
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 23, Số 1 (2023)
173
DI SẢN CÔNG NGHIỆP: NHẬN DIỆN GIÁ TRỊ DI SẢN VÀ ĐỊNH HƯỚNG
BẢO TỒN, TÁI SỬ DỤNG THÍCH ỨNG NHÀ MÁY XI MĂNG LONG THỌ
VÀ NHÀ MÁY NƯỚC VẠN NIÊN Ở HUẾ
Bùi Thị Hiếu*, Nguyễn Quang Huy
Khoa Kiến trúc, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
*Email: buihieu@husc.edu.vn
Ngày nhận bài: 25/8/2023; ngày hoàn thành phản biện: 12/9/2023; ngày duyệt đăng: 4/12/2023
TÓM TẮT
Nhà máy vôi thuỷ Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên được xây dựng dưới thời
Pháp thuộc là những công trình công nghiệp có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa
học, kỹ thuật, kiến trúc…, đánh dấu bước ngoặc quan trọng trong thời kỳ phát triển
công nghiệp sơ khai của Thành phố Huế. Trong bài báo này, thông qua phương
pháp tiếp cận các khái niệm liên quan đến “di sản công nghiệp” và “tái sử dụng
thích ứng”, phương pháp phân tích và so sánh dựa vào các tư liệu cũ, không ảnh,
ảnh VR360 và những hình ảnh thu thập được trong quá trình khảo sát thực địa,
nhóm tác giả muốn nhìn nhận và nhận diện giá trị di sản của nhà máy xi măng Long
Thọ và nhà máy nước Vạn Niên, đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, ứng xử với
di sản và đề xuất những định hướng nhằm bảo tồn và phát huy giá trị.
Từ khoá: Di sản công nghiệp, nhà máy xi măng Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên,
tái sử dụng thích ứng.
1. MỞ ĐẦU
Trên thế giới, rất nhiều các nhà máy công nghiệp mặc dầu không còn giá trị phục
vụ sản xuất vì đã cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời nhưng vẫn được bảo tồn và phát huy giá trị
trong đời sống đương đại, được tái tạo và có thể trở thành yếu tố phát triển công nghiệp
văn hoá, công nghiệp sáng tạo, kinh tế du lịch…Một số ví dụ có thể kể đến như: bảo tàng
nghệ thuật đương đại Tate Morderne (Anh) được tái thiết và chuyển đổi công năng từ
một nhà máy điện cũ; bảo tàng lịch sử công nghiệp Nagasaki Shipyard Museum (Nhật)
được hình thành từ bến tàu cảng công nghiệp cũ; khu phức hợp văn hóa Friche La Belle
De Mai (Pháp) được tái thiết từ nhà máy thuốc lá…Những công trình công nghiệp này,
được nhận diện, nhìn nhận với những giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học kỹ thuật,
xã hội, qui hoạch, cảnh quan, kiến trúc…hay nói một cách khác, chúng được nhìn nhận
là di sản – di sản công nghiệp với những giá trị vốn có và cần phải được bảo tồn và nâng

Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng …
174
cao giá trị để gìn giữ cho thế hệ hiện tại và truyền lại cho thế hệ mai sau. Hơn thế nữa,
nhiều di sản công nghiệp trên thế giới đã được Unesco công nhận là di sản văn hoá thế
giới như: Tổ hợp công nghiệp khai thác than Zollverein tại Essen được công nhận năm
2001; cảnh quan và cơ sở công nghiệp Agave Tequila ở Mexico được công nhận vào năm
2006…
Ở Việt Nam chúng ta, khái niệm về di sản công nghiệp chỉ mới được đề cập
trong những năm gần đây thông qua các diễn đàn, các hội thảo, các triển lãm tư liệu…
liên quan đến việc tái thiết các nhà máy công nghiệp trong bối cảnh Hà Nội có rất nhiều
các nhà máy cũ có giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc…nằm trong diện phải di dời
khỏi nội đô. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị của những công trình này gặp vô vàng
khó khăn và thách thức và đôi khi phải đánh đổi bằng sự phá dỡ, san phẳng vì khái niệm
và chính sách bảo tồn liên quan đến di sản công nghiệp chưa có trong các văn bản pháp
lý, văn bản luật.
Ở Huế, nhà máy vôi thuỷ Long Thọ, nhà máy nước Vạn Niên được xây dựng
dưới thời Pháp thuộc với tuổi đời hơn 100 năm tuổi, là những công trình công nghiệp
tiên phong trong thời kỳ khởi điểm phát triển công nghiệp địa phương, là nhân chứng
lịch sử của quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát triển Thành phố Huế từ một đô thị
cổ kính đến hiện đại. Hiện nay, nhà máy xi măng Long Thọ đã được di dời ra khỏi thành
phố bởi những vấn nạn về ô nhiễm môi trường và ô nhiễm tiếng ồn ảnh hưởng trầm
trọng đến đời sống sinh hoạt của các hộ dân sống lân cận và hiện trạng công trình đang
dần được hạ giải, san ủi. Nhà máy nước Vạn Niên thì vẫn còn hoạt động với chức năng
của nó - cung cấp nguồn nước sạch an toàn cho người dân Thành phố Huế. Nhìn nhận
được các giá trị quan trọng về mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc…, nhà máy nuớc Vạn Niên
được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 4296/QĐ-UBND ngày
21/12/2005. Năm 2020, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Quyết định số 1611/QĐ-
UBND phê duyệt chủ trương đầu tư dự án “Nhà máy xử lý nước sạch Vạn Niên công
suất 120.000m3 /ngđ” trong đó có di tích nhà máy nước Vạn Niên xây dựng năm 1909 sẽ
được xây dựng thành bảo tàng nước đầu tiên tại Việt Nam.
Nhìn nhận các giá trị về mặt di sản, nhận diện di sản công nghiệp đối với nhà
máy nước Vạn Niên và nhà máy xi măng Long Thọ, đánh giá thực trạng và hiệu quả của
công tác bảo tồn và đề xuất những định hướng nhằm bảo tồn, tái sử dụng thích ứng là
rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh các thành phố đang có xu hướng phát triển đô
thị bền vững, nền kinh tế sáng tạo trên nền tảng công nghiệp văn hoá, công nghiệp sáng
tạo.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 23, Số 1 (2023)
175
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp khảo sát thực địa là phương pháp nghiên cứu chính. Chúng tôi đã
thực hiện quan sát, chụp không ảnh, ảnh VR360, ảnh hiện trạng công trình, tiến hành số
hoá và thực hiện các cuộc phỏng vấn cả trước và sau khi nhà máy xi măng Long Thọ
được di dời và nhà máy nước Vạn Niên được nâng cấp, cải tạo nhằm thu thập hình ảnh,
tư liệu, thông tin liên quan.
Phương pháp sử dụng những tài liệu thứ cấp sẵn có ở trong nước và cả những
tài liệu nước ngoài cũng rất quan trọng trong nghiên cứu này, giúp chúng tôi tiếp cận
được với các khái niệm liên quan đến di sản công nghiệp và tái sử dụng thích ứng hiện
vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam, tiếp cận được những thông tin, những tư liệu, hình ảnh
cũ liên quan đến các giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc, qui hoạch…của hai nhà
máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên nhằm làm nền tảng cho việc nghiên
cứu và trích dẫn tài liệu tham khảo.
Đồng thời, chúng tôi cũng đã sử dụng phương pháp so sánh và đối chiếu dựa
trên các hình ảnh, tư liệu cũ và ảnh hiện trạng nhằm làm rõ những vấn đề, đánh giá thực
trạng công tác bảo tồn và đề xuất những định hướng nhằm tái sử dụng thích ứng.
3. NỘI DUNG
3.1. Khá niệm “Di sản công nghiệp” và “tái sử dụng thích ứng” các công trình di sản
*Di sản công nghiệp ( từ tiếng Pháp là “patrimoine industriel” ), được TICCIH-Uỷ
ban Quốc tế về Bảo tồn Di sản Công nghiệp định nghĩa trong “Charte Nizhny Tagil Pour
Le Patrimoine Industriel”1 là: “ bao gồm các dấu tích của văn hóa công nghiệp có giá trị lịch sử,
xã hội, kiến trúc hoặc khoa học. Những dấu tích này bao gồm: các tòa nhà và máy móc, xưởng,
cối xay và nhà máy, mỏ và các địa điểm chế biến và lọc dầu, nhà kho và cửa hàng, trung tâm sản
xuất, truyền tải và sử dụng năng lượng, kết cấu và cơ sở hạ tầng giao thông cũng như những
địa điểm được sử dụng cho các hoạt động xã hội liên quan đến công nghiệp (nhà ở, nơi thờ cúng
hoặc giáo dục)”[1]. Trong “Les principes de Dublin” - Nguyên tắc chung về Bảo tồn Di sản
Công nghiệp, Cấu trúc, Khu vực và Cảnh quan, ICOMOS2 và TICCIH3 công bố năm 2011
cũng đã thống nhất về định nghĩa Di sản công nghiệp: “ Di sản công nghiệp bao gồm các
địa điểm, công trình xây dựng, khu phức hợp, lãnh thổ và cảnh quan cũng như thiết bị, đồ vật
hoặc tài liệu minh chứng cho các quy trình sản xuất công nghiệp cũ hoặc hiện tại thông qua khai
1 Điều lệ Nizhny Tagil cho Di sản công nghiệp, được thiết lập bởi Ủy ban Quốc tế về Bảo tồn Di
sản Công nghiệp tháng 07/2003
2 International Council on Monuments and Sites – Hội đồng di tích và di chỉ Quốc tế
3 The International Committee for the Conservation of the Industrial Heritage -Uỷ ban Quốc tế
về Bảo tồn Di sản công nghiệp

Di sản công nghiệp: nhận diện giá trị di sản và định hướng bảo tồn, tái sử dụng thích ứng …
176
thác và chuyển đổi nguyên liệu thô cũng như cơ sở hạ tầng năng lượng hoặc giao thông liên
quan. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường văn hóa và tự nhiên do các quá trình
công nghiệp - cổ đại hay hiện đại - đều phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, năng lượng và các
tuyến giao thông để sản xuất và phân phối hàng hóa ra thị trường. Di sản này bao gồm cả các
nhân tố phi vật thể như bí quyết kỹ thuật, tổ chức công việc và người lao động hoặc di sản phức
hợp của các tập quán xã hội và văn hóa do ảnh hưởng của ngành công nghiệp đối với cuộc sống
của cộng đồng và sự biến đổi của xã hội và thế giới nói chung” [2]. Giá trị của di sản công
nghiệp, theo TICCH, là những giá trị về mặt lịch sử, xã hội, kiến trúc hoặc khoa học. Cụ
thể là: di sản công nghiệp là minh chứng cho các hoạt động đã và vẫn còn những ảnh
hưởng lịch sử sâu sắc. Những lý do để bảo vệ di sản công nghiệp dựa trên giá trị phổ
quát của dấu vết này hơn là dựa trên tính độc nhất của các địa điểm đặc biệt. Di sản công
nghiệp có giá trị xã hội làm sống lại cuộc sống của những người công nhân bình thường
và mang lại cho họ ý thức quan trọng về bản sắc. Trong lịch sử công nghiệp, kỹ thuật,
xây dựng, nó có giá trị khoa học và công nghệ. Nó cũng có thể có giá trị thẩm mỹ về chất
lượng kiến trúc, thiết kế của các công trình [1].
* Tái sử dụng thích ứng các công trình di sản (từ tiếng Anh là “adaptive reuse of
heritage buildings” và tiếng Pháp là “réutilisation adaptative du patrimoine”) là một quá trình
của sự can thiệp nhất định vào công trình di sản nhằm bảo tồn các giá trị sẵn có của nó
đồng thời điều chỉnh nó cho phù hợp và trao cho nó một cuộc sống mới, để nó có thể
hoạt động theo một cách mới, đáp ứng với nhu cầu của hiện tại và của cả trong tương
lai. “Các dự án tái sử dụng thích ứng di sản được xây dựng thành công nhất là những dự án
tôn trọng và giữ lại ý nghĩa di sản của tòa nhà tốt nhất và thêm một lớp hiện đại cung cấp giá trị
cho tương lai " [3]. Tái sử dụng thích ứng các tòa nhà di sản là một chiến lược để bảo tồn
giá trị lịch sử và văn hóa của các cấu trúc cũ đồng thời mang lại cho chúng những chức
năng và cách sử dụng mới. Đó có thể là một cách bền vững và sáng tạo để hồi sinh các
công trình di sản đồng thời nâng cao bản sắc và sự đa dạng của khu vực đô thị. Hay nói
một cách khác, tái sử dụng thích ứng là phương pháp bảo tồn, là một cách tiếp cận của
bảo tồn theo hướng thích ứng nhằm gìn giữ, chuyển tiếp được các giá trị cũ và bổ sung
các giá trị mới phù hợp, có tính sáng tạo đảm bảo cho di sản tồn tại được với cộng đồng,
sống được với xã hội đương đại. “Tái sử dụng thích ứng được xem là một cánh tiếp cận của
bảo tồn theo hướng Bảo tồn thích ứng cho phép sự thay đổi công năng mới của công trình hoặc
có thể bổ sung/ mở rộng yếu tố mới để phù hợp và thích nghi với nhu cầu sử dụng mới” [4]. Như
vậy, tái sử dụng thích ứng các công trình di sản không chỉ giúp bảo tồn các giá trị lịch
sử, văn hoá, khoa học, kiến trúc…mà còn là cơ hội đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, văn
hoá, giáo dục, tạo hình ảnh, bản sắc đô thị thông qua việc tái thiết, chuyển đổi chức năng,
chuyển đổi không gian thành các không gian sáng tạo, không gian công cộng, không
gian văn hóa nghệ thuật...

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế
Tập 23, Số 1 (2023)
177
3.2. Nhận diện giá trị di sản nhà máy xi măng Long Thọ và nhà máy nước Vạn Niên
Nhà máy xi măng Long Thọ, tiền thân là nhà máy vôi thuỷ Long Thọ và nhà máy
nước Vạn Niên là hai công trình công nghiệp tiêu biểu được xây dựng dưới thời Pháp
thuộc, là nhân chứng, là biểu tượng, là tiên phong cho thời kỳ văn minh công nghiệp ở
Huế. Hai nhà máy này mang trong mình những giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, khoa học,
kỹ thuật, mỹ thuật, kiến trúc, cảnh quan... cần được nhìn nhận.
* Giá trị lịch sử, văn hoá
Theo những tư liệu được tìm thấy trong BAVH [5], trước hết, nhóm tác giả muốn
nhìn nhận giá trị về mặt lịch sử, văn hoá liên quan đến việc chọn lựa vị trí xây dựng nhà
máy vôi thuỷ Long Thọ trong thời Pháp thuộc có kế thừa vị trí mà vua Gia Long cho đặt
nghề gốm sứ, nghề làm ngói ở đồi Long Thọ trước đó vào cuối năm 1810 ”… một vị trí
địa lý đặc biệt, nơi có ngọn đồi Long-Thọ gần kinh đô lớn, và cho phép nó chống chọi với lũ lụt
mạnh nhất của dòng sông, thêm một mỏ đất sét dễ khai thác, chúng tôi hiểu được những lý do
thực sự đã khiến Vua Gia-Long cho đặt nghề gốm sứ ở Long-Thọ”[5, tr 20]. “ Biên niên sử Gia-
Long tường thuật rằng vào tháng 11 năm thứ 9 dưới triều đại của vị hoàng tử này, tháng 12
năm 1810, một sắc lệnh của triều đình được ban hành cho Hà- Đạt người Trung Quốc, người
đứng đầu giáo đoàn Quảng Đông, để thuê ba thợ ngói từ Quảng Ðông đem về Kho-Thượng, nay
là đồi Long-Thọ, làm ngói tương tự lu-ly, đủ màu: xanh dương, vàng, xanh lục. Dưới sự chỉ đạo
của những người Hoa này, người An Nam đã nhanh chóng học được ngành này”[5, tr22-23].
”Di tích của các lò nung cũ được tìm thấy,… dấu vết của các sản phẩm được sản xuất…chỉ ra
rõ ràng rằng Long Thọ luôn luôn là một trung tâm sản xuất gạch ngói rất năng động, cuối cùng,
kể từ thời Gia-Long, các sản phẩm tráng men ”[5, tr23].
Hình 1. Dấu tích các lò nung và các sản phẩm được sản xuất ở Long Thọ dưới thời vua Gia
Long. Nguồn: BAVH [5]
Giá trị lịch sử, văn hoá của nhà máy xi măng Long Thọ cũng được nhìn nhận qua
quá trình hình thành và phát triển trong hơn 125 năm tồn tại với những thăng trầm, suy
thịnh cùng với những biến cố lịch sử của vùng đất cố đô: “Năm 1885, sau khi chiếm xong
kinh thành Huế, thực dân Pháp đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất cho chính quyền cai trị
tại Miền Trung... Năm 1896, hãng xây dựng tư nhân Bogaert đã xây dựng xí nghiệp vôi nước
Long Thọ ở chân đồi Long Thọ nhằm giải quyết nhu cầu vật liệu xây dựng… Từ năm 1910 bắt
đầu xuất hiện sự cạnh tranh sản xuất vôi nước tại Long Thọ với hãng Bogaert. Rigaux nhà thầu
khoán xây dựng không có giấy phép đã tự tiện chiếm đất trái phép trên nhượng địa của Bogaert