intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nhóm nguyên liệu kĩ thuật

Chia sẻ: Nguyễn Văn Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:38

79
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu trình bày về nhóm nguyên liệu kĩ thuật như Graphit, Talc, Asbest,... các vật liệu xây dựng, tài nguyên năng lượng,... Để biết rõ hơn về nội dung chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nhóm nguyên liệu kĩ thuật

  1. 3. Nguyên liệu kỹ thuật 1. Graphit Graphit  ở  Việt Nam có tiềm năng không lớn. Hiện đã có 10 tụ  khoáng được đánh giá và   thăm dò, xác định trữ lượng đạt 16,56 triệu tấn, tài nguyên dự tính: 5,833 triệu tấn. Có 2 kiểu nguồn gốc thành tạo graphit: biến chất và biến chất trao đổi. Graphit nguồn gốc trầm tích­biến chất: Quặng hoá liên quan chặt chẽ  với các dá gneis  biotit, đá phiến thạch anh­mica, đá phiến graphit­sillimanit­felspat, … tuổi Proterozoi, nằm trong   đới biến chất Sông Hồng và ở Quảng Nam, Quảng Ngãi. Các thân quặng thường có dạng vỉa, thấu   kính, chuỗi thấu kính, ổ, ngọn lửa… dày vài centimét đến 30 m, dài vài mét đến 4 km. Hàm lượng   graphit đạt từ 2 đến 60 %. Graphit có 2 dạng: vảy và đặc sít. Dạng vảy thường có kích thước 0,1­5   mm × 0,1­0,8 mm, xâm tán hoặc tạo thành lớp; loại đặc sít (ẩn tinh) xen kẽ  thành  ổ, lớp mỏng   hoặc là xi măng trong đá. Có 2 tụ khoáng đặc trưng là Nặm Thi và Hưng Nhượng. ­ Tụ  khoáng graphit Nặm Thi  thuộc huyện Bảo Thắng (Lào Cai) gồm 3 khu Nặm Thi,   Nặm Cậy và Làng  Ối. Quặng phân bố  trong các đá biến chất loạt Sông Hồng (PR), gồm 8 thân  quặng dạng vỉa, dạng thấu kính, trong đó 2 vỉa lớn kéo dài 3500 m, dày 0,8­31,7 m, nằm ở độ  sâu  500 m; hàm lượng C trung bình: 12,45 %, độ tro A: 17,43 %, chất bốc V: 5,5 %. Các vỉa còn lại dài  90­1150 m; hàm lượng C: 2­8 %. Trong điều kiện khai thác lộ thiên, có thể thu hồi quặng tinh đạt   hàm lượng 80­95 % C; từ quặng nguyên khai: 2­2,5 % C. Trữ lượng và tài nguyên tụ khoáng Nặm   Thi tính được gần 13 triệu tấn cấp 111+121+122+333.  ­ Tụ  khoáng graphit Hưng Nhượng  thuộc huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) nằm trong đá  phiến sillimanit­granat Proterozoi, có chiều dài 12 km, rộng 7,5 km, gồm 10 chùm thân quặng, trong   đó 6 thân đã được khảo sát, đánh giá tài nguyên tin cậy 222 là 690.000 tấn và tổng tài nguyên dự  báo khoảng 4,376 triệu tấn graphit. Quặng gồm 2 loại: loại đặc sít có hàm lượng C: 38,47 %; kích  thước vảy graphit: 50­300 mm; loại xâm tán có hàm lượng C: 6,54 % chưa qua tuyển nổi. Graphit nguồn gốc biến chất trao đổi: Kiểu quặng này gặp ở Tuyên Quang, Thái Nguyên,  Thanh Hoá, Quảng Nam. Quặng tạo thành ổ, thấu kính nhỏ hình dạng phức tạp trong đới vò nhàu,   dăm kết hoặc rìa tiếp xúc giữa xâm nhập gabbro, gabbro diabas với trầm tích Paleozoi. Hàm lượng  graphit trong quặng từ 0 đến 20 %. Quy mô nhỏ, chất lượng thấp. 2. Talc Các tụ khoáng talc được phát hiện ở một số nơi, nhưng tập trung chủ yếu  ở Tây Bắc Bộ  với quy mô nhỏ. Đã ghi nhận được 16 tụ  khoáng và điểm quặng, trong đó 4 tụ  khoáng đã được  thăm dò, xác định trữ lượng cấp 121+122+333 là 246 ngàn tấn. Có hai loại hình quặng gồm: Talc trong dolomit giàu carbonat bị biến đổi nhiệt dịch : Loại hình này chủ yếu phát triển  trong các thành tạo Paleozoi giàu carbonat bị dolomit hóa nhiệt dịch. Talc có chất lượng cao, nhưng   quy mô nhỏ. Các tụ  khoáng đã biết gồm Tà Phù, Ngọc Lập, Chí Cao, đã được thăm dò tính trữ  lượng. Tổng trữ lượng của 3 tụ khoáng chỉ đạt 300 ngàn tấn. Các thân quặng phân bố trong dolomit có hình dạng phức tạp, dạng ổ, thấu kính, bướu v.v  …Chiều dài từ  vài mét đến trên 100 m, bề  dày đến 20 m. Chiều sâu tối đa tới gần 30 m. Thành   phần hóa học của talc (%): MgO=24,71­39,05; CaO=0,2­2,37; Fe2O3=0,12­12,75; SiO2=35,86­64,2. Talc trong các thân xâm nhập siêu mafic và mafic bị biến đổi nhiệt dịch: Loại hình này phát  triển dọc đới khâu Sông Mã. Các đá xâm nhập siêu mafic và mafic trải qua quá trình biến đổi nhiệt   dịch tạo nên quặng talc. Các thân quặng dạng ổ, thấu kính, bướu … Chiều dài từ vài mét đến gần   1000 m; rộng vài centimét tới 100 m. Talc dạng vảy nhỏ, sợi biến tinh.  Thành phần hóa học của  talc (%): MgO=37,75; Fe2O3=5,5; CaO=0,8; Al2O3=1,75. 3. Asbest
  2. Asbest liên quan chặt chẽ với các khối xâm nhập mafic, siêu mafic, tạo thành mạch trong  khe nứt liên quan đến quá trình serpentin hóa. Đã phát hiện 24 tụ  khoáng và điểm quặng asbest phân bố   ở  các tỉnh Cao Bằng, Sơn La,   Yên Bái, Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Tây, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam. Các tụ khoáng có quy  mô  nhỏ. Tài nguyên và trữ lượng cấp 122+333 của 4 tụ khoáng đã được thăm dò chỉ đạt 77 ngàn tấn. 4. Mica (Muscovit) Muscovit   (mica   trắng)   trong   pegmatit   granit   phát   triển   ở   Lào   Cai,   Phú   Thọ,   Đại   Lộc   (Quảng Nam) trong đá biến chất Proterozoi. Hiện đã ghi nhận 7 tụ khoáng và điểm quặng, trong  đó 3 tụ khoáng đã được tìm kiếm thăm dò Muscovit công nghiệp tạo thành  ổ  và tập trung trong các đới pegmatit hạt thô. Chiều sâu  các đới chứa muscovit thường đạt 7­30 m, dày 1,3­3 m. Hàm lượng muscovit nguyên thủy có diện  tích >4 cm2  khoảng 8­30 kg/m3.  Hàm lượng mica tách đạt yêu cầu công nghiệp so với muscovit  nguyên thủy đạt 35­50 %. Tài nguyên và trữ lượng cấp 122+333 của 2 tụ khoáng đã thăm dò Làng  Múc và Sơn Mãn đạt khoảng 1,4 ngàn tấn. 5. Sét dẻo chịu lửa Tụ khoáng sét Trúc Thôn thuộc huyện Chí Linh (Hải Dương) được coi là tụ khoáng sét dẻo   chịu lửa đặc trưng của Việt Nam. Sét nằm trong trầm tích biển Pleistocen thượng. Vỉa sét dày 15 m,   dài 750­4750 m, rộng 200­1950 m. Sét màu trắng xám, xám sáng, mịn, dẻo. Thành phần khoáng vật  chủ   yếu   gồm   (%):   kaolinit=60­70   %,   hyđromica=25­35   %.   Thành   phần   hoá   học   của   sét   (%):   Al2O3=23,5­34; Fe2O3=2­5; MKN=13,53. Độ  hạt 10%.  Kết quả điều tra đánh giá đã xác định 9 thân khoáng sericit, có chiều dài 340 ÷ 1.100m, bề  dày 2,2 ÷ 16,23m; tồn tại đến độ sâu hơn 50m. Các thân khoáng sericit có cấu tạo gồm các tập hợp dày đặc các dải sericit dạng vảy, vi  vảy, tập hợp vi vảy, rộng từ 1 vài mm đến 20cm, thành tạo do quá trình sericit hoá nền thủy tinh   của đá phun trào. Các dải sericit phân bố liền kề nhau tạo thành đới rộng 1 ¸ 16,23m (ảnh …). Hàm   lượng sericit trong các thân khoáng biến thiên theo đường phương khá ổn định từ 41 đến 52%; hàm   lượng K2O từ 3,70 đến 4,75%, Al2O3 từ 17,38 đến 21,17%. Đá vây quanh bị biến đổi sericit hoá,   pyrophlit hoá và chlorit hoá không đồng đều.             Tổng tài nguyên quặng sericit vùng Sơn Bình cấp 333 + 334a đạt 1,5 triệu tấn, trong đó  cấp 333 hơn  600 ngàn tấn . 7. Thạch anh tinh thể Thạch anh tinh thể ở dạng tinh hốc nằm trong các mạch thạch anh xuyên đá trầm tích, xâm   nhập axit và phun trào mafic và trong trầm tích deluvi. Cho đến nay đã ghi nhận được 29 điểm quặng phân bố ở các tỉnh Hà Giang, Thái Nguyên, Cao  Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, …, trong đó chỉ có 3 tụ khoáng được điều   tra đánh giá tổng tài nguyên cấp 122+333, đạt  hơn 14 ngàn tấn. 8. Bentonit
  3. Bentonit phân bố chủ yếu ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Hiện đã có 5 tụ khoáng được tìm   kiếm thăm dò tính tài  nguyên  và trữ  lượng cấp 122+333 đạt 49 triệu m3; tài nguyên dự  báo đạt  338,5 triệu m3. Có 2 loại nguồn gốc thành tạo bentonit, đó là trầm tích và phong hóa. Bentonit trầm tích: ­ Bentonit trong trầm tích Neogen: gồm các tụ khoáng Sơn Hòa (Phú Yên), Ma Thung, Cheo Reo,  Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc); Đa Tuao, Tam Bố (Lâm Đồng); Gia Quy (Đồng Nai). Ở tụ khoáng bentonit Tam Bố, thuộc huyện Di Linh (Lâm Đồng), các thân bentonit có dạng   lớp, dạng thấu kính, dài 400­840 m, rộng 200­600 m, dày 1­7 m. Hàm lượng khoáng vật montmori­ lonit trong bentonit đạt 50­95 %, hệ  số  độ  keo: 0,25­0,51. Thành phần hóa học của bentonit (%):  SiO2 ≈ 57,73; TiO2=0,87; Al2O3=21,11; Fe2O3=8,86; FeO=0,08; MgO=1,77; CaO=0,36; Na2O=0,19;  K2O=0,28; tổng S=0,02; MKN=7,25; H2O=5,88; CO2=0,1. Tài nguyên và trữ  lượng tụ khoáng cấp  122+333 đạt hơn 4 triệu m3. ­  Bentonit trong trầm tích Đệ  tứ: Tụ  khoáng Hương Hồ  thuộc huyện Hương Trà (Thừa  Thiên Huế) đã được điều tra đánh giá tài nguyên đạt khoảng 2,5 triệu m3. ­ Sét chứa bentonit trong trầm tích Đệ  tứ: gồm 2 dải Trảng Bàng (Tây Ninh)­Duyên Hải   (Tp. Hồ Chí Minh) và Tri Tôn (An Giang)­Thốt Nốt (Hậu Giang). Bentonit phong hóa: Phát triển chủ yếu ở vùng đới khô Thuận Hải trên diện tích hàng trăm   km , có tiềm năng lớn nhưng chưa được đánh giá. 2 9. Đá vôi trắng, đá hoa Trên lãnh thổ Việt Nam, nguyên liệu đá carbonat có mặt trong các địa tầng, tuổi từ Archei  đến Jura. Trong đó, đá hoa trắng chỉ có mặt trong một số địa tầng phân bố ở các vùng sau: ­ Vùng Tây Bắc Bộ: Đá hoa trắng phân bố   ở  Lục Yên và Yên Bình tỉnh Yên Bái, thuộc hệ  tầng tầng An Phú tuổi Neoproterozoi, đá hoa kéo dài hàng chục km, rộng vài trăm mét đến 4­8km.   Ở Điện Biên, đá hoa trắng gặp ở Tủa Chùa nằm trong các đá carbonat thuộc tập 1 hệ tầng   Bản Páp tiếp xúc với các mạch kersantit gây biến chất nhiệt. ­ Vùng Đông Bắc Bộ: Đá hoa trắng phân bố  trong hệ  tầng Bắc Sơn tuổi C – P nơi có tiếp  xúc với đá xâm nhập granit phức hệ Pia Bioc (tỉnh Bắc Kạn); trong hệ tầng Hà Giang tuổi Cambri  trung tiếp xúc với đá xâm nhập granit phức hệ  Loa Sơn (tỉnh Tuyên Quang). Đá hoa có cấu tạo   khối, màu trắng kéo dài hành chục km, rộng từ vài trăm mét đến hàng km.  ­ Vùng bắc Trung Bộ: Đá hoa trắng phân bố ở huyện Quỳ Hợp tỉnh Nghệ An thuộc hệ tầng   Bắc Sơn tuổi Carbon – Permi, kéo thành dải dọc theo các xã Châu Tiến, Châu Hồng, Liên Hợp, Châu  Cường, Châu Quang, Thọ  Hợp, Tân Kỳ… Đá có màu trắng, trắng tuyết, hạt mịn, xen kẹp các thấu   kính dolomit bị các thể xâm nhập phức hệ Ye Yen Sun và gabro xuyên cắt gây biến đổi hoa hoá.  Nguồn gốc đá hoa trắng: Có hai kiểu nguồn gốc thành tạo đá hoa trắng đó là: nguồn gốc   trầm tích bị biến chất nhiệt phân bố trong các địa tầng tuổi Neoproterosoi­Cambri hạ (ở các vùng  Yên Bái, Lào Cai); và nguồn gốc trầm tích hoá học bị  biến chất phân bố  trong các địa tầng tuổi   Carbon­Permi  (các vùng Bắc Kạn, Quảng Ninh, Nghệ An). Mức độ điều tra:Đến nay, hàng chục tụ khoáng đã được tìm kiếm, thăm dò. Tổng trữ lượng  và tài nguyên đá hoa trắng đã tính được khoảng 171,97 triệu tấn. Trong đó, trữ  lượng cấp 121  khoảng 6,8 triệu tấn, cấp 122 gần 64 triệu tấn, tài nguyên cấp 333 hơn 100 triệu tấn. E.I.2.2. Đá quý và bán quý Đá quý (rubi, saphir) Đá quý rubi, saphir ở  Việt Nam tập trung chủ yếu  ở 4 vùng: lưu vực sông Hồng, lưu vực   sông Mã, Quỳ Châu­Quỳ Hợp (Nghệ An) và vùng Tây Nguyên.
  4. Ở  vùng Sông Hồng,  tại Lục Yên  (thuộc tỉnh Yên Bái) có các tụ  khoáng Trúc Lầu và Tân  Hương đã được điều tra tìm kiếm, đánh giá tài nguyên và tiến hành khai thác từ 1994. Chất lượng đá   quý ở khu vực này khá tốt, được biết đến trên thị trường thế giới (ảnh 3.20, 3.21).     Ảnh 3.16. Viên đá rubi “Ngôi sao Việt Ảnh 3.17.Tinh thể Hornblen màu lục Nam” nặng 10.800 carat (2.160 g) ở tụ trong suốt trong đá hoa Lục Yên khoáng Tân Hương, Lục Yên, Yên Bái Ở vùng Sông Mã mới chỉ phát hiện được 1 tụ khoáng rubi, saphir Sông Luồng trong đới skarn  magnesi và trong trầm tích hiện đại.  Ở  vùng Quỳ  Châu­Quỳ  Hợp (Nghệ  An), có 3 tụ  khoáng đã  được điều tra, thăm dò khai thác, trong đó tụ khoáng Đồi Tỷ là tụ khoáng gốc, các tụ khoáng khác  có nguồn gốc sa khoáng; còn cụm điểm rubi Quỳ Hợp gồm 9 điểm được phát hiện cùng với thiếc   sa khoáng. Ở  vùng Tây Nguyên, đá quý saphir, rubi liên quan đến basalt cao kiềm đã được điều tra   thăm dò và khai thác ở một số khu, trong đó 5 khu có triển vọng là Cô Tiên­Đá Bàn, Di Linh (Lâm   Đồng), Đăk Nông, Ea H’leo (Đắc Lắc), Ngọc Yêu, Đăk Long (Kon Tum). Dựa trên các tài liệu hiện nay có thể phân chia các kiểu nguồn gốc Đá quý Việt Nam như sau: ­ Nguồn gốc magma:  Đá quý liên quan với các đá basaltit, nephelinit, basaltitoid và basalt  giàu kiềm đi cùng các bao thể sâu lerzolit, peridotit gồm các tụ khoáng Tiên Cô­Đá Bàn, Nghĩa Đàn,   Đắc Nông, Ngọc Yêu; với các đá syenit, monmodiorit  ở Tân Hương, Lục Yên, Bắc Kạn; đi cùng   với lamproid mafic kiềm  ở Đông Pao, Tam Đường. ­ Nguồn gốc nhiệt dịch:  Đá quý thành tạo trong đá siêu mafic gồm các đới biến chất trao đổi   ở đới tiếp xúc của xâm nhập granodiorit, granit sáng màu, pegmatit xuyên cắt đá siêu mafic gặp ở  Làng Hồi, Tạ Khoa, Đắk Nông; trong đá hoa phân bố ở rìa các thân syenit, pegmatit syenit tiếp xúc  với đá hoa ở vùng Hoàng Trĩ, Nà Cộ, Giáp Lai, Tân Hương. ­ Nguồn gốc pegmatit:Đá quý thành tạo trong anortozit, gabrodiabas  ở Khao Quế, Tri Năng;  trong pegmatit syenit, pegmatit granit, có ở Eakar, Bãi Cạn, Thạch Khoán, Quỳ Châu.  ­ Nguồn gốc skarn:  Rubi, saphir trong skarn magne­vôi, phân bố   ở  đới skarn của granit á   kiềm granosyenit, syenit với đá hoa dolomit, đá sét vôi vùng Lục Yên, Quỳ Hợp; trong skarn silicat,  phân bố ở đới skarn của granosyenit, syenit với đá hoa calciphyr, đá phiến kết tinh. ­ Nguồn gốc biến chất: Rubi, saphir trong granit biến chất trao đổi tái sinh của các đá granit   migmatit, plagiogneis biotit có granat và rìa các thể  pegmatit  ở  Quỳ  Châu, Thạch Khoán; trong   granulit, gneis granat­cordierit ở Kom Tum. ­ Nguồn gốc sa khoáng:  Rubi, saphir trong eluvi, phân bố  ngay trên thân quặng gốc Quỳ  Châu, Thạch Khoán, Tân Hương, An Phú….; trong eluvi, deluvi phân bố   ở  sườn trong các phễu   karst, phễu núi lửa  ở  Lục Yên, Quỳ  Hợp; trong eluvi, deluvi nguồn gốc sông­coluvi­proluvi, phân  bố ở thềm, nón phóng vật, chân núi vùng Tiên Cô, Đá Bàn.  Yên Bái là tỉnh có nhiều tụ  khoáng đá quý nhất và có trữ  lượng đá quý lớn nhất trong cả  nước, trong đó tụ khoáng có trữ  lượng đá quý lớn nhất là tụ khoáng đá quý Mông Sơn­Yên Bình­ Yên Bái.
  5. Đá bán quý  Đá bán quý là các loại đá tự nhiên bao gồm  amethyst, aventurine, carnelian, garnet, opal, rose  quartz, topa và nhiều các loại khác. . . được sử dụng làm các chuỗi hạt tinh sảo và có thể được coi   như là đá quý. Ở  Việt Nam đã ghi nhận các diểm đá bán qúy topa  ở  Thanh Hóa và opal  ở  các tỉnh Tây  nguyên. Tuy nhiên, cho đến nay chỉ điểm Topa Xuân Lẹ được điều tra đánh giá ­ Topa Xuân Lẹ: Topa được thành tạo trong các mạch pegmatit của xâm nhập phức hệ Sông  Chu tuổi Kreta­Paleogen. Có hai thân pegmatit chứa topa và thạch anh tinh thể  với mật độ  cao.   Thạch anh tinh tể thành tạo có dạng đơn tinh, song tinh trong suốt hoặc ám khói. Đường kính tinh   tể thạch anh thay đổi 1­2cm đến 15­20cm. Trọng lượng tinh thể thạch anh 10­15 kg đôi khi 28 kg. Topa màu vàng chanh trong suốt đạt tiêu chuẩn làm đồ trang sức. Tài nguyên topa khoảng 12  ngàn kg. I.2.3. Vật liệu xây dựng 1. Sét gạch ngói Đã có trên 187 tụ khoáng được tìm kiếm thăm dò và khai thác với trữ lượng khoảng 221 triệu  m3, tài nguyên dự báo 230 triệu m3. Sét gạch ngói có 2 nguồn gốc là trầm tích và phong hóa. Sét gạch ngói nguồn gốc trầm tích: chủ yếu thuộc các trầm tích sông­biển tuổi Holocen, phân  bố rộng rãi ở các đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và ở hạ lưu các sông Đồng Nai, Sài Gòn. Sét gạch ngói nguồn gốc phong hóa: hình thành do phong hóa triệt để các đá sét kết, bột kết   tuổi Đệ tam, phân bố ở một số nơi như Đông Bắc Bộ và Trung Bộ.  Tụ khoáng sét Giếng Đáy thuộc huyện Hoành Bồ (Quảng Ninh) có 4 lớp sét có bề dày biến   đổi khoảng 0,6­53 m. Sét  ở  đây có thành phần hóa học trung bình (%): SiO 2=70,56; Al2O3=14,16;  Fe2O3=4,56;   CaO=1,52.   Độ   hạt  
  6. MKN=6,6­8,6; độ  hút vôi: 55 mgCaO/g và đạt 73­167 mgCaO/g khi nung  ở  nhiệt độ  750oC. Trữ  lượng 3,4 triệu tấn. Puzzolan trầm tích: Phân bố ở các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hải Phòng, Quảng Bình,   Thừa Thiên Huế … Tụ khoáng Pháp Cổ thuộc xã Lại Xuân, huyện Thủy Nguyên (Tp Hải Phòng)  phân bố  trong lớp đá silic Đevon. Thành phần hóa học của quặng (%): SiO2=88,94; Al2O3=4,56;  Fe2O3=1,67; MKN=1,91; độ  hút vôi: 25­30 mgCaO/g và đạt 192,55 mgCaO/g khi nung  ở  nhiệt độ  700oC. Trữ lượng gần 72 triệu tấn. Puzzolan trong basalt: Các đá basalt bọt tuổi Neogen­Pleistocen các hệ tầng Đại Nga, Túc  Trưng và Xuân Lộc là nguồn cung cấp puzzolan phong phú, có tiềm năng lớn nhưng chưa được   điều tra, đánh giá. 4. Đá phiến lợp Đá phiến lợp là loại vật liệu xây dựng cao cấp và ít phổ biến. Trên thế giới, đá phiến lợp   được khai thác và sử  dụng  ở  các nước như  Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Na Uy, Hà Lan, Mỹ,   Trung Quốc và một số nước Châu Phi. Ở Việt Nam có mặt ở một số nơi: Lai Châu, Điện Biên, Đà   nẵng. Tại Lai Châu trước đây người Pháp đã khai thác và sử dụng đá phiến phục vụ các công trình   xây dựng kiên cố như ga Hàng Cỏ,  Nhà Hát Lớn … gần đây đá phiến lợp ở đây cũng đã được tiến  hành khai thác và sử dụng cho việc cải tạo nâng cấp Nhà Hát Lớn và xuất khẩu ở quy mô nhỏ.  Đá phiến lợp Nậm Ban (Sìn Hồ­Lai Châu):   Được Công ty Vật liệu Xây dựng số  I Lai  Châu thăm dò năm 1997. Toàn mỏ  đã khoanh định được 4 tập đá phiến sericit­thạch anh cắm về  tây nam với góc dốc 75­80o. Các tập phiến bị  nén ép chặt, phân phiến rõ ràng khá trùng với mặt   lớp, trong đó có 2 tập với tổng chiều dày gần 200m chiếm trữ  lượng chủ  yếu mỏ. Đá bị  phân  phiến mạnh, tạo khả  năng chẻ  đá tốt, có thể  dễ  dàn tách chẻ  thành các tấm dày 3­5mm bề  mặt   láng bong, bằng phẳng. có độ hút nước thấp, dung trọng khô cao, độ kháng nén, kháng uốn, kháng   kéo tốt, không chứa nguyên tố phóng xạ, độ thu hồi 4,8­7,6%.  Tổng trữ lượng cấp 221+333 (C1+C2) từ độ cao 250m trở lên tính được là hơn 1,3 triệu m 3  [Lê Giang (1997), Báo cáo địa chất tính trữ  lượng tập đá phiến lợp số  II­III khu Nậm Ho­Nậm   Ban, Sìn Hồ­Lai Châu,Lưu trữ Địa chất, 1997, Hà Nội]. 5. Đá vôi xi măng Đá vôi xây dựng phong phú, tập trung chủ yếu  ở các tỉnh phía Bắc từ Thừa Thiên Huế trở  ra và ở vùng cực nam đất nước. Đã có trên 125 tụ khoáng và điểm đá vôi được tìm kiếm thăm dò,  trữ lượng các cấp đạt trên 13 tỷ tấn. Tài nguyên dự báo là 120 tỷ tấn. Có 2 loại nguồn gốc là sinh  hóa và sinh vật, trong đó nguồn gốc sinh hóa là chủ yếu.  Đá vôi nguồn gốc sinh hóa: tập trung ở 4 khu vực gồm: ­ Đông Bắc Bộ: Đá vôi có trong các thành tạo địa chất từ Cambri thượng đến Trias hạ, đại   diện là các tụ khoáng Na Hen, Suối Cồ, Làng Bét, Hoàng Thạch, Uông Bí, ... ­ Tây Bắc Bộ: Đá vôi có trong các thành tạo địa chất từ Cambri thượng đến Trias trung, đại   diện là các tụ khoáng Ninh Xuân, Hoàng Long, Bút Phong, Cẩm Vân và Định Thành. ­ Bắc Trung Bộ: Đá vôi có trong các thành tạo từ Đevon trung đến Trias trung, đại diện là  các tụ khoáng Quỳnh Xuân, Lèn Hai Vai, Cà Tang và Hạ Trang. ­ Nam Bộ: Đá vôi có trong các thành tạo Permi trung và thượng, đại diện là các tụ khoáng   Tà Thiết, Núi Còm, Hang Tiền và Ba Hòn. Các thành tạo đá vôi Carbon­Permi hệ  tầng Bắc Sơn và Trias trung hệ  tầng Đồng Giao  phân bố rộng, có tiềm năng lớn hơn cả.  Đá vôi nguồn gốc sinh vật: gồm đá vôi vỏ sò, đá vôi san hô tuổi Đệ tứ phân bố ven biển có   quy mô nhỏ. 6. Đá ốp lát và xây dựng Đá  ốp lát và xây dựng phân bố rộng khắp, gồm 3 loại hình: đá xâm nhập, đá phun trào và  đá trầm tích.
  7. Đá  ốp lát và xây dựng nguồn gốc xâm nhập : Các thành tạo xâm nhập có thành phần siêu  mafic­mafic thuộc các phức hệ Ba Vì, Núi Chúa, Phù Mỹ và Chà Vàn; thành phần trung tính, axit­ kiềm thuộc các phức hệ  Phia Bioc, Vân Canh, Hải Vân, Cà Ná, Định Quán và Đèo Cả  là nguồn   cung cấp đá xây dựng và ốp lát chất lượng cao, quy mô thường lớn. Trữ lượng và tài nguyên của  76 tụ khoáng đã tìm kiếm thăm dò là 4.805 triệu m 3 đá xây dựng và 3.219 triệu m3 đá ốp lát. Nhiều  tụ khoáng đã được khai thác, trong đó tụ khoáng An Tường, huyện Sơn Tây (Bình Định) sản xuất   ra granit màu đỏ, chất lượng cao, có tổng trữ lượng và tài nguyên trên 8 triệu m 3, được tiêu thụ trên  thị trường. Đá  ốp lát và xây dựng nguồn gốc phun trào: Các đá phun trào có thành phần mafic­siêu  mafic thuộc các hệ tầng Cẩm Thủy, Viên Nam, Túc Trưng, Đại Nga, Xuân Lộc; thành phần trung   tính, axit thuộc các hệ  tầng Khôn Làng, Đồng Trầu, Đèo Bảo Lộc, Nha Trang, Đơn Dương là   nguồn cung cấp phong phú đá ốp lát và xây dựng. Đã có 52 tụ khoáng thuộc loại này được điều tra  thăm dò, có trữ lượng và tài nguyên đá xây dựng hơn 1.000 triệu m3; đá ốp lát: 73 triệu m3. Đá  ốp lát và xây dựng nguồn gốc trầm tích, gồm: đá carbonat (đá vôi, dolomit); đá lục  nguyên (cát kết, bột kết, dăm kết…); đá biến chất (đá hoa, quarzit, đá phiến kết tinh, v.v.). Đã có 13 tụ khoáng đá hoa được tìm kiếm đánh giá, có trữ lượng và tài nguyên 273 triệu m 3  đá xây dựng và 106 triệu m3 đá ốp lát. Cát sỏi: Cát sỏi xây dựng phân bố khá phổ biến. Có hai nguồn gốc thành tạo, đó là trầm tích và  phong hóa, trong đó cát sỏi nguồn gốc aluvi chiếm đại đa số các tụ khoáng đã được thăm dò. Hiện đã   có trên 60 tụ khoáng và điểm quặng đã được thăm dò đánh giá trữ lượng, đạt trên 500 triệu m3. Đá ong: Đá ong là sản phẩm phong hóa được thành tạo chủ yếu từ các đá phun trào mafic, các  loại đá phiến và trầm tích bở rời của các thềm sông cổ. Quy mô nhỏ. Đã có 27 tụ khoáng được điều tra  thăm dò, có trữ lượng và tài nguyên gần 100 triệu m3, thường phân bố ở các vùng trung du Bắc Bộ và  Trung Bộ.
  8. Phần 2­ TÀI NGUYÊN NĂNG LƯỢNG 2.1. Than Tài nguyên khoáng sản năng lượng than đã được biết đến từ lâu ở nước ta. Tuy nhiên, mãi  tới đầu thế kỷ 19 một số mỏ ở Đông Triều, Mạo Khê mới bắt đầu được khai thác. Trong thời kỳ  Pháp thuộc, năm 1888, vùng mỏ  than Đông Triều, Mạo Khê, Quảng Ninh  hoàn toàn thuộc tập đoàn tư bản Pháp Marty sau hiệp  ước triều đình nhà Nguyễn nhượng bán với  giá 9 triệu franc trong thời hạn 99 năm. Từ 1900 đến 1913, Pháp đã “bình định” xong Đông Dương. Chính quyền Pháp đề ra chính   sách ưu tiên được quyền làm chủ mỏ (nếu muốn) cho những người được cấp giấy phép đi tìm mỏ  mà phát hiện ra mỏ. Do đó đến cuối năm 1906, các điểm than  ở  thượng du Bắc kỳ đều đã được  phát hiện và tổ chức khai thác như Đồng Đỏ (Hà Tĩnh), Khe Bố (Nghệ An), Đầm Đùn (Nho Quan,   Ninh Bình), Làng Cẩm, Quán Triều (Thái Nguyên), Bố Hạ (Bắc Giang)….   Sau ngày hoà bình lập lại  ở miền Bắc năm 1954 cho đến nay, công tác tìm kiếm thăm dò   khai thác than được tập trung chủ yếu ở bể than Quảng Ninh, và các vùng khác trên cả nước. 2.1.1. Các bể than Trên cơ sở các tài liệu hiện có, các nhà nghiên cứu than Việt Nam đã phân chia và khoanh  định 10 khu vực chứa than (Hình  3.18) gồm các bể và dải than sau:
  9. Hình 3.18. Sơ đồ vị trí các bể than ở Việt Nam (Nguồn: Trần Văn Tri, Tài nguyên địa chất Việt Nam 2010)
  10. Bể than Quảng Ninh  Bể than Quảng Ninh có dạng cung, kéo  dài trên 250 km từ Linh Đức  ở  rìa tây dãy Tam  Đảo (Tuyên Quang) qua Đông Triều đến Hòn  Gai, Cẩm Phả, Kế Bào (Quảng Ninh), được lấp  đầy bởi các trầm tích chứa than thuộc hệ  tầng  Hòn Gai tuổi Nori­Ret. Cấu trúc­kiến tạo của  bể than rất phức tạp, gồm hai địa hào là Bảo Đài  ở phía bắc và Hòn Gai ở phía nam, có nhiều nếp  uốn và đứt gãy (hình 3.19).  Các vỉa than  ở  bể  than Quảng Ninh có  nhiều   hình   dạng,   từ   dạng   lớp,   dạng   vỉa   đơn  giản, tương đối ổn định, đến dạng vỉa phức tạp,  dạng thấu kính, đặc biệt có dạng vỉa phân nhánh  Ảnh 3.18.Khai thác than lộ thiên ở Quảng Ninh. đuôi ngựa rất phức tạp như vỉa Dày và vỉa G  ở  Ảnh TKV Lộ Trí (hình 3.20). Theo thống kê ở 35 tụ khoáng than, 568 vỉa  than được khảo sát có  3,3 %  vỉa dạng thấu kính;  64,4 % vỉa dạng rất phức tạp­không ổn định chiều  dày;  25,9 % vỉa dạng phức tạp­tương đối ổn định  chiều dày; và 6,4 % vỉa dạng đơn giản­ổn định  chiều dày.                Dự báo tài nguyên than được thực hiện  theo các chỉ tiêu cơ bản sau: Độ  tro tối đa của   mẫu đơn và độ  tro kể  cả  độ  làm bẩn của vỉa  than (Akmax) ≤ 45 %. Bề dày tối thiểu của vỉa  than kể cả các lớp kẹp (có bề dày ≤ 50 % tổng  Ảnh 3.19. Khai thác than hầm lò ở Quảng Ninh. bề dày các lớp than) ≥ 0,4 m. Độ sâu dự báo tài   Ảnh TKV  nguyên đến ­1500 m. Độ sâu tính trữ lượng tối  đa đến ­400 m.  Hình 3.19. Sơ đồ phân khối cấu trúc bể than Quảng Ninh  Chỉ dẫn: 1) Địa hào Bảo Đài;  2) Địa hào Hòn Gai;  3) Đứt gãy phân khối kiến trúc.                                                   (Nguồn: Trần Văn Trivà nnk, Tài nguyên địa chất Việt Nam 2010) Tổng trữ lượng và tài nguyên các cấp 111+121+122+333  (tương ứng cấp A+B+C1+C2): 4,1  tỷ tấn. Tổng tài nguyên dự báo  ở bể than Quảng Ninh: 10,5 tỷ tấn [Trần Văn Tri và nnk, 2005]
  11. Hình 3.20. Than dạng vỉa phân nhánh đuôi ngựa rất phức tạp ở  tụ khoáng Lộ Trí (vỉa Dày và vỉa G) (Nguồn: Trần Văn Tri và nnk, Tài nguyên địa chất Việt am 2010) Bể than Thái Nguyên­An Châu Bể than Thái Nguyên­An Châu kéo dài khoảng 150 km theo phương ĐB­TN, phân bố trong các   trầm tích lục nguyên – carbonat hệ tầng Văn Lãng tuổi Nori­Ret, có bề 200­600 m, trung bình 300 m. Số  lượng vỉa than nhiều nhất lên đến 10 vỉa, trong đó số vỉa đạt chiều dày công nghiệp là 5 vỉa. Bể than thái  Nguyên­An Châu tồn tại hai loại than: antracit và bitum Trữ lượng và tài nguyên:  Than bitum  có  tổng  trữ   lượng và  tài  nguyên các  cấp  111+121+122+333  (A+B+C1+C2):  khoảng 5 triệu tấn (2006); tài nguyên (334): 7 triệu tấn. Than anthracit có tổng trữ lượng các cấp 111+121+122+333 (A+B+C 1+C2): 85 triệu tấn (2006);  tài nguyên (334): 70 triệu tấn. Bể than Sông Đà  Bể  Sông Đà thuộc miền Tây Bắc Bộ, phân bố  trong các trầm tích kiểu paralic được xếp   vào các hệ  tầng Yên Duyệt tuổi Permi muộn, Suối Bàng tuổi Trias muộn, bậc Nori­Ret và trầm   tích kiểu limnic được xếp vào hệ tầng Hang Mon tuổi Oligocen­Miocen giữa. Trong bể than Sông  Đà có mắt 3 loại than: antracit (biến chất cao); bitum (bi ến ch ất trung bình) và lignit (biến chất   thấp).    Tổng bề dày than toàn vỉa từ 1,97 đến 2,60 m. Số lượng các vỉa than từ 2 đến 27 vỉa, trong đó, số  vỉa đạt bề dày công nghiệp từ 2 đến 12 vỉa. Số lượng các vỉa than lignit từ 3 đến 5 vỉa.   Tài nguyên, trữ lượng: Than lignit­á bitum có tổng trữ lượng cấp 122+333 (C 1+C2) gần 2  triệu tấn.   Than bitum có tổng trữ  lượng các cấp 121+122+333 (B+C1+C2) hơn 8 triệu tấn, tài  nguyên (334): 63 triệu tấn. Than anthracit có tổng trữ  lượng các cấp 122+333 (C 1+C2): 1,3 triêu  tấn, tài nguyên 334 (P1+P2): 2 triệu tấn. Bể than Sông Hồng  Bể  than Sông Hồng trong phần đất liền thuộc miền võng Hà Nội và kéo dài ra vịnh Bắc  Bộ, gồm các trầm tích Đệ tam tướng sông, hồ và đầm lầy ven biển. Ở phần đất liền, các vỉa than thuộc bể than Sông Hồng tập trung chủ yếu trong hệ tầng Tiên   Hưng tuổi Miocen muộn; ngoài ra, còn gặp một vài vỉa than mỏng trong hệ tầng Phù Cừ tuổi Miocen   giữa.  Ở phần thềm lục địa của bể than, đến năm 2007 đã có 16 lỗ khoan thăm dò dầu khí, trong  đó  ở  nhiều lỗ  khoan đã gặp than và sét than dưới độ  sâu 350­3500 m. Các vỉa than phân bố  trong   các trầm tích Oligocen và Miocen trung­thượng. Tổng bề dày các vỉa than: 3­53 m.  Tài nguyên than: Trên phần đất liền (trũng Hà Nội), diện tích phân bố khoảng 3500 km 2,  có tổng tài nguyên: 37 tỷ tấn (đến ­1700 m); trong đó, thuộc phạm vi khối Khoái Châu­Phủ  Cừ là   5,7 tỷ tấn, phạm vi khối Tiên Hưng­Kiến Xương là hơn 31 tỷ tấn. 
  12. Bể than Nghệ­Tĩnh Bể  than Nghệ­Tĩnh phân bố  hạn chế   ở  Bắc Trung Bộ  gồm các trầm tích chứa than chủ  yếu tướng lục địa được xếp vào các hệ tầng Đồng Đỏ  tuổi Trias muộn, Nori­Ret và Khe Bố  tuổi   Oligocen­Miocen giữa. Bể than Nghệ Tĩnh có mắt 3 loại than: antracit (biến chất cao); bitum (biến   chất trung bình) và lignit (biến chất thấp).    Tổng tài nguyên, trữ  lượng than  ở  bể  Nghệ­Tĩnh phân theo các nhãn than như  sau: than   lignit­á bitum: 122+333 (C1+C2) là 0,8 triệu tấn; tài nguyên dự báo 334 (P1+P2) là 0,5 triệu tấn; than  bitum: 122+333 (C1+C2) là 0,8 triệu tấn; than anthracit: 333 (C 2) là 2,2 triệu tấn; tài nguyên dự báo  334 (P1) là 9,5 triệu tấn. Bể than Nông Sơn Bể  than Nông Sơn phân bố   ở  tỉnh Quảng Nam, có dạng địa hào, đặc trưng bởi các trầm   tích lục địa chứa than, được xếp vào hệ tầng Sườn Giữa tuổi Trias muộn, bậc Ret. Bể than Nông Sơn có trên 10 vỉa than, chủ yếu dạng thấu kính hoặc dạng vỉa tụ khoángng.   Các vỉa than phân bố   ở  tụ  khoáng Nông Sơn có 5 vỉa, tụ  khoáng Ngọc Kinh có 5 vỉa, tụ  khoáng   Sườn Giữa có 8 vỉa. Chiều dày các vỉa than từ  0,42 đến 41,30 m. Than thuộc loại antracit (biến   chất cao). Tổng trữ lượng và tài nguyên các cấp 121+122+333 (B+C1+C2) là 11,3 triệu tấn (đến ­200  m); tài nguyên dự báo (334) khoảng 13,5 triệu tấn. Dải than Cao Bằng­Lạng Sơn  Dải than Cao Bằng  Lạng Sơn gồm các thành tạo chứa than Đệ tam phân bố dọc theo đứt   gãy Cao Bằng­Tiên Yên, còn gọi là đứt gãy Quốc lộ 4. Dải này không liên tục, kéo dài từ Hoà An,   Thất Khê (Cao Bằng), đến Lộc Bình (Lạng Sơn). Các trầm tích chứa than được xếp vào hệ tầng   Nà Dương tuổi Oligocen. Tụ khoáng điển hình là Na Dương, có 9 vỉa than lignit­á bitum, bề dày các vỉa từ 0,4 đến 16,5 m.  Trữ lượng các cấp (2006) đã tính khoảng  97 nghìn tấn, trong đó 99 % thuộc tụ khoáng Na Dương. Bể than Đệ tam Cửu Long   Bể trầm tích Đệ tam Cửu Long có diện tích khoảng 50.000 km 2, nằm trên thềm lục địa ĐN  Việt Nam. Nhiều lỗ khoan thăm dò dầu khí đã phát hiện trong các trầm tích Oligocen­Miocen có  chứa than lignit đến á bitum. Diện tích phân bố trầm tích chứa than gần 22.000   km2, có dạng elip,  nằm dọc theo bờ biển từ Phan Rang, Phan Thiết đến mũi Cà Mau. Các vỉa than nằm ở chiều sâu từ  ­726 đến ­2.592 m.   Tài nguyên suy đoán (334b) theo các tài liệu thăm dò dầu khí khoảng 142 tỷ tấn (?), trong   đó, đến ­1000 m là 45 tỷ tấn và dưới ­1000 m là 97 tỷ tấn [VITE, 2007].  Bể than Đệ tam Nam Côn Sơn   Bể  trầm tích Đệ  tam Nam Côn Sơn nằm  ở  thềm lục địa ĐN Việt Nam, thuộc khu vực   quần đảo Phú Quốc. Diện tích của bể khoảng 100.000 km 2. Trong nhiều lỗ khoan gặp các vỉa than   và sét than trong trầm tích Oligocen­Miocen ở độ sâu từ ­1200 đến hơn ­4460 m. Diện tích phân bố  trầm tích chứa than là 53.240 km2.  Bề dày các vỉa than từ 0,5 đến 6 m, trung bình 1,37 m. Tổng bề dày các vỉa than thay đổi từ  3 đến 153 m, trung bình 37 m.  Tài nguyên suy đoán (334b) theo các tài liệu thăm dò dầu khí khoảng 647 tỷ tấn than (?)  ở  độ sâu dưới ­1000 m [VITE, 2007]. Bể than Đệ tam Mã Lai­Thổ Chu Bể Mã Lai­Thổ Chu phân bố ở thềm lục địa TN Việt Nam, thuộc khu vực giáp ranh với lãnh   hải Thái Lan và Indonesia. Phần diện tích thuộc lãnh hải Việt Nam khoảng 40.000 km2. Các vỉa than  được phát hiện từ chiều sâu ­179 đến hơn ­3.202 m, trong các trầm tích Oligocen­Miocen. 
  13. Số lượng các vỉa than khá lớn, có chỗ tới 100 vỉa (lô 50). Bề dày các vỉa than từ 13 đến 165   m, trung bình 43,72 m, trong đó các lớp than phân bố ở chiều sâu dưới ­1000 m, có tổng bề dày từ  5 đến 37 m, trung bình 18 m; còn ở chiều sâu trên ­1000 m, tổng bề dày các vỉa than từ 19,64 đến  153 m, trung bình 37 m.  Tài nguyên suy đoán (334b) theo các tài liệu thăm dò dầu khí khoảng 1.482 tỷ tấn (?), trong  đó, đến ­1000 m là 728 tỷ tấn và dưới ­1000 m là 754 tỷ tấn [VITE, 2007]. 2.1.2. Phân loại than khoáng Dựa vào đặc điểm và tính chất của than ph ục v ụ cho các mục đích khác nhau của nề n  kinh tế  than khoáng đượ c phân chia thành các nhóm: antracit, bitum và lignit. Cho đến nay đã   có 136 tụ  khoáng đượ c điều tra, thăm dò, khai thác, trong  đó 82 tụ  khoáng, antracit; 37 t ụ  khoáng bitum; và 17 t ụ khoáng lignit. Nhóm than antracit (than biến chất cao). Nhóm than antracit v ới gi ới h ạn V chg  từ  17% tr ở  xuống và không kết dính, y: 0 mm.  Chúng đượ c tập trung chủ  y ếu v ới tài nguyên lớn trong các bồn trầm tích Trias muộn­Jura   sớm  ở  Đông Bắc, Tây Bắc Bộ, bắc Trung B ộ  ; và Trung Trung Bộ. Ngoài ra than biến chất  cao nhưng quy mô nhỏ bé còn gặp rải rác trong các bồn trầm tích Permi muộn ở Bắc Bộ.  Đã ghi nhận antracit có mặt trong các bể  Quả ng Ninh, Thái Nguyên – An Châu, Nghệ  Tĩnh, và Nông Sơn Trong s ố các vùng nêu trên, bể than Quảng Ninh có tiềm năng than antracit  l ớn nhất. Ở  bể  than Quảng Ninh,  than antracit có chất lượng cao, nổi tiếng trên thế  giới từ  thời  Pháp. Đặc điểm chính các khối địa chất­cấ u trúc chứa than đượ c thể  hiện trong bảng 3.2 Đặc điểm chính các khối địa chất­cấ u trúc chứa than ở bể than Quảng Ninh     Bảng 3.2    ĐỊA HÀO BẢO ĐÀI ĐỊA HÀO HÒN GAI Đặc điểm chính Mạo các khối Địa Hồ Yên Đồng Phả Đông Khê- Uông Yên Hòn Cẩm Kế chất-cấu trúc Thiên Tử Vông Lại Triều Tràn Bí Lập Gai Phả Bào Bạch Diện tích chứa 48,6 73 10,1 133 180,5 152,3 92 87,3 210,9 127,1 76 than, km 2 Chiều dày tầng 200- 300- 600- 2000- 150- 500- 500- 300- 450 500 2000 sản phẩm, m 250 700 800 2900 800 1400 1500 1300 Số Chung 6-7 6-15 13 5-6 8-20 22-61 6-12 8-26 2-20 4-26 27 lượng vỉa Công than, m 1-2 3-13 4-6 4 4-11 15-27 2-9 2-13 2-14 3-19 2-16 nghiệp Chiều dày vỉa lớn 11,5 24,8 6,5 1,8 18,3 31 12,2 11,8 56 92 5 nhất, m 9- 12,4- 23,7- 127,5- 11,2- 8,3- 26,5- Chiều Chung 18,7 - 24-82 27 10,8 38,5 30,6 166,6 28 41 150 dày vỉa than, m Công 3,8- 6,7- 68,9- 3,1- 1,6- 20,5- 25- 10,9 - 20,9 15,7 nghiệp 7,2 25,8 92,4 11 18,4 82 107,3 Trữ A+B+C1 9,8 518,5 80,1 - 26,5 541,6 19,3 19,6 387,3 845,3 42,4 lượng địa C2 16,8 194,8 - 50 19,5 26,7 18,7 172,1 252,8 749,0 73,0 chất, triệu Tổng tấn 26,6 713,3 80,1 50 46 568,3 38,0 191,7 640,1 1644,3 115,4 cọng Tổng tài nguyên, 281 1451 177 128,4 388 1621 64 948 1941 3133 367 triệu tấn Mật độ chứa Địa chất 0,55 9,77 7,93 0,37 0,25 3,73 0,21 2,19 3,03 12,94 1,52 than, triệu Dự báo 5,78 19,87 17,56 0,96 2,15 10,64 0,70 10,86 9,20 24,64 4,83 tấn/km 2
  14. (Nguồn: Trần Văn Tri và nnk, Tài nguyên khoáng sảnt Việt Nam 2005) Than antracit  ở  Qu ảng Ninh ch ủ  y ếu là là than Claren chi ếm 85­100% chi ều dày vỉa   than, tiếp đến là than đuren­claren: 8­10% chi ều dày vỉa than, còn lại các loại than khác chiếm   vài phần trăm chiều dày vỉa là những lớp mỏng hay th ấu kính. Than có hàm lượ ng và thành  phần nhóm vitrinit chi ếm 85­100% v ới các nhãn hiệu từ  bán antracit đế n antracit phân bố   ở  địa hào Hòn Gai; than bi ến ch ất cao th ể  hi ện rõ  ở  khối Mạ o Khê­Tràng Bạch; trong khi đó  than antracit và siêu antracit t ập trung ch ủ y ếu trong địa hào Bả o Đài. Ở Bể  than Thái nguyên­An Châu đã có công tác thăm dò khai thác xác nhận than có quy  mô nhỏ và chất l ượ ng không đề u. Trầm tích chứa than lục nguyên ­carbonat đượ c xế p vào hệ  tầng Vân Lãng (T3vl) chứa các hóa thạch biển nông ven b ờ  hoặc cửa sông đầ m lầy nướ c lợ  cũng có tuổi Nori­Ret v ới chi ều dày khoảng 700 m vùng Thái Nguyên đến 2400 m vùng An   Châu, đồng thời s ố l ượ ng v ỉa than cũng giảm dầ n. Tụ  khoáng Đông Nam Chũ   thu ộc huyện L ục Ng ạn, t ỉnh B ắc Giang, có 5 vỉa than cấu   tạo t ươ ng đối đơn giả n, trong đó có 3 vỉa đạ t chiều dày công nghi ệp. Tr ữ  lượ ng 257,4 ngàn   tấn antracit, độ tro trung bình 8­16% và độ lưu huỳnh thấp. Tụ  khoáng Bố  Hạ   thuộc huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, đã đượ c khai thác từ  trướ c   năm 1945 và sau này đã thăm dò lại. Tụ khoáng có 8 vỉa than, trong đó 4 vỉa chiều dày thay đổi   t ừ 0,5 m đến 25,8 m cấu trúc phức tạp. Trữ l ượ ng 4,5 tri ệu t ấn antracit. Nhóm tụ  khoáng Bắc Thái Nguyên,   gồm 3 tụ  khoáng Ba S ơn­Quán Triều, Núi Hồng   chứa than antracit, còn t ụ  khoáng Phấ n Mễ  chứa than bitum (than bi ến ch ất trung bình) sẽ  đượ c mô tả ở phần sau Tụ  khoáng Ba S ơn­Quán Triều  cách TP Thái Nguyên ch ừng 6 km v ề  phía tây bắc, với   6 vỉa than cấu trúc phức tạp trong đó 4 vỉa than công nghiệp có trữ  lượ ng các cấ p (B+C 1+C2)  là 64.986 ngàn tấn (B+C 1) là 44.689 ngàn tấn. Than bi ến ch ất cao  ở đây thuộc loại than gầy,   độ tro trung bình và lưu huỳnh từ trung bình đến cao. Tụ  khoáng Núi Hồng   cách TP Thái Nguyên chừng 50 km về  phía tây­tây bắc, thuộc   huyện Văn Lãng, t ỉnh Thái Nguyên, nơi có mặt cắt chuẩn của hệ  t ầng Văn Lãng (T3n­r  vl)  chứa đến 20 vỉa hoặc thấu kính than có nơi dày đến 33 m, cấu trúc phức tạp, không  ổ n định.   Trữ lượ ng đã thăm dò đến 15 triệu tấn. Than Núi Hồng có độ  tro trung bình 13,89%, chất b ốc   8%, l ưu hu ỳnh 1,84%, nhi ệt năng 8.250 kcal/kg, đặ c biệt hàm lượ ng Ge, Ga khá cao ..., cần   l ưu ý công ngh ệ tuyển, thu h ồi tăng hiệu quả sử d ụng. Bể  than Sông Đà .  Than antracit  ở  b ể  than Sông Đà chất lượ ng không cao, do vậy có   văn liệu cho là than bán antracit. Đặ c tr ưng là tụ  khoáng Chiềng Ken thuộc huy ện Văn Bàn  t ỉnh Lào Cai đã đượ c điề u tra đánh giá, than có các chỉ tiêu kỹ thuật sau:  Q=7716 cal/g; V=3,14­ 5,52%; W=4,46­6,95%; A=33,67%; N=0,57­2,13%; S=0,26­3,87%. Bể  than Nghệ  Tĩnh. Các bồn trầm tích Nori­Ret  ở  B ắc và Trung Trung B ộ  ch ủ y ếu là   t ướ ng l ục địa lẫn ven bi ển có các tụ  khoáng hoặc vùng than tách biệt nhau nh ư  Pù Sạ ng,  Đồng Đỏ và Nông Sơn. Vùng than Pù Sạng , huyện Mườ ng Xén, tỉnh Nghệ  An, n ằm trong h ệ  t ầng Đồ ng Đỏ  (T3n­r đđ) với 3 vỉa than đề u không ổn định, trong đó có 2 vỉa dày 0,6 và 1,9 m. Tài nguyên dự báo khoảng 21 tri ệu t ấn antracit có độ tro và lưu huỳnh cao. Bể  than Nông Sơn  thuộc các huyện Đại Lộc, Quế  Sơn, t ỉnh Quảng Nam đã dượ c khai   thác từ trướ c năm 1945, nằm trong lo ạt Nông Sơn tạo thành nế p lõm lớn thoải, dạ ng trũng địa   hào, nằm không chỉnh h ợp trên các đá không đồng nhất c ổ  h ơn. Loạt Nông Sơn gồm hai hệ  tầng An Điềm (T3n ađ)  ở  dướ i và Sườ n Gi ữa (T 3r sg)  ở  trên, chứa than có phức hệ  thực vật  ki ểu Hòn Gai.
  15. Bể  than Nông Sơn có 10 vỉa cấu tạo đơ n giản, nhưng ch ỉ  có 3­5 vỉa đạ t chiề u dày từ  0,6 đế n 25,7 m  ở các tụ khoáng Nông Sơn, Ngọc Kinh và Sườ n Giữa có trữ lượ ng chung là 10   triệu tấn antracit, mã hiệu 100B có độ  tro trên 25%, l ưu hu ỳnh trên 2,5%. Đáng chú ý là trong  trầm tích chứa than  ở  đây đã phát hiện đượ c quặ ng urani xâm nhiễm, tích tụ  theo lớp đang  đượ c đánh giá. Ngoài nh ững tụ  khoáng hoặ c nhóm tụ  khoáng than khoáng nêu trên, còn gặp rải rác   than antracit tu ổi Permi mu ộn v ới quy mô rất nhỏ  nh ư   ở  các vùng Thanh Hóa, Hòa Bình, Hà  Tây, Hà Giang, Thái Nguyên, Lạng S ơn, Quảng Ninh và than tu ổi Trias gi ữa cũng có quy mô  rất nhỏ. Tóm lại, tổng tr ữ l ượ ng xác định và dự  tính cấ p 121+122+333 (A+B+C 1+C2) c ủa 82 t ụ  khoáng trong số 136 t ụ khoáng than antracit (than bi ến ch ất cao)  ở Vi ệt Nam là 4,2 tỷ  tấn; tài   nguyên dự báo 334 khoảng 10,6 t ỷ t ấn. Nhóm than bitum (than biến chất trung bình). Nhóm than bitum g ồm các nhãn than kết dính (than không có độ kết dính đượ c xếp vào  nhóm than biến chất thấp hoặc nhóm than biến chất cao); đó là các nhãn than kết dính (kd), than   cốc (k), than cốc­mỡ (km), than mỡ (m), than khí­mỡ (khm) và than khí (kh).    Nhóm than bitum phần lớn nằm trong các bồn trầm tích Trias muộn thuộc các bể  than  Sông Đà (Tây Bắc Bộ), Thái Nguyên­An Châu và Nghệ Tĩnh. Bể than Thái Nguyên­An Châu: than bitum được biết đến từ lâu ở tụ khoáng thuộc mỏ than  Phấn Mễ.  Than  ở  đây thu ộc loại c ốc­m ỡ,  độ  tro và lưu huỳnh trung bình, trữ  lượ ng 2.100   ngàn tấn, hiện tại đang khai thác gầ n hết. Bể than Sông Đà:  Nhóm t ụ khoáng Quỳnh Nhai  thuộc huyên Quỳnh Nhai, t ỉnh S ơn La,   gồm các tụ khoáng nhỏ Bản Mứn, Nà Sung và các điể m than khoáng Pom Khem, Co Củ, Hu ổi   La. Tụ  khoáng Bả n M ứn đã đượ c tìm kiế m, khảo sát xác định đượ c 5 vỉa than có chiều   dày 0,5­1,1 m, không  ổn định theo cả đườ ng phươ ng và hướ ng dốc , với tài nguyên tính đượ c  10 triệu t ấn đến độ  sâu 300 m. Tuy nhiên sau này đã thăm dò 3 vỉa tính trữ  lượ ng ch ỉ  có 173   ngàn tấn. Than khoáng  ở đây chủ yếu là than ánh claren­fusinit ki ểu colinit h ỗn h ợp, nhãn khí­ m ỡ, độ tro và lưu huỳnh cao, nhi ệt năng trung bình 7.627 kcal/kg. Tụ khoáng Nà Sung có 5 vỉa than v ới chi ều dày thay đổi rất nhanh từ 0 đến 7,2 m, cấu   tạo ph ức tạp, tr ữ l ượ ng 168 ngàn tấn, thuộc loại than ánh, nhãn khí­mỡ. Nhìn chung than nhóm tụ  khoáng Qu ỳnh Nhai có chất l ượ ng tốt nhưng phân bố  trên   di ện hẹp, quy mô nhỏ, độ  chứa than không  ổn định, với nhiều đứ t gãy phá hủy, các vỉ a than  uốn nếp, cắm dốc. Tuy nhiên cần xem xét sớm hướ ng s ử  dụng tr ướ c khi thi công đậ p thủ y   đi ện Sơn La. Nhóm tụ  khoáng Yên Châu  phân bố   ở  huyện Yên Châu, t ỉnh Sơn La, hình thành trong  địa hào hẹp kéo dài gần 100 km, gi ới h ạn b ới các đứt gãy rìa phươ ng TB­ĐN, nhiều nơi cấu   tạo chờm nghịch, gồm các tụ khoáng Tô Pan, Ke Lay, M ườ ng L ựm ... Tụ  khoáng M ườ ng Lượ m nằm cách thị  trấn Yên Châu 20 km về  phía đông­đông nam,   có 5 vỉa than với c ấu t ạo và chiều dày rất biến đổ i, trong đó 3 vỉa đã thăm dò tính trữ  lượ ng   cấ p C1 là 70,1 ngàn tấn, cấp 333 (C 2) là 102,5 ngàn tấn. Than M ườ ng L ựm có thể  luyện côc  t ốt v ới   độ   ẩm trung bình 4,62%,  độ  tro 19,74%, chất b ốc  cháy 33,15%,  lưu huỳnh 2,16%,  nhiệt năng 7.562 kcal/kg, X=33­37 mm, Y=9­12 mm thu ộc lo ại claren­colinit h ỗn h ợp v ới vi   thành phần vitrinit 80­85%, fusinit 5­15%, leipitit 0­5%. Tụ  khoáng Kẻ  Lay nằm về  phía bắ c cùng xã Mườ ng Lựm, có 5 vỉa than mỏng với tài  nguyên khoảng 1,2 tri ệu t ấn, trong  đó cấp 122+333 (C2+P1) là 237 ngàn tấn, có thành phần  gầ n gi ống than M ườ ng L ượm, nh ưng pyrit xâm nhiễm nhi ều hơn.
  16. Tụ khoáng Tô Pan cách th ị trấn Yên Châu khoảng 4,5 km về phía tây bắc, vỉa than thay  đổi nhiều v ề  chi ều dày, đườ ng phươ ng, trữ lượ ng d ự tính 122+333 (C 1+C2) khoảng 500 ngàn  tấn than khí­m ỡ vitrinit, chất bốc: 38,83%; độ  tro: 16,95%; l ưu hu ỳnh khá cao. Nhóm tụ  khoáng Vạn Yên   thuộc huyện Vạn Yên, tỉnh Sơn La, nằm trong địa hào hẹ p   kéo dài hơn 80 km, b ị các đứt gãy dọc và ngang chia cắt thành các khối với s ố  lượ ng các vỉa   than tăng dần vào trung tâm, từ  4­6 v ỉa  ở  Núi Tọ, Suối Lúa đến 27 vỉa  ở  Suối Bàng, rồi lại   giảm còn 4 v ỉa  ở  Tốc L ộc. Tổng tài nguyên 6.264 ngàn tấn, trong đó cấp C 1 là 332 ngàn tấn.  Than Su ối Bàng thuộc nhóm than bitum, độ  tro cao, l ưu hu ỳnh nhi ều, có thể  luyệ n cốc trực   tiếp hoặc phối li ệu v ới than Hòn Gai. M ức độ  biến chất tăng dầ n từ  nam lên bắ c, tươ ng ứng   t ừ than mỡ, cốc, c ốc­kết dính, sang phía bắ c sông Đà là than gầy­kết dính. Nhóm tụ  khoáng Hòa Bình­Nho Quan   nằm trong cánh cung Ninh Bình, gồm nhiều t ụ  khoáng nhỏ  và điểm than khoáng mà đặ c tr ưng là các tụ  khoáng Đồi Hoa, Đầm Đùn, Vũ Lâm  và Hòa Mục. Số  l ượ ng v ỉa than thay đổi từ  1­6 nh ư   ở  Đị nh Giao, Vũ Lâm, Mườ ng Cọ  ... đế n  16 vỉa  ở Đồi Hoa và 26 vỉa  ở  Đầm Đùn. Các vỉa than có chiều dày thay đổ i lớ n, cấu tạo ph ức   tạp, phần l ớn than có độ  tro và lưu huỳnh cao. T ổng tài nguyên 23.963 ngàn tấn, trong đó trữ  l ượ ng là 8.935 ngàn tấn [61]. Nhóm tụ  khoáng Điện Biên thuộc huyện Điệ n Biên, t ỉnh Lai Châu, nằm trong hệ  tầng  Suối Bàng (T3n­r  sb) có cấ u tạo nếp lõm thoải ph ươ ng TB­ĐN kéo tới biên giới Việt­Lào,   gồm 7 khối địa chất­cấu trúc: Thanh An, Khâu Lệ nh, Tia Mông­Nà Sang, Noọng U­Sam Mần,   Khao Keo Lom, Pa Sa, Hu ổi Sa. Các vỉa than thườ ng có chiều dày mỏng 0,1­1,5 m; s ố l ượng   các vỉa có nơi đến 18, trong đó có 1­8 vỉa có giá trị. Than thuộc loại khí­mỡ, độ  tro và lưu   huỳnh thay đổi l ớn. Tổng tài nguyên của nhóm tụ khoáng Điện Biên là 76.570 ngàn tấn, trong   đó tr ữ lượ ng là 4.224 ngàn tấn. Tiếp về  phía Mườ ng Lay, M ườ ng Tè phía tây bắc còn có các điểm than khoáng Huổi   Xay­Nậm Pi ềng, Vàng Sâm, Nậm Thín, Mườ ng Pồn, Nậm U v ới quy mô nhỏ. Bể than Nghệ Tĩnh  đã ghi nhận t ụ khoáng than Khe B ố T ươ ng Dương, Ngh ệ An thu ộc   loại than bitum.  Than phân bố trong trầm tích Neogen thuộc hệ tầng Khe Bố. Các vỉa than phân bố  ở 2 khu: ­ Khu A (bờ trái sông Cả) có 2 vỉa than. Chiều dày 0,47­7m. Chất lượng than: Wpt: 2,49%;  A : 16,94%; Vch: 26,49%; Sk: 1,65%; Pk: 0,03; Qk: 5757kcal/kg.  ch ­ Khu B (bờ phải sông Cả) có 3 vỉa than. Vỉa 1 dày  TB 3m, vỉa 2 và 3 ≤0,5m. Chất lượng   than: Wpt: 1,45%; Ach: 19,24%; Vch: 24%; Qk: 6889kcal/kg; S: 1,66. Trữ lượng: cấp 122 (C1): 1.320 ngàn tấn; cấp 333 (C 2): 898 ngàn tấn; Tổng trữ lượng cấp   122+333 (C1+C2): 2.218 ngàn tấn.  Tổng   trữ   l ượ ng   đượ c   xác   định   cấp  111+121+122+333  (A+B+C1+C2)  của   nhóm   than  bitum (bi ến ch ất trung bình)  ở  Việt Nam kho ảng 17 tri ệu t ấn, tài nguyên dự  báo cấp 334   khoả ng 79,5 tri ệu t ấn.  Nhóm than lignit (than biến chất thấp). Thuộc nhóm lignit là các loại than không có độ kết dính (phân chia của Mỹ, Canada và  Liên Xô tr ướ c đây) gồm than l ửa dài, than nâu các loại. Than của nhóm này hoàn toàn thuộc  tuổi Neogen. Theo các tài liệu l ỗ  khoan  điều tra dầu mỏ  khí đốt, than Neogen tu ổi Miocen   gi ữa­muộn [148]  ở  vùng trũng Hà Nội là nguồn tài nguyên lớn nhất về  than hi ện nay  ở  Vi ệt   Nam.  Ở đồng bằ ng Sông Cửu Long, và thềm l ục địa cũng gặ p các vỉa than xen trong các tầ ng  chứa dầu mỏ  khí đốt, nhưng ch ưa đượ c đánh giá. Các tụ  khoáng than nâu phân bố   ở  dọc đới   đứt gẫy sâu Cao Bằng­Lạng S ơn nh ư  t ụ  khoáng Nà Dươ ng, đớ i đứt gẫ y Sông Hồng, Sông  Chả y, Sông Cả, Sông Ba, Di Linh­B ảo L ộc... đã đượ c khai thác. Sau đây là phần mô tả  tóm   tắt t ụ  khoáng than Nà Dươ ng thuộc dải Cao Bằng­L ạng S ơn và tụ  khoáng than Bình Minh   Khoái châu thuộc bể than Sông Hồng 
  17. Tụ khoáng Nà Dươ ng   thu ộc huyện L ộc Bình, t ỉnh Lạng Sơn, cách thị xã Lạ ng Sơn 25   km về phía đông­đông nam, đã đượ c khai thác từ lâu, nằm trong trầm tích sông­hồ Miocen c ủa   hệ tầng Nà Dươ ng (N1 nd), tạo thành m ột nếp lõm có 9 vỉa than chiều dày 0,4­23,7 m, cấu t ạo  t ươ ng đối phức tạp và ít  ổn định. Kết quả  thăm dò đã tính trữ  lượ ng cấp  111+121+122+333  (A+B+C1) là 103,9 tri ệu t ấn than lignit lo ại l ửa dài, trong đó cấ p A là 10,5 triệu tấn, B là 43,6  triệu tấn. Than có độ  tro cao: 37,20%, l ưu hu ỳnh: 6,20%, ch ất b ốc: 46,3%, nhi ệt năng: 7.280   kcal/kg, đặc bi ệt hiện t ượ ng bốc cháy tự nhiên thườ ng xảy ra. Tụ  khoáng Bình Minh­Khoái Châu  phân bố  trong rift Đệ  tam Hà Nội có sự  khống chế  của các hệ  th ống đứt gãy sâu Sông Hồng, Sông Chả y, Sông Lô, than tập trung nhi ều  ở  d ải   trung tâm Khóai Châu­Tiền Hải kéo ra vịnh Bắc Bộ. Qua m ạng l ưới khoan thăm dò dầ u­khí,  than đượ c phát hiện t ừ độ  sâu 110 đến hơn 4.000 m, có 115 vỉa, trong đó 90 vỉa có chiều dày  0,8­10 m, có nơi đến 21 m như   ở  Khoái Châu phần tây bắc của dải, trong tr ầm tích Neogen  mà chủ  yếu là hệ  tầng Tiên Hưng (N 13 th) thuộc Miocen th ượng. Than  ở đây thuộc loại lignit   ở  phần nông và á bitum (sub­bituminous)  ở  ph ần sâu , độ  tro: 14,2%, chất bốc cháy: 40,5%,   l ưu huỳnh: 0,95%, nhi ệt năng xấp xỉ  7.000 kcal/kg. Tài nguyên tin cậy 122 (C 1) là 2,3 t ỷ  tấn,  tài nguyên dự  tính 333 (C 2) là 8,8 tỷ  tấn trong t ổng tài nguyên dự  báo đế n 252 tỷ  tấn nh ưng  phần lớn nằm dướ i.sâu, điều kiện khai thác có nhiề u khó khăn.  2.2. Đá dầu Đá đầu gặp ở một số nơi trong đá vôi Đevon ở Núi Lịch, Yên Bái, đá phiến sét đen ở Nậm Ú,  Sơn La, trong trầm tích Đệ tam ở Đồng Ho, Tiêu Giao và Thống Nhất (Quảng Ninh) phân bố  ở vùng   trũng ven vịnh Cửa Lục (Quảng Ninh) và dọc theo các thung lũng sông đổ ra vịnh này, nhưng phần lớn   chưa được đánh giá đầy đủ. Trong số đó chỉ có tụ khoáng đá dầu Đồng Ho đã được thăm dò. Tụ  khoáng đá dầu Đồng Ho   thuộc huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh, nằm trong trầm   tích Miocen hệ tầng Đồng Ho (N1 đh). Trầm tích này có cấu tạo đơn nghiêng cắm về đông bắc với  góc dốc 10­200, gồm: ­ Phần dưới có chiều dày 170 m: sét kết, cát kết nằm trên mặt bào mòn trầm tích Trias;   khoảng giữa của phần dưới này dày 22 m là lớp đá dầu, cát kết ngậm dầu và đá asphal. ­ Phần trên dày 210 m: cuội kết, sỏi kết ở trên, cát kết , sét kết màu xám thỉnh thoảng xen   lớp cuội sỏi dày 1 m.  Các lớp đá dầu lộ trên mặt đất dài 840 m, góc dốc 15­20 0, theo hướng cắm các vỉa đá dầu  dài 300­500 m rồi vát mỏng dần. Phần đá chứa dầu được chia thành 3 lớp: lớp dưới gồm cát kết   ngậm dầu, asphal, chiều dày 0­11 m, trung bình 4,1 m; lớp giữa là lớp đá dầu chiều dày 3,2­9,9 m,   trung bình 6,5 m; lớp trên là cát kết ngậm dầu chiều dày 0­1,5 m, trung bình 0,6 m. Kết quả xác định chất lượng đá dầu Đồng Ho của Bộ Địa chất Trung Quốc: nước=2,14%;   tro=77,45%; chất bốc=17,2%. Kết quả  thăm dò tính trữ  lượng cấp  121+122 (B+C1) là 4.204 ngàn tấn, trong đó đá dầu  3.876 ngàn tấn với hàm lượng dầu 9,37%; asphal: 178 ngàn tấn với hàm lượng dầu: 12,65%; cát   kết ngậm dầu: 151 ngàn tấn với hàm lượng dầu: 5,7%.  Chất lượng đá dầu được thể hiện trong bảng 3.3, theo kết quả phân tích của Bộ Địa chất  Trung Quốc (1959­1960) Chất lượng đá dầu Đồng Ho Bảng 3.3 Lưu  Các loại  Hàm lượng  Độ ẩm  Độ tro Ao,  Chất bốc  Nhiệt năng  huỳnh S  đá dầu dầu, % Wa, (%) (%) Vo, (%) Q, kcal/jkg (%) Đá phiến  4 ,6­12,4 4,0­4,6 65,6­ 77,0 14,8­25,7 1 1160­2257 dầu Asphal 4,6­21,5 10 22,5 44,5 0,7 2345­5165 Cát bột kết  2,0­4,5 4,1 79,8 14,4 0,34 ­ ngậm dầu
  18.   2.3. Uran Ở  Việt Nam Quặng urani được phát hiện  ở  các khu vực Việt Bắc, Tây Bắc, Trung trung  Bộ. Theo cách phân loại của Uỷ ban Năng lượng nguyên tử Quốc tế các tụ khoáng urani của Việt   Nam có thể  xếp vào 6 kiểu gồm: Urani trong cát kết; Urani dạng mạch hoặc gần dạng mạch;   Urani trong đá phun trào; Urani trong đá biến chất; Urani trong than; Urani trong trầm tích Đệ tứ. a. Urani trong cát kết. Theo tài liệu hiện có, kiểu quặng urani trong cát kết là có triển vọng   hơn cả, tập trung chủ yếu  ở trũng Nông Sơn (Quảng Nam) thành các khu khác nhau. Hàm lượng   urani dao động từ 0,05 đến 0,5%. Có 5 khu đã được điều tra chi tiết gồm: Khe Hoa­Khe Cao, Pà   Rồng, Pà lừa, Đông nam Bến Giằng và An Điềm. Khu Pà lừa. Kết quả  điều tra đánh giá  ở  tỉ  lệ  1:2000 đã ghi nhận 3 lớp đá chứa quặng,   trong đó đã khoanh được các thân quặng có hàm lượng U3O8 thay đổi từ 0,031 đến 0,095 %, chiều  dày thay đổi từ 1 đến 3,5m. Thành phần khoáng vật chủ yếu là nasturan và nasturan ngậm nước,   coffinit,   uranophan,   soddyit,   uranocircit­metauranocircit,   autunit,   metaautunit,   phosphuranylit   và  basselit [Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Phương, Bùi Tất Hợp 2008]. . b. Urani dạng mạch hoặc gần dạng mạch .  Ở  Việt Nam, các tụ  khoáng và điểm quặng  thuộc kiểu này gồm có urani trong tụ khoáng đất hiếm Nậm Xe (Lai Châu); urani đi với đồng ở tu  khoáng Sin Quyền. Đây là loại quặng nhiệt dịch có liên quan đến granit sáng màu thuộc vành đai   tạo núi  . c. Urani trong đá phun trào. Cho đến nay đã phát hiện các biểu hiện khoáng hoá ở Tòng Bá  (Hà Giang), Định An (Lâm Đồng), Bình Liêu (Quảng Ninh), điển hình hơn cả là ở đới Tú Lệ (khu   Tiang, Trạm Tấu Yên Bái). Đá chưa urani chủ  yếu là đa phun trào, trầm tích phun trào có thành   phần axit­kiềm có hàm lượng thay đổi từ 0,01 đến 1%. Các khoáng vật quặng chủ yếu là uraninit,   uranophan, molybdat urani đi cùng với molybdenit. d. Urani trong đá biến chất. Trong thời gian gần đây, công tác điều tra đã phát hiện các  biệu hiện khoáng hóa urani­thori nằm trong  đá biến chất trao  đổi (tremolit, actinolit) và trong   pegmatit ở Thạch Khoán, Thanh Sơn, Phú Thọ; trong pegmatit­migmatit ở Sa Huỳnh, Ba Tơ  Quảng  Ngãi; trong đá hoa Làng Nhẽo, Yên Bái và đặc biệt là urani trong đá phiến và graphit Tiên An e. Urani trong than. Trên thế  giới, đã phát hiện trong than nâu chứa urani.  Ở  Việt Nam,   than chứa urani là than antracit. Đã phát hiện 2 khu vực than antracit chưa urani đó là Nông Sơn   (Quảng Nam) và Núi Hồng (Thái Nguyên) Urani trong than Nông Sơn. Urani không hình thành thân quặng độc lập mà đi cùng với than   dưới dạng nguyên tố có ích đi kèm với hàm lượng U 3O8 trung bình 0,01% [Nguyễn Quang Hưng,   Nguyễn Phương, Bùi Tất Hợp 2008]. f. Urani trong trầm tích Đệ tứ . Đã phát hiện 3 tụ khoáng gồm: Mường hum (Lao cai), urani   đi với đất hiếm và thori; Bình Đường (Cao Bằng) urani đi với phosphat; và khu Đầm Mây (Thái  Nguyên). Tụ  khoáng Mường Hum gồm 9 thân quặng phân bố  trong tầng đá dăm, cuội, cát. Urani ở  dạng đồng hình trong các khoáng vật đất hiếm như  monazit, oxinit, orangit, basnaesit, chechit,   lanatnit, samarskit....[Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Phương, Bùi Tất Hợp 2008]. 2.4. Dầu mỏ và khí đốt Các bể  trầm tích Kainozoi nối liền với nhau thành một dải từ Bắc xuống Nam và chiếm  phần thềm lục địa của Việt Nam và một phần biển sâu trên Biển Đông, và hai vịnh lớn trên cùng   biển là Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan. Ngoài ra còn nằm dọc theo hai đồng bằng lớn ở phía Bắc   là đồng bằng sông Hồng và phía Nam là đồng bằng sông Cửu Long. Hầu hết các bể trầm tích nói trên đều có một lịch sử phát triển địa chất tương tự với các   bể khác ở Đông Nam Á, từ Eocen đến ngày nay. Trong Paleogen xu hướng tách giãn chiếm ưu thế  cho đến Miocen giữa chúng đều có một mặt cắt địa tầng gồm những loạt lớn (megasequence) bắt   đầu bằng trầm tích lục địa, chuyển dần sang ven bờ (paralic), rồi đến các trầm tích biển nông có  
  19. thềm cacbonat, cho đến sét kết (mudstone) biển sâu. Từ  Miocen giữa muộn đến muộn, các bể  Đông Nam á trải qua một sự ép nén nhẹ  đến rõ nét, và  ở  nhiều nơi dẫn đến một sự  nghịch đảo   (inversion) của các trung tâm lắng đọng (depocenter). Tuy nhiên mỗi bể trầm tích đều có một lịch  sử phát triển địa chất riêng biệt của mình do đó tất cả các bể rất khác nhau, tùy thuộc vào vị trí địa   lý và các yếu tố kiến tạo (tectonic factors) và do đó chúng cũng có hệ thống dầu khí và tiềm năng  dầu khí rất khác biệt nhau. Từ Bắc xuống Nam, thềm lục địa Việt Nam có thể phân chia thành bốn khu vực và có các   bể sau: Phần thềm lục địa Bắc Bộ  (vịnh Bắc Bộ) có hành lang rộng và thoải. Đới bờ  phá hủy  ở  phía Bắc Đồ Sơn, nơi đó các trầm tích Kainozoi thường mỏng hoặc vắng mặt. Phần phía Nam Đồ  Sơn là thềm kết cấu,  ở  đó móng trước Kainozoi bị  phủ  bởi các trầm tích Kainozoi dày (5000­ 18000m) ngay cả trong phần đất liền, đặc biệt là trầm tích Pliocen­Đệ tứ rất dày ở khu vực trung  tâm vịnh Bắc Bộ. Trên phần thềm này có hàng loạt các bể trầm tích như: Bể Sông Hồng bao gồm  miền võng Hà Nội  ở  phần đất liền và Địa hào Quảng Ngãi  ở  phía Nam bể. Bể  Hoàng Sa là bể  nằm ở vùng nước sâu, nằm ngoài và có phương cấu trúc vuông góc với địa lũy Tri Tôn. Phía Bắc­ Đông Bắc bể  Sông Hồng còn có đới Bạch Long Vĩ, về  kiến tạo thuộc bể  Bắc Vịnh Bắc Bộ  (Beibu Wan), còn về  phía Đông Nam, phía Nam đảo Hải Nam là bể  Nam Hải Nam, bể  này có   phương gần vuông góc với bể Sông Hồng và giữa chúng không có ranh giới bể, tạo nên một đới   phủ trầm tích hình chữ Y. Thềm lục địa Trung Bộ có hành lang hẹp và dốc do sự khống chế của hệ thống đứt gãy Á   kinh tuyến. Đới bờ ưu thế là quá trình hủy hoại, vì vậy thường lộ ra các thành tạo trước Kainozoi.   Ngoài khơi các trầm tích Kainozoi có chiều dày tăng nhanh và các bể trầm tích nhỏ như phần Nam  của địa hào Quảng Ngãi, bể  Phú Khánh,  ở  đây lớp phủ  Pliocen­Đệ  tứ  mỏng  ở  phía đất liền và  chiều dày tăng nhanh về phía biển. Bể Phú Khánh đến đới cắt Tuy Hòa (Tuy Hoa Shear zone) bao   gồm cả phần sâu dưới chân sườn lục địa. Phần thềm lục địa Đông Nam Bộ  có hành lang rất rộng và rất thoải với xu thế phát triển   của động thái kết cấu. Các trầm tích Kanozoi phân bố rộng với các bể trầm tích có diện tích rộng   và trầm tích dày như  bể  Cửu Long, Nam Côn Sơn, Khu vực Tư  Chính­Vũng Mây, nằm xa hơn  trong vùng nước sâu, nhóm bể  Trường Sa có chiều dày trầm tích mỏng phân bố  trong các trũng  nhỏ hẹp, khu vực này có các bể  sau: bể Cửu Long, bể Nam Côn Sơn, nhóm bể  Tư  Chính – Vũng  Mây, nhóm bể Trường Sa. Phần thềm lục địa Tây Nam Bộ  có hành lang rộng và thoải thuộc vịnh Thái Lan. Một số  nơi thuộc khu vực Hòn Chuông đến Hà Tiên quá trình hủy hoại chiếm  ưu thế  nên các thành tạo   Paleozoi và Mesozoi thường được lộ rõ, các trầm tích Pliocen­Đệ  tứ đới ven bờ không dày. Phần  lãnh hải Việt Nam thuộc cánh Đông­Đông Bắc của bể Malay – Thổ Chu. Tất cả các bể của Việt Nam kể trên đều nằm trên vỏ lục địa và vỏ chuyển tiếp.  Bể Sông Hồng:  Đây là bể trầm tích Đệ  tam có diện tích phân bố lớn nhất  ở Việt nam và  cũng là bể trầm tích có cấu trúc địa chất phức tạp, môi trường trầm tích đa dạng và hệ thống dầu   khí thay đổi mạnh từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Bể Sông Hồng có thể chia ra thành bốn   đới khác nhau, từ Bắc xuống Nam, là Đới Bạch Long Vĩ, Đới Bắc, Đới Trung tâm và Đới Nam,  các đới này có lịch sử phát triển địa chất khá khác nhau, nhưng có sự gắn bó, tương hỗ nhau, nhất   là không có ranh giới rõ nét giữa các đới, nên về mặt không gian có thể xếp chung bốn đới này vào  cùng một bể  (tuy nhiên, về  kiến tạo, Đới Bạch Long Vĩ thuộc bể  Bắc Vịnh Bắc Bộ  hay Beibu   Wan). Đới Bạch Long Vĩ có hai pha tách giãn vào Eocen và Miocen sớm và hai pha nén ép vào  Oligocen muộn và Miocen muộn, chỉ  vào Pliocen­Đệ  tứ  đới này mới nhập chung vào Đới Bắc   trong tổng thể Bể Sông Hồng.  Nguồn trầm tích đến từ nhiều hướng, trong môi trường từ lục địa  đến chuyển tiếp, chủ yếu là đầm hồ, vũng vịnh với tốc độ  trầm tích vừa phải nên có sự  phân dị  cát sét khá tốt, các tập cát có độ chọn lọc khá tốt. 
  20. Ba đới Bắc, Trung tâm và Nam có sự phát triển gắn bó và tương hỗ nhau về nguồn gốc địa   động lực, chung nhau pha tách giãn vào Oligocen dạng kéo toác (pull­apart) kéo dài đến Miocen   sớm và có không gian trầm tích hình thoi từ Bắc xuống Nam.  Tuy nhiên, do bản chất đá móng thay   đổi khác nhau, nên dọc theo bờ  Tây của bể  này, có sự  phân dị  cao thấp tạo ra một số  trũng địa  phương nằm trong Đới Trung tâm và Đới Nam. Vào cuối Miocen muộn, do chuyển động đảo  chiều của hệ thống đứt gãy Sông Hồng, đới Bắc bể bị thúc vào lục địa tạo ra sự nén ép với cường   độ  giảm dần từ  Bắc xuống Nam, trong khi đó  ở  nam Đới Trung tâm và Đới Nam quá trình tách  giãn vẫn tiếp tục, tạo điều kiện cho sự  hình thành dải diapir sét dọc theo trục trung tâm bể  cho   đến tận Pliocen trong đới có áp suất cao. Về  trầm tích, môi trường trầm tích có tính biển xuất hiện sớm nhất  ở Đới Nam, chuyển  dần về Đới Trung tâm và Đới Bắc, nhưng về nguồn trầm tích phần lớn lại đổ từ Đới Bắc, từ bờ  Tây xuống Đới Nam, vì thế  có sự  phân dị  khác nhau về  thành phần trầm tích, đa phần là lục   nguyên  ở  Đới Bắc, xen kẹp lục nguyên với cacbonat  ở  Đới Trung tâm và nhiều cacbonat  ở  Đới  Nam.  Mặt khác, do khối lượng nguồn trầm tích từ phía Đông lớn hơn rất nhiều so với phía Tây   (từ đảo Hải Nam) nên không gian trầm tích trong Đới Trung tâm vào Miocen muộn, Pliocen là một  không gian không đối xứng, thoải  ở  sườn Đông và dốc  ở  sườn Tây, tạo điều kiện cho trầm tích  turbidit hình thành từ sườn lục địa phía Tây. Về  hệ  thống dầu khí, do có lịch sử  phát triển địa chất khác nhau, môi trường trầm tích   phân dị  khác nhau nên có thể  chia không gian Bể  Sông Hồng thành nhiều hệ  thống dầu khí khác  nhau theo các tiêu chí như đá mẹ Oligocen hay Miocen, đá mẹ sinh dầu hay sinh khí, không bị ảnh   hưởng hay có ảnh hưởng giao thoa với hệ thống khí CO 2 như sau: i) hệ thống dầu khí sinh dầu (và   khí) Đới Bạch Long Vĩ; ii) hệ  thống dầu khí sinh khí Đới Bắc; iii) hệ  thống dầu khí sinh khí có  ảnh hưởng mạnh của hệ  thống khí CO2 Đới Trung tâm và iv) hệ  thống dầu khí sinh khí có giao  thoa với hệ thống khí CO2 Đới Nam. Bể  Hoàng Sa: Đây là diện tích khu vực quần đảo Hoàng Sa, nằm  ở  phía Đông Đới nâng  Tri Tôn của Nam bể Sông Hồng và kẹp giữa Trũng Nam Hải Nam và Trũng Phú Yên.  Về cấu trúc  địa chất bao gồm một dải nâng ở phía Bắc (Đới phân dị Bắc Hoàng Sa) và một dải các địa hào nhỏ  hẹp  ở phía Nam (Đới phân dị  Nam Hoàng Sa), đây có thể  là một phần lục địa sót trước Giãn đáy   Biển Đông tương tự như khu vực Trường Sa, nhưng có khoảng cách xa hơn so với vỏ đại dương   và có thể nằm trên vỏ lục địa.  Về  lịch sử địa chất, khu vực này bị  đập vỡ hình thành các bán địa   hào vào Paleogen với trầm tích tướng lục địa, vào cuối Oligocen bị cố kết thành một khối và lún  chìm dưới mực nước biển, có mặt cả  hai loại trầm tích cacbonat trên các đới nâng (Đới phân dị  Bắc Hoàng Sa) và lục nguyên tướng biển trong các trũng nhỏ hẹp (Đới phân dị Nam Hoàng Sa). Về hệ thống dầu khí, khu vực này có hệ thống dầu khí chưa rõ ràng, tồn tại các dạng bẫy   với các loại đá chứa lục nguyên và cacbonat cùng với tầng chắn khu vực Miocen thượng, Pliocen,   nhưng việc có tồn tại tầng đá mẹ không và có sinh thành được một lượng dầu khí đủ  lớn không   vẫn chưa rõ do mức độ nghiên cứu và thăm dò còn hạn chế.  Tuy nhiên do khu vực này nằm kẹp  giữa các bể Sông Hồng, Nam Hải Nam và Phú Khánh nên vẫn có khả năng một số bẫy được nạp   dầu khí di cư từ đá mẹ từ các bể lân cận. Bể  Phú Khánh: Đây là bể  trầm tích ngoài khơi miền Trung Việt Nam, có vùng thềm rất  hẹp dọc theo bờ biển, còn phần lớn diện tích bể  nằm  ở  sườn thềm và nước sâu, nằm trong vỏ  chuyển tiếp và kề áp vào vỏ đại dương của tách giãn Biển Đông. Bể Phú Khánh có thể chia thành   hai thành phần chính, là Trũng Phú Yên  ở  phía Tây và Đới nâng Khánh Hòa ở phía Đông.  Xét về  phương diện tiềm năng dầu khí, thì Bể Phú Khánh là Trũng Phú Yên và ngược lại. Trũng Phú Yên được hình thành cùng và đồng thời với giai đoạn dập vỡ (breakup) vỏ trái   đất trước giãn đáy Biển Đông, móng của trũng Phú Yên hiện rất khó minh giải qua tài liệu địa  chấn do không có sự  khác biệt về  kháng trở  âm học, cho thấy có thể  móng trước Đệ  tam là các  trầm tích lục nguyên Creta, các trầm tích syn­rift có thể  là Eocen?­Oligocen có tướng lục địa đầm   hồ, tiếp theo là các trầm tích chuyển tiếp từ lục địa sang tướng biển bắt đầu từ Miocen sớm đến   hiện nay với trầm tích lục nguyên ở các địa hào hẹp và cacbonat trên các địa lũy nằm xen kẹp giữa  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2