
Luận văn
Thực trạng và một số biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của Công ty Tư vấn
đầu tư và Thương mại

1
LỜI NÓI ĐẦU
Từ sau đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam nền kinh tế nước ta từng
bước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, một nền kinh tế hướng ngoại. Từ đó
mọi hoạt động kinh tế, tài chính tín dụng, tiền tệ trong nước đều chịu sự tác động
của những biến động kinh tế thương mại, tiền tệ tín dụng trên thế giới và trong khu
vực.
Trong bối cảnh chung của đất nước thì bản thân mỗi đơn vị, tổ chức kinh tế hay
doanh nghiệp cũng chịu tác động ảnh hưởng theo. Các doanh nghiệp muốn tồn tại
đứng vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có tiềm lực mạnh mẽ về mặt tài
chính để có điều kiện cạnh tranh và tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Mặt
khác, theo đà phát triển của kinh tế, các quan hệ kinh tế tài chính ngày càng mở
rộng và đa dạng. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải có một lượng
vốn nhất định đồng thời tiến hành phân phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn một
cách hợp lý, có hiệu quả cao nhất.
Quản lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả là một nội dung quan trọng trong
công tác quản lý tài chính của mỗi doanh nghiệp. Nó giúp cho các doanh nghiệp
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho tình hình tài
chính của doanh nghiệp luôn ở trạng thái ổn định và lành mạnh. Đây cũng là một
vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, lãnh đạo doanh nghiệp và
những người làm công tác kế toán tài chính.
Xuất phát từ thực tế đó, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Tư vấn
đầu tư và Thương mại”
làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ những nét đặc thù trong hoạt động kinh
doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại, đánh giá đúng thực trạng hiệu quả

2
sử dụng vốn của Công ty thời gian qua từ đó nêu ra một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại trực thuộc
Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tà : là hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Tư
vấn đầu tư và Thương mại trực thuộc Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát thực tế hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công
ty Tư vấn đầu tư và Thương mại từ năm 1999 - 2001. Các phân tích của luận văn đưa
ra trên cơ sở tổng hợp các tài liệu, các kết quả nghiên cứu của Công ty Tư vấn đầu tư
và Thương mại.
Phương pháp nghiên cứu: Quán triệt phương pháp duy vật biện chứng với quan
điểm lịch sử cụ thể, sử dụng các phương pháp phân tích hiệu quả, phân tích tài chính,
phân tích thống kê, phân tích so sánh trong nghiên cứu. Vừa dựa trên những lý thuyết
cơ bản vừa dựa trên hoàn cảnh cụ thể của qúa trình kinh doanh tại đơn vị thực tập
cũng như những tác động của môi trường kinh doanh trong và ngoài Công ty.
Những đóng góp của luận văn :
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn.
- Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương
mại trên một số chỉ tiêu tổng hợp chủ yếu.
- Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng hiệu quả
kinh doanh, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương mại.
Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 phần:
- Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Phần 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh của Công ty Tư vấn đầu tư và Thương
mại.
- Phần 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quảsử dụng vốn của Công
ty Tư vấn đầu tư và Thương mại.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng song do những hạn chế về kiến thức và thời gian
nghiên cứu còn hạn hẹp nên luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong được sự đóng góp và chỉ bảo thêm của các thầy cô.

3
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
I/ Khái niệm và phân loại vốn.
1. Khái niệm về vốn
Do vai trò quan trọng của vốn trong sự tồn tại và phát triển một doanh nghiệp nói
riêng và của một nền kinh tế nói chung, từ trước tới nay, không chỉ có các chủ
doanh nghiệp, những nhà quản lý quan tâm, trăn trở về nguồn huy động và cách
thức sử dụng vốn mà ngay cả các nhà kinh tế, nhà lý luận đã tốn không ít giấy mực
và tâm trí để đưa ra một định nghĩa, một nghiên cứu hoàn chỉnh nhất về vốn của
doanh nghiệp.
Dưới giác độ các yếu tố sản xuất, Mark đã khái quát hoá vốn thành phạm trù cơ
bản. Theo Mark, tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá
trình sản xuất. Định nghĩa của Mark có tầm khái quát lớn. Tuy nhiên, do hạn chế
của trình độ phát triển kinh tế lúc bấy giờ, Mark quan niệm chỉ có khu vực sản xuất
vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư.
Paul. A. Sammelson, nhà kinh tế học theo trường phái “tân cổ điển” đã thừa kế
quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và phân chia các yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất ra thành ba loại chủ yếu là: đất đai, lao động và vốn.
Theo ông, vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản
xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp: đó có thể là các
máy móc, trang thiết bị, vật tư, đất đai, giá trị nhà xưởng... Trong quan niệm về vốn
của mình, Sammelson không đề cập tới các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá
trị đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trong cuốn kinh tế học của D. Begg, tác giả đã đưa ra hai định nghĩa vốn hiện
vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá đã sản

4
xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác; vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá
của doanh nghiệp. Như vậy, D. Begg đã bổ sung vốn tài chính vào định nghĩa vốn
của Sammelson.
Trong hai định nghĩa trên, các tác giả đã thống nhất nhau ở điểm chung cơ bản:
vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong cách định
nghĩa của mình, các tác giả đã đều thống nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất, vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp đang
nắm giữ. Vốn và tài sản là hai mặt hiện vật và giá trị của môt bộ phận nguồn lực
mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Vốn biểu hiện mặt giá trị, nghĩa là vốn phải đại diện cho một loại giá trị hàng
hoá, dịch vụ nhất định, một loại giá trị tài sản nhất định. Nó là kết tinh của giá trị
chứ không phải là đồng tiền in ra một cách vô ý thức rồi bỏ vào đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hoá. Nó giống các hàng hoá
khác ở chỗ có chủ sở hữu nhất định. Song nó có điểm khác vì người sở hữu có thể
bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá của vốn (hay còn gọi là
lãi suất) là cái giá phải trả về quyền sử dụng vốn. Chính nhờ sự tách dời về quyền
sở hữu và quyền sử dụng vốn nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh
và sinh lời.
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ
bản, kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản
xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản
xuất riêng biệt, chia cắt, mà trong toàn bộ các quá trình sản xuất và tái sản xuất liên
tục, suốt trong thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất
đầu tiên cho tới chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Tóm lại, vốn là một phạm trù được xem xét, đánh giá theo nhiều quan niệm, với
nhiều mục đích khác nhau. Do đó, khó có thể đưa ra một định nghĩa về vốn thoả