TIỂU LUẬN:

Nghiên cứu, tìm tòi phát triển KHCN là một vấn đề rất quan trọng

I. lời mở đầu

Trong sự nghiệp CNH - HĐH hiện nay KHCN đang chiếm một vị trí đặc biệt

quan trọng. Bởi vì nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất

nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn của chúng ta là một nền đại công

nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành CNH - HĐH. Trong thời đại ngày nay,

CNH phải gắn liền với HĐH. CNH - HĐH ở nước ta là nhằm xây dựng CSVC kỹ

thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH

ở nước ta.

Ngay từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm

hoàn thiện và đổi mới quan điểm, các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực khoa học

và công nghệ. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (Khoá VI) đã nêu rõ: "Đại hội lần thứ

VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới, coi khoa học và công nghệ là một động lực

mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển kinh tế xã hội theo

định hướng XHCN, coi những người làm khoa học và công nghệ là đội ngũ cán bộ

tin cậy, quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta". Nghị quyết của Hội nghị lần

thứ 7 BCHTW (Khoá VII) trong phần về chủ trương phát triển công nghiệp và công

nghệ đến năm 2000 đã nêu rõ quan điểm: "Khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH

- HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại tranh thủ đi nhanh

vào hiện đại ở những khâu quyết định". Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII vừa

qua Đảng lại nhấn mạnh: "Khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý trí quật cường,

phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và

lạc hậu bằng KHCN". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra: "Con

đường CNH - HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian vừa có những bước

tuần tự, vừa có bước nhảy vọt phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả

năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ

sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn

những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.

Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển

GD và ĐT, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH -

HĐH".

Từ năm 1996 đất nước ta chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH, phấn

đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là một yếu tố

có ý nghĩa quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước

trong khu vực và trên thế giới". Sự nghiệp XDCNXH ở nước ta chỉ thực sự thành

công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. KHCN nâng

cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng

hoá trên thị trường, XD năng lực công nghệ quốc gia. Do đó việc nghiên cứu, tìm tòi

phát triển KHCN là một vấn đề rất quan trọng.

Đề tài của em được chia làm ba phần:

I. Lời mở đầu

II. Phần nội dung

III. Phần kết luận

II. Phần nội dung

1. Nguyên lý triết học của đề tài

1.1. Cách mạng khoa học - Công nghệ được thực hiện trên cơ sở lý luận

khoa học phát triển không ngừng:

Đó là điểm khác biệt quan trọng nhất của cuộc cách mạng Khoa học - Kỹ thuật

lần này (Cách mạng Khoa học - công nghệ mới đối với chủ nghĩa tư bản hiện đại) với

các lần trước. Nhìn lại lịch sử phát triển của Khoa học - Kỹ thuật có thể thấy rằng,

tuy hai cuộc cách mạng trước cũng dựa trên sự đột phá về mặt lý luận của Khoa học

tự nhiên, lấy đó để dẫn đường, như nhiệt lực học và lực học của NiuTơn xuất hiện

trước cuộc cách mạng Khoa học - Kỹ thuật lần thứ nhất và điện học xuất hiện trước

cuộc cách mạng KHKT lần hai, nhưng khoảng cách giữa sự đột phá lý luận và sáng

tạo kỹ thuật cũng như ứng dụng kỹ thuật vào thực tế là rất dài, mối quan hệ giữa

những yếu tố đó không trực tiếp lắm, rất nhiều phát minh về kỹ thuật đều là những

sáng tạo riêng của những người thực hành giỏi. Người phát minh ra máy hơi nước

J.Oát, hay vua phát minh Êđixơn đều tích luỹ kiến thức trên cơ sở thực tiễn rồi mới

phát minh, sáng tạo. Trong tình hình đó, thông thường là có phát minh sáng tạo trước

rồi sau đó mới có giải thích và thuyết minh lý luận. Còn cuộc cách mạng KHCN sau

chiến tranh thì hoàn toàn không phải như vậy. Nó dựa trên cơ sở phát triển của các

loại lý luận KHKT và lấy đó làm chỉ dẫn để thực hiện. Có thể nói, nếu không có sự

phát minh to lớn và những đột phá về lý luận của nhiều ngành KHKT trong thế kỷ

này, thì không thể có cuộc cách mạng KHCN ngày nay. Do đó, vai trò chủ yếu trong

việc hình thành cuộc cách mạng KHCN lần này là các nhà khoa học và nhân viên kỹ

thuật.

Từ sau chiến tranh đến nay, chính trên cơ sở phát triển lý luận KHKT, mà ở

các nước trên thế giới mỗi năm trung bình có đến trên 300. 000 đơn xin bản quyền

phát minh KHCN, có nghĩa là mỗi ngày có chừng 800 - 900 bản quyền ra đời. Nếu

không có chỉ dẫn của lý luận KHKT thì căn bản không thể có sự phát triển mạnh mẽ

nhanh chóng đến như vậy của KHCN, đó là một sự thực rất rõ ràng.

1.2. Nguyên lý phát triển của KHCN

Mối quan tâm gần đây đối với công nghệ phục vụ phát triển là sự thể hiện tầm

quan trọng của việc phát triển và đưa vào ứng dụng các công nghệ mới nhằm cơ cấu

lại nền công nghiệp, nâng cao năng suất và đảm bảo tăng trưởng kinh tế và sự phồn

vinh thông qua khả năng cạnh tranh. Phần thưởng khao khát trong cuộc chạy đua

công nghệ là sức mạnh kinh tế. Một dân tộc thậm trí không thể tồn tại được nếu thiếu

công nghệ. Mặc dù còn chưa đầy đủ, nhưng công nghệ đã dạy cho nhân loại ít nhất

một bài học quan trọng, đó là không gì là không thể.

Trong một thế giới không chắc chắn hiện nay, sự thay đổi công nghệ là điều

chắc chắn. Việc thay đổi công nghệ kéo theo những rủi ro. Song không chấp nhận rủi

ro lại chính là sự rủi ro lớn hơn cả! Mỗi nước cần có kế hoạch phát triển dựa trên

công nghệ riêng của mình. Tuy nhiên, một nguyên lý mang tính phương pháp luận

chung cũng như sự phân tích so sánh quốc tế có thể cung cấp thông tin có giá trị cho

các nhà hoạch định chính sách và các nhà lập kế hoạch trong khu vực Nhà nước và

khu vực tư nhân.

Việc xây dựng kế hoạch phát triển dựa trên công nghệ phải bằng sự lựa chọn

chứ không phải là ngẫu nhiên. Điều đó có thể đạt được bằng sự thuyết phục, tính

quyết định, sự quyết tâm và hơn hết phải là ý trí chính trị mãnh liệt - ý trí kiến tạo

tương lai của một quốc gia sử dụng công nghệ như một công cụ để phát triển.

Trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng hiện nay, công nghệ là

một biến số chiến lựơc sống còn cho sự phát triển nhanh chóng kinh tế - xã hội. Nếu

có một kế hoạch sử dụng công nghệ thích hợp, nó có thể là một chiếc chìa khoá cho

một xã hội phồn vinh, cho toàn thể nhân loại. Do đó, công nghệ là hi vọng lớn nhất

để nâng mức sống của một số lớn những người nghèo trên thế giới. Mặc dù những

vấn đề mà các nước trong khu vực Châu á Thái Bình Dương phải đối phó là ít trầm

trọng hơn so với những khu vực khác, nhưng chúng vẫn đủ nghiêm trọng để gây ra

những căng thẳng xã hội đáng kể. Vì vậy, cần thiết phải có một hành động khẩn cấp

để tìm cách giải quyết những vấn đề căng thẳng như: Tăng dân số, thất nghiệp tăng,

giảm mức sống, suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường. Mục tiêu là phát triển

kinh tế xã hội bền vững thông qua việc áp dụng khôn ngoan công nghệ sao cho các

thế hệ hiện tại và tương lai sẽ được hưởng một cuộc sống tốt đẹp.

Cấp công ty

Cấp bậc tinh xảo

So sánh

Các khía cạnh PT KT - XH kinh điển

Đánh giá hàm lượng công nghệ

Hệ thống đóng góp của

Các thành phẩm của công nghệ

Tình trạng CS hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ

Giá trị kinh tế gia

Cấp ngành CN

Đội ngũ CB KHKT và chi phí cho NC - TK

T. hợp các đóng góp của

Hàm lượng nhập khẩu

Đánh giá trình độ công nghệ

Thị trường quốc tế

Mức độ đổi mới

đánh giá môi trường công nghệ

Hàm lượng xuất khẩu

Các chuỗi phát triển

Khoa học và Công nghệ trong hệ thống sản

Cấp giai đoạn

Loại giai đoạn chuyển đổi

Khoa học và công nghệ hàn lâm

Đánh giá cấu trúc của Công nghệ

Các tác nhân thúc đẩy

Các mặt của CS hạ tầng

Những tiến bộ và nỗ lực trong những khu vực chuyên mô hoá

Đánh giá nhu cầu công nghệ

đánh giá năng lực công nghệ

CS dữ liệu về các loại biến đổi

Cam kết của cấp vĩ mô đối với khoa học và Công nghệ vì sự phát

Các nguồn lực

Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia

Xu hướng quốc tế và các cơ

sơ đồ lập kế hoạch triển khai dựa trên công nghệ

2. Cách mạng khoa học - công nghệ - vấn đề có tính chất thời đại.

2.1. Nguyên nhân của cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ:

2.1.1. Tác dụng và ảnh hưởng của chiến tranh thế giới:

Chiến tranh thế giới thứ hai là một tai hoạ to lớn chưa từng có trong lịch sử

loài người, nhưng lại có tác dụng thúc đẩy nhất định đối với sự phát triển của KHKT.

Để dành thắng lợi trong chiến tranh các nước đế quốc đã dốc sức và nghiên cứu

KHKT quân sự. Các bên tham chiến cạnh tranh kịch liệt trong việc phát minh và sử

dụng các vũ khí và trang bị mới như: Ra đa, tên lửa, máy bay phản lực, bom nguyên

tử... Trong chiến tranh Đức là nước đầu tiên dùng tên lửa mang đầu đạn có điều

khiển, còn Mỹ là nước đầu tiên sử dụng bom nguyên tử. Việc phát minh và sử dụng

vũ khí, trang thiết bị mới không quyết định thắng bại cuối cùng, song quả thực nó

ảnh hưởng quan trọng đối với cuộc chiến. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, rất nhiều

bộ môn KHKT quân sự được ứng dụng vào ngành công nghiệp dân dụng, điều đó

không những mở ra rất nhiều ngành công nghiệp mới, mà còn nâng cao nhanh chóng

năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế quốcdân. Chỉ riêng điểm này có thể thấy

rằng những thành tựu KHKT giành được sau chiến tranh, là do loài người đã phải trả

cái giá rất đắt mới có được.

2.1.2. Sự thúc đẩy cuộc chạy đua vũ trang giữa các siêu cường quốc

Sau chiến tranh, do thế giới hình thành cơ cấu hai cực Mỹ và Liên Xô, sự đối

lập và đối kháng Đông - Tây rất nghiêm trọng, khiến các quốc gia này chiến tranh ác

liệt trong cuộc chạy đua vũ trang. Chi phí cho chạy đua vũ trang hàng năm của họ

chiếm khoảng trên dưới 10% giá trị tổng sản phẩm quốc dân, thậm chí còn hơn nữa

trong lịch sử loài người, chưa bao giờ có cuộc chạy đua vũ trang ác liệt như vậy trong

thời bình. Chỉ riêng nước Mỹ, để chiếm ưu thế trong chạy đua vũ trang, đã đề ra kế

hoạch "Chiến tranh giữa các vì sao" nếu thực hiện tất cả họ sẽ phải chi khoảng 1000

tỷ đô la. Với sự thúc đẩy của hai siêu cường Mỹ và Liên Xô (Cũ), một số nước phát

triển khác cũng đổ một lượng lớn tiền của và sức người vào sản xuất vũ khí và

nghiên cứu KHKT quân sự. Theo tính toán, trong thập kỷ 80, chi phí cho nghiên cứu

KHKT quân sự mỗi năm trên thế giới tăng lên tới 50 - 70 tỷ đô la, chiếm khoảng 1/3

- 1/2 toàn bộ chi phí nghiên cứu KHKT thế giới. Một lượng lớn tiền của đổ ra, đã

thúc đẩy sự phát triển của KHKT quân sự, các loại vũ khí và trang thiết bị quân sự

liên tiếp ra đời, không ngừng đổi mới các thế hệ. Điều đó cũng giống như thời kỳ

chiến tranh nó làm cho KHKT quân sự trở thành một ngành đi đầu trong việc phát

triển toàn diện KHCN, thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển nhanh chóng trong

thời kỳ nhất định.

2.1.3. Chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước tạo ra những điều kiện tương

đối có lợi.

Ngày nay việc nghiên cứu KHCN đã ngày càng xã hội hoá. Rất nhiều công

trình nghiên cứu đòi hỏi ngày càng nhiều sức người sức của và gánh chịu những rủi

ro ngày càng lớn. Nhiều công trình nghiên cứu KHKT vượt quá khả năng của các nhà

tư bản cá biệt, thậm chí các tập đoàn tư bản độc quyền. Mối liên quan giữa các ngành

KHCN cũng ngày càng rộng rãi và chặt chẽ. Một phát triển mới của ngành KHCN

đòi hỏi sự phát triển tương ứng của rất nhiều ngành có liên quan. Ví dụ: Việc nghiên

cứu và ứng dụng năng lượng nguyên tử, việc tìm tòi nghiên cứu hàng không và vũ

trụ... đều không thể tách rời việc khai thác sử dụng vật liệu mới, không thể tách rời sự

phát triển cao độ của kỹ thuật điện tử và tự động hóa... Điều đó đòi hỏi phải có sự

hợp tác và phối hợp mạnh mẽ. Trong tình hình đó sự phát triển cao độ của chủ nghĩa

tư bản độc quyền Nhà nước, ở mức độ rất lớn đãđáp ứng được những đòi hỏi về mặt

này của sự phát triển KHCN hiện đại. Chỉ nói riêng về chi phí cho nghiên cứu mỗi

năm chính phủ các nước tư bản bỏ ra xấp xỉ một nửa số kinh phí của toàn bộ việc

nghiên cứu của các nước này. Hơn nữa, số kinh phí đó phần lớn tập trung vào các đề

tài nghiên cứu khoa học tương đối lớn và cơ bản, nên tác dụng thúc đẩy KHCN của

nó càng mạnh mẽ.

Ngoài phương diện kinh phí nghiên cứu KHKT, chính phủ các nước tư bản

ngày nay còn có tác dụng rất to lớn trong việc bồi dưỡng nhân tài để phát triển

nghiên cứu khoa học. Một vấn đề then chốt của tiến bộ KHCN hiện nay là phải có

một loại nhân tài KHKT phù hợp và có chất lượng cao, ngay cả những cá nhân bình

thường cũng cần nâng cao trình độ KHKT mới có thể đáp ứng được yêu cầu của nền

kinh tế hiện đại.

Tác dụng thúc đẩy tiến bộ KHCN của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước

còn thể hiện ở chỗ nó làm cho sự hợp tác quốc tế về KHKT ngày càng mở rộng.

2.1.4. Cạnh tranh độc quyền ác liệt vẫn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy

tiến bộ KHKT.

Bước vào giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước, độc quyền càng

không thể tiêu diệt được cạnh tranh, quy mô của cạnh tranh mở rộng, mức độ cạnh

tranh ác liệt. Cạnh tranh càng ác liệt, càng buộc các nhà tư bản độc quyền không

ngừng nghiên cứu kỹ thuật công nghệ mới, sử dụng công nghệ mới để làm ra các sản

phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh. Do đó, cạnh tranh

vẫn như trước đây, là một sức mạnh bên ngoài thúc đẩy tiến bộ KHCN.

Các xí nghiệp tư bản độc quyền ở các nước tư bản ngày nay không tiếc của, bỏ

ra những lượng tiền khổng lồ để xây dựng bộ máy nghiên cứu khoa học riêng, hoặc

uỷ thác cho các cơ quan học thuật nghiên cứu kỹ KHKT, rõ ràng không phải là xếp

vào ngăn kéo. các xí nghiệp Mỹ bỏ ra những khoản kinh phí cho nghiên cứu khoa

học trong những năm 80 lớn gấp 22 lần so với những năm 50, còn các xí nghiệp ở

Cộng hoà Liên bang Đức, kinh phí đó trong cùng một thời gian này tăng lên tới 83

lần, điều đó nói lên một cách đầy đủ rằng, cuộc cạnh tranh giữa các xí nghiệp độc

quyền đã ngày càng cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực KHCN.

2.2. Nội dung chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ

Cuộc cách mạng KHCN phát triển sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động

vào mọi ngành kinh tế quốc dân, mọi lĩnh vực XH của các nước tư bản phát triển,

hiện nay vẫn đang tiếp tục phát triển, ảnh hưởng của nó đối với nền chính trị xã hội

và kinh tế từ nay về sau sẽ càng to lớn. Sau đây là những lĩnh vực khoa học, công

nghệ mới đã và đang có triển vọng nhất hiện nay.

2.2.1. Kỹ thuật điện tử:

Đây là ngành hạt nhân có tính quyết định của cuộc cách mạng KHCN, là

ngành phát triển nhanh nhất, ứng dụng rộng rãi nhất trong số các ngành KHCN mới

nổi lên. Hiện nay bất kể những sáng tạo KHCN mới hay cải tạo kỹ thuật trong các

ngành kinh tế truyền thống đều không thể tác rời kỹ thuật điện tử. ở các nước tư bản

phát triển, ngành này đã trở thành một ngành mới, độc lập giá trị sản lượng của nó

không ngừng tăng lên.

Thành tựu nổi bật nhất của kỹ thuật điện tử biểu hiện ở việc phát minh và áp

dụng máy vi tính điện tử. Máy vi tính điện tử là một trong những phát minh KHCN

vĩ đại nhất của thế kỷ này. Máy tính điện tử từ khi ra đời vào giữa thập kỷ 40 đến

nay, nó đã trải qua 4 thế hệ là: Bóng điện tử, bóng bán dẫn, mạch vi điện tử, mạch vi

điện tử quy mô lớn. ở một số nước đã bắt đầu nghiên cứu, chế tạo máy tính sinh học.

Nó có ưu điểm lớn nhất là tốc độ tính toán cực nhanh.

Ngoài máy tính sinh học ra, các loại máy tính mô phỏng óc người, máy tính

quang học cũng đang trong quá trình nghiên cứu chế tạo. Sự phát triển của máy tính

điện tử tuy trải qua chừng nửa thế kỷ nhưng triển vọng của nó vẫn vô cùng rộng lớn

đang làm phấn chấn lòng người.

2.2.2. Công nghệ thông tin

Nếu nói kỹ thuật điện tử là cơ sở của kỹ thuật thông tin, thì kỹ thuật thông tin

là bộ phận mấu chốt của công nghệ tin học ngày nay. Thông tin là hệ thống thần kinh

của XH hiện đại, không có sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ không thể có sự

truyền bá và sử dụng hàng ngàn hàng vạn thông tin trong XH hiện đại.

Sự phát triển của công nghệ thông tin được đo bằng chỉ tiêu: Tỷ số giá cả/

Hiệu suất. ở các OECD, người ta ước tính đã thu được 20% lợi nhuận từ công nghệ

thông tin. Trong 10 năm tới, giá cả của công nghệ thông tin sẽ giảm nhanh và hiệu

quả của thông tin sẽ càng lớn hơn. Tại Mỹ, nước chiếm 20% thị trường sản phẩm

công nghệ thông tin thế giới đang bùng nổ cuộc cách mạng thông tin. Một số công ty

lớn đang thử nghiệm việc xây dựng "Hệ thống thông tin cao cấp". Đây là hệ thống

liên kết giữa máy điện thoại + Máy thu hình + Máy vi tính cho phép truyền thông 2

chiều và đa chiều, làm cho việc truyền tin và lưu tin được nhanh chóng, tự do hơn.

Cuộc cách mạng về thông tin đang làm cho nhiều ngành công nghiệp phát triển vượt

bậc, trong đó đặc biệt là ngành vật liệu mới.

2.2.3. Công nghệ vật liệu mới.

Công nghệ vật liệu mới là công nghệ thông qua phương pháp khoa học để chế

tạo ra các vật liệu thay thế cho vật liệu thiên nhiên. Sự xuất hiện của các lọai vật liệu

mới không những giảm bớt sự phụ thuộc của con người vào tài nguyên thiên nhiên,

mà còn làm cho sự nghiên cứu chế tạo và phát triển các loại sản phẩm có trình độ

KHKT cao trở thành hiện thực. Trong các loại kỹ thuật vật liệu mới, hiện nay những

thứ phát triển nhanh nhất và có triển vọng nhất là vật liệu cho thông tin, vật liệu tổng

hợp và nguyên liệu năng lượng mới... Trong những kỹ thuật vật liệu mới, đáng chú ý

nhất là vật liệu năng lượng mới là cơ sở quan trọng để phát triển kỹ thuật năng lượng

mới.

Trong thời gian tới, nhu cầu của vật liệu mới sẽ tăng nhanh hơn nhiều so với

các vật liệu truyền thống. Trong thời kỳ 1986 - 2000 các vật liệu siêu dẫn sẽ tăng

32%, Gali tăng 10,1% gồm cấu trúc định sẵn tăng 30% trong khi bạc chỉ tẳng 0,8%,

thiếc 1,2%. nhu cầu vật liệu mới của Mỹ sẽ tăng từ 243 tỷ đô la (1970) lên 379 tỷ đô

la (2000). Nhật Bản do phụ thuộc nặng vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài, từ lâu đã

tích cực phát triển công nghệ vật liệu mới. Thị trường vật liệu của Nhật Bản dự tính

tăng từ 2,2 tỷ đô la (1981) lên 24 tỷ đô la (2000).

2.2.4. Công nghệ sinh học

Công nghệ sinh học là một bộ môn khoa học mới nổi lên từ những năm 50 của

thế kỷ này. Nó là sản phẩm kết hợp của khoa học về sự sống và KHKT hiện đại.

Công nghệ sinh học đang được nghiên cứu và phát triển hiện nay chủ yếu là gen,

dung học tế bào, môi tế bào, phản ứng sinh vật và công nghệ gây men... Công nghệ

sinh học tuy hiện nay mới ở giai đoạn đầu nhưng nó đã có những bước tiến, bắt đầu

có tác dụng và ảnh hưởng đến đời sống KT - XH.

2.2.5. Công nghệ hải dương

Biển chiếm 71% diện tích trái đất nhưng việc lợi dụng biển của loài người còn

hết sức nhỏ bé. Cùng với sự tiến bộ của KHCN, con người đã dần dần coi trọng việc

khai thác và sử dụng biển. Xem xét tình hình hiện nay thì thấy rằng công nghệ hải

dương đã bao gồm rất nhiều lĩnh vực chuyên môn như: Năng lượng biển, nuôi trồng

hải sản, khai thác khoáng sản biển, làm nhạt nước biển, hoá chất biển... Trong đó

ngành khai thác khoáng sản biển có triển vọng lớn rất hấp dẫn.

2.2.6. Công nghệ vũ trụ.

Công nghệ vũ trụ bao gồm việc nghiên cứu và chế tạo các thiết bị máy móc

cho việc bay vào vũ trụ như: Vệ tinh nhân tạo, phi thuyền chở người, phóng tên lửa...

Cũng bao gồm việc sử dụng các lĩnh vực nghiên cứu khoa học phục vụ việc bay vào

vũ trụ như: Khí tượng, tài nguyên, khoa học đời sống... Về mặt thông tin truyền dẫn,

việc sử dụng kỹ thuật không gian càng tương đối rộng rãi. Do khoảng không vũ trụ

có những điều kiện hết sức đặc biệt như: Độ chân không rất cao; trọng lực cực nhỏ,

vô trùng... nên có thể chế tạo ở đó những sản phẩm mà trên trái đất không thể chế tạo

được: Sản phẩm có độ sạch cao, vật liệu siêu dẫn, tinh thể thuần khiết...

2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về khoa học và công nghệ.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam ngày càng

nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của KHCN trong sự nghiệp XD và bảo vệ Tổ

quốc. Các quan điểm của Đảng về KHCN được thể hiện cụ thể và phát triển qua mỗi

thời kỳ, nhằm giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng, đồng thời XD tiềm

lực khoa học cho những bước phát triển kế tiếp của đất nước. Cho đến nay, hệ quan

điểm đó đã phát triển qua 5 thời kỳ.

2.3.1. Thời kỳ 1945 - 1954:

Ngay sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, nước VNDCCH đã phải đương

đầu với vô vàn những khó khăn nghiêm trọng: Kinh tế kiệt quệ, văn hoá GD hết sức

lạc hậu, thù trong giặc ngoài âm mưu bóp chết nền cộng hoà non trẻ và xâm chiếm

nước ta một lần nữa. Trong tình thế hiểm nghèo ấy ĐCSVN đứng đầu là Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã đích thân vận động một phong trào toàn dân chống nạn thất học, coi

"Chống giặc dốt" là một trong 3 nhiệm vụ lớn của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

Nhận rõ vai trò của kiến thức trong việc bảo vệ độc lập dân tộc và kiến quốc,

ĐCSVN đã tỏ ra quan điểm quý trọng và xác định đúng đắn vị trí trí thức trong XH

mới, trong nước Việt Nam mới "Trí thức là vốn quý của một dân tộc, không có trí

thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp XD

một nước Việt Nam mới không hoàn thành được".Do đó Chính phủ đã tuyển chọn và

gửi đi đào tạo một lực lượng khá đông cán bộ khoa học. Năm 1954, hoà bình lập lại ở

miền Bắc, lớp cán bộ khoa học đầu tiên lần lượt trở về và cùng với lớp trí thức tham

gia kháng chiến phục vụ công cuộc khôi phục và XD đất nước.

2.3.2. Thời kỳ 1954 - 1964.

Hoà bình lập lại năm 1954, đất nước tạm chia làm 2 miền. Miền Bắc bước vào

giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế và bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ

nhất. Lần đầu tiên trong văn kiện của ĐCSVN khẳng định vai trò của KHCN trong sự

nghiệp XD đất nước "Khoa học và kỹ thuật là một điều kiện không thể thiếu được

trong công cuộc XDCNXH". Tháng 9-1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của

Đảng quyết định "Đưa miền Bắc tiến lên CNXH có công nghiệp và nông nghiệp hiện

đại, văn hoá và khoa học tiên tiến".

Phát triển luận điểm của Đại hội lần thứ III, Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ

10 đã chỉ rõ: "Chúng ta phải đẩy mạnh cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ

thuật, cách mạng văn hoá và tư tưởng. Các mặt nói trên phải đồng thời được tiến

hành, không thể xem nhẹ một mặt nào, song phải tập trung sức đẩy mạng cách mạng

KHKT là then chốt, nhằm từng bước trang bị cơ khí và nửa cơ khí cho các ngành

kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành sản xuất chủ yếu, tiếp tục XDCSVC và kỹ

thuật của CNXH". Trong vòng 10 năm (Kể từ khi hoà bình lập lại năm 1954), trên

mặt trận khoa học và công nghệ, một loạt tổ chức khoa học được thành lập từ Uỷ ban

khoa học Nhà nước đảm nhận chức năng quản lý đến các cơ sở nghiên cứu và đào tạo

đại học nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế và XH do Đảng vạch ra.

2.3.3. Thời kỳ 1965 - 1975

Tháng 2/1967 trong lúc chiến tranh phá hoại ác lịêt đang diễn ra ở miền Bắc,

Ban bí thư TW Đảng ban hành Nghị quyết 157-NQ/TW "Về tăng cường công tác

khoa học và kỹ thuật trong tình hình và nhiệm vụ mới". Nghị quyêt nhấn mạnh: "Để

giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, nền kinh tế miền Bắc nước ta

phải đảm bảo những yêu cầu của chiến đấu, của đời sống nhân dân và không ngừng

tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng... Một trong những biện pháp quan trọng

là đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật trong thời chiến. Vì vậy, cần động viên lực lượng

hiện có về khoa học và kỹ thuật của chúng ta để phục vụ cuộc cách mạng KHKT

trong thời chiến. Ban bí thư nhận định: "Khả năng trước mắt về khoa học và kỹ thuật

của ta còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng kỹ thuật ấy, và tích cực

chuẩn bị để phục vụ đắc lực cuộc cách mạng kỹ thuật trên quy mô lớn với trình độ

cao và trong phạm vi cả nước sau khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc thắng lợi".

2.3.4. Thời kỳ 1975 - 1985

Ngày 20/4/1981 Bộ Chính trị có Nghị quyết 37-NQ/TW về chính sách khoa

học và kỹ thuật, trong đó thể hiện một quan điểm: "Cần khẳng định rằng trong điều

kiện kinh tế càng khó khăn, trình độ kỹ thuật của sản xuất càng thấp kém, thì càng

phải chú trọng đầu tư cho các hoạt động khoa học và kỹ thuật, cho công tác đào tạo

cán bộ khoa học và công nhân kỹ thuật - Chính đó là con đường góp phần nhanh

chóng nâng cao năng suất lao động XH và giải quyết triệt để những khó khăn trong

sản xuất và trong nền kinh tế hiện nay".

Tháng 3/1982 Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu rõ phương hướng nhiệm vụ

và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và XH năm 1981 - 1985, trong đó nhấn mạnh:

"Trước hết khoa học và kỹ thuật phải phục vụ tốt nhất cho việc đưa nông nghiệp một

bứơc lên sản xuất lớn XHCN trong cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý". Đối với

nhiệm vụ lâu dài của khoa học và công nghệ Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng

đã chỉ ra: "XD từng bứơc nền khoa học và kỹ thuật tiên tiến của nước CHXHCNVN

có cơ cấu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hoá và XH, có khả năng giải

quyết những yêu cầu trước mắt và những mục tiêu lâu dài của nền sản xuất, đời sống

và quốc phòng, đón trước và mở ra cho nền kinh tế và XH những phương hướng

phát triển mới, chú trọng phát triển những ngành khoa học và kỹ thuật gắn liền với

thế mạnh về tài nguyên, điều kiện nhiệt đới và con người Việt Nam.

2.3.5. Thời kỳ 1986 đến nay.

Sau hơn 10 năm thông nhất đất nước nền kinh tế XH gặp nhiều khó khăn do

cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Đại hội lần thứ VI của ĐCSVN tháng 12/1986 đã

mở ra một bước ngoặt trong sự nghiệp cách mạng của nước ta, đề ra đường lối đổi

mới, trước hết là đổi mới trong lĩnh vực kinh tế với nội dung chủ yếu là chuyển nền

kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận

hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCH.

Đại hội khẳng định khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới

toàn diện đất nước và chỉ rõ phương hướng hành động "Nhằm trước hết phục vụ cho

3 chương trình mục tiêu": Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất

khẩu.

Tháng 6/1991 Đại hội ĐCSVN lần thứ VII khẳng định quan điểm: "Khoa học

và công nghệ, GD - ĐT phải được xem là quốc sách hàng đầu". Đảng còn chỉ ra

phương hướng cụ thể cho khoa học và công nghệ "Hoạt động khoa học và công nghệ

phải đảm bảo cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cơ quan lãnh

đạo, quản lý là công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả cho

mọi hoạt động KT - XH góp phần XD nền văn hóa mới, con người mới, thúc đẩy

công cuộc đổi mới toàn diện đất nước". Trước Đại hội VII, Nghị quyết 26 của Bộ

Chính trị 30-3-1991 "Về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới" và đã

khẳng định rõ quan điểm của Đảng ta về vai trò quan trọng của khoa học và công

nghệ trong việc đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình KT - XH.

Đảng thừa nhận đội ngũ cán bộ khoa học và lực lượng nòng cốt của công cuộc đổi

mới và XD thành công CNXH ở nước ta.

2.4. ảnh hưởng của cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ

ảnh hưởng của cuộc cách mạng KHCN mới đối với CNTB hiện đại là hết sức

to lớn, vượt xa ảnh hưởng của các cuộc cách mạng KHKT trước đây đối với đời sống

chính trị, kinh tế của XH đương thời.

2.4.1. Cuộc cách mạng Khoa học - Công nghệ liên quan đến hầu như toàn

bộ các lĩnh vực KHKT với mức độ rộng lớn chưa từng có.

2 cuộc cách mạng KHKT trước nổ ra chủ yếu trong ngành động lực và ngành

chế tạo, còn cuộc cách mạng KHCN lần này thì xâm nhập vào mọi mặt đời sống của

loài người như: Nông nghiệp, công nghiệp, năng lựơng, giao thông, dịch vụ, thậm trí

môi trường sinh thái... Vì vậy, mà ảnh hưởng của nó đối với chính trị - KT - XH là

toàn diện và sâu sắc. Nếu nói tiến bộ KHKT trước đây chủ yếu nhằm vào đòi hỏi

phát triển sức sản xuất, thì một đặc điểm quan trọng của cách mạng KHKT lần này

là đồng thời với việc thúc đẩy sự phát triển sức sản xuất, nó chủ yếu còn nhằm vào

duy trì và cải thiện điều kiện và môi trường sống của con người.

2.4.2. cuộc cách mạng KHCN rút ngắn nhanh chóng quá trình biến KHCN

thành lực lượng sản xuất, làm cho khoa học và công nghệ phục vụ sự phát triển KT

- XH càng nhanh hơn, tốt hơn. Lấy việc phát minh và ứng dụng máy hơi nước làm ví

dụ: Năm 1705, người ta đã phát minh ra máy hơi nước cớ lớn, năm 1925 Stivenson

mới phát minh ra xe lửa chạy bằng máy hơi nước. Từ khi phát minh ra máy hơi nước

đến khi nó được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và vận tải, phải tới hơn 100 năm.

Việc phát minh ra động cơ đốt trong, quá trình rút ngắn còn lại 80 năm. Còn việc tìm

ra và ứng dụng năng lượng nguyên tử chỉ cần đến 40 năm. Lại lấy ví dụ như máy

điện thoại từ khi phát minh ra đến khi sử dụng rộng rãi phải mất 60 năm, còn vô

tuyến truyền hình phức tạp hơn rất nhiều, nhưng quá trình đó chỉ có 14 năm. Máy

tính điện tử chỉ trong vòng thời gian ngắn (14 năm) đã trải qua 4 thế hệ. Có thể thấy

rõ là, từ KHKT chuyển thành sức sản xuất, đúng như một số nhà khoa học đã kết

luận, có xu hướng phát triển "Tăng tốc".

2.4.3. Cách mạng KHCN trở thành nguyên tố trực tiếp quyết định sự phát

triển của lực lượng sản xuất XH của các nước tư bản sau chiến tranh. Nó được uỷ

nhiệm chủ yếu trên các mặt sau đây:

Các ngành công nghiệp mới dựa trên cơ sở KHKT công nghệ hiện đại ra đời

và phát triển rất nhanh, trở thành những ngành tiên phong, chủ đạo của sự phát triển

KT - XH.

Nhờ KHCN hiện đại, các ngành công nghiệp truyền thống phần lớn là các

ngành công nghiệp cơ sở, không thể thiếu đối với tái sản xuất XH, đã được cải tạo

không ngừng, năng suất lao động tăng liên tục.

Cơ cấu ngành thay đổi, chuyển dịch nâng cấp lên trình độ mới phù hợp với

nền sản xuất hiện đại, kỹ thuật cao, hàm lượng trí tuệ lớn.

Phân công lao động phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Chuyên môn hoá

chi tiết trong từng ngành, phân công chuyên môn hoá chi tiết giữa các ngành, phân

công liên kết chuyên môn hoá giữa các nước, trong một số ngành đã xuất hiện dây

chuyền sản xuất quốc tế.

Tái sản xuất mở rộng ngày càng phát triển theo chiều sâu lấy đầu tư KHKT

làm chính để nâng cao chất lượng lao động, tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả

kinh tế và chất lượng sản phẩm. Điều này đã dẫn đến một thực tế mà nhà kinh tế Mỹ

Simon Kuznetz trong cuốn "Tăng trưởng kinh tế và kết cấu việc làm" của mình đã rút

ra kết luận: Tốc độ tăng trưởng cao của các nước ngày nay không phải do lao động

đầu vào cùng như tăng tư bản đầu vào quyết định, mà là do năng suất lao động tăng

với nhịp độ cao quyết định.

2.4.4. Cuộc cách mạng KHCN thúc đẩy sự xuất hiện hàng loạt ngành nghề

mới và làm cho những ngành nghề cũ được cải tạo "Thay da đổi thịt", làm cho cơ

cầu ngành nghề ở các nước tư bản phát triển nhờ đó mà có sự thay đổi lớn. Trong

thời kỳ kinh tế tăng trưởng nhanh sau chiến tranh, công nghiệp hoá dầu là tổ hợp

ngành nghề mới, có tác dụng rất quan trọng. Ngày nay, những ngành nghề mới xuất

hiện nhờ có sự phát triển sâu sắc của cách mạng KHCN đã không chỉ có một, hai

ngành, mà là xuất hiện hàng loạt ngành công nghiệp mới như: Công nghiệp điện tử,

công nghiệp khoa học, công nghiệp nguyên tử, công nghiệp sinh vật, công nghiệp tàu

vũ trụ... phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự xuất hiện hàng loạt ngành nghề mới, các

ngành nghề cũ không bị xoá bỏ, mà đựơc cải tạo một cách triệt để. Việc sử dụng rộng

rãi máy dệt không có thoi, đầu máy hơi nước, sự phát triển rộng rãi của lò luyện thép

điện và đúc gang liên hoàn, sự tăng vọt của hệ thống máy công cụ điều khiển... Tất cả

những cái đó khiến cho các ngành công nghiệp cũ như dệt và xe lửa, gang thép... đều

đổi mới về chất lượng. Sự phát triển của cuộc cách mạng KHCN mới và các ngành

nghề cũ ngày càng kết hợp chặt chẽ với nhau. Các ngành mới lấy công nghiệp truyền

thống làm chỗ dựa và thị trường chủ yếu cho sự phát triển của mình, các ngành cũ thì

dựa vào các ngành cải tạo kỹ thuật mà tăng thêm sức sống mới. Sự kết hợp chặt chẽ 2

mặt này sẽ là xu thế quan trọng của sự phát triển KHKT từ nay về sau.

2.5. Quá trình đổi mới chính sách KHCN ở nước ta:

Quá trình đổi mới chính sách KHCN ở nước ta thực chất là quá trình phát triển

tư duy lý luận khoa học bằng những bổ sung thực tiễn vận động KT - XH. Một quá

trình hoàn thiện lý luận hướng tới chân lý khách quan: KHCN là động lực phát triển

KT - XH đất nước.

2.5.1. Các giai đoạn cải cách chính sách KHCN trong tiến trình cải cách KT

- XH.

Căn cứ bản chất nội dung từng chặng đường phát triển của chính sách KHCN

trong tương lai, chúng ta có thể phân chia quá trình cải cách trong chính sách KH và

CN ở nước ta theo 3 giai đoạn với những nội dung khá đặc trưng.

2.5.1.1. Giai đoạn I (1975 - 1980): Cải cách trong khuôn khổ Nhà nước tổ

chức mọi hoạt động KH và CN với một hệ thống chỉ huy tập trung.

Nội dung cải cách trong giai đoạn này ở nước ta cũng như hàng loạt nước

XHCN là nhằm vào việc hoàn thiện hệ thống kế hoạch hoá, hình thành phương thức

kế hoạch hoá theo chương trình các mục tiêu sao cho Nhà nước có khả năng tập trung

các nguồn lực thực hiện được các mục tiêu KH đã đề ra.

Tuy nhiên, các biện pháp cải cách trong giai đoạn này không đạt được những

kết quả mong muốn do gặp phải những hạn chế không trực tiếp bắt nguồn từ bản

thân các biện pháp, chính sách KH và CN.

2.5.1.2. Giai đoạn II (1981 - 1986): Phi tập trung hoá hệ thống chỉ huy

nhưng vẫn trong khuôn khổ Nhà nước tổ chức các hoạt động KH và CN.

Quyết định này đã tạo điều kiện cho cơ quan KH và CN được mở rộng quan

hệ hợp tác với nhau và với sản xuất thông qua các hợp đồng nghiên cứu, triển khai,

dịch vụ KH và KT, dẫn đến việc đa dạng hoá các hoạt động của cơ quan KH và CN;

Và do vậy, đa dạng hoá các nguồn kinh phí đi vào các cơ quan này, cũng từ đây làm

xuất hiện nhu cầu tự chủ tài chính đối với các cơ quan KH và CN.

2.5.1.3. Giai đoạn III (1987 - nay): Thừa nhận các sáng kiến cá nhân và sự

tồn tại những tổ chức và hoạt động KH và CN trong các thành phần kinh tế và

các tổ chức XH không thuộc Nhà nước.

Nghị định 35 - HĐBT ban hành năm 1992 đã ghi một mốc hết sức quan trọng

trong tiến trình đổi mới quản lý KH và CN. Ngay trong điều 1 của Nghị định đã thể

hiện rõ quan điểm phát huy sáng tạo của mỗi con người và các tổ chức XH trong hoạt

động KH và CN.

2.5.2. Nội dung của cải cách trong KH và CN ở Việt Nam.

Công cuộc cải cách KT - XH đang làm này sinh hàng loạt vấn đề cải cách

trong thể chế và chính sách KH và CN. Các vấn đề đó được bao hàm trong 3 nội

dung cơ bản là cơ cấu lại mạng lưới nghiên cứu và triển khai; Cải cách chính sách,

thể chế và quản lý nhà nước về KH và CN.

2.5.2.1. Cơ cấu lại mạng lưới nghiên cứu và triển khai.

Mạng lưới nghiên cứu và triển khai được tổ chức như một sản phẩm của nền

kinh tế chỉ huy trước đây rõ ràng không đủ điều kiện đáp ứng những đòi hỏi của việc

tạo ưu thế cạnh tranh và phát triển XH trong 1 nền kinh tế thị trường vì nhiều lý do

khác nhau.

Mạng lưới nghiên cứu và triển khai được tổ chức theo đòi hỏi của nền KT chỉ

huy trước đây đang tự nó chuyển đổi thích ứng với tiến trình cải cách, cần phân tích

tiến trình này để đề ra những giải pháp thích hợp.

Thực trạng mạng lưới nghiên cứu và triển khai đã được phân tích trong các

báo cáo của Viện nghiên cứu quản lý KH. Những nghiên cứu gần đây cho thấy hiện

nay cần được tập trung thảo luận để tìm ra giải pháp về các vấn đề sau.

2.5.2.1.1. Tổ chức nghiên cứu KH trong trường đại học.

Theo mô hình tổ chức KH cũ trước đây, trong hệ thống trường đại học không

có các đơn vị nghiên cứu KH. Chế độ hợp đồng nghiên cứu KH được thiết lập năm

1981 làm nảy sinh nhu cầu khách quan về thành lập các đơn vị nghiên cứu KH có tư

cách pháp nhân độc lập.

2.5.2.1.2. Tổ chức nghiên cứu công nghệ.

Các tổ chức nghiên cứu công nghệ vốn là những viện trực thuộc các bộ "Sản

xuất - Kinh doanh" hoạt động dưới sự "Chỉ huy trực tiếp" của Bộ, tồn tại song song

với các xí nghiệp thuộc Bộ. Các tổ chức này hiện đang đứng trước những thử tách

trước nhu cầu tồn tại và đang trải qua những diễn biến của trình tự sắp xếp mạng lưới

nghiên cứu và triển khai trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý KT ở Việt Nam.

2.5.2.1.3. Các Viện Quốc gia

Khuynh hướng tổ chức các Viện Quốc gia theo mô hình Viện Hàn lâm Liên

Xô (cũ) đã từng tồn tại trong 1 thời gian dài ở nước ta. Hiện nay khuynh hướng này

hầu như không còn nữa. Nhà nước đã có quyết định thành lập một số Trung tâm KH

Quốc gia để nghiên cứu những vấn đề phục vụ các nhiệm vụ ưu tiên của nhà nước,

hoặc những vấn đề tuy không phục vụ nhiệm vụ ưu tiên của Nhà nước, nhưng được

Nhà nước dành cho sự quan tâm ưu tiên.

2.5.2.2. Cải cách chính sách và thể chế.

Các vấn đề đang thu hút sự quan tâm đáng kể là.

2.5.2.2.1. Sửa đổi chế độ tuyển dụng nhân công kỹ thuật.

2.5.2.2.2. Đổi mới chính sách tiền lương của nhân lực KH và KT.

2.5.2.3. Quản lý Nhà nước về KH.

2.6. Dự báo phát triển KHCN đầu thế kỷ XXI.

Trong thế kỷ XXI sự phát triển tiếp diễn như vũ bão của cuộc cách mạng

KHCN hiện đại, dựa trên cơ sở các cuộc cách mạng lớn trong các lĩnh vực: Vật lý

điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ

năng lượng mới, công nghệ chế tạo cấp siêu vi mô... đang mở đường cho nhân loại

tiến vào kỷ nguyên lớn về KH và CN như sau:

2.6.1. Kỷ nguyên thông tin (bắt đầu vào khoảng năm 2010 - 2015) - Tiếp

theo 2 kỷ nguyên - Kỷ nguyên nông nghiệp (hơn 17 thế kỷ) và kỷ nguyên công

nghiệp ( khoảng 3 thế kỷ) - Với nền kinh tế tri thức là cốt.

2.6.2. Kỷ nguyên sinh học - Với cuộc cách mạng sinh học là then chốt, kể từ

sau khi phát hiện ra mã ADN vào nửa sau thế kỷ XX.

2.6.3. Kỷ nguyên vật liệu mới - Với sự phát hiện ra các vật liêụ siêu dẫn ở

nhiệt độ thấp và nhiệt độ cao cùng các vật liệu đặc biệt khác.

2.6.4. Kỷ nguyên siêu cơ bản - Dựa trên những khám phá mới nhất của vật

lý lượng tử ở cấp siêu cơ bản trên con đường tìm hiểu một cách thống nhất sự

phong phú đa dạng của tự nhiên.

2.6.5. Kỷ nguyên năng lượng mới- Với nguồn năng lượng tổng hợp nhiệt

hạch (Tìm ra năm 1991) là nguồn năng lượng sạch của tương lai, không gây ô

nhiễm môi trường cho nhân loại.

2.6.6. Kỷ nguyên vũ trụ - Dựa trên những thành tựu mới nhất của công

nghệ năng lượng mới, công nghệ vật liệu, công nghệ chế tạo cấp vi - Điện tử (vi

mô) và tới đây là công nghệ vi - quang tử (siêu vi mô).

2.7. Mặt trái của cách mạng KHCN đối với sự phát triển của CNTB hiện

đại.

Cách mạng KHCN đã thực sự như một cứu cánh cho CNTB ngày nay, nhưng

mặt khác, nó cũng đặt CNTB trước những vấn đề gay cấn.

2.7.1. Sự tiêu vong của các nghề nghiệp truyền thống và nạn thất nghiệp cơ

cấu.

Trong các nước tư bản phát triển, lực lượng lao động trực tiếp sản xuất giảm

đi theo đà áp dụng người máy, Rô bốt và hệ thống máy móc sản xuất và điều khiển

sản xuất tự động hoá. Do đó làm cho những nghề nghiệp truyền thống đòi hỏi nhiều

sức bắp, nhiều hao phí lao động sống ngày càng bị tiêu vong. Lao động trí óc ngày

càng được đề cao và phát triển, do đó làm nạn thất nghiệp cơ cấu tăng lên.

2.7.2. Khoảng cách giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát

triển ngày càng lớn hơn.

Ngoài các quốc gia giàu có đang bước vào thời đại "hậu công nghiệp", 3/4 dân

số của thế giới ngày nay đang phải vật lộn với sự nghèo khổ. Đại đa số các nước

đang phát triển có tốc độ phát triển chậm, CN lạc hậu, khả năng tham gia phân công

lao động quốc tế yếu, các lợi thế nhân công, nguyên liệu mất dần... Giữa họ và các

nước giàu có có một khoảng cách CN khá xa. Và nếu không cẩn thận, họ dễ trở thành

nơi chứa các chất "phế thải"do yêu cầu phát triển KHCN ở các nước tư bản phát triển

đưa tới. Mặc dù các nước đã vận dụng những phát minh sáng chê của nước ngoài rồi

biến thành bí quyết công nghệ của riêng mình đã mở ra nhiều khả năng vận dụng

cho các nước đi sau. Song, trong điều kiện của CNTB, số nước vận dụng được cơ

may như trên khó có thể trở thành phổ biến. Khoảng cách giàu - nghèo, tiên tiến và

lạc hậu trên thế giới vẫn là vấn đề nan giải của CNTB ngày nay.

III. Phần kết luận

Tóm lại ! KHCN có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nhân

loại nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong sự nghiệp CNH - HĐH hiện nay,

KHCN càng thể hiện rõ vai trò của nó đối với Việt Nam như: Cấu trúc lại nền kinh

tế, thay đổi và chuyển hướng các cơ sở hạ tầng của sản xuất, tăng cường các xu thế

toàn cầu hoá nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng của đất nước. Việt Nam chúng ta

còn nghèo KHKT còn lạc hậu, thô sơ nên cần áp dụng các thành tựu KHCN mà nhân

loại tạo ra. Ngoài ra, chúng ta còn phải không ngừng nghiên cứu, sáng tạo, tìm tòi...

để cho ra những phát minh khoa học của riêng mình.

Nhà nước ta cần có những chính sách ưu tiên, khuyến khích để phát triển

KHCN: Đào tạo những cán bộ có chuyên môn cao về KHKT, ưu đãi những nhà khoa

học có tài tạo điều kiện cho họ có khả năng phát triển hết khả năng của mình, nâng

cao cơ sở vật chất cho nghiên cứu khoa học, tăng cường hợp tác với các Viện nghiên

cứu trên thế giới.

Với thế hệ sinh viên trẻ - Lực lượng nòng cốt của sự nghiệp CNH - HĐH ngày

nay, mỗi chúng ta cần phải tự mình trau dồi thêm kiến thức về KHCN nói riêng và về

mọi mặt nói chung không chỉ trong trường học mà còn cả trong thực tiễn cuộc sống

để có thể đưa nước ta vững bước đi lên con đường XHCN đúng như mong muốn của

Bác Hồ vĩ đại "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không chính nhờ một

phần lớn ở công học tập của các cháu".

Tài liệu tham khảo

1. Một số vấn đề về chính sách phát triển KH và CN - Phó Tiến sĩ Nguyễn

Văn Thuỵ (Chủ biên) - Nxb Chính Trị Quốc gia Hà Nội, 1994

Từ trang 163 - 211

2. KH và CN lực lượng sản xuất hàng đầu - GS Tiến sĩ Vũ Đình Cự - Nxb

Chính Trị Quốc gia Hà Nội, 1996

Từ trang 9 - 17

3. Chủ nghĩa tư bản hiện đại (T.1) Khoa học - công nghệ và phát triển

kinh tế - Lê Văn San (Chủ biên ), Đào Lê Minh, Trần Quang Lâm - Nxb Chính Trị

Quốc gia Hà Nội, 1995

Trang 20 - 79

4. Phương pháp lập kế hoạch phát triển năng lực công nghệ (T1)- Nguyên

lý phát triển dựa trên cơ sở công nghệ.

Người dịch: Tạ Bá Hưng, Trần Thu Lan, Nguyễn Nhật Huy

Trung Tâm thông tin thư viện khoa học và Công nghệ Quốc gia

Trung Tâm thông tin KHKT Hoá chất Hà Nội, 1997

Trang 39 - 49

5. Văn kiện đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính Trị Quốc gia Hà

Nội, 2001

Trang 112 - 113

6. Giáo trình triết học Mác - LêNin, Nxb Chính Trị Quốc gia Hà nội, 2004

Trang 372 - 373