
1
Luận văn
Thu thập và sử dụng bằng chứng
kiểm toán đặc biệt trong kiểm toán
báo cáo tài chính tại VACO

2
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đang có những
bước chuyển mình mạnh mẽ. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Việt Nam
không ngừng tăng và được đánh giá là một trong những quốc gia có tỷ lệ tăng
trưởng bình quân cao nhất trong khu vực. Để có được kết quả này, phải kể đến sự
đóng góp không nhỏ của hoạt động kiểm toán. Quyết định 165/TC/QĐ/TCCB
ngày 13/5/1991 của Bộ Tài Chính đánh dấu sự ra đời của Kiểm toán nói chung và
Kiểm toán độc lập nói riêng ở Việt Nam. Tuy mới gia nhập vào Việt Nam hơn 10
năm nhưng hoạt động này đã khẳng định được vị thế và được mọi thành phần
kinh tế đánh giá rất cao, đặc biệt là được Nhà nước coi như một công cụ hữu hiệu
phục vụ cho công tác điều tiết vĩ mô của mình.
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, kiểm toán đã chiếm một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế trong việc tạo niềm tin cho những người quan tâm, tăng
cường sự minh bạch về các thông tin tài chính; góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và
củng cố nền nếp hoạt động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của đơn vị
kiểm toán nói chung; và góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Điều
này một lần nữa được nhà nghiên cứu Ier - Khan - Sere khẳng định: kiểm toán là
"quan toà công minh của quá khứ", "người dẫn dắt cho hiện tại" và "người cố
vấn sáng suốt cho tương lai". Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, một ngành
kiểm toán độc lập tồn tại và phát triển là không thể phủ nhận.
Hiện nay, cùng với sự ra đời và phát triển của hàng loạt các công ty kiểm
toán, các loại hình dịch vụ kiểm toán cung cấp ngày càng đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, kiểm toán Báo cáo tài chính vẫn là hoạt động chủ yếu của các tổ chức
kiểm toán độc lập. Việc thu thập đủ số lượng và chất lượng bằng chứng để thoả
mãn các mục tiêu kiểm toán là điều quan trọng đối với mỗi cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính nói riêng và kiểm toán nói chung. "Kiểm toán là quá trình mà theo
đó một cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về
các thông tin số lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích
xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng đó với các
chuẩn mực được xây dựng" (Auditing- Alvin.A.Arens).
Nhận thấy rõ tầm quan trọng không thể thiếu của Bằng chứng kiểm toán trong
công tác kiểm toán, là một sinh viên chuyên ngành kiểm toán với những kiến thức
đã được trang bị trong nhà trường, em đã chọn đề tài: "Thu thập và sử dụng

3
bằng chứng kiểm toán đặc biệt trong kiểm toán báo cáo tài chính tại
VACO".
Chuyên đề được thực hiện với mục tiêu chủ yếu là nhằm tìm hiểu cơ sở lý
luận về bằng chứng kiểm toán và từ đó rút ra những bài học cho bản thân về hoạt
động kiểm toán. Đây sẽ là bước đệm quan trọng cho em để bước vào kỳ thi tốt
nghiệp.
Sau thời gian thực tập ở VACO em đã có một số hiểu biết nhất định và hoàn
thành chuyên đề thực tập tổt nghiệp với nội dung gồm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về Bằng chứng kiểm toán đặc biệt
Phần II: Thực trạng thu thập và sử dụng Bằng chứng kiểm toán đặc biệt
tại VACO
Phần III: Một số nhận xét và kiến nghị để hoàn thiện quy trình thu thập và
sử dụng Bằng chứng kiểm toán đặc biệt tại VACO

4
PHẦN I: Cơ sở lý luận về Bằng chứng Kiểm toán
đặc biệt
I. Bằng chứng Kiểm toán
1. Kiểm toán báo cáo tài chính
Thuật ngữ "Kiểm toán báo cáo tài chính" thực sự xuất hiện và được sử dụng ở
nước ta từ những năm đầu của thập kỷ 90. Vì vậy, trong cách hiểu và cách dùng
khái niệm về "Kiểm toán báo cáo tài chính" vẫn chưa được thống nhất. Tuy
nhiên, nếu nói theo cách hiểu chung nhất thì Kiểm toán báo cáo tài chính có thể
được hiểu như sau:
Kiểm toán báo cáo tài chính là một hoạt động thẩm tra các bảng khai tài chính
nhằm đảm bảo các thông tin trên các bảng khai tài chính được trình bày một cách
trung thực và hợp lý xét trên mọi khía cạnh trọng yếu.
Hay nói cách khác, căn cứ theo bản chất và chức năng của kiểm toán, Kiểm
toán báo cáo tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt
động tài chính được kiểm toán bằng hệ thống các phương pháp kỹ thuật của kiểm
toán chứng từ (như kiểm toán cân đối, đối chiếu trực tiếp, và đối chiếu lôgic) và
kiểm toán ngoài chứng từ (như kiểm kê, thực nghiệm, điều tra) do các kiểm toán
viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có
hiệu lực. (Lý thuyết Kiểm toán trang 34).
Khách thể kiểm toán được hiểu là người, vật, hiện tượng mà kiểm toán viên
nhằm vào trong quá trình kiểm toán.
Như vậy, đối tượng trực tiếp và thường xuyên của Kiểm toán Báo cáo tài
chính là các bảng khai tài chính mà bộ phận quan trọng là Báo cáo tài chính. Điều
này đã được Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200, đoạn 4 nêu rõ: “Báo cáo
tài chính là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán
hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính
chủ yếu của đơn vị”. Bên cạnh đó, Bảng khai tài chính còn bao gồm những bảng
kê khai có tính pháp lý khác như Bảng kê khai tài sản cá nhân, bảng kê khai tài
sản đặc biệt, các bảng khai theo yêu cầu đăc biệt của chủ đầu tư… Đây là các
bảng tổng hợp và đều chứa đựng những thông tin được lập ra tại một thời điểm cụ

5
thể trên cơ sở các tài liệu kế toán tổng hợp và chi tiết dựa theo những quy tắc xác
định.
2. Bằng chứng kiểm toán – Cơ sở hình thành ý kiến kết luận kiểm
toán
Thực chất của giai đoạn thực hành kiểm toán là kiểm toán viên dùng các
phương pháp kỹ thuật để thu thập các bằng chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ.
Vậy bằng chứng kiểm toán là gì?
a. Khái niệm
Bằng chứng kiểm toán theo VSA500, đoạn 05 được định nghĩa như sau:
"Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu
thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm
toán viên hình thành nên ý kiến của mình. Bằng chứng kiểm toán bao gồm
các tài liệu, chứng từ, sổ kế toán, báo cáo tài chính và các tài liệu, thông tin
từ những nguồn khác".
Khái niệm này cho thấy đặc tính đa dạng của bằng chứng kiểm toán vì nó bao
gồm cả thông tin nhân chứng và vật chứng mà kiểm toán viên thu thập làm cơ sở
cho nhận xét của mình về Báo cáo tài chính được kiểm toán. Mặt khác, khái niệm
cũng chỉ rõ vị trí cũng như mối quan hệ của bằng chứng kiểm toán với kết luận
kiểm toán: "dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của
mình". Sự thành công của toàn bộ cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc
thu thập và sau đó là đánh giá bằng chứng của kiểm toán viên. Kết luận kiểm toán
chỉ có thể là xác đáng khi kiểm toán viên thu thập được đầy đủ bằng chứng có
hiệu lực làm cơ sở đưa ra kết luận của mình.
Đối với các tổ chức kiểm toán độc lập hoặc cơ quan kiểm toán nhà nước, cơ
quan pháp lý, bằng chứng kiểm toán còn là cơ sở để giám sát đánh giá chất lượng
hoạt động của kiểm toán viên trong quá trình thực hiện kiểm toán. Việc giám sát
đánh giá này có thể do nhà quản lý kiểm toán tiến hành đối với các kiểm toán
viên thực hiện kiểm toán hoặc có thể do cơ quan tư pháp tiến hành đối với chủ thể
kiểm toán nói chung (trong trường hợp xảy ra kiện tụng đối với kiểm toán viên và
công ty kiểm toán).
Do vai trò quan trọng đó của bằng chứng kiểm toán, Chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam số 500, đoạn 02 đã qui định: "Kiểm toán viên và công ty kiểm toán