
ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
171
MÔ HÌNH MÔ MEN TỔNG QUÁT DẠNG SAI PHÂN VÀ ỨNG DỤNG
TRONG PHÂN TÍCH CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Lê Thanh Hoa - Võ Thị Lệ Uyển - Phạm Hoàng Uyên
Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Các mô hình hồi quy cho dữ liệu bảng với các ưu thế là cung cấp nhiều thông tin hơn,
đa dạng hơn, đo lường tốt hơn những ảnh hưởng mà không thể quan sát trong dữ liệu chuỗi
thời gian hay dữ liệu chéo thuần túy nhằm tối thiểu hóa sự sai lệch. Nghiên cứu này xem xét
tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sử dụng năng lượng, chất lượng
môi trường và vốn cố định lên tăng trưởng kinh tế ở 6 quốc gia đại diện Đông Nam Á
(ASEAN) là: Việt Nam, Sigapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia. Cụ thể, các
kết quả nghiên cứu được tiến hành trên dữ liệu bảng trong giai đoạn 2008–2019 thông qua sử
dụng mô hình mô men tổng quát dạng sai phân (DGMM). Kết quả thực nghiệm cho thấy sự
gia tăng của FDI và vốn dự trữ sẽ thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước Đông
Nam Á, chưa tìm thấy phản ứng của tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN này với sự suy
thoái môi trường nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách cần đặc biệt quan tâm xây dựng
các chính sách môi trường và đối ngoại hợp lý để duy trì tăng trưởng kinh tế.
Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, FDI, lượng khí thải CO2, hàm sản xuất Cobb-Douglas,
Mô hình mô men tổng quát dạng sai phân (DGMM)
DIFFERENTIAL GENERALIZED METHOD OF MOMENTS
AND APPLICATION IN ANALYSIS
OF SOME SOUTHEAST ASIA COUNTRIES
Abstract
Models for panel data have the advantages of providing more information, diversity,
and better measure effects that cannot be observed in time-series data or cross-section data to
minimize the variation. This paper examines the impact of foreign direct investment inflows
(FDI), energy use, environmental quality, and fixed capital on economic growth in six
representative countries of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN): Vietnam,
Singapore, Thailand, Philippines, Malaysia, and Indonesia. Specifically, the results are
conducted on panel data in the period 2008–2019 through the use of a dynamic method,
differential general moment model (DGMM). The empirical results show that the increase of
FDI and fixed capital will boost economic growth and have not found a response of economic
growth in these ASEAN countries to environmental degradation. From there, these results

172
ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
provide evidence that policymakers need to pay special attention to formulating appropriate
external and environmental policies to sustain economic growth.
Keywords: Economic growth, FDI, CO2 emissions, Cobb-Douglas production
function, Differential general moment model (DGMM).
1. Giới thiệu
Tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực khác nhau của một nền kinh tế,
thông qua tăng trưởng kinh tế có thể nâng cao mức sống nếu sự giàu có của quốc gia được
phân phối công bằng. Từ lâu, tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các
quốc gia bởi lẽ tăng trưởng sẽ góp phần tạo ra việc làm, nâng cao mức sống, cải thiện thu
nhập của người dân, ý thức xã hội tăng cao, và nhiều tác động tích cực khác. Hơn nữa, các
quốc gia có thể nâng cao hiệu quả kinh tế bằng cách khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới,
qua đó có thể giúp duy trì tăng trưởng kinh tế thông qua tăng tổng cung và nâng cao niềm tin
kinh doanh thông qua tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đến lợi nhuận của các công ty,
từ đó làm tăng giá trị trao đổi chứng khoán và dẫn đến tăng trưởng các công ty này. Chính vì
những lí do trên, tăng trưởng kinh tế luôn là trụ cột chính cho sự phát triển kinh tế của bất kỳ
quốc gia nào. Tất nhiên, các chỉ số cơ bản khi đánh giá về tổng sản lượng của tất cả các hàng
hóa sản xuất dựa trên lao động và vốn cũng như các chỉ số mang tính tổng hợp như khoa học
công nghệ.
Trên thế giới, có rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm xác định các yếu tố tác
động đến tăng trưởng kinh tế. Quá trình nghiên cứu cũng như hoạch định các chính sách là
một quá trình lâu dài và ngày càng rất phức tạp vì nó liên quan đến các biến số kinh tế. Đặc
biệt trong thời kỳ 4.0 như hiện nay, sự xuất hiện của những nhân tố mới cũng như tầm quan
trọng của chúng trong tăng trưởng càng làm cho công việc nghiên cứu trở nên khó khăn hơn.
Nhân tố mới thứ nhất là độ mở của nền kinh tế. Sự cởi mở về thương mại cho phép
đầu tư vốn nước ngoài trực tiếp giúp dịch chuyển nguồn lực giữa các nước phát triển sang các
nước đang phát triển, sự chuyển giao công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, khai thác
được những tài nguyên trong nước, hiệu quả cao mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia. Vì
vậy, điều này tạo ra kỳ vọng rằng những quốc gia có độ mở kinh tế lớn hơn có thể đạt tốc độ
tăng trưởng cao hơn. Để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, chính sách của nhiều nước đã hướng
đến mục tiêu tự do hóa thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, xem
đó như là những động lực cho tăng trưởng kinh tế của quốc gia (Belloumi, 2014). Như vậy,
độ mở của nền kinh tế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua việc xuất khẩu hàng hóa
và dịch vụ, nâng cao hiệu quả trong việc phân bổ các nguồn lực và cải thiện năng suất các yếu
tố tổng hợp nhờ sự phổ biến kiến thức và công nghệ. Các kết quả liên quan được thể hiện
trong một số nghiên cứu của (Aagah, A., & Baydono, S., 2018; Keho, 2017). Độ mở của nền
kinh tế theo nghĩa hẹp được đo lường bằng cách lấy tổng của xuất khẩu và nhập khẩu chia cho
GDP, theo nghĩa rộng còn bao gồm một số chỉ tiêu khác liên quan đến khu vực có vốn đầu tư

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
173
nước ngoài (FDI). Thật vậy, theo (Dunning, J. H., & Lundan, S. M., 2008) thì FDI có tác
động làm tăng độ mở thương mại của nền kinh tế từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi vì
bản chất của FDI là một dạng quan hệ điển hình trong hợp tác kinh tế quốc tế. Dòng vốn FDI
đóng một vai trò quan trọng trong việc tăng và nâng cao nguồn cung cấp vốn cho đầu tư trong
nước ở nước sở tại. Điều này có thể được thực hiện thông qua chuỗi sản xuất khi các nhà đầu
tư nước ngoài mua đầu vào sản xuất trong nước và bán đầu vào trung gian cho các doanh
nghiệp trong nước. Hơn nữa, dòng vốn FDI có thể làm tăng khả năng xuất khẩu của nước chủ
nhà, khiến nước đang phát triển tăng thu nhập ngoại hối. Một số nghiên cứu được thực
nghiệm trên nhiều quốc gia đã khẳng định tính vững của khung lý thuyết, chẳng hạn
(Demirhan, E., & Masca, M., 2008; Sichei, M. M., & Kinyondo, G., 2012) đã thực nghiệm tại
một số quốc gia được chọn và cho kết quả khẳng định FDI có tác động làm tăng độ mở
thương mại. Hay như các nghiên cứu của (Amal, M., Tomio, B. T., & Raboch, H., 2010;
Antwi, S., Mills, E. F. E. A., Mills, G. A., & Zhao, X., 2013) đã cho thấy FDI có quan hệ
dương với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghĩa là có quan hệ cùng chiều với độ mở). Và
(Belloumi, 2014), FDI cũng có thể khuyến khích tạo việc làm mới, tăng cường chuyển giao
công nghệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung ở các nước sở tại. Bên cạnh đó, cũng có
nhiều nghiên cứu trước đây quan tâm đến câu hỏi liệu dòng vốn FDI có dẫn đến tăng trưởng
kinh tế cao hơn hay không. (Edwards, 1998; Baldwin, 2004) chỉ ra rằng tích lũy vốn nước
ngoài là một trong những nhân tố chính quyết định tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu thực
nghiệm khác như (Schiff & Wang, 2010; Batten & Vo, 2009; Lean & Tan, 2011; Hassen &
Anis, 2012) khẳng định dòng vốn FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, những nghiên cứu khác như (Elboiashi và cộng sự, 2009; Ahmed, 2012; Bayar, 2014)
lại cho thấy tác động tiêu cực. Ngoài ra, trong các nghiên cứu của (Azman-Saini và cộng sự,
2010; Aga, 2014) lại chỉ ra FDI không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Nhân tố thứ hai là chất lượng môi trường, cụ thể là lượng phát thải CO2. Một số
nghiên cứu của (Soytas & Sari, 2009; Fodha & Zaghdoud, 2010; Orubu & Omotor, 2011;
Arouri và cộng sự, 2012; Saidi & Hammami, 2015; Omri và cộng sự, 2014) đã xem xét mối
liên hệ giữa sử dụng năng lượng, phát thải CO2 và tăng trưởng kinh tế. Tương tự, (Saidi &
Hammami, 2015) nhận thấy tác động tích cực của tiêu thụ năng lượng đối với tăng trưởng
kinh tế và mối quan hệ tiêu cực giữa phát thải CO2 và tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa, trong
các nghiên cứu của (Kasman & Duman, 2015; Muhammad, 2019; Hasnisah và cộng sự, 2019)
cũng cho thấy rằng có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa tiêu thụ năng lượng, phát thải
CO2, mở cửa thương mại và GDP.
Theo đó, dòng vốn FDI được coi là có tác động tích cực đến kinh tế tăng trưởng bằng
cách tạo điều kiện cho sự lan tỏa công nghệ, do đó sẽ tăng khả năng cạnh tranh quốc tế, năng
suất và doanh thu xuất khẩu. Tuy nhiên, cũng có các giải thích lý thuyết khác cho thấy rằng
độ mở kinh tế có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đối với các
nước có thu nhập thấp. Đồng thời khi kinh tế phát triển sẽ ảnh hưởng đến chất lượng môi

174
ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
trường, có một số nghiên cứu cho rằng CO2 tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế
(Omri, A., Daly, S., Rault, C., & Chaibi, A. , 2015).
Như vậy, qua các phân tích ở trên, để các đánh giá phù hợp hơn về tổng sản lượng của
tất cả các hàng hóa sản xuất, chúng tôi mở rộng kết quả trong đánh giá về tổng sản lượng
thông qua dòng vốn FDI và phát thải CO2 đối với tăng trưởng kinh tế đã được phân tích
chuyên sâu và thực nghiệm trong nhiều năm qua, thông qua chất lượng môi trường, tiêu thụ
năng lượng đối với tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia được chọn trong nhóm các quốc gia
Đông Nam Á có phát triển cao về kinh tế số là: Việt Nam, Sigapore, Thái Lan, Philippines,
Malaysia và Indonesia bằng cách sử dụng mô hình sai phân GMM. Chúng tôi xem xét mối
quan hệ ở một số nước Đông Nam Á do tất cả các nước này đều có cơ cấu kinh tế cũng như
sử dụng nhiều năng lượng, lượng khí thải carbon dioxide và tài nguyên thiên nhiên ở mức độ
như nhau. Nghiên cứu này sẽ hữu ích cho các nhà hoạch định chính sách để tạo ra các chính
sách ưu việt cho việc sử dụng năng lượng và thúc đẩy nền kinh tế ở các nước trong khu vực
Đông Nam Á.
2. Cơ sở lý thuyết
Hàm sản xuất là một dạng hàm thể hiện mối quan hệ giữa một lượng đầu vào và lượng
sản phẩm đầu ra. Hàm sản xuất nói chung có dạng:
𝑌=𝑓(𝐾,𝐿,𝑀𝑖) (1)
Trong đó, 𝑓 biểu thị Y là một hàm số của các yếu tố đầu vào K, L, Mi; Y là sản lượng
đầu ra tối đa có thể sản xuất được từ tổ hợp nhất định của vốn (K) (vốn ở đây được hiểu là
vốn hiện vật, tồn tại dưới dạng nhà xưởng, máy móc, thiết bị hay hàng tồn kho), lao động (L),
Mi các yếu tố đầu vào phù hợp khác.
Trong kinh tế học, hàm sản xuất Cobb – Douglas được sử dụng rộng rãi và phổ biến
trong việc phân tích tăng trưởng và năng suất, nó thể hiện mối quan hệ giữa một lượng đầu
vào và một lượng đầu ra. Hàm Cobb – Douglas có dạng:
𝑌=𝐴𝐾𝛼𝐿𝛽 (2)
Trong đó, Y: Tổng sản lượng được tính bằng giá trị bằng tiền của tất cả các hàng hóa
sản xuất trong một năm; L: đầu vào lao động được tính bằng tổng số lao động làm việc trong
một năm; K: vốn đầu vào được tính bằng giá trị bằng tiền của tất cả máy móc, thiết bị,…; A:
một yếu tố trong năng suất các yếu tố tổng hợp, có thể là tiến bộ khoa học công nghệ và α, β
là độ co giãn của sản lượng theo lao động và vốn (0 < α < 1; 0 < β < 1).
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế như hiện nay, bên cạnh các yếu tố đầu vào là vốn và
lao động thì sự cởi mở về thương mại cho phép đầu tư vốn nước ngoài trực tiếp giúp dịch
chuyển nguồn lực giữa các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Sự chuyển giao
công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, khai thác được những tài nguyên trong nước với
hiệu quả cao mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia đang phát triển này. Do đó, đã có rất
nhiều nghiên cứu quan tâm đến ảnh hưởng của nguồn vốn này lên tăng trưởng kinh tế, trong

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
175
đó phải nói đến nghiên cứu của (Keho, 2017; Aagah, A., & Baydono, S., 2018; Myovella, G.,
Karacuka, M., & Haucap, J., 2020).
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, đa số các quốc gia trên thế giới đã hướng sự
quan tâm cao nhất tới vấn đề phát triển bền vững nói chung và phát triển kinh tế xanh nói
riêng. Trong nền kinh tế xanh hay còn gọi là nền kinh tế carbon thấp, việc cắt giảm phát thải
khí CO2 là nhiệm vụ trung tâm của các kịch bản phát triển ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ở các
nước đang phát triển, việc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể đi đôi với
việc làm gia tăng lượng khí thải CO2 nếu dòng vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực thuộc công
nghiệp nặng (hay những ngành có phát sinh khí thải cacbon khác). Vì vậy, mối quan hệ giữa
CO2 và tăng trưởng kinh tế đã được nghiên cứu và đánh giá trong nhiều công trình khoa học
trước đây. Một số nghiên cứu đã tìm ra mối quan hệ tuyến tính giữa CO2 và tăng trưởng kinh
tế (Shafik, 1994; Soytas, U., Sari, R., & Ewing, B. T., 2007). Một số nghiên cứu khác lại tìm
ra mối quan hệ hình chữ U ngược (Lean, H. H., & Smyth, R., 2010; Al-Mulali, U., Saboori,
B., & Ozturk, I., 2015).
Vì những lý do trên, chúng tôi đưa thêm các biến FDI và CO2 là các yếu tố đầu vào
phù hợp để đưa vào hàm sản xuất của các nước đang phát triển như các quốc gia Đông Nam
Á trong giai đoạn hiện nay. Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi bổ sung hai yếu tố trên
được đánh giá là tác động cơ bản thông qua các phân tích của nhóm tác giả.
Bài báo sử dụng hàm sản xuất này để ước tính tác động của dòng vốn FDI, lượng khí
thải CO2 và vốn lên tăng trưởng kinh tế. Với mục đích này, hàm sản xuất Cobb – Douglas
bao gồm vốn như một yếu tố cơ bản của sản xuất như trong (Kosztowniak, 2013; Omri và
cộng sự, 2014). Ngoài ra, theo (Pao & Tsai, 2010; Chaabouni & Saidi, 2017; Muhammad,
2019) sản lượng cũng phụ thuộc vào tiêu thụ năng lượng và lượng phát thải CO2. Hơn nữa,
một số nghiên cứu khác, như (Olumuyiwa, 2013), bao gồm FDI trong hàm sản xuất để xem
xét tác động của biến này đối với tăng trưởng kinh tế. Họ nhận thấy rằng FDI kích thích tăng
trưởng kinh tế.
Do đó, chúng tôi xem xét hàm sản xuất kiểu Cobb – Douglas:
𝑌=𝐴𝐾𝛼𝐿𝛽𝐸𝜆(𝐹𝐷𝐼)𝜑𝑒𝜀 (3)
Theo (Pereira & Pereira, 2010), với trình độ công nghệ tại một thời điểm nhất định,
có một mối quan hệ tuyến tính trực tiếp giữa tiêu thụ năng lượng và phát thải CO2, do đó có
thể xem như 𝐸=𝑎∗𝐶𝑂2. Ngoài ra, chúng tôi giả định rằng hàm sản xuất có lợi nhuận không
đổi theo quy mô, nghĩa là: 𝛼+𝛽+𝜆+𝜑=1. Chia (2) bởi 𝐿 để chuyển hóa các chuỗi dữ về
dạng tính bình quan trên đầu người, khi đó ta có phương trình:
𝑌
𝐿=𝐴.(𝐾
𝐿)𝛼(𝐶𝑂2
𝐿)𝜆(𝐹𝐷𝐼
𝐿)𝜑𝑒𝜀 (4)
Sau đó, hàm sản xuất trong phương trình (4) được chuyển thành log như sau
log(𝑌
𝐿)=log(𝐴)+𝛼log(𝐾
𝐿)+𝜆log(𝐶𝑂2
𝐿)+𝜑log(𝐹𝐷𝐼
𝐿)+𝜀 (5)