20
Hunh Th M Diu và cng s. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trKinh doanh, 20(7), 20-39
Nghiên cứu về ý định khởi nghiệp công nghệ số:
Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam
Research on digital entrepreneurship intention:
Empirical evidence in Vietnam
Huỳnh Thị Mỹ Diệu1*, Huỳnh Thế Nguyễn1, Trần Nguyễn Khánh Hải1
1Trường Đại họci chính - Marketing, Thành phố HChí Minh, Việt Nam
*Tác giả liên hệ, Email: mydieu@ufm.edu.vn
THÔNG TIN
TÓM TẮT
DOI:10.46223/HCMCOUJS.
econ.vi.20.8.3751.2025
Ngày nhận: 23/09/2024
Ngày nhận lại: 01/03/2025
Duyệt đăng: 07/03/2025
Mã phân loại JEL:
M1; M13; M31
Từ khóa:
ý định khởi nghiệp; ý định
khởi nghiệp công nghệ số;
Vit Nam
Keywords:
entrepreneurship intention;
digital entrepreneurship
intention; Vietnam
Mục đích của nghiên cứu đánh giá tác động của Sự hiểu
biết về khởi nghiệp, Năng lực Trải nghiệm công nghệ số đến ý
định khởi nghiệp công nghệ số Việt Nam. Dựa trên thuyết
hành vi kế hoạch (Theory of Planned Behavior - TPB), nhóm
tác giả thực hiện phân tích dữ liệu của 1,243 học viên sau đại học
bằng hình phương trình cấu trúc bình phương tối thiểu riêng
phần (Partial Least Square - Structural Equation Modeling - PLS-
SEM). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hai thành phần của TPB
đều tác động tích cực đến ý định khởi nghiệp công nghệ số.
Bên cạnh đó, Năng lực công nghệ số và Kiến thức về khởi nghiệp
cũng tác động trực tiếp đến ý định khởi nghiệp công nghệ số.
Ngược lại, Trải nghiệm công nghệ số không ảnh hưởng đến ý
định khởi nghiệp công nghệ số. Kết quả cũng chứng minh vai trò
trung gian của các yếu tố thuộc về TPB. Dựa vào đó, nhóm tác
giả đề xuất một số hàm ý quản trị nhằm thúc đẩy tinh thần khởi
nghiệp tại Việt Nam.
ABSTRACT
This study aims to evaluate the role of knowledge of
entrepreneurship, digital capability, and prior experience in digital
technology in Vietnam’s digital entrepreneurship intention. Based
on the Theory of Planned Behavior (TPB), the authors analyzed
data from 1,243 postgraduate students using Partial Least Square -
Structural Equation Modeling (PLS-SEM). The results show that
the two components of TPB positively impact the intention of
digital entrepreneurship. In addition, Knowledge of
Entrepreneurship and Digital Capability directly impact digital
entrepreneurship intention. In contrast, prior experience in digital
technology does not affect the intention of digital
entrepreneurship. The results also indicate the mediating role of
TPB factors. Based on that, the authors propose policy
implications to enhance the spirit of entrepreneurship in Vietnam.
Hunh Th M Diu và cng s. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 20(7), 20-39
21
1. Giới thiệu
Trong nn kinh tế chuyển đổi s, khi nghip Công Ngh S (CNS) đang thu hút s quan
tâm ca rt nhiu quốc gia, đặc biệt đối với các nước đang phát triển (Nathani & Dwivedi, 2019).
Quá trình ng dng CNS Internet đã giúp c nhà kinh doanh tiếp cận thị trường khách
hàng trên khắp thế giới một cách dễ dàng hơn. o cáo của Cục Thông tin Khoa học Công
nghệ quốc gia cho thấy trong năm 2024 chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam xếp thứ 5 tại
khu vực Đông Nam Á, thứ 12 tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và tăng 04 bậc so với năm
2022 vươn lên vị trí 44/133 quốc gia khởi nghiệp toàn cầu (CESTI, 2024). Đồng thời, Báo cáo
đổi mới sáng tạo công nghệ Việt Nam 2023 của Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia
(Vietnam National Innovation Center - NIC) chỉ ra đầu công nghệ tại quốc gia chịu sự ảnh
hưởng từ nền kinh tế toàn cầu, vốn đầu tư mạo hiểm vào nước ta đã giảm 65% vào nửa cuối năm
2022 vì khủng hoảng trong ngành công nghệ ngày càng tăng, tuy nhiên lĩnh vực Fintech vẫn tiếp
tục thu hút vốn đầu dồi dào, chiếm khoảng 39% tổng giá trị đầu (NIC, 2023). Doanh thu
công nghiệp công nghệ snăm 2024 ước đạt 3.636 triệu tỷ đồng, với 50,350 doanh nghiệp công
nghệ số đang hoạt động (Pham, 2024). Khởi nghiệp một trong những ngành kinh tế then chốt
góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm giải quyết vấn đề thất
nghiệp cho xã hội (Wibowo & ctg., 2023; Resurrection, 2011). Chính phủ cũng nhấn mạnh
xem khởi nghiệp là hoạt động tạo động lực cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân, bằng cách đề
ra các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp mới thành lập. Theo số liu ghi nhn t 1,500 doanh
nghip khi nghip cho thấy đa số thanh niên mi tt nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đối vi
hoạt động khi nghip (Thuy Le, 2018). giải cho điều này, các chuyên gia cho rng các
chương trình giáo dục hiện nay chưa trang bị đầy đủ yêu cu v kiến thc khi nghiệp cho người
hc. Theo Vo (2021), học sinh tốt nghiệp cấp 3 chưa được cung cấp những kiến thức bản về
cách thức tiếp cận kinh doanh, dẫn đến nhiều học sinh sau khi tốt nghiệp vẫn chưa khái niệm
hoàn chỉnh về tính độc lập hay tinh thần kinh doanh. Những người trình độ chuyên môn,
khả năng khởi nghiệp thành công cao lại xu hướng đi làm công ăn lương (Rocha & Pozzoli,
2021). Đây cũng là một trong những nét văn hóa đặc trưng của người Việt đặt ra rào cản để hình
thành cộng đồng khởi nghiệp.
Việc nghiên cứu tiền đề về Ý Định Khởi Nghiệp (YĐKN) có thể giúp các nhà hoạch định
chính sách khám phá thêm về niềm tin, nhận thức cũng như kinh nghiệm làm việc ảnh hưởng
như thế nào đến YĐKN (Zellweger & ctg., 2011). Dựa trên thế mạnh sẵn có, sự thống nhất giữa
các quan, ban, ngành cùng với hệ thống giải pháp đồng bộ sở để thu hút đầu thúc
đẩy phát triển hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam. Tuy nhiên, thnói hoạt động này vẫn
đang tồn tại nhiều thách thức như thiếu nguồn lao động chất lượng cao, sở hạ tầng còn sài
công tác quản còn nhiều bất cập. Ngoài ra, một số nguồn lực cần thiết cho hoạt động khởi
nghiệp như vốn đầu tư, hỗ trợ từ Chính phủ còn hạn chế.
Đại dịch Covid-19 đi qua đã đánh giá lại mối liên hệ giữa số hóa với các hình kinh
doanh đổi mới sáng tạo, các doanh nhân phải đối mặt với một quá trình thích ứng phức tạp
quyết định nên sự thành công hay thất bại của họ. Chính vậy, nghiên cứu ý định khởi nghiệp
CNS càng cấp thiết hơn trong việc hướng tới mục tiêu đa dạng hóa mô hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ, đồng thời giải quyết tình trạng thất nghiệp hiện nay. Khởi nghiệp CNS việc tận dụng các
hội dựa trên việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật số, công nghệ internet các phương tiện
công nghệ thông tin - truyền thông khác (Yaghoubi Farani & ctg., 2017). CNS đã làm thay đổi
sự vận hành tổ chức của các doanh nghiệp truyền thống, những thay đổi này được gọi là “chuyển
22
Hunh Th M Diu và cng s. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trKinh doanh, 20(7), 20-39
đổi k thuật số” mang lại nhiều hội cho hoạt động khởi nghiệp (Garcez & ctg., 2022). Mối
liên hệ giữa ý định khởi nghiệp yếu tố công nghệ đã được kết nối chặt chẽ hơn bao giờ hết.
Chính CNS ngày càng phát triển các yếu tố bên ngoài đã tạo ra nhiều hội cũng như
thách thức cho các nhà khởi nghiệp (Yáñez-Valdés & Guerrero, 2024). Do đó, cần nhiều
nghiên cứu thực nghiệm để nâng cao sự hiểu biết của chúng ta về ý định khởi nghiệp CNS. Kết
quả từ nghiên cứu này sẽ cung cấp thêm nguồn tri thức về cách thức các yếu tố nhận thức và yếu
tố bên ngoài khác có thể kích thích ý định khởi nghiệp CNS của giới trẻ Việt Nam.
2. Tổng quan lý thuyết và tình hình nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Lý thuyết hành vi có kế hoch (TPB)
Năm 1991, Ajzen đã phát trin lý thuyết TPB t hn chế ca lý thuyết hành động hợp lý
-TRA (Fishbein & Ajzen, 1975), do ý định hành vi không phải c o cũng dẫn đến hành vi
thc tế, bng vic b sung biến Nhn thc kim soát hành vi (Percieved Behavioral Control-
PBC). PBC là nhn thc ca mt nhân v s d dàng hoặc kkhăn trong vic thc hin
hành vi c thể; điu này ph thuc vào s sn có ca các ngun lực c hội đ thc hin
hành vi, phn ánh kinh nghim trong quá kh cũng n nhng tr ngi d kiến (Ajzen, 1991).
Như vậy TPB bao gm 03 thành t Thái độ đối vi nh vi, Chun ch quan PBC. Theo
đó, Thái độ phản ánh niềm tin về hành vi của một người liên quan đến kết qucủa nh động
nhân thxảy ra. Chun ch quan là nhn thc b ảnh hưởng bởi tác đng ca nhng
người tham kho quan trng ca nhân (cha m, v/chng, bn , giáo viên) cho rng
nên thc hiện hành vi đó hay không (Fishbein & Ajzen, 1975). vy, TPB giải tch hành vi
dự định của một người kết qucủa ý định thực hiện nh vi và khả năng kiểm soát của họ.
Do đó, ý định được coi là yếu tố dđoán tốt nhất cho các nh động liên quan, điểm khởi
đầu của việc theo đuổi quyền tchủ nhân tạo ra các dự án mới, đồng thời rất quan trọng
trước khi thực sự thành lập doanh nghiệp (Mamun & ctg., 2017). Trên sđó, khi ti đvà
chuẩn chủ quan đối với nh vi càng thuận lợi, khả ng nhận thức kiểm soát hành vi ng lớn
thì ý định thực hiện hành vi càng trở nên mạnh mẽ. vậy, trên thực tế ch thái độ mới
tác động đáng kđến ý định, hoặc thái đ nhận thức kiểm soát nh vi cũng đã đđể giải
thích cho ý định, hoặc cba yếu tdự o đều đóng góp độc lập (Ajzen, 1991). Ngoài ra, c
yếu tkhác như nh cách, nhân khẩu học, n a xã hội, thể chế có thảnh hưởng gián tiếp
đến ý định thông qua ba tiền đề của TPB.
2.1.2. Ý định khi nghip công ngh s (Digital Entrepreneurship Intention - DEI)
Theo Ajzen (1985), ý định chính quyết định thực hiện hay không thực hiện một hoạt
động nào đó. Các học giả cũng nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về YĐKN. Đó
nhn thc nim tin của một nhân vào mục đích tạo ra một dự án kinh doanh mới cố
gắng hiện thực hóa trong tương lai (Bird, 1988), hay đó sự sẵn lòng tiến nh hoạt động
kinh doanh hoặc thành lập một doanh nghiệp mới (Alexei & Lars, 1999). Nó khuyến khích sự tự
chủ động lực cho sự sáng tạo. YĐKN được coi yếu tố then chốt trong việc quyết định theo
đuổi sự nghiệp khởi nghiệp (Wahidmurni & Baihaqi, 2019).
Cuộc cách mạng CNS đã thay đổi hoàn toàn cơ cấu kinh doanh, mang đến cho các doanh
nhân nền kinh tế những hội lớn (Alkhalaileh & ctg., 2023). Điều này đặt ra nhng câu hi
v tinh thn khi nghip CNS có phi nm giao đim giữa ý định khi nghip và công ngh k
thut s. Khởi nghiệp CNS được xem một nhánh của hoạt động khởi nghiệp một phần
Hunh Th M Diu và cng s. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 20(7), 20-39
23
hoặc toàn bộ những thuộc về một tổ chức truyền thống đã được số hóa (Hull & ctg., 2007),
hoặc là việc mua bán các sản phẩm/dịch vụ CNS bằng hình thức trực tuyến (Guthrie, 2014). Cho
nên, các doanh nhân CNS chịu nhiều áp lực hơn các doanh nhân truyền thống, nơi đó sản phẩm,
hoạt động tiếp thị địa điểm làm việc những tiêu chí phân biệt chính giữa họ (Kraus & ctg.,
2019). Hull cộng sự (2007) cũng đề cập rằng mức độ số hóa thể được suy ra thông qua các
yếu tố sau: (1) Mức độ tiếp thị CNS, (2) Doanh số bán hàng, (3) Bản chất CNS của hàng
hóa/dịch vụ, (4) Tiềm năng phân phối hàng hóa hoặc dịch vụ bằng CNS, (5) Tiềm năng tương
tác với các bên liên quan bên ngoài trong chuỗi giá trị bằng CNS (6) Tiềm năng thực hiện các
hoạt động nội bộ gắn liền với hoạt động của công ty thông qua CNS. Skhác biệt lớn giữa khởi
nghiệp công nghệ số và truyền thống cách các doanh nhân tiếp thị sản phẩm của họ. Bản thân
sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) đã cấu thành một yếu tố khác biệt giữa hai hình thức này.
Khởi nghiệp CNS liên quan đến khởi nghiệp truyền thống với các đặc trưng riêng của lĩnh vực
CNS, cùng với độ nhạy bén cao hơn về tính rủi ro, tính sáng tạo hoặc sự nhanh nhẹn (von Arnim
& Mrozewski, 2020). Mặt khác, khởi nghiệp CNS việc tận dụng các cơ hội dựa trên việc sử
dụng các phương tiện kthuật số, công nghệ internet các phương tiện công nghệ thông tin -
truyền thông khác (Yaghoubi Farani & ctg., 2017).
2.2. Lược khảo nghiên cứu về DEI
Việc lược khảo các nghiên cứu về DEI được thực hiện bằng phương pháp trắc lượng thư
mục, bởi sự hỗ trợ của phần mềm VOSviewer, nhằm phân tích các bài nghiên cứu đã công bố
trên dữ liệu Scopus giai đoạn 2011 - 2024. Kết quả cho thấy thuật ngữ dùng trong nghiên cứu về
DEI được sử dụng bao gồm khởi nghiệp CNS (digital), khởi nghiệp công nghệ kỹ thuật số
(digital technology), thông qua các phương tiện truyền thông hội (social media) hoặc
thương mại điện tử (e-commerce).
Hơn nữa, một số lý thuyết đã được sử dụng như thuyết phù hợp (Ballerini & ctg.,
2023), thuyết s dng hài lòng (Chakraborty & Biswal, 2023), hình chp nhn công
ngh -TAM (Abaddi, 2024; Wibowo & ctg., 2023), thuyết TPB được sử dụng thường
xuyên nhất. Đồng thời các nghiên cứu về DEI tập trung nhiều nhất giai đoạn 2022 - 2024, tức
thời gian gần đây. Đáng chú ý, rất nhiều nghiên cứu được thực hiện các nước châu Á như
Indonesia, Malaysia, Ấn Độ và Trung Quốc.
Đề cập đến yếu tố tạo động lực cho DEI, kết quả cho thấy các yếu tố thuộc về môi trường
bao gồm sự hỗ trợ từ trường học (Alkhalaileh & ctg., 2023), Chính sách môi trường (Alzamel,
2024), Hình mẫu lý tưởng (Aloulou & ctg., 2024; Mir & ctg., 2023), Giáo dc khi nghip CNS
(Gillani & ctg., 2022; Wibowo & ctg., 2023), Chính sách h tr xã hi (Al Halbusi & ctg., 2023;
Xin & Ma, 2023). Bên cạnh đó, đặc điểm tính cách đóng một vai trò quan trọng trong việc phát
triển DEI dựa trên việc áp dụng mô hình tính cách 05 yếu tố (Shimoli & ctg., 2020; Wang & ctg.,
2016; Yeh & ctg., 2020). Tuy nhiên, một số khác lại lập luận rằng việc khám phá YĐKN bằng
cách sử dụng năm đặc điểm tính cách chung chưa đủ các tính cách riêng khác thể ảnh
hưởng đến YĐKN (Laouiti & ctg., 2022; Postigo & ctg., 2021). vậy, một số nghiên cứu đã
chủ trương chia năm đặc điểm nh cách chung thành các đặc điểm riêng theo nghĩa hẹp để dự
đoán chính xác hơn YĐKN, bao gm S tnh táo s trong kinh doanh, Niềm đam
kinh doanh (Elnadi & Gheith, 2023), Tính đi mi sáng to ca nhà khi nghip (Akhter &
ctg., 2022; Elnadi & Gheith, 2023). C th, nghiên cu ca Dutot van Horne (2015) chng
minh mt s yếu t tác động đến DEI là kh ng nhạy bén, s tỉnh táo đặc điểm tính cách
riêng của người khi nghip. Ngoài ra, kh năng truy cập vào internet, mạng điện thoi c định
24
Hunh Th M Diu và cng s. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trKinh doanh, 20(7), 20-39
và di động cũng có tác đng tích cực đến kết qu khi nghip CNS (Zhang & Li, 2018). Hơn na,
Bandera cng s (2018) cho rng vai trò h tr ca công ngh rt quan trng trong mi quan
h giữa YĐKN và sự chp nhn ri ro.
Mặc dù đã nhiều nghiên cứu đề xuất các lý thuyết để tìm hiểu về DEI nhưng trên thực
tế vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại chưa được làm rõ. ý kiến cho rằng những đóng góp mang
tính học thuật cho chủ đề này vẫn còn rất rời rạc (Fernandes & ctg., 2022). Hơn nữa, các nghiên
cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào việc giải thích vai trò hỗ trợ của công nghệ kthuật số như
một vai trò theo ngữ cảnh, nhưng bỏ qua vai trò của các cá nhân và khả năng sử dụng công nghệ
(von Arnim & Mrozewski, 2020). Đồng thời, trong giới học thuật hiện đang thiếu những
thuyết, thiết kế nghiên cứu mới về DEI để thúc đẩy ngành kinh doanh này phát triển. Nambisan
(2017) đề xuất thuyết hóa các khái niệm các thành tố liên quan đến CNS một cách cụ thể
hơn nhằm nghiên cứu hiện tượng khởi nghiệp trong một thế giới số hóa.
2.3. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
2.3.1. Thái độ và Nhn thc kiểm soát hành vi đối vi DEI
Nhóm tác giả dựa vào TPB, phần mở rộng của mô hình do Turker Selcuk (2009) phát
triển được Yurtkoru cùng cộng sự tiếp tục phát triển năm 2014, đối chiếu với những kết quả
trước đó xem xét ảnh hưởng cũng như vai trò của yếu tố công nghệ kthuật số đối với hoạt
động khởi nghiệp. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh ba thành tố của TPB bao gồm Thái độ đối
với hành vi (ADE), Chuẩn chủ quan (SN) và Nhận thức kiểm soát hành vi (PBC) ảnh hưởng đến
DEI (Dutot, 2015; Widiasih & Darma, 2021; Yaghoubi Farani & ctg., 2016; Younis & ctg.,
2020). Mặc khác, Yaghoubi Farani và cng s (2017) đã chứng minh SN ảnh hưởng không đáng
k đến DEI. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng SN không liên quan đến YĐKN (Phan,
2018; Nguyen & ctg., 2021; Doanh, 2021). Vì vậy, nhóm tác giả đã không xét đến vai trò của SN
khi ứng dụng lý thuyết TPB để nghiên cứu về DEI. Do đó, các giả thuyết ban đầu được xây dựng:
H1: ADE có tác động tích cực đến DEI
H2: PBC có tác động tích cực đến DEI
2.3.2. Năng lực công ngh s và DEI
Các tác giả tả Năng lực công nghệ số (DC) tiềm năng được nhận thức của những
người ra quyết định để sử dụng hợp lý công nghệ thông tin - truyền thông” (Bellini & ctg., 2016,
tr. 50) cho mục đích kinh doanh (Parida & ctg., 2015). Một loạt các năng lực về CNS của
nhân đã được chứng minh như kthuật, hành vi, thể chất, quản lý mối quan hệ (Garrison &
ctg., 2015), nhưng hiếm khi được khai thác trong bối cảnh của YĐKN. Dựa vào khả năng ứng
dụng công nghệ chúng ta thể dễ dàng truy cập vào dữ liệu thị trường trong ngoài nước
(Ross & Blumenstein, 2015). Hơn nữa, không gian kỹ thuật s cho phép hgiao tiếp xuyên biên
giới với khách hàng tiềm năng (Glavas & Mathews, 2014) nhà cung cấp (Jean, 2010; Kevin
Tseng & Johnsen, 2011), từ đó xây dựng các mạng lưới liên quan (Bianchi & Mathews, 2016).
Điều y góp phần vào việc ra quyết định kinh doanh đánh giá thị trường cũng như khách
hàng một cách hiệu quả hơn (Polo Peña, 2011), đồng thời cho phép xác định các ý tưởng kinh
doanh đầy hứa hẹn (Chandra & Coviello, 2010). Vì vậy, có thể ngụ ý rằng những cá nhân sở hữu
năng lực vượt trội về CNS sẽ những người tiên phong tham gia vào sân chơi này. Von Arnim
Mrozewski (2020) đã chỉ ra rằng Năng lực và sự hiểu biết về CNS có vai trò tác động tích cực
đến thái độ đối với YĐKN quốc tế. Do vậy, dựa vào TPB nhóm tác giả đề xuất các giả thuyết sau: