intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

ODA và năng lực hạn chế

Chia sẻ: Mai Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:21

61
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhà đàm phán ODA của chính phủ và nhà tài trợ quốc tế cùng chịu một thách thức chung, khi bước vào phiên họp giữa kỳ khai mạc hôm nay (8/6), tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: ODA và năng lực hạn chế

  1. ODA và năng lực hạn chế Nhà đàm phán ODA của Chính phủ và nhà tài trợ quốc tế cùng chịu một thách thức chung, khi bước vào phiên họp giữa kỳ khai mạc hôm nay (8/6), tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc. Nhà đàm phán ODA của Chính phủ và nhà tài trợ quốc tế cùng chịu một thách thức chung, khi bước vào phiên họp giữa kỳ khai mạc hôm nay (8/6), tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc. Trong khi cả hai bên đang rất nỗ lực để tăng thêm viện trợ ODA cho Việt Nam nhằm “gỡ nút thắt cổ chai về hạ tầng” và “kích thích kinh tế”, thì những nỗ lực đó lại bị chặn lại bởi thủ tục hành chính phức tạp, cũng như năng lực hạn chế của cấp thừa hành bên dưới. Hệ quả là rõ. Chưa bao giờ việc giải ngân ODA chậm trễ - vốn là căn bệnh kinh niên - lại gây nhiều quan ngại như năm nay, năm mà Chính phủ đang rất cần tiền cho các chương trình kích
  2. cầu, cũng như để bù đắp lại thâm hụt cán cân thanh toán. Mới chỉ có 720 triệu USD vốn ODA được giải ngân trong năm tháng đầu năm nay, tương đương với 38% kế hoạch của cả năm, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thứ trưởng bộ này, ông Cao Viết Sinh nói: “Ở cấp cao có tinh thần rất cương quyết thúc đẩy giải ngân. Tuy nhiên, đúng là bất cập khi các công trình chậm trễ”. Nhưng, những “bất cập” đó mà đổ cho cấp dưới cũng là hơi oan khi xét đến nguyên nhân của nó. Một tài liệu chung của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới (WB) chỉ thẳng: lạm phát cao làm thiếu hụt vốn đối ứng cho công tác đền bù và tái định cư, quá trình phê duyệt dự án kéo dài, phê duyệt đấu thầu chậm, điều phối không tốt giữa Trung ương và địa phương,… - những nguyên nhân, không thể phủ nhận, là vấn đề của quản lý nhà nước. Về phần mình, các nhà tài trợ đang đau đầu với những vấn đề này. WB là một ví dụ. Kể từ khi tái khởi động các chương trình hỗ trợ tài chính cho Việt Nam từ năm 1993, ngân hàng này đã trở thành nhà tài trợ lớn nhất với cam kết ODA trị giá tới 5,1 tỉ USD cho 42 dự án. Tuy vậy, các khoản vay này thật khó mà tiêu được. WB cho biết, có tới 3,8 tỉ USD là chưa giải ngân, trong khi 10 dự án là đặc biệt “có vấn đề”. Những dự án này thuộc các bộ như nông nghiệp và phát triển nông thôn, xây dựng, giao thông, thông tin và truyền thông. Tình hình nghiêm trọng đến nỗi, một đoàn công tác cao cấp từ trụ sở chính của WB tại Washington đã đến Hà Nội cuối tuần trước để xem xét các dự án nói trên. Đây là điều đáng lưu tâm bởi WB đang có kế hoạch mở rộng hỗ trợ cho Việt Nam từ nguồn vốn lãi suất thương mại IDRG mà quy mô có thể lên tới hàng tỉ USD. Trong cuộc họp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đoàn công tác của WB đã nói thẳng, tình hình giải ngân quá chậm đang làm khó cho
  3. họ. Trưởng đại diện WB, bà Victoria Kwakwa, khẳng định: “Nếu tình hình không được cải thiện, thì chúng tôi không thể thực hiện ý định mở rộng hỗ trợ cho Việt Nam. Mọi người sẽ hỏi, hiện nay Việt Nam còn quá nhiều tiền chưa tiêu được, thì làm sao lại cho Việt Nam vay thêm, hay hỗ trợ tài chính thêm cho Việt Nam. Chúng tôi sẽ rất khó tìm ra lời giải trình cho cấp trên của chúng tôi”. Đã có nhiều lời thanh minh từ phía Việt Nam. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Ngọc Thuật: “Đúng là dự án nào của chúng tôi cũng chậm trễ, vì chúng tôi phải mất tới hai, ba năm để xây dựng bộ máy cho dự án”. Tuy vậy, ông Thuật nói thẳng, WB cũng rất lề mề: “Có những dự án mà chúng tôi gửi sang WB đến sáu tháng mà không có phản hồi. Rất mất thời gian”. Ông Sinh góp ý ngay: “WB cần rút kinh nghiệm. Nếu thấy hồ sơ dự án chưa đủ, thì phải gửi lại ngay cho phía Việt Nam, chứ để sáu tháng sau mới trả lời thì không ổn”. Quả bóng đang nằm trên cả hai sân. Nhưng, bất chấp mọi giải thích, các khoản ODA vẫn đang giậm chân tại chỗ, gây lãng phí lớn và làm ảnh hưởng xấu. Các khoản vay này sẽ co lại đáng kể trong thời gian tới, khi Việt Nam đã đạt ngưỡng quốc gia có thu nhập trung bình, với thu nhập đầu người 1.024 USD năm 2008. * 10 dự án “có vấn đề”: - Dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông khu vực Mekong (207,7 triệu USD): giải ngân được 2%, dù hơn 30% thời gian thực hiện trôi qua. - Dự án an toàn đường bộ (31,7 triệu USD): giải ngân 10%, trong khi 86% thời gian thực hiện trôi qua. - Giao thông đô thị Hà Nội (155,2 triệu USD): giải ngân 3%,
  4. trong khi 30% thời gian trôi qua. - Môi trường và vệ sinh rác thải Tp.HCM (166,3 triệu USD): giải ngân 71%, trong khi 92% thời gian trôi qua. - Phát triển nguồn cung cấp nước sạch (112,6 triệu USD): giải ngân 14%, gần 60% thời gian trôi qua. - Hỗ trợ nguồn tài nguyên nước (157,8 triệu USD): giải ngân 20%, gần 70% thời gian thực hiện trôi qua. - Quản lý nguy cơ thiên tai (86 triệu USD): giải ngân 46%, 80% thời gian trôi qua. - Phát triển ngành lâm nghiệp (39,5 triệu USD): giải ngân 35%, 70% thời gian trôi qua. - Cung cấp nước sạch và vệ sinh rác thải khu vực đồng bằng sông Hồng (45,9 triệu USD): giải ngân 21%, 60% thời gian trôi qua. - Phát triển công nghệ thông tin (93,7 triệu USD): giải ngân 6%, hơn 60% thời gian trôi qua. Theo Tư Giang Sài Gòn Tiếp Thị Tin mới hơn : Vốn đầu tư nước ngoài: Rủi nhiều hơn may Trân Văn, phóng viên đài RFA 2009-06-27
  5. Gần đây có khá nhiều thông tin và sự kiện liên quan đến dòng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (gọi tắt là FDI) vào Việt Nam. AFP photo Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tức vốn FDI từ đầu năm đến nay tiếp tục sụt giảm nghiêm trọng Tin mới nhất liên quan đến FDI do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố cho biết, FDI trong sáu tháng đầu năm nay chưa tới 9 tỉ đô la và so với cùng kỳ năm ngoái, FDI đã giảm khoảng 77%. Còn sự kiện mới nhất liên quan đến FDI là việc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xét lại việc giảm bớt quyền hạn cho các tỉnh, thành phố trong việc cấp giấy phép đầu tư cho những dự án liên quan đến FDI theo yêu cầu của Chính phủ... Vì sao trong khi FDI đang giảm mà chính quyền Việt Nam lại có khuynh hướng hạn chế cấp giấy phép đầu tư cho những dự án liên quan đến FDI? Có vấn đề nào đáng chú ý quanh dòng vốn FDI? Mời quý vị nghe Trân Văn tổng hợp và tường trình...
  6. Cam kết đầu tư trên giấy Năm ngoái, giới đầu tư nước ngoài đăng ký đầu tư vào Việt Nam khoảng 72 tỉ USD. Tuy nhiên trong sáu tháng đầu năm nay, khoản FDI được giải ngân chỉ khoảng 4 tỉ USD. Ủa? Bây giờ Việt Nam làm gì có luật. Họ thích là họ làm. Họ có quyền có chức là họ làm. Ông Nguyễn Xuân Ngữ, quận 9, TP.HCM Đây là một bằng chứng khác minh họa cho nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, khoản FDI thật sự được dùng để đầu tư vào Việt Nam mà chính quyền quen gọi là giải ngân, luôn thấp hơn rất nhiều so với khoản FDI cam kết đầu tư trên giấy, mà chính quyền vẫn lấy đó làm cơ sở để tự hào về sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, cũng như khả năng thu hút đầu tư. Chính vì say sưa với các “cam kết đầu tư”, chính quyền đã tìm nhiều cách để nâng cao những hứa hẹn về FDI trên giấy tờ, trong đó có việc mở rộng thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư. Kể từ cuối năm 2006, chính phủ bắt đầu cho phép chính quyền các tỉnh, thành phố được cấp giấy phép đầu tư cho giới đầu tư nước ngoài. Thu hồi đất vô tội vạ Cũng kể từ đó, số lượng các dự án đầu tư tăng vọt. Theo sau những dự án đầu tư này là tình trạng thu hồi đất vô tội vạ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội, kinh tế, môi trường. Từ năm ngoái đến nay, nhiều cơ quan hữu trách ở Việt Nam đã công bố hàng loạt thống kê đáng suy nghĩ. Đầu tháng trước, tại hội thảo về “Chính sách pháp luật liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, diễn ra ở Hà Nội, Hội
  7. Khoa học đất dựa vào báo cáo của 49/63 tỉnh thành ở Việt Nam, cho biết rằng, từ năm 2004 đến nay, đã có 750.000 héc ta đất bị thu hồi để thực hiện 29.000 dự án đầu tư. Trong hội thảo này, một giáo sư tên Tôn Gia Huyên cho biết: Việc thu hồi đất nông nghiệp trong năm năm từ 2003-2008 đã tác động đến đời sống của 627.000 gia đình với khoảng 950.000 lao động và 2,5 triệu nông dân. Trong đó có từ 25%-30% lao động mất việc làm hoặc không còn việc làm ổn định. Chuyện thu hồi đất ồ ạt để giao cho giới đầu tư thực hiện các dự án còn là nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố cáo, gieo rắc bất bình và dẫn tới nhiều cuộc phản kháng có màu sắc bạo động. Lúc đầu thì Việt Nam mình muốn là có đầu tư và vì thế bảo vệ môi trường có vẻ mềm hơn nhưng quá trình phát triển như thế thì chuyện suy thoái về môi trường càng ngày càng nặng nề. Ông Lâm Minh Triết, Viện trưởng Viện Nước và Công nghệ môi trường Đầu tháng 9 năm ngoái, tại hội thảo về “Công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp và chính sách pháp luật về sử dụng đất trong tình hình hiện nay”, được tổ chức ở TP.HCM, ông Trần Thế Vượng, một ủy viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tiết lộ: “Kết quả khảo sát cho thấy, khoảng 80% khiếu nại, tố cáo của người dân liên quan đến đất đai, thậm chí, có nơi, tỷ lệ này là 90%”. Chuyện thu hồi đất ồ ạt nhằm nâng cao con số “cam kết đầu tư” trong những báo cáo thành tích phát triển kinh tế - xã hội, bất chấp các qui định hiện hành, bất kể hậu quả, đã tạo ra nơi nhiều người bị thu hồi đất, suy nghĩ giống hệt như ông Nguyễn Xuân Ngữ, ngụ tại quận 9, TP.HCM, chủ của một trong số hơn 3.000 gia đình bị thu hồi đất cho việc thực hiện dự án “khu Công nghệ cao”: “Ủa? Bây giờ Việt Nam làm gì có luật. Họ thích là họ làm.
  8. Họ có quyền có chức là họ làm. Tôi đã nói rồi là đất nhà tôi chưa có quyết định thu hồi đất, chưa có bồi thường, chưa có đất tái định cư. Theo luật, thu hồi đất phải thông báo cho dân biết mục đích thu hồi để làm gì, sau đó mới đưa quyết định thu hồi đất. Các bước tiếp theo là đền bù, hỗ trợ, cấp đất tái định cư, mà tôi thì chưa có cái gì, anh ạ.” Cũng tại hội thảo vừa kể, ông Trần Thế Ngọc, thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường xác nhận, mỗi năm, quỹ đất nông nghiệp ở Việt Nam mất đi khoảng 50.000 héc ta, tương đương từ 400.000 đến 500.000 tấn lương thực. Do vậy, người ta không lạ gì khi giữa tháng này, Cục Trồng trọt của Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn dự báo, năm 2020, Việt Nam chỉ đủ gạo tiêu dùng trong nội địa, chứ không còn dư để xuất khẩu nữa. Đuổi theo FDI Tình trạng đuổi theo FDI còn dẫn đến những quyết định hy sinh môi trường sống nhằm tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, bất chấp ô nhiễm lan tràn và càng ngày càng nghiêm trọng. Một chuyên gia môi trường, ông Lâm Minh Triết, Viện trưởng Viện Nước và Công nghệ môi trường, nhận định: “Phải cân nhắc ở chỗ này, phát triển kinh tế phải ở mức mà có thể hài hòa với vấn đề môi trường. Lúc đầu thì Việt Nam mình muốn là có đầu tư và vì thế bảo vệ môi trường có vẻ mềm hơn nhưng quá trình phát triển như thế thì chuyện suy thoái về môi trường càng ngày càng nặng nề.” Hậu quả tạm kể là như thế, còn hiệu quả của các dự án đầu tư FDI thế nào? Giữa năm ngoái, Bộ Tài Nguyên - Môi Trường công bố kết quả một cuộc khảo sát về hiệu quả hoạt động của 12 khu công nghiệp, khu chế xuất, đang sử dụng hơn 2.000 héc ta đất. Theo đó, tỉ lệ sử dụng đất của các nơi này đều dưới 50%, thậm chí nhiều nơi dưới 10%.
  9. Chưa kể, trong vài năm qua, báo chí Việt Nam còn công bố rất nhiều thông tin về những dự án mà nhà đầu tư nước ngoài cam kết đầu tư hàng tỉ USD chỉ để nhận đất rồi ngồi chờ sang nhượng, hưởng hoa hồng hoặc hưởng chênh lệch. Một trong những dự án “ma” làm hao tổn nhiều giấy mực, khiến nhiều người không thể quên vì đã từng cười ra nước mắt là dự án có vốn đầu tư lên tới 30 tỷ USD, của tập đoàn Eminence có trụ sở tại bang Delaware, Hoa Kỳ, vào Khu công nghiệp Nghi Sơn tỉnh Thanh Hoá và một dự án khác trị giá 4 tỉ USD vào tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi tra cứu thông tin về tập đoàn đã từng được lãnh đạo hai tỉnh phía Bắc miền Trung trải thảm đỏ, đón tiếp trọng thị, tờ Tiền Phong loan báo, cả năm 2006, vì không có doanh thu, tập đoàn Eminence chỉ phải đóng 35 USD tiền thuế. Với bối cảnh như vậy và dù thừa nhận, nền kinh tế Việt Nam chỉ có năng lực hấp thụ 10 tỉ USD/năm nhưng ông Phan Hữu Thắng, Cục trưởng Đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch Đầu tư vẫn bảo rằng, khó mà cưỡng lại được các “dự án tỷ đô” vì “bùng nổ FDI giúp tạo dựng hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế”. ODA là gì ? Giải thích về nguồn vốn ODA như sau: - Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay. - ODA có hai dạng: + Dạng grant- cho luôn, không hoàn lại. + Dạng thứ hai là lending- cho vay với lãi suất cực kỳ thấp (0.75%/năm) và thời gian hoàn trả cực kỳ dài: 20 -40 năm.
  10. - ODA là của các chính phủ/ tổ chức cho chính phủ. Nếu là của chính phủ cho chính phủ, người ta gọi là viện trợ song phương, nếu là tổ chức (Ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu á, EU) thì là viện trợ đa phương. - ODA được phân bổ theo dự án. Chính phủ nhận viện trợ lên danh sách các lĩnh vực kêu gọi vốn viện trợ phát triển, hàng năm chính phủ họp với nhà tài trợ (hội nghị tư vấn các nhà tài trợ) để kêu gọi tài trợ, các nhà tài trợ sẽ xác định lĩnh vực cần viện trợ, xây dựng dự án và tài trợ theo dự án. - Các ngành nghề được hưởng ODA của VN nhiều nhất ở VN là các ngành thuộc hạ tầng: Giao thông, đô thị, nước sạch và môi trường; thuộc lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, thuộc lĩnh vực phát triển con người (y tê/ giáo dục), nông nghiệp (thuỷ sản)- nói chung là thuộc hạ tầng của nền kinh tế. Hiện tại, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật là quốc gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại thì Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì. - ODA của VN sẽ giảm về quy mô khi VN ra khỏi danh sách các nước thu nhập thấp (dự tính tới năm 2010 thu nhập bình quân đầu người của VN đạt khoảng USD 1000- USD 1,100- khi đó chúng ta sẽ thuộc khối các nước có thu nhập trung bình- dĩ nhiên là trung bình thấp) khi đó quy mô ODA sẽ giảm, vì lúc đó cần ưu tiên cho các nước kém phát triển hơn. Số liệu năm 2004 của OECD cho biết lượng vốn ODA cung cấp bởi một số nước phát triển: Nước Vốn (triệu USD) % thay đổi hằng năm % GNI Hoa Kỳ 19000 16,4 0,16 Nhật Bản 8900 -0,2 0,19 Pháp 8500 16,8 0,42 Anh 7800 24,7 0,36 Đức 7500 10,5 0,28
  11. Hà Lan 4200 6,4 0,74 Thụy Điển 2700 12,7 0,77 Ưu điểm của ODA Lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm) Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm) Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA. Bất lợi khi nhận ODA Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới).Ví dụ: Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy
  12. trên thị trường lao động thế giới). Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODAbuộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất. Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy nước TS. NGUYỄN MINH PHONG Bên cạnh những lợi ích hiển nhiên to lớn của dòng vốn nước ngoài qua các kênh thu hút khác nhau, như bổ sung vốn đầu tư và gia tăng nguồn động lực mới, tích cực và mạnh mẽ hơn cho phát triển của đất nước, cải thiện cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế, công nghệ, thị trường, đội ngũ lao động và quản lý… vẫn cần tỉnh táo nhận diện những tác động mặt trái của chúng để có các giải pháp thích ứng. Tác động hai mặt Về vốn vay: Dù là nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) có điều kiện ưu đãi cao nhất, cho đến các khoản vốn vay thương mại thông thường trên thị trường tài chính quốc tế thì nghĩa vụ nợ
  13. (bao gồm trả lãi và nợ gốc) cũng luôn luôn đặt ra cho người vay. Một cơ cấu nợ mà chiếm tỷ trọng lớn nhất là những khoản vay thương mại “nóng”, lãi cao, và bằng những ngoại tệ không ổn định theo xu hướng “đắt” lên sẽ chứa đựng những xung lực lạm phát mạnh. Những xung lực này càng mạnh hơn nếu vốn vay không được quản lý tốt và sử dụng có hiệu quả, buộc con nợ phải tiếp tục tìm kiếm các khoản vay mới, với những điều kiện có thể ngặt nghèo hơn – chiếc bẫy nợ sập lại, con nợ rơi vào vòng xoáy mới: Nợ-vay nợ mới-tăng nợ-tăng vay… Vòng xoáy này sẽ dẫn con nợ đến sự vỡ nợ hoặc vòng xoáy lạm phát: Nợ- tăng nghĩa vụ nợ-tăng thâm hụt ngân sách-tăng lạm phát. Lúc này dịch vụ nợ sẽ ngốn hết những khoản chi ngân sách cho phát triển và ổn định xã hội, làm căng thẳng thêm trạng thái khát vốn và hỗn loạn xã hội. Hơn nữa, việc “thắt lưng buộc bụng” trả nợ khiến nước nợ phải hạn chế nhập và tăng xuất, trong đó có hàng tiêu dùng mà trong nước còn thiếu hụt, do đó làm tăng mất cân đối hàng tiền, tăng giá, tăng lạm phát. Nợ nước ngoài có thể làm sụp đổ cả một chính phủ, nhất là ở những nơi tình trạng tham nhũng và vô trách nhiệm là phổ biến của giới cầm quyền, đi kèm với việc thiếu những giải pháp xử lý mềm dẻo khôn ngoan với nợ (đàm phán gia hạn nợ, đổi nợ thành đầu tư, đổi cơ cấu và điều kiện nợ, xin xoá nợ từng phần…). Do vậy, sự chủ động và tỉnh táo khống chế nợ ở mức độ an toàn, theo những dự án đầu tư cụ thể, được luận chứng kinh tế – kỹ thuật đầy đủ, và chấp nhận sự kiểm tra, giám sát của chủ nợ để tránh hao hụt do tham nhũng hay sử dụng nợ sai mục đích là những nguyên tắc hàng đầu cần được tuân thủ trong quá trình vay nợ nước ngoài. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới mọi dạng sẽ an toàn và tốt hơn việc trực tiếp vay nợ thương mại (kể cả dưới dạng mua hàng trả chậm theo L/C). Hơn nữa, điều này còn tránh cho nước tiếp nhận đầu tư những khó khăn, lúng túng ban đầu về thị trường, kinh nghiệm quản lý-kinh doanh quốc tế. Cùng với những bảo đảm pháp lý có tính quốc tế, bằng cách điều chỉnh những chiếc “van”
  14. như: Ưu đãi thuế, tài chính, tiền tệ, phát triển hạ tầng cứng- mềm, các thủ tục hải quan, hành chính, các nước chủ nhà có thể hướng dẫn luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đúng chỗ, đúng lúc, đủ khối lượng cần thiết theo kế hoạch định hướng sự phát triển kinh tế-xã hội của mình. Song, trong lĩnh vực tưởng chừng toàn những điều tốt lành này, những tác động mặt trái của FDI vẫn ẩn khuất đâu đó: Thứ nhất, thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư này chỉ thực sự tích cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm tăng cung những hàng khan hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó làm tăng tiềm lực xuất khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách cho nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ thực tế. Ngược lại, nếu thiên về khuynh hướng kích thích nền kinh tế bong bóng, kích thích và thoả mãn những tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh tế và sự tích luỹ cần thiết của nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có hại cho các nguồn lực tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân đối tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực lạm phát tương lai của đất nước. Thứ hai, nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn phần “mềm”) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công nghệ lạc hậu, thì mặc nhiên “những lợi thế tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ bị tước bỏ – đó là một mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải thiện được tình trạng công nghệ, khả năng xuất khẩu, mà còn phải chịu thêm gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ “bất cập” này theo kiểu “bỏ thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn phải kể thêm tình trạng phụ thuộc một chiều vào đối tác nước ngoài về kinh tế – kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu tư kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ không như mong đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ nhà bỏ ra, cả về chi phí tài chính, nhân lực và môi trường, tức
  15. “một tiền gà, ba tiền thóc”. Thứ ba, để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán của các chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ 0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn. Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước sẽ làm tăng lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng. “Hợp lực” của những yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm phát mới do tính chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra. Thứ tư, cần tính đến tác động kinh tế-xã hội và môi trường tổng hợp của các dự án FDI, nhất là các dự án dùng nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất nghiệp và là nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc biệt, các dự án xây dựng sân golf ở đồng bằng, vùng đất màu mỡ và những dự án “bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ làm tổn thương đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai. Về vốn đầu tư gián tiếp Một mặt, sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhất là trên thị trường chứng khoán, tạo những tác động tích cực: Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài khi đổ vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn trong nước như một phép cộng đương nhiên vào tổng số dòng vốn này. Hơn nữa, khi vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên.
  16. Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận thị trường vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc biệt là thị trường chứng khoán) Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời gian qua. Hơn nữa, điều kiện và như là kết quả đi kèm với sự gia tăng dòng vốn này là sự phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính – chứng khoán, trước hết là các loại quỹ đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường; Đồng thời còn kéo theo sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước hết trên thị trường chứng khoán… Tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài và cả trong nước, từ người dân, các doanh nhân đến các tổ chức và pháp nhân đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp sẽ có thêm điều kiện lựa chọn sử dụng vốn của mình để đầu tư dưới các hình thức trực tiếp tự mình hay thông qua các định chế tài chính trung gian để mua – bán các cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán có giá khác của Việt Nam trên thị trường tài chính Việt Nam và nước ngoài. Thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp này, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ bản thân nói riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và điều kiện kinh doanh thị trường, hiện đại. Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hệ
  17. thống luật pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông qua tác động vào thị trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn. Mặt khác, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng có thể gây ra một số tác động tiêu cực sau: Tăng mức độ nhạy cảm và khả năng bất ổn về kinh tế liên quan đến các nhân tố nước ngoài. Khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình. Đặc trưng nổi bật đó cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo và khuyếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn này đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên phạm vi rộng và số lượng lớn… Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc khủng hoảng đầu tư – tài chính – tiền tệ, lạm phát cao, thậm chí là khủng hoảng kinh tế hết sức tệ hại và bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.
  18. Gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán.Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản xuất – kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp của vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển hoá thành tính trực tiếp. Nhà đầu tư gián tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu tư trực tiếp. Thậm chí, về lô- gích, quá trình “diễn biến hoà bình” này đạt tới quy mô và mức độ nào đó còn có thể làm chuyển đổi về chất quyền sở hữu và tính chất kinh tế ban đầu của doanh nghiệp và quốc gia. Tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm kinh tế quốc tế như: Hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của các dòng vốn kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương và có thể gây ra lạm phát cao của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; Thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước và gây sụp đổ một nội các chính phủ… Một số giải pháp thích ứng Trong thời gian tới, để tiếp tục duy trì về lượng và nâng cao hiệu quả thu hút vốn nước ngoài, nhất là dòng FDI , cần tập
  19. trung vào các giải pháp sau: Thứ nhất, hoàn chỉnh và ban hành quy định quản lý các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp, gồm cả các dự án có vốn đầu tư nước ngoài (theo Luật Đầu tư) để áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài (như về quản lý đầu tư xây dựng, một đầu mối liên thông cải cách thủ tục hành chính…). Tình hình triển khai các dự án đầu tư có vốn nước ngoài cũng cần có nhiều chuyển động tích cực. Các cơ quan quản lý nhà nước cả cấp trung ương lẫn địa phương, song song với cải cách thủ tục hành chính, phải chủ động bám sát dự án để kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc, đôn đốc nhà đầu tư. Tuy nhiên, do môi trường pháp lý biến động nhiều, liên tục và còn nhiều bất cập, không thống nhất, rõ ràng (thủ tục đầu tư kinh doanh, xây dựng cơ bản, đất đai, môi trường, quy định trong gia nhập WTO, cam kết song phương đa phương…), nên cũng gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan trong việc thực thi pháp luật để triển khai các dự án, nhiều vấn đề phải nghiên cứu làm rõ mới có thể thực hiện, nên chưa thể mang lại kết quả ngay. Thứ hai, tiếp tục điều chỉnh và ổn định các quy hoạch thu hút vốn nước ngoài theo hướng phát triển bền vững, tránh chạy theo lợi ích trước mắt, địa phương và cá nhân, đồng thời đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách thích hợp nhằm khuyến khích áp dụng hình thức đầu tư mới có sử dụng vốn nước ngoài như BOT/BTO/BT, PPP… trong đầu tư xây dựng các công trình kết cầu hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ, nhằm xúc tiến một số dự án lớn, trọng điểm quốc gia và địa phương. Thứ ba, tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài, cập nhật, bổ sung nội dung thông tin mới về môi trường, chính sách đầu tư và danh mục dự án kêu gọi vốn nước ngoài trên các trang thông tin điện tử và in mới sách, đĩa CDROM phát hành rộng rãi; Tổ chức xúc tiến đầu tư tại các nước đang và sẽ có
  20. triển vọng trở thành nhà đầu tư lớn vào Việt Nam; Đẩy mạnh áp dụng các phần mềm chuyên dụng hiện đại trong quản lý dự án có vốn nước ngoài; tăng cường cung cấp thông tin, quảng bá môi trường đầu tư, hỏi đáp và đối thoại với các nhà đầu tư… Thứ tư, đổi mới căn bản phương thức quản lý và sử dụng vốn vay, tích cực phòng chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Sử dụng ODA không hoàn lại và các dự án hỗ trợ kỹ thuật ưu tiên cho các dự án không có khả năng hoàn vốn, các nghiên cứu phát triển thể chế, tăng cường năng lực con người và an toàn trong lĩnh vực giao thông, bảo vệ môi trường, hỗ trợ chuẩn bị dự án. Sử dụng ODA có ưu đãi cao (lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài và có ân hạn) ưu tiên cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, như hoàn thiện và nâng cấp các đường vành đai, xây dựng các tuyến đường sắt đô thị, cải thiện môi trường đô thị. Đặc biệt, các cơ sở hạ tầng từ nguồn ODA phần lớn tồn tại và phát huy tác dụng tới nhiều năm sau, vì vậy các dự án cần có công nghệ cao, hiện đại và phải được xây dựng đạt chất lượng cao nhất thông qua đấu thầu thực chất hơn và có chế tài thích hợp về đảm bảo, đưa vào khai thác sử dụng phát huy được hiệu quả và có khả năng trả nợ. Chính phủ và các Bộ, Ngành Trung ương cần phối hợp với các nhà tài trợ để tiếp tục hài hoà nhằm giảm bớt sự khác nhau về thủ tục để các dự án ODA được triển khai thuận lợi, đặc biệt tập trung vào những nội dung vướng mắc về phê duyệt dự án, đấu thầu… làm mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến tiến độ dự án; cần chủ động xem xét và ban hành hướng dẫn cơ chế tài chính trong nước đối với nguồn vốn vay ODA; Rà soát và sửa đổi bổ sung, cũng như minh bạch hoá các quy định về thuế liên quan đến dự án ODA nói chung và đặc biệt các dự án ODA vay (với các chủ dự án, với nhà thầu, với chuyên gia…) cho phù hợp với các văn bản pháp quy mới ban hành. Đặc biệt, cần xúc tiến sự phối hợp giữa các bộ, ngành có liên quan trong việc điều chỉnh, ban hành bổ sung các quy định cụ thể về định mức các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2