1
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024
Nghiên cứu tác động của chính sách an toàn vĩ mô tới
khả năng sinh lời- Bằng chứng thực nghiệm tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam
Phạm Phương Anh1, Nguyễn Nhật Minh2
Học viện Ngân hàng, Việt Nam
Ngày nhận: 26/03/2024 Ngày nhận bản sửa: 10/06/2024 Ngày duyệt đăng: 14/06/2024
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu tác động của chính sách an toàn đến khả
năng sinh lời của 27 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn quý 3
năm 2014 đến quý 3 năm 2023. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy dữ
liệu bảng kết hợp cùng các kiểm định khắc phục hiện tượng nội sinh và kiểm
tra tính vững đều cho ra kết quả nghiên cứu thống nhất. Theo đó, kết quả thực
nghiệm chỉ ra rằng chính sách an toàn thắt chặt tác động tích cực đến
khả năng sinh lời của ngân hàng thương mại Việt Nam. Đặc biệt, kết quả từ
hình hồi quy phân vị chỉ ra rằng chính sách an toàn thắt chặt giúp
các ngân hàng thương mại có chỉ số thu nhập trên tổng tài sản (ROA) ở phân
vị thấp cải thiện khả năng sinh lời tốt hơn so với các ngân hàng ROA phân
The impact of macroprudential policies on bank’s profitability: Empirical evidence from
Vietnam
Abstract: This paper investigates the impact of macroprudential policies on the profitability of 27 Vietnamese
commercial banks from 2014:Q3 to 2023:Q3. This paper uses panel data regression methods combined with
tests to resolve the endogeneity issue, and robustness checks produce consistent research results. Accordingly,
empirical results show that contractionary macroprudential policies have a positive impact on the profitability
of Vietnamese commercial banks. The results from the quantile regression model indicate that contractionary
macroprudential policies help commercial banks with low ROA quantiles improve profitability better than banks
with high ROA quantiles. Based on that, this research forms several recommendations including: the banks should
conduct appropriate strategies to align to macroprudential regulations; the State Bank of Vietnam is in charge of
the banks in complying to these regulations.
Keywords: Macroprudential policies, Profitability, Commercial banks, Vietnam
Doi: 10.59276/JELB.2024.07.2696
Pham, Phuong Anh1, Nguyen, Nhat Minh2
Email: anhpp@hvnh.edu.vn1, minhnn@hvnh.edu.vn2
Organization of all: Banking Academy of Vietnam
Nghiên cứu tác động của chính sách an toàn vĩ mô tới khả năng sinh lời-
Bằng chứng thực nghiệm tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
2Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024
vị cao. Trên sở đó, nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị bao gồm các ngân
hàng nên đưa ra chiến lược phù hợp để tuân thủ các quy định an toàn vĩ mô
Ngân hàng Nhà nước cần kiểm soát nghiêm ngặt các ngân hàng trong việc
tuân thủ các quy định này.
Từ khóa: An toàn vĩ mô, Khả năng sinh lời, Ngân hàng thương mại, Việt Nam
1. Giới thiệu
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008 trong đó sự sụp đổ của ngân hàng
Lehman Brothers đã bộc lộ những điểm
yếu của các chính sách đang áp
dụng. Các quy định giám sát tài chính
không chỉ dựa trên cơ sở an toàn vi mô mà
cần đảm bảo cả an toàn (Meuleman
& Vander Vennet, 2020). Bước đầu đã
nhiều nghiên cứu thực nghiệm đánh giá hiệu
lực của các công cụ chính sách an toàn
(CSATVM). Một trong những nghiên
cứu điển hình là Lim và cộng sự (2011) khi
chỉ ra rằng các công cụ giám sát ATVM đã
làm giảm tính chu của tăng trưởng tín
dụng bằng cách giảm sự tương quan giữa
tăng trưởng tín dụng tăng trưởng kinh
tế (GDP). Akinci Olmstead-Rumsey
(2015) đã xây dựng bộ chỉ số giám sát an
toàn tại 57 nền kinh tế phát triển
mới nổi từ 2000 đến 2013. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng CSATVM thắt chặt làm
giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt
tín dụng bất động sản (BĐS), giá BĐS
tỷ lệ lạm phát.
Lược khảo nghiên cứu tiền nhiệm cho
thấy, đã những nghiên cứu sử dụng
dữ liệu kinh tế phân tích tác động
của CSATVM tới các biến số quan trọng
trong nền kinh tế, tuy nhiên, chưa có nhiều
nghiên cứu thực nghiệm sử dụng dữ liệu vi
để phân tích tác động của CSATVM
đến các tổ chức tài chính đặc biệt các
ngân hàng thương mại (NHTM). Trên thế
giới, việc tuân thủ theo CSATVM được
xem là chi phí gia tăng đối với các NHTM
do việc tuân thủ này có thể ảnh hưởng đến
lợi nhuận của NHTM bao gồm thu nhập
ròng, khả năng cho vay thu nhập giữ
lại… (Davis cộng sự, 2022). Trong bối
cảnh nhiều ngân hàng trung ương các quốc
gia thực hiện các công cụ giám sát an toàn
khác nhau để bổ sung cho chính sách
tiền tệ hiện hành, việc phân tích tác động
của các chính sách này đến khả năng sinh
lời của ngân hàng thương mại là cần thiết.
Nghiên cứu này tiến hành thực nghiệm về
tác động của CSATVM đến hoạt động của
NHTM tại Việt Nam trên góc độ khả năng
sinh lời thông qua hình hồi quy dữ liệu
bảng kết hợp với bộ dữ liệu bảng không cân
bằng theo quý của 27 NHTM Việt Nam
trong giai đoạn từ quý 3 năm 2014 đến quý
3 năm 2023. Mục tiêu của nghiên cứu này
tập trung vào tác động tổng thể của các công
cụ của CSATVM áp dụng trong lĩnh vực
ngân hàng tới khả năng sinh lời với bằng
chứng thực nghiệm tại Việt Nam. Việc tính
toán chỉ số CSATVM dựa trên sự tổng hợp
của tất cả các công cụ CSATVM riêng lẻ.
Nghiên cứu này đóng góp thêm hiểu biết
về tác động của CSATVM đến khả năng
sinh lời của NHTM. Kết quả của bài viết
ý nghĩa quan trọng đối với Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) trong việc hoạch định
và thực thi CSATVM đảm bảo ổn định kinh
tế an toàn hệ thống NHTM. Kết
cấu nghiên cứu gồm 5 phần. Ngoài phần
giới thiệu, các phần còn lại của nghiên cứu
bao gồm: phần 2 đánh giá tổng quan nghiên
cứu về tác động của CSATVM đến NHTM,
PHẠM PHƯƠNG ANH - NGUYỄN NHẬT MINH
3
Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
phần 3 trình bày phương pháp dữ liệu,
phần 4 thảo luận kết quả nghiên cứu phần
5 là kết luận.
2. Cở sở thuyết tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Trước những hậu quả của suy thoái kinh tế
kéo dài sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 2008-2009, CSATVM ra đời để khắc
phục các hệ quả thể phát sinh cho thị
trường tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân
hàng, như chấp nhận rủi ro quá mức hay
phân bổ lệch lạc nguồn lực do tác động của
các chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt
(Blanchard và cộng sự, 2013; Stein, 2013).
Các công cụ giám sát an toàn được
các nhà hoạch định chính sách sử dụng để
khắc phục được các khuyết tật trên. Theo
FSB, BIS IMF (2011), CSATVM được
định nghĩa là chính sách sử dụng các công
cụ an toàn để hạn chế các rủi ro mang tính
hệ thống và/hoặc các rủi ro đối với tổng thể
hệ thống tài chính, nhằm giảm thiểu khả
năng đổ vỡ của hệ thống tài chính thông
qua việc ngăn ngừa các dịch vụ tài chính
thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền
kinh tế thực. CSATVM được đánh giá
một chính sách hiệu quả góp phần nâng cao
năng lực ổn định của cả hệ thống tài chính.
Theo đó, CSATVM bộ công cụ bao gồm
bốn nhóm các công cụ liên quan đến tín dụng,
vốn, thanh khoản và ngoại hối (Bảng 1). Thứ
nhất, các công cụ an toàn tín dụng
bao gồm: giới hạn dư nợ tín dụng, tỷ lệ cho
vay trên TSBĐ (LTV), tỷ lệ nợ trên thu
nhập (DTI). Việc thắt chặt các công cụ liên
quan đến tín dụng tác động đến cả người đi
vay thông qua việc giảm đòn bẩy tài chính
và các NHTM bằng cách giảm lượng cung
tín dụng của các ngân hàng. Thứ hai, các
công cụ an toàn vốn yêu cầu các NHTM
phải vốn chất lượng cao, khả năng
hấp thụ tổn thất trước các rủi ro khác nhau
(ESRB, 2013). Theo đó, khi các công cụ
vốn áp dụng theo chiều hướng thắt chặt có
nghĩa yêu cầu về bộ đệm vốn tăng lên
Bảng 1. Các công cụ của chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam
STT Tên nhóm công cụ Mã hóa và mô tả các công cụ
Số lần điều chỉnh
(từ Q3. 2014- Q3.
2023)
1Các công cụ liên
quan đến tín dụng
MaPP1: Trần tăng trưởng tín dụng
MaPP2: Đối tượng cho vay ngoại tệ
MaPP3: Trọng số rủi ro đối với khoản vay chứng khoán và
bất động sản
MaPP 4: Tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo
37
2Các công cụ liên
quan đến vốn
MaPP5: Hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR
MaPP6: Giới hạn góp vốn mua cổ phần
MaPP3: Trọng số rủi ro đối với khoản vay chứng khoán và
bất động sản. Đây là công cụ vừa liên quan đến tín dụng
vừa liên quan đến vốn do sự thay đổi của các trọng số rủi
ro cũng làm thay đổi đến hệ số CAR của các NHTM
3
Các công cụ liên
quan đến thanh
khoản
MaPP7: Tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gi
MaPP8: Tỷ lệ khả năng chi tr
MaPP9: Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn
4Các công cụ liên
quan đến ngoại tệ
MaPP2: Đối tượng cho vay ngoại tệ. Đây là công cụ vừa
liên quan đến tín dụng vừa liên quan đến ngoại tệ
MaPP10: Trạng thái ngoại tệ
MaPP11: Trần lãi suất tiền gửi ngoại t
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả từ các quy định an toàn vĩ mô của NHNN Việt Nam
Nghiên cứu tác động của chính sách an toàn vĩ mô tới khả năng sinh lời-
Bằng chứng thực nghiệm tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
4Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024
để đắp các khoản lỗ sự gia tăng của
các tài sản rủi ro trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính. Tấm đệm vốn này giúp các
ngân hàng tự bảo vệ mình người gửi tiền
trước các sốc về tài chính. Thứ ba, các
công cụ liên quan đến thanh khoản thường
được kích hoạt cùng các công cụ liên quan
đến vốn để đảm bảo hai tiêu chí đồng thời
nguồn vốn có chất lượng mà vẫn duy trì an
toàn thanh khoản để các NHTM hoạt động
an toàn và hiệu quả. Các công cụ liên quan
đến thanh khoản bao gồm nhóm các công
cụ về bộ đệm vốn phản chu kì, các yêu
cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dư nợ cho
vay trên vốn huy động (LDR) tỷ lệ
quỹ khấu trừ. Cuối cùng, các công cụ
liên quan đến ngoại hối bao gồm việc áp
trần lãi suất tiền gửi đối với ngoại tệ (cụ thể
USD), hạn chế đối tượng cho vay ngoại
tệ, quy định trạng thái ngoại tệ.
Mục tiêu hoạt động của NHTM là tạo ra lợi
nhuận để thể tích luỹ vốn phát triển
quy cũng như tăng cường khả năng
cạnh tranh bảo đảm sự an toàn trong
hoạt động ngân hàng. Trong đó, khả năng
sinh lời chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
hiệu quả hoạt động của NHTM. Houston
(2010) cho rằng khả năng sinh lời khả
năng tạo ra lợi nhuận từ tất cả các hoạt
động kinh doanh của một tổ chức, doanh
nghiệp. Điều này cho thấy một tổ chức
thể tạo ra khả năng sinh lời hiệu quả như
thế nào bằng cách sử dụng tất cả các nguồn
lực sẵn trên thị trường. Trên sở đó,
Olalekan và Adeyinka (2013) cho rằng khả
năng sinh lời của NHTM khả năng tạo ra
lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Như vậy, trong nghiên cứu này,
khả năng sinh lời phản ánh mức độ tạo ra
lợi nhuận từ việc sử dụng các nguồn lực sẵn
có của ngân hàng từ tài sản vật chất đến tài
sản tài chính hay con người ngân hàng
đang nắm giữ để tạo ra lợi nhuận. Khả năng
sinh lời của NHTM được đo lường bởi một
hoặc một nhóm các chỉ tiêu bao gồm: tỷ
suất lợi nhuận trên tài sản (ROA), tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ
lệ thu nhập lãi thuần (NIM)… Trong đó,
chỉ tiêu quan trọng để đo lường khả năng
sinh lời các nhà đầu thường quan tâm
chỉ tiêu ROA được nhóm tác giả sử
dụng trong nghiên cứu này.
2.2. Tổng quan nghiên cứu
Đã những nghiên cứu về tác động của
CSATVM đối với khả năng sinh lời của
NHTM, tuy nhiên vẫn chưa sự thống
nhất về quan điểm giữa các nghiên cứu.
Một số bằng chứng thực nghiệm đã nhấn
mạnh mối tương quan tích cực giữa
CSATVM và khả năng sinh lời của NHTM.
Ủng hộ cho quan điểm này, Barth cộng
sự (2006) đề xuất rằng các quy định giám
sát an toàn vĩ mô giúp cải thiện hiệu suất và
hiệu quả hoạt động NHTM bởi các quy định
này điều chỉnh các thất bại của thị trường
yêu cầu các NHTM tuân thủ theo quy định
chung bất kể quy mô lớn hay nhỏ. Ngoài ra,
việc tuân thủ các quy định của CSATVM
thúc đẩy các NHTM đa dạng hoá nguồn thu
từ lãi tín dụng sang các hoạt động phi truyền
thống khác (Trung, 2021). Do đó, các quy
định thắt chặt của CSATVM được đánh giá
tác động tích cực rệt đến khả năng
sinh lời của ngân hàng. Các ngân hàng đảm
bảo việc tuân thủ mục tiêu lợi nhuận bằng
việc tăng khả năng quản mở rộng
hình kinh doanh. Đồng tình với nhận định
trên, Demirguc Kunt cộng sự (2010) khi
nghiên cứu bộ dữ liệu của các NHTM tại
72 quốc gia cũng kết luận rằng CSATVM
thắt chặt ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động
NHTM, làm tăng vay thế chấp, tác động tích
cực đến tỷ suất lợi nhuận ròng của NHTM.
Kết quả tương tự cũng được tìm thấy khi
Chen cộng sự (2022) sử dụng bằng chứng
thực nghiệm từ 1.000 NHTM tại 36 nền
PHẠM PHƯƠNG ANH - NGUYỄN NHẬT MINH
5
Số 267- Năm thứ 26 (8)- Tháng 7. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
kinh tế mới nổi trong giai đoạn 2000-2016
bằng phương pháp biên giới ngẫu nhiên cho
thấy khả năng sinh lời của ngân hàng tăng
khi các CSATVM thắt chặt hơn. Tại Việt
Nam, Ly (2015) cũng phát hiện ra rằng các
quy định về vốn đối với các ngân hàng làm
tăng khả năng sinh lời của NHTM.
quan điểm đối lập, CSATVM được đánh
giá thể làm giảm khả năng sinh lời
của ngân hàng do những quy định đối với
ngân hàng về hạn chế đối với việc mở rộng
kinh doanh, tăng chi phí tuân thủ hoặc chi
phí trực tiếp (Gaganis và Pasiouras, 2015).
Ayadi cộng sự (2016) cũng cho rằng
các quy định giám sát an toàn làm
giảm khả năng sinh lời ngân hàng vì chúng
hạn chế khả năng phân bổ vốn của ngân
hàng một cách hiệu quả nhất. Sử dụng hàm
biên sản xuất bằng chứng thực nghiệm
từ dữ liệu cấp ngân hàng của 130 quốc
gia, Gaganis cộng sự (2021) đã chỉ ra
rằng CSATVM tác động tiêu cực làm giảm
khả năng sinh lời lợi nhuận NHTM. Sử
dụng bộ dữ liệu xuyên quốc gia của hơn
3.000 ngân hàng từ hơn 130 quốc gia trong
giai đoạn 2013 đến 2018, các tác giả nhấn
mạnh CSATVM với các công cụ chính
sách hướng đến người đi vay công cụ
hướng đến các tổ chức tài chính đều có tác
động tiêu cực đến khả năng sinh lời của
ngân hàng. Đồng tình với quan điểm trên,
Davis cộng sự (2022) sử dụng dữ liệu
từ 7.250 ngân hàng trên toàn cầu giai đoạn
1990-2018 chứng minh rằng CSATVM có
tác động tiêu cực đến lợi nhuận ngân hàng,
nhưng những tác động này khác nhau tùy
theo sự phát triển kinh tế của các quốc gia,
quy mô ngân hàng và khoảng thời gian tác
động. Tương tự, Silalahi (2016) sử dụng
phương pháp hồi quy dữ liệu bảng và bằng
chứng thực nghiệm kết luận rằng công cụ
dự trữ bắt buộc ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ
suất sinh lời của ngân hàng.
Tuy nhiên, cũng học giả cho rằng tác
động của CSATVM đối với khả năng sinh
lời của NHTM là chưa rõ ràng (Gaganis
cộng sự, 2021). Cơ sở của nhận định này ở
điểm CSATVM làm giảm khả năng xảy ra
khủng hoảng và giảm thiểu rủi ro hệ thống
trong ngành ngân hàng, gia tăng niềm tin
với công chúng, tăng tính ổn định bền
vững của hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên
CSATVM thách thức khả năng mở rộng
hoạt động của các ngân hàng và tạo áp lực
về chi phí để NHTM tuân thủ các quy định
chặt chẽ về giám sát. Do đó Gaganis
cộng sự (2021) cho rằng tác động ròng của
CSATVM phụ thuộc và tác động nào trong
các tác động nói trên chiếm ưu thế hơn.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu đánh giá
tác động của CSATVM đến kết quả hoạt
động của các NHTM Việt Nam thu hút sự
quan tâm của các nhà hoạch định chính
sách cũng như nhà quản trị ngân hàng.
Đã những nghiên cứu thực nghiệm
tại Việt Nam đưa ra bằng chứng về tác
động của CSATVM đến giá bất động sản
(Pham cộng sự, 2021), tăng trưởng tín
dụng (Nguyễn Trung Hậu, 2020), rủi ro
hệ thống (Đỗ Thu Hằng, 2021). Bên cạnh
đó, đã có nghiên cứu đánh giá tác động của
CSATVM đến khả năng sinh lời ngân hàng
thương mại, tuy nhiên được đánh giá trên
các công cụ riêng lẻ (Nguyễn Bích Ngân,
2020). Hơn nữa, đa phần các nghiên cứu
trước đây khi nghiên cứu về nhân tố ảnh
hưởng tới khả năng sinh lời chưa phân loại
các NHTM theo hiệu quả tài chính để đánh
giá tác động khác nhau của chính sách kinh
tế vĩ mô. Do đó, nhóm nghiên cứu sử dụng
hình hồi quy phân vị để giải quyết vấn
đề trên, bởi phương pháp này ưu điểm
thể hiện chi tiết mối quan hệ giữa biến phụ
thuộc và biến độc lập trên từng phân vị của
biến phụ thuộc (theo đề xuất của Nguyen
cộng sự, 2024). Đây là khoảng trống mà
nhóm nghiên cứu hướng đến, bằng việc
chứng minh tác động không giống nhau