
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 25, Số 1D (2024)
153
NGHIÊN CỨU NIÊN ĐẠI CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC VĂN MIẾU – QUỐC
TỬ GIÁM HÀ NỘI TỪ QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI MẶT BẰNG BỐ TRÍ TỔNG THỂ
(Phân tích từ dữ liệu khảo sát hiện trạng và tái kiểm chứng sử liệu
từ cuối triều Lê cho đến ngày nay)
Phan Thanh Tùng
Công ty kiến trúc KenBun, Tokyo, Nhật Bản
Email: phanthanhtung.kts@gmail.com, phan@kenbun.co.jp
Ngày nhận bài: 21/4/2024; ngày hoàn thành phản biện: 13/6/2024; ngày duyệt đăng: 24/7/2024
TÓM TẮT
Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội được giới học giả tại Việt Nam và cả nước ngoài
quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện, lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, đến
nay vẫn chưa có nghiên cứu sâu về lịch sử kiến trúc và niên đại các công trình. Tại
nghiên cứu này, tác giả đã thu thập sử liệu và dữ liệu bản vẽ hiện trạng liên quan
đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội từ cuối triều Lê cho đến ngày nay. Dựa trên
thủ pháp phân tích, đối chiếu, so sánh, khảo sát theo phương pháp đi ngược dòng
thời gian lịch sử, nghiên cứu đã làm rõ quá trình chuyển biến mặt bằng tổng thể từ
cuối thế kỷ 18 cho đến ngày nay và kiểm chứng được niên đại của 2 công trình chính
là Đại Thành Điện và Đại Bái Đường.
Từ khóa: Kiến trúc Văn Miếu, Kiến trúc Nho Giáo, Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà
Nội.
1. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU
Nho giáo là một hệ tư tưởng, hệ triết học phương Đông do Khổng Tử1 (552-
479.TCN) hệ thống hóa từ thời Xuân Thu. Thông qua các dữ liệu lịch sử, từ triều Lê Thái
Tổ đã lựa chọn Nho giáo làm quốc giáo và Văn Miếu – Quốc Tử Giám (phía dưới viết
tắt:VM-QTM) Hà Nội là nơi thờ cúng, tế lễ hàng năm của các vua quan, đồng thời cũng
chính là nơi đào tạo quan lại cao cấp cho nhà nước, hay còn gọi là trường đại học của cả
nước. Tại Việt Nam, đại diện tiêu biểu cao nhất trong các công trình kiến trúc Nho giáo
vào thời phong kiến đó chính là VM-QTM Thăng Long (ngày nay là VM-QTM Hà Nội)
1 Theo Tsuboi, Nho giáo ở Việt Nam: Đức Khổng Tử là người được tôn thờ ở Văn Miếu với
danh xưng ‘Thiên hạ biểu sư’ (bậc thầy của thiên hạ) [1].

Nghiên cứu niên đại các công trình kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội …
154
vào thời Lý (1010 - 1225), thời Trần (1225 - 1413), Tiền Lê (1428 - 1592), Lê Trung Hưng
(1533 - 1789). Hiện nay, VM-QTM Hà Nội về tổng thể vẫn giữ nguyên vẹn trong nhiều
phần (ngoại trừ khu vực Quốc Tử Giám đã được phục dựng vào năm 2000), nhưng vẫn
chưa có nghiên cứu sâu về kiến trúc và lịch sử của nó. Một số học giả lại cho rằng công
trình kiến trúc chính của VM-QTM Hà Nội từ thời kỳ Lê Trung Hưng (1533 - 1789), một
số ý kiến khác lại cho rằng đó hoàn toàn là kiến trúc đầu thời Nguyễn (1802 - 1945).
Do vậy, thông qua nghiên cứu kiến trúc VM-QTM Hà Nội, tác giả muốn làm rõ
một phần kiến trúc Nho giáo tại Việt Nam. Tại nghiên cứu này, tác giả làm rõ quá trình
thay đổi và chuyển biến kiến trúc của VM-QTM Hà Nội qua các triều đại ở Việt Nam,
cũng như xác định niên đại một số công trình chính thuộc VM-QTM Hà Nội.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu này nhằm làm rõ 2 vấn đề:
- Làm sáng tỏ quá trình biến đổi mặt bằng bố trí tổng thể của VM-QTM Hà Nội
từ thời Lê Trung Hưng cho đến ngày nay.
- Kiểm chứng lại niên đại các công trình kiến trúc Đại Thành Điện và Đại Bái
Đường của VM-QTM Hà Nội.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tại nghiên cứu này, tác giả sử dụng 4 phương pháp chính: (1) tập hợp tìm kiếm
các dữ liệu lịch sử gốc qua các triều đại phong kiến, từ đó sắp xếp lại các ghi chép, thông
tin liên quan đến VM-QTM Hà Nội theo niên đại, theo từng thời gian của sử liệu, (2)
khảo sát các bản vẽ mặt bằng tổng thể kiến trúc VM-QTM Hà Nội gốc đã được đo vẽ
trong quá khứ (bảng 1), tiếp đó là đối chiếu, so sánh sự thay đổi của mặt bằng bố trí theo
ngược dòng lịch sử (thứ tự từ G→A), (3) tiến hành điều tra thực địa các công trình kiến
trúc tại VM-QTM Hà Nội để nắm rõ hiện trạng và so sánh với công trình thời trước, (4)
xác nhận thông tin niên đại qua các văn bia, ký tự trên các khung gỗ để phán đoán niên
đại các công trình kiến trúc, dựa trên tiêu chuẩn tỷ lệ kích thước và số lượng đòn tay.
Bảng 1. Thống kê nguồn dữ liệu từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 20 (nguồn: tác giả)
No.
Tên dữ liệu
Thể loại
Niên đại
A
Lê Quý Đôn – “見聞小緑”Kiến Văn Tiểu Lục [2]
Hán văn
1777
B
La citadelle dans la ville, 1 ère motitié du XIXe
sièclen(Thành trong Nội thành, đầu thế kỷ 19) [3]
Bản đồ
Đầu thế kỷ 19
C
HANOI 1873河内嗣德貳拾陸年 [3]
Bản đồ
1873

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 25, Số 1D (2024)
155
D
Bản vẽ kiến trúc sư người Pháp Voyer [4]
Bản vẽ
1899
E
Thư từ giữa quan lại Pháp và quan lại triều Nguyễn
[5]
Thư từ
1884 - 1940
F
Bản vẽ của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp(Louis
Bezacier) (E.F.E.O) [6]
Bản vẽ
1901 - 1954
G
Mặt bằng tổng thể [7]
Bản vẽ
1958 - 1989
4. QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI MẶT BẰNG BỐ TRÍ TỔNG THỂ DỰA VÀO PHÂN TÍCH
CÁC TƯ LIỆU THU THẬP ĐƯỢC
Hiện nay, mặt bằng tổng thể của VM-QTM Hà Nội được cấu tạo đối xứng trái
phải theo trục chính bắc-nam và hướng về phía nam. Dựa theo bản vẽ của Viện Viễn
Đông Bác Cổ Pháp do Louis Bezacier vẽ vào khoảng năm 19352,VM-QTM Hà Nội được
chia thành 5 khu vực dựa trên tiêu chuẩn của Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp. Mỗi khu
vực có phạm vi và đặc điểm riêng, Khu vực 1: Từ Cổng Văn Miếu đến Cổng Đại Trung,
có 2 hồ và các lối đi được kết nối từ Cổng Văn Miếu đến 3 Cổng Đại Trung, Đạt Tài và
Thành Đức. Khu vực 2: Từ Cổng Đại Trung đến Cổng Khuê Văn, có 2 hồ và 3 lối đi lần
lượt được kết nối như sau: Cổng Đại Trung – Cổng Khuê Văn, Cổng Thành Đức – Cổng
Súc Văn, Cổng Đạt Tài – Cổng Bí Văn. Khu vực 3: Từ Cổng Khuê Văn đến Cổng Đại
Thành, có giếng Thiên Quang và các dãy nhà bia tiến sĩ gồm 4 vị trí nhà bia hình chữ
nhật (Nhà bia A-B-C-D)3. Khu vực 4: Từ Cổng Đại Thành đến Cổng Thái Học, có sân
lớn, Đại Thành Điện, Đại Bái Đường, Đông Vu và Tây Vu. Khu vực 5: Từ Cổng Thái Học
đến hết địa phận, là khu vực Khải Thánh mới, bao gồm Tiền Đường, Hậu Đường, Tả
Vu, Hữu Vu, Lầu Chuông và Lầu Trống.
Ở bản nghiên cứu này, bằng phương pháp kiểm chứng, đối chiếu, so sánh giữa
các bản vẽ mặt bằng bố trí công trình và các sử liệu gốc ghi chép về bố trí kiến trúc VM-
QTM Hà Nội dựa trên thủ pháp đi ngược dòng lịch sử (theo như bảng 1). Thông qua
việc phân tích các dữ liệu trên, tác giả đã phân chia thành 4 thời kỳ của quá trình biến
đổi mặt bằng bố trí tổng thể từ cuối thế kỷ 18 đến hiện nay (hình 1). Dưới đây sẽ miêu
tả từng thời kỳ như sau:
2 Dựa theo bản vẽ Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội của L.BEZACIER”RELEVES DE
MONUMENT ANCIENS DU NORD VIETNAM” [6].
3 Dựa theo sơ đồ bố trí hai dãy nhà bia của Ngô Đức Thọ [8].

Nghiên cứu niên đại các công trình kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội …
156
Thời kỳ thứ nhất: Hoàn thành (Cuối thế kỷ 18)
Trong thời kỳ này, khu vực 1 không tồn tại. Đối với khu vực 2, do hạn chế dữ
liệu, không rõ liệu đã được xây dựng hay chưa. Khu vực 3 bao gồm 2 dãy nhà bia phía
đông và phía tây. Khu vực 4 có Đại Thành Điện - Tiền Đường, Đông Vu - Tây Vu, Cổng
Đại Thành và các công trình bên ngoài như Điện Canh Phục, Nhà Bếp. Khu vực 5 (Quốc
Tử Giám) chủ yếu là cơ sở giáo dục Nho sĩ, với các công trình như Minh Luân Đường,
Cổng Thái Học và Giảng Đường. Mặc dù không làm sáng tỏ hoàn toàn, nhưng mặt bằng
tổng thể của VM-QTM Hà Nội đã cơ bản hoàn thành vào thời kỳ này.
Thời kỳ thứ hai: Cải Tạo (Đầu thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 19)
Trong thời kỳ này, khu vực 1 và 2 được quy hoạch mới với xây dựng các công
trình Nghi Môn, Tứ Trụ, Bia Hạ Mã. Khu vực 3 dựa vào “題名碑亭記”(Đề Danh Bi
Đình Ký) năm 1863 hai dãy nhà bia phía Đông và phía Tây được tái dựng lại, cùng với
việc xây dựng Khuê Văn Các vào năm 1805. Ở khu vực 4, các công trình phụ như Điện
Hình 1. Quá trình biến đổi Mặt bằng Tổng thể VM-QTG Hà Nội từ cuối thế kỷ 18 đến nay (hình
vẽ sơ lược, (Nguồn: tác giả)
Canh Phục, Nhà Bếp không còn tồn tại. Quốc Tử Giám (Thái Học) của khu vực 5 đã bị
thay đổi bởi Khải Thánh Từ, Tả Vu và Hữu Vu. Do việc dời chuyển thủ đô từ Hà Nội
vào Huế, VM-QTM Hà Nội trở thành Văn Miếu Bắc Thành (Văn Miếu Hà Nội), và các
công trình tại Quốc Tử Giám được thay đổi thành phủ học Hoài Đức, sau đó được tháo
bỏ và thay bằng Khải Thánh Từ.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 25, Số 1D (2024)
157
Thời kỳ thứ ba: Cải biến (Đầu thế kỷ 20 đến năm 1975)
Vào thời kỳ thuộc địa Pháp (1887 - 1945), dựa vào các bản vẽ quy hoạch thành
phố Hà Nội có thể thấy được, tại VM-QTM Hà Nội như sau, Khu vực 1: Cổng Văn Miếu
được xây mới, Tứ Trụ và Bia Hạ Mã được di dời phía trước. Khu vực 2: Cổng Nghi Môn
thay bằng Cổng Đại Trung, với Cổng Thành Đức và Cổng Đạt Tài mới. Khu vực 3: Hai
dãy nhà bia thay bằng 2 Bi Đình ở phía Đông và phía Tây. Khu vực 4: Đình Thiêu Hương
mới, và thêm 4 cổng phụ: Cổng Kim Thanh, Cổng Ngọc Chấn, Cổng Ngách Đông, và
Cổng Ngách Tây. Khu vực 5: Các công trình chính ít thay đổi, nhưng có nhiều cổng phụ
hơn. Chiến tranh Đông Dương(1946 - 1954) đã làm hủy hoại hầu hết các công trình kiến
trúc, được tái phục hồi sau năm 2000.
Thời kỳ thứ tư: Phục hưng (Sau chiến tranh năm 1975 đến ngày nay)
Khu vực 1 và 2 giữ nguyên bố trí các công trình kiến trúc như thời kỳ thứ ba,
nhưng cải tạo lại hình dạng các hồ và lối đi. Khu vực 3 mở rộng diện tích về phía Đông,
bổ sung các công trình bảo tồn tấm bia Tiến sĩ và tái dựng lại các nhà Bi Đình. Khu vực
4 mở rộng diện tích về phía Đông. Trong giai đoạn này, khu vực 5 bị tàn phá bởi chiến
tranh, được xây dựng lại thành khu vực Quốc Tử Giám mới, bao gồm Tiền Đường - Ống
Muống - Hậu Đường và nhà Tả Vu, Hữu Vu được tái dựng.Thêm vào đó, Lầu Trống và
Lầu Chuông được xây dựng mới và bố trí ở hai bên trái và phải của Quốc Tử Giám.
5. PHÂN TÍCH KIẾN TRÚC ĐẠI THÀNH ĐIỆN VÀ ĐẠI BÁI ĐƯỜNG VM-QTM
HÀ NỘI
Qua quá trình phân tích sự biến đổi mặt bằng bố trí các công trình kiến trúc tại
VM-QTM Hà Nội, trong đó tác giả nhận thấy rằng, các công trình chính Đại Thành Điện,
Đại Bái Đường hầu như không có sự thay đổi chuyển biến nào về quy mô kích thước và
vị trí công trình, do vậy có thể nhận định ban đầu là những công trình kiến trúc cổ hiện
còn tại VM-QTM Hà Nội. Chính vì vậy, tác giả muốn đi sâu khảo sát kỹ hơn về niên đại
của Đại Thành Điện, Đại Bái Đường.
5.1. Đại Thành Điện
Quy mô kiến trúc (hình 2) gồm: chiều ngang 9 gian, chiều dọc (chiều sâu) 3 gian,
có hình thức mái đầu hồi. Ở phía trước gian giữa tiếp nối với không gian Đình Thiêu
Hương. Từ gian thứ nhất (gian trung tâm của 9 gian) đến gian thứ tư của mặt trước Đại
Thành Điện được bố trí cửa theo kiểu Thượng Song Hạ Bản, ở gian thứ năm được bố trí
hệ cửa sổ chấn song gỗ và ở phần dưới cửa còn được chạm khắc hình rồng. Ở hai bên và
phía sau Điện có hệ thống tường gạch bao quanh. Bên trong, Khổng Tử - Tứ Phối - Thập
Triết được bố trí thờ tự.