
1. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại (Modern portfolio theory): được
Harry Markowitz giới thiệu vào những năm 1950
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại đề nghị rằng các nhà tư có thể tối thiểu
hóa rủi ro thị trường cho một mức tỷ suất sinh lợi kỳ vọng bằng việc xây dựng một
danh mục đầu tư đã được đa dạng hóa. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại nhấn
mạnh tính đa dạng hóa của danh mục so với việc lựa chọn các chứng khoán riêng
lẻ. Markowitz đã nói đến việc lựa chọn các cổ phần không di chuyển cùng chiều
với nhau thì nhà đầu tư có thể làm giảm độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi như thế nào.
Nhưng ông không dừng lại ở đó mà ông còn phát triển các nguyên lý cơ bản về
xây dựng danh mục.
Một kiểu đơn giản hóa của lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại là “đừng bỏ
tất cả trứng vào một cái giỏ”. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại đã thiết lập khái
niệm “đường biên hiệu quả”. Một danh mục hiệu quả là một danh mục mà với
mức tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cho sẵn thì có rủi ro là thấp nhất. Rủi ro cao hơn sẽ đi
kèm với tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cao hơn.
Ví dụ: một danh mục đầu tư có hai loại chứng khoán A và B, trong đó
chứng khoán A có tỉ suất sinh lợi kỳ vọng rất cao đồng thời tỉ lệ rủi ro cũng cao
còn chứng khoán B có tỉ suất sinh lợi thấp và tỉ lệ rủi ro cũng thấp.Vậy sự đầu tư
thế nào là hợp lý? Nếu nhà đầu tư muốn thâu tóm tất cả để làm giàu nhanh chóng
thì sẽ chọn đầu tư vào chứng khoán A; ngược lại nếu nhà đầu tư muốn an nhàn,
không thích rủi ro sẽ chọn đầu tư vào chứng khoán B. Nhưng đó là cách chọn lựa
đầu tư chứng khoán riêng lẻ, thay thế vào đó có những nhà đầu tư họ sẽ kết hợp
đầu tư cả hai loại chứng khoán A và B với một tỉ lệ thích hợp nhằm thu được một
tỷ suất sinh lợi kỳ vọng cao mà lại giảm thiểu được rủi ro, đó chính là cách thức
đầu tư kết hợp nhằm tạo ra một “Danh mục đầu tư hiệu quả”.

Để xây dựng được một danh mục đầu tư thích hợp với lý thuyết danh mục
đầu tư hiện đại, các nhà đầu tư phải định giá các hiệp phưong sai giữa các lớp tài
sản cũng như là đặc tính rủi ro/tỷ suất sinh lời mỗi tài sản. Lý thuyết danh mục
hiện đại cho chúng ta một phưong pháp đầu tư có kỷ luật mang tính khoa học bởi
vậy mà nó vẫn được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
2. Mô hình ACPM
2.1.Định nghĩa
Mô hình định giá tài sản vốn (Capital asset pricing model – CAPM) là mô
hình mô tả mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng. Trong mô hình này, lợi
nhuận kỳ vọng của một chứng khoán bằng lợi nhuận không rủi ro (risk-free) cộng
với một khoản bù đắp rủi ro dựa trên cơ sở rủi ro toàn hệ thống của chứng khoán
đó. Còn rủi ro không toàn hệ thống không được xem xét trong mô hình này do nhà
đầu tư có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng hoá để loại bỏ loại rủi ro này.
Mô hình CAPM do William Sharpe phát triển từ những năm 1960 và đã có
được nhiều ứng dụng từ đó đến nay. Mặc dù còn có một số mô hình khác nỗ lực
giải thích động thái thị trường nhưng mô hình CAPM là mô hình đơn giản về mặt
khái niệm và có khả năng ứng dụng sát thực với thực tiễn. Cũng như bất kỳ mô
hình nào khác, mô hình này cũng chỉ là một sự đơn giản hoá hiện thực bằng những
giả định cần thiết, nhưng nó vẫn cho phép chúng ta rút ra những ứng dụng hữu ích.
2.2.Giả định
Lý thuyết về mô hình CAPM và ứng dụng của nó dựa trên một số các giả
thiết quan trọng về thị trường chứng khoán và thái độ của nhà đầu tư như sau:
- Các nhà đầu tư nắm giữ danh mục chứng khoán đa dạng hóa hoàn toàn.
Do đó những đòi hỏi về tỷ suất sinh lợi của nhà đầu tư bị tác động chủ yếu bởi rủi
ro hệ thống của từng chứng khoán chứ không phải là rủi ro tổng thể.

- Các chứng khoán được trao đổi tự do trong thị trường cạnh tranh là thị
trường mà các thông tin về một công ty nào đó và triển vọng của công ty này là
công khai đối với các nhà đầu tư.
- Các nhà đầu tư có thể vay nợ và cho vay với lãi suất phi rủi ro và lãi suất
này liên tục không đổi theo thời gian.
- Không có chi phí cho việc mua và bán chứng khoán.
- Không có thuế.
- Tất cả các nhà đầu tư thích lựa chọn chứng khoán có tỷ suất sinh lợi cao
nhất tương ứng với mức độ cho trước của rủi ro hoặc số lượng rủi ro thấp nhất với
mức sinh lợi cho trước.
- Tất cả các nhà đầu tư có kỳ vọng thuần nhất liên quan đến tỷ suất sinh lợi
kỳ vọng, phương sai và hiệp phương sai.
2.3. Nội dung
2.3.1. Quan hệ giữa lợi nhuận cá biệt và lợi nhuận thị trường - Đường
đặc thù sản phẩm
(The security characteristic line)
Đường đặc thù chứng khoán là đường thẳng mô tả mối quan hệ giữa lợi
nhuận của một chứng khoán cá biệt với lợi nhuận của danh mục đầu tư thị trường.
Danh mục đầu tư thị trường được lựa chọn theo từng loại thị trường, ví dụ ở Mỹ
người ta chọn S&P 500 Index (S&P 500) trong khi ở Canada người ta chọn
Toronto Stock Exchange 300 Index (TSE 300). Ở đây lấy ví dụ minh hoạ đường
đặc thù chứng khoán giữa cổ phiếu của Remico, Ltd. so với danh mục thị trường
TSE 300. Giả sử lợi nhuận của cổ phiếu Remico và danh mục thị trường TSE 300
ứng với bốn tình huống khác nhau tùy theo hai tình trạng nền kinh tế như sau:
Tình huống Nền kinh tế Lợi nhuận thị trường Lợi nhuận của Remico

I Tăng trưởng 15% 25%
II Tăng trưởng 15% 15%
III Suy thoái -5% -5%
IV Suy thoái -5% -15%
Trong ví dụ này ứng với hai tình huống của nền kinh tế tăng trưởng và suy
thoái lợi nhuận thị trường lần lượt là 15 và 5% nhưng lợi nhuận của Remico có thể
xảy ra bốn trường hợp 25, 15, – 5 và – 15%. Giả sử xác suất xảy ra tình trạng nền
kinh tế tăng trưởng và suy thoái bằng nhau, chúng ta có:
Tình trạng kinh tế Lợi nhuận thị trường Lợi nhuận kỳ vọng của Remico
Tăng trưởng 15% (25x0,5) + (15x0,5) = 20%
Suy thoái - 5% (-5x0,5) + (-15x0,5) = -10%
Hệ số β được định nghĩa như là hệ số đo lường mức độ biến động lợi nhuận
cổ phiếu cá biệt so với mức độ biến động lợi nhuận danh mục cổ phiếu thị trường.
Trong ví dụ chúng ta đang xem xét hệ số β bằng tỷ số giữa mức độ biến động lợi
nhuận cổ phiếu Remico, ứng với tình trạng kinh tế tăng trưởng và tình trạng kinh
tế suy thoái, và mức độ biến động lợi nhuận thị trường, ứng với hai tình trạng kinh
tế trên:
5,1
20
30
)5(15
)10(20
==
−−
−−
=β
ta có thể tính β bằng cách lấy hệ số góc của
đường đặc thù chứng khoán như trên hình vẽ:

Hệ số β nói lên điều gì? Chúng ta giải thích nó như thế nào? Hệ số β = 1,5
cho biết rằng lợi nhuận cổ phiếu cá biệt Remico biến động gấp 1,5 lần lợi nhuận
thị trường, nghĩa là khi nền kinh tế tốt thì lợi nhuận cổ phiếu Remico tăng nhanh
hơn lợi nhuận thị trường nhưng khi nền kinh tế xấu thì lợi nhuận cổ phiếu Remico
giảm nhanh hơn lợi nhuận thị trường. Trong phần trước rủi ro được định nghĩa như
là sự biến động của lợi nhuận. Ở đây β được định nghĩa là hệ số đo lường sự biến
động của lợi nhuận. Cho nên, β được xem như là hệ số đo lường rủi ro của chứng
khoán. Hệ số β =1 được định nghĩa như là hệ số β của danh mục thị trường.
2.3.2. Ước lượng β trên thực tế
Như đã nói β là hệ số đo lường rủi ro của chứng khoán. Trên thực tế các
nhà kinh doanh chứng khoán sử dụng mô hình hồi qui dựa trên số liệu lịch sử để
ước lượng β. Ở các nước có thị trường tài chính phát triển có một số công ty