
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, loãng xương ở người cao tuổi đã trở thành một
vấn đề thời sự đối với sức khỏe cộng đồng. Xu thế tuổi thọ ngày càng tăng, số
người cao tuổi ngày càng nhiều, tỷ lệ loãng xương ngày càng tăng ước tính ảnh
hưởng đến 200 triệu người trên toàn thế giới[1].Loãng xương luôn là mối đe dọa
không chỉ đối với bản thân, gia đình người bệnh mà đã trở thành một nguy cơ
gánh nặng cho toàn xã hội[2]. Bệnhđặc trưng bởi sự giảm khối lượng xương, tổn
thương vi cấu trúc xương [3].Hệ quả nghiêm trọng nhất của loãng xươnglà gãy
xương là một trong những nguyên nhân làm giảm tuổi thọ và ảnh hưởng đến kinh tế
cả nước [4].
Từ lâu, loãng xương đã được coi là bệnh của phụ nữ sau mãn kinh, song
các nghiên cứu gần đây đã cho thấy có tới 20% số nam giới toàn cầu có nguy cơ
mắc bệnh loãng xương[5]. Tỷ lệ tử vong và giảm chất lượng cuộc sống sau gãy
xương ở nam giới nặng nề hơn so với nữ giới,khoảng phân nửa các phụ nữ gẫy
xương chết trong vòng 7 năm, con số này ở nam giới là 5 năm nói cách khác khi nam
giới gẫy xương họ có nguy cơ chết sớm hơn nữ giới đến 2 năm [6]. Do vậy loãng
xương ở nam ngày càng được quan tâm nhiều hơn nhằm phát hiện sớm và điều
trị dự phòng biến chứng.
Nhằm góp phần vào phát hiện và phòng loãng xương, tránh biến chứng
gãy xương ở nam giới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đềtài:"Nhận xét tình
trạng loãng xương và một số yếu tốliên quan ở nam giới đến khám, điều trị tại
bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa” với 2 mục tiêu:
1. Nhận xét tình trạng loãng xương ở nam giới đến khám và điều trị tại
bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa.
2. Nhận xét mộtsốyếu tốliên quan đếntình trạng loãng xương ở nam giới.

2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.Đại cương về loãng xương
1.1.1. Định nghĩa loãng xương
Cũng như nhiều bệnh khác hiểu biết về loãng xương thay đổi theo thời
gian. Năm 1991, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chủ trì một hội nghị chuyên đề
loãng xương tại Thụy Sỹ đưa ra định nghĩa: “Loãng xương là một bệnh với đặc
điểm khối lượng xương suy giảm, vi cấu trúc của xương bị hư hỏng dẫn đến tình
trạng xương bị yếu và hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương”[7]. Có 3 khía cạnh
trong định nghĩa trên: Khối lượng xương, vi cấu trúc của xương và hệ quả. Khối
lượng xương chính là khối lượng chất khoáng trong xương, một thành tố quan
trọng có ảnh hưởng đến lực và sức bền của xương.Vi cấu trúc của xương là
những thành phần đan xen của các tế bào và mô tạo nên xương, phản ánh chất
lượng của xương. Định nghĩa trên ghi nhận rằng gãy xương là hệ quả của loãng
xương. Nhưng hệ quả ở đây là nguy cơ gãy xương chứ không phải gãy xương.
Trong vòng 15 năm qua, rất nhiều nghiên cứu về loãng xương đã được
thực hiện qua đó chúng ta đã hiểu và biếtnhiều hơn về loãng xương đặc biệt là
chất lượng của xương. Năm 2001,Viện Y tế Hoa Kỳ chủ trì một hội nghị chuyên
đề về loãng xương, hội nghị đã đúc kết những hiểu biết mới và đi đến một định
nghĩa mới về loãng xương như sau: Loãng xương là một hội chứng với những
đặc điểm sức bền của xương bị suy giảm dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy xương.
Sức bền của xương phản ánh sự kết hợp của mật độ chất khoáng trong xương và
chất lượng xương[8].
Nghiên cứu hai định nghĩa loãng xương trên đây cho chúng ta thấy gãy
xương là một hệ quả của loãng xương và loãng xương là hệ quả của tình trạng
giảmsức bền của xương do 2 yếu tố: Lượng (lượng chất khoáng trong xương) và
chất (chất lượng và cấu trúc xương) tác động.
Định nghĩa mới này mở ra một định hướng nghiên cứu loãng xương trong
vòng 10 năm qua là tập trung vào nghiên cứu chất lượng của xương.Nhiều

3
chuyên gia đều đồng ý rằng chất lượng xương chính là tổng hợp các yếu tố liên
quan đến cấu trúc của xương,chuchuyển của chất khoáng trong xương, độ
khoáng hóa và các đặc điểm của chất keo. Qua định nghĩatrên cho thấy loãng
xương là một yếu tố nguy cơ của gãy xương.
Riggs đã chia sự thay đổi khối lượng xương trong quá trình phát triển của
cơ thể thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Trong quá trình phát triển, sự tạo xương mạnh hơn hủy
xương. Khối lượng xương tăng dần để đạt tới giá trị tối đa được gọi là ‘‘Khối
lượng xương đỉnh” (Peak Bone Mass-PBM). PBM là khối lượng của mô xương
lúc kết thúc giai đoạn trưởng thành. Thường tốc độ hình thành xương cao ở
xung quanh tuổi dậy thì, đạt đỉnh ở độ tuổi 30. Tuy nhiên thời điểm đạt PBM
khác nhau giữa nam và nữ, giữa các chủng tộc. Nữ đạt PBM sớm hơn so với
nam từ 3-5 năm. Nữ da trắng có bộ xương nhẹ nhất, nam da đen có bộ xượng
nặng nhất. PBM ở tuổi trưởng thành là một trong những yếu tố quyết định khối
lượng xương của cơ thể.
- Giai đoạn mất xương chậm: Giai đoạn này bắt đầu từ sau 40 tuổi ở các
đoạn xương dài. Trong giai đoạn này tỷ lệ mất xương tương đương ở hai giới và
tương đương ở bè xương và vỏ xương.
- Giai đoạn mất xương nhanh: Giai đoạn này chỉ xuất hiện ở phụ nữ sau
mãn kinh. Do vậy phụ nữ sau 50 tuổi khối lượng xương chỉ bằng 2/3 nam giới.
Cả hai yếu tố PBM thấp và sự mất xương nhanh sau mãn kinh đều dẫn đến tỷ lệ
loãng xương cao ở phụ nữ sau mãn kinh.
1.1.2. Phân loại loãng xương
1.1.2.1. Loãng xương nguyên phát
Là loại loãng xương không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài tuổi
và/hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ.
- Loãng xương nguyên phát typ 1 (loãng xương sau mãn kinh): Thường
gặp ở phụ nữ 50-60 tuổiđã mãn kinh. Tổn thương chủ yếu là mất chất khoáng ở
xương xốp,biểu hiện bằng sự lún các đốt sống hoặc gãy xương Pouteau-Colles.

4
Loãng xương nhóm này thường xuất hiện sau mãn kinh từ 5-15 năm. Nguyên
nhân ngoài sự thiếu hụt oestrogen, còn có sự giảm tiết hormon cận giáp trạng,
tăng thải calci qua nước tiểu, suy giảm hoạt động enzym 25 - OH-Vitamin D1
alpha hydroxylase[9].
- Loãng xương nguyên phát typ 2 (loãng xương tuổi già): Loãng xương
liên quan đến tuổi tác và có sự mất cân bằng tạo xương. Loại này xuất hiện cả ở
nam và nữ, thường trên70 tuổi, mất chất khoáng toàn thể cả xương xốp và
xương đặc. Biểu hiện chủ yếu là gãy cổ xương đùi, liên quan tới hai yếu tố quan
trọng là giảm hấp thu calci, giảm chức năng tạo cốt bào dẫn tới cường cận giáp
trạng thứ phát[9].
1.1.2.2. Loãng xương thứ phát:
Là loại loãng xương tìm thấy nguyên nhân do một số bệnh hoặc một số
thuốc gây nên[4].
1.1.3. Các biểu hiện lâm sàng của loãng xương.
Những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi MĐX giảm trên 30%. Triệu
chứng lâm sàng có thể xuất hiện đột ngột sau một chấn thương nhẹ hoặc có thể
xuất hiện từ từ tăng dần.
- Đau: Thông thường loãng xương gây đau xương và đó là triệu chứng
chính [10]. Thường đau ở vùng xương chịu tải của cơ thể (CSTL, chậu hông),
đau nhiều sau chấn thương, đau âm ỉ nếu là tự phát. Đau tăng khi vận động, đi
lại, đứng ngồi lâu và giảm khi nghỉ ngơi.
- Hội chứng kích thích rễ thần kinh: Có thể có các dấu hiệu chèn ép rễ
thần kinh như đau dọc theo dây thần kinh liên sườn, thần kinh tọa...nhưng không
bao giờ gây hội chứng ép tuỷ [11].
- Biến dạng cột sống:
+ Mất đường cong sinh lý như gù ở vùng lưng, thắt lưng, có thể CSTL
quá ưỡn về phía trước, gù ở mức độ nặng gây tình trạng còng lưng.
+ Gù vẹo cột sống là hậu quả của đau và nén cột sống lưng, thắt lưng kéo
dài không được điều trị. Những trường hợp gù vẹo cột sống do loãng xương
thường xảy ra từ từ, gù có đường cong rộng, không có điểm gồ.

5
+ Trong trường hợp nặng có nhiều đốt sống bị xẹp, lún sẽ dẫn đến còng
lưng và gập các xương sườn cuối sát với xương chậu, khiến cho người bệnh
ngồi lâu, đứng lên hoặc đi lại đều rất khó chịu [4],[11].
- Chiều cao của cơ thể giảm: Mỗi một đốt sống bị xẹp hoàn toàn có thể
làm chiều cao của cơ thể giảm 1cm và trong những trường hợp nặng khi nhiều
đốt sống bị xẹp chiều cao của cơ thể có thể giảm từ 10 - 20cm [11].
- Gãy xương: Gãy xương do loãng xương thường là những gãy xương tự
nhiên hoặc sau một sang chấn rất nhỏ như ho hắt hơi, ngã nhẹ... [10].
+ Những loại gãy xương chủ yếu gặp ở người già gồm gãy xương cẳng tay,
gãy đốt sống, gãy xương chậu và gãy CXĐ. Tần suất gãy xương tăng dần theo tuổi
và tăng ở phụ nữ do tình trạng mất xương nhanh sau mãn kinh. Thường gãy xương
cẳng tay xảy ra khoảng 10 năm sau mãn kinh, xẹp lún đốt sống xảy ra sau 15 - 20
năm sau mãn kinh và gãy CXĐ xảy ra sau 70 tuổi. Trong đó gãy xương cẳng tay là
loại gãy xương gặp nhiều nhất trước tuổi 75. Tuy nhiên gãy CXĐ là loại gãy xương
đáng phải lưu tâm nhất do tỷ lệ tử vong sau gãy CXĐ cao, gây mất vận động
nghiêm trọng và đòi hỏi phải chi phí nhiều trong việc điều trị[2].
1.2. Loãng xương nam giới
1.2.1. Dịch tễ học loãng xương ở nam giới
Loãng xương là một vấn đề đang được thế giới rất quan tâm, vì quy mô
lớn và hệ quả nghiêm trọng của nó trong cộng đồng. Nhiều nghiên cứu trong vòng
30 năm qua cho thấy ở nam giới tuổi từ 40 trở lên có khoảng 20% người mắc
chứng loãng xương [5],[12]. Loãng xương là một căn bệnh âm thầm, bởi vì trong
nhiều trường hợp bệnh không biểu hiện triệu chứng và do đó người mắc bệnh
không biết được cho đến khi bị gãy xương. Khoảng 20 - 30% nam giới trên 60 tuổi
có triệu chứng loãng xương ở cột sống mà bệnh nhân không hề hay biết [13].
Hệ quả nghiêm trọng nhất của chứng loãng xương là gãy xương. Theo
một nghiên cứu dịch tễ học, trong các quần thể người da trắng cứ 3 đàn ông
sống sống đến 80 tuổi thì có 1 người bị gãy xương. Các tần suất này tương
đương với tần suất mắc bệnh tim mạch và ung thư [14]. Theo phân tích của các