Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh
loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường
chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng
được mã hoá bằng công thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là
nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh: T’>T.
Từ công thức này, có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là ngân hàng có
nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn
điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn
vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương
trường.
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau , nếu không có uy tín thì ngân
hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín được thể
hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh
toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại
trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của
ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với khả năng huy
động vốn cao , ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở
rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, góp phần vừa giữ được chữ
tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh giúp
các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng vốn chính là
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh: quy
mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho
việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng
trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên
giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn
cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên thương trường sức cạnh tranh của ngân hàng
sẽ tăng lên.
1.2.3 Nguồn vốn huy động
1.2.3.1 Nguồn tiền gửi :
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương
mại . Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động , nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản
tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy
động tiền của các doanh nghiệp , các tổ chức và của dân cư .
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng , chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao , các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức
huy động khác nhau .
a, phân loại theo thời hạn :
- tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác định,
khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích của
khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi có
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ
phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành.
-Tiền gửi có kỳ hạn :
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian xác
định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền khi đến
thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc
trên thế nữa. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền trước thời hạn
của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã được nới lỏng: các
ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước hạn nhưng phải báo trước cho
ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trước người gửi sẽ không
được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.
b, phân loại theo đối tượng :
- tiền gửi của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến.Trong
điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng , họ đều có thể gửi tiết kiệm với mục
tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc biệt là nhu cầu
bảo toàn . Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm , các ngân hàng đều khuyến
khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách ở rộng mạng
lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp
dẫn …
- tiền gửi của các doanh nghiệp , các tổ chức xã hội .
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các đơn vị
này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng này
thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng yêu
cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các khoản phải
thanh toán nên ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định, điều này lí giải
vì sao ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh vực này, có chi
phí thấp và được sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy
nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy mô, loại
hình của doanh nghiệp.
c, phân loại theo mục đích :
- tiền gửi tiết kiệm :
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào ngân hàng,
nhằm hưởng lãi suất theo qui định . Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập bằng tiền
của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng . Nó là một dạng
đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân . Khi gửi tiền người gửi được
giao một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng . Đến thời
hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền lãi trên
tổng số tiền gửi tiết kiệm .Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm không
kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn .
- tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán .
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ . Trong phạm vi số dư cho phép , các nhu cầu chi trả của
doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng thực hiện . Các khoản thu bằng tiền
của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
yêu cầu . Lãi suất của khoản tiền này rất thấp , thay vào đó chủ tài khoản có thể
được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.
- tiền gửi “ lai ” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch )
Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán hộ , vừa
có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy nhiên , lãi suất
của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết kiệm bởi tính cố định
của khoản gửi , ngân hàng có thể không sử dụng được hoặc sử dụng rất ít số vốn
huy động này để cho vay hoặc đầu tư.
1.2.3.2 Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại . Tuy nhiên khi cần
các ngân hàng thường vay mượn thêm . Tại nhiều nước , ngân hàng Trung ương
thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều ngân
hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả
khi khả năng huy động bị hạn chế .
- vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các ngân hàng
thương mại Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ , ngân hàng thương mại thường vay
ngân hàng Nhà nước . Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái
chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ) . Thông thường , ngân hàng Nhà nước chỉ chiết khấu
cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn , khả năng trả nợ
cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ . Trong
điều kiện chưa có thương phiếu , ngân hàng nhà nước cho ngân hàng thương mại
vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định .
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
- vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng . Các ngân hàng đang có lượng dự trữ vượt yêu
cầu sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn .
Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để
đảm bảo thanh khoản . Như vậy nguồn vay các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu
cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế
cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước .
- vay trên thị trường vốn
Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài chính.
Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc ngân hàng
thiếu vốn là điều không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp này, ngân hàng có
thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát hành các giấy tờ
có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Việc chuyển
nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào thoả
thuận giữa ngân hàng và khách hàng . Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu và phát
hành trái phiếu. Trái phiếu là một giấy tờ có giá , xác nhận khoản nợ của khách
hàng đối với người chủ ngân hàng với cam kết như thanh toán một số tiền xác định
vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho trước.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành
nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch kinh
doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh doanh…
1.2.3.3 Nguồn khác
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Ngoài các nguồn trên , ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thông qua nguồn uỷ
thác , nguồn trong thanh toán , các nguồn khác.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay , uỷ thác
đầu tư , uỷ thác cấp phát , uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên
nguồn uỷ thác tại ngân hàng . Ngoài ra , các hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả , tiền ký
quỹ để mở L/C …) . Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả …cũng
góp phần làm tăng nguồn huy động trong công tác huy động vốn của ngân hàng
thương mại .
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác huy động vốn
1.2.4.1 Chi phí huy động vốn :
a, Lãi suất huy động
Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế. Người
gửi muốn một lãi suất cao , người vay lại muốn lãi suất thấp . Là trung gian đóng
vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên , ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh mức lãi
suất sao cho hợp lý nhất đối với các bên , trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo
lợi ích của ngân hàng . Vì vậy trong huy động vốn , mỗi ngân hàng đều cố gắng áp
dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí
huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một mức
lãi suất chấp nhận được trên thị trường . Chi phí huy động được đánh giá qua hệ
thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân (tính bằng bình quân gia quân gia
quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy động của
từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com
Mặt khác , cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân , sự đa dạng hoá trong lãi
suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết , Sự đa dạng hoá lãi
suất làm cho tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra . Nếu
có chính sách lãi suất phù hợp , hiệu quả , ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi phí
trong khi vẫn hoàn thanh kế hoạch về nguồn vốn .
b , Chi phí khác
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất , trong quá trình huy động vốn còn có các chi phí
khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động , chi phí in ấn phát hành , chi phí
cơ sở vật chất , chi phí giao dịch quảng cáo … Tuy chi phí này chiếm một tỷ trọng
tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho
ngân hàng.
1.2.4.2 Các hình thức huy động vốn.
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút nguồn
vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng nhiều. Vì
vậy độ đa dạng của các hìng thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh giá hiệu
quả của công tác huy động vốn ở các ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các công cụ
ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh, mỗi ngân
hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số lượng các công cụ huy động
càng nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn, tuy nhiên số
lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của ngân hàng. Một ngân
hàng sử dụng nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng nghĩa với việc
công tác huy động vốn của ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ được coi là có