intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐỘ TIN CẬY CỦA MỘT BÀI KIỂM TRA

Chia sẻ: Le Thuy Duong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

840
lượt xem
80
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐỘ TIN CẬY CỦA MỘT BÀI KIỂM TRA, ThS. VŨ THANH HIỀN Bộ môn Anh văn Khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Độ tin cậy là một trong những tiêu chí thiết yếu nhất của một bài kiểm tra tốt. Do vậy, việc đánh giá một bài kiểm tra chính là đánh giá độ tin cậy của bài kiểm tra đó. Báo cáo xin giới thiệu một số phương pháp để đo độ tin cậy của một bài kiểm tra. Summary: The reliability is one of the most...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐỘ TIN CẬY CỦA MỘT BÀI KIỂM TRA

  1. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐO ĐỘ TIN CẬY CỦA MỘT BÀI KIỂM TRA ThS. VŨ THANH HIỀN Bộ môn Anh văn Khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Độ tin cậy là một trong những tiêu chí thiết yếu nhất của một bài kiểm tra tốt. Do vậy, việc đánh giá một bài kiểm tra chính là đánh giá độ tin cậy của bài kiểm tra đó. Báo cáo xin giới thiệu một số phương pháp để đo độ tin cậy của một bài kiểm tra. Summary: The reliability is one of the most essential criteria of a good test. Therefore, evaluating a test is to evaluate the reliability of the test. The report will present some methods of reliability computation of a test. đạt được độ tin cậy và kết quả bài kiểm tra không được coi là kết quả tin cậy để đánh giá I. ĐẶT VẤN ĐỀ năng lực của người làm bài.Chính vì vậy, có Theo Bachman (1990:3), kiểm tra đóng rất nhiều phương pháp để đo độ tin cậy của một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình một bài kiểm tra. Tuy nhiên, báo cáo này xin giảng dạy. Thông qua kiểm tra, giáo viên có giới thiệu một số phương pháp có thể áp dụng CNTT-CB thể (i) đánh giá được sự tiếp thu của người được để đo độ tin cậy của một bài kiểm tra. học trong những giai đoạn nhất định; (ii) tự đánh giá được các phương pháp giảng dạy II. NỘI DUNG khác nhau; (iii) điều chỉnh kiến thức đầu vào cho phù hợp trong quá trình giảng dạy. Chính * Phương pháp kiểm tra – kiểm tra lại vì vậy, việc thiết kế được những bài kiểm tra (Test-Retest Method) tốt với bốn tiêu chí chính: tính giá trị, độ tin Theo Henning (1987) và Shohamy cậy, tính khả thi, và độ phân biệt là một điều (1985) đây là phương pháp tính độ tin cậy đơn rất cần thiết. giản nhất. Cùng một bài kiểm tra sẽ được tiến Có thể nói độ tin cậy được coi là một hành kiểm tra hai lần cho cùng một đối tượng trong những tiêu chí thiết yếu nhất của một với khoảng thời gian giữa hai lần kiểm tra bài kiểm tra tốt. Harrison (1983) coi độ tin cậy không được quá hai tuần. Và cả hai ông đều là tính nhất quán mà một bài kiểm tra luôn nhất trí rằng giữa hai lần kiểm tra người làm đánh giá chính xác một đối tượng tại các thời bài không được ôn tập lại. Tuy nhiên, để tiến điểm khác nhau. Ví dụ một sinh viên đạt kết hành kiểm tra – kiểm tra lại sẽ không dễ dàng quả thấp đối với một bài kiểm tra ở lần làm vì không ai có thể chắc chắn liệu người làm bài đầu tiên, nhưng hai hôm sau với vẫn bài bài có ôn tập lại hay không. Về mặt tâm lý, kiểm tra đó, người sinh viên này lại đạt kết người làm bài bao giờ cũng muốn đạt kết quả quả cao. Có thể nói bài kiểm tra này không cao hơn trong lần làm bài thứ hai này, nên có
  2. thể họ sẽ dành thời gian để ôn tập lại. RA,B: là hệ số tương quan giữa hai điểm số của hai phần của bài kiểm tra Để đo độ tin cậy theo hình thức này Henning (1987:81) đã đưa ra công thức sau: Để tính hệ số tương quan giữa hai phần của bài kiểm tra (RA,B ), người ta có thể dùng rtt = r1,2 công thức sau: trong đó: rtt là hệ số đo độ tin cậy ∑D 2 6 R A ,B = 1 − r1,2 là sự tương quan giữa kết n (n 2 − 1) quả hai lần làm bài kiểm tra của cùng đối tượng trong đó: RA,B: là hệ số tương quan * Phương pháp chia đôi bài kiểm tra Spearman (Split Half) D: sự chênh lệch điểm của hai Để sử dụng phương pháp này, trước hết phần bài kiểm tra bài kiểm tra phải được chia đôi thành hai phần tương đương nhau và được tiến hành cùng cho n: số lượng bài kiểm tra một đối tượng sinh viên. Để chia bài kiểm tra Nếu RA,B: 0,8 – 1,0 sự tương quan tốt (độ thành hai phần tưương đương, người ta có thể tin cậy cao) sử dụng một số cách khác nhau. Nếu bài kiểm 0,6 – 0,8 sự tương quan trung bình (độ tra bao gồm các câu riêng lẻ, cách thông tin cậy trung bình) thường nhất để chia bài kiểm tra thành hai phần tương đương đó là một phần gồm các 0,4 – 0,6 sự tương quan kém câu số chẵn, phần kia gồm các câu số lẻ. Điểm (độ tin cậy thấp) số của hai phần này sẽ được tính riêng biệt và CNTT- CB 0,2 – 0,4 sự tương quan rất kém được tính tương quan với nhau. Điểm số của (độ tin cậy rất thấp) hai phần này càng giống nhau tức là bài kiểm tra càng có độ tin cậy cao. Có nghĩa là hệ số Tuy nhiên, Theo cả Bachman (1990) và tin cậy lý tưởng giữa hai phần của bài kiểm tra Henning (1987) đều cho rằng độ tin cậy tính sẽ là 1. Bài kiểm tra có hệ số tin cậy là 1 là bài theo phương pháp Split Half có thể không kiểm tra có độ tin cậy cao. Trong khi đó bài mang lại kết quả chính xác vì độ tin cậy có thể kiểm tra có hệ số tin cậy là 0 tức là bài kiểm thay đổi tùy theo bố cục của bài kiểm tra. tra đó không có độ tin cậy. Để khắc phục nhược điểm trên Henning Để tính hệ số tin cậy theo phương pháp (1987:84) đã đưa ra một số công thức tính độ này, người ta sẽ dùng công thức Spearman- tin cậy sau đây: Brown Prophecy như sau: * Công thức 20 của Kuder- 2R A , B Richardson (Kuder-Richardson Formula R tt = 1 + R A,B 20) ∑ n ⎛ S t − Si ⎞ 2 2 trong đó ⎜ ⎟ R tt = ⎜ ⎟ n −1 2 St Rtt: là hệ số tin cậy theo phương pháp ⎝ ⎠ Split Half. trong đó: Rtt: độ tin cậy tính theo công
  3. thức 20 của Kuder-Richardson điểm số bằng với độ lệch chuẩn.(Theo Bachman 1990: 166). n: số câu hỏi trong bài kiểm tra Hệ số tin cậy đạt yêu cầu sẽ trải dài từ 0 S2t: bình phương của độ lệch chuẩn (SD) đến 1 (hHenning 1987:80). Thep Lado (1961), ∑S2i: tổng số sự chênh lệch điểm của tất đối với một bài kiểm tra đọc hiểu môn tiếng cả các câu hỏi Anh (Reading test) có hệ số tin cậy từ 0,9 đến 0,99 tức là bài kiểm tra có độ tin cậy cao, Tuy nhiên công thức này rất khó tính trong khi đó để một bài kiểm tra viết môn toán. Trong trường hợp không tính được sự tiếng Anh (Writing test) có độ tin cậy cao, tức chênh lệch điểm của từng câu hỏi, người ta là hệ số tin cậy phải dao động từ 0,7 đến 0,79. khuyên nên dùng công thức 21 của Kuder- Richardson III. KẾT LUẬN * Công thức 21 của Kuder-Richardson Báo cáo đã giới thiệu bốn phương pháp (Kuder-Richardson Formula 21) có thể áp dụng được để đo độ tin cậy – một ⎛ ⎞ x2 ⎜ ⎟ trong những tiêu chí cần thiết của một bài x− n⎜ ⎟ n R tt = 1− kiểm tra tốt. Hy vọng báo cáo này sẽ là một n −1⎜ ⎟ S2 tài liệu tham khảo bổ ích cho những người t ⎜ ⎟ ⎝ ⎠ thiết kế bài kiểm tra để có được những bài kiểm tra ngày càng chất lượng. trong đó: Rtt: độ tin cậy tính theo công thúc 21 của Kuder-Richardson CNTT-CB n: số câu hỏi trong bài kiểm tra Tài liệu tham khảo x : điểm trung bình chung (Mean) [1]. Bachman, L.F (1990). Fundemental S2t: sự chênh lệch của điểm số Considerations in Language Testing. Oxford: Oxford University Press. Tuy nhiên Shohamy (1985) cũng giới [2]. Harrison, A. (1983). A Language Testing thiệu công thức 21 của Kuder-Richardson Handbook. London: Mcmillian Press. theo một cách tính khác như sau: [3]. Heaton, J.B. (1988). Writing English x − (K − x ) R tt = 1 − Language Tests. London: Long man K (SD) 2 [4]. Henning, G. (1987). A Guide to Language Testing. Cambridge: Newbury House Publishers trong đó: x : điểm trung bình chung (Mean) [5]. Hughes, A. (1989). Testing for Language Teachers. Cambridge: Cambridge University (SD)2: bình phương của độ lệch chuẩn Press. (SD) [6]. Lado, R. (1961). Language Testing. London: K: số câu hỏi trong bài kiểm tra Longman. [7]. Shohamy, E. (1985). A Practical Hanbook in Về mặt cơ bản, mặc dù hai công thức trên Language Testing for the Second Language được tính khác nhau nhưng chúng đều cho Teachers. Tel-Aviv: Tel-Aviv University Press♦ những kết quả như nhau vì sự chênh lệch
  4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỘ TIN CẬY CỦA MỘT BÀI THI NGOẠI NGỮ ThS. BẠCH THỊ THANH Bộ môn Anh văn Khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Giao thông Vận tải Tóm tắt: Đi đôi với dạy và học ngoại ngữ, khâu kiểm tra đánh giá cũng luôn là mối quan tâm của giáo viên và học viên. Thông qua quá trình này giáo viên có thể đánh giá được kết quả học tập của người học, đánh giá được cách dạy của mình và từ đó tìm ra phương pháp phù hợp. Còn đối với học viên quá trình kiểm tra đánh giá sẽ giúp họ biết được khả năng của mình và sẽ cố gắng hơn. Tuy nhiên để có được một bài thi hay một bài kiểm tra đáng tin cậy không phải là một việc dẽ dàng. Bài báo này sẽ đề cập các yếu tố tác động đến độ tin cậy của một bài thi phần nào giúp cho việc thiết kế đề thi và tổ chức thi môn ngoại ngữ được tốt hơn. Summary: Along with the need of teaching and learning foreign languages, the need of testing has gained much concern from teachers and learners as well. Through testing, teachers can evaluate learners’ achievements, self-assess their teaching methods and find out the better way to teach their students. Thanks to testing, learners can know their ability and then try to learn better. However, it is not easy to have a reliable test. This article will mention some factors affecting the reliability of a foreign language test, which can help to have a better test design and administration. CNTT _CB I. ĐẶT VẤN ĐỀ điều chỉnh phù hợp trong giảng dạy để tăng Chúng ta ai cũng biết đi đôi với quá trình tính hiệu quả. giảng dạy và học tập thì khâu kiểm tra đánh giá Rõ ràng kiểm tra đánh giá là việc làm là vô cùng quan trọng. Vì vậy kiểm tra đánh không thể thiếu trong giảng dạy nói chung và giá trong dạy và học ngoại ngữ là một việc tất trong giảng dạy ngoại ngữ nói riêng.Tuy yếu. Đề cập đến vấn đề này Arthur Hughes nhiên việc này chỉ phát huy được tính tích cực trong cuốn Testing for Language Teachers đã của nó khi các bài kiểm tra, bài thi có độ tin khẳng định “ kiểm tra đánh giá là rất cần thiết cậy cao. Bài báo sẽ đề cập đến những yếu tố nhằm cung cấp thông tin về những gì mà người làm tăng độ tin cậy của một bài thi ngoại ngữ. học đạt được, nếu thiếu khâu này sẽ khó có thể II. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỘ đưa ra các quyết định giảng dạy phù hợp” ([1] TIN CẬY CỦA MỘT BÀI THI NGOẠI NGỮ trang 4). Bàn về tầm quan trọng của kiểm tra Độ tin cậy là gì? đánh giá Madsen (1988 : 4) cũng cho rằng các Theo Harrison, độ tin cậy của một bài thi bài kiểm tra tiếng Anh phù hợp có thể giúp là tính nhất quán (consistency), còn Cyril sinh viên học tốt ngôn ngữ này vì họ phải học Weir lại diễn giải như sau: Một bài thi có độ để kiểm tra, sau đó bài của họ lại được giáo tin cậy là bài thi mà kết quả bài làm của thí viên trả và chữa. Theo Heaton việc kiểm tra sinh phản ánh đúng trình độ của họ, nếu bạn cũng rất có ích cho giáo viên, giúp họ đánh giá cho họ làm lại thì bạn vẫn nhận được kết quả được công việc, sự nỗ lực của họ và từ đó có sự
  5. tương tự ([2] trang 20). Điều này cũng được nữa. Độ dài của bài thi nên tuỳ thuộc vào tầm đề cập trong trang web về kiểm tra đánh giá: quan trọng của kết quả bài thi đó. Kết quả của một bài thi được thực hiện với cùng một đối bài thi được sử dụng vào mục đích quan trọng tượng ở những thời điểm khác nhau cho ta hơn thì bài thi nên dài hơn. những kết quả tương tự nhau là bài thi đáng 2. Yêu cầu các phần của bài thi cần cụ thể Yêu cầu của câu hỏi càng cụ thể thì việc tin cậy ([5]). Theo Bachman, 1990, độ tin cậy đánh giá câu trả lời của các thí sinh sẽ càng của bài thi chính là khả năng đánh giá trình độ chính xác hơn. Ví dụ trong một bài thi viết, thí của thí sinh của bài thi đó chính xác đến mức sinh được cung cấp một loạt các chủ đề và họ độ nào ([3] trang 195). Tuy nhiên để bài thi đạt được độ tin cậy có thể viết về một trong những chủ đề này, khi cũng cần lưu ý nhiều yếu tố. đó đề bài sẽ thiếu độ tin cậy vì thí sinh sẽ làm bài rất khác nhau và tiêu chí đánh giá sẽ rất 1. Bài thi nên gồm có nhiều phần, khó chính xác. nhiều dạng bài Bài thi với nhiều dạng bài sẽ đánh giá Theo Hughes, đề bài không nên cho mở chính xác hơn khả năng của người học. Theo quá, các yêu cầu cụ thể cần được nêu rõ trong Arthur Hughes thì một bài thi càng có nhiều đề. Hãy so sánh các đề kiểm tra viết sau để câu hỏi đa dạng thì độ tin cậy càng cao và thấy rõ hơn điều này. a. Write a composition on education. theo ông điều này đã được chứng minh qua b. Write a composition on education in thực tế ([1] trang36). Tuy nhiên cần lưu ý rằng các câu hỏi sau Vietnam. không nên liên quan đến kết quả của câu trước c. Write a composition on how we might đó. Ví dụ trong một bài kiểm tra đọc ta có câu improve education in Vietnam. d. Discuss the following measures to hỏi trước là “Where did the child find her CNTT_C improve education in Vietnam: mother?” và câu hỏi tiếp theo là “What was B - Improve the facilities (rooms, unusual about the place ?”. Như vậy câu hỏi equipment, …) thứ hai sẽ không làm tăng độ tin cậy của bài thi - Improve the programs vì nếu thí sinh trả lời sai câu thứ nhất thì sẽ dẫn - Provide training for teachers đến trả lời câu hỏi thứ hai cũng sai. Các câu hỏi Như vậy đề thi dạng thứ tư sẽ cho ta độ tin trong bài thi nên càng khác biệt càng tốt, khi đó cậy cao hơn cả vì các yêu cầu đưa ra cụ thể hơn. bài thi sẽ kiểm tra được nhiều kiến thức đa dạng của người học và độ tin cậy của bài thi sẽ 3. Các câu hỏi trong bài thi không nên càng cao. Điều này đã được Hughes và Cyril bị mơ hồ Các câu hỏi phải thật rõ ý, tránh tình trạng Weir khẳng định “...các câu trong đề thi nên là thí sinh đưa ra câu trả lời mà người ra đề không các câu không phụ thuộc nhau...” ([1] trang37); lường trước được. Ví dụ trong một bài đọc của đề “Nhìn chung cần tránh sự phụ thuộc nhau của thi tuyển sinh cao học của trường Giao thông có các câu hỏi, tức là việc trả lời một câu hỏi này đoạn mở đầu như sau “Three people jumped out không nên liên quan đến khả năng trả lời một of a car on a busy Oxford Road after a fire started câu hỏi khác ([2] trang 24). Độ dài của bài thi under the bonnet this morning…”, và người ra đề cũng quyết định độ tin cậy của nó, bài thi càng đã đặt câu hỏi “Where did the fire break out?” với dài thì độ tin cậy càng cao ([5]). Tuy nhiên đáp án là “Oxford Road”, nhưng khi chấm chúng theo cả Arthur Hughes và Cyril Weir thì bài thi tôi đã nhận được một câu trả lời rất khác nhưng cũng không nên quá dài vì như vậy sẽ làm cho cũng đúng từ phía thí sinh là “under the bonnet”. thí sinh quá mệt mỏi, khi đó câu trả lời của họ Như vậy, nếu không đọc bài đọc mà giáo viên cứ sẽ không còn phản ánh đúng khả năng của họ
  6. chấm theo đáp án thì câu trả lời “under the không nên quá sít nhau. Chẳng hạn việc thí bonnet” sẽ bị coi là sai và thí sinh sẽ mất điểm. sinh phải lật đi lật lại các trang để trả lời câu Những câu hỏi như thế sẽ làm cho độ tin cậy của hỏi bài đọc là một điều không hợp lý trong đề thi giảm đi. Để tránh tình trạng này đề thi nên khâu trình bày. Việc in ấn, nhân bản cũng phải được đưa cho các giáo viên khác đọc và kiểm tra được làm cẩn thận để có được những đề thi rõ thật kỹ lưỡng trước khi thi hoặc tiến hành kiểm ràng tạo điều kiện cho thí sinh làm bài tốt. tra thử với một nhóm người có trình độ tương 6. Thí sinh nên được làm quen trước đương với nhóm thí sinh đích. Tuy nhiên cũng với dạng bài thi và kỹ thuật làm bài Để có được điều này các thí sinh nên cần phải có biện pháp để bảo đảm bí mật của đề luyện trước các bài mẫu (sample tests) hoặc thi. Trong trường hợp đặc biệt không thể làm như làm các đề thi của những năm trước hoặc sử vậy thì khi chấm giáo viên phải hết sức lưu ý để dụng những tài liệu trong đó có các dạng bài phát hiện được các vấn đề nảy sinh và tìm ra cách của đề thi. Cyril Weir đã đề cập này: “Nhìn giải quyết hợp lý để đảm bảo sự công bằng cho chung việc cung cấp cho thí sinh các dạng câu thí sinh. hỏi thi để họ làm quen trước kỳ thi là rất hữu 4. Các câu chỉ dẫn trong đề thi phải ích…” ([2] trang 24). Qui trình kiểm tra đánh thật rõ ràng và chính xác Điều này cần phải được chú ý đối với cả giá môn tiếng Anh tại trường Đại học Giao những chỉ dẫn bằng lời nói hoặc bằng chữ viết. thông cũng đã có bước này. Sinh viên được Nhiều khi người ra đề cho rằng việc hiểu chính làm quen với dạng bài thi thông qua bài mẫu xác yêu cầu đề bài là một việc dễ dàng với thí trong giáo trình, bài kiểm tra giữa kỳ và được sinh nên đã không cẩn thận khi ra đề và thường giáo viên hướng dẫn kỹ thuật làm bài cẩn thận đổ lỗi cho sự kém cỏi của thí sinh. Nhưng trong trong quá trình học. thực tế học sinh khá mới là những người hay 7. Việc tiến hành thi phải được tổ chức CNTT hiểu khác ý của người ra đề. Trong cuốn đồng nhất trong điều kiện yên tĩnh _CB Một đề thi tốt nhưng không được tổ chức Testing for Language Teachers, Arthur Hughes thi nghiêm túc sẽ không đạt được độ tin cậy cho rằng khi đưa ra chỉ dẫn bằng lời nói cũng cao. Kỳ thi được tiến hành trong các điều kiện nên viết cẩn thận ra giấy trước rồi sau đó mới khác nhau sẽ cho các kết quả khác nhau vì vậy đọc. Cyril Weir cũng nêu lên vấn đề này trong sự đồng nhất trong cách tổ chức thi là rất quan cuốn Understanding & Developing Language trọng. Ví dụ việc bố trí phòng thi, định thời Tests: “…nếu chỉ dẫn quá phức tạp, có thể dịch gian, giám sát thời gian làm bài, điều kiện âm chỉ dẫn đó ra tiếng mẹ đẻ cho thí sinh…” vì thanh, loa đài phải được chú ý thực hiện tốt, theo ông “mục đích của bài thi không phải là đặc biệt khi cho thí sinh nghe không nên để kiểm tra khả năng hiểu những chỉ dẫn đó….”. các âm thanh khác làm mất sự tập trung của Tuy nhiên cũng có những tranh cãi về vấn đề thí sinh. Tại trường Giao thông đây là khâu dịch chỉ đẫn ra tiếng mẹ đẻ này. Việc hiểu sai cần phải xem xét cải tiến nhiều. Hiện nay việc yêu cầu đề bài trong đề thi tiếng Anh đối với thi nghe của sinh viên được thực hiện qua đài, sinh viên trường Giao thông thường không xảy băng với chất lượng không được tốt lắm, hơn ra vì các em đã được làm quen với dạng bài nữa việc bố trí phòng thi hẹp hay rộng cũng trước khi thi và chỉ dẫn trong bộ đề thi tiếng ảnh hưởng đến chất lượng bài nghe. Khi thi để Anh nhìn chung là ổn. đảm bảo sự nghiêm túc, tốt nhất là mỗi người 5. Bài thi phải được trình bày rõ ràng một bàn nhưng đôi lúc do thiếu phòng nên hai và hợp lý Bài thi cần được đánh máy (hoặc viết thí sinh ngồi chung một bàn, khi đó không tay) cẩn thận, trình bày gọn gàng, các chữ tránh khỏi hiện tượng bàn bài hoặc quay cóp.
  7. - Bài thi nên được đánh số chứ không nên ghi 8. Việc chấm bài phải được thực hiện tên để đảm bảo sự khách quan. Các nghiên cứu tốt bao gồm các yếu tố sau: cho thấy việc ghi tên hoặc dán ảnh trên bài thi - Việc cho điểm phải khách quan : Theo cũng có ảnh hưởng phần nào đến việc cho điểm. Arthur Hughes, để có tính khách quan cao khi - Bài thi nên được chấm ít nhất hai vòng chấm bài nên sử dụng dạng đề thi trắc nghiệm. độc lập và sẽ có người thứ ba đưa ra điểm kết Tuy nhiên việc ra đề thi dạng này khó và đòi luận trên cơ sở điểm của hai vòng chấm trước. hỏi phải thử nghiệm nhiều. Ông còn đề xuất một dạng nữa là câu hỏi mở với câu trả lời Trên đây là một số yếu tố ảnh hưởng đúng chỉ là một từ (open-ended item). Ví dụ, đến độ tin cậy của bài thi, ngoài ra để có được sau khi nghe một bài thí sinh phải trả lời câu một bài thi chất lượng chúng ta còn phải chú ý hỏi “What was different about the results?” và đến độ giá trị (validity), tính thực tiễn câu trả lời đúng là “Success was closely (practicality) của bài thi đó. associated with high motivation”. Với câu trả III. KẾT LUẬN lời dài như vậy việc cho điểm sẽ khó khách Kiểm tra đánh giá là khâu vô cùng quan quan được. Việc chấm điểm sẽ có độ tin cậy trọng trong quá trình dạy và học, nhưng thực cao hơn nếu thí sinh được cung cấp một phần hiện việc đó như thế nào để đạt được hiệu quả của câu trả lời. Ví dụ câu hỏi trên có thể ra như và có độ tin cậy cao lại là một vấn đề. Trong sau: “What was different about the results?” - phạm vi bài báo này tôi đã trình bày một số yếu “…was closely associated with high...”. Đối tố quyết định độ tin cậy của một bài thi nói với đề thi viết, để việc cho điểm đạt độ khách chung và một bài thi ngoại ngữ nói riêng. Trong quan cao đề bài cần cho rất cụ thể (Ví dụ như những năm qua bộ đề thi tiếng Anh của trường đề viết thứ tư ở phần 2) Giao thông đã được sửa đổi bổ sung liên tục. - Phần đáp án và thang điểm cần phải thật Sắp tới bộ môn Anh văn cũng sẽ làm lại các chi tiết. CNTT_C B băng đĩa phục vụ cho thi nghe để có chất lượng Tất cả các phương án trả lời chấp nhận tốt hơn. Hy vọng rằng bài báo này sẽ là tài liệu được đều phải được đưa ra. Muốn đạt độ tin tham khảo giúp cho việc cải tiến các khâu ra đề cậy, thang điểm nên càng cụ thể cho từng phần cũng như tổ chức các kỳ thi tiếng Anh của bộ nhỏ càng tốt. Để làm được điều này sự tham môn Anh văn được tốt hơn trong thời gian tới. khảo ý kiến của các đồng nghiệp là rất cần thiết. Theo Cyril Weir, thì thang điểm và thời gian làm bài của từng phần (nếu bài thi gồm Tài liệu tham khảo nhiều phần có độ dài khác nhau) cũng nên cho [1]. Arthur Hughes, 1997. Testing for Language Teachers. Cambridge University Press. thí sinh biết để họ có thể có chiến lược làm bài [2]. Cyril Weir, 1993. Understanding & đạt hiệu quả cao nhất ([2] trang 25). Developing Language Tests. - Giáo viên chấm thi cần phải được [3]. Gary Buck. Assessing listening. Cambridge hướng dẫn đầy đủ và cẩn thận, đặc biệt là University Press. những người chấm bài viết luận. [4]. Nguyễn Thị Thu Hương. Towards improving positive backwash effects of English in-term tests - Nhóm chấm thi cần nghiên cứu đáp án A3 in assessment of students’ performance at the và thang điểm kỹ càng và chỉ bắt tay vào university of transport and communications (Luận chấm khi tất cả cùng nhất trí về đáp án cũng văn thạc sỹ) như thang điểm đó. Trong quá trình chấm nếu [5].Trang web : http://www.ewaygo.net/site/index.php?option=co có vấn đề nảy sinh, cán bộ giám sát cần phải m_content&view=article&id=85%3Atesting-and- trao đổi tìm ra giải pháp phù hợp rồi thông teaching-brief- báo cho tất cả cán bộ chấm thi có liên quan. introduction&Itemid=64&limitstart=2♦
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0