phí lưu thông trong hoạt động phân phối và tăng tính hiệu
quả của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Logistics nâng cao hiệu quả quản lý và
năng lực cạnh tranh quốc gia. Chi phí logistics chiếm rất lớn trong cơ cấu giá bán sản
phẩm. Do đó, logistics phát triển sẽ giúp giảm chi phí, làm cho sản xuất và kinh doanh của
nền kinh tế đạt hiệu quả hơn. Điều này cũng được Các Mác thể hiện rất rõ trong vai trò của
tư bản thương nghiệp, đó là chuyên trách nhiệm vụ lưu thông hàng hóa, phục vụ cùng một
lúc cho nhiều nhà tư bản, nên lượng tư bản và các chi phí bỏ vào lưu thông sẽ giảm đi rất
nhiều. Nhờ có các công ty logistics chuyên trách việc trao đổi, vận chuyển hàng hóa nên
lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi những người sản xuất
trực tiếp đảm nhiệm chức năng này. Đồng thời, rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh
chu chuyển tư bản, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm. Mặt khác,
người sản xuất có thể tập trung chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu
quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư.
Thứ tư, logistics góp phần thu hút đầu tư nước ngoài. Một quốc gia có dịch vụ
logistics phát triển sẽ giúp gia tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong nền kinh tế toàn
cầu hiện nay, các công ty đa quốc gia thường chọn một trung tâm phân phối để phân phối
hàng hóa cho từng khu vực cũng như sử dụng các dịch vụ gia công, đóng gói nhằm tận
dụng nguồn lao động giá rẻ tại đây. Bên cạnh đó, xu hướng tận dụng nguồn cung nguyên
vật liệu đầu vào rẻ hơn, các nhà sản xuất đã tận dụng hiệu quả thuê ngoài logistics để đưa
nguồn nguyên liệu rẻ trên thế giới vào dây chuyền sản xuất của mình. Do vậy, chi phí
7
logistics càng thấp sẽ kéo theo sự phát triển của một hệ thống phân phối nguyên vật liệu
cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.3.2 Vai trò của logistics đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, logistics nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, tiết kiệm các nguồn lực,
giảm thiểu chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của DN. Chi phí logistics bao gồm các chi phí
vận tải, đóng gói, dự trữ, kiểm kê, hành chính và quản lý. Việc kiểm soát các chi phí này
trong chuỗi dịch vụ logistics giữ vai trò rất quan trọng, bởi giảm chi phí này nghĩa là: giảm
chi phí đầu vào của các hàng hóa, dịch vụ và giảm những rủi ro cho DN.
Thứ hai, logistics đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo yếu tố đúng thời gian,
đúng địa điểm (Just in time). Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã làm cho hàng hóa và sự vận
động của chúng phong phú, phức tạp hơn, đòi hỏi việc quản lý chặt chẽ, đặt ra yêu cầu mới
cho dịch vụ giao nhận vận tải. Đồng thời, DN phải làm sao để lượng hàng tồn kho luôn
nhỏ nhất. Kết quả là hoạt động lưu thông nói riêng và hoạt động logistics nói chung phải
đảm bảo giao hàng đúng lúc, kịp thời; mặt khác phải đảm bảo mục tiêu khống chế lượng
hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Sự phát triển của CNTT cho phép kết hợp chặt chẽ quá trình
cung ứng, sản xuất, lưu kho hàng hóa, tiêu thụ và vận tải giao nhận, làm cho quá trình này
trở nên hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, nhưng đồng thời cũng phức tạp hơn.
Thứ ba, logistics hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh. Các nhà quản lý luôn phải giải quyết các vấn đề về số lượng và thời
điểm bổ sung hiệu quả nguồn nguyên liệu, các tuyến hành trình, địa điểm và thời gian giao
nhận. Lúc này, logistics cho phép nhà quản lý kiểm soát và ra quyết định chính xác về các
vấn đề đó để đạt hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, logistics tạo thêm giá trị gia tăng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Trong thời đại ngày nay, khách hàng mua một sản phẩm không chỉ vì công dụng của nó
mà còn mua cả dịch vụ đi kèm theo. Logistics tăng thêm giá trị gia tăng cho hàng hóa như
dán nhãn, đóng gói bao bì, dịch vụ khách hàng, tư vấn…, giúp cho doanh thu của nhà sản
xuất tăng thêm.
8
1.1.4 Nội dung chủ yếu của hoạt động logistics và các nhân tố tác động đến sự phát
triển ngành logistics
1.1.4.1 Nội dung chủ yếu của hoạt động logistics
Theo Douglas M.Lambert, James R.Stock và Lisa M.Ellram trong “Fundamentals
of Logistics Management” năm 1998, hoạt động logistics gồm các nội dung chủ yếu sau:
a./ Vận chuyển
Quá trình vận chuyển hàng hóa ở đây được hiểu là sự dịch chuyển thực tế của hàng
hóa tới nơi tiêu thụ. Hoạt động vận chuyển có thể được thực hiện bằng nhiều phương thức
khác nhau như bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển, đường ống…
Căn cứ vào khoảng cách địa lý, điều kiện điểm xuất phát và điểm đến của hàng hóa, chi
phí, thời gian, chất lượng dịch vụ… để đưa ra phương án tối ưu cho phương thức vận
chuyển và phương tiện vận chuyển, đảm bảo hàng hóa được chuyển tới đích an toàn, đúng
thời gian, đúng địa điểm, tiết kiệm chi phí. Những hoạt động chủ yếu của logistics trong
vận chuyển gồm: (i) lựa chọn phương thức và dịch vụ vận chuyển, (ii) bốc xếp hàng hóa,
(iii) xây dựng lịch trình, (iv) xử lý sự cố, (v) đánh giá hệ thống vận chuyển.
Trong chuỗi cung ứng, hoạt động vận chuyển là hoạt động chủ yếu, chiếm một phần
chi phí rất lớn và luôn giữ vai trò quan trọng trong việc ra quyết định trong quản lý, từ các
quyết định có tính chiến lược đến các quyết định hoạt động thường nhật. Càng ngày, việc
ra quyết định trong quản lý càng phụ thuộc vào hoạt động vận tải và tiêu chí “JIT- đúng
thời điểm” trở thành chuẩn mực cho cả hoạt động sản xuất và phân phối. Trong thực tế vận
hành hệ thống logistics, hoạt động vận chuyển luôn là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn cả về
thời gian và chi phí.
b./ Hoạt động kho bãi
Kho bãi là một bộ phận không thể thiếu trong chuỗi cung ứng cũng như trong hoạt
động logistics. Kho bãi là nơi cất trữ và bảo quản nguyên vật liệu, bán thành phẩm hoặc
thành phẩm (hàng hóa) nhằm cung ứng cho khách hàng nhanh nhất với chi phí thấp nhất
khi họ có yêu cầu.
9
Hoạt động kho bãi là hoạt động bổ trợ nhưng có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện được mục tiêu chung của chuỗi cung ứng. Năng lực kho bãi thường được đánh giá
qua khả năng lưu trữ và chi phí lưu trữ. Logistics trong quản lý kho bãi bao gồm các hoạt
động như: (i) xác định quy mô, diện tích, (ii) bố trí mặt bằng, sắp xếp trong kho, (iii) thiết
lập cơ cấu kho bãi, (iv) lựa chọn địa điểm. Địa điểm kho bãi có ý nghĩa rất quan trọng. Lựa
chọn địa điểm phù hợp có tác động lớn đến việc sắp xếp kế hoạch vận chuyển, mở rộng thị
trường và nâng cao khả năng cung ứng. Địa điểm kho bãi thuận lợi cũng là yếu tố then
chốt trong việc nâng cao năng lực đáp ứng hàng hóa tại nhiều địa điểm khác nhau, trong
các khoảng cách khác nhau mà vẫn tiết kiệm chi phí vận chuyển.
c./ Hoạt động đóng gói
Đóng gói hàng hóa (packaging) là hoạt động đảm bảo cho sự an toàn của hàng hóa
nhưng vẫn đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất khi hiểu rõ đặc tính của loại hàng hóa đó
cũng như điều kiện tự nhiên mà nó phải chịu trong quá trình vận chuyển.
Hoạt động đóng gói có nhiệm vụ chính là bảo vệ hàng hóa trong quá trình bốc xếp,
vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Tùy theo loại hàng hóa mà chi phí dành cho
đóng gói có thể chiếm từ 5-30% trị giá hàng hóa. Khi khoảng cách giữa điểm xuất phát và
đích đến của hàng hóa càng lớn, quãng đường hàng hóa được vận chuyển càng dài thì càng
đặt ra những yêu cầu khắt khe hơn cho việc đóng gói hàng hóa. Xu thế đồng bộ hóa trong
các hoạt động vận chuyển, kho bãi cũng là một xu thế chung trong phát triển kinh tế toàn
cầu. Vì vậy, đóng gói hàng hóa cũng phải hướng tới tính đồng nhất để thuận tiện cho phân
phối nhưng vẫn phải đảm bảo những tính chất chuyên biệt phù hợp với từng loại hình kinh
doanh, từng loại hình vận tải và điều kiện của thị trường tiêu thụ. Những vấn đề liên quan
đến đóng gói hàng hóa như trên đang dần nâng cao vai trò của hoạt động đóng gói trong
các hoạt động bổ trợ vận hành chuỗi cung ứng. Hoạt động logistics đóng gói hàng hóa
thường bao gồm một số nội dung chính: (i) thiết kế đóng gói phù hợp (phù hợp với bốc
xếp, lưu trữ, bảo vệ hàng hóa để thực hiện vai trò cơ bản là bảo vệ, tránh thất thoát, hư
hỏng; phù hợp với phương thức vận chuyển, phương tiện vận chuyển, phương tiện bốc
xếp; phù hợp với đặc điểm thị trường tiêu thụ; đảm bảo theo yêu cầu của marketing), (ii)
xây dựng kế hoạch, quy trình đóng gói.
10
d./ Hoạt động trao đổi và quản lý thông tin
Công nghệ thông tin đã từ lâu trở thành công cụ quản lý mạnh mẽ trong nền kinh tế
hiện đại. Công tác quản lý thông tin mặc dù chỉ có tính chất hỗ trợ cho các hoạt động khác
trong chuỗi cung ứng nhưng nó lại có tính chất quyết định đến từng hoạt động và cả hệ
thống. Đặc biệt khi thương mại điện tử phát triển mạnh, việc quản lý lý thông tin từ khâu
tiếp nhận, lưu trữ, xử lý trở thành một hoạt động sống còn trong chuỗi cung ứng. Nội dung
công việc tuy không phức tạp và đòi hỏi nhiều chi phí, nguồn lực nhưng lại là một hoạt
động thường xuyên. Trong các hoạt động của chuỗi cung ứng, nhiều hoạt động có khoảng
thời gian tạm ngừng nhưng riêng hoạt động thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin không bao
giờ ngừng để đảm bảo thông tin luôn được cập nhật. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, các
thông tin về bến cảng, tàu thuyền, chuyến bay, dịch vụ thông quan, xuất hàng, nhận hàng,
phân luồng kiểm hóa, tra cứu biểu thuế suất đều thực hiện trên hệ thống hải quan điện tử.
Lưu trữ thông tin một cách khoa học giúp việc tra cứu, truy xuất dữ liệu dễ dàng,
thuận tiện khi cần thiết. Có những thông tin là tài sản giá trị rất lớn đối với DN như công
nghệ, danh sách khách hàng, dữ liệu về đối tác, dữ liệu về sản xuất, dữ liệu về thị
trường…. Do đó, việc lưu trữ bảo mật thông tin là một trong những biện pháp bảo vệ an
toàn cho hệ thống, bảo vệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Xử lý thông tin cho kết quả là
cơ sở để ra các quyết định, hoạch định các chiến lược nên xử lý thông tin cần chính xác,
kịp thời. Một sai sót nhỏ trong xử lý thông tin có thể phá hủy toàn bộ hệ thống chuỗi cung
ứng. Hệ thống quản lý thông tin nhanh, chính xác giúp việc đưa ra các quyết định, kế
hoạch thích hợp cho các hoạt động của chuỗi cung ứng. Hoạt động quản lý hệ thống thông
tin thường bao gồm các nội dung: (i) thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin, (ii) phân tích số
liệu, (iii) xây dựng các quy trình kiểm soát (ví dụ như việc kiểm soát quá trình vận chuyển
hàng hóa thông qua hệ thống định vị toàn cầu GPS- Global Positioning System).
1.1.4.2 Các nhân tố tác động đến sự phát triển ngành logistics
a./ Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng logistics là một vấn đề quan trọng và có khả năng ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển chung của lĩnh vực logistics. Do bản chất của logistics là sự tính toán tối ưu
11
phương án vận chuyển và lưu thông hàng hóa từ nơi bắt đầu đến nơi cuối cùng. Mà sự di
chuyển của hàng hóa từ điểm đầu đến điểm cuối trong thực tế có hiệu quả hay không chịu
ảnh hưởng rất lớn từ tính chất, nội dung và cấu trúc của hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm sự
bố trí của các cảng, nhà ga, sân bay, bến tàu và các hệ thống giao thông kết nối giữa các
công trình ấy.
b./ Nguồn nhân lực logistics
Nhân lực là nhân tố động nhất, luôn thay đổi và gắn với năng suất, chất lượng và
hiệu quả của hoạt động logistics. Trình độ của nguồn nhân lực logistics phản ánh trình độ
phát triển của ngành logistics của một quốc gia. Các quốc gia có nguồn nhân lực ở trình độ
cao thì việc phát triển ngành logistics sẽ đi vào chiều sâu, có hàm lượng khoa học – công
nghệ cao, giá trị gia tăng cao. Trong thời đại ngày nay, hầu hết các quốc gia đều hướng tới
phát triền nền kinh tế tri thức. Vì thế, ngành logistics cũng gắn liền với nền kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, các quốc gia phát triển sẽ tiến nhanh và gần hơn với nền kinh tế tri thức, ngành
logistics sẽ phát triển ở tầm cao hơn. Trái lại, các quốc gia đang phát triển hướng đến nền
kinh tế tri thức nhưng nguồn nhân lực hạn hẹp, không đủ trình độ chuyên môn tạo ra
khoảng cách xa đối với các nền kinh tế phát triển.
c./ Hệ thống pháp luật, chính sách
Việc xây dựng và hoàn thiện liên tục hệ thống pháp luật, chính sách phù hợp với
thông lệ quốc tế, mang tính thời đại và thực tiễn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển ngành logistics ở bất kì quốc gia nào. Phát triển ngành logistics hay bất kì ngành dịch
vụ nào khác nói chung đều không thể thiếu vắng hệ thống pháp luật, chính sách. Hệ thống
pháp luật, chính sách của quốc gia đồng bộ, toàn diện và có chất lượng cao là điều kiện cần
để phát triển ngành logistics. Hệ thống pháp luật, chính sách đó phải phù hợp thông lệ
quốc tế, kết nối và tác động thuận chiều với các đối tác song phương và đa phương, đồng
thời tổ chức triển khai và thực hiện tốt mới là điều kiện đủ, tạo khung cơ sở pháp lý vững
chắc.
d./ Hệ thống thông tin
Trong hoạt động logistics thì vấn đề thông tin là một vấn đề quan trọng. Các thông
tin về loại hình vận chuyển, thông tin về hàng hóa, thông tin về chi phí, thông tin về địa
12
điểm bố trí các nút giao thông và lưu chuyển hàng hóa có vị trí rất quan trọng trong quá
trình triển khai hoạt động logistics. Có được thông tin sẽ giúp cho các DN logistics tính
toán để đưa ra các giải pháp phù hợp và tối ưu, qua đó làm tăng hiệu quả của hoạt động
logistics. Mặt khác, trong các hoạt động của bản thân DN logistics thì rất cần sự đáp ứng
của các hoạt động khác như hải quan, ngân hàng, bảo hiểm. Trong xu hướng thế giới hiện
nay thì các hoạt động này đã và đang được điện tử hóa qua việc ứng dụng CNTT. Chính
việc tận dụng CNTT trong quản lý hoạt động và giao dịch giúp cho các DN cung ứng dịch
vụ logistics một cách hiệu quả và hiện đại.
e./ Điều kiện tự nhiên
Khi xem xét nhân tố điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc phát triển ngành
logisics của các quốc gia tức là phân tích, đánh giá khả năng vốn có, mang tính chất tự
nhiên hay một nguồn lực tự nhiên có thể khai thác, huy động vào phát triển logistics.
Chẳng hạn, một quốc gia có cảng nước sâu có thể phát triển dịch vụ cảng biển, một quốc
gia có nằm trên tuyến đường hàng hải quốc tế thì ngành logistics có điều kiện phát triển
hơn…Bên cạnh đó cũng phải kể đến sự khan hiếm hay dồi dào của các nguyên vật liệu ảnh
hưởng đến sản xuất, kinh doanh do điều kiện khí hậu, thời tiết.
f./ Sự cạnh tranh trong ngành logistics
Cũng như các ngành khác trong nền kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới, sự cạnh
tranh trong ngành logistics là điều tất yếu, khó tránh khỏi. Sự cạnh tranh là động lực của sự
phát triển không chỉ mỗi DN logistics mà cả nền kinh tế.
Sự cạnh tranh thúc đẩy DN logistics tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả kinh
doanh, cung cấp các dịch vụ ngày càng tốt hơn, loại những yếu kém và hạn chế trong bản
thân DN. Trái lại, sự cạnh tranh quá mức đặt ra thách thức to lớn cho sự phát triển và cả sự
tồn tại của các DN logistics. Để thấy rõ sự cạnh tranh ảnh hưởng đến sự phát triển ngành
logistics như thế nào, ta có thể dựa vào mô hình năm áp lực cạnh tranh của Micheal Porter.
Năm lực lượng đó là áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp, áp lực cạnh tranh từ khách hàng,
áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn, áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế, áp lực cạnh
tranh trong nội bội ngành.
13
Sơ đồ 1.2 Mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Micheal Porter
Đối thủ
tiềm ẩn Đe dọa của các đối thủ
chưa xuất hiện
Cạnh tranh nội bộ Nhà Khách hàng
ngành, cạnh tranh giữa cung cấp Nhà phân phối
các doanh nghiệp đang Quyền lực Quyền lực có mặt trên thị trường đàm phán đàm phán
Thách thức của sản phẩm Sản phẩm thay thế và dịch vụ thay thế
Nguồn: Micheal Porter, 1998
g./ Liên kết và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trong hoạt động logistics
Liên kết và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một quá trình phát triển tất yếu,
do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của
kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Liên kết và hội
nhập diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình
từ thấp đến cao. Ngày nay, nó được xem là chính sách hàng đầu của hầu hết các quốc gia
để phát triển mối quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước, đặc biệt là
trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EC), Liên
minh Châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung
Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê và Thị trường chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự
do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v...
Bàn về hội nhập và liên kết kinh tế khu vực và thế giới, không thể không đề cập đến
lĩnh vực logistics. Thông qua logistics, các nước trao đổi, mua bán hàng hóa, trao đổi
nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ cho nhau, hình thành một thị trường toàn cầu. Có
thể nói không có logistics không có thương mại quốc tế và không có phát triển kinh tế.
14
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, sau 5 năm VN gia nhập nền kinh tế toàn cầu,
kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên 1,86 lần và kết quả ngành dịch vụ logistics cũng
tăng tương ứng từ 20% đến 25%/năm. Hiện tại đã có trên 60 hãng tàu biển, 51 hãng hàng
không có tên tuổi quốc tế đang khai thác các tuyến vận tải kết nối VN với toàn cầu. Hầu
hết các tập đoàn, DN logistics lớn trên thế giới đã đến đầu tư, hợp tác liên doanh với VN
để tiến hành xây dựng các hạ tầng cơ sở logistics đạt chuẩn mực quốc tế. Các công ty vận
tải, giao nhận phát triển có mạng lưới hoạt động trên phạm vi toàn cầu như: TNT, DHL,
Maersk, NYK, APL, MOL, Kuehne & Nagel, Schenker, …
1.1.5 Phát triển ngành logistics
1.1.5.1 Nội dung phát triển ngành logistics
Thứ nhất: Xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics. Bao gồm:
Xác định tầm nhìn phát triển ngành logistics trong khoảng thời gian đủ dài, trên cơ
sở phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, nhất là thấy rõ xu hướng vận động và phát
triển ngành logistics của các nước trong khu vực.
Xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics bao gồm nhiều nội dung, trong đó
xác định rõ mục tiêu, kế hoạch phát triển ngành logistics thông quá các kế hoạch ngắn hạn,
trung hạn; xác định các chỉ tiêu cụ thể, gắn liền với lộ trình thực hiện các mục tiêu, kế
hoạch phát triển ngành logistics. Trên cơ sở đó thực hiện chiến lược phát triển logistics.
Trong xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics, xác định lợi thế để định
hướng phát triển đúng đắn, có chất lượng.
Xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics phải tuân thủ và quán triệt nguyên
tắc xác định tầm nhìn, mục tiêu, chỉ tiêu, định hướng phát triển.
Thứ hai: Tiến hành mở cửa thị trường logistics, thực hiện tự do hóa logistics gắn
với những cam kết, lộ trình và bước đi thích hợp, đảm bảo xu hướng hội nhập.
Mở cửa thị trường ngành logistics là xu thế tất yếu trong tiến trình hội nhập khu vực
cũng như quốc tế, trong đó có phân tích, đánh giá lợi ích và mặt trái một cách xác đáng,
thời cơ và thách thức sẽ gặp phải, thực hiện tự do hóa. Từ đó, tiến hành xây dựng những
căn cứ, những nguyên tắc cam kết với các đối tác song phương và đa phương, các đối tác
15
khu vực. Xây dựng lộ trình thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ logistics theo từng bước
và theo nguyên tắc cụ thể. Hướng đích của mở cửa thị trường logistics nhằm phát triển
dịch vụ logistics, đảm bảo hội nhập khu vực.
Thứ ba: Ứng dụng, triển khai và phát triển công nghệ - kỹ thuật mới vào phát triển
ngành logistics, đặc biệt là dịch vụ tạo giá trị gia tăng, dịch vụ chất lượng cao.
Trên nền tảng kết cấu hạ tầng, kinh tế, kỹ thuật của nền kinh tế, tiến hành ứng dụng,
triển khai và phát triển công nghệ kỹ thuật mới, hiện đại vào phát triển ngành logistics.
Chú trọng ứng dụng CNTT vào phát triển logistics, góp phần tạo ra giá trị gia tăng cao,
đóng góp tích cực vào tăng trưởng nền kinh tế, phát triển xã hội.
Thứ tư: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao và sử dụng hiệu quả
nguồn lao động trong ngành logistics, nhằm tạo ra dịch vụ tốt, đáp ứng nhu cầu của người
đi thuê dịch vụ.
Thứ năm: Xây dựng hệ thống chính sách phù hợp thông lệ khu vực và quốc tế, thúc
đẩy phát triển ngành logistics đủ sức cạnh tranh với các đối thủ.
Có nhiều chính sách để điều chỉnh, khuyến khích phát triển ngành logistics, nổi bật
là: chính sách phát triển thị trường dịch vụ, chính sách đầu tư, chính sách phát triển kết cấu
hạ tầng, chính sách khoa học - công nghệ, chính sách phát triển nguồn nhân lực…
Thứ sáu: Xây dựng hệ thống pháp luật phát triển ngành logistics phù hợp bối cảnh
hội nhập.
Xây dựng hệ thống pháp luật với mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy ngành logistcs phát
triển, nhất là dịch vụ tạo giá trị gia tăng, đảm bảo năng lực đóng góp của ngành vào tăng
trưởng, phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.5.2 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành logistics
Tiêu chí đánh giá động thái phát triển logistics quốc gia - chỉ tiêu LPI
LPI (Logistics Performance Index) được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố lần đầu
tiên vào năm 2007 và lần thứ hai vào đầu năm 2010. Chỉ số này cung cấp định hướng hữu
ích để cơ quan chức năng của từng quốc gia có cái nhìn tổng quan và đưa ra biện pháp
nâng cao khả năng hoạt động logistics cho quốc gia đó.
16
LPI là một công cụ đánh giá mối quan hệ tương tác giúp các quốc gia xác định
những thách thức và cơ hội mà họ phải đối mặt trong hoạt động về logistics thương mại và
những gì họ có thể làm để cải thiện hiệu suất.
Dữ liệu LPI năm 2010 được tổ chức dựa trên ba cách thức:
Thẻ điểm quốc gia, sử dụng sáu yếu tố quan trọng để so sánh kết quả hoạt động của
các quốc gia và hiển thị chỉ số LPI tổng thể xây dựng trên sáu chỉ tiêu thành phần này.
Bảng điểm cho phép so sánh các quốc gia trên toàn thế giới (với tùy chọn để hiển thị quốc
gia có hoạt động logistics tốt nhất) và so sánh các quốc gia trong khu vực hoặc trong cùng
một nhóm thu nhập (với tùy chọn để hiển thị quốc gia có hoạt động logistics tốt nhất theo
khu vực hoặc theo nhóm thu nhập) về sáu chỉ số thành phần và chỉ số LPI tổng thể.
Xếp hạng LPI toàn cầu đưa ra điểm số về kết quả hoạt động của tất cả các quốc gia
theo chỉ số LPI tổng thể cũng như theo sáu chỉ số thành phần. World Map đưa ra bản đồ
màu được mã hoá cho phép chúng ta xem chỉ số LPI tổng thể cũng như sáu chỉ số thành
phần của mỗi quốc gia.
So sánh các quốc gia cho phép chúng ta so sánh 20 quốc gia theo chỉ số LPI tổng
thể và sáu chỉ tiêu thành phần dưới dạng biểu đồ cột. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể so
sánh với bộ dữ liệu năm 2007.
Ngân hàng Thế giới tiến hành khảo sát LPI hai năm một lần để cải thiện độ tin cậy
của các chỉ số và xây dựng một bộ dữ liệu so sánh giữa các nước theo thời gian. Dự án LPI
nhận được sự hỗ trợ tài chính từ Chính phủ các nước Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển và
Vương quốc Anh thông qua Quỹ ủy thác gồm nhiều nhà tài trợ cho thương mại và phát
triển. Khảo sát được thiết kế và thực hiện bởi Vụ Thương mại và GTVT quốc tế của Ngân
hàng Thế giới, kết hợp với Trường Kinh tế Turku (TSE) của Phần Lan. Bên cạnh đó, khảo
sát LPI còn được thực hiện nhờ sự hỗ trợ và tham gia tích cực của Liên đoàn Quốc tế các
Hiệp hội Vận tải giao nhận (FIATA) và Hiệp hội Chuyển phát nhanh toàn cầu (GEA).
LPI bao gồm cả những đánh giá định lượng và định tính. LPI được xây dựng dựa
trên một cuộc khảo sát toàn cầu gửi đến những người hoạt động logistics (giao nhận vận
tải và các hãng vận chuyển toàn cầu), cung cấp những đánh giá và phản hồi của họ về mức
độ “thân thiện” của hoạt động logistics tại các quốc gia họ tiến hành hoạt động logistics và
17
của những người họ giao dịch. Họ kết hợp kiến thức chuyên sâu về đất nước để tiến hành
hoạt động với những đánh giá, nhận xét định lượng về các quốc gia mà họ giao dịch và
hoạt động trong môi trường logistics toàn cầu.
Đồng thời, LPI đánh giá kết quả hoạt động của chuỗi cung ứng logistics trong một
quốc gia và đưa ra hai khía cạnh: LPI quốc tế và LPI nội địa.
Sáu chỉ số thành phần của LPI quốc tế:
LPI quốc tế đưa ra các đánh giá định lượng của các đối tác thương mại của một
quốc gia - là những nhà cung ứng dịch vụ logistics chuyên nghiệp không thuộc quốc gia
đó. Bao gồm sáu chỉ số thành phần:
- Hiệu quả của các thủ tục (tức là tốc độ, mức độ giản đơn và khả năng dự đoán trước
của các thủ tục) của cơ quan hành chính, bao gồm cả hải quan.
- Chất lượng của cơ sở hạ tầng liên quan đến thương mại và vận tải (ví dụ như cảng,
đường sắt, đường bộ, công nghệ thông tin).
- Sự thuận tiện của việc sắp xếp các lô hàng vận chuyển đường biển có giá cạnh tranh
- Năng lực và chất lượng dịch vụ logistics.
- Khả năng theo dõi các lô hàng.
- Sự kịp thời của việc vận chuyển bằng đường biển đến điểm đến.
Sáu chỉ số thành phần này được cho điểm từ 1 đến 5, với 1 là thực hiện tồi tệ nhất và
5 là thực hiện tốt nhất. Từ đó, tính toán chỉ số LPI tổng thể cho một quốc gia bằng cách
tính trung bình trọng số của 6 chỉ số thành phần. WB so sánh và xếp hạng trình độ phát
triển logistics của một quốc gia bằng cách phân chia LPI ra thành 4 nhóm:
Nhóm 1: 1 ≤ LPI ≤ 2,48 Nhóm 3: 2,75 ≤ LPI ≤ 3,23
Nhóm 2: 2,48 ≤ LPI ≤ 2,75 Nhóm 4: 3,23 ≤ LPI ≤ 5
Sáu chỉ số thành phần của chỉ số LPI nội địa:
LPI nội địa đưa ra các đánh giá định tính và cả định lượng về trình độ phát triển
logistics của một quốc gia bởi các doanh nghiệp hoạt động logistics của chính quốc gia đó.
LPI nội địa cũng được đánh giá dựa trên 6 chỉ số thành phần bao gồm:
- Chi phí logistics: Bao gồm các khoản tiền phải nộp tại cảng biển, sân bay.
18
- Chất lượng của cơ sở hạ tầng: Bao gồm chất lượng của cảng biển, sân bay, đường
bộ, đường sắt, nhà kho, chất hàng, viễn thông và công nghệ thông tin.
- Năng lực và chất lượng của dịch vụ: Bao gồm các dịch vụ của đường sắt, đường bộ,
đường hàng không, đường biển, nhà kho chất hàng và phân phối.
- Nguồn gốc chậm trễ: đánh giá các nguyên nhân chính của sự chậm trễ trong dây
chuyền logistics.
- Thay đổi trong môi trường logistics: đánh giá tình trạng cải thiện hoặc tồi tệ của các
yếu tố về môi trường như thủ tục hải quan, thủ tục hành chính…
- Tính hiệu quả của các quá trình và thủ tục: Bao gồm tính hiệu quả của giấy phép và
vận chuyển.
1.2 SƠ LƯỢC VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN VÀ HỘI NHẬP CỘNG
ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
1.2.1 Sơ lược về Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations-
ASEAN) được thành lập vào ngày 8/8/1967, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình
phát triển của khu vực. Ngày 28/7/1995, Việt Nam gia nhập tổ chức này và trở thành thành
viên thứ 7 của Hiệp hội.
Cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC (ASEAN Economic Community) là một khối
kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN, được thành lập chính thức vào cuối
năm 2015. AEC là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN nhằm thực hiện
các mục tiêu đề ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020. Hai trụ cột còn lại là: Cộng đồng An
ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN.
Mục tiêu của AEC là (i) tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất
thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động
có tay nghề; (ii) từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả
khu vực; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả sáng
kiến liên kết ASEAN (IAI); (iv) Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế
toàn cầu, tạo sự hấp dẫn với đầu tư – kinh doanh từ bên ngoài.
19
Sơ đồ 1.3 Bốn trụ cột của Cộng đồng kinh tế ASEAN
Nguồn: Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), 2015
1.2.2 Hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN
1.2.2.1 Sự cần thiết của việc hội nhập ngành logistics
a./ Đẩy mạnh hợp tác dịch vụ logistics là yêu cầu phát triển kinh tế ASEAN
Vào tháng 12-2006, các Bộ trưởng ASEAN quyết định đưa thêm lĩnh vực logistics
vào danh mục ưu tiên hội nhập. Đây là kế hoạch hành động trung hạn đầu tiên của AEC.
Logistics chính thức trở thành lĩnh vực ưu tiên thứ 12 trong danh mục các lĩnh vực ưu tiên
hội nhập bao gồm: sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp, xe hơi, điện tử, thủy sản, sản
phẩm có nguồn gốc từ cao su, dệt và phụ kiện, sản phẩm có nguồn gốc từ gỗ, hàng không,
điện tử, chăm sóc y tế, du lịch và logistics. Các ngành ưu tiên hội nhập được lựa chọn trên
cơ sở lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên, kỹ năng lao động, mức độ cạnh tranh về
chi phí và mức độ đóng góp về giá trị gia tăng đối với nền kinh tế ASEAN. ASEAN hy
20
vọng rằng hội nhập nhanh các ngành ưu tiên này sẽ tạo ra bước đột phá, tạo đà và tăng
hiệu ứng lan tỏa sang các ngành khác.
b./ Sức ép cạnh tranh với khu vực Đông Bắc Á về lĩnh vực logistics
ASEAN đang phải đối mặt với một môi trường cạnh tranh quyết liệt trên trường
quốc tế. Đó là sự cạnh tranh không chỉ giữa các DN trong cùng một quốc gia, mà còn là sự
cạnh tranh giữa các nước với nhau. Đặc biệt sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các khu
vực về dịch vụ logistics - lĩnh vực mà lợi ích kinh tế có được rất lớn do kết quả gia tăng
của khối lượng thương mại và đầu tư giữa các nước, giữa các khu vực.
Các nước ASEAN đang phải đối mặt với sự canh tranh gay gắt của các gã khổng lồ
kinh tế như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc ở Đông Bắc Á trong lĩnh vực logistics.
c./ Chủ trương đẩy mạnh hợp tác ngành logistics của ASEAN
ASEAN chủ trương cùng nhau hợp tác phát triển ngành logistics một cách phù hợp.
Là một trong 12 ngành ưu tiên hội nhập, ASEAN nhận thấy phải thúc đẩy quá trình liên
kết dịch vụ logistics nhanh hơn. Hội nhập lĩnh vực logistics, ASEAN sẽ thu được những
lợi ích to lớn cho cả toàn khu vực lẫn từng quốc gia thành viên. Khi các nguồn lực hàng
hóa và dịch vụ có thể lưu chuyển tự do trong khuôn khổ khu vực sẽ giúp cho chi phí
logistics giảm đi. Vì vậy, sản phẩm của ASEAN mới có thể cạnh tranh trên thị trường quốc
tế và từ đó phát triển hơn nữa.
1.2.2.2 Những yêu cầu đối với ngành logistics trong quá trình hội nhập Cộng đồng kinh
tế ASEAN
Theo yêu cầu đối với dịch vụ logistics, các thành viên phải quy định tỷ lệ góp vốn
tối đa trong liên doanh của các nhà đầu tư nước ngoài không thấp hơn 49% năm 2008,
51% năm 2010, và 70% năm 2013.
Về mặt hàng hóa, cần phải lần lượt miễn giảm thuế quan sản phẩm thông thường và
sản phẩm nhạy cảm đến năm 2018, dỡ bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan, đẩy mạnh
dòng chu chuyển tự do hàng hóa và dịch vụ trong khu vực. Theo cam kết cắt giảm thuế của
Việt Nam trong CEPT-ATIGA, Việt Nam đã cắt giảm thuế về 0% cho tất cả các mặt hàng
21
trao đổi trong ASEAN (ngoại trừ các mặt hàng trong Danh mục loại trừ chung) và 7%
dòng thuế còn lại cho tới năm 2018.
Việc tham gia AEC cũng đòi hỏi Việt Nam đẩy mạnh cải cách thể chế, hiện đại hóa
nền kinh tế, nâng cao trình độ phát triển. Nền quản lý hành chính lạc hậu, nhiều thủ tục
rườm rà gây ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến năng lực cạnh tranh, chi phí, thời gian
và tiền bạc của doanh nghiệp. Trong Báo cáo Môi trường kinh doanh 2014, số giờ thực
hiện thủ tục thuế đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập DN và các khoản bảo hiểm bắt
buộc của VN là 872 giờ (trong đó thuế là 537 giờ và bảo hiểm xã hội là 335 giờ) trong khi
mức trung bình của các nước ASEAN-6 là 171 giờ/năm.
Thông tư 119/TT-BTC ngày 25/8/2014, Thông tư 151/TT-BTC ngày 10/10/2014,
Luật 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 về việc yêu cầu cắt giảm thời gian thủ tục hành
chính, qua đó tổng số giờ thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế đã giảm
được 420 giờ (290 giờ cho các thủ tục hành chính và 130 giờ cho bảo hiểm xã hội).
Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương tập
trung thực hiện các giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính, rút ngắn quy trình xử lý, giảm thời gian thực hiện, giảm chi phí hành
chính, bảo đảm công khai, minh bạch và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan hành chính
nhà nước. Riêng về lĩnh vực thuế và hải quan, ngày 05/8/2014, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị số 24/CT-TTg về tăng cường quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong
lĩnh vực thuế và hải quan.
Cụ thể: Rút ngắn thời gian nộp thuế còn dưới 119 giờ/năm, thời gian nộp bảo hiểm
xã hội không quá 49,5 giờ/năm; tỷ lệ doanh nghiệp kê khai thuế điện tử đạt trên 95%; tỷ lệ
doanh nghiệp nộp thuế điện tử đạt tối thiểu 90%; xây dựng và công khai cơ sở dữ liệu về
hoàn thuế, bảo đảm ít nhất 90% hoàn thuế theo đúng thời gian quy định.
Chương trình chiến lược phát triển hải quan (SPCD) quy định chỉ được phép dỡ
container khỏi tàu trong vòng 30 phút. Việc này sẽ góp phần làm giảm chi phí giao dịch và
thời gian thông quan hàng hóa dưới sự kiểm soát của hải quan.
Đơn giản hóa quy trình thủ tục và chính thức triển khai Cơ chế một cửa quốc gia tại
cảng biển quốc tế, đảm bảo thời gian thông quan hàng hóa giảm bình quân từ 21 ngày
22
xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với nhập khẩu. Theo báo cáo của Bộ
Tài chính, riêng việc áp dụng Cơ chế một cửa hải quan quốc gia giảm được 10 - 20% chi
phí và 30% thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp.
Bảng 1.1 Xếp hạng về thể chế của Việt Nam năm 2014
Chỉ tiêu Xếp hạng trên 144 nước
92 85 104 Điểm số (1-7 là cao nhất) 3.5 3.5 3.4
109 3.2
121 2.6
104 3.5
117 91 101 2.9 3.2 3.1
116 3.5 Thể chế Thể chế công Luật về sở hữu Chi phí ngoài pháp luật và đút lót cho xuất, nhập khẩu Chi phí ngoài pháp luật và đút lót cho nộp thuế hàng năm Chi phí ngoài pháp luật và đút lót để nhận được kết quả tư pháp thuận lợi Hiệu quả của Chính phủ Gánh nặng của Chính phủ Gánh nặng của quy định của Chính phủ Tính minh bạch của quá trình soạn thảo chính sách của Chính phủ
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới)
Bên cạnh các nội dung trên, Việt Nam cũng đang nỗ lực đơn giản hoá hệ thống các
giấy phép, giấy chứng nhận; bao gồm giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, giấy chứng nhận
xuất xứ (C/O), giấy chứng nhận vệ sinh kiểm dịch, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm.
Các nỗ lực này thể hiện qua hệ thống eCoSys (hệ thống xin cấp C/O qua mạng) cũng như
việc cấp phép nhập khẩu tự động.
Đồng thời, AEC mong muốn sẽ tạo ra một thị trường hàng không thống nhất; mạng
lưới vận tải biển hội nhập, cạnh tranh và liền mạch; thiết lập hệ thống giao thông vận tải đa
phương thức có khả năng cạnh tranh toàn cầu; theo đuổi logistic xanh, bảo vệ môi trường
trên toàn thế giới; cắt giảm chi phí vận chuyển, thông tin minh bạch để nâng cao khả năng
cạnh tranh.
23
1.3 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS CỦA MỘT SỐ
QUỐC GIA THUỘC KHỐI ASEAN VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
1.3.1 Kinh nghiệm phát triển ngành logistics của một số quốc gia thuộc khối ASEAN
1.3.1.1 Singapore
Singapore là một quốc gia nhỏ bé, có vị trí chiến lược các tuyến đường hàng hải và
hàng không quốc tế. Với nền kinh tế mở cửa, hướng ngoại hoàn toàn, cơ sở hạ tầng giao
thông vận tải phát triển, do vậy chi phí dịch vụ logistics ở Singapore là thấp. Ngay từ đầu,
Chính phủ Singapore nhận thấy được tầm quan trọng to lớn của ngành logistics trong nền
kinh tế và thương mại quốc gia cũng như các hoạt động sản xuất nên đã xác định logistics
là một trong bốn ngành công nghiệp phát triển chính yếu của thiên niên kỷ này. Singapore
đã giới thiệu chương trình Ứng dụng và đề cao dịch vụ logistics (LEAP) năm 1997 nhằm
duy trì hiệu quả và tính cạnh tranh trong dài hạn của mình.
Chính phủ Singapore khuyến khích các công ty giao nhận trong nước liên doanh với
các hãng tàu nước ngoài để thiết lập hệ thống logistics toàn cầu. Nhà nước cho phép thành
lập các trung tâm cung cấp dịch vụ phân phối hàng hóa và cung cấp cho khách hàng của
mình những thông tin liên quan đến tiến độ sản xuất, lưu trữ, phân phối. Nhà nước còn
đứng ra thành lập các trung tâm phân phối và cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực
thuê lại. Với việc thành lập các trung tâm này, Singapore muốn tăng nhanh chóng lượng
hàng chuyển tải qua sân bay Changi và cảng quốc tế Singapore, tạo sự tối ưu hóa trong vận
chuyển hàng hóa đường biển và đường hàng không để thu hút lượng hàng chuyển tải trong
khu vực.
Hiệp hội Logistics Singapore cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển ngành
logistics. Các chi phí liên quan đến giao nhận, chuyển tải đều do Hiệp hội thống nhất quy
định chung và các thành viên được khuyến khích áp dụng để tránh tình trạng cạnh tranh về
giá, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các DN logistics.
Chính phủ Singapore đang đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ thông tin và phát triển
nguồn nhân lực logistics; nâng cấp hệ thống thông tin nhằm tự động hóa hệ thống trao đổi
thông tin thương mại và pháp luật. Theo Viện Logistics Châu Á – Thái Bình Dương, hệ
24
thống thông tin tự động này giúp tiết kiệm được 700 triệu đô la Mỹ và tạo ra ngồn thu cho
các dịch vụ logistics có giá trị gia tăng như logistics ngược, trung tâm phân phối và gom
hàng của khu vực khoảng gần 4 tỷ đô la Mỹ trong thời gian sắp tới.
Về nguồn nhân lực, Đại học Quốc gia Singapore đã liên kết với Viện Công nghệ
Georgia để thành lập Viện Logistics Châu Á – Thái Bình Dương nhằm đẩy mạnh nghiên
cứu và đào tạo nguồn nhân lực cấp cao cho logistics. Singapore đã lập Ủy ban chỉ đạo
logistics từ năm 1995 và thực thi nhiều dự án phát triển logistics.
Ngay từ những năm 80 của thế kỷ XX, Chính phủ Singapore đã chủ động khuyến
khích các công ty đa quốc gia (MNCs) và một số nhà cung cấp dịch vụ logistics quốc tế
đặt trụ sở tại nước mình, xây dựng các cơ sở hạ tầng, các trung tâm phân phối khu vực và
toàn cầu tại Singapore với nhiều ưu đãi như giảm thuế đối với các khoản thu lợi nhuận,
miễn thuế đối với đầu tư mạo hiểm.
Chính phủ Singapore liên tục cải cách các thủ tục và quy định liên quan đến
logistics, tạo môi trường hiệu quả, minh bạch và ổn định cho các hoạt động kinh doanh
nước ngoài. Bên cạnh đó, Singapore thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thành lập các trung
tâm mua bán, quảng cáo và phân phối hàng hóa nhờ có luật đầu tư nước ngoài minh bạch,
chính sách rõ ràng.
Singapore còn tự do hóa hoàn toàn lĩnh vực thông tin viễn thông vào năm 2000.
Trên thực tế, Singapore là nước có thị trường công nghệ thông tin viễn thông tự do nhất
khu vực, đảm bảo vị thế của một trung tâm truyền thông quan trọng của Châu Á.
Về giao thông vận tải, Chính phủ Singapore đã quyết định đầu tư 12 tỷ đô la Mỹ
vào năm 2007 cho tuyến đường sắt Downtown Line dài 40km và phấn đấu giảm thời hạn
hoàn thành dự án này từ năm 2018 xuống năm 2016 (Hội đồng phát triển kinh tế Singapore
EDB, 2007).
1.3.1.2 Malaysia
Malyasia là quốc gia có tốc độ phát triển ngành logistics nhanh và bền vững trong
khu vực ASEAN. Malaysia đã chọn con đường phát triển logistics toàn diện ở mọi loại
hình vận tải trong chuỗi cung ứng gồm đường bộ, đường sắt, vận tải biển và hàng không.
25
Đối với Malaysia, đây là một lựa chọn rất hợp lý khi hệ thống đường bộ và đường sắt tạo
nên một mạng lưới liên thông, kết nối hệ thống cảng biển, kho bãi và sân bay với nhau và
với các khu công nghiệp, khu chế xuất nằm sâu trong nội địa. Kênh vận chuyển đường bộ
thuận lợi không chỉ hỗ trợ đắc lực cho phát triển sản xuất, gia công mà quan trọng hơn là
tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài có thể khai
thác hệ thống vận chuyển đường bộ để giảm chi phí vận tải trong logistics do chi phí vận
tải đường bộ và đường sắt thấp hơn nhiều so với đường biển và hàng không. Hơn nữa, hệ
thống kết nối giữa các hình thức vận tải chính là lợi thế để vận tải đa phương tiện phát
triển mạnh.
Với ưu thế về vị trí ngay sát trung tâm logistics thế giới (là Singapore) nhưng kênh
vận tải hàng không qua Singapore không lớn, đồng thời nhận thấy các nước láng giềng và
các nước khác trong khu vực chưa có hệ thống vận tải hàng không phát triển, ngay từ năm
1993 Malaysia đã dồn khoản đầu tư lớn (3,5 tỷ USD) cho việc xây dựng sân bay quốc tế
Kuala Lumpur và chỉ trong 5 năm đã hoàn thành đưa vào hoạt động (Logistics Malaysia
Blogspot, 2013).
Trên thực tế, Malaysia với hệ thống cáp quang được phủ gần kín toàn bộ lãnh thổ
được xem là quốc gia có hệ thống mạng viễn thông lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Ứng
dụng công nghệ cao trong logistics thực sự là một bước đi đúng hướng và đã nâng tầm chất
lượng cũng như vị thế của Malaysia trên thị trường logistics quốc tế.
Chính phủ Malaysia đã nhận thức đúng về tầm quan trọng của logistics trong phát
triển kinh tế, quyết tâm triển khai kế hoạch phát triển logistics qua hàng loạt các tác động
trực tiếp như chủ động đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các công trình hạ tầng phục vụ
logistics, trực tiếp tham gia quản lý, đầu tư các công trình trọng điểm như cảng K’lang, sân
bay KLIA… Cùng với các hoạt động trực tiếp, Chính phủ Malaysia còn xây dựng một
môi trường phát triển thuận lợi cho logistics thông qua hệ thống chính sách chung và các
chính sách cụ thể cho ngành logistics.
Malaysia đã có những bước đi mới mẻ và đột phá trong việc thành lập các cảng nội
địa (ICD – Inland Container depot) và các khu thương mại tự do (FCZ). Các ICD và FCZ
gia tăng khả năng trung chuyển hàng hóa trong chuỗi cung ứng từ hệ thống vận tải đường
26
biển và đường hàng không sang hệ thống đường bộ và đường sắt, tạo điều kiện thuận lợi
để hình thành một hệ thống vận chuyển liên thông giữa Thái Lan - Malaysia - Indonesia -
Singapore. Thành công nhất chính là Malaysia xây dựng được hệ thống các FCZ khi hàng
hóa trong chuỗi cung ứng quá cảnh ở những khu vực này sẽ được giảm thiểu các thủ tục
thông quan thông thường, các nhà cung cấp dịch vụ logistics - LSP (Logistics Services
Provider) có thể dễ dàng chuyển phương tiện vận tải, bốc dỡ hàng hóa…. Chính những
FCZ này cùng với những thuận lợi của nó đã thu hút hoạt động logistics khu vực và thúc
đẩy logistics Malaysia phát triển mạnh mẽ.
Về vấn đề phát triển nguồn nhân lực, Chính phủ Malaysia xem đây là yếu tố then
chốt trong phát triển logistics quốc gia và đã không ngừng đầu tư cho hệ thống giáo dục.
Ngoài các chuyên ngành dịch vụ và logistics tại các trường đại học, Chính phủ Malaysia
đã thành lập Học viện quốc gia Malaysia về đổi mới chuỗi cung ứng (Malaysia Institute
for Supply Chain Innovation) trên cơ sở liên kết giữa Chính phủ và Viện công nghệ
Massachusetts Hoa Kỳ - MIT. Đây là trung tâm thứ tư trên thế giới đào tạo về logistics và
chuỗi cung ứng.
Chính phủ Malaysia đã thành lập Quỹ đầu tư Nhà nước (Sovereign Wealth Fund -
SWF). Bằng quỹ này, Chính phủ Malaysia có thể tập trung huy động toàn lực cho những
ngành định hướng mũi nhọn, trong đó, hệ thống đường bộ, đường sắt, các cảng và sân bay
KLIA là những mục tiêu trọng tâm đã được đầu tư và do Chính phủ trực tiếp triển khai.
Cùng với quỹ SWF, hạ tầng logistics của Malaysia được đầu tư mạnh mẽ nhờ vào thành
công của Chính phủ trong việc kết hợp các nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế thông qua
các hoạt động đầu tư liên kết giữa Chính phủ và tư nhân (nổi bật nhất là liên kết giữa
Chính phủ và tập đoàn Khazanah Nasional Berhad).
1.3.2 Bài học cho phát triển ngành logistics của Việt Nam
Qua kinh nghiệm phát triển ngành logistics của Singapore và Malaysia, ngành
logistics của VN có thể rút ra được những bài học quý giá như sau:
Một là, phát huy vai trò của Nhà nước trong việc ban hành các văn bản pháp luật,
xây dựng các quy hoạch, chiến lược phát triển đến giám sát, kiểm tra các hoạt động
27
logistics. Từ bài học về chính sách quản lý, quy hoạch phát triển của Singapore và
Malaysia, VN cần đẩy mạnh hơn nữa công tác giám sát, kiểm tra và tạo điều kiện thuận lợi
cho ngành logistics phát triển. Nhà nước cần có sự điều chỉnh và quy hoạch hợp lý các
cảng thông quan nội địa (ICD), các khu thương mại tự do (FCZ), các trung tâm logistics
nhằm tạo sự kết nối tốt hơn với hệ thống cảng biển, đường sắt và sân bay trên toàn quốc.
Hai là, tăng cường sự minh bạch, đơn giản hóa các quy định về dịch vụ logistics
bằng cách công bố đúng lúc các quy định về đầu tư, các tiêu chí cấp phép, tạo điều kiện
thuận lợi và mang tính hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Singapore đã tạo lập được
một môi trường mở hết sức thông thoáng, song cũng hết sức chặt chẽ. Các chính sách liên
quan trực tiếp đến môi trường logistics, môi trường thương mại và đầu tư của Singapore
rất thoáng và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các chính sách về thuế, thu
nhập doanh nghiệp và chính sách tài chính.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông. Việt Nam nên
khuyến khích các DN tư nhân và các DN nước ngoài đầu tư xây dựng giống như Singapore
đã thực hiện thành công. Ở Malaysia, việc xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở đồng bộ với
chất lượng cao có đóng góp không nhỏ từ các DN tư nhân. Những nhà đầu tư nước ngoài
với trình độ công nghệ hiện đại, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý hiệu quả sẽ giúp chúng ta
nâng cao năng lực xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở hạ tầng.
Bốn là, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin. Việc ứng dụng CNTT vào hoạt
động logistics của các DN logistics nội địa còn thua kém Singapore và Malaysia. Vai trò to
lớn của CNTT trong trường hợp của Singapore được minh chứng bằng các đánh giá rất cao
về năng lực thực thi logistics, khả năng truy xuất đơn hàng, sự thuận lợi trong các khâu thủ
tục và tính kết nối với hệ thống logistics toàn cầu.
Năm là, tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực logistics. So với Singapore
và Malaysia, công tác đào tạo nguồn nhân lực logistics có chất lượng cao của Việt Nam
chưa được chú trọng phát triển.Việt Nam đang thiếu trầm trọng nguồn nhân lực logistics cả
về số lượng lẫn chất lượng. Bài học thành công của Singapore và Malaysia chỉ ra rằng
nguồn nhân lực là yếu tốt then chốt ảnh hưởng đến sự phát triển ngành logistics của họ.
28
Sáu là, khuyến khích các DN logistics nội địa liên kiết với nhau và với các DN
logistics nước ngoài. Trên thực tế, các DN logistics của Việt Nam hoạt động thiếu liên kết.
Trái lại, được sự khuyến khích của Nhà nước, các DN logistics của Singapore đã tạo ra
được mạng lưới liên kết với nhau, thậm chí với các hãng tàu nước ngoài.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả đưa ra các khái niệm khác nhau về logistics được sử
dụng rộng rãi hiện nay. Theo đó, logistics có thể hiểu là quá trình tối ưu hóa hoạt động
giao nhận vận tải hàng hoá từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng đến tay nguời tiêu
dùng cuối cùng, nhằm đảm bảo yêu cầu đúng lúc (Just In Time - JIT) với chi phí thấp nhất
trên cơ sở sử dụng những thành tựu của CNTT để điều phối hàng hoá. Đồng thời cũng nêu
lên các hoạt động chủ yếu và các nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành này.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì việc hội nhập nhanh
ngành logistics cũng không ngoại lệ. Hiện nay, hoạt động logistics đã có những buớc phát
triển mạnh mẽ cả về luợng lẫn về chất. Từ những công ty chỉ đơn thuần cung cấp dịch vụ
giao nhận vận tải thì nay đã hình thành các tập đoàn logistics hùng mạnh như Maersk,
APL, Schenker….
Qua phân tích, có thể thấy vai trò quan trọng của ngành logistics đối với tất cả các
quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế diễn ra mạnh mẽ, logistics càng thể hiện tầm quan trọng của nó trong việc góp phần
thúc đẩy ngoại thương giữa các nước, các châu lục trên thế giới phát triển; đồng thời cũng
là vũ khí lợi hại trong giai đoạn cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Từ kinh nghiệm các nuớc cho thấy, nếu phân tích kỹ luỡng và có chính sách đầu tư
đúng đắn, đảm bảo cho ngành logistics phát triển thuận lợi thì hoàn toàn có thể tăng khả
năng cạnh tranh, mang về nguồn lợi vô cùng to lớn từ chiếc bánh kinh tế khổng lồ và góp
phần phát triển kinh tế xã hội.
29
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007-2014
2.1 SƠ LƯỢC VỀ NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM
Trước 2007, logistics xuất hiện ở Việt Nam một cách tự phát, manh mún, nhỏ lẻ và
đơn giản. Người ta vẫn gọi đó là công việc “hậu cần” mà chủ yếu là vận chuyển hàng hóa
từ nơi này đến nơi khác.
Hoạt động giao nhận vận tải xuất hiện tại VN từ rất lâu, khi có sự trao đổi, mua bán
với các thương nhân nuớc ngoài thông qua con đường tơ lụa. Nhưng mãi đến những năm
60 của thế kỷ XX, hoạt động này mới được hình thành một cách rõ nét. Tuy nhiên, vẫn còn
mang tính chất phân tán, rời rạc vì các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận việc tổ chức
chuyên chở hàng hóa của mình.
Năm 1970, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương) thành lập hai tổ chức giao
nhận là: Tổng công ty giao nhận Ngoại thương Vietrans tại Hải Phòng và Công ty giao
nhận đường bộ tại Hà Nội để tập trung chuyên môn hóa khâu giao nhận vận tải.
Năm 1976, sau khi VN hoàn toàn thống nhất, Bộ Thương mại đã sáp nhập hai tổ
chức trên thành Tổng công ty giao nhận và kho vận ngoại thương (Vietrans), thực hiện
nhập khẩu hàng viện trợ của các nuớc XHCN và xuất những mặt hàng trao đổi hai chiều
theo nghị định thư với các nuớc.
Năm 1979, Trung Quốc cắt tuyến đuờng sắt liên vận quốc tế nối VN với các nuớc
XHCN, toàn bộ hoạt động giao nhận vận tải lại chuyển sang giao nhận bằng đường biển
với việc thiết lập tuyến đường từ VN nối liền cảng Vladivostok của Liên Xô cũ.
Giai đoạn này, ngành giao nhận vận tải VN kết hợp với Liên đoàn giao nhận các
nuớc thuộc khối SEV, Liên đoàn giao nhận ngoại thương Sojustransit của Liên Xô thực
hiện hoạt động chuyển tải, quá cảnh hàng hóa…
Những năm sau đó, khi kinh tế nuớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của nhà nuớc, dịch vụ giao nhận vận tải quốc tế không còn do Vietrans độc quyền
30
nữa. Nhiều công ty giao nhận vận tải ra đời, nhiều hoạt động kinh doanh mới xuất hiện
như đại lý giao nhận, đại lý tàu biển nuớc ngoài… đã làm cho ngành hậu cần càng phong
phú và đa dạng với nhiều loại hình dịch vụ.
Năm 1994, Hiệp hội Giao nhận Kho vận VN (VIFFAS) đuợc thành lập để bảo vệ
quyền lợi của các nhà giao nhận và là hội viên chính thức của Liên đoàn quốc tế các hiệp
hội giao nhận (FIATA) trong năm đó. Ngoài ra, đến nay đã có trên 35 công ty giao nhận
VN đuợc công nhận là hội viên hợp tác của FIATA như: Cosfi, Everich, Falco, Javitrans,
Mekong Cargo, Safi, Sotrans…
Năm 2005, lần đầu tiên thuật ngữ logistics được sử dụng chính thức trong Luật
thương mại VN (điều 233). Tuy nhiên, những kiến thức về logistics và các hoạt động
logistics vẫn còn khá mới mẻ và xa lạ, trước hết và chủ yếu thông qua hoạt động của các
công ty vận tải giao nhận nước ngoài và một số người được đào tạo tại nước ngoài. Điểm
mốc là năm 2007, khi VN chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) thì cụm từ logistics mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến, Nghị định hướng
dẫn đối với dịch vụ này cũng bắt đầu xuất hiện. Toàn cầu hoá làm cho giao thương giữa
các quốc gia, các khu vực trên thế giới phát triển mạnh mẽ và kéo theo những nhu cầu mới
về vận tải, kho bãi, các dịch vụ phụ trợ,… Đây được xem là năm khởi đầu cho sự phát
triển của ngành logistics VN.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng của hoạt
động xuất nhập khẩu và đầu tư, dịch vụ logistics tại Việt Nam đang có bước phát triển
mạnh mẽ và sẽ còn phát triển mạnh hơn khi Việt Nam chính thức gia nhập Cộng đồng kinh
tế ASEAN vào cuối năm 2015. Bước vào sân chơi khu vực và toàn cầu, các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh.
Dịch vụ logistics phát triển mạnh và được chuyên môn hóa với mức độ khá cao, trở
thành một trong những ngành dịch vụ xương sống của hoạt động thương mại quốc tế. Việt
Nam đang coi trọng tăng cường hội nhập ngành logistics, xem đây là mắc xích quan trọng
để liên kết các công đoạn sản xuất và vận chuyển giữa các vùng, các miền, các nước trong
khu vực và thế giới.
31
Hiện nay, ngành logistics có thể được xem là ngành “hái ra tiền” ở nước ta với tốc
độ tăng trưởng trung bình là 20% mỗi năm. Trong đó, khâu quan trọng nhất là vận tải,
chiếm từ 40-60% trong toàn bộ hoạt động logistics. Bộ Công thương cho biết, tiềm năng
phát triển ngành logistics là rất lớn khi kim ngạch thương mại của nước ta được đánh giá
tăng nhanh nhất trong khu vực với tốc độ trung bình 18-20%/năm và đạt gần 150 tỷ USD.
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG LOGISTICS Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2007-2014
Cùng với quá trình phát triển của mình, logistics đã làm đa dạng khóa khái niệm
vận tải giao nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ thay mặt khách hàng để thực hiện các khâu rời
rạc như thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị hàng, đóng gói hàng, tái chế, làm thủ tục thông
quan,… cho tới cung cấp dịch vụ trọn gói từ kho đến kho (Door to Door). Từ chỗ đóng vai
trò đại lý, người được ủy thác trở thành một chủ thể chính trong các hoạt động vận tải giao
nhận với khách hàng, chịu trách nhiệm trước các nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, để có
thể thực hiện nghiệp vụ của mình, người giao nhận phải quản lý một hệ thống đồng bộ từ
giao nhận tới vận tải, cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản
hàng hóa trong kho, phân phối hàng hóa đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để
theo dõi, kiểm tra, … Như vậy, người giao nhận vận tải trở thành người cung cấp dịch vụ
logistics trọn vẹn.
Trước đây, hàng hóa đi theo hình thức hàng lẻ từ nước xuất khẩu sang nước nhập
khẩu và trải qua nhiều phương tiện vận tải khác nhau, vì vậy xác suất rủi ro mất mát đối
với hàng hóa là rất cao, và người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng với nhiều người vận tải
mà trách nhiệm của họ chỉ giới hạn trong chặng đường hay dịch vụ mà họ đảm nhận. Tới
những năm 60-70 của thế kỷ XX, cách mạng container trong ngành vận tải đã đảm bảo an
toàn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hóa, là tiền đề và cơ sở cho sự ra đời và phát
triển của vận tải đa phương thức. Khi vận tải đa phương thức ra đời, chủ hàng chỉ phải ký
một hợp đồng duy nhất với người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO-Multimodal
Transport Operator). MTO sẽ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện toàn bộ việc vận chuyển
hàng hóa từ khi nhận hàng cho tới khi giao hàng bằng một chứng từ vận tải duy nhất cho
32
dù anh ta không phải là người chuyên chở thực tế. Như vậy, MTO ở đây chính là người
cung cấp dịch vụ logistics.
Mặc dù, logistics có 4 cấp độ về dịch vụ thì các doanh nghiệp Việt Nam mới tham
gia được đến cấp độ 2, nghĩa là chủ yếu làm đại lý, trung gian chứ chưa đáp ứng được cả
chuỗi logistics bao gồm các nhà điều hành vận tải đa phương thức (MTO) và nhà cung cấp
dịch vụ logistics trọn vẹn (LP).
Tại hội thảo về logistics được tổ chức tại Tp HCM mới đây, ông Đỗ Xuân Quang -
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) cho biết, mỗi năm chi
phí logistics (bao gồm chi phí vận tải, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục
giấy tờ khác…) ở Việt Nam chiếm khoảng 21-25% GDP (trong khi chi phí logistics ở các
nước phát triển chỉ chiếm 7 - 10% GDP); tương đương 37- 40 tỷ USD. “Tuy nhiên, 30-35
tỷ USD trong số đó đã thuộc về các doanh nghiệp ngoại, xem như phần ngon nhất của
miếng bánh logistics tại Việt Nam đang nằm trong tay doanh nghiệp nước ngoài”.
Điều này dẫn đến hầu hết doanh nghiệp Việt Nam chỉ làm đại lý cấp 2, cấp 3, thậm
chí cấp 4 cho các công ty toàn cầu. Đến nay doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đáp ứng được
25% nhu cầu nội địa và chỉ tập trung vào một vài dịch vụ trong chuỗi giá trị logistics.
2.2.1 Dịch vụ vận tải và giao nhận hàng hoá
Giao nhận vận tải là những hoạt động nằm trong khâu lưu thông phân phối, một
khâu quan trọng nối liền sản xuất và tiêu thụ. Giao nhận vận tải thực thiện chức năng đưa
sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Không những thế, giao nhận vận tải tốt còn cho
phép các doanh nghiệp giảm đến mức thấp nhất chi phí, thiệt hại do lưu kho, tồn đọng sản
phẩm và nhờ đó giảm chi phí logistics nói chung. Đây là hoạt động chủ yếu và đặc trưng
của ngành logistics Việt Nam hiện nay.
Việt Nam có điều kiện địa lý, tự nhiên thuận lợi cho hoạt động vận tải và giao nhận
hàng hóa. Nằm ở vị trí chiến lược thuộc trung tâm Đông Nam Á, có đường bờ biển dài, địa
hình trải dọc đều từ Bắc xuống Nam, có hai vùng đồng bằng lớn là Đồng bằng Châu thổ
Sông Hồng ở phía Bắc và Đồng bằng Nam Bộ ở phía Nam, khu vực phía Bắc giáp Trung
Quốc địa hình đồi núi phức tạp, dọc tuyến biên giới với Lào là dãy Trường Sơn cùng với
33
một dải duyên hải hẹp, vùng biên giới Tây Nam Bộ với Campuchia tương đối rộng. Với
một địa hình như vậy, nếu VN định hướng phát triển 3 nhóm hạ tầng chính là vận tải
đường biển và vận tải đường bộ kết hợp đường sắt là phù hợp nhất. Việt Nam sẽ thuận lợi
khi phát triển một tuyến đường xương sống từ Bắc xuống Nam, từ trục Bắc - Nam này có
các đường kết nối sang phía Đông tới các cảng dọc theo đường bờ biển và các tuyến kết
nối sang phía Tây tới hệ thống đường cao tốc Xuyên Á.
Ở nước ta hiện nay, giao nhận vận tải quốc tế chủ yếu diễn ra trên lĩnh vực vận tải
đường biển và vận tải đường hàng không. Do hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu đi bằng
đường biển nên vận tải đường biển phát triển. Nhưng vận tải bằng đường bộ và đường
sông mới là phương tiện vận chuyển chủ yếu cho hàng hóa nội địa.
Bảng 2.1 Khối lượng hàng hoá vận chuyển phân theo ngành vận tải Đơn vị: nghìn tấn
Tổng số Đường sắt Đường bộ Đường sông Đường biển Đường hàng không Năm 596.800,9 2007 653.235,3 2008 715.522,4 2009 800.886,0 2010 885.681,5 2011 961.128,4 2012 1011.094,3 2013 2014 1.066.624,6 135.282,8 133.027,9 137.714,5 144.227,0 160.164,5 174.385,4 180.812,7 186.904,2 403.361,8 455.898,4 513.629,9 587.014,2 654.127,1 717.905,7 765.070,4 816.857,1 9.050,0 8.481,1 8.247,5 7.861,5 7.285,1 6.952,1 6.525,9 7.178,9 129,6 131,4 139,6 190,1 200,3 191,0 183,7 202,0
48.976,7 55.696,5 55.790,9 61.593,2 63.904,5 61.694,2 58.501,6 55.482,4 Nguồn: Tổng Cục Thống kê
Nhìn vào bảng, khối lượng hàng hoá vận chuyển phân theo ngành vận tải đường bộ,
đường sông liên tục tăng từ năm 2007 đến năm 2014. Tuy nhiên, khối lượng vận tải đường
sắt thì lại có xu hướng giảm rõ rệt. Điều này cũng không có gì bất ngờ khi mà ngành
đường sắt Việt Nam đã trì trệ, tụt hậu trong suốt mấy chục năm qua vẫn chưa có sự cải
thiện đáng kể nào. Còn riêng khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển và đường
hàng không, sau khi tăng liên tục từ năm 2007 thì đến năm 2012 bắt đầu giảm xuống.
Không chỉ vậy, khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển và đường hàng không
được thể hiện bằng các con số quá khiêm tốn, cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh dịch
vụ logistics của Việt Nam vẫn chưa khai thác được thị trường vận tải biển đầy tiềm năng.
34
Theo nhận định của các chuyên gia, các doanh nghiệp nội địa chỉ chiếm một phần
rất nhỏ trong miếng bánh khổng lồ, ngày một phình to của thị trường logistics. Theo Cục
Hàng hải, Việt Nam mới chỉ đáp ứng được khoảng 18% tổng lượng hàng hóa xuất nhập
khẩu, phần còn lại bị chi phối bởi các doanh nghiệp nước ngoài, trong khi lĩnh vực quan
trong nhất của Việt Nam trong logistics là vận tải biển. Điều này thật sự là một tổn thất lớn
cho doanh nghiệp nội địa khi có đến 90% hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.
Ngoài ra, một nguyên nhân khách quan là thói quen mua theo điều kiện CIF, bán
theo điều kiện FOB của các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam. Các DN này thường là những
công ty nhỏ lẻ, mua theo điều kiện CIF và bán theo điều kiện FOB có thể giải quyết được
tình trạng vốn thấp của họ vì không phải trả cước phí vận chuyển và bảo hiểm. Chính thói
quen đó đã góp phần làm các DN kinh doanh dịch vụ logistics nội địa và ngành vận tải
đường biển nước ta không thể phát triển. Chi phí cho giao nhận kho vận chiếm tới 20% giá
thành sản phẩm, trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển chỉ vào khoảng 8-12%. Điều này
làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa các DN Việt Nam so với các DN nước ngoài.
Hệ thống pháp luật liên quan đến logistics của VN đã và đang dần được hình thành,
hoàn thiện. Luật Thương mại năm 2005 đã thay thế Luật Thương mại năm 1997, trong đó
dịch vụ logistics được thay cho dịch vụ giao nhận. Năm 2005, Bộ luật Hàng hải sửa đổi Bộ
Luật Hàng hải 1990, đã đưa luật hàng hải VN phù hợp với luật quốc tế. Năm 2006, VN
chính thức công nhận Công ước tạo điều kiện thuận lợi cho tàu biển ra vào cảng biển
(FAL-65). Luật Thương mại sửa đổi của VN ngày 1/2/2006, logistics mới chỉ được công
nhận là một hành vi thương mại, nên Chính phủ đã ban hành Nghị định 140/2007/NĐ-CP
ngày 05/09/2007 xác định điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm
đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Nghị định số 87/2009/NĐ-CP của Chính
phủ đã thay thế cho Nghị định số 125/2003/NĐ-CP trong vấn đề vận tải đa phương thức.
Sau đó, Nhà nước ban hành Nghị định 89/2011/NĐ-CP (10.10.2011) sửa đổi Nghị định
87/2009/NĐ-CP. Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 04/03/2014 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chiến lược phát triển GTVT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Ngoài ra, nhận thức được tầm quan trọng của ngành logistics đối với nền kinh tế
trong thời kì tới, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 175/QĐ-TTg phê duyệt Chiến
35
lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của VN đến năm 2020. Ngày 22.01.2014, Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 169/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ
logistics trong lĩnh vực GTVT VN đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu:
Đến năm 2020, phát triển dịch vụ logistics trong lĩnh vực GTVT nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động khai thác, sử dụng hệ thống cảng biển, đặc biệt là các cảng biển quốc gia; góp
phần thực hiện thành công Chiến lược biển VN đến năm 2020. Đến năm 2030, phát triển
dịch vụ logistics trong lĩnh vực GTVT thành một ngành dịch vụ quan trọng tại VN, đóng
góp từ 5-10% vào tổng thu nhập sản phẩm quốc gia (GDP).
Ngoài các văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh dịch vụ logistics, Nhà nước cũng
đã ban hành một số văn bản luật và dưới luật liên quan đến dịch vụ logistics để tạo môi
trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động này như Luật giao thông đường bộ, Luật giao
thông đường thuỷ nội địa, Luật đường sắt, Luật hàng không dân dụng Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu so sánh với những quốc gia khác thì hệ thống pháp luật của Việt
Nam chưa thật sự hoàn chỉnh để hướng đến hội nhập, ít chú trọng đến thế giới và tập quán
quốc tế. Sự thiếu nhất quán, không đồng bộ, chồng chéo giữa các quy định pháp luật, giữa
các cơ quan Nhà nước là yếu tố chính gây cản trở hoạt động logistics phát triển, làm tăng
chi phí và thời gian cho các DN logistics.
Về hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông VN đang thiếu và yếu kém so với yêu cầu
phát triển của đất nước cũng như ngành logistics. Điểm nổi bật là cầu đường còn đang
dưới tiêu chuẩn quy định để bảo đảm tải trọng cho xe container lưu thông, chưa kết nối tốt
hệ thống giao thông nội địa với các cảng biển nước sâu, cảng biển là cửa ngõ giao thương
quốc tế và hiệu quả sử dụng vận tải đa phương thức trong giao thông còn thấp. Cụ thể:
Hệ thống cảng biển
Cảng biển là đầu mối trong hệ thống giao thông vận tải, cảng biển được xác định là
một trong những mũi nhọn, là tiền đề của phát triển dịch vụ logistics. Cảng biển và
logistics có mối quan hệ hữu cơ gắn kết, có cảng biển thì phải có dịch vụ logistics đi kèm
để hỗ trợ, nâng cao hiệu quả khai thác và ngược lại. Cảng biển là nơi tiếp nhận tàu biển để
xuất và nhập hàng hóa, là một mắt xích quan trọng trong chuỗi logistics, đưa hàng từ nhà
36
sản xuất đến người tiêu dùng. Muốn ngành logistics phát triển thì cảng biển phải có nhiều
hàng hóa đến và đi, hàng hóa nhiều sẽ tạo tiền đề để phát triển mạnh dịch vụ logistics.
Với hơn 3.260 km bờ biển có nhiều vũng vịnh kín, độ sâu lý tưởng (chưa kể các
đảo) nhưng đến nay, Việt Nam mới đầu tư được khoảng 45 km cảng biển (trong đó nhóm
cảng biển phía Bắc và Bắc Trung Bộ chiếm gần 1/3). Chưa có nhiều cảng xứng tầm khu
vực và quốc tế, trừ cảng trung chuyển quốc tế Cái Mép – Thị Vải ở phía Nam và cảng cửa
ngõ quốc tế Hải Phòng ở phía Bắc. Việc đầu tư kỹ thuật hiện đại ở một số cảng còn hạn
chế, trình độ, năng lực quản lý yếu kém, thủ tục còn rườm rà…làm chi phí vận tải biển, lưu
kho bãi tăng cao, giảm sức cạnh tranh. Tính đến tháng 9/2014, Việt Nam có tổng cộng 44
cảng biển các loại, trong đó có 14 cảng biển loại 1; 23 cảng biển loại 2 và 13 cảng biển loại
3, bao gồm 219 bến cảng với gần 44 km cầu cảng và hàng chục khu chuyển tải. Năng lực
thông qua khoảng 350 - 370 triệu tấn/năm.
Về giao thông kết nối cảng thì vận tải đường bộ vẫn đóng vai trò chủ đạo. Lượng
hàng qua cảng và mật độ cảng có sự khác nhau giữa các vùng Bắc – Trung – Nam. Đặc
điểm lớn nhất tại các cảng biển miền Trung là thiếu các dòng chảy kinh tế vùng phụ cận đổ
về nên nguồn hàng quá ít dẫn đến các cảng miền Trung thường xuyên bị thiếu hàng.
Nguyên nhân là do năng lực sản xuất cũng như thị trường ở miền Trung quá nhỏ lẻ, các
khu công nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả nên không tạo được nguồn hàng đủ lớn và ổn
định để cung cấp cho các cảng biển, mật độ cảng biển dày đặc nên nguồn vốn đầu tư bị
dàn trải, quy mô dừng lại ở mức độ khiêm tốn, đầu tư cảng biển thiếu khoa học và không
đồng bộ. Các cảng miền Trung chỉ mới hoạt động mang tính chất gom hàng rồi đem đến
các cảng Hải Phòng hoặc TP.HCM để xuất đi. Các yếu tố cần thiết cho phát triển kinh tế
cảng biển chưa hội đủ, thiếu hệ thống đô thị cảng, tài chính, hậu cần thích hợp.
Đối với các cảng biển ở vùng Đông Nam Bộ thì sự phát triển của hệ thống cảng là
phù hợp với quy hoạch được duyệt. Lượng hàng thông qua khu vực này chiếm khoảng
50% lượng hàng hóa qua cảng biển và 65% hàng container của cả nước. Các bến cảng tổng
hợp, container có quy mô lớn, được đầu tư thiết bị chuyên dụng hiện đại. Hệ thống quản lý
khai thác điện tử được đưa vào khai thác phổ biến. Các bến cảng chuyên dùng phát triển
rất nhanh. Hệ thống cảng biển được đầu tư hiện đại hóa, được các hãng tàu lớn của thế giới
37
đưa vào bản đồ lộ trình của mình nên hàng xuất khẩu từ cảng biển có thể xuất thẳng sang
Mỹ và Châu Âu.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư hệ thống cảng biển của vùng Đông Nam Bộ cũng có
một số hạn chế. Đối với cảng biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hoạt động đầu
tư phát triển, cải tạo nâng cấp cảng biển chưa đúng theo quy hoạch. Việc đầu tư phát triển
chỉ mới được thực hiện tại một số cảng, còn các cảng tổng hợp của địa phương thì hầu như
chưa được triển khai thực hiện. Trang thiết bị bốc xếp và quản lý khai thác còn lạc hậu,
chưa đồng bộ. Luồng vào các cảng tại khu vực này rất dài và cạn. Việc nạo vét duy tu và
chuyển phao dẫn luồng hàng năm rất tốn kém và không phải lúc nào cũng thu được kết quả
mong muốn. Giao thông kết nối cảng chủ yếu là đường bộ và đường thủy. Đánh giá chung
thì việc đầu tư phát triển cảng biển tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long chưa đạt được mục
tiêu như quy hoạch đề ra, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, cả nước có 577 chủ tàu, trong đó có 33 chủ tàu lớn là
doanh nghiệp Nhà nước, còn lại là tư nhân. Cũng theo thống kê của Cục Hàng hải Việt
Nam, tính đến ngày 30-6-2013 đội tàu Việt Nam có 1.788 tàu với tổng trọng tải 6,899 triệu
DWT (năng lực vận tải an toàn của tàu tính bằng tấn), đứng thứ 5/10 nước ASEAN. Ngoài
ra, Việt Nam còn sở hữu 80 tàu mang cờ quốc tịch nước ngoài với tổng tải trọng 1,1 triệu
DWT, chiếm khoảng 15% tổng tải trọng đội tàu. Trọng tải bình quân của tàu Việt Nam
tương đối thấp, chỉ 3.960 DWT/tàu đứng thứ 9/10 nước ASEAN, tàu có trọng tải dưới 5
vạn DWT chiếm gần 80%, tàu từ 5-15 vạn DWT chiếm khoảng 17%, tàu trên 15 vạn DWT
có 2 tàu chỉ chiếm 3,3%. Về thị phần đảm nhận, hàng xuất nhập khẩu chiếm 12%, chủ yếu
trên các tuyến biển gần, thấp hơn chỉ tiêu đặt ra là đạt 25 đến 30%. Hiện đội tàu Việt Nam
đảm nhận gần 100% lượng hàng nội địa đường biển. Riêng tàu container, sau hơn một
năm, số lượng tàu vận tải nội địa đã tăng từ 19 lên trên 30 tàu.
Cũng theo Cục Hàng hải Việt Nam, sản lượng hàng thông qua Nhóm cảng biển số 1
tiếp tục tăng trưởng ổn định, đạt 120,3 triệu tấn, tăng 13% (chiếm 33% sản lượng hàng
thông qua các cảng biển của cả nước). Nhóm cảng biển số 5 đạt 162 triệu tấn, tăng 14%
(chiếm 44%). Sản lượng container khu vực Hải Phòng đạt 3,36 triệu TEUs, tăng 20,3%;
38
khu vực TP. Hồ Chí Minh đạt 4,98 triệu TEUs, tăng 14,8%. Một trong những khu vực có
lượng hàng tăng trưởng cao nhất là Hà Tĩnh, đạt 4,09 triệu tấn, tăng 33%.
Khu vực Cái Mép - Thị Vải, sau thời gian triển khai đề án nâng cao hiệu quả khai
thác các cảng biển nhóm 5 đã có chuyển biến tích cực, lượng hàng hóa thông qua khu vực
Vũng Tàu năm 2014 đạt 59,3 triệu tấn, tăng hơn 20% so với năm 2013, trong đó riêng
hàng container đạt 1,15 triệu TEUs, tăng 27,0%.
Năm 2014, tổng sản lượng vận tải do đội tàu biển VN thực hiện đạt 98,5 triệu tấn
(135,7 tỷ Km) tăng trưởng nhẹ ở mức 0,13% so với năm 2013. Hoạt động kinh doanh vận
tải biển VN vẫn còn nhiều khó khăn và tiếp tục đối mặt với cạnh tranh gay gắt. Thị phần
vận tải của đội tàu biển VN mới chỉ chiếm khoảng 10-12% tổng sản lượng hàng hóa xuất,
nhập khẩu và các tàu biển chủ yếu chỉ hoạt động trên các tuyến vận tải gần như Đông Nam
Á và Đông Bắc Á.
Năm 2014, thống kê cho thấy, tổng sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng
biển Việt Nam đạt 370,3 triệu tấn, tăng 14%, trong đó hàng container đạt 10,24 triệu
TEUs, tăng 20,1% so với năm 2013.
Năm 2013, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 326
triệu tấn, năm 2012 là 294 triệu tấn, năm 2011 đạt 286 triệu tấn, 2010: 260, 2009: 251
Bảng 2.2 Sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển VN (2009 – 2014)
Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Lượng hàng thông qua (triệu tấn) 251 260 286 294 326 370,3 Tỷ lệ tăng (%) 3,6 10 2,8 10,9 13,6
Nguồn: Tổng hợp từ các số liệu thống kê của Cục Hàng hải VN
Thực tế cho thấy, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển tăng đều theo
các năm, đây là một thành công lớn trong giai đoạn kinh tế khó khăn như hiện nay. Tuy
nhiên cũng xuất hiện hiện tượng tồn đọng hàng hoá tại một số khu vực tàu thuyền tập trung
đông, nhưng cũng có khu vực do các cảng được đầu tư xây dựng và đưa vào khai thác
39
cùng lúc khá lớn, trong khi nhu cầu thông quan hàng hóa tại khu vực chưa nhiều, dẫn đến
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN bằng cách hạ giá bốc xếp hàng hoá,
lưu kho... thấp hơn mặt bằng chung, ảnh hưởng tới hoạt động khai thác cảng tại khu vực.
Đường bộ
Theo số liệu thống kê trong Đề án đổi mới toàn diện công tác quản lý Nhà nước của
Vụ Kết cấu hạ tầng giao thông, mạng lưới đường bộ Việt Nam tính đến tháng 02/2014 có
khoảng 300.000 km đường các loại, chia thành đường quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện,
đường xã và đường chuyên dùng. Hệ thống quốc lộ có chiều dài khoảng 19.457 Km và gần
5.000 cầu đường bộ. Đường có tiêu chuẩn kỹ thuật cao và trung bình (cấp I, II, III) chiếm
47%, còn lại 53% là đường cấp thấp (cấp IV chiếm 32%, cấp V chiếm 21%). Tỷ lệ đường
có chiều rộng nền, mặt đường theo đúng cấp kỹ thuật còn thấp, chủ yếu có yếu tố hình học
về bán kính cong, chiều rộng châm chước; chiều rộng mặt đường ≥7m có khoảng 46%,
mặt đường 5~6,9m khoảng 33%, khoảng 21% còn lại là mặt đường có bề rộng dưới 5m.
Tính đến tháng 12/2008, Mật độ đường bộ trên toàn quốc chưa cao, mới đạt khoảng
0,78 km/km2 và 3,09 km/1000 dân; trong đó mật độ đường quốc lộ còn chiếm tỷ lệ rất
thấp, đạt 0,053 km/km2 và 0,21 km/1000 dân; thấp so với các nước khu vực (Thái Lan
0,11 km/km2; 0,9km/1000dân);
Sơ đồ 2.1 Mật độ đường bộ phân theo vùng (Km/Km2)
Nguồn: Cục Đường bộ Việt Nam, 2008
40
Theo quy hoạch từ nay đến 2020, Việt Nam sẽ xây dựng khoảng 20 đường cao tốc
với chiều dài gần 5.900 km, vốn đầu tư trên 50 tỷ USD. Trong đó, hàng loạt các dự án
đường cao tốc lớn đã và sẽ được thực hiện như TP Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây
phía Nam, TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương, Cầu Giẽ - Ninh Bình – Vinh, Hà Nội - Hải
Phòng, Nội Bài - Lào Cai ở phía Bắc. Các tuyến đường bộ cao tốc được sắp xếp ưu tiên
đầu tư dựa trên nguyên tắc là các tuyến có hiệu quả kinh tế cao (nhu cầu vận tải lớn): các
tuyến nằm gần các trung tâm kinh tế - xã hội như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ…Các tuyến đường có khả năng “kích cầu”, tạo đà cho sự phát
triển kinh tế xã hội, nằm trong các vùng kinh tế trọng điểm, các tuyến đường thuộc 2 hành
lang và vành đai kinh tế Việt – Trung.
Năm 2012, theo Tổng cục Thống kê, đường bộ là ngành chiếm phần lớn khách liên
tỉnh, cụ thể là 93,6 % về số lượng hành khách. Còn xét về hàng hóa liên tỉnh, tỷ trọng của
ngành đường bộ là 74,7% về khối lượng vận chuyển (tấn) và 20,2% về khối lượng luân
chuyển tấn/km. Vì vậy, mức độ tắc nghẽn đã tăng mạnh trên các trục liên tỉnh. Đồng thời,
lưu lượng xe tải tăng cao cũng làm cho tình trạng tắc nghẽn thêm trầm trọng và khiến mặt
đường xuống cấp nhanh chóng.
Đường sắt
Trong những năm qua, với việc ứng dụng nhiều thành tựu khoa học-kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến, hầu hết các loại hình vận tải khác đều có sự phát triển vượt bậc. Năng
lực vận chuyển cũng như độ phủ sóng của các loại hình vận tải đường thủy, đường bộ và
đường biển không ngừng tăng lên và vươn xa. Chỉ riêng ngành đường sắt Việt Nam là
không có nhiều sự thay đổi so với cách đây cả mấy thập niên.
Hiện nay, mạng đường sắt VN có tổng chiều dài 3.143 km trong đó 2.531 km chính
tuyến, 612 km đường nhánh và đường ga. Trong đó, loại khổ đường: 1000mm chiếm 85%,
khổ đường 1435mm chiếm 6%; khổ đường lòng (1435mm & 1000mm) chiếm 9%. Báo
cáo điều chỉnh chiến lược phát triển giao thông vận tải (GTVT) đến năm 2020, tầm nhìn
2030 của Bộ GTVT đã nhìn nhận các tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành đường sắt hầu hết các
tuyến đều thấp, chủ yếu là do được xây dựng từ đầu thế kỷ trước với tiêu chuẩn kỹ thuật
hạn chế của đường sắt khổ hẹp 1000mm (trừ các tuyến mới xây dựng ở miền Bắc trong
41
những thập niên 60-70 của thế kỷ 20 như Đông Anh - Lưu Xá, Kép - Hạ Long theo tiêu
chuẩn kỹ thuật khổ 1435mm, nhưng cũng chỉ tương đương đường sắt cấp 3 khổ 1435mm.
Trên toàn mạng đường sắt Việt nam hiện có 1.427 vị trí đường ngang hợp pháp (có
mặt lát đường bộ qua đường sắt bằng tấm đan bê tông hoặc láng nhựa cấp phối để giao
thông đường bộ qua đường sắt được dễ dàng). Mật độ bình quân 2 km đường sắt chính
tuyến có 1 đường ngang.
Sự trì trệ, tụt hậu của ngành đường sắt VN còn thể hiện rõ trong việc dù thế giới đã
phát triển lên dạng đầu máy chạy bằng điện với tốc độ nhanh hơn và sức kéo lớn hơn, còn
đường sắt VN; vẫn “trung thành” với đầu máy chạy bằng dầu diesel. Sự trì trệ của đường
sắt VN đến ngay cả những người trong ngành như ông Bùi Xuân Phong – Chủ tịch hội
kinh tế và vận tải đường sắt Việt Nam cũng phải thốt lên rằng “sau bao nhiêu năm nhưng
hầu như các tiêu chuẩn kỹ thuật, tải trọng, cầu cống, tốc độ chạy tàu, chiều dài sử dụng
đường ga, trọng lượng đoàn tàu và đầu máy nhỏ… vẫn duy trì gần như 100 năm trước”.
Tiến sĩ Trần Đinh Bá (Hội Kinh tế và Vận tải Đường sắt Việt Nam) cho biết dù vận
chuyển bằng đường sắt được đánh giá là có chi phí thấp hơn vận chuyển đường biển
khoảng 20-30% nhưng tư duy trì trệ cùng cách lãnh đạo yếu kém khiến đường sắt vẫn rất
khó cạnh tranh với các loại hình vận tải khác. Ngoài ra, thời gian hành trình lâu hơn các
loại hình vận tải khác. Chẳng hạn đi từ TP.HCM ra Hà Nội phải mất từ 7 đến 10 ngày, phải
đặt chổ trước 1-2 tháng đối với những chuyến hàng đặc thù hoặc số lượng lớn và chưa có
dịch vụ theo dõi hàng hóa đang di chuyển nên các chủ hàng không được thông báo trước
tàu nào chứa hàng của mình, Bên cạnh đó, thái độ phục vụ kém, hàng hóa dễ hư hỏng
khiến cho loại hình này kém hấp dẫn trong mắt các chủ hàng.
Sự yếu kém, trì trệ trên dẫn đến hệ quả là sản lượng vận chuyển hàng hóa của ngành
đường sắt không ngừng giảm sút. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, từ năm 2009 đến
năm 2013, sản lượng vận tải hàng hóa của ngành đường sắt đều giảm. Nếu như năm 2009,
ngành đường sắt đảm nhận được 8,1 triệu tấn hàng hóa/ 640,3 triệu tấn của cả năm (chiếm
gần 1,3% tổng sản lượng) thì đến năm 2013, sản lượng vận chuyển của toàn ngành đường
sắt chỉ đạt 6,5 triệu tấn/ 1011,1 triệu tấn hàng hóa vận tải của cả năm (chiếm 0,6% sản
42
lượng hàng hóa cần vận chuyển), mức thấp thứ 4 trong tổng số 5 loại hình vận tải gồm
đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không.
Do đường sắt phát triển yếu kém nên việc chuyên chở hàng hóa ở VN bị đẩy lên vai
của vận tải đường bộ, dẫn đến ùn tắc đường bộ rất nghiêm trọng và chi phí tăng cao. Trong
một báo cáo mới đây, ông Luis Blancas - Chuyên gia giao thông vận tải thuộc Vụ phát
triển bền vững khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới cho biết ước
tính việc ùn tắc khiến các chủ hàng ở VN phải tiêu tốn 152 triệu USD trong năm 2012 và
dự kiến con số này sẽ tăng lên 274 triệu USD vào năm 2020. Ảnh hưởng đến nền kinh tế
của tình trạng ùn tắc đối với mọi đối tượng sử dụng ước tính lên đến 1,7 tỉ USD mỗi năm.
Đường sông
Là quốc gia được ưu đãi về tự nhiên, lại giáp biển, Việt Nam có trên 2.360 con sông
với 112 cửa sông và nhiều vịnh kín, hàng ngàn kilometer đường từ bờ ra đảo và giữa các
đảo. Mạng lưới sông, kênh ở Việt Nam có mật độ lớn, chảy qua hầu hết các thành phố, thị
xã đến tận các thôn, ấp; tạo thành trục giao thông đường thủy rất thuận lợi. Theo thống kê
tương đối, tổng chiều dài các tuyến đường thủy là 198.000 km, trong đó có tới 42.000 km
có thể đưa vào khai thác vận tải.
Về cở sở hạ tầng, ngành đường thủy Việt Nam có 72 cảng sông, trên 2.500 bến thủy
và 110 cảng biển lớn nhỏ. VN được Tổ chức UNESCO xếp vào Top 10 nước có mạng lưới
giao thông - vận tải thuỷ dày đặc nhất thế giới.
Về phương tiện vận tải nội địa, hiện Việt Nam có tổng số phương tiện là 241.782
chiếc. Tổng trọng tải tàu hàng đạt 12.042.881 tấn và tàu khách đạt 486.106 khách. Độ tuổi
trung bình của tàu là 12,67 năm với tổng công suất máy 10.486.832 cv (mã lực). Theo
thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, trong cung ứng dịch vụ vận tải nội địa, riêng đội tàu
container Việt Nam đã có 24 tàu (có thể chở 13.000 TEU), nhưng chỉ mới khai thác dưới
50-60% công suất, lượng tàu dư thừa khoảng 4.000-5.000 TEU. Ngoài ra, với số lượng tàu
treo cờ Việt Nam hiện có và 3 tàu container của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đưa vào
khai thác khoảng đầu năm 2012 thì đội tàu nội địa có đủ khả năng đáp ứng hoàn toàn nhu
cầu vận tải container nội địa giai đoạn 2013-2015.
43
Nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách nội địa của Việt Nam hàng năm khá
lớn. Theo Tổng Cục thống kê, năm 2013, vận tải hàng hóa trong nước ước đạt 980,3 triệu
tấn, tăng 5,7% và 91,2 tỷ km, tăng 5,2% so với năm 2012; vận chuyển hành khách ước đạt
2.950,1 triệu lượt khách, tăng 6,3% và 123,1 tỷ km, tăng 5,4% so với năm 2012. Tuy
nhiên, hiện tại tỷ lệ thị phần mà vận tải thủy nội địa chiếm giữ trong tổng sản luợng vận tải
quốc gia chỉ khoảng trên 20%, chủ yếu ở mảng vận tải hàng hóa với các mặt hàng truyền
thống như: than, vật liệu xây dựng, phân bón, lương thực, hàng hóa xuất nhập khẩu từ Hải
Phòng, Quảng Ninh đi TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ,... và ngược lại.
Đường hàng không
Theo Cục Hàng không Việt Nam, hiện có 21 cảng hàng không, trong đó có 7 cảng
hàng không quốc tế (Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Bài, Phú Quốc và
Cần Thơ). Trung bình cứ cách chưa đầy 100 km là có một sân bay, dẫn đến mật độ sân bay
ở Việt Nam cao hơn hẳn so với các nước khác. Có 3 cảng hàng không nhộn nhịp và năng
động nhất nước là Nội Bài, Tân Sơn Nhất và Đà Nẵng.
Năm 2010 sân bay Tân Sơn Nhất đón 109.324 chuyến bay; 15.107.927 lượt hành
khách, tăng trưởng 15,4% về số chuyến và 18,23% về lượt hành khách so với năm trước.
Đến năm 2014, sản lượng chuyến bay đến/đi từ Tân Sơn Nhất đạt 154.378 chuyến bay;
22.140.348 lượt hành khách, tăng tương ứng hơn 10% so với năm trước.
Năm
Bảng 2.3 Thống kê tình hình vận tải hàng không (2010 – 2013) Tổng số hàng hóa (kg) 770.000 649.000 600.000 590.000 Tổng số hành khách (người) 44.000.000 37.400.000 35.700.000 31.400.000 Tổng số chuyến bay (lượt) 502.765 420.121 420.121 358.954 2013 2012 2011 2010
Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo tổng kết năm của Cục Hàng Không VN
Hiện nay, các hãng hàng không Việt Nam đã có một tàu bay hùng hậu về số lượng
gồm 100 tàu bay các loại (B777, A330, A321, A320, F70, ATR72), hiện đại về công nghệ
với độ tuổi trung bình là 5,9 tuổi. Năm 2015, thỏa thuận “bầu trời mở” (cho phép các hãng
máy bay ở 10 quốc gia trong khối ASEAN bay tự do trong vùng mà không cần giấy phép
44
đặc biệt) sẽ thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của thị trường vận tải, thông qua việc giao thương
dễ dàng và người dân đi lại thuận tiện hơn.
Trong 5 năm qua, tốc độ tăng trưởng lũy kế hàng năm (CAGR) của hàng hóa và
hành khách qua các cảng hàng không Việt Nam lần lượt đạt 12,5% và 18,4%. IATA dự
báo, trong năm nay, thị trường vận tải hàng không của Việt Nam sẽ đứng thứ ba thế giới về
tăng trưởng vận tải hành khách và hàng hóa quốc tế, đứng thứ hai về tăng trưởng vận tải
hành khách trong nước. Thị phần của các hãng hàng không trong nước chiếm 28,6% về
sản lượng hàng hóa và 47% về số lượng hành khách vận chuyển. Hiện chỉ có bốn hãng bay
của Việt Nam là Vietnam Airlines, Jetstar Pacific, Vietjet Air và VASCO, trong đó
Vietnam Airlines chiếm lĩnh thị phần trong tất cả các đường bay. Năm 2013, Vietnam
Airlines chiếm 57,2% thị phần, đạt doanh thu xấp xỉ 72.555 tỷ đồng và lãi trước thuế 533
tỷ đồng sau ba năm hoạt động trì trệ. Jetstar Pacific và Vietjet Air cũng có những tín hiệu
tích cực. Tuy nhiên, chưa có cơ sở để nói rằng hoạt động vận tải của các hãng đã tốt hơn
khi các thông tin tài chính còn là ẩn số.
Trong đó, hai điểm vận tải hàng không lớn nhất của Việt Nam là sân bay Tân Sơn
Nhất và sân bay Nội Bài còn cần cải thiện nhiều cả trong việc giảm ùn tắc, chi phí hoạt
động và nâng cao chất lượng dịch vụ. Hiện nay, chất lượng dịch vụ tại hai sân bay này
được đánh giá là còn thấp so với các nước Châu Á khác.
Đồng ý Rất không
Bảng 2.4 Chất lượng của sân bay Tân Sơn Nhất Đồng ý hầu hết Rất đồng ý đồng ý 3 Sây bay đáp ứng được yêu cầu dịch vụ của tôi 5
2 3 1 1
2 1 2 3
4 1 3 2 1 3 2
4 2 2 Khu vực hàng hóa của sân bay quá ùn tắt khiến tôi bị chậm trễ khi làm thủ tục thông quan hàng hóa và rời sân bay Phí dịch vụ mặt đất còn cao; tôi muốn sân bay cải thiện về mặt này Cần phải có nhiều hơn một đơn vị dịch vụ mặt đất Đôi khi tôi bị hư hỏng hàng hóa do điều kiện bảo quản của sân bay Tôi muốn lượng chuyển vận tải hàng hóa đi đến sân bay tăng
Nguồn: Ngân hàng Thế Giới, 2014
45
Bảng 2.5 Chất lượng của sân bay Nội Bài
Đồng ý Rất không
Rất đồng ý 2 Đồng ý hầu hết 1 2 3 3 đồng ý 3
2 2 1 2
5 1 1 3 1 2 2
4 2 2 Sây bay đáp ứng được yêu cầu dịch vụ của tôi Khu vực hàng hóa của sân bay quá ùn tắt khiến tôi bị chậm trễ khi làm thủ tục thông quan hàng hóa và rời sân bay Phí dịch vụ mặt đất còn cao; tôi muốn sân bay cải thiện về mặt này Cần phải có nhiều hơn một đơn vị dịch vụ mặt đất Đôi khi tôi bị hư hỏng hàng hóa do điều kiện bảo quản của sân bay Tôi muốn lượng chuyển vận tải hàng hóa đi đến sân bay tăng
Nguồn: Ngân hàng thế giới, 2014
Theo các doanh nghiệp kinh doanh logistics, nhân viên ga sân bay cần nâng cao
năng lực xử lý hàng hóa. Ngoài ra, tại các trạm kiểm điếm, nơi nhân viên sân bay cân đo
hàng hóa để tính cước phí cũng tồn tại tình trạng tham nhũng ở mức độ cao, việc lập hai
biên bản kiểm điếm hàng (một chính thức, một không chính thức) còn phổ biến.
2.2.2 Dịch vụ bốc dỡ và lưu kho hàng hóa
Một số kho hàng của Việt Nam nói chung được trang bị các máy móc thiết bị hiện
đại và có thể đáp ứng tương đối các yêu cầu về dịch vụ bốc dỡ và lưu kho hàng hóa. Hệ
thống các kho hàng có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ như: lưu giữ, bảo quản
hàng hóa; gom hàng (consolidation); vận chuyển hàng hóa bằng xe (trucking); container
cho hàng hóa treo sẵn (GOH - Garments on hangers); đóng gói hàng hóa (packing/re -
packing); dán nhãn hàng hóa (labeling); kiểm tra mã số, mã vạch (barcoding and
scanning); đóng pallet (palletizing); phân loại hàng hóa (sorting)...
Đối với giao nhận hàng hóa bằng đường hàng không, VN mới bắt đầu khai thác từ
năm 2000. Hiện nay, các DN có thể cung cấp các dịch vụ liên quan đến hàng không như:
- Giao nhận hàng hóa bằng đường hàng không “từ cửa đến cửa” (door to door
service); đến các sân bay (airport to airport).
46
- Khai báo hải quan.
- Vận chuyển liên hợp bằng đường hàng không và đường biển qua các điểm truyền
tải chính của Châu Á và Trung Đông.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp VN còn cung cấp các dịch vụ khác như vận tải nội
địa, hàng hóa quá cảnh... khi có yêu cầu từ phía khách hàng. Trong lĩnh vực giao nhận vận
tải bằng đường hàng không có những dịch vụ khá phát triển như: quản lý đơn đặt hàng;
dịch vụ kho bãi và phân phối hàng hóa; dịch vụ giao nhận và các dịch vụ giá trị gia tăng.
Nhìn chung, trừ một số bến cảng mới được xây dựng và đưa vào khai thác từ năm
2006 trở lại đây được trang bị các thiết bị xếp dỡ hiện đại, còn lại hầu hết vẫn sử dụng thiết
bị thông thường với công nghệ lạc hậu. Bình quân năng suất xếp dỡ hàng tổng hợp tại Việt
Nam chỉ bằng 50% - 60% so với các cảng trong khu vực. Nguyên nhân là do thiếu trang
thiết bị bốc xếp hiện đại, luồng vận tải và quy hoạch bến bãi chưa phát triển, thiếu tính
chuyên nghiệp và không gian bến chưa hợp lý.
Bảng 2.6 Năng lực xếp dỡ container của các cảng chính Việt Nam năm 2013
Cảng chính theo khu vực Tỷ lệ
Miền Bắc Cảng Hải Phòng Cảng Đình Vũ Các cảng khác Miền Trung Cảng Đà Nẵng Các cảng khác Miền Nam Tân Cảng Sài Gòn (Cát Lái) Cảng quốc tế Tân Cảng-Cái Mép (TCIT) Cảng quốc tế Cái Mép (CMIT) Cảng container quốc tế Việt Nam (VICT) Các cảng khác Tổng cộng Năng lực xếp dỡ (triệu TEUs) 2.23 1.04 0.52 0.68 0.26 0.17 0.10 5.96 3.26 0.64 0.61 0.44 1.01 8.45 26% 12% 6% 8% 3% 2% 1% 71% 39% 8% 7% 5% 12% 100%
Nguồn: Hiệp hội Cảng biển Việt Nam
Hiện nay, miền Bắc nước ta có bảy cảng biển với tổng số mét chiều dài cầu cảng là
hơn 8.000 mét. Trong bảy cảng biển ở phía Bắc này có 44 cầu cảng bốc hàng tổng hợp, 24
47
cầu cảng chuyên dụng, 8 cầu cảng dịch vụ khác và 15 bến phao. Nếu xét riêng các cảng
tổng hợp thì loại hình này nhiều về số lượng nhưng còn hạn chế về quy mô. Chiều dài cầu
cảng trung bình là 140m/cầu cảng, công suất bốc hàng là 3.000-4.000m dài/năm. Công
suất này được các chuyên gia đánh giá là khá tốt so với mặt bằng chung của VN do có thiết
bị tương đối hiện đại. Các bến container có chiều dài trung bình là 170m/cầu cảng. Công
suất bốc xếp hàng hóa không cao do các thiết bị đầu tư không được đồng bộ và luồng hàng
container không đều. Các cảng chuyên dụng miền Bắc chủ yếu gắn với các cơ sở công
nghiệp của các ngành than, điện… được đầu tư khá đồng bộ. Do đó, công suất bốc xếp
hàng hóa cao cùng với khả năng đón nhận nhiều tàu có tải trọng lớn vào bến. Thiết bị tại
các cảng biển phía Bắc được đầu tư rất khác biệt giữa các loại cảng. Luồng vào cảng khá
dài và có độ sâu không đồng đều trên toàn tuyến luồng, dẫn đến các tàu lớn vào cảng phải
giảm tải và lợi dụng thủy triều. Về giao thông kết nối cảng thì vận tải đường bộ vẫn đóng
vai trò chủ đạo. Đánh giá chung thì các cảng biển loại 1 miền Bắc được đầu tư theo đúng
quy hoạch; tuy nhiên, vẫn có những dự án triển khai chậm tiến độ.
Trong 10 năm trở lại đây, miền Trung đã xuất hiện thêm nhiều cảng lớn nhỏ. Tính
đến nay, miền Trung có 19 cảng biển với tổng số mét chiều dài là hơn 8.000 mét trong đó
có 10 cảng biển loại 1 và 9 cảng biển loại 2. Hàng hóa qua cảng chủ yếu là vật liệu xây
dựng, gỗ các loại và các sản phẩm khai thác mỏ. Trong 19 cảng biển tại miền Trung thì có
37 bến cảng bốc hàng tổng hợp và 25 bến cảng chuyên dùng. Về thiết bị thì các cảng miền
Trung được trang bị khá đơn giản nên công suất bốc dỡ hàng hóa thấp. Luồng vào cảng tại
các cảng biển miền Trung phần lớn là ngắn do hầu hết các khu bến nằm gần bờ biển sâu.
Còn ở miền Nam có 13 cảng biển với chiều dài cầu bến là trên 27.000m, trong đó
có 4 cảng loại 1 và 9 cảng loại 2. Hàng hóa qua cảng chủ yếu là nông sản, phân bón, linh
kiện xe máy, quặng và các sản phẩm từ khu công nghiệp. Trong 13 cảng biển ở miền Nam
thì có 39 bến cảng tổng hợp và 48 bến cảng chuyên dùng.
2.2.3 Dịch vụ kinh doanh kho bãi
Hệ thống kho bãi logistics của Việt Nam phần lớn tập trung ở các DN Nhà nước,
còn ở các DN tư nhân thường có quy mô nhỏ và hạn chế. Các kho bãi này chủ yếu tập
48
trung ở các cảng biển lớn, phần còn lại nằm sâu trong đất liền. Hệ thống kho bãi phát triển
chủ yếu ở các cảng lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng và Quảng Ninh. Loại hình kho
bãi kinh doanh ở VN cũng khá đa dạng và phong phú, điển hình như:
- Bãi container: là nơi tiếp nhận và lưu giữ container. Đây là nơi tập kết Container để
xếp hàng xuống tàu vận chuyển hoặc giao cho chủ hàng. Tại đây, ngươi ta tiến hành các
thủ tục cho hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Kho hàng lẻ: là nơi làm kho lưu trữ, thực hiện nghiệp vụ gom hàng lẻ để chuyên
chở bằng container hoặc phân phối hàng lẻ cho chủ hàng...
- Kho ngoại quan: đây là nơi chứa và bảo quản hàng hoá khi thủ tục cho hàng xuất
nhập khẩu chưa hoàn tất hoặc hàng hoá quá cảnh, hàng tạm nhập tái xuất... Dịch vụ này
góp phần giảm các chi phí lưu tàu, lưu container quá hạn. Kho ngoại quan ở VN hiện nay
chủ yếu bố trí tại các cửa khẩu lớn như: cảng Sài Gòn, Đà Nẵng, Hải Phòng hay ở một số
ga đường sắt liên vận quốc tế.
Các loại hình kho bãi khác: đó là các loại hình kho bãi truyền thống như kho hàng
rời, kho hàng bách hoá, kho chuyên dụng hay kho đặc biệt...
Hiện nay, hầu hết hệ thống kho bãi của các cảng biển ở nước ta được xây dựng từ
khá lâu nên cơ sở hạ tầng, trang thiết bị vừa thiếu lại vừa yếu, trình độ kỹ thuật lạc hậu,
chất lượng nhà kho xuống cấp và sử dụng lao động thủ công là chủ yếu. Các kho đang khai
thác có quy mô nhỏ, trình độ cơ giới hóa thấp, chưa đồng bộ, thiếu quy hoạch dài hạn và
hệ thống quản lý còn nhiều hạn chế.
2.2.4 Dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì hàng hóa
Dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì hàng hoá là một trong các dịch vụ thuộc chuỗi
dịch vụ logistics mà các DN logistics VN cung ứng cho khách hàng. Khi các DN có nhu
cầu thuê dịch vụ phân loại và đóng gói bao bì thì DN logistics sẽ triển khai thực hiện sao
cho tiết kiệm chi phí cho cả DN và khách hàng. Đây là dịch vụ liên quan đến lưu thông bổ
sung thuộc nhóm dịch vụ giá trị gia tăng mà các DN cần mở rộng phát triển. Tuy nhiên,
hoạt động này vẫn chưa nổi bật ở nước ta.
49
Đối với hàng phi mậu dịch, hàng hội chợ, triển lãm, hàng có khối lượng nhỏ, nguồn
hàng không thường xuyên, hàng của các văn phòng đại diện hay các cơ quan ngoại giao,
đại sứ quán..., các DN logistics thường sử dụng các nguyên vật liệu phục vụ đóng gói bao
bì bằng những thứ có sẵn trong nước như: giấy, gỗ, bao nilon, nhựa tái chế... để giảm chi
phí. Ngoài ra, tuỳ theo yêu cầu cũng như đặc điểm của hàng hoá, các nguyên liệu cao cấp
cũng được đưa vào sử dụng như bao xốp khí, kệ xốp... để đóng gói những sản phẩm có giá
trị cao như hàng công nghiệp, hàng điện tử của các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Đối với hàng mậu dịch có khối lượng lớn, nhu cầu xuất nhập khẩu thường xuyên,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các khu công nghiệp, khu chế xuất thường
sử dụng trọn gói các dịch vụ logistics do các doanh nghiệp logistics cung cấp, từ việc đóng
gói bao bì, kiểm đếm cho đến việc làm thủ tục hải quan hàng hoá.
2.2.5 Dịch vụ công nghệ thông tin
Ứng dụng CNTT, thương mại điện tử ngày càng phổ biến và sâu rộng hơn trong các
lĩnh vực của ngành logistics như công nghệ nhận dạng bằng tần số vô tuyến, hệ thống
thông tin quản trị dây chuyền cung ứng toàn cầu… Hiện nay, có nhiều giải pháp đầu tư
CNTT hiệu quả với chi phí thấp, các DN logistics của VN đã nắm bắt cơ hội này để trang
bị cho mình. Chẳng hạn, công ty Tân cảng Sài Gòn đã áp dụng hệ thống phần mềm quản lý
container tại cảng Cát Lái làm giảm được nhiều thời gian chờ đợi, lấy hàng khỏi cảng, góp
phần vào việc giải tỏa tắc nghẽn tại đây. Tuy nhiên, chỉ có các DN logistics nước ngoài
mới thực sự đủ năng lực để thực hiện dịch vụ CNTT một cách chuyên nghiệp và hiệu quả.
Hiện đã có 98,95% DN đang hoạt động khai thuế điện tử và trên 90% DN đăng ký
nộp thuế điện tử. Tuy nhiên, khi nói về hạ tầng thông tin, các DN logistics của VN luôn bị
xem là yếu, mặc dù có nhiều ý thức trong việc áp dụng CNTT vào hoạt động của mình
nhưng vẫn còn kém xa so với các DN logistics nước ngoài. Điển hình khi xét về khía cạnh
xây dựng website, phần lớn website của DN logistics VN chỉ đơn thuần giới thiệu về mình,
về dịch vụ của mình, thiếu hẳn các tiện ích mà khách hàng cần như công cụ theo dõi lô
hàng, lịch tàu, e-booking... Trong khi đó, khả năng nhìn thấy và kiểm soát đơn hàng là một
yếu tố được các chủ hàng đánh giá rất cao khi họ lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ logistics.
50
Trước đây, kết quả một cuộc điều tra của Đại học Kinh tế Quốc dân cho thấy, việc
sử dụng phần mềm quản lý kho bãi và cơ sở bán hàng ở hầu hết các tỉnh, thành phố đều rất
thấp (23,3% ở tỉnh Hải Dương; 30,3% tại Đà Nẵng; Hà Nội 32,7% và cao nhất là TP.HCM
cũng chỉ đạt 39,3%). Một khảo sát khác của tổ chức tư vấn SMC cũng chỉ ra kết quả tương
tự với hệ thống CNTT của 45% nhà cung cấp không đạt yêu cầu. Những hạn chế này đang
làm cho doanh nghiệp trong nước cạnh tranh vất vả với các doanh nghiệp nước ngoài.
Theo đánh giá của Hiệp hội DN logistics VN, trình độ công nghệ trong hoạt động
logistics ở VN còn thấp. Việc liên lạc giữa công ty logistics với khách hàng, hải quan chủ
yếu vẫn là thủ công, giấy tờ. Mặc dù những năm 2010-2011 được ghi nhận có bước đột
phá trong thực hiện khai hải quan điện tử, số lượng DN tham gia vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp.
Mặt khác, phương tiện vận tải còn lạc hậu, cũ kỹ, trình độ cơ giới hóa trong bốc dỡ hàng
hóa vẫn còn yếu kém, lao động thủ công vẫn phổ biến. Công tác lưu kho còn khá lạc hậu,
chưa áp dụng phổ biến tin học trong quản trị kho như mã vạch, chương trình phần mềm
quản trị kho. Có thể nói, ở VN, một trong những nguyên nhân làm cho dịch vụ logistics
của nhiều DN cung cấp thiếu tin cậy là do trình độ ứng dụng CNTT kém.
Mặt khác, nguồn nhân lực cung cấp cho thị trường logistics tại VN hiện nay trở nên
thiếu hụt trầm trọng cả về số lượng và chất lượng, được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau.
Nhân lực logistics hiện nay chủ yếu được lấy từ các đại lý hãng tàu, các công ty giao nhận
vận tải biển và sử dụng theo khả năng hiện có nên việc ứng dụng công nghệ thông tin càng
trở nên khó khăn hơn. Đội ngũ quản lý thường là các cán bộ chủ chốt được điều động đến
các công ty logistics. Đội ngũ này đang được đào tạo và tái đào tạo để đáp ứng nhu cầu
quản lý. Phần lớn trong số họ thiếu kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh, ít được cập nhật
tri thức mới, phong cách lãnh đạo và quản lý chưa đáp ứng yêu cầu. Đội ngũ nhân viên
nghiệp vụ tốt nghiệp đại học nhưng từ những chuyên ngành ngoài logistics, lực lượng trẻ
chưa được tham gia hoạch định chính sách. Lực lượng lao động trực tiếp như bốc vác, xếp
dỡ, lái xe, kiểm đếm hàng kho bãi thì đa số có trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo tác
phong làm việc chuyên nghiệp. Vì vậy, nguồn nhân lực có hiểu biết cơ bản về logistics đã
khó, chuyên sâu về ngành này có thể nói là rất khan hiếm.
51
Bảng 2.7 Trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực
Nội dung khảo sát Cơ quan tiến hành khảo sát Tỷ lệ phần trăm
50%
Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics
30%
80,26%
23,6%
Viện Nghiên cứu và Phát triển của trường Đại học Kinh tế Quốc dân 6,9%
3,9%
Số DN có đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và kiến thức về logistics Số DN phải đào tạo lại nhân viên trong quá trình công tác Đội ngũ nhân viên trong các DN logistics được đào tạo qua các công việc hàng ngày Đội ngũ nhân viên trong các DN logistics tham gia các khóa đào tạo trong nước Đội ngũ nhân viên trong các DN logistics được các chuyên gia nước ngoài đào tạo Đội ngũ nhân viên trong các DN logistics tham gia các khóa học đào tạo ở nước ngoài Nguồn: Tổng hợp các kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics năm
2013 và Viện Nghiên cứu và Phát triển của trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2014
Trước thực trạng trên, việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cung cấp cho ngành
logistics cần phải được đẩy mạnh. Hiện tại, một số trường đại học có chương trình đào tạo
về logistics và quản lý chuỗi cung ứng thuộc các khoa quản trị kinh doanh, kinh tế vận tải,
nghiệp vụ ngoại thương, thương mại và du lịch... nhưng chỉ cung cấp các kiến thức cơ bản
về nghiệp vụ và vận tải. Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về loại hình dịch vụ này cũng
chưa nhiều. Ngay cả các chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp trong lĩnh vực logistics
vẫn còn quá ít so với yêu cầu phát triển. Mới chỉ có Đại học GTVT TP.HCM là có ngành
logistics và vận tải đa phương thức, trường Đại học Hàng hải VN mới chỉ thành lập bước
đầu là Trung tâm logistics và Bộ môn logistics thuộc khoa kinh tế vận tải biển. Ngoài ra,
một số cơ sở đào tạo như Viện Logistics Việt Nam, Công Ty Tri Thức Hậu Cần, Trung
Tâm Phát Triển Khoa Học Kinh Tế trực thuộc Viện Nghiên Cứu Châu Á… cũng chỉ dừng
lại ở việc cung cấp các khóa học ngắn hạn về nghiệp vụ logistics.
52
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÀNH LOGISTICS VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2007-2014
Theo đánh giá của WB, chỉ số LPI của VN có sự tăng lên từ mức 2,89 năm 2007 lên
mức 2,96 năm 2010 rồi đạt mức 3 năm 2012. Hai năm sau, vào năm 2014, chỉ số LPI của
VN đã tăng thêm 0,15 đạt mức 3,15. Điều này đã giúp VN lần đầu tiên vươn lên vị trí thứ
48/160 nước nghiên cứu sau khi đứng yên ở vị trí 53/155 nước trong suốt giai đoạn 2007-
2012. Trong đó, nhiều điểm số thành phần của VN có sự cải thiện đáng kể qua các năm,
như chỉ số về cơ sở hạ tầng từ 2,5 điểm năm 2007 đã tăng lên 3,11 điểm năm 2014.
Bảng 2.8 Chỉ số hoạt động logistics và xếp hạng của Việt Nam 2007-2014
Chỉ số 2007 2010 2012 2014
LPI
HẢI QUAN
HẠ TẦNG
HÀNG GỬI QUỐC TẾ NĂNG LỰC LOGISTICS THEO DÕI HÀNG HÓA TÍNH ĐÚNG GIỜ Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm 53 2.89 37 2.89 60 2.5 47 3.0 56 2.80 53 2.90 65 3.22 53 2.96 53 2.68 66 2.56 58 3.04 51 2.89 55 3.1 76 3.44 53 3 61 2.65 72 2.68 38 3.14 81 2.68 48 3.16 38 3.64 Thay đổi (2007 – 2014) -5 0.26 24 0.08 -16 0.61 -5 0.22 -7 0.29 -5 0.29 -9 0.27 Thay đổi (2012 – 2014) -5 0.15 0 0.16 -28 0.43 4 0.08 -32 0.41 0 0.03 18 -0.15 48 3.15 61 2.81 44 3.11 42 3.22 49 3.09 48 3.19 56 3.49
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Trong khu vực ASEAN, VN đứng ở vị trí thứ 4 vào năm 2014 (sau Singapore,
Malaysia, Thái Lan) và đã vươn lên vị trí dẫn đầu trong nhóm các quốc gia có thu nhập
trung bình thấp. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của ngành còn thấp. Năng lực tài chính
còn yếu, cùng với hạn chế trong liên kết giữa các DN xuất nhập khẩu và DN logistics làm
cho dịch vụ ở nước ta kém phát triển so với yêu cầu. Ngoài ra, sự thiếu đồng bộ về cơ sở
hạ tầng, phát triển khung pháp lý, trình độ ứng dụng CNTT còn hạn chế, phải giải quyết
53
thông qua các đại lý của công ty nước ngoài… cũng kìm hãm sự phát triển của ngành
logistics VN. Chất lượng dịch vụ logistics của VN còn thấp.
Bảng 2.9 Xếp hạng năm 2014 tại khu vực ASEAN
QUỐC GIA HẢI QUAN HẠ TẦNG NĂNG LỰC LOGISTICS XẾP HẠNG LPI CHỈ SỐ LPI TÍNH ĐÚNG GIỜ
5 25 35 48 53 57 83 131 145 4 3.59 3.43 3.15 3.08 3 2.74 2.39 2.25 4.01 3.37 3.21 2.81 2.87 3 2.67 2.45 1.97 4.28 3.56 3.4 3.11 2.92 2.6 2.58 2.21 2.14 Singapore Malaysia Thailand Việt Nam Indonesia Philippines Cambodia Lào Myanmar HÀNG GỬI QUỐC TẾ 3.7 3.64 3.3 3.22 2.87 3.33 2.83 2.5 2.14 4.25 3.92 3.96 3.49 3.53 3.07 2.75 2.65 2.83
THEO DÕI HÀNG HÓA 3.9 3.97 3.58 3.47 3.45 3.29 3.19 3.09 3.11 3.21 3 2.93 2.92 2.67 2.2 2.31 2.07 2.36 Nguồn: Ngân Hàng Thế Giới
Các DN logistics nội địa đã tiến hành đầu tư theo chiều sâu, triển khai các dịch vụ
logistics trọn gói 3PL (intergrated logistics), tham gia hầu hết vào các công đoạn logistics
trong chuỗi cung ứng của chủ hàng. Từ đó, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho ngành và xác
lập được uy tín của các đối tác, khách hàng trong và ngoài nước. Có thể nói logistics đã trở
thành một ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao ở VN, làm tăng thêm giá trị cũng như
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người dân,
tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Sự phát triển của dịch vụ logistics có ý nghĩa giúp cho
việc sản xuất, kinh doanh của các DN VN được đảm bảo về thời gian và chất lượng.
2.3.1 Thành tựu - hạn chế
2.3.1.1 Thành tựu
Về pháp luật, thể chế: trước năm 2005, luật pháp Việt Nam chưa hề có các quy định
về kinh doanh dịch vụ logistics. Đến khi Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày
14-6-2005 và Nghị định số 140/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành mới có quy định chi
tiết về các dịch vụ logistics và điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics. Từ đó, các văn bản
54
pháp luật liên quan đến logistics luôn được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện dần do thực tiễn
phát triển dịch vụ logistics đặt ra để phù hợp với xu hướng thế giới và khu vực.
Thực hiện những cam kết quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ có liên quan đến logistics
như: mở cửa các phân ngành, dịch vụ xếp dỡ container; dịch vụ thông quan; dịch vụ kho
bãi; dịch vụ đại lý vận tải hàng hóa; các dịch vụ thực hiện thay mặt cho chủ hàng (bao gồm
các hoạt động kiểm tra vận đơn; dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa; giám định hàng hóa,
dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; giám định hàng hóa; dịch vụ nhận hàng; dịch vụ
chuẩn bị chứng từ vận tải); cho phía nước ngoài được thiết lập các DN liên doanh dịch vụ
logistics với tỷ lệ góp vốn 49-51%. Đến năm 2014, tỷ lệ góp vốn này đã tăng lên 100%.
Đúng theo lộ trình cắt giảm thuế quan của Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN
(ATIGA), đến cuối năm 2014, Việt Nam đã cắt giảm 6.859 dòng thuế (chiếm 72% tổng
Biểu thuế xuất nhập khẩu) xuống 0%. Từ ngày 1/1/2015, VN đã cắt giảm thêm 1.720 dòng
thuế từ thuế suất hiện hành 5% xuống 0% theo cam kết ATIGA. Như vậy, chỉ còn khoảng
7% dòng thuế, tương đương 687 mặt hàng được xem là nhạy cảm theo thỏa thuận với
ASEAN chưa cắt giảm ngay về 0% trong năm 2015 mà thực hiện dần đến năm 2018 (gồm
các mặt hàng nhạy cảm cần có lộ trình bảo hộ dài hơn, chủ yếu như: sắt thép, giấy, vải may
mặc, ô tô, linh kiện phụ tùng ô tô, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng, đồ nội
thất...) và 3% số dòng thuế của biểu ATIGA được loại trừ khỏi cam kết xóa bỏ thuế quan
(bao gồm các mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm được phép duy trì thuế suất ở mức 5%: gia
cầm sống, thịt gà, trứng gia cầm, quả có múi, thóc, gạo lứt, thị chế biến, đường).
Về cơ sở hạ tầng: VN đã có nhiều tiến bộ mang tính đột phá, đặc biệt trong lĩnh vực
đầu tư phát triển cảng biển, phát triển thêm các cảng cạn, các khu logistics, đường cao tốc.
Chẳng hạn như: Năm 2003 Cục Hàng hải VN đã đầu tư hơn 516 triệu USD cho các dự án
cải tạo, nâng cấp cảng biển. Việc khánh thành gói thầu cảng nuớc sâu Cái Lân (ngày
13/12/2003) đuợc coi là buớc đột phá trong tiến trình khắc phục tình trạng thừa cảng biển
nhưng thiếu cảng nuớc sâu trong hệ thống cảng biển VN, đồng thời tạo sức bật mới cho
vùng kinh tế Ðông Bắc với 3 bến tàu đuợc sử dụng cho tàu có trọng tải từ 30.000 đến
40.000 DWT. Công tác nghiên cứu quy hoạch chi tiết cảng Vân Phong buớc đầu đuợc triển
khai, với mức đầu tư dự kiến khoảng 105 triệu USD, tương lai sẽ đưa Vân Phong sớm trở
55
thành cảng trung chuyển quốc tế. Ngày 28-01-2013, Bộ GTVT tổ chức khánh thành cảng
quốc tế Cái Mép-Thị Vải, nằm trong cụm cảng Cái Mép-Thị Vải. Cảng biển Cái Mép-Thị
Vải là cảng nước sâu có tiềm năng, vị trí thuận lợi, tiếp nhận được các tàu có tải trọng lớn.
Khẳng định chủ trương đúng đắn trong đầu tư để cảng trở thành cảng trung chuyển quốc
tế; kết nối, thúc đẩy phát triển của các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm và cả
nước. Ngoài ra, đội tàu biển trong nước đảm nhận gần như 100% lượng hàng vận tải nội
địa bằng đường biển. Theo ông Nguyễn Nhật, Cục trưởng Cục Hàng hải, số lượng tàu
container của VN vận tải nội địa đã tăng từ 19 lên trên 30 tàu. Từ nửa sau 2014, với việc
mở thêm 3 tuyến ven biển Quảng Ninh-Quảng Bình, Quảng Bình–Bình Thuận và Bình
Thuận–Kiên Giang đã tạo thêm cú hích cho vận tải biển. Nhiều người ví đây như tuyến
Quốc lộ IA trên biển. Đặc biệt, lĩnh vực vận tải container luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao
trong những năm qua. Lĩnh vực vận chuyển hàng không cũng gặt hái được những tiến bộ
rõ rệt.
Về hạ tầng thông tin: được đầu tư và phát triển khá nhanh phục vụ cho quá trình
kết nối các hoạt động logistics, từ đó góp phần giảm thời gian vận chuyển, đặc biệt là đem
lại các giá trị gia tăng cho chuỗi cung ứng hàng hóa VN. Trong thời gian qua, dù chưa phát
triển toàn diện nhưng việc ứng dụng CNTT trong hoạt động logistics cũng có vài điểm
sáng. Các nhân viên của VN đã có thể sử dụng các hệ thống thông tin trao đổi, quản lý và
kiểm soát hiện đại trên thế giới như MCS, MODS.
Ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hải quan theo hướng đưa
công nghệ tin học vào quản lý để rút ngắn thời gian thông quan, nhận hàng; tăng cuờng
hậu kiểm, ngành hải quan đã triển khai công tác phân loại hàng hoá theo nguyên tắc phân
loại chung Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu của Tổ chức hải quan thế giới (HS).
Lý do có được những kết quả như trên là bởi, ngành logistics của Việt Nam có
nhiều tiềm năng và thế mạnh. Điểm mạnh của DN trong nước là đại lý cung cấp dịch vụ vì
lợi thế thông thuộc địa hình, nhu cầu. Các công ty lớn như Nike, Intel, Nokia, Samsung…
đã và đang đầu tư nhà máy tại Việt Nam, là cơ hội để cho ngành logistics phát triển. Việt
Nam là nước có hơn 90 triệu dân và có tốc độ phát triển nhanh. Đây sẽ là thị trường lớn để
cho các công ty logistics Việt Nam có thể khai thác và phục vụ khách hàng.
56
Bên cạnh đó, logistics của VN đang trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển.
Chính vì vậy, đây cũng là điều kiện thuận lợi để các DN logistics VN thực hiện ngay từ
đầu việc áp dụng các công nghệ mới, các quy trình tiên tiến trên thế giới. Các DN logistics
của Việt Nam sở hữu phần lớn kho bãi, khiến DN nước ngoài phải thuê lại hoặc liên kết,
liên doanh để phục vụ hoạt động logistics. Họ hiểu được thị trường, tâm lý khách hàng, địa
lý, thời tiết, văn hóa của người bản địa hơn DN nước ngoài. Ngoài ra, VN có bờ biên giới
dài có thể phát triển vận tải xuyên biên giới bằng đường biển.
Đặc biệt có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong việc ban hành, chỉnh
sửa, bổ sung các chủ trương, chính sách và hệ thống văn bản pháp luật về logistics, tạo mọi
điều kiện thuận lợi để ngành logistics VN phát triển; có quan điểm, đường lối đúng đắn
trong việc đầu tư mạnh cho cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và công nghệ thông tin.
2.3.1.2 Hạn chế
Về pháp luật, thể chế: còn sơ sài, một số văn bản không có nguồn luật tham chiếu
nên thường đưa ra quy định: nếu luật quốc tế quy định khác thì áp dụng theo luật quốc tế,
đây là một nguy cơ tiềm ẩn rủi ro, thua thiệt khi mà các DN có thể không nắm rõ luật quốc
tế. Việc thực thi luật cạnh tranh trong lĩnh vực này cũng không được chú trọng, bởi hiện có
quá nhiều biểu hiện của việc kinh doanh không lành mạnh chưa được xử lý triệt để. Nghị
định 140/2007/NĐ-CP ngày 5-9-2007 còn khá đơn giản, thiếu những yếu tố cần thiết để
khuyến khích thương nhân đầu tư, liên kết đầu tư và thực hiện trọn gói chuỗi logistics theo
thông lệ quốc tế. Các luật cũng như các quy định chưa tạo được liên kết ngang. Đó là sự
liên kết giữa các dịch vụ hải quan, ngân hàng, kho bãi… Những cơ quan hữu quan chưa
quan tâm đúng mức, Bộ GT-VT là cơ quan nhà nước quản lý về vận tải nhưng trong Luật
Đường bộ không thấy đề cập đến logistics. Trong việc triển khai, thi hành luật luôn có sự
mâu thuẫn, chồng chéo giữa các cơ quan, gây mất thời gian và chi phí cho các DN.
Ví dụ: Việc khai thác cảng tại TP. Hồ Chí Minh hiện nay như sau: cảng Sài Gòn
thuộc quản lý của Vinalines, Cảng Bến Nghé thuộc UBND TP. Hồ Chí Minh, Tân Cảng
thuộc Bộ Quốc phòng, VICT (liên doanh Sowatco), các cảng cạn (ICD) thuộc Vimadeco,
Gemadept, Transimex…Các dịch vụ hỗ trợ khách hàng liên quan tới Bộ Tài chính, Bộ
57
Công Thương; Việc mua sắm và đấu thầu phải xin giấy phép của Bộ Tài chính; Quản lý
hàng tồn kho, xử lý việc trả lại hàng và giao dịch logistics sửa đổi phải thông qua Bộ Tài
nguyên - Môi trường... Có những hoạt động liên quan tới 3-4 ngành khác nhau, như chọn
địa điểm cho các phương tiện hỗ trợ, xếp hàng vào kho, lưu kho liên quan Bộ Tài chính,
Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Kế hoạch - Đầu tư. Công tác dự báo và
lập kế hoạch nhu cầu của các DN thì liên quan tới Bộ GTVT, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch -
Đầu tư. Việc chuẩn bị hồ sơ làm thủ tục hải quan xuất nhập khẩu liên quan tới Bộ Tài
chính, Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên - Môi trường. Hàng hóa xuyên biên
giới liên quan tới Bộ GTVT, Bộ Tài chính và Bộ Y tế…
Mặt khác, các Bộ, ngành chưa có cơ quan quản lý về ngành logistics một cách tách
bạch, còn xem logistics nằm trong vận tải hoặc xuất nhập khẩu, do vậy về quản lý vĩ mô,
đang thiếu một cơ quan đầu mối để kết nối và kiến tạo ngành logistics trong giai đoạn ban
đầu. Trong vận tải, thực hiện cơ chế phân cấp quản lý theo ngành dọc như Bộ Giao thông
Vận tải, Cục Hàng hải quản lý vận tải biển; Cục Hàng không dân dụng quản lý vận tải
đường không; còn Bộ Công Thương quản lý giao nhận và kho vận. Sự phân cấp trên tạo ra
sự chuyên biệt trong kinh doanh giao nhận và vận tải như là hai lĩnh vực kinh doanh riêng
rẽ, trong khi sự phối hợp của các cơ quan quản lý lỏng lẻo và tốn rất nhiều thời gian. Mặc
dù VN đã có Quyết định số 2599/QĐ-BCĐASW ngày 21/10/2009 về việc thành lập Ban
chỉ đạo Cơ chế một cửa ASEAN, tuy nhiên, việc thực hiện còn vướng mắc vì còn tồn tại
một số thách thức như hệ thống CNTT của các Bộ tương đối khác biệt, chưa có cơ chế chia
sẻ thông tin giữa các bộ và khu vực tư nhân, hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính.
Luật Thương mại VN hiện nay chưa cụ thể hóa quy chế của người chuyên chở
không có tàu (NVOCC-Non-vessel operating of common canìer), việc cấp phép hoạt động
cho các công ty tư nhân của chính quyền địa phương được thực hiện đại trà mà không xem
xét khả năng tài chính, cơ sở vật chất của đơn vị xin cấp phép. Dịch vụ phát chuyển nhanh
hiện nay được coi là dịch vụ bưu điện chứ chưa phải là một lọai hình dịch vụ logistics và
còn chịu sự điều tiết của các nghị định, thông tư về bưu chính viễn thông. Trong giao nhận,
chính quyền Trung ương và địa phương có nhiều quy định làm cho việc thực hiện trở nên
khó khăn và tốn kém hơn như: cấm xe tải hoạt động trong thành phố; phải có giấy phép
58
chuyên chở hàng hóa quá tải, quá khổ; các doanh nghiệp giao nhận vận tải phải có nhiều
loại giấy phép từ các cơ quan khác nhau cho một chuyến hành trình…
Về thủ tục hải quan: Hệ thống thủ tục hải quan ở VN khá phức tạp và chồng chéo.
Cụ thể như cùng một mặt hàng có mã hải quan như nhau thì có thể có những mức thuế suất
áp đặt khác nhau tùy vào từng địa phương. Ngay cả giữa các cơ quan hải quan ở mỗi địa
phương cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau dẫn đến mất thời gian và chi phí của
các DN. Chi phí hải quan cao hơn các nước Châu Á khác như Trung Quốc, Thái Lan,
Malaysia. Hải quan điện tử đang trong quá trình hiện đại hóa và dần hoàn thiện nên các
vướng mắc về thủ tục hải quan xuất nhập khẩu phát sinh từ quy trình thủ công vẫn tiếp tục
gây chậm trễ trong thông quan, làm tăng thời gian, chi phí hành chính. Trình độ cán bộ nhà
nước trực tiếp tham gia quá trình lưu thông hàng hóa còn yếu, nhất là vùng nông thôn.
Hiện tượng tham nhũng còn phổ biến ở mọi cấp hải quan, nhiều cán bộ hải quan quan liêu,
vòi tiền… làm các doanh nghiệp tăng thêm chi phí vô hình để bôi trơn.
Sơ đồ 2.2 So sánh chi phí logistics
Thêm vào đó, dù hệ thống hải quan trực tuyến đã được triển khai nhưng chưa thực
sự đem lại tiện ích cho DN trong nghiệp vụ khai báo hải quan. Từ năm 2010, khi số lượng
các DN tham gia Hải quan điện tử gia tăng thì tình trạng nghẽn mạng đã thường xuyên xảy
ra nên không thể tiến hành làm thủ tục trực tuyến. Năm 2011, Tổng cục Hải quan đã thí
điểm chương trình Thương nhân tín nhiệm. Kết quả là thời gian thông quan nhập khẩu đã
giảm từ 8 - 10 ngày xuống còn 3 - 5 ngày nhưng vẫn cao hơn nhiều nước trong khu vực.
59
Với những tồn tại trên, đánh giá hiệu quả logistics liên quan đến việc thông quan và
thủ tục hải quan của VN là thấp. Thủ tục hải quan ở VN còn rất rườm rà, phải trải qua
nhiều khâu, nhiều cấp quản lý, tỷ lệ kiểm hóa và kiểm định cao. Phần lớn các đánh giá cho
rằng thủ tục hải quan và thông quan của VN chưa minh bạch, chưa đồng bộ...
Bảng 2.10 So sánh hiệu quả của các quy trình xuất nhập khẩu của Việt Nam với Singapore, Malaysia và Thái Lan, năm 2014
Việt Nam Singapore Malaysia Thái Lan
1 1 1 1 0 ngày 1 ngày 4.82% 2.86% 2 2 4 4 1 ngày 2 ngày 1.58% 1%
Số bước trung gian - xuât khẩu Số bước trung gian - nhập khẩu Số lượng hồ sơ - xuất khẩu Số lượng hồ sơ - nhập khẩu Thời gian hoàn thành nếu không cần kiểm hóa Thời gian hoàn thành nếu cần kiểm hóa Tỷ lệ kiểm hóa Tỷ lệ kiểm định nhiều nội dung Tính hiệu quả của các quy trình 3 4 4 4 2 3 2 5 1 ngày 1 ngày 1 ngày 2 ngày 2.5% 53.5% 6.79% 1.58% Tỷ lệ các đánh giá cho là có hiệu quả (cao/rất cao)
100% 100% 100% 100% 85.71% 100% 100% 33.33% 66.67% 33.33% 50% 100% 50% 50% 50%
28.57% 85.71% 66.67% 50%
Tỷ lệ các đánh giá cho là có cải thiện (cải thiện/cải thiện nhiều)
Thông quan và giao nhận trong nhập khẩu 57.14% Thông quan và giao nhận trong xuất khẩu 71.43% 28.57% Tính minh bạch trong thủ thục thông quan Tính minh bạch trong các thủ tục biên giới khác 14.29% Tính đồng bộ và cập nhật 14.29% Thủ tục hải quan nhanh cho các thương nhân có mức độ tuân thủ cao Những thay đổi môi trường logistics từ năm 2011 Thủ tục thông quan Các thủ tục khác Quy định liên quan 28.57% 42.86% 14.29% 57.14% 57.14% 57.14% 100% 100% 0% 50% 100% 50%
Nguồn: Tổng hợp từ Domestic LPI Report, Ngân hàng Thế giới, 2014
Về cơ sở hạ tầng: Hiện nay cơ sở hạ tầng logistics tại VN nói chung còn nghèo nàn,
manh mún và bố trí bất hợp lý; nhiều cảng biển VN không được thiết kế cho việc xếp dỡ
hàng từ tàu chuyên dụng, nhiều cảng chỉ được thiết kế cho hàng rời, không có trang thiết bị
xếp dỡ container. Các cảng không có dịch vụ hàng hải trực tiếp kết nối VN với các cảng
60
biển tại Mỹ hoặc Châu Âu. Tuy số lượng cảng nhiều nhưng hiệu quả hoạt động rất thấp do
đầu tư dàn trải, hàng hóa thông quan ít, thiếu cảng container và cảng nước sâu. Những
cảng nước sâu hiếm hoi và đầu tiên của VN như Cái Mép, Tân Cảng, đã thay đổi thông lệ
trước đây luôn phải chuyển tải hàng hóa xuất nhập khẩu đi Mỹ hoặc EU qua Singapore,
Hongkong. Nhưng đáng tiếc là vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng, vai trò to lớn của
chúng do không có hàng hóa và không thể kết nối với mạng lưới giao thông nội địa.
Hệ thống đường sắt khá lạc hậu với tiêu chuẩn của hầu hết các tuyến đều thấp, chủ
yếu do được xây dựng từ đầu thế kỷ trước. Hệ thống đường sắt Bắc- Nam nhiều lần đã
đuợc nâng cấp nhưng khi có ùn tắc tại một địa điểm nào đó sẽ làm ngưng trệ toàn tuyến do
không có tuyến đường thay thế và đường sắt đôi. Dù thế giới đã phát triển lên dạng đầu
máy chạy bằng điện với tốc độ nhanh hơn và sức kéo lớn hơn nhưng đường sắt VN vẫn sử
dụng đầu máy chạy bằng dầu diesel, khiến cho vận tải hàng hóa kém phát triển.
Hệ thống đường bộ có 53% là đường cấp thấp. Khả năng bảo trì và phát triển đường
bộ còn thấp, đường không được thiết kế để vận chuyển container. Các đội xe tải chuyên
dùng hiện đang lạc hậu; lực lượng xe tải già cỗi, thường xuyên chở quá tải để tăng lợi
nhuận. Hiện tượng tai nạn và ùn tắc giao thông trên các tuyến đường, quốc lộ thường
xuyên xảy ra với mức độ nghiêm trọng. Tình trạng ùn tắc giao thông đã làm tăng chi phí
vận chuyển, giảm hiệu quả hoạt động vận tải đường bộ, tác động xấu đến ngành logistics
và nền kinh tế.
Bảng 2.11 Ước tính chi phí cho ùn tắt giao thông trong vận tải đường bộ ở một số thành phố, vùng miền của Việt Nam (số liệu 2010)
GDP (tỷ USD) Khu vực thành thị
Dân số (triệu người) 87,8 20,0 6,7 14,9 7,5 17,3 GDP (1.000 tỷ đồng) 1.981 475 160 1.050 399 199 104 25 8 55 21 10 Chi phí do ùn tắc (triệu USD) 487 121 97 268 215 68 Chi phí do ùn tắt (% trên mức tổng cả nước) 100% 25 20 55 44 14 Toàn quốc Đồng bằng sông Hồng Hà Nội Đông Nam bộ TPHCM Đồng bằng sông Cửu Long
Nguồn: Ngân hàng thế giới
61
Đường hàng không không đủ phương tiện chở hàng (máy bay) cho việc vận chuyển
vào mùa cao điểm, các sân bay trong nước cũng thiếu các thiết bị phù hợp để bốc dỡ hàng
hóa, thiếu sự đầu tư mới trong khu vực gần các sân bay. Hệ thống kho bãi trên cả nước lại
không phù hợp với hàng hóa xếp dỡ nhanh, trong đó có nhiều kho bãi đã được khai thác
hơn 30 năm qua và không đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Tại khu vực phía Nam, nơi
phát triển kinh tế năng động nhất cả nước, sự yếu kém trong công tác lập kế hoạch và thiếu
đầu tư đã dẫn đến tình trạng ùn tắc hàng hóa đang gặp phải ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Về nguồn nhân lực: nguồn nhân lực logistics của VN hiện nay còn thiếu và yếu do
chưa có chương trình đào tạo bài bản, chuyên sâu. Việc đào tạo gặp nhiều khó khăn và xa
rời thực tế. Nguồn nhân lực được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Đội ngũ quản lý đang
được đào tạo và tái đào tạo để đáp ứng nhu cầu quản lý. Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ,
phần lớn tốt nghiệp đại học nhưng không chuyên. Lực lượng trẻ chưa được tham gia trong
hoạch định đường lối, chính sách. Đội ngũ công nhân lao đông trực tiếp đa số có trình độ
thấp, chưa được đào tạo tác phong làm việc chuyên nghiệp.... Theo khảo sát của Đại học
Kinh tế Quốc dân, nguồn nhân lực logistics chỉ mới đáp ứng được 40% nhu cầu của ngành,
tạo một lỗ hỏng lớn việc phát triển ngành logistics của nước nhà.
Về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics của Việt Nam: nếu xét trên
thang 4 cấp độ cung cấp, phần lớn DN logistics của VN mới ở cấp độ 1, 2. Theo Viện
Nomura của Nhật Bản, DN logistics của VN mới đáp ứng được ¼ nhu cầu thị trường trong
nước năm 2010 và thua kém xa các công ty nước ngoài về nhiều mặt, không có kinh
nghiệm hoạt động trong môi trường quốc tế, không nắm được các khâu quan trọng, yêu
cầu công nghệ và trình độ cao; thiếu liên kết với nhau. Đa số chỉ làm đại lý, thầu lại các
công đoạn dịch vụ với công ty logistics 3PL, 4 PL nước ngoài, cung cấp các dịch vụ đơn
giản, truyền thống như giao nhận, vận tải. Về quy mô của các tổ chức logistics ở Việt Nam
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có những công ty rất nhỏ, vốn đăng ký chỉ vài trăm triệu
đồng, hoạt động manh mún. Các DN Nhà nước hiện đang được cổ phẩn hóa nhưng xu thế
cổ phần hóa hiện nay của các DN đi ngược lại quy luật “tích tụ vốn” và quy luật phát triển.
Về hạ tầng thông tin: vẫn còn kém xa các công ty nước ngoài. Việc liên lạc giữa
công ty logistics với khách hàng, hải quan chủ yếu vẫn là thủ công, giấy tờ. Các DN Việt
62
Nam vẫn chủ yếu sử dụng hình thức trao đổi thông tin truyền thống như: điện thoại, fax,
email. Hiếm có doanh nghiệp logistics của Việt Nam có hệ thống thông tin, phần mềm kết
nối trực tiếp với các đối tác. Công tác lưu kho còn lạc hậu so với thế giới, chưa áp dụng tin
học trong quản trị kho như mã vạch, chương trình quản trị kho.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: ở Việt Nam, logistics còn khá mới mẻ
nên các văn bản pháp luật còn sơ sài chưa thể hiện hết hành lang pháp lý để logistics phát
triển thật sự; thiếu một cơ quan quản lý vĩ mô để kết nối logistics; Nhà nước chưa có chính
sách mở cửa rộng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hoạt động logistics tại
Việt Nam; Còn phân biệt đối xử trong thuế và biểu phí cảng biển; Các quy định về hải
quan của Việt Nam khá rườm rà và thiếu minh bạch, nên mất nhiều thời gian và chi phí;
chính sách đầu tư của Nhà nước cho phát triển cơ sở hạ tầng chưa hiệu quả, tuy đầu tư
nhiều nhưng hiệu quả rất thấp do đầu tư dàn trải, chưa đúng trọng tâm, trọng điểm; chưa có
chính sách thu hút nhân tài, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho ngành, phương tiện lao
động còn lạc hậu; các DN VN quy mô nhỏ, trình độ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ còn
yếu, khả năng tiếp thị quốc tế chưa có, làm việc thiếu chuyên nghiệp, kỷ luật và năng suất
chưa cao, cơ sở hạ tầng thông tin chưa đảm bảo,… Vì thế, không những chúng ta chưa mở
rộng việc cung ứng dịch vụ ra nước ngoài mả còn mất cả thị phần dịch vụ trong nước.
2.3.2 Cơ hội - thách thức trong quá trình hội nhập AEC
2.3.2.1 Cơ hội
Trải qua nhiều năm mở cửa và hội nhập, cũng là từng ấy năm lĩnh vực dịch vụ
logistics của VN có sự phát triển từng bước về cơ sở hạ tầng, khung pháp lý, con người...
DN logistics của VN đã có những cọ xát với những công ty nước ngoài nên đã phần nào
bản lĩnh hơn trong việc tìm ra hướng phát triển cho riêng mình. Năm 2015 lại tiếp tục là
một bước ngoặt to lớn đối với các DN logistics nói riêng và cả ngành logistics VN nói
chung. Cuộc cạnh tranh sẽ quyết liệt hơn khi mà AEC đã được thành lập và đi vào hoạt
động tạo nên một thị trường thống nhất, lúc ấy sức ép còn lớn hơn nữa. Tuy vậy, mỗi khi
chịu sức ép thì các DN logistics của VN lại trưởng thành ra, kinh nghiệm hơn. Do đó, sẽ
mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp logistics của Việt Nam.
63
Khu vực hóa giúp cho các DN logistics của VN có cơ hội phát triển các mối liên
doanh, liên kết, hợp tác trong môi trường kinh doanh lớn hơn; không những thế còn có cơ
hội tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn là những đối tác của ASEAN, vì ASEAN có một
số hiệp định thương mại tự do với các đối tác như Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản,
Trung Quốc và một số nước khác thông qua các thỏa thuận Thương mại tự do (FTAs)
riêng rẽ. Cơ hội tự do hóa thị trường logistics tạo điều kiện cho các DN logistics VN thâm
nhập sâu rộng vào khu vực. Việc thu hút đầu tư nước ngoài được tăng cường đồng nghĩa
quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh và tích cực nhằm phát triển cơ sở hạ tầng.
Khi gia nhập AEC, VN có cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việc
tiếp cận thị trường của VN sẽ được cải thiện bởi môi trường kinh doanh hiệu quả, minh
bạch và dễ dự đoán, cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hải quan, giảm thiểu chi phí cho
các giao dịch thương mại quốc tế sẽ góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh lành
mạnh, thúc đẩy các DN nâng cao khả năng cạnh tranh. Cơ hội tiếp cận thị trường mới dành
cho các nhà xuất khẩu ASEAN được mở rộng với việc loại bỏ các rào cản thương mại và
dịch vụ. Quy tắc xuất xứ linh hoạt, hiện đại, tính minh bạch hóa cao là một số trong nhiều
yếu tố thuận lợi.
Thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp VN sẽ có điều kiện
giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh. Đặc
biệt, khi tham gia vào môi trường AEC, sẽ giúp VN đẩy mạnh cải cách trong nước, đặc
biệt là hoàn thiện thể chế kinh tế và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế.
Đồng thời, VN có cơ hội đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông vào nền hành
chính điện tử với việc Hiệp định khung e-ASEAN đã được ký kết bởi các nhà lãnh đạo
ASEAN vào tháng 11/2000. Do đó, khuyến khích sự tăng trưởng của thương mại điện tử
trong khu vực ASEAN, tự do hóa thương mại trong các sản phẩm CNTT, dịch vụ và đầu
tư, phát triển một xã hội điện tử trong ASEAN, thúc đẩy thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số
trong từng nước thành viên ASEAN.
64
2.3.2.2 Thách thức
Từ những đánh giá ở phần hạn chế trên đây, dễ dàng nhận thấy thách thức lớn nhất
của VN khi tham gia vào AEC là sự chênh lệch về trình độ phát triển ngành logistics so
với các nước ASEAN, thể hiện ở cơ sở hạ tầng, khung pháp lý, nguồn nhân lực, năng lực
cạnh tranh của các DN nội địa. Sự chuẩn bị cho việc mở cửa thị trường logistics và đối phó
với các thách thức khi VN hội nhập AEC hầu như còn thụ động, chậm chạp, rời rạc.
Tuy đã được Nhà nước đầu tư phát triển, nâng cấp trong những năm qua nhưng chất
lượng cơ sở hạ tầng chưa đảm bảo về yếu tố kỹ thuật, nghèo nàn và thiếu đồng bộ, dẫn đến
chi phí logistics của VN còn cao hơn nhiều so với các nước. Thêm vào đó, hạ tầng thông
tin và sử dụng CNTT trong quản trị điều hành, giao dịch điện tử vẫn chưa đáp ứng được.
Bảng 2.12 Khảo sát chất lượng hạ tầng tại các nước ASEAN
Singapore Lào Indonesia Philippines Myanmar Cambodia Thailand Malaysia
Việt Nam (2012)
Việt Nam (2014)
% trả lời thấp/rất thấp
CẢNG
28,57% 57,14%
100% 46,67%
66,67%
33,33%
0%
62,50%
0%
0%
SÂN BAY
53,85% 42,86%
100% 26,67%
66,67%
0%
71,43%
0%
0%
0%
ĐƯỜNG BỘ 69,23% 71,43%
0%
66,67%
66,67%
100%
87,50%
0%
0%
0%
ĐƯỜNG SẮT 84,62% 71,43%
40%
100% 53,33%
100%
100%
87,50%
50%
0%
53,85% 42,86%
0%
100% 33,33%
66,67%
100%
37,50%
0%
0%
23,08% 14,29%
0%
0%
20%
0%
0%
37,50%
0%
0%
HẠ TẦNG KHO BÃI THÔNG TIN LIÊN LẠC
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Các DN logistics của VN sẽ đối mặt với tính chọn lọc, loại trừ lẫn nhau giữa các
DN trong cùng Cộng đồng kinh tế. Khi đó, các DN hoạt động kém hiệu quả sẽ bị loại trừ
khỏi cuộc chơi đầy tính cạnh tranh và khắt khe này. Chưa kể, các DN logistics của VN có
nguy cơ thua ngay trên sân nhà khi các công ty nước ngoài được tự do hoạt động giữa các
nước trong AEC. Hơn nữa, sự khác biệt giữa các luật, các quy định của các nước trong
AEC sẽ gây ra khó khăn cho hoạt động logistics.
Thể chế kinh tế thị trường của VN chưa hoàn thiện, đặc biệt chính sách thương mại
quốc tế. VN chưa có nhiều kinh nghiệm đối phó với các rào cản kỹ thuật mà các đối tác
65
thương mại dựng nên nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Rào cản phi thuế quan là trở ngại
lớn vì đi đôi với xóa bỏ hàng rào thuế quan, các nước sẽ tìm cách dựng các rào cản phi
thuế để bảo vệ sản xuất trong nước, rào cản phi thương mại vẫn còn rất khó để loại bỏ.
Việc cạnh tranh không ngang sức có thể khiến các DN logistics VN bị nước ngoài thôn
tính. Nếu không có phương án, đối sách phù hợp, kịp thời thì việc nhường lại thị phần dịch
vụ logistics của VN cho các tập đoàn nước ngoài là điều khó thể tránh được.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Giao nhận vận tải quốc tế ở VN đã ra đời và phát triển từ những năm 60 của thế kỷ
XX, nhưng hoạt động logistics đến nay vẫn chưa phát triển. Nó mới chỉ ở mức độ cung cấp
dịch vụ giao nhận vận tải cho các DN có nhu cầu. Tuy các tập đoàn logistics lớn trên thế
giới như APL, Schenker, Danzas… đã xâm nhập vào thị truờng VN, nhưng cũng chỉ duới
hình thức là văn phòng đại diện hay chỉ định các công ty giao nhận VN làm đại lý vận
chuyển cho mình. Qua những phân tích về thực trạng phát triển ngành logistics tại VN giai
đoạn 2007-2014, có thể thấy rằng: tuy dịch vụ logistics chưa thực sự phát triển nhưng các
DN đang trong quá trình từng bước khẳng định mình và Chính phủ cũng đã ban hành, sửa
đổi, bổ sung rất nhiều chính sách, nghị định hỗ trợ cho ngành logistics. Bên cạnh những
mặt tích cực, cũng còn tồn tại những mặt hạn chế mà nguyên nhân không chỉ đơn thuần vì
đây là một ngành non trẻ ở nước ta.
Với bờ biển dài hơn 3.000 km và là ngã ba đường giao lưu quốc tế, VN cần phải
có những giải pháp thích hợp để phát triển ngành logistics; cần phát huy tối đa những lợi
thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,… và hạn chế đến mức thấp nhất các mặt tồn tại như
cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém, công nghệ thông tin lạc hậu, chính sách pháp luật chồng
chéo gây cản trở cho việc giao nhận hàng hóa. Có như thế mới góp phần thúc đẩy logistics
phát triển và hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
66
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGÀNH LOGISTICS VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
ĐẾN NĂM 2025
3.1 XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN LOGISTICS TẠI VIỆT NAM
Theo thống kê của Hiệp hội logistics VN, hiện VN có khoảng 1.300 DN hoạt động
trong lĩnh vực logistics với số lượng lao động lên đến 1,5 triệu người. Trong đó, các công
ty điều phối logistics nước ngoài chỉ có khoảng 25 DN hoạt động nhưng chiếm đến 80%
thị phần. Còn lại hơn 1.200 DN logistics nội địa chỉ chiếm khoảng 20%. Các công ty trong
nước phần lớn chỉ hoạt động trong một phân khúc nhỏ của ngành như dịch vụ vận tải, giao
nhận hàng hóa, cho thuê kho bãi, bốc xếp, làm thủ tục hải quan, gom hàng lẻ... Thế nhưng,
có đến 72% trong số này là những DN vừa và nhỏ (quy mô vốn từ 4 - 6 tỷ đồng), nên việc
tổ chức kinh doanh còn manh mún, chưa chuyên nghiệp, nguồn nhân lực cũng hạn chế, chỉ
có 5 - 7% nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, còn lại là do DN tự đào
tạo. Các DN nhỏ thường không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và hệ quả là thị
phần bị thu hẹp. Nguồn lợi hàng tỷ USD này đang chảy vào túi các nhà đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong trong miếng bánh
khổng lồ và đang ngày càng phình to của thị trường logistics.
Tính đến nay đã có hơn 80 công ty là thành viên của Hiệp Hội Giao Nhận VN
(VIFFAS), trong đó một nữa đuợc công nhận là thành viên của FIATA. Ða số các công ty
đều có quy mô vừa và nhỏ, chỉ có một vài công ty nhà nuớc tương đối lớn như: Vietrans,
Viconship, Vinatrans. Hiện nay, các DN logistics của Việt Nam cạnh tranh trực tiếp với
nhau và với các DN logistics nước ngoài với mức độ ngày càng gay gắt chủ yếu về giá và
dịch vụ. Các công ty tư nhân chiếm đa số với tỷ lệ khoảng 70%, tiếp theo là các công ty
nhà nước với tỷ lệ 18%, riêng các công ty nước ngoài chỉ chiếm khoảng 2%, còn lại 10%
67
là các công ty không đăng ký hoạt động kinh doanh. Điều này cho thấy sự năng động cùa
khu vực kinh tế tư nhân trong lĩnh vực dịch vụ logistics.
Sơ đồ 3.1 Thành phần các công ty logistics theo hình thức sở hữu năm 2014
Nguồn: Hiệp hội doanh nghiệp logistics Việt Nam (VLA)
Các DN logistics Việt Nam có năng lực cạnh tranh hạn chế so với các công ty nước
ngoài. Hoạt động của các DN logistics tập trung vào vận tài quốc tế, kho bãi cảng, giao
nhận, trong khi các hoạt động logistics trọn gói, tích hợp (3PL) hoặc vận tải đa phương
thức phần lớn thuộc về các công ty logistics nước ngoài. Do đó, các DN logistics của VN
đang chịu sức ép cạnh tranh rất lớn và thua thiệt ngay cả trên sân nhà.
Đối thủ tiềm ẩn là các DN logistics chưa có trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng
đến ngành trong tương lai. Thực tế cho thấy, sức hấp dẫn của ngành dịch vụ logistics của
VN còn rất lớn. Các DN logistics Việt Nam chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu nội địa và mới
tập trung vào vài ngành dịch vụ trong chuỗi giá trị này. Hơn nữa, trong bối cảnh mở cửa và
hội nhập, các chính sách đã được nới lỏng, môi trường kinh doanh thông thoáng và thị
trường có xu hướng hợp nhất thì các DN logistics nước ngoài có điều kiện thuận lợi tham
gia vào thị trường Việt Nam.
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ hoạt
động của ngành. Ở VN, khách hàng có thể chia làm hai nhóm: khách hàng lẻ và khách
68
hàng lớn. Cả hai nhóm khách hàng này đã gây áp lực với các DN logistics về giá cả, chất
lượng dịch vụ và cải tiến đổi mới.
Khách hàng lẻ là những cá nhân muốn gửi hàng như quà, bưu phẩm tới người thân
ở trong nước hoặc nước ngoài hoặc những khách hàng không thường xuyên sử dụng dịch
vụ của DN logistics.
Khách hàng lớn gồm 3 loại chính: công ty đa quốc gia, công ty cổ phần/tư nhân,
công ty nhà nước.
Công ty đa quốc gia: yêu cầu giá thấp, dịch vụ cao, đây là những công ty có kinh
nghiệm logistics. Sức mạnh đàm phán của loại khách hàng này là khá cao.
Công ty tư nhân/cổ phần: yêu cầu giá thấp, dịch vụ vừa phải. Các công ty phần lớn
mới phát triển ở Việt Nam, ít có kinh nghiệm trong logistics nên quan tâm hàng đầu là giá.
Sức mạnh đàm phán của loại khách hàng này là vừa.
Công ty Nhà nước: hầu như ít thuê ngoài. Sức mạnh của loại khách hàng này là vừa.
Việc ký kết các hiệp định song phương, đa phương và gia nhập các tổ chức kinh tế thế
giới, đặc biệt là nghị định 125/2003/NÐ-CP về vận tải đa phương thức sẽ dần dần phá bỏ
thế độc quyền của các công ty giao nhận vận tải trong nuớc. Các hãng tàu, tập đoàn
logistics của nuớc ngoài sẽ từ bỏ các đại lý địa phương, mở các chi nhánh tại VN để giảm
chi phí hoạt động. Họ sẽ trực tiếp đào tạo nhân lực để nâng cao chất luợng phục vụ. Khi dó
sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty trong nuớc và các tập đoàn logistics hùng mạnh của
nuớc ngoài, sự thôn tính các công ty nhỏ cũng sẽ diễn ra để thành lập những liên kết mới.
Thêm vào đó, chính sách khuyến khích đầu tư nuớc ngoài ngày càng thu hút các tập đoàn
kinh tế đa quốc gia, xuyên quốc gia thành lập các nhà máy sản xuất tại VN như Nike, HP,
Cocacola, LG. Cùng với sự xâm nhập của các tập đoàn này là sự phát triển ngành logistics.
Việt Nam cũng đang xây dựng chương trình Một cửa quốc gia (Vietnam's National
Single Window - VNSW) nhằm tạo thuận lợi tối đa cho thương mại. Cơ chế một cửa quốc
gia (NSWs) sẽ liên kết với nhau thông qua ASW cho phép DN nộp tất cả các văn bản, giấy
tờ liên quan tới hoạt động thương mại về cùng một nơi và cũng chính các cơ quan chuyên
trách sẽ xem xét và đưa ra quyết định ở chính nơi mà DN làm thủ tục. VN hiện đang trong
pha đầu tiên của quá trình phát triển này và cũng thực hiện các ứng dụng hải quan điện tử
69
bao gồm việc nộp giấy tờ, thanh toán thuế và các biên lai thuế. Theo báo cáo của Bộ Tài
chính, riêng việc áp dụng Cơ chế một cửa hải quan quốc gia giảm được 10 - 20% chi phí
và 30% thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu cho DN.
Các DN VN cũng đã bắt đầu thừa nhận logistics như một công cụ sắc bén đem lại
thành công cho DN trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay. Như vậy, ngành
logistics của nuớc ta trong thời gian tới sẽ phát triển theo huớng mở rộng quy mô hoạt
động, nâng cao chất luợng dịch vụ lên ngang tầm tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, khi thị
trường dịch vụ logistics của VN ngày càng tăng trưởng do nhu cầu thuê ngoài từ các công
ty VN càng nhiều, dẫn đến sự cạnh tranh trong nội bộ ngành sẽ ngày càng gay gắt.
3.2 QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH
LOGISTICS VIỆT NAM
3.2.1 Quan điểm phát triển ngành logistics Việt Nam
Sau ba mươi năm thực hiện chính sách mở cửa cùng với việc chuyển đổi nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định huớng xã hội
chủ nghĩa, Nhà nuớc ta đã từng buớc tạo lập những điều kiện kinh tế và cơ sở pháp lý cho
việc liên kết, hợp tác phát triển kinh tế. Đồng thời, cũng đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến hoạt động vận tải, bốc dỡ và giao nhận hàng hoá xuất nhập
khẩu theo chiều huớng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới như: Bộ luật hàng hải năm
1990, Bộ luật Hải quan, Quyết định số 2073/QÐ-GT ngày 6/10/1991, Nghị định
140/2007/NĐ-CP ngày 5/9/2007 xác định điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới
hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, Nghị định số
87/2009/NĐ-CP của Chính phủ đã thay thế cho Nghị định số 125/2003/NĐ-CP trong vấn
đề vận tải đa phương thức…
Về chiến lược phát triển logistics, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định:
“tập trung thực hiện hiệu quả 3 khâu đột phá chiến lược, đặc biệt là đột phá về xây dựng
và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải; đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, chính sách;
triển khai hiệu quả công tác cải cách hành chính và thủ tục hành chính, thu hút các nguồn
70
lực để phát triển hạ tầng giao thông vận tải, tổ chức quản lý, điều hành dự án bảo đảm
tiến độ, chất lượng và hiệu quả đầu tư”.
Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về đối ngoại, hội nhập: “Hội nhập quốc
tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế”, “tận dụng thời cơ, vượt qua
thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị
thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường,
một đối tác cụ thể”, “thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO”.
Từ đó, có thể nêu khái quát các quan điểm của Đảng về phát triển ngành logistics
trong thời kỳ hội nhập như sau:
Một là, phát triển ngành logistics trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có nhiều lợi thế
cạnh tranh với sự tham gia của các thành phần kinh tế.
Hai là, coi ngành logistics là yếu tố động lực, cơ sở hạ tầng thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội trong việc nâng cao sản xuất hàng hóa và mức hưởng thụ hàng hóa của
người tiêu dùng. Logistics cần được ưu tiên đầu tư phát triển đi trước với tốc độ nhanh và
bền vững tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ba là, ngành logistics phải phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự
nhiên của đất nước, đặc biệt là tiềm năng biển để phát triển hệ thống giao thông vận tải
hợp lý, tiết kiệm chi phí trong các hoạt động logistics.
Bốn là, việc quản lý dịch vụ logistics – loại hình dịch vụ tổng hợp và ứng dụng
công nghệ cao, có tính chuẩn hóa đòi hỏi phải tận dụng sự hợp tác và đầu tư quốc tế, sự
tham gia của nhiều ngành như giao thông vận tải, thương mại, hải quan, CNTT,… Nhà
nước, các Bộ ngành có liên quan cần định hướng và hỗ trợ phát triển ngành logistics theo
hướng chuyên nghiệp, có khả năng cung cấp các dịch vụ trọn gói 3PL. Đây là chiến lược
cạnh tranh để phát triển ngành logistics của VN ngang tầm khu vực và thế giới.
Năm là, phát triển bền vững và hiệu quả các loại hình dịch vụ logistics trên các khía
cạnh kinh tế, xã hội và môi trường, đồng thời phải nâng cao năng lực và chất lượng hoạt
động dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
71
Sáu là, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng quốc gia một cách đồng bộ, hợp lý. Vừa
có những bước đi vững chắc, vừa có những bước đi đột phá để nhanh chóng tạo nên mạng
lưới hoàn chỉnh, liên hoàn; kết nối các phương thức GTVT giữa các vùng lãnh thổ, giữa đô
thị và nông thôn trên phạm vi toàn quốc nhằm khai thác hiệu quả các hành lang kinh tế ở
nước ta.
Bảy là, xã hội hóa việc đầu tư cơ sở hạ tầng, huy động tối đa mọi nguồn lực, coi
trọng nguồn lực trong nước, phát triển kết cấu hạ tầng logistics dựa trên sự phối hợp chặt
chẽ và thực hiện đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương nhằm mục tiêu phát triển
logistics bền vững.
3.2.2 Mục tiêu phát triển ngành logistics Việt Nam
Năm 2016, phấn đấu chỉ số môi trường kinh doanh của VN tối thiểu đạt mức trung
bình của nhóm nước ASEAN-4 trên một số chỉ tiêu chủ yếu theo thông lệ quốc tế, cụ thể
là: Đạt mức ASEAN-4 về cải cách hành chính thuế đối với 03 nhóm chỉ tiêu mới là: Kiểm
tra trước hoàn thuế; thực hiện quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế; thời gian và kết
quả xử lý những khiếu nại về thuế; Thời gian nộp thuế và bảo hiểm bắt buộc không quá
168 giờ/năm; Giảm thời gian hoàn thành thủ tục xuất khẩu xuống còn dưới 10 ngày và thời
gian nhập khẩu xuống còn dưới 12 ngày. Đơn giản quy trình, hồ sơ và thủ tục xuất, nhập
khẩu, hải quan; Đơn giản hóa thủ tục, quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp
thương mại xuống còn tối đa 200 ngày (hiện nay là 400 ngày) và 24 tháng (hiện nay là 60
tháng), nhất là đối với các tranh chấp quy mô nhỏ, giữa các DN nhỏ và vừa thông qua Tòa
án; Quy định rõ danh mục hàng hóa, dịch vụ phải kiểm dịch, kiểm tra phù hợp tiêu chuẩn,
chất lượng trước khi thông quan theo hướng tuân thủ các cam kết và thông lệ quốc tế.
Theo Quyết định số 175/QĐ-TTg ngày 27/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của VN đến năm 2020; Quyết
định số 169/QĐ-TTg ngày 22/01/2014 phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ logistics trong
lĩnh vực GTVT VN đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; các định hướng và mục tiêu
phát triển lĩnh vực này trong giai đoạn tới được xác định:
72
- Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng của
khu vực sản xuất và tốc độ tăng GDP.
- Tập trung nguồn lực, đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng và lợi
thế, các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ cao mang lại giá trị gia tăng, làm cơ
sở cho sự phát triển chung của khu vực dịch vụ và nền kinh tế.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các DN kinh
doanh dịch vụ; đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng
cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ.
- Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt
động dịch vụ du lịch, tài chính - ngân hàng, kiều hối, bưu chính viễn thông, vận tải hàng
không, đường biển và bán hàng tại chỗ, giảm thâm hụt cán cân dịch vụ.
- Phát triển hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cả trong và ngoài
nước, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm dịch vụ VN.
- Hình thành một số trung tâm dịch vụ đặc biệt là các trung tâm dịch vụ có quy mô
và có sức cạnh tranh trong khu vực.
Trong đó, lĩnh vực logistics được xác định là lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế cần phát
triển mạnh, là ngành dịch vụ “cơ sở hạ tầng” cần tập trung phát triển có trọng điểm.
Logistics được coi là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển sản xuất, hệ thống phân phối các
ngành dịch vụ khác và lưu thông hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu. Định hướng:
Một là, hình thành dịch vụ trọn gói 3PL.
Hai là, phát triển logistics điện tử (e-logistics) cùng với thương mại điện tử và quản
trị chuỗi cung ứng hiệu quả, thân thiện.
Ba là, cơ cấu lại các DN dịch vụ logistics: giảm số lượng, tăng chất lượng đến năm
2020 tương đương các nước trong khu vực hiện nay (Thái Lan, Singapore).
Bốn là, phấn đấu giảm chi phí logistics ở mức 20% GDP với quy mô khoảng 42-
43% GDP toàn nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.
Năm là, giữ vững tốc độ tăng trưởng trung bình thị trường dịch vụ logistics là 20-
25%/năm, tổng giá trị thị trường dự đoán chiếm 10% GDP vào năm 2020.
Sáu là, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đến năm 2020 là 40%.
73
3.2.3 Phương hướng phát triển ngành logistics Việt Nam
Để đạt được các mục tiêu được nêu ra ở trên, ngành logistics của Việt Nam cần
phải đề ra các phương hướng phát triển như sau:
Thứ nhất: Quy hoạch và xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng phục vụ cho logistics.
Trong điều kiện hội nhập hiện nay, quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng phải dựa trên cơ
sở khoa học và nhu cầu thực tiễn, cân nhắc kỹ lưỡng vì lợi ích quốc gia và ngành, sử dụng
hiệu quả vốn đầu tư, khai thác cơ sở vật chất một cách tốt nhất. Một khi VN có hệ thống
cảng biển, đường xá, bến bãi… hiện đại tầm cỡ trong khu vực thì VN sẽ nâng cao nâng lực
cạnh tranh và giảm bớt được thời gian, chi phí vận chuyển, đem lại lợi ích cho ngành
logistics của Việt Nam.
Thứ hai: Phát triển hạ tầng thông tin. Điểm khác biệt cơ bản giữa một DN giao nhận
vận tải truyền thống và một DN logistics hiện đại là trình độ ứng dụng CNTT vào các hoạt
động của mình. Để phát triển ngành logitsics thì công việc đầu tiên phải quan tâm là xây
dựng hạ tầng thông tin hiện đại, hiệu quả. Ngành logistics Việt Nam phải có tầm nhìn
chiến lược và đồng bộ từ cấp quốc gia đến từng DN.
Thứ ba: Đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ ngành logistics. Nguồn nhân lực luôn
là yếu tố cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của bất kì loại hình dịch vụ nào, không chỉ
riêng ngành logistics. Hiện tại, nguồn nhân lực VN được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp
rất hạn chế. Do đó, VN không thể bỏ qua khâu đào tạo nguồn nhân lực. Bởi vì khi AEC
thành lập, nguồn nhân lực có trình độ, kỹ thuật và tay nghề cao đến từ những nước có nền
kinh tế phát triển (Singapore, Thái Lan, Malaysia) sẽ tràn vào VN.
Thứ tư: Phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN logistics Việt Nam.
Các DN logistics của Việt Nam thường có quy mô vừa và nhỏ, chiếm thị phần nhỏ và chỉ
tập trung vào các dịch vụ vận tải và vận hành các tài sản liên quan như cảng, dịch vụ bốc
dỡ, thủ tục thông quan. Cách thức kinh doanh manh mún, thiếu lành mạnh, đã thế lại hoạt
động đơn lẻ, rời rạc.
Thứ năm: Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho dịch vụ
logistics. Khung pháp lý điều chỉnh dịch vụ logistics phải hướng tới tính minh bạch, thông
thoáng và phù hợp với thông lệ khu vực cũng như quốc tế.
74
Thứ sáu: Quy hoạch và xây dựng các trung tâm logistics tầm quốc gia, khu vực với
quy mô lớn. Các trung tâm logistics sẽ giúp sử dụng hiệu quả các phương tiện vận tải,
giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các DN logistics của Việt Nam
nói riêng và cả ngành logistics nói chung, phát triển các dịch vụ có giá trị gia tăng. Đây là
tính tất yếu của việc phát triển dịch vụ logistics đến cấp độ cao.
3.3 GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH LOGISTICS VIỆT
NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP CỘNG ĐỒNG KINH TẾ
ASEAN ĐẾN NĂM 2025
3.3.1 Nhóm giải pháp chính sách, thể chế
Như đã biết, dịch vụ logistics hiện đại là một chuỗi các hoạt động mang tính hệ
thống liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối đến tay người tiêu
dùng. Nó gồm nhiều lĩnh vực liên quan như giao nhận, vận tải, cảng biển, cảng hàng
không, kho bãi, các dịch vụ trung gian, đại lý môi giới, kê khai hải quan, hỗ trợ xuất nhập
khẩu, giám định, tư vấn… Do đó, để phát triển logistics đúng hướng, một cách đồng bộ,
bài bản và bền vững, VN cần triển khai các giải pháp về nâng cao nhận thức; pháp luật, thể
chế; cơ sở hạ tầng; nguồn nhân lực, DN cung ứng dịch vụ logistics…. Cụ thể như sau:
Tăng cường và nâng cao nhận thức về logistics trong toàn xã hội
Tuy logistics đã du nhập vào VN vài thập niên qua, nhưng nhận thức về khái niệm
và bản chất của logistics còn khá đơn giản và sơ sài. Tình trạng hiểu không đúng, không
đầy đủ và không thấu đáo sẽ dẫn đến vận dụng sai, thực hành không hiệu quả. Chỉ có nhận
thức đúng về logistics thì các DN mới có thể tiến hành các hoạt động logistics đi đúng bản
chất của nó, phát huy được lợi ích mà dịch vụ logistics mang lại, thấy rõ các hạn chế, thiếu
sót của mình để nâng cao hiệu quả kinh doanh và từ đó phát triển cả ngành logistics nước
nhà. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, nhận thức đúng là cách tốt nhất để quản lý
ngành này, đề ra các thể chế, chính sách phù hợp cho sự phát triển. Vì vậy giải pháp trước
hết trong các giải pháp là phải nâng cao nhận thức về logistics cho các chủ thể hoạt động
kinh doanh dịch vụ logistics, các cấp, các ngành, thông qua:
75
Một là: Tăng cường hơn nữa các kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn về logistics
trong đội ngũ nhân lực bằng công tác truyền thông, đào tạo, tổ chức các lớp học dài hạn và
ngắn hạn... Đồng thời, chính đội ngũ nhân lực đó sẽ sáng tạo ra phướng thức phát triển, tìm
ra sản phẩm dịch vụ logistics đủ sức cạnh tranh so với sản phẩm dịch vụ logistics của các
DN nước ngoài.
Hai là: Thường xuyên tiến hành các hoạt động nghiên cứu, tổng kết các giai đoạn
phát triển của ngành logistics, rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc hoạch định
đường lối, chiến lược phát triển ngành logistics trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu
rộng vào thị trường chung AEC.
Ba là: Nâng cao khả năng hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức làm công tác
giáo dục, đào tạo, viện nghiên cứu… để tạo thành mạng lưới thông tin, dữ liệu và kiến thức
thống nhất từ các cấp quản lý đến các DN và cá nhân hoạt động kinh doanh logistics.
Hoàn thiện, đổi mới hệ thống pháp luật, xây dựng thể chế phù hợp yêu cầu hội nhập
Chất lượng của luật, văn bản dưới luật chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra
cho ngành logistics hội nhập vào AEC. Do đó, phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp
luật, tạo căn cứ khoa học, cơ sở pháp lý để đẩy mạnh phát triển ngành logistics. Nhà nước
cần tạo môi trường thể chế và chính sách thuận lợi cho hoạt động logistics. Phải đổi mới,
hoàn thiện và thực thi pháp luật trong phát triển dịch vụ logistics phù hợp với thông lệ
quốc tế và những cam kết mà Việt Nam đã ký. Rà soát những quy định hiện hành có liên
quan đến dịch vụ logistics để bổ sung, điều chỉnh phù hợp và kịp thời nhằm hạn chế tình
trạng mâu thuẫn, chồng chéo, tăng cường tính minh bạch, thông thoáng của pháp luật. Cần
có cơ chế giám sát việc thực hiện pháp luật một cách hiệu quả trong các DN logistics.
Ngoài ra, Nhà nước phải tiếp thu, lắng nghe ý kiến đóng góp, phản hồi của các DN
logistics, các nhà chuyên môn để các văn bản, chính sách đi vào thực tiễn. Cải cách, hiện
đại hóa thủ tục hải quan là một nội dung chính trong chương trình tự do hóa thương mại và
hội nhập khu vực, cũng là một yêu cầu theo cam kết của Việt Nam với AEC. Và hơn nữa
cần phải tiến hành nhanh chóng cho kịp tiến trình hội nhập, cụ thể như sau:
Cần định hướng tập trung nguồn lực vào nghiên cứu, phát hiện và tổ chức triển khai
ứng dụng các nội dung cải cách, dần đưa hoạt động của Hải quan VN hướng đến các chuẩn
76
mực quốc tế. Đưa vào chương trình hành động các nội dung hiện đại hóa quan trọng, phát
sinh trong quá trình triển khai và có ảnh hưởng tới hoạt động của ngành như: Triển khai
đồng bộ và hoàn thiện Thủ tục hải quan điện tử với việc vận hành hệ thống
VNACCS/VCIS; Triển khai công tác quản lý rủi ro; Phát triển quan hệ đối tác Hải quan -
DN; Nâng cao năng lực đội ngũ thực hiện công tác hiện đại hóa và đẩy mạnh công tác
quản trị, điều phối thực hiện các nội dung hiện đại hóa tại các đơn vị trong ngành.
Tiếp tục đẩy mạnh triển khai các nội dung cải cách hiện đại hóa đã được triển khai
hiệu quả và đi vào ổn định trong giai đoạn tới như: Thủ tục hải quan điện tử, kiểm tra sau
thông quan, quản lý rủi ro, hệ thống chỉ số hoạt động... Nâng cao hơn nữa công tác tuyên
truyền về cải cách hiện đại hóa hải quan đối với cán bộ công chức trong, ngoài ngành và
người dân, DN để nâng cao nhận thức về cải cách hiện đại hóa cũng như huy động các
nguồn lực xã hội để tiến hành thành công công cuộc hiện đại hóa ngành Hải quan.
Hiện đại hóa hệ thống hải quan, thực hiện hải quan một cửa, hải quan điện tử, trong
đó có việc phát triển mạnh mẽ hình thức đại lý hải quan bằng việc gia tăng số lượng đại lý
hải quan và xây dựng chế độ ưu tiên về thủ tục hải quan cho các lô hàng xuất nhập khẩu do
đại lý hải quan đứng tên khai, như miễn kiểm hồ sơ và miễn kiểm hàng hóa đối với các tờ
khai do đại lý hải quan đứng tên, đóng dấu.
Thay đổi và tiêu chuẩn hóa các quy định (cấp phép, điều kiện kinh doanh
logistics...), vận tải đa phương thức, công nhận về mặt pháp lý các chứng từ điện tử. Thống
nhất tên hàng và mã hàng hóa. Các quy định về giấy phép người chuyên chở không có tàu
và phân định rõ trách nhiệm của đại lý hải quan, chứng từ xuất nhập khẩu phải phù hợp với
thông lệ quốc tế, cụ thể là các nước ASEAN, khu vực châu Á...
Cần chọn lọc nhà đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở hạ tầng liên hoàn, tạo điều kiện
thông thoáng và hợp lý cho những nhà đâu tư có uy tín và năng lực trong lĩnh vực logistic.
Cải cách nhanh chóng và toàn diện nguồn tài nguyên cho ngành: cảng, sân bay, cảng thông
quan nội địa, đường bộ, đường sắt, kho bãi, trang thiết bị và các định chế có liên quan như
thuế, bảo hiểm, ngân hàng, môi trường... Tất cả các nguồn tài nguyên phải được sắp xếp
một cách hợp lý trong một bản đồ quy hoạch liên hoàn, có khả năng tương tác và hỗ trợ
qua lại lẫn nhau một cách hiệu quả.
77
Đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và nhất quán các quy định pháp luật điều chỉnh
kinh doanh dịch vụ logistics để phục vụ tốt cho việc tạo thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh
tranh của thương mại.
Phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, đảm bảo cho ngành logistics hội nhập
hiệu quả vào AEC
Phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại là điều kiện cần để đảm bảo cho ngành
logistics nước nhà. Cơ sở hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng để các DN có thể thực hiện
các dịch vụ logistics nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng. Ở Việt
Nam hiện nay, phát triển dịch vụ logistics cần tập trung vào các vấn đề chính:
Về vận tải đường biển: VN phải tập trung xây dựng hệ thống cảng biển hợp lý, đảm
bảo tính hiện đại và đáp ứng yêu cầu phát triển. Đặc biệt, cần chú trọng vào việc phát triển
xây dựng cảng container để phục vụ nhu cầu vận chuyển container trong nước và khu vực,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động logistics phát triển. Vận chuyển hàng hóa bằng
container ngày càng phổ biến trong hoạt động giao nhận vận tải, phát triển cảng container
sẽ giúp nâng cao hiệu quả của chuỗi cung ứng dịch vụ cho DN. Nhà nước cần huy động
vốn từ nhiều nguồn khác nhau một cách hiệu quả (vốn trái phiếu, vốn ngân sách, vốn đầu
tư …) để xây dựng, cải tạo các cảng, nạo vét luồng lạch, mua sắm các trang thiết bị xếp dỡ,
sắp xếp hiện đại trong các cảng biển. Phải đa dạng hóa các hình thức xếp dỡ, nâng cao
năng suất xếp dỡ, rút ngắn thời gian làm hàng, đảm bảo an toàn và giảm thiểu chi phí xếp
dỡ. Quy mô bến bãi, cầu tàu phải đủ lớn để việc xếp dỡ hàng hóa, container diễn ra nhanh
chóng và hiệu quả. Việc quy hoạch tổng thể cảng biển phải đáp ứng yêu cầu cân đối cung
cầu, không được để mức cung dư thừa năng suất do tình trạng cấp phép cảng mới bừa bãi
như Cái Mép-Thị Vải. Từ các điểm nút quan trọng trong hệ thống cảng biển, các tuyến
giao thông đường bộ, đường thủy, hàng không, mạng lưới nhà kho, trung tâm phân phối và
logistics sẽ được quy hoạch để hỗ trợ các dòng cung ứng hàng hóa chính trong mạng lưới
thương mại nội địa và quốc tế.
Ngoài xây dựng cảng biển, cần quan tâm xây dựng và phát triển hệ thống cảng cạn
(ICD). Hiện nay hệ thống cảng cạn ở VN có quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu vận
chuyển, xếp dỡ, tiến hành các thủ tục thông quan cho hàng hóa vận chuyển bằng container.
78
Đội tàu biển của VN chỉ mới chiếm một tỷ lệ nhỏ trong việc đáp ứng nhu cầu vận
chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu so với sự phát triển nhanh chóng của nguồn hàng và sự
gia tăng về trọng tải của đội tàu biển trên thế giới. Độ tuổi bình quân của đội tàu VN và
của từng nhóm tàu chuyên dụng còn khá cao. Các tàu này chỉ chạy được các tuyến hàng
hải gần trong điều kiện thời tiết thuận lợi. Do đó, đội tàu cần được trẻ hóa, bổ sung những
con tàu mới hơn, đặc tính kỹ thuật hiện đại hơn, kết cấu hợp lý và phù hợp với từng loại
hàng chuyên chở, có khả năng đi xa ngay cả trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Nhưng
khả năng tài chính của các DN VN quá yếu, không thể tự khắc phục được vấn đề này. Cho
nên Nhà nước phải can thiệp, hỗ trợ các DN bằng các chính sách hỗ trợ đầu tư, bảo lãnh
DN vận tải biển vay vốn ngân hàng. Đồng thời, Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích
nước ngoài đầu tư vốn liên doanh với các DN vận tải biển trong nước, nhưng song song
đó, phải có quy định và quản lý chặt chẽ về tỷ lệ góp vốn đảm bảo quyền lợi cho phía VN.
Theo đó, Nhà nước cần đẩy mạnh tái cơ cấu một số DN hoạt động kém hiệu quả, rà soát,
lựa chọn những ngành nghề lĩnh vực tập trung phát triển. Đặc biệt có những bảo hộ nhất
định đối với đội tàu biển quốc gia mà không vi phạm các cam kết quốc tế: như bảo hộ chặt
chẽ quyền vận tải nội địa. Ngoài ra, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ rà soát quy hoạch vận
tải biển đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trên cơ sở điều chỉnh lại quy hoạch
đội tàu và thị phần vận tải phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam. Nhà nước cần tăng
cường công tác thông tin về hội nhập giao thông vận tải biển khu vực, hướng dẫn các DN
vận tải biển tuân thủ luật pháp VN và các công ước quốc tế khi chạy tuyến quốc tế, từng
bước nâng cao uy tín đội tàu VN trên thị trường vận tải biển. Nhà nước cần có chính sách
khuyến khích các DN xuất nhập khẩu của VN giành quyền vận tải trong các hợp đồng mua
bán ngoại thương để góp phần phát triển đội tàu nước nhà.
Nâng cao kết cấu hạ tầng hiện có bằng cách xây dựng cảng nước sâu và cảng
container trên các vùng. Hình thành các trung tâm logistics đặt ở những đầu mối giao
thông thuận tiện cho việc chuyên chở. Từng bước nâng cấp các tuyến đường bộ trọng yếu,
hình thành mạng lưới đường bộ đồng bộ và hiện đại ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Mở
rộng và hiện đại hóa các đầu mối giao lưu quốc tế, phát triển các trục nối với các nước láng
giềng.
79
Đầu tư phát triển có sự nhấn mạnh đến việc phát triển cảng biển. Hiện nay, 98% vận
tải container đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tập trung ở cảng TP.HCM và Hải Phòng.
Tuy vậy, các cảng này vẫn còn nhiều hạn chế về luồng lạch và độ sâu nên trong thời gian
tới cần xây dựng các cảng biển nước sâu. Mặt khác, cũng cần tiến hành nạo vét và cải tạo
luồng lạch của các cảng hiện có để tăng công suất khai thác của các cảng biển. Trước mắt,
cần tận dụng và khai thác ở mức cao công suất của các cảng biển hiện có bằng cách thúc
đẩy sự cạnh tranh giữa các cảng. Thực hiện sự đổi mới trang thiết bị xếp dỡ hàng hóa, phối
hợp với các phương thức vận tải khác. Thúc đẩy sự cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng tại
các cảng và kết hợp với các chức năng kho hàng hiện đại tại các cảng.
Giải quyết các “nút cổ chai” về kỹ thuật của hệ thống nhằm hướng đến mục tiêu
tăng hiệu quả và giảm chi phí logistics. Đối với kết cấu hạ tầng đường biển thì cần tập
trung nâng cấp hệ thống cảng và đội tàu.
Về vận tải đường sông: Đối với kết cấu hạ tầng đường sông thì cần xây dựng các
cảng trên cơ sở xác định các tuyến chính cùng với việc đầu tư trang thiết bị phù hợp. Tuy
vận tải đường sông mang lại nhiều lợi ích, thế nhưng thời gian qua phương thức vận tải
này đang bị suy yếu do chưa được đầu tư để nâng cấp, mở rộng. Tình trạng VN phụ thuộc
quá nhiều vào đường bộ để vận chuyển hàng hóa khiến chi phí vận chuyển tăng cao, gây ra
các vấn đề giao thông. Cho nên thiết nghĩ Nhà nước cần tăng cường chi tiêu ngân sách để
mở rộng, nạo vét sông ngòi, kênh rạch, xây dựng các bến bãi xếp dỡ hàng hóa ven sông
cũng như kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực này từ các thành phần kinh tế trong xã hội. Nhà nước
cần quy hoạch và xây dựng các hạ tầng cơ sở như xưởng đóng và sửa chửa tàu, cảng vụ,
hoa tiêu; hiện đại hóa các hệ thống báo hiệu phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia và khu vực.
Hiện nay tải trọng trung bình của mỗi tàu hàng vận tải đường sông mới ở mức thấp. Điều
này làm giảm hiệu quả sử dụng nhiên liệu cho mỗi tấn hàng được vận chuyển. Do đó, các
chính sách khuyến khích và tăng cường sử dụng vận tải đường sông sẽ cho phép sử dụng
những tàu thuyền có kích cỡ lớn hơn, từ đó tạo ra hiệu quả kinh tế về quy mô và chi phí
vận chuyển. Đặc biệt, khi sử dụng phối hợp với các phương thức vận tải khác (đường bộ)
và các dịch vụ khác (kho chứa và bốc xếp hàng container) có thể giảm chi phí đáng kể cho
80
chủ hàng. Ngoài ra, các DN vận tải đường sông phải nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo
an toàn và thân thiện môi trường; tạo lợi thế rõ rệt đối với các phương thức vận tải khác.
Về vận tải đường bộ: Đối với kết cấu hạ tầng đường bộ thì tập trung nâng cấp chất
lượng các tuyến đường hiện có, mở rộng mặt đường và tăng tỷ lệ đường được trải nhựa.
Hiện nay, vận tải đường bộ yếu kém, quy định luật pháp chưa phù hợp, các phương
tiện vận tải nhiều nhưng không đồng bộ, quá cũ và chưa có những tiêu chuẩn hóa. Sự phát
triển của các cây cầu, đường giao thông ở Việt Nam không theo kịp tốc độ phát triển kinh
tế - xã hội; nạn kẹt xe tại các thành phố lớn diễn ra thường xuyên. Cùng với sự cạnh tranh
không lành mạnh của một số DN vận tải, tiêu cực phát sinh trong quá trình vận tải đã làm
chi phí tăng lên. Tình trạng phổ biến nhất là chở quá tải, hoặc gom các mặt hàng khác nhau
để vận chuyển nhằm giảm chi phí.
Vì vậy, Nhà nước phải thiết lập hệ thống kiểm tra cấp bằng lái quy cũ và nghiêm
ngặt; kiểm tra phương tiện vận tải và máy móc đảm bảo tiêu chuẩn lưu thông 6 tháng /lần.
Thực hiện giám sát tải trọng ngay tại các cảng nhằm giảm tình trạng quá tải đang diễn ra
nghiêm trọng tại VN. Đồng thời, Nhà nước cần có các chính sách giúp các DN vận tải tiếp
cận các khoản tín dụng để thay mới các loại xe cũ, không đủ tiêu chuẩn. Tăng cường xây
dựng và nâng cấp cầu đường, hoàn thiện hệ thống biển báo giao thông, nghiên cứu mở
rộng các trục đường quan trọng để giảm ùn tắc và tiết kiệm thời gian vận chuyển hàng hóa.
Một vấn đề cần cải thiện là tỷ lệ xe lượt về không có hàng cao. Các chủ xe dễ có lợi hơn
nếu đảm bảo được tỷ lệ cao chuyến về có hàng, từ đó tăng tỷ lệ sử dụng phương tiện, dàn
đều chi phí hoạt động cố định. Như vậy, không những tăng được mức lợi nhuận trong vận
tải đường bộ mà còn giảm ùn tắc vì sẽ cần ít xe hơn để vận chuyển cùng một lượng hàng.
Về vận tải đường sắt: Đối với kết cấu hạ tầng đường sắt thì tập trung cải tạo và nâng
cấp các tuyến hiện có, nghiên cứu và xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam.
Trong suốt nhiều năm qua, VN đã chứng kiến sự trì trệ, lạc hậu của ngành vận tải
đường sắt. Ngân sách cùa Nhà nước eo hẹp, không đủ sức để đầu tư nâng cấp hệ thông
đường sắt. Việc thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển đường sắt, xã hội hóa đầu tư vào các
hoạt động bảo trì, khai thác hạ tầng là những việc phải ưu tiên trước mắt. Đồng thời, Nhà
nước không nên cho phép Tổng công ty đường sắt Việt Nam nắm quá nhiều quyền hành:
81
đơn vị kinh doanh vận tải của Nhà nước, một cơ quan cấp phép đầu tư tư nhân, cơ quan
phân bổ biểu đồ tàu chạy, DN trực tiếp kinh doanh vận tải đường sắt. Các tuyến đường sắt
hiện có phải được được tập trung đầu tư nâng cấp, trong đó ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa
tuyến đường sắt Bắc-Nam theo tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Đầu tư mua sắm các đầu
máy hiện đại, các toa xe chuyên dụng để vận chuyển hàng hóa hiệu quả.
Về vận tải đường hàng không: Mặc dù có phát triển và cải thiện, nhưng cơ sở vật
chất, công nghệ, kỹ thuật cũng như trình độ quản lý và nhân lực của Hàng không VN vẫn
chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của ngành vận tải hàng không thế giới. Do vậy, khả
năng cạnh tranh còn thấp, chưa phát huy hết được tiềm năng. Cho nên vận tải hàng không
VN cần sớm đẩy nhanh điện tử hóa về giấy tờ và bắt kịp công nghệ cao của thế giới. Các
đối tác trong chuỗi cung ứng cần kết hợp chặt chẽ với nhau trong quy trình vận chuyển
hàng hóa. Ngoài ra, trong vận chuyển hàng hóa thì điều quan trọng nhất là phải đảm bảo
tuyệt đối an ninh, an toàn. Có như vậy các hãng hàng không VN mới khai thác tốt dịch vụ
hàng hóa, thu hút được nhu cầu vận chuyển từ nước ngoài cũng như các khách hàng tại
VN. Nhà nước phải có những chính sách thiết thực trong việc đầu tư mở rộng hạ tầng sân
bay, mua sắm các máy bay hiện đại, cũng như thay đổi công nghệ để tiết kiệm chi phí và
nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng
đào tạo nguồn nhân lực đạt tiêu chuẩn quốc tế. Không chỉ nhân lực cho quản trị mà từ
nhân viên lái xe, thủ kho, lái cần cẩu, máy bay cũng thế.
Chính phủ nên cho phép Hiệp hội thu xếp đứng ra tổ chức nghiên cứu, đầu tư, xây
dựng khu vực dành cho các đại lý gom hàng, khai quan tại khu vực các sân bay quốc tế
như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Xây dựng nhà ga hàng hóa chuyên dụng với
các khu vực giao hàng, tiếp nhận, chuyển tải... theo các quy trình nghiệp vụ như các nước
trong khu vực đã và đang làm như Thái Lan, Singapore và Malaysia. Hiện đại hóa các kho
chứa hàng và phân phối.
Về kho bãi: Ở VN hiện nay, đa phần hệ thống kho bãi của các DN logistics chưa
đảm bảo được tiêu chuẩn thế giới, có rất ít kho bãi, các trung tâm phân phối ở VN đáp ứng
được nhu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng, đặc biệt là công ty đa quốc gia sản xuất
và phân phối hàng hóa tại VN. Hệ thống kho bãi giúp bảo quản tốt thành phẩm, bán thành
82
phẩm, nguyên vật liệu, hàng hóa… làm giảm bớt hao hụt, hư hỏng, mất mác. Chính vì vậy,
Nhà nước phải hết sức lưu tâm trong việc phát triển hệ thống kho bãi, có chính sách cho
vay vốn ưu đãi, giảm thuế cho DN, miễn giảm tiền thuê đất xây dựng kho bãi. Đầu tư
nghiên cứu kho bãi tiên tiến trên thế giới rồi lấy làm tiêu chuẩn để kho bãi của VN hướng
đến một cách phù hợp. Quy hoạch và bố trí kho bãi cạnh các đường quốc lộ, các tuyến
đường thủy nội địa, ga đường sắt để tận dụng giải pháp vận chuyển đa phương tiện.
Phát triển nguồn nhân lực với chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập
AEC
Trước thực trạng nguồn nhân lực logistics của VN được xem là không chính quy,
bài bản và việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành này chưa được chú trọng, Nhà nước
phải khẩn thiết đẩy mạnh biện pháp phát triển nguồn nhân lực phù hợp với nền kinh tế hội
nhập. Cần phải coi trọng việc phát triển nguồn nhân lực logistics của VN là một chiến lược
liên tục và lâu dài.
Bộ Giáo dục và đào tạo cần khuyến khích mở thêm nhiều bộ môn và khoa logistics
trong các trường đại học, cao đẳng; hỗ trợ những nơi này xây dựng các chương trình, giáo
trình được chuẩn hóa, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Cần tập trung cho nguồn nhân lực
có kỹ năng, trình độ cao, có kiến thức về pháp luật và thái độ làm việc chuyên nghiệp
trong môi trường hội nhập.
Hỗ trợ các khóa tập huấn trong và ngoài nước để nâng cao trình độ, liên tục mở các
lớp bồi dưỡng, bổ sung kiến thức logistics cho người đã đi làm, các cán bộ quản lý để cập
nhật kiến thức do ngành logistics biến đổi rất nhanh.
Đào tạo và tái đào tạo, chương trình đào tạo phải được cập nhật, đổi mới. Hiệp hội
cần sự hỗ trợ ngân sách cũng như tranh thủ các nguồn tài trợ của chính phủ, Bộ Công
Thương, Bộ GTVT trong công tác đào tạo nghề logistics ở Việt Nam.
Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển
ngành logistics
Vốn đầu tư luôn là nguồn lực khan hiếm. Do đó, huy động vốn đủ mạnh, có chất
lượng cao và sử dụng có hiệu quả để đẩy mạnh phát triển dịch vụ logisics không phải là
công việc đơn giản. Nhà nước phải huy động tổng lực các nguồn vốn trong nước và ngoài
83
nước. Vốn đầu tư của Nhà nước là vốn mồi, tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, cải cách thủ
tục hành chính, nghiên cứu phát triển tầm vĩ mô. Ngoài ra còn phải huy động vốn đầu tư từ
nước ngoài và đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư. Nhà nước cần nâng cao sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư, không đầu tư dàn trải mà tập trung vào các lĩnh vực cần thiết.
Tăng cường xây dựng và phát triển hạ tầng thông tin cho ngành logistics
Việc ứng dụng, kết nối hạ tầng thông tin giúp cho dịch vụ logistics hoạt động hiệu
quả và có năng suất. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin để phục vụ cho phát triển dịch vụ
logistics bao gồm: mạng lưới thông tin phục vụ sản xuất kinh doanh, trao đổi dữ liệu điện
tử, hệ thống Internet...
Trước hết, Nhà nước cần đẩy nhanh việc thiết lập hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử-
công nghệ đang áp dụng trong kinh doanh. Cần chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử trong thương
mại/khai quan điện tử (EDI) để tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại
năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong
thương mại, xuất nhập khẩu và hải quan. Để phát triển hệ thống Internet, Nhà nước cần có
kế hoạch đẩy mạnh hiện đại hoá hệ thống truyền thông, gia tăng tốc độ đường truyền...
đảm bảo thông tin được truyền đi nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi cho dịch vụ
logistics, nâng cao hiệu quả cung ứng cho các doanh nghiệp.
Các DN cũng cần xây dựng cho mình chiến lược công nghệ, đầu tư hạ tầng thông
tin hiện đại, trang bị thiết bị và nối mạng đồng bộ; sử dụng các chuyên gia có khả năng
quản trị thông tin mạng. Có như vậy, các DN logistics của Việt Nam sẽ nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động logistics, giảm chi phí đáng kể.
Khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin trong họat động logistics. Thực
hiện các phương pháp công nghệ logistics tiên tiến như quản trị chuỗi cung ứng (supply
Chain management-SCM) hay giao hàng đúng thời điểm (JIT), trong thiết kế luồng vận tải
nhiều chặng và sắp xếp các công đoạn trong dây chuyền cung ứng dịch vụ logistics.
Xây dựng, hoàn thiện chiến lược phát triển ngành logistics với tầm nhìn dài hạn và
trong điều kiện hội nhập
84
Bất cứ một ngành nào cũng cần phải có chiến lược phát triển, ngành logistics cũng
không phải là một ngoại lệ. Xây dựng chiến lược phát triển giống như là kim chỉ nam để đi
đến đích. Xét về phương pháp luận, cần tập trung vào các công việc sau:
Xác định tầm nhìn phát triển ngành logistics với điều kiện hội nhập AEC trong
trung hạn và dài hạn. Xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển ngành logistics theo
hướng hiện đại, có chất lượng, đủ sức cạnh tranh và hội nhập.
Tiến hành quy hoạch, xây dựng kế hoạch phát triển cụ thể, phù hợp với quy hoạch
và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Phải xác lập các chỉ tiêu sát thực tiễn
với tiến trình vận động và phát triển của ngành logistics trong khu vực và thế giới. Ngoài
ra, xây dựng các chỉ tiêu phản ánh cả về mặt định tính lẫn định lượng.
Tổ chức, triển khai thực hiện chiến lược phát triển ngành logistics, phát huy tối đa
và sử dụng tối ưu các nguồn lực. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược này.
Ngoài ra, cần dựa trên cơ sở:
Phát huy tốt tiềm năng, lợi thế phát triển ngành logistics.
Xác định rõ tính liên ngành, bảo đảm tính hiện đại, hài hòa, thống nhất và phù hợp
với tiến trình phát triển chung của nền kinh tế.
Bảo đảm thực hiện thành công chiến lược phát triển, với hiệu quả kép: hiệu quả
kinh tế gắn với hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường .
Xác định đúng vị trí, vai trò của Nhà nước trong hoạch định phát triển ngành
logitics. Phát triển toàn diện mô hình logistics là giải pháp hết sức cần thiết đối với Việt
Nam hiện nay. Cụ thể:
Cần đầu tư và nâng cấp hạ tầng giao thông vận tải, khuỵển khích vận tải container
đường sắt, chú trọng đầu tư xây dựng cảng nước sâu trung chuyển trong khu vực. Hoàn
thiện công tác xây dựng cơ sở hạ tầng (đường biển, đường không, bộ, sắt...). Sắp xếp lại
cảng trên cơ sở dài hạn. Lập trung tâm logistics (phân phối) tại các vùng trọng điểm kinh
tế để tập trung hàng xuất và phân phổi hàng nhập khẩu hay thành phẩm. Xây dựng một
mạng lưới phân phối giữa chủ hàng, công ty giao nhận hệ thống chi nhánh, nơi phân phối
cuối cùng. Đồng thời với các trung tâm phân phối là các hệ thống kho gom hàng.
85
Ngoài ra, cần thiết phải có một tổ chức cấp nhà nước quản lý, chỉ đạo thống nhất
các hoạt động của ngành logistics phục vụ thương mại trong cả nước bao gồm cả DN VN
và DN có vốn đầu tư nước ngoài. Đó là hình thành Ủy ban quốc gia logistics làm đầu mối
để kết nối và kiến tạo logistics. Tổ chức này thực sự là cầu nối giữa DN và nhà nước trong
việc hoạch định chiến lược, chính sách và các chương trình hành động phát triển ngành
logistics của nước ta gắn liền với phát triển sản xuất, thương mại và xuất nhập khẩu.
3.3.2 Nhóm giải pháp tác nghiệp
3.3.2.1 Nâng cao năng lực tài chính của các DN logistics Việt Nam
Tăng vốn kinh doanh
Hầu hết các DN logistics của VN có quy mô rất nhỏ, vốn ít, vốn điều lệ bình quân
trên dưới 5 tỷ đồng/doanh nghiệp. Vốn là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ DN nào để tồn tại
và phát triển. Vì vậy, các DN logistisc của VN muốn mở rộng kinh doanh, quy mô để phát
triển thì phải cần tăng vốn của mình. Các DN logistics của VN nên liên kết, liên doanh với
các DN khác, cổ phần hóa để huy động các nguồn vốn trong xã hội.
Việc tăng vốn kinh doanh của các DN logistics trong nước có thể thông qua nhiều
biện pháp như: số vốn được trợ giúp, bổ sung từ ngân sách nhà nước, bổ sung từ nguồn lợi
nhuận để lại hàng năm, từ quỹ dự phòng của DN, phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh
nghiệp để huy động vốn.
Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp
- Quản lý nợ hiệu quả hơn bằng cách thành lập Ban quản lý công nợ của DN
- Quản lý tốt tình hình luân chuyển vốn lưu động, có thể bằng cách: lập kế hoạch sử
dụng các sổ sách kế toán hợp lý; giảm thiểu vật tư, các loại hàng hoá tồn kho.
- Giảm số dư nhàn rỗi. Để thực hiện điều này DN phải chu chỉnh việc chấp hành các
quy chế tài chính về quản lý số dư; kiểm tra, đôn đốc việc quyết toán của đại lý.
- Phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống ngân hàng thông qua các vĩnh vực: sử dụng
dịch vụ thu tiền hộ của hệ thống ngân hàng; khuyến khích thanh toán qua ngân hàng; sử
dụng dịch vụ chuyển tiền tự động của ngân hàng.
86
3.3.2.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN logistics Việt Nam
Phát triển dịch vụ cung ứng logistics chuyên ngành
Khi AEC chính thức thành lập, một thị trường chung nhất mở ra, các DN logistics
của các nước cùng khối sẽ tràn vào VN, thị trường logistics của VN cũng chính là của họ.
Nhìn vào thực tế, trong thời gian ngắn, các DN logistics của VN chắc chắn không thể
thắng được những đối thủ đến từ các quốc gia có chỉ số LPI cao hơn như Singapore, Thái
Lan với kinh nghiệm, công nghệ hiện đại và mạng lưới hoạt động rộng.
Tuy nhiên, các DN logistics của VN có lợi thế sân nhà, am hiểu thị trường trong
nước và những vấn đề đang tồn tại của các nhà kinh doanh, sản xuất trong nước. Các DN
logistics của các nước cùng khối tuy có thể có vốn nhiều hơn, công nghệ hiện đại hơn
nhưng không thể nào am hiểu được về từng ngành hàng, mặt hàng ở từng quốc gia bởi vì
mỗi nước có những quy định và cung cầu khác nhau. Các DN logistics theo hướng chuyên
ngành sẽ giúp ích cho các nhà sản xuất, kinh doanh được nhiều hơn trong các dịch vụ giá
trị gia tăng.
Phát triển các loại hình dịch vụ logistics là yêu cầu rất quan trọng khi phần lớn DN
logistics VN chỉ tập trung khai thác các mảng nhỏ trong chuỗi cung ứng dịch vụ logistics,
mà hình thức phổ biến nhất là hình thức giao nhận vận tải. Đây chỉ là một phần rất nhỏ
trong toàn bộ chuỗi giá trị gia tăng logistics. Các DN cần phát triển thêm các dịch vụ đa
dạng như giao nhận hàng không, giao nhận hàng hải, gom hàng nhanh, quản lý đơn hàng…
Để có thể tiếp cận việc cung ứng các dịch vụ mới, các DN logistics cần đảm bảo chất
lượng dịch vụ và giảm giá thành các dịch vụ đang cung ứng bằng cách như đầu tư nâng
cấp cơ sở hạ tầng cũ, mua sắm các trang thiết bị chuyên dụng mới, áp dụng các phương
pháp quản trị logistics tiên tiến, áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng hiện đại… Trong quá
trình hoạt động và phát triển, các DN cần nhất quán chiến lược đa dạng hóa các loại hình
dịch vụ cung cấp cho khách hàng, hướng tới dịch vụ trọn gói và tham gia vào toàn bộ
chuỗi cung ứng của khách hàng.
Xu hướng đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung ứng của DN logistics cần tập
trung vào 3 khâu chính là: Đảm nhận việc đóng gói, phân loại hàng hóa cho các DN xuất
87
nhập khẩu; đồng thời cung cấp dịch vụ kiểm kê, phân phối hàng hóa đến đúng địa chi tiếp
nhận; cuối cùng, đầu tư, xây dựng hợp lý, có hiệu quả hệ thống kho bãi của DN...
Tái cơ cấu chuỗi cung ứng nhằm nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh của
thương mại VN, đặc biệt là xuất khẩu và chủ động tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Việc tái cơ cấu chuỗi cung ứng của các DN xuất nhập khẩu sẽ gắn kết, tạo điều kiện và
thúc đẩy mạnh mẽ việc phát triển dịch vụ logistics, nhằm giúp các DN logistics Việt Nam
có đủ năng lực và chuyên nghiệp để tư vấn cho khách hàng các giải pháp logistics tốt nhất
phù hợp đặc thù chuỗi cung ứng của từng khách hàng.
Phát triển đa dạng các loại hình DN cung ứng dịch vụ logistics cả về hình thức, quy
mô, phương thức hoạt động… Cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính cũng như các điều
kiện tham gia và rút lui khỏi thị trường để có thể huy động nhiều hơn các nhà đầu tư và các
DN tham gia vào thị trường này.
Phát triển nhu cầu logistics
Để phát triển nhu cầu logistics thì cần phát triển hướng vào các nhóm công ty chính
là công ty trong nước, công ty xuất nhập khẩu và công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Theo
đánh giá của WB, VN có chỉ số LPI ở mức trung bình khá cho thấy ngành logistics tại VN
vẫn còn hứa hẹn nhiều tiềm năng với tốc độ tăng trưởng cao. Kim ngạch xuất nhập khẩu và
tổng mức bán lẻ hàng hóa ở mức cao cho thấy đây là những yếu tố thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển của lĩnh vực logistics. Do các DN có vốn đầu tư nước ngoài đã bị chiếm lĩnh bởi
các DN logistics nước ngoài nên thị trường chứa đựng nhu cầu mà các công ty logistics
VN có thể chiếm lĩnh là các DN trong nước và các công ty xuất nhập khẩu. Để có thể phát
triển được thị trường, thì điều rất quan trọng là các công ty trong nước cần phải nâng cao
nhận thức của các DN này về lợi ích của dịch vụ logistics. Hiện nay, nhiều DN trong nước
vẫn còn chưa nhận ra được lợi ích của logistics trong việc giảm chi phí kinh doanh.
Tại VN, hàng hóa phải đi qua rất nhiều khâu trung gian và do đó, làm tăng chi phí
giao dịch và tăng giá bán. Mặt khác, các DN cũng chưa có thói quen sử dụng dịch vụ thuê
ngoài mà chủ yếu là tự làm. Khi DN tự mình thực hiện các hoạt động logistics thì sẽ tốn rất
nhiều vốn đầu tư và không đạt được chất lượng cao. Thay đổi thói quen bán FOB mua CIF
làm suy yếu các công ty logistics VN. Chủ hàng Việt Nam cần chủ động và tận dụng lợi
88
ích của việc thuê ngoài logistics cũng giúp các doanh nghiệp thương mại, xuất nhập khẩu
cắt giảm chi phí, tiết kiệm các khoảng đầu tư, nhân lực không cần thiết nhằm có điều kiện
tập trung vào kinh doanh cốt lõi của mình.
Rà soát, khắc phục những yếu kém còn tồn tại
Các DN logistics của VN trong suốt nhiều năm qua luôn bị xem là yếu và thiếu về
nhiều mặt. Vì vậy, cần phải nhận ra và xóa bỏ hình ảnh tiêu cực này bằng cách khắc phục
những yếu kém sau:
- Tăng cường nhận thức và kiến thức cho đội ngũ nhân lực bằng cách đào tạo thực tế,
bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức pháp luật Việt Nam và quốc tế.
- Cần đầu tư công nghệ, cơ sở vật chất, trang thiết bị xếp dỡ đảm bảo cung cấp dịch
vụ logistics có chất lượng và tính cạnh tranh cao.
- Ra sức tích lũy vốn kinh doanh để ngày càng mở rộng DN.
- Tạo quỹ nghiên cứu và phát triển nhằm nâng cao sản phẩm dịch vụ.
- Xóa bỏ cách kinh doanh manh mún, chợp giật, đấu đá nhau.
- Xây dựng chính sách phát triển các nguồn lực nội sinh, phát huy những thế mạnh
mà mình có.
Tăng cường sự kết nối, hợp tác giữa các DN logistics của Việt Nam
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt từ những đối thủ ngoại mạnh hơn, chỉ có hợp
tác và kết nối với nhau thì các DN logistics của VN mới có cơ hội tồn tại và phát triển.
Liên kết các DN có thể thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu
chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ. Các DN logistics 3PL cần liên kết với các DN
logistics 2PL để hoạt động hiệu quả hơn. Đồng thời, các DN logistics 3PL nên liên kết với
nhau để thâm nhập thị trường các nước trong AEC và ứng dụng truyền tải dữ liệu điện tử
EDI.
Tăng cường sự liên kết các doanh nghiệp logistics với nhau để có những doanh
nghiệp có đủ quy mô, đủ điều kiện cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại trong khu
vực và trên thế giới. Muốn kinh tế hội nhập, muốn tạo ra một khu vực tự do dịch vụ thì bản
thân các doanh nghiệp Việt Nam phải có đủ năng lực để cung ứng dịch vụ trong nước
trước khi các doanh nghiệp nước ngoài giành mất thị phần của họ.
89
Hiện nay, do các DN logistics VN còn quy mô nhỏ, năng lực hạn chế nên các DN
VN chủ yếu cung cấp dịch vụ một cách đơn lẻ. Do đó, trong thời gian tới, các DN cần tăng
cường liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài khi cung ứng dịch vụ để quá trình
cung ứng dịch vụ logistics là đầy đủ theo một quy trình chuẩn. Việc các DN VN tham gia
liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho các DN,
giúp các DN học hỏi được kinh nghiệm quản lý, phương pháp quản lý hệ thống logistics,
có được sự hỗ trợ về mặt tài chính, tiếp cận thị trường rộng lớn hơn…
Thiết lập cơ chế liên kết hữu hiệu giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và
logistics. Để có sự liên kết thường xuyên và hữu hiệu, các doanh nghiệp logistics cần chủ
động nắm vững nghiệp vụ chuyên ngành thương mại, các quy tắc, các hiệp định thương
mại song phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết. Thường xuyên trao đổi thông tin có
liên quan để giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và logistics nắm bắt tình hình, hỗ
trợ nghiệp vụ tiến tới xây dựng cổng thông tin giao dịch logistics tại mỗi khu vực phục vụ.
Các DN logistics của Việt Nam cần liên kết với nhà sản xuất, kinh doanh, tận dụng
sự giúp đỡ của họ với tư cách là nguồn cầu dịch vụ, chủ động nắm bắt được nhu cầu và từ
đó có phương án thực hiện phù hợp. Các DN phải phấn đấu để hình thành cho được liên
kết dọc theo chuỗi dịch vụ cung ứng: DN vận tải - DN kho bãi – DN cảng và các đại lý,
môi giới hải quan. Chuỗi liên kết ngang gồm các DN kinh doanh cùng loại hình dịch vụ để
tạo ra nhà cung ứng đủ lớn, đáp ứng nhu cầu của các người thuê dịch vụ. Sự liên kết này sẽ
tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DN logistics VN không
chỉ trên thị trường nội địa mà ngay cả trên thị trường các nước bạn trong AEC.
Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, giao dịch đối với dịch vụ logistics
theo hướng phát triển E-logistics
Ở khía cạnh quản lý, việc đưa vào sử dụng hệ thống máy tính, cũng như các phần
mềm quản lý DN là hết sức cần thiết. Việc đầu tư vào hệ thống phần mềm quản trị, quản lý
nguyên vật liệu, kho bãi…cũng mang lại hiệu quả cao, nhanh chóng trong việc tìm kiếm
nguồn hàng, tuyến đường vận chuyển... Hơn thế nữa, các hoạt động kinh doanh của DN
cũng có thể được kiểm soát chặt chẽ và khoa học hơn.
90
Ở khía cạnh giao dịch, nói đến hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong các DN
logistics thì chắc chắn E-logistics là một minh chứng sinh động vì ứng dụng này sẽ giúp
gia tăng doanh số một cách rõ ràng... E-logistics ra đời là kết quả của xu hướng dịch
chuyển từ thương mại truyền thống sang thương mại điện tử. Các việc xử lý đơn hàng,
thực hiện đơn hàng, giao hàng, thanh toán, thu hồi hàng hóa… có thể được thực hiện trong
môi trường thương mại điện tử.
Thành lập liên doanh với các DN logistics của các nước trong AEC để từng bước
tiếp cận thị trường dịch vụ logistics của các nước đó.
Trong kinh doanh, vị thế của các DN thay đổi rất nhanh, cho nên mở rộng thị
trường khiến cho các DN tránh được tình trạng bị tụt hậu, giúp DN tồn tại và phát triển.
Các DN logistics của VN muốn phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh thì trước hết phải
phát triển thị trường kinh doanh dịch vụ. Để đạt mục đích này, các DN logistics của VN
phải liên doanh với các DN nước ngoài, tận dụng hệ thống cơ sở vật chất của họ ở nước
ngoài để từng bước hình thành hệ thống kinh doanh của mình ở đó. Kế đến tìm cách thiết
lập và phát triển các mối quan hệ đối tác ở nước ngoài. Trên cơ sở vững chắc, lâu dài, các
DN logistics của VN thiết lập các văn phòng đại diện, giúp thực hiện hoạt động nghiên cứu
thị trường, cung cấp thông tin, hỗ trợ DN tiếp cận với thị trường và đối tác mới. Chẳng hạn
như, Vietfracht thông qua các công ty thành lập ở Nhật, Hàn Quốc, Singapore… đã hình
thành hệ thống đại lý và tiếp cận với khách hàng nước ngoài.
3.3.3 Khuyến nghị đối với Chính phủ
Thứ nhất, thành lập thêm các trường đại học, ngành học về logistics theo hướng
chính quy, chuyên nghiệp.
Thứ hai, ra sức tuyên truyền, phổ biến kiến thức về logistics trong xã hội, tránh hiểu
không đúng rồi vận dụng sai.
Thứ ba, nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các DN logistics, khảo sát tính
thực tiễn trước khi ban hành các văn bản pháp luật liên quan dịch vụ logistics.
Thứ tư, nâng cao điều kiện cấp phép thành lập cho các DN đăng ký kinh doanh dịch
vụ logistics, quy định chặt chẽ về việc làm sao để được gọi là DN kinh doanh dịch vụ
91
logistics. Bởi vì trên thực tế, các DN trên danh nghĩa kinh doanh dịch vụ logistics nhưng
chỉ tham gia vào một phần nhỏ công việc của chuỗi logistics.
Thứ năm, cần phải có cơ quan chủ quản cấp quốc gia về dịch vụ logistics đóng vai
trò như nhạc trưởng, đề ra các phương hướng, chiến lược phát triển; thống nhất và chuẩn
hóa các quy trình, thủ tục, công tác đào tạo nguồn nhân lực…; tạo sự kết nối trong đầu tư
cơ sở hạ tầng, hiệu quả đồng bộ công tác quy hoạch.
Và cuối cùng Chính phủ cũng cần có thay đổi về quy định quyền của các công ty
liên doanh và DN nước ngoài về dịch vụ logistics trong việc tham gia vào các hiệp hội
trong nước. Theo quy định hiện nay các DN dịch vụ logistics có yếu tố nước ngoài khi
tham gia Hiệp hội chỉ được là hội viên liên kết, không phải hội viên chính thức. Vì vậy,
phần lớn các công ty liên doanh và nước ngoài được thành lập ở VN về dịch vụ logistics
chưa tham gia vào Hiệp hội Logistics Việt Nam (VLA).
3.3.4 Khuyến nghị đối với các DN và hiệp hội
Thứ nhất, tập trung chuyên môn hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Thứ hai, tăng cường đầu tư phương tiện vận tải, trang thiết bị xếp dỡ hiện đại.
Thứ ba, ứng dụng CNTT vào quản lý giám sát hoạt động.
Thứ tư, tích cực tham gia vào hiệp hội chuyên ngành, các chương trình xúc tiến
thương mại.
Thứ năm, tăng cường tương tác với cơ quan quản lý Nhà nước để cập nhật thông tin
và tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường.
Thứ sáu, phát huy vai trò của hiệp hội trong việc thường xuyên tổ chức các chuyến
khảo sát thị trường, hội nghị, hội thảo, tạo cầu nối giữa DN trong và ngoài nước, tham mưu
cho các cơ quan quản lý về lĩnh vực chuyên môn.
92
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Cùng với xu huớng hội nhập nền kinh tế thế giới nói chung và ngành logistics nói
riêng, các doanh nghiệp và Nhà nuớc cùng nhau thực hiện những giải pháp ở cả tầm vĩ mô
lẫn vi mô nhằm thúc đẩy ngành logistics phát triển mạnh mẽ, tạo một vị thế cạnh tranh cho
các doanh nghiệp cùng ngành trên thị truờng trong nuớc cũng như thế giới.
Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển; mục tiêu, đường lối, quan điểm của Đảng
Cộng sản VN về phát triển ngành logistics và chiến luợc phát triển ngành này đến năm
2025, chúng ta thấy được những việc cần tiến hành và mức độ ưu tiên của các việc này để
hoàn thiện nhanh chóng ngành dịch vụ còn non trẻ. Chính phủ cần quan tâm hơn nữa trong
việc hoàn chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật, tạo môi trường thông thoáng cho ngành
logistics phát triển. Ngoài ra, cũng cần có chính sách hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ cho ngành, đầu tư phát triển công nghệ thông tin để trong một tương lai không xa
có thể hình thành một cách bài bản và chuyên nghiệp những công ty lớn, những tập đoàn
logistics VN hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các tập đoàn của nuớc ngoài. Đồng
thời, doanh nghiệp cũng cần có những giải pháp riêng, trang bị kiến thức logistics đầy đủ
để tăng khả năng thích ứng với tình hình cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
KẾT LUẬN
Ngày nay, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, ngành logistics là
ngành phát triển năng động, hiệu quả và đóng vai trò quan trong trong tăng trưởng, phát
triển kinh tế ở tất cả các quốc gia, dù là quốc gia đang phát triển hay đã phát triển. Vì vậy,
đẩy mạnh phát triển ngành logistics của Việt Nam là tất yếu, có ý nghĩa to lớn trong việc
góp phần vào việc giải quyết những vấn đề nảy sinh từ sự phân công lao động quốc tế do
quá trình khu vực hoá tạo ra, phân bố các ngành sản xuất một cách hợp lý để đảm bảo sự
cân đối và tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Phát triển ngành logistics của Việt Nam là một quá trình tăng cả về mặt lượng lẫn
về mặt chất, giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu lưu thông, phân phối được thông suốt, chuẩn
xác và an toàn. Đồng thời, giảm được chi phí vận tải; trao đổi giao lưu thương mại giữa
các vùng trong nước với nhau và với nước ngoài ngày càng được tăng cường mạnh mẽ.
Quan hệ thương mại giữa các nuớc diễn ra sâu rộng, nhu cầu về trao đổi hàng hoá càng lớn
kéo theo những nhu cầu mới về vận tải, kho bãi, các dịch vụ phụ trợ .... Thêm vào đó, sự
phát triển ngày càng cao của công nghệ thông tin đã tạo tiền đề cho sự phát triển vuợt bậc
của ngành logistics trên thế giới. Từ việc chỉ cung cấp những dịch vụ đơn thuần như làm
thủ tục hải quan, vận chuyển hàng hóa, đóng gói bao bì, cho thuê kho bãi…, các công ty
logistics hiện nay đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ trọn gói “door to door” với chi phí
tối ưu. Nhà sản xuất chỉ còn chú ý đến khâu sản suất và marketing để bán đuợc nhiều sản
phẩm nhất, mọi việc còn lại đã có các công ty logistics thực hiện từ việc cung cấp đầu vào
cho sản xuất tới việc đưa hàng đến tay nguời tiêu dùng.
Với vai trò to lớn của ngành logistics trong nền kinh tế quốc dân, việc nghiên cứu
và xây dựng chiến luợc phát triển hợp lý là một trong những yêu cầu đặt ra cấp bách. Ở
Việt Nam, trong thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đẩy mạnh
ngành dịch vụ non trẻ này phát triển với những thành công nhỏ bé và còn gặp nhiều khó
khăn, hạn chế trong những bước đi ban đầu.
Để khắc phục những yếu kém, tồn tại đó nhằm thúc đẩy ngành logistics nước nhà
phát triển, bảo đảm hội nhập nhanh vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN, cần thực hiện đồng
bộ, hiệu quả các giải pháp được phân tích ở trên.
Đa số doanh nghiệp logistics Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, không đủ sức
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Lợi nhuận kinh doanh của bản thân doanh
nghiệp và hiệu quả kinh tế của toàn xã hội chỉ thực sự cao khi các doanh nghiệp trong
nuớc liên kết lại với nhau để giành quyền vận tải, thu ngoại tệ từ việc xuất khẩu sản phẩm
vận tải, thay đổi vai trò từ một đại lý cho các hãng tàu nuớc ngoài thành những công ty
logistics quốc tế có chi nhánh ở khắp các nuớc trên thế giới. Các DN logistics Việt Nam có
thể đảm đương việc tổ chức vận chuyển hàng hóa đến các thị truờng tiêu thụ, tận dụng triệt
để những lợi thế sẵn có về vị trí địa lý, con nguời, điều kiện tự nhiên …. không để thua
kém các doanh nghiệp nước ngoài.
Thời gian không còn nhiều, chỉ có bắt tay vào làm, bắt tay vào thay đổi một cách
tích cực thì các DN logistics Việt Nam chắc chắn sẽ tận dụng được những cơ hội, vượt qua
những thách thức từ việc hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN để xây dựng lại hình ảnh
hoàn toàn khác về ngành logistics. Từ đó, ngành logistics Việt Nam sẽ vươn xa hơn, không
chỉ tầm khu vực mà còn ở tầm thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đặng Đình Đào, 2011. Logistics – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. NXB
Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. Đoàn Thị Hồng Vân, 2010. Logistics những vấn đề cơ bản. NXB Lao động – Xã hội.
3. Hoàng Văn Châu, 2009. Logistics và Vận tải Quốc tế. NXB Thông tin – Truyền thông.
4. Lê Công Hoa, 2012. Quản trị hậu cần. NXB Đại Học Kinh Tế Quốc Dân.
5. Luật thương mại, số 36/2005/QH11.
6. Nguyên Khôi, 2014. Báo cáo chỉ số hoạt động Logistics (LPI) năm 2014. Tạp chí Chủ
hàng Việt Nam - Vietnamshipper, số 116 tháng 6/2014, trang 26-32.
7. Nguyễn Thị Mơ, 2002. Hoàn thiện pháp luật thương mại và hàng hải trong điều kiện
Việt Nam hội nhập kinh tế. NXB Chính trị quốc gia.
8. Phạm Thị Thanh Bình, 2009. Phát triển dịch vụ hậu cần (logistics) trong tiến trình
hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới.
9. Quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 22/01/2014 phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ
Logistics trong lĩnh vực GTVT VN đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
10. Quyết định số 175/QĐ-TTg ngày 27/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của VN đến năm 2020.
11. Quyết định số 318/QĐ-TTg ngày 04/03/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chiến lược phát triển GTVT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
12. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
1. Douglas M. Lambert, James R. Stock, Lisa M. Ellram, 1998. Fundamentals of
Logistics Management. McGraw-Hill.
2. Hikaru Kajita, 2000. Improvement of logistics management in Japan. Niitsu Research
Centre, Inc.
3. Reza Zanjirani Farahani, Shabnam Rezapour, Laleh Kardar, 2011. Logistics
Operations and Management (Concepts and Models). Elsevier.
TÀI LIỆU TỪ WEBSITE
1. Cộng đồng kinh tế ASEAN te-asean-aec.html>. [Ngày truy cập: 02/05/2016]. 2. Cục Đường sắt VN 3. Cục Hàng hải VN < http://www.vinamarine.gov.vn>. [Ngày truy cập: 03/05/2016]. 4. Cục Hàng không VN 5. Đặng Đức Long (2014), Việt Nam trong tiến trình hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC. 6. Đỗ Thị Mai Hiên, Nguyễn Hà Phương, Trẩn Thị Khánh Phương (2013), Đánh giá mức độ cam kết đối với ngành dịch vụ phân phối của Việt Nam trong lộ trình tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015. [Ngày truy cập: 20/04/2016]. 7. Hiệp hội cảng biển VN 03/05/2016]. 8. Hiệp hội DN logistics VN 9. Huỳnh Tấn Minh (2014), Các chính sách thực hiện hiệu quả của Việt Nam khi tham gia vào Cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC. [Ngày truy cập: 20/04/2016]. 10. Malaysia Logistics Blogspot 20/04/2016]. 11. Ngân hàng thế giới 12. Nguyễn Hồng Sơn (2007), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): Nội dung, các biện pháp thực hiện và những vấn đề đặt ra. [Ngày truy cập: 20/04/2016]. 13. Nguyễn Hồng Sơn (2009), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC): nội dung và lộ trình. 14. Nguyễn Quốc Toản (2014), Khơi thông các động lực nhằm tạo lập vị thế của Việt Nam trong sân chơi Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015. 15. Nguyễn Thường Lạng (2014), Lợi ích kinh tế và bất lợi của Cộng đồng kinh tế ASEAN – AEC đối với Việt Nam. cập: 20/04/2016]. 16. Nguyễn Xuân Thiên (2014), Hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN - Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam. cập: 20/04/2016]. 17. Phạm Hùng Tiến (2014), Hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN – Góc nhìn từ ngành dịch vụ logistics Thái Lan và vận dụng kinh nghiệm phát triển logistics tại Việt Nam. 18. Phạm Thị Thanh Bình (2008), Một số vấn đề về phát triển lĩnh vực dịch vụ hậu cần (logistics) trong tiến trình hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). 20/04/2016]. 19. Saniay Kalra (2013), ASEAN Economic Community; Progress and Global Perspective. 20/04/2016]. 20. Tổng Cục đường bộ VN 21. Tổng Cục Thống kê 22. Tổng Cục Thuế - Bộ Tài chính, Rút ngắn thời gian nộp thuế còn không quá 121,5 giờ/năm. news_tax/2015-03/63510282-7d93-4f78-8fb1-3f268e0e9a31>. [Ngày truy cập: 20/04/2016]. 23. Viện nghiên cứu và phát triển logistics VN cập: 20/04/2016].