ĐỀ DẪN HỘI THẢO Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam (Đà Nẵng, ngày 07/8/2015)

GS.TS. Vương Đình Huệ, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương

Kính thưa đồng chí Vũ Văn Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng

Chính phủ,

Thưa đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng

Thường trực Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

Thưa đồng chí Huỳnh Đức Thơ, Phó Bí thư Thành uỷ, Chủ tịch Ủy ban Nhân

dân Thành phố Đà Nẵng,

Thưa các đồng chí lãnh đạo bộ, ban ngành Trung ương và địa phương, các đại

biểu quốc tế cùng toàn thể quý vị đại biểu!

Thực hiện chương trình công tác năm 2015, hôm nay, Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với UBND TP. Đà Nẵng và Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV đồng tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng vốn ODA của Việt Nam”. Thay m t L nh đạo Ban Kinh tế Trung ương và Ban Tổ chức Hội thảo, tôi xin gửi lời chào trân trọng, lời chúc sức khỏe đến toàn thể quý vị đại biểu tham dự Hội thảo và chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!

Thưa quý vị đại biểu,

Trong hơn 20 năm qua, chủ trương của Đảng và Nhà nước về thu hút các nguồn vốn ODA hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo đ được khẳng định và nhấn mạnh trong các Nghị quyết, đ c biệt Văn kiện Đại hội XI đ nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”.

Trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương và Quốc hội, Ch nh phủ đ an hành 05 Nghị định về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, Nghị định sau tiến bộ hơn Nghị định trước theo hướng đồng bộ và nhất quán hơn với hệ thống quản lý nhà nước về đầu tư công, hài hòa quy trình, thủ tục với các nhà tài trợ, tiệm cận với các chuẩn mực và phù hợp thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, nhờ có sự đồng hành đáng tin cậy của cộng đồng hơn 50 nhà tài trợ quốc tế, hoạt động hợp tác phát triển trong hầu hết các ngành, lĩnh vực và trên địa bàn của tất cả các tỉnh và thành phố với quy mô vốn ODA cam kết khoảng 80 tỉ đô la

1

Mỹ thông qua hơn 20 Hội nghị CG từ năm 1993 đến nay, đ góp phần quan trọng hỗ trợ Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cụ thể là:

(1)- Góp phần thực hiện ch nh sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tạo niềm tin, khuyến khích các doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài tăng cường hoạt động thương mại và đầu tư ở Việt Nam.

(2)- Các khoản ODA đ ký trong hơn 20 năm qua, ình quân khoảng 3 tỷ USD/năm là nguồn tài ch nh đáng kể, hỗ trợ sự nghiệp Đổi mới của Việt Nam đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội.

(3)- Hỗ trợ nghiên cứu và xây dựng chính sách phát triển, cải cách hành chính công, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua việc hỗ trợ xây dựng hệ thống pháp luật, hoạt động tuyên truyền và đào tạo pháp luật, đáp ứng nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

(4)- Góp phần quan trọng tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho xã hội của các ngành và lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội (giao thông vận tải, năng lượng, y tế, giáo dục và đào tạo.v.v...); phát triển sản xuất nông nghiệp; xóa đói giảm nghèo; cải thiện môi trường; giảm nhẹ thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu.

(5)- Hỗ trợ tăng cường năng lực con người thông qua các hoạt động đào tạo trong và ngoài nước, chuyển giao công nghệ, cung cấp tri thức, chia sẻ kinh nghiệm tiên tiến về quản lý kinh tế và xã hội.

Với những kết quả nói trên, Việt Nam được đánh giá là một mô hình thành công

trong huy động và sử dụng ODA.

Bên cạnh những kết quả nổi bật nêu trên, công tác thu hút, quản lý và sử dụng

ODA trong thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế yếu kém là:

(1)- Năng lực hấp thụ ODA của quốc gia, ngành, địa phương và những dự án cụ thể còn hạn chế, tỷ lệ giải ngân ODA so với nguồn vốn ODA đ ký còn rất thấp, tính chung mới đạt khoảng 63%.

(2)- Thiết kế một số chương trình, dự án ODA chưa sát với thực tế, phân bổ ODA còn dàn trải; việc lồng ghép ODA với một số chương trình mục tiêu quốc gia còn trùng l p.

(3)- Hiệu quả sử dụng đầu tư công nói chung, ODA nói riêng còn thấp. Đây cũng là một trong các nguyên nhân tác động đến tính bền vững và an toàn của nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia.

2

(4)- Công tác quản lý ODA còn bất cập, còn có những sai phạm về vi phạm các

quy định ODA của Chính phủ và của nhà tài trợ.v.v…

Thưa quý vị đại biểu,

Việt Nam đ từ một nước nghèo vươn lên trở thành nước có thu nhập trung ình. Đây là một thành công lớn nhưng cũng đ t ra thách thức trong tương lai không xa, Việt Nam không còn nhận được ODA dồi dào như trước, phải tiếp cận, huy động cả các nguồn vốn đắt hơn với các điều kiện khắt khe hơn. Quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ đang có những điều chỉnh nhất định về ch nh sách để phù hợp với bối cảnh mới như thay đổi về cơ cấu nguồn vốn viện trợ, phương thức hợp tác phát triển và chính sách viện trợ (gồm mở rộng đối tượng, lĩnh vực nhận viện trợ, tăng cường cạnh tranh nhằm nâng cao vai trò, vị thế và lợi ích quốc gia của nhà tài trợ)… đang đ t ra nhiều thách thức trong việc nâng cao hiệu quả thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i trong thời gian tới. Trong khuôn khổ Hội thảo với chủ đề “Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam” hôm nay, đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận làm rõ thêm những kết quả đạt được, những thành công và cả những tồn tại, hạn chế, yếu kém trong huy động, sử dụng ODA của Việt Nam trong hơn 20 năm qua; phân t ch đánh giá các nguyên nhân khách quan, chủ quan; đúc rút những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn và đề xuất các định hướng chiến lược, quan điểm và giải pháp để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng ODA của Việt Nam trong thời gian tới.

Ban Tổ chức Hội thảo cũng đề nghị các tham luận, các đại biểu tập trung vào

một số vấn đề sau:

- Một là, những chính sách và thể chế thích hợp để tạo môi trường cho các mô hình viện trợ mới, mở rộng các quan hệ đối tác trực tiếp giữa các chủ thể của hai bên trong quan hệ hợp tác phát triển mới với sự tham gia rộng rãi của khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ;

- Hai là, những thay đổi trong chính sách viện trợ theo hướng nguồn vốn ODA giảm dần và vốn vay kém ưu đ i, vay thương mại tăng lên đòi hỏi phải có những cơ chế, chính sách phù hợp nhằm đảm bảo mục tiêu duy trì nợ công bền vững với tỷ trọng ưu tiên 70% vốn tiếp nhận được từ ODA là hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội; trong đó chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay về cho vay lại với việc tăng cường cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các ngân hàng TMCP cùng tham gia với vị thế định chế tài chính trung gian cho vay lại nguồn vốn từ các nhà tài trợ ODA quốc tế; mở rộng cơ chế cho vay lại đối với chính quyền địa phương; giảm thiểu rủi ro từ biến động về tỷ giá, lãi suất trên thị trường vốn quốc tế làm tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ; hạn chế tình trạng

3

chuyển sang cơ chế đầu tư vốn nhà nước gây sức ép tăng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ; cải thiện năng lực hấp thụ nguồn vốn ODA của các cơ quan thụ hưởng Việt Nam…

- Ba là, thực hiện tái cấu trúc dòng vốn ODA, xác định lĩnh vực, ngành trọng tâm ưu tiên sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i để hỗ trợ thực hiện các ưu tiên phát triển, các đột phá chiến lược; bao gồm việc hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình và dự án trên các lĩnh vực phát triển hạ tầng, xây dựng chính sách và phát triển thể chế, tăng cường năng lực con người, đảm bảo an sinh xã hội (chương trình 135, 30A…), chăm sóc sức khỏe cho người dân, ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh. Sử dụng vốn ODA làm “vốn mồi” k ch th ch đầu tư tư nhân góp phần tăng số lượng vốn giải ngân. Biện pháp khắc phục tình trạng thiếu vốn đối ứng, nhất là trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, đảm bảo kế hoạch vốn đối ứng ODA nguồn vốn trái phiếu chính phủ hàng năm…

- Bốn là, tư duy mới về tính cần thiết, hữu ích của nguồn vốn ODA, sự kết hợp linh hoạt giữa viện trợ không hoàn lại, vay ODA và vay ưu đ i để “làm mềm” khoản vay; lựa chọn tập trung vào những nhà tài trợ tiềm năng, đ c biệt là nhóm các ngân hàng phát triển để tạo ra những hiệu ứng tác động lan toả thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư và các vùng kinh tế. Đồng thời tận dụng hỗ trợ kỹ thuật và viện trợ không hoàn lại của một số nhà tài trợ khác để hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực, chia sẻ kiến thức, chuyên giao kỹ thuật và công nghệ, hỗ trợ phát triển các địa phương trên các lĩnh vực y tế, giáo dục, môi trường, xoá đói, giảm nghèo,…

- Năm là, những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA trong giai đoạn 2016-2020 về xây dựng chiến lược; hoàn thiện cơ chế ch nh sách; t nh chủ động, phối hợp ch nh sách và nghiệp vụ , trao đổi thông tin giữa các cơ quan quản lý; tạo lập môi trường vĩ mô cho việc quản lý và phương thức sử dụng; cơ cấu tổ chức quản lý và sử dụng; phân cấp quyền hạn và vai trò, trách nhiệm của tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý; cơ chế theo dõi, giám sát, phòng chống l ng ph , t nh minh ạch để khai thác các lợi thế, tiềm năng; nâng cao vai trò của Quốc hội, Chủ tịch nước và Ch nh phủ…

Kính chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!

4

CHÍNH SÁCH HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN ODA VÀ CÁC KHOẢN VAY ƯU ĐÃI CỦA CÁC NHÀ TÀI TRỢ NƯỚC NGOÀI TRONG BỐI CẢNH “HẬU ODA” VÀ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM

Bộ Kế hoạch và Đầu tư

I. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ

1. Bối cảnh trong nước

Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 01 năm 2011) đ thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - x hội 10 năm (2011-2020) với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Tại kỳ họp thứ 2 khóa XIII, Quốc hội nước Cộng hòa X hội Chủ nghĩa Việt Nam đ phê chuẩn Kế hoạch phát triển kinh tế - x hội 5 năm 2011-2015.

Để hỗ trợ thực hiện Kế hoạch 5 năm 2011-2015, Thủ tướng Ch nh phủ Việt Nam đ an hành Đề án “Định hướng thu hút quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2011-2015”. Đề án này là ch nh sách ODA của Ch nh phủ Việt Nam với dự kiến thực hiện khoảng 16 tỷ USD vốn ODA và vay ưu đ i, đáp ứng khoảng 6% vốn đầu tư toàn x hội để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển trong thời kỳ 2011-2015. Nhờ thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - x hội 10 năm 2001-2010 và Kế hoạch 5 năm 2006-2010, Việt Nam đ đạt cột mốc phát triển của một nước thu nhập trung ình thấp (LMIC), tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Tuy nhiên, Việt Nam phải đối m t với nhiều khó khăn và thách thức không nhỏ trong thời kỳ phát triển mới, chủ yếu là: (i) Cơ sở hạ tầng yếu kém; (ii) Năng lực cạnh tranh quốc gia thấp; (iii) Chất lượng nhân lực còn nhiều ất cập; (iv) Xóa đói giảm nghèo chưa ền vững; và (v) Hậu quả n ng nề của hiện tượng iến đổi kh hậu toàn cầu.

Bước vào thực hiện Kế hoạch 5 năm đầu tiên của thời kỳ chiến lược 10 năm 2011-2020, nền kinh tế Việt Nam g p nhiều khó khăn ở trong nước và sự tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy ngăn ch n được lạm phát tăng cao từ 18,58% năm 2011 xuống một con số 6,81% năm 2012, song trong hai năm gần đây, tăng trưởng GDP đều đạt thấp, tương ứng là 5,89% và 5,03% so với 6% và 6-6,5% dự kiến trong Kế hoạch 5 năm 2011-2015. Sản xuất và kinh doanh đình đốn, lượng hàng tồn kho lớn, xuất khẩu tăng chậm, nhiều doanh nghiệp phá sản ho c thu hẹp sản xuất kinh doanh, đời sống người dân, nhất là công nhân các khu công nghiệp g p nhiều khó khăn.

5

2. Bối cảnh quốc tế

Trong thời gian qua viện trợ ODA được duy trì ổn định m c dù một số nước thành viên Ủy an Hỗ trợ Phát triển (DAC) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vấp phải tình trạng suy thoái dẫn đến ngân sách dành cho viện trợ ở các nước này ị cắt giảm. Năm 2014 tổng số vốn ODA của các nước thành viên DAC đạt 135,2 tỷ USD, cao hơn mức 135,1 tỷ USD của năm 2013. Dự kiến trong giai đoạn 2015 – 2018 nguồn vốn ODA tiếp tục được duy trì ền vững.

Trong thời gian tới OECD/DAC sẽ đổi mới ch nh sách ODA theo hướng gắn các quy định về ền vững nợ của IMF và ch nh sách cho vay của WB. Đây được xem là động thái t ch cực giúp ảo vệ các nước thu nhập thấp khỏi tình trạng cho vay quá mức. Các khoản viện trợ trong tương lai sẽ kết hợp hài hòa với các nguồn tài trợ phát triển và gắn kết ch t chẽ với giữa giảm nghèo và phát triển ền vững để hỗ trợ thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển ền vững dự kiến được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua vào tháng 9 năm nay.

Ngoài ra, sự xuất hiện các định chế tài ch nh quốc tế mới với quy mô vốn lớn như Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB) và Ngân hàng các nền kinh tế mới nổi (BRICS Bank),... cũng sẽ làm thay đổi ức tranh tài ch nh phát triển trong thời gian tới trên thế giới và khu vực.

II. TƯƠNG LAI CỦA QUAN HỆ HỢP TÁC PHÁT TRIỂN

1. Những thay đổi trong quan hệ hợp tác phát triển phù hợp với bối cảnh

mới của Việt Nam

Quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ hiện đang có những điều chỉnh nhất định về ch nh sách để phù hợp với ối cảnh mới của Việt Nam khi trở thành quốc gia có mức thu nhập trung ình thấp (LMIC): (i) Thay đổi về ch nh sách viện trợ; (ii) Thay đổi về cơ cấu nguồn vốn viện trợ; và (iii) Thay đổi về phương thức hợp tác phát triển, cụ thể:

1.1. Về chính sách viện trợ

Theo tập quán viện trợ phát triển quốc tế, viện trợ với những điều kiện ưu đ i dành cho các nước nghèo, chậm phát triển thu nhập thấp. T nh chất ưu đ i của ODA thể hiện ở viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đ i. Trong quá khứ, là nước thu nhập thấp, Việt Nam đ được hưởng những ưu đ i của ODA trong thời kỳ 1993- 2010. Do vậy, sự thay đổi đầu tiên của ch nh sách viện trợ của các nhà tài trợ đối với Việt Nam dễ nhận thấy là quy mô vốn ODA ưu đ i, ao gồm viện trợ không hoàn lại và vay ưu đ i giảm dần và trên thực tế, sau khi đạt đỉnh vào năm 2009, cam kết vốn ODA cho Việt Nam ắt đầu xu thế giảm dần.

6

1.2. Về cơ cấu nguồn viện trợ

Một số nhà tài trợ điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn ODA cung cấp cho Việt Nam theo hướng giảm nguồn vốn viện trợ không hoàn lại và các khoản vốn vay ưu đ i, mở các kênh tín dụng mới có các điều kiện cho vay kém ưu đ i hơn với l i suất sát với l i suất thị trường vốn, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ ngắn hơn. Thuật ngữ “vốn vay kém ưu đ i” của nhà tài trợ tương ứng với thuật ngữ “vốn vay ưu đ i” sử dụng trong Luật quản lý nợ công của Việt Nam. ADB và WB là những nhà tài trợ đi tiên phong trong việc mở các kênh vốn vay kém ưu đ i. Đối với ADB là nguồn vốn vay thông thường (OCR) và WB là nguồn vốn vay kém ưu đ i của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển (IBRD) nằm trong Nhóm Ngân hàng Thế giới. Một số nhà tài trợ cũng cung cấp các nguồn vốn vay kém ưu đ i như vốn vay phát triển của CHLB Đức, vốn F3 của Pháp, vốn tài trợ phát triển khác (OOF) của Nhật Bản...

1.3. Về phương thức hợp tác phát triển

Một số nhà tài trợ chuyển đổi hình thức quan hệ hợp tác phát triển ch nh thức với Ch nh phủ Việt Nam sang hỗ trợ trực tiếp để phát triển quan hệ hợp tác giữa các đối tác của hai ên như quan hệ trực tiếp giữa các trường đại học, các viện ho c trung tâm nghiên cứu, các tổ chức x hội,... Một số nhà tài trợ có thể chấm dứt chương trình cung cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam.

Sự thay đổi tiếp theo ở cách tiếp cận và mô hình tài trợ phát triển, với việc tăng cường áp dụng tiếp cận chương trình, ngành (PBA), hỗ trợ ngân sách chung (GBS) và hỗ trợ ngân sách có mục tiêu (TBS); khuyến kh ch sự tham gia vào quá trình phát triển của các tổ chức phi ch nh phủ; hỗ trợ khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển các lĩnh vực công, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và x hội; phân công lao động và ổ trợ lẫn nhau trên cơ sở lợi thế so sánh giữa các nhà tài trợ.

2. Những thách thức trong việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn

ODA và vốn vay ưu đãi1 trong thời gian tới

Những thay đổi trong quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ trình ày ở trên đ t ra những thách thức trong việc thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i trong thời gian tới, đó là:

Xu thế nguồn vốn ODA giảm dần và vốn vay ưu đ i tăng lên là nét đ c trưng của sự thay đổi trong ch nh sách viện trợ. Tuy nhiên, sự gia tăng quy mô vốn vay kém ưu đ i tùy thuộc vào năng lực hấp thụ nguồn vốn này của các đối tác Việt Nam. 1 Thuật ngữ “Vay ưu đ i” theo Luật quản lý nợ công là các khoản vay có điều kiện ưu đ i hơn so với vay thương mại, nhưng yếu tố không hoàn lại chưa đạt tiêu chuẩn của vốn vay ODA, tương đương với thuật ngữ “Vốn vay kém ưu đ i” mà nhà tài trợ thường sử dụng.

7

Đây là một thách thức đòi hỏi các cơ quan thụ hưởng Việt Nam phải tăng cường năng lực và cải tiến mạnh mẽ tình hình thực hiện dự án để thúc đẩy giải ngân.

ODA viện trợ không hoàn lại giảm dần là một thách thức đối với các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều nguồn vốn này như y tế, giáo dục và đào tạo. Để ù đắp cho sự sụt giảm viện trợ không hoàn lại cần thiết phải có ch nh sách đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư theo hướng x hội hóa, nhất là có ch nh sách thỏa đáng thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân trong và ngoài nước, huy động sự tham gia và đóng góp của các tổ chức x hội nhân dân và các tổ chức phi Ch nh phủ trong và ngoài nước cho sự phát triển y tế, giáo dục và đào tạo.

Căn cứ theo các điều kiện của vốn vay kém ưu đ i có thể thấy đây là nguồn vốn đắt và khó sử dụng so với vốn vay ưu đ i. Việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay kém ưu đ i đòi hỏi người thụ hưởng phải thông minh và năng động. Nếu vốn vay ưu đ i chỉ sử dụng một đồng tiền như đồng tiền quy ước (SDR) đối với ADB và WB ho c ản tệ hay USD của các nhà tài trợ khác thì đối với vốn vay kém ưu đ i, như trong trường hợp của Ngân hàng Thế giới, người vay phải thông minh để lựa chọn đồng tiền vay trong một rổ tiền tệ gồm USD, đồng Yên (Nhật Bản) hay đồng Euro sao cho rủi ro tỷ giá khi vay trả là thấp nhất. L i suất Li or cộng ph của vốn vay kém ưu đ i cao hơn nhiều, sát với giá thị trường vốn so với vốn vay ưu đ i đòi hỏi người vay phải năng động t nh toán để có lợi nhất khi sử dụng khoản vay này. Thời gian trả nợ của khoản vay kém ưu đ i ngắn hơn đòi hỏi người vay phải thông minh để sử dụng khoản này cho những dự án có thể trả nợ được vốn vay.

Mở rộng quan hệ đối tác trực tiếp giữa các chủ thể của hai ên trong quan hệ hợp tác phát triển mới, Ch nh phủ sẽ tạo môi trường thông thoáng cho sự phát triển quan hệ này, đồng thời đòi hỏi các đối tác Việt Nam cần chủ động, sáng tạo trong hợp tác với các đối tác của các nhà tài trợ.

Trong quan hệ hợp tác phát triển mới, các mô hình viện trợ mới sẽ được áp dụng nhiều hơn, sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức phi Ch nh phủ được khuyến kh ch, phân công lao động giữa các nhà tài trợ trở nên cấp ách hơn, do vậy Ch nh phủ cần có những ch nh sách và thể chế th ch hợp để tạo môi trường cho các mô hình, phương pháp tiếp cận và sự tham gia rộng r i của các đối tác đi vào cuộc sống thực tế.

3. Tầm nhìn đến năm 2020 và những năm tiếp theo

Tuy đạt được mức phát triển tương ứng với một nước thu nhập trung ình thấp, song Việt Nam còn thua kém về nhiều m t so với trình độ phát triển của một số nước thu nhập trung ình trong khu vực và trên thế giới. Kinh nghiệm từ nhiều nước thu nhập trung ình cho thấy, các nước này tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác phát triển

8

với các nhà tài trợ để huy động nguồn lực phục vụ sự nghiệp phát triển. Theo Chiến lược phát triển kinh tế - x hội 10 năm 2011-2020, GDP ình quân đầu người của Việt Nam vào năm 2020 dự kiến đạt 3.000 USD/người và như vậy Việt Nam chưa thể ra khỏi Nhóm nước thu nhập trung ình thấp.

Để phát triển ền vững trong môi trường trong nước và quốc tế đang thay đổi với nhiều khó khăn và thách thức đan xen, Việt Nam có nhu cầu huy động các nguồn lực phát triển trong và ngoài nước với nhận thức rằng nguồn nội lực có vai trò quyết định. Trong số nguồn vốn ên ngoài, ên cạnh việc thu hút nguồn lực từ khu vực tư nhân (FDI), hợp tác phát triển với các nhà tài trợ tiếp tục có vai trò quan trọng để hỗ trợ công cuộc phát triển của Việt Nam.

Trong tầm nhìn đến năm 2020 và những năm tiếp theo, nhằm mục tiêu nâng cao trình độ phát triển, vượt qua ẫy thu nhập trung ình, Việt Nam chủ trương dựa vào nội lực là ch nh, đồng thời thực hiện ch nh sách hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện để tranh thủ các nguồn lực từ ên ngoài, trong đó có nguồn lực từ quan hệ hợp tác phát triển với mong muốn ưu tiên sử dụng nguồn lực này để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và x hội quy mô lớn; hoàn thiện ch nh sách và thể chế của nền kinh tế thị trường; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; ứng phó với iến đổi kh hậu và tăng trưởng xanh.

20 năm quan hệ hợp tác phát triển hiệu quả dựa trên sự tin cậy lẫn nhau và hợp tác hữu nghị là một nguồn vốn quý của Việt Nam và các nhà tài trợ, đồng thời là hành trang quan trọng để cùng tiến ước vào giai đoạn hợp tác phát triển mới trong những năm sắp tới. Việt Nam mong muốn tiếp tục xây dựng mối quan hệ hợp tác với các nhà tài trợ theo các hướng chủ yếu sau đây:

Với ề dày kinh nghiệm phát triển quan hệ hợp tác phát triển trong quá khứ, Việt Nam sẽ chủ động hợp tác với các nhà tài trợ xây dựng VPDF trở thành một Diễn dàn thật sự hữu ch cho việc đối thoại và chia sẻ thông tin để củng cố và tăng cường sự tin cậy lẫn nhau giữa Ch nh phủ và các nhà tài trợ và tất cả các đối tác trong và ngoài nước tham gia vào quá trình phát triển của Việt Nam.

Việt Nam mong muốn thông qua mối quan hệ hợp tác phát triển với các nhà tài trợ để tăng cường mạnh mẽ sự hợp tác trực tiếp giữa các đối tác của Việt Nam, ao gồm các cơ quan của Quốc hội, Ch nh phủ, các địa phương, các tổ chức x hội, khu vực tư nhân, các viện và trung tâm nghiên cứu khoa học, các cá nhân với các đối tác tương ứng của các nhà tài trợ để đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam.

Hợp tác ch t chẽ với các nhà tài trợ, Việt Nam sử dụng một cách hợp lý các cách tiếp cận và mô hình viện trợ mới, nhất là hỗ trợ ngân sách trong tiếp nhận tài trợ để nâng cao hiệu quả sử dụng, giảm ớt các thủ tục và góp phần cải thiện các hệ

9

thống quản lý công của Việt Nam theo chuẩn mức và tập quán quốc tế.

Việt Nam sẽ sử dụng tập trung hơn nguồn vốn hỗ trợ phát triển, đ c iệt là vốn vay kém ưu đ i để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và x hội quy mô lớn, có giá trị và tạo ra tác động lan tỏa đối với sự phát triển chung của cả nước, cũng như của các Bộ, ngành và địa phương. Đồng thời, đối với các loại viện trợ quy mô nhỏ, Việt Nam mong muốn các nhà tài trợ làm việc cùng nhau trên tinh thần phân công lao động và ổ trợ cho nhau để hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình và dự án trên các lĩnh vực như xây dựng ch nh sách và phát triển thể chế, tăng cường năng lực con người, sức khỏe sinh sản, ình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, HIV/AIDS và ệnh truyền nhiễm, ứng phó với iến đổi kh hậu và tăng trưởng xanh.

III. ĐỊNH HƯỚNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA VÀ

VỐN VAY ƯU ĐÃI TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Định hướng sử dụng theo nguồn vốn

Trong việc huy nguồn vốn vay ODA và vốn vay ưu đ i, cần có cách tiếp cận linh hoạt theo hướng sử dụng tối đa các khoản vay ODA với các điều kiện ưu đ i, đ c iệt trong giai đoạn 2011-2015, kết hợp giữa viện trợ không hoàn lại, vay ODA và vay ưu đ i để “làm mềm” khoản vay.

Định hướng về sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i trong thời gian tới dự kiến

như sau:

1.1. Đối với vốn ODA không hoàn lại

ODA viện trợ không hoàn lại được sử dụng để thực hiện chương trình, dự án hỗ trợ ch nh sách, phát triển thể chế, tăng cường năng lực con người; hỗ trợ trực tiếp cải thiện đời sống kinh tế, x hội, môi trường cho người dân, nhất là người nghèo ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng ào dân tộc; nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo; chuẩn ị chương trình, dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i và các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

1.2. Đối với vốn vay ODA

Vốn vay ODA được sử dụng để chuẩn ị và thực hiện các chương trình, dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp; những chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước có thể tạo ra nguồn thu để phục vụ lợi ch kinh tế - x hội quốc gia.

1.3. Đối với vốn vay ưu đãi

Vốn vay ưu đ i được sử dụng để đầu tư cho các chương trình, dự án trọng điểm

10

quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ chắc chắn như xây dựng các nhà máy điện, các tuyến đường cao tốc thu ph , tàu điện ngầm, đường sắt trên cao ở các thành phố lớn, hệ thống thông tin liên lạc viễn thông, các công trình sản xuất có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao,…

2. Định hướng thu hút và sử dụng theo nhà tài trợ

Căn cứ tình hình thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua, định hướng thu hút và sử dụng ODA và vốn vay ưu đ i trong thời kỳ 2011-2020 cần tập trung vào những nhà tài trợ cung cấp nhiều vốn ODA và vốn vay ưu đ i, đ c iệt Nhóm 6 Ngân hàng phát triển để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế hiện đại, cơ sở hạ tầng tiên tiến, tạo ra những "cú huých" và "tác động lan tỏa" thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư, các vùng và khu vực phát triển trọng điểm đồng thời tận dụng hỗ trợ kỹ thuật và viện trợ không hoàn lại của một số nhà tài trợ khác (một số nhà tài trợ Bắc Âu, Ôxtrâylia, Ca- na-đa,...) để hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực, chia sẻ kiến thức, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ, hỗ trợ phát triển các địa phương trên các lĩnh vực y tế, giáo dục, môi trường, xóa đói giảm nghèo,...

3. Định hướng về các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi

3.1. Nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong thời gian tới được ưu tiên sử

dụng trên cơ sở các nguyên tắc sau:

- Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và các kế hoạch phát triển kinh tế - x hội 5 năm (2011-2015 và 2016-2020), trong đó tập trung ưu tiên thực hiện 3 đột phá lớn; hỗ trợ thực hiện Đề án xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng ộ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2011-2020.

- u tiên sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư công quan trọng khó có khả năng thu hút đầu tư của khu vực tư nhân ho c sử dụng các nguồn vốn vay thương mại.

- Sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i như nguồn vốn ổ trợ nhằm khuyến kh ch khu vực tư nhân đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thông qua nhiều mô hình và phương thức khác nhau trong đó có hợp tác công - tư (PPP).

- Một phần vốn ODA và vốn vay ưu đ i có thể được sử dụng để đầu tư phát triển sản xuất nhằm thúc đẩy thương mại, góp phần tạo công ăn việc làm và tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng, các địa phương.

3.2. Trên cơ sở các nguyên tắc trên, định hướng về các lĩnh vực ưu tiên thu

hút và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi như sau:

a) Hỗ trợ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng ộ, quy mô lớn và hiện đại:

11

- Phát triển các tuyến đường cao tốc, ưu tiên phát triển hệ thống đường ộ ở những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các địa àn thuộc các cực tăng trưởng, kết nối với các địa phương, vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo ra tác động lan tỏa mạnh, thúc đẩy tăng trưởng của cả nước.

- Xây dựng mới, hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ tổng hợp của

một số cảng iển nước sâu của quốc gia; hình thành các trung tâm kinh tế iển lớn.

- Xây dựng một số sân ay quốc tế.

- Nâng cấp và xây mới một số tuyến đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị, kể

cả metro ở một số thành phố lớn.

- Nâng cấp, phát triển đồng ộ và hiện đại hóa hệ thống hạ tầng ở các đô thị,

nhất là các thành phố lớn.

- Phát triển nhanh hệ thống nguồn điện, lưới điện truyền tải và phân phối đi đôi với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, ảo đảm đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển của đất nước và đời sống nhân dân; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo (điện gió, điện m t trời,...); hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

- Phát triển đồng ộ và từng ước hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, các công trình phòng chống thiên tai và hiện đại hóa hệ thống thông tin, để đáp ứng yêu cầu phát triển và giảm nhẹ thiên tai.

Song song với phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, Ch nh phủ coi trọng phát triển ch nh sách và thể chế quản lý ngành cơ sở hạ tầng để ngành này phát triển ền vững trong nền kinh tế thị trường nhằm cung cấp cho x hội các dịch vụ công có chất lượng với giá cả cạnh tranh.

) Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng x hội:

- Hỗ trợ đổi mới căn ản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, x hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán ộ quản lý là khâu then chốt.

- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho công tác dạy và học, đào tạo giáo viên,

quan tâm hỗ trợ giáo dục và đào tạo cho các tỉnh nghèo và vùng đồng ào dân tộc.

- Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác khám và chữa ệnh, nhất là

ở tuyến cơ sở.

- Xây dựng và trang ị kỹ thuật y tế cho một số ệnh viện công ở Trung ương

và tuyến tỉnh, khu vực và một số trung tâm y tế công nghệ cao.

- Hỗ trợ thực hiện các chương trình quốc gia trong lĩnh vực y tế.

12

- Hỗ trợ thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo nhanh và ền vững cho

64 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao.

- Hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia: Giảm nghèo ền vững; văn hóa; đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng xa, iên giới và hải đảo; giáo dục và đào tạo; việc làm và dạy nghề; y tế; dân số kế hoạch hóa gia đình; phòng chống HIV/AIDS; vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng chống ma túy; phòng chống tội phạm.

- Hỗ trợ thực hiện các chương trình an sinh x hội, chương trình hành động

quốc gia khắc phục hậu quả om mìn sau chiến tranh,...

c) Phát triển nguồn nhân lực, đ c iệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát

triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức:

- Hỗ trợ phát triển đội ngũ cán ộ l nh đạo quản lý, đội ngũ chuyên gia và quản

trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán ộ khoa học, công nghệ đầu đàn.

- Hỗ trợ thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn; chuyển giao công nghệ và chia sẻ kiến thức; phát triển lĩnh vực khoa học công nghệ cao, hướng tới mục tiêu tăng trưởng ền vững, phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam.

d) Phát triển nông nghiệp và nông thôn:

Hỗ trợ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới với những hoạt động như quy hoạch xây dựng nông thôn mới; phát triển hạ tầng kinh tế - x hội (giao thông nông thôn, lưới điện nông thôn, phát triển y tế, giáo dục, xây dựng thủy lợi,...); chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế (nâng cao thu nhập thông qua phát triển sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao; tăng cường công tác khuyến nông; đẩy nhanh nghiên cứu ứng dụng tiến ộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; ảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành nghề theo thế mạnh của địa phương; đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn). Ngoài ra, vốn ODA và vốn vay ưu đ i cũng ưu tiên để hỗ trợ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

đ) Hỗ trợ xây dựng hệ thống luật pháp và thể chế đồng ộ của nền kinh tế thị

trường định hướng x hội chủ nghĩa:

- Hỗ trợ hoàn thiện hệ thống luật pháp và các cơ chế ch nh sách để các thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài ch nh, ngân hàng, chứng khoán, ất động sản, lao động, khoa học công nghệ được tạo lập đồng ộ và vận hành thông suốt. Tạo lập môi trường

13

kinh doanh ình đẳng giữa các thành phần kinh tế;

- Hỗ trợ cải cách nền hành ch nh quốc gia trên tất cả các nội dung: Thể chế, tổ

chức ộ máy và thủ tục hành ch nh.

e) Hỗ trợ ảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với

iến đổi kh hậu và tăng trưởng xanh:

Vốn ODA và vốn vay ưu đ i ưu tiên sử dụng để hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án ảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên; ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường và xây dựng mô hình tăng trưởng xanh và hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với iến đổi kh hậu; khắc phục và cải thiện ô nhiễm môi trường.

g) Hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, thương mại và một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh:

Vốn ODA và vốn vay ưu đ i có thể được sử dụng để hỗ trợ cho việc thúc đẩy các hoạt động đầu tư, thương mại thông qua việc chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và quản lý hiện đại, tăng cường năng lực cạnh tranh của một số loại sản phẩm và hàng hóa trên một số lĩnh vực mà Việt Nam có tiềm năng và lợi thế (chế iến nông, lâm, hải sản và các sản phẩm của công nghiệp phụ trợ và sản phẩm nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu,...), tạo cơ sở cho sự tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu và thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Thông qua hỗ trợ thúc đẩy thương mại, đầu tư các nguồn vốn này sẽ hỗ trợ tạo việc làm và tăng thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo một cách ền vững.

h) Hỗ trợ theo địa àn l nh thổ:

Vốn ODA và vốn vay ưu đ i được sử dụng để hỗ trợ việc hiện thực hóa các định hướng phát triển các vùng l nh thổ trong đó tập trung ưu tiên cho các tỉnh nghèo, nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng ào dân tộc. Các dự án, chương trình tập trung vào việc hỗ trợ cải thiện đời sống và sinh kế của người dân địa phương, hỗ trợ giải quyết các vấn đề ức xúc trong quá trình đô thị hóa nhanh ở các tỉnh (cấp thoát nước, xử lý rác thải, phát triển giao thông nội đô, giải quyết nhà ở cho người nghèo...).

14

ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT VỐN ODA TẠI VIỆT NAM:

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

Ông Nguyễn Duy Sơn Quyền giám đốc danh mục quốc gia, World Bank

15

16

17

18

19

20

21

BIDV VỚI VAI TR LÀ NG N HÀNG PHỤC VỤ CÁC DỰ ÁN ODA TRONG 20 NĂM (1995-2015)

Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam

Ngày 08/11/1993, Hội nghị àn tròn về nối lại viện trợ phát triển ch nh thức (ODA) dành cho Việt Nam đ được tổ chức tại Paris, nước Cộng hòa Pháp đánh dấu sự mở đầu mối quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam trên đường đổi mới và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Gần 80 tỷ USD mà các nhà tài trợ đ cam kết dành cho Việt Nam trong 20 năm qua không chỉ mang đến cho Việt Nam nguồn vốn bổ sung quan trọng phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp – nông thôn, xây dựng hạ tầng, đào tạo phát triển nguồn nhân lực…quan trọng hơn sự cam kết này cũng đồng thời khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng đắn của Đảng và Chính phủ Việt Nam, sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng vốn ODA của Việt Nam. Cũng từ thời điểm này, được sự quan tâm, ủng hộ của các cơ quan quản lý nhà nước về nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) – Văn phòng Ch nh phủ, Bộ Tài ch nh, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành liên quan, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đ được tin tưởng giao đồng hành cùng các Bộ ngành triển khai các chương trình/dự án, là ngân hàng đầu tiên trong hệ thống ngân hàng thực hiện nghiệp vụ quản lý các nguồn vốn ODA. Với ưu thế về quy mô, năng lực tài ch nh lành mạnh và ộ máy nhân sự hoạt động chuyên nghiệp, dày d n kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng đầu tư, hệ thống chi nhánh rộng khắp cả nước, BIDV đ trở thành cầu nối cho đồng vốn vay của Ch nh phủ, đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai các chương trình/dự án nguồn vốn ODA thành công và hiệu quả.

Nhìn lại ch ng đường 20 năm qua, từ thực tiễn quản lý và thực hiện các chương trình/dự án nguồn ODA, BIDV đ đạt được những thành tựu nổi bật như sau:

Một là, quản lý hiệu quả các chư ng trình dự án nguồn vốn ODA của

Chính phủ

Hơn 200 chương trình/ dự án với tổng trị giá khoảng 15 tỷ đô la Mỹ tương đương 315.000 tỷ đồng, BIDV là một trong những ngân hàng thương mại nhà nước hàng đầu được giao phục vụ nhiều dự án lớn từ các nguồn vốn ủy thác nước ngoài của Chính phủ Nhật, Pháp, Đức, Thụy Sĩ…và các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB, NIB, EIB…Các dự án đ được BIDV phục vụ, thúc đẩy giải ngân nhanh chóng, hiệu quả và an toàn. Công tác quản lý các chương trình/dự án nguồn vốn ODA luôn được thực hiện theo đúng quy định của Nhà tài trợ, Ch nh phủ và Việt Nam. Hoạt động phục vụ giải ngân, cho vay uỷ thác được tăng cường nhưng luôn chú

22

trọng nâng cao về yêu cầu quản trị rủi ro, quản lý hệ thống đảm ảo 100% các khoản giải ngân qua ngân hàng được nhanh chóng và an toàn, tất cả các dự án được thu trả nợ đầy đủ, đúng hạn cho Ngân sách nhà nước.

Điều đ c iệt, các chương trình/dự án này đầu tư chủ yếu cho các lĩnh vực thiết yếu quốc gia, cho các địa phương trải dài trên phạm vi cả nước như các dự án về cải tạo lưới điện, truyền tải điện, giáo dục, cấp nước vệ sinh môi trường các tỉnh thành phố từ miền núi phía Bắc, miền Trung đến Đồng bằng sông Cửu Long. Vì vậy, với việc quản lý, triển khai phục vụ các chương trình/dự án nguồn ODA, BIDV đ đóng góp t ch cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống x hội, phát triển các ngành trọng yếu của nền kinh tế như điện, cấp, thoát nước, giao thông vận tải, ưu ch nh viễn nông, nông nghiệp và phát triển nông thôn...

Một số dự án điển hình BIDV phục vụ, cho vay lại và quản lý hiệu quả được Bộ Tài ch nh, Ngân hàng nhà nước và các Ban quản lý dự án đánh giá cao như: Dự án Đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai trị giá 1 tỷ USD vay nguồn ADB; Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Mông Dương vốn ADB; Kết nối khu vực đồng bằng sông Mêkông trị giá 410 triệu USD và 128 triệu AUD; Nâng cấp đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long trị giá 398 triệu USD nguồn WB; Dự án truyền tải, phân phối điện và khắc phục thiên tai 2 vay từ WB trị giá 200 triệu USD, Các dự án hỗ trợ nguồn nhân lực của Nhật Bản, các dự án y tế nông thông của ADB....

Hai là, thực hiện thành c ng vai tr Ng n hàng Bán bu n các Dự án Tài

ch nh n ng th n (TCNT I, II, III

Từ năm 2002, ên cạnh các chương trình/dự án nguồn vốn ODA được ủy thác phục vụ quản lý, BIDV được Chính phủ tin tưởng giao thực hiện chức năng Chủ Dự án (Ngân hàng đầu mối bán buôn) cho chuỗi 3 Dự án TCNT vay vốn Ngân hàng thế giới tương đương 548 triệu USD. Các Dự án TCNT có các mục tiêu phát triển cơ ản gồm: (i) khuyến kh ch đầu tư của khu vực tư nhân cho phát triển khu vực nông nghiệp nông thôn và tạo thêm việc làm; (ii) tăng cường năng lực của hệ thống ngân hàng nhằm phục vụ tốt hơn cho khu vực kinh tế nông thôn; và (iii) cải thiện sự tiếp cận của người nghèo nông thôn tới các dịch vụ tài chính. Qua quá trình BIDV thực hiện, các dự án TCNT đ kết thúc thành công giai đoạn rút vốn giải ngân và hoàn thành xuất sắc các mục tiêu phát triển đ thống nhất giữa Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng thế giới khi xây dựng Dự án. Qua quá trình BIDV thực hiện, các dự án TCNT đ mang lại những tác động t ch cực cho phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn như:

- Các Dự án TCNT đ giải ngân hết 100% số vốn tín dụng, bổ sung lượng vốn cho đầu tư phát triển khu vực nông thôn trên 44 nghìn tỷ đồng (2,1 tỷ USD), tài trợ

23

cho trên 1,7 triệu phương án sản xuất kinh doanh của hộ gia đình và các doanh nghiệp, trong đó có trên 600 nghìn hộ nghèo, tạo ra trên 410 nghìn việc làm mới ở khu vực nông thôn trên toàn quốc.

- 49% nguồn vốn các Dự án tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long và Vùng núi Trung du phía Bắc – những khu vực là trọng điểm phát triển nông nghiệp và giảm nghèo của Quốc gia.

- 41% số người vay vốn dự án là nữ giới.

- Tài trợ cho trên 1.600 khóa đào tạo và 17 gói tư vấn quốc tế, giúp các tổ chức tín dụng tham gia Dự án phát triển nguồn nhân lực, tiếp nhận những kinh nghiệm và thông lệ tốt nhất về mô hình tổ chức, quản trị kinh doanh và an toàn hệ thống, góp phần thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng của Chính phủ.Theo áo cáo đánh giá của tư vấn độc lập, 73% số khoản vay của Dự án đ tạo thêm việc làm cho gia đình và x hội, 94% xác nhận tăng thu nhập của gia đình và doanh nghiệp, 75% người vay đ tăng đáng kể nhận thức về bảo vệ môi trường, và 92% đánh giá hài lòng và rất hài lòng khi tiếp cận nguồn vốn Dự án.

Ba là, g p phần n ng cao hình ảnh và uy t n của Việt Nam trong quan hệ

với cộng đồng nhà tài trợ quốc tế

Các kết quả đ đạt được của BIDV trong quản lý và thực hiện các chương trình/dự án nguồn vốn ODA đ góp phần nâng cao hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế. Qua đó, tạo được sự tin tưởng của các Nhà tài trợ trong quá trình hỗ trợ Việt Nam nguồn vốn phát triển. Điển hình, Ngân hàng Thế giới đ đánh giá Việt Nam là nước triển khai thành công nhất mô hình dự án Tài ch nh nông thôn trên thế giới, cả về m t mô hình thực hiện, công tác quản lý, tổ chức triển khai cũng như về hiệu quả đầu tư và tác động kinh tế - xã hội đối với khu vực nông thôn.

Thưa Quý vị đại biểu!

Từ kết quả trong 20 năm quản lý các chương trình/dự án nguồn vốn ODA nêu trên, BIDV đ rút ra một số ài học kinh nghiệm thực tiễn quý áu để chia sẻ với các ngân hàng và các đơn vị được giao phục vụ, giải ngân cho vay lại các nguồn vốn ODA góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này tại Việt Nam như sau:

- Trước hết, BIDV không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao năng lực tài ch nh để đáp ứng yêu cầu của Nhà tài trợ và các Bộ ngành trong việc lựa chọn ngân hàng phục vụ quản lý các nguồn vốn ODA.

- Thứ hai, Tuân thủ ch t chẽ các quy định của Nhà tài trợ và minh ạch trong quản lý góp phần xây dựng và duy trì được mối quan hệ đối tác và hợp tác ch t chẽ với các Nhà tài trợ, giữ vững uy t n và tạo niềm tin với đối tác trong và ngoài nước.

24

- Thứ a, Bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (Cơ quan Chủ quản) và sự hỗ trợ các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan và các địa phương trong quá trình thực hiện, giải ngân nguồn vốn cho các chương trình/dự án.

- Thứ tư, Phát huy kinh nghiệm ngân hàng phục vụ, t ch cực tham gia vào quá trình xây dựng và vận động Nhà tài trợ tài trợ Dự án, kiên định theo đuổi các mục tiêu đ cam kết với Ch nh phủ và các Nhà tài trợ khi thực hiện vai trò ngân hàng đầu mối quản lý, giải ngân nguồn vốn ODA.

- Thứ năm, Nâng cao hiệu quả mạng lưới, phát triển mạng lưới và xây dựng nguồn nhân lực chất lượng ổn định để gia tăng quy mô và triển khai hiệu quả các chương trình, dự án nguồn vốn ODA.

- Thứ sáu, Chuẩn hóa mô hình quản lý vốn ODA đảm ảo giải ngân nhanh chóng, phát huy hiệu quả của các chương trình/dự án, tăng cường công tác giám sát và quản lý an toàn, đ c iệt đối với các dự án vay lại của Ch nh phủ đ thu hồi được đầy đủ vốn vay để trả nợ nước ngoài, không làm tăng áp lực nợ công của Ch nh phủ.

K nh thưa các quý vị đại biểu và các vị hách quý

Đứng trước cơ hội và thách thức trong thời kỳ mới, nhu cầu vốn ODA phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước vẫn còn cao khoảng vài tỷ USD/năm, từ kinh nghiệm quản lý các chương trình/dự án nguồn vốn ODA, để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian tới, BIDV xin có một số đề xuất kiến nghị về cơ chế ch nh sách quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA như sau:

(i) Về định hướng huy động và sử dụng nguồn vốn ODA: Tập trung thu hút và sử dụng vốn ODA cho các Dự án phát triển kinh tế xã hội có khả năng tự hoàn vốn nhanh, phù hợp với nhu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030. Đ c biệt là các chương trình, dự án phát triển kinh tế vùng, liên kết vùng, phát triển doanh nghiệp trong nước ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư công quan trọng khó có khả năng thu hút đầu tư của khu vực tư nhân ho c sử dụng các nguồn vốn vay thương mại.

(ii) Về hoàn thiện c chế chính sách: Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về ODA của Việt Nam theo hướng hài hòa với qui trình và thủ tục của Nhà tài trợ. Trước hết cần điều chỉnh lại nội dung liên quan đến cách tính lãi suất cho các tổ chức tín dụng vay lại vốn ODA tại Nghị định 78/2010/NĐ-CP ngày 14/7/2010 của Chính phủ về Cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài. Hiện tại lãi suất cho các tổ chức tín dụng vay lại theo qui định của Nghị định 78 (khoảng 8,2%/năm) là tương đối cao, cần được xem xét, điều chỉnh một cách hợp lý.

25

(iii) Về vốn đối ứng cho các chư ng trình dự án: Vốn đối ứng cho các chương trình/dự án hiện đang là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ thực hiện ở nhiều dự án, do đó, BIDV đề xuất xem xét đổi mới phương thức bổ sung nguồn vốn đối ứng thông qua các hình thức:

- Thu hút các nguồn lực của xã hội để bổ sung nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA thông qua việc cho phép các thành phần kinh tế (Nhà nước và tư nhân) tham gia đầu tư cho các dự án dưới hình thức BOT, BT, PPP, qua đó giảm gánh n ng cho Ngân sách Nhà nước. Các nhà đầu tư có thể được làm chủ dự án ho c tham gia quản lý các dự án và được chia sẻ lợi ích từ các dự án tương ứng với phần vốn đóng góp.

- Mở rộng áp dụng hình thức cho các ngân hàng thương mại vay lại nguồn vốn các dự án ODA có cấu phần tín dụng, có thể dưới hình thức là ngân hàng bán buôn (như trong Dự án TCNT) ho c là ngân hàng bán lẻ nguồn vốn Dự án (trong dự án Năng lượng tái tạo, Dự án Cho vay Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ,…), theo đó các ngân hàng tham gia sẽ tự thu xếp phần vốn đối ứng cho dự án.

(iv) Về mô hình thực hiện Dự án ODA: Mở rộng áp dụng hình thức cho vay lại nguồn vốn ODA theo mô hình cho các tổ chức tín dụng vay lại và chịu rủi ro tín dụng (như trong các Dự án TCNT, Dự án Năng lượng tái tạo, Dự án Cho vay Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ,…), để giảm áp lực về vốn đối ứng trong nước và áp lực về nợ công của Chính phủ, song vẫn đáp ứng được nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội và thực hiện các định hướng mục tiêu phát triển đề ra.

K nh thưa quý vị!

Mong rằng những chia sẻ và đề xuất trên của BIDV sẽ góp thêm những thông tin tích cực cho việc đổi mới, nâng cao hiệu quả khai thác nguồn vốn ODA tại Việt Nam trong những năm tiếp theo. Nhân dịp này, Ban L nh đạo Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam xin thay m t cho toàn hệ thống, đ c iệt là các thế hệ cán ộ trực tiếp thực hiện nghiệp vụ quản lý nguồn vốn ODA, xin ày tỏ lòng iết ơn chân thành của mình tới Văn phòng Ch nh phủ, Bộ Tài ch nh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, các Bộ ngành liên quan và các nhà tài trợ đ hết lòng ủng hộ ngân hàng BIDV trong thời gian qua và mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm và hỗ trợ quý áu trong thời gian tới. BIDV quyết tâm đổi mới sáng tạo, đem hết sức mình cùng với các cấp Bộ ngành, cơ quan liên quan thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế x hội thông qua các chương trình/dự án nguồn vốn ODA, góp phần tích cực khơi thông nguồn vốn này phục vụ sự phát triển của đất nước.

Xin kính Quý vị khách quý sức khỏe, hạnh phúc và thành công.

26

PHỐI HỢP GIỮA CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG TRONG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN (ODA) VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI NƯỚC NGOÀI

UBND thành phố Đà Nẵng

Trong thời kỳ đầu của sự nghiệp Đổi mới và phát triển đất nước, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) như những “viên gạch” đầu tiên giúp Việt Nam xây dựng nền tảng để thu hút các nguồn lực khác. Hơn 20 năm qua, nguồn vốn ODA đ trở thành nguồn lực quan trọng để đầu tư cho các lĩnh vực tiền đề của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đ c biệt hỗ trợ cải thiện hệ thống hạ tầng kinh tế- xã hội, phát triển nông nghiệp, nông thôn, xóa đói giảm nghèo.

Đối với thành phố Đà Nẵng nói riêng, một thành phố được đánh giá là hạt nhân kinh tế của khu vực Miền Trung Tây Nguyên, bên cạnh việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i nước ngoài đ hỗ trợ thắng lợi nhiều nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của thành phố, thông qua việc cung cấp vốn để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, cải thiện các điều kiện xã hội về giáo dục, y tế, môi trường.

1. Tổng quan chung về tình hình đầu tư thu hút ODA của thành phố Đà

Nẵng trong thời gian qua.

Từ năm 1999 đến nay, với ối cảnh nền kinh tế Việt Nam g p nhiều khó khăn do những iến động về giá và ảnh hưởng của những suy thoái kinh tế trên thế giới, thành phố Đà Nẵng vẫn có những thành tựu đáng kể trong công tác vận động, thu hút vốn Hỗ trợ phát triển ch nh thức (ODA) chủ yếu trên các lĩnh vực về xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, y tế, giao thông, cấp thoát nước và cải thiện vệ sinh môi trường.

Thành phố đ tiếp nhận 33 dự án sử dụng nguồn vốn ODA với tổng vốn đầu tư khoảng 764,69 triệu USD, trong đó vốn ODA là 575,5 triệu USD, vốn đối ứng là 189,19 triệu USD. Trong số 33 dự án đ tiếp nhận đến nay, có 07 dự án đang được triển khai thực hiện với tổng vốn đầu tư trên khoảng 386,7 triệu USD và 26 dự án đ hoàn tất với tổng vốn đầu tư là 377,99 triệu USD.

Về các dự án đang triển khai, có một số dự án đầu tư lớn tập trung trong lĩnh vực xây dựng phát triển hạ tầng, cấp nước và y tế như dự án Phát triển ền vững thành phố Đà Nẵng (272,7 triệu USD), dự án Mở rộng hệ thống cấp nước Đà Nẵng giai đoạn 2012-2018 (86,03 triệu USD), dự án Trung tâm Khu vực miền Trung về Y học hạt nhân và Xạ trị (12 triệu USD). Các dự án này khi hoàn tất sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, giao thông đô thị, nâng cấp hệ thống cấp nước của thành phố và

27

cung cấp trang thiết ị y tế kỹ thuật cao, nâng cao công tác tầm soát, chẩn đoán và điều trị ệnh ung thư cho cả khu vực miền Trung và Tây nguyên.

Các dự án ODA tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như: cải tạo hệ thống cấp nước, thoát nước, giao thông của thành phố; xây dựng, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin truyền thông… Trong thời gian qua, các dự án đ góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng, làm thay đổi ộ m t đô thị của thành phố trong thời gian qua. Cụ thể:

- Trong lĩnh vực phát triển đô thị, cơ sở hạ tầng thoát nước, xử lý nước thải: Nguồn vốn ODA đ góp phần cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường tại các khu vực ô nhiễm liên quan đến vấn đề về nước thải, thoát nước mưa như: xây dựng các tuyến cống cấp 1,2 ở các khu vực trong thành phố, xây dựng, nâng cấp các nhà máy xử lý nước thải; nâng cấp cơ sở hạ tầng như đường sá, cầu cống, các công trình giao thông trọng điểm, nổi ật là các công trình như: xây dựng cầu Nguyễn Tri Phương, cầu Khuê Đông, cầu Cổ Cò, đường vành đai ph a Nam; Xây dựng nhà máy xử lý nước thải Hòa Xuân; cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng cho cộng đồng dân cư nghèo với việc nâng cấp hàng loạt các khu thu nhập thấp; cải thiện điều kiện y tế, giáo dục

- Trong lĩnh vực y tế: Các dự án sử dụng nguồn vốn ODA đ kịp thời cung cấp các trang thiết ị y tế mới, hiện đại, thay thế cho các thiết ị đ xuống cấp; xây dựng mới các công trình ệnh viện, trung tâm y tế; cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo và đồng ào dân tộc thiểu số; nâng cao năng lực của đội ngũ y ác sĩ nhờ tập trung phát triển chuyên sâu hiện đại, đ c iệt trong công tác chẩn đoán sàng lọc ệnh ung thư, đáp ứng công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, giảm chi ph đi lại, điều trị tốn kém cho người nghèo ở thành phố Đà Nẵng và các tỉnh lân cận.

- Trong lĩnh vực nông nghiệp: Thành phố Đà Nẵng chủ yếu tham gia vào các dự án ô do các Bộ, ngành làm cơ quan chủ quản. Nguồn vốn hỗ trợ ODA trong nông nghiệp đ giúp tăng cường năng lực của địa phương trong phòng chống và giảm nhẹ thiên tai thông qua việc thực hiện các iện pháp công trình, nâng cấp các hồ chứa nước, sửa chữa đập dâng của thành phố để phòng ngừa, ứng phó và giảm thiểu rủi ro thiên tai đến năm 2020; Hỗ trợ tăng trưởng ền vững ngành sản xuất rau, quả và chè trong khu vực nông nghiệp góp phần tăng thu nhập và việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nâng cấp cơ sở hạ tầng các vùng sản xuất rau an toàn tại các X Hòa Nhơn, Hòa Tiến, Hòa Khương thuộc Huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng.

- Trong công nghệ thông tin và truyền thông: dự án về công nghệ thông tin do Ngân hàng Thế giới tài trợ đ góp phần đáng kể vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, đưa thành phố Đà Nẵng liên tục dẫn đầu cả nước về Chỉ số sẵn sàng ứng dụng Công nghệ thông tin trong giai đoạn 2008-2014.

28

Số lượng lớn các dự án ODA, ao gồm các dự án ô do các Bộ, ngành làm cơ quan chủ quản được xúc tiến và triển khai tại thành phố Đà Nẵng nói trên đ thể hiện sự tin cậy của các Nhà tài trợ đối với thành phố. Đến nay đ có khoảng 17 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp nguồn ODA và vốn vay ưu đ i cho các ngành, lĩnh vực kinh tế, x hội của thành phố, đ c iệt một số Nhà tài trợ lớn đ tài trợ nhiều lần, nhiều dự án cho thành phố như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA)…

2. Quan hệ phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phư ng trong c ng tác vận động xúc tiến và triển hai thực hiện các dự án từ nguồn vốn ODA và vay ưu đãi nước ngoài

Có được những kết quả nêu trên là nhờ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của các Bộ, Ngành Trung ương cho thành phố trong công tác xúc tiến vận động nguồn vốn ODA, đồng thời, thành phố đ kịp thời có những cải tiến t ch cực trong công tác quản lý triển khai thực hiện dự án. Cụ thể:

2.1. Đối với các Bộ, ngành Trung ương và Nhà tài trợ:

Thành phố Đà Nẵng luôn nhận được sự ủng hộ rất lớn từ Ch nh phủ và các cơ quan Trung ương như Văn phòng Ch nh phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài ch nh, Bộ Tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Xây dựng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam... thông qua việc chấp thuận chủ trương cho thành phố Đà Nẵng tiếp nhận một số dự án ODA có quy mô và ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của thành phố Đà Nẵng, như Dự án Đầu tư cơ sở hạ tầng ưu tiên, Dự án Phát triển ền vững, Dự án Mở rộng hệ thống cấp nước Đà Nẵng. Các Bộ, ngành Trung ương cũng đ đề xuất những có chế tài ch nh hỗ trợ cho thành phố, t ch cực tham gia góp ý hoàn chỉnh nội dung dự án, góp ý thiết kế cơ sở dự án, giải quyết các thủ tục của dự án, đôn đốc đẩy nhanh công tác thực hiện giải ngân dự án, tham gia các đợt đánh giá kết quả thực hiện dự án. Đối với các dự án ô do các Bộ, ngành làm cơ quan chủ quản, các Ban Quản lý dự án Trung ương luôn hướng dẫn đơn vị tiếp nhận dự án của thành phố tuân thủ thực hiện đúng quy trình và quy định trong thực hiện các hoạt động của dự án.

Bên cạnh đó, thành phố cũng đ nhận được sự quan tâm, hỗ trợ rất lớn của các nhà tài trợ, đ c biệt là Ngân hàng Thế giới. Giám đốc NHTG tại Việt Nam và các l nh đạo khác cũng đ có nhiều chuyến công tác làm việc với L nh đạo thành phố Đà Nẵng liên quan đến định hướng và chiến lược phát triển đô thị bền vững, trong đó tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc của đô thị như ùn tắc giao thông, ngập úng đô thị, xử lý nước thải, sử dụng hiệu quả năng lượng, xóa đói giảm nghèo…v.v..

2.2. Về phía thành phố Đà Nẵng:

Thành phố luôn cố gắng để phát huy vai trò làm chủ của mình trong việc sử

29

dụng vốn viện trợ ODA từ các nguồn song phương và đa phương, luôn ám sát những quy định của Nhà nước, đồng thời hài hòa thủ tục với nhà tài trợ về việc tiếp nhận nguồn tài trợ cũng như trong công tác đấu thầu lựa chọn các nhà thầu triển khai thực hiện các dự án.

Trong công tác quản lý dự án, đối với một số dự án lớn (dự án ĐT CSHT UT, dự án PTBV), UBND thành phố thành lập Hội đồng điều hành (HĐĐH) dự án với thành viên là l nh đạo UBND thành phố và l nh đạo các Sở, ngành liên quan. Nhiệm vụ của HĐĐH là giám sát và chỉ đạo, thường xuyên tổ chức họp định kỳ để điều hành tiến độ thực hiện các giai đoạn triển khai dự án, kịp thời giải quyết các vướng mắc phát sinh, đảm bảo dự án triển khai hiệu quả.

Trong công tác thẩm định đấu thầu đối với một số công trình trọng điểm, UBND thành phố chỉ đạo, phân cấp các Sở, ngành là đơn vị chủ dự án chủ động phê duyệt hồ sơ và chịu trách nhiệm trước UBND thành phố. Điều này giúp rút ngắn các quy trình thủ tục mà vẫn đảm bảo minh bạch, hiệu quả, đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án.

u tiên dành nguồn ngân sách để bố trí giải ngân vốn đối ứng cho các dự án ODA được đầy đủ, đảm bảo quá trình triển khai các dự án ODA được kịp thời, đáp ứng được tiến độ giải ngân theo yêu cầu của nhà tài trợ.

Các dự án phải thực hiện công tác giải tỏa đền ù thường nhận được sự đồng thuận cao trong cộng đồng dân cư. Ch nh sách giải tỏa đền ù, tái định cư được thực hiện một cách công khai, minh bạch và khá thỏa đáng. Do đó, công tác giải tỏa đền bù, giải phóng m t bằng được àn giao đúng thời hạn để dự án được triển khai thực hiện theo như kế hoạch đ thỏa thuận với nhà tài trợ.

3. Những hạn chế, yếu kém:

Tuy nhiên, với những dự án ODA có tổng vốn đầu tư lớn, quy mô phức tạp, trong quá trình thực hiện dự án, các cơ quan thực hiện dự án của thành phố đ g p không t khó khăn vướng mắc. Cụ thể:

- Sự phối hợp giữa các bên liên quan trong việc quản lý dự án chưa được ch t

chẽ, chưa có sự phối hợp đồng bộ trong công tác xúc tiến và quản lý ODA.

- Sự khác biệt giữa thủ tục đấu thầu của Việt Nam và của nhà tài trợ dẫn đến

những khó khăn trong công tác thẩm định hồ sơ đấu thầu.

- Vấn đề về thủ tục hành chính, thời gian phê duyệt của các cấp kéo dài, đ c biệt là từ Bộ ban ngành trung ương, đôi khi gây chậm trễ trong triển khai dự án. Nhiều trường hợp phải xin gia hạn nhiều lần. Do chậm tiến độ thực hiện, mà một số dự án có nguy cơ ị cắt giảm, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.

30

- Năng lực và trình độ chuyên môn của đội ngũ Ban quản lý dự án ở địa phương còn hạn chế, trong nhiều trường hợp hoạt động kiêm nhiệm. Công tác đào tạo quản lý dự án chưa thực hiện thường xuyên, có hệ thống và bài bản.

- Đối với các dự án ô, định mức chi cho một số hoạt động đào tạo thấp so với các nguồn kinh phi khác trong vùng Dự án, ất cập nên không thu hút được cán ộ đi học, vẫn chưa có một số định mức chi đ c thù. M t khác, các quy trình thủ tục giải ngân, rút vốn qua nhiều giai đoạn và các quy định của Nhà nước (từ Trung ương đến địa phương), gây chậm trễ ảnh hưởng đến tiến độ dự án.

4. Đề xuất giải pháp trong thời gian đến

Nguồn vốn ODA có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện trên nhiều lĩnh vực đòi hỏi Việt Nam cần có những giải pháp cụ thể để thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đ trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, cần phải thực hiện tốt một số vấn đề sau:

- Luôn đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA để đạt tỷ lệ giải ngân cao nhất và nhanh nhất, đây là điều rất cấp thiết nhằm tạo sự tin cậy với các nhà tài trợ.

- Cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý các dự án ODA như công tác đấu thầu, lập dự án và ngoại ngữ…

- Trong công tác xúc tiến, trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch chương trình phát triển kinh tế xã hội, thu hút và sử dụng ODA, thành phố cần chủ động đề xuất nội dung các chương trình, dự án ODA khi làm việc với nhà tài trợ, tránh tình trạng phụ thuộc vào nhà tài trợ và tư vấn.

- Cần xác định các ưu tiên đầu tư khi sử dụng ODA và nâng cao công tác giám sát, theo dõi và đánh giá dự án. Bởi bản chất ODA vẫn là khoản vay và có nghĩa vụ phải trả nợ, nên cần tăng cường sự phối hợp giữa các Sở, ngành liên quan trong việc lập kế hoạch cũng như xử lý các vướng mắc trong quá trình triển khai dự án để tránh tình trạng các hạng mục, cấu phần của các dự án khác nhau bị trùng lắp, gây lãng phí đầu tư. Đối với các dự án mới, cần rà soát, tập trung đầu tư những hạng mục cần thiết, cấp thiết, giảm bớt những hạng mục chưa cần thiết đầu tư để giảm gánh n ng vốn đối ứng thành phố và và áp lực trả nợ vốn vay cho nhà tài trợ trong tương lai.

- Chú trọng công tác đánh giá, giám sát công trình đầu tư xây dựng cơ ản để đảm bảo chất lượng công trình, tránh tình trạng sau một thời gian ngắn công trình

31

xuống cấp phải đầu tư nâng cấp lại.

- Trong quan hệ hợp tác phát triển mới, các mô hình viện trợ mới sẽ được áp dụng nhiều hơn, sự tham gia của khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ được khuyến kh ch. Do đó, thành phố sẽ tập trung đẩy mạnh xúc tiến hình thức đầu tư Đối tác Công tư PPP cho một số dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trọng điểm nhằm thu hút nguồn ODA để tăng t nh khả thi cho các dự án PPP.

Trên đây là một số ý kiến của thành phố Đà Nẵng trong công tác xúc tiến, quản

lý thực hiện các dự án đầu tư từ nguồn vốn ODA trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Rất mong trong thời gian tới, thành phố sẽ tiếp tục nhận được sự ủng hộ của các Bộ, ngành trung ương và các nhà tài trợ để các dự án ODA được triển khai hiệu quả, mang lại những kết quả tích cực cho sự phát triển của thành phố về lâu dài.

Xin trân trọng cảm ơn./.

32

ĐÁNH GIÁ 20 NĂM HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG ODA CỦA VIỆT NAM: NHỮNG BÀI HỌC TỪ THẤT BẠI

Tiến sỹ Nguyễn Thành Đô Nguyên cục trưởng Cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại - Bộ Tài chính

Từ cuối năm 1993, sau khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài chính quốc tế, Việt Nam đ khơi thông được kênh huy động nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) với nhiều quốc gia và các tổ chức tài chính quốc tế. Không thể phủ nhận được thực tế trong những năm qua nguồn vốn ODA đ đóng góp phần rất quan trọng trong sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, từ phát triển cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực kinh tế chủ chốt như năng lượng, giao thông đến y tế, giáo dục; phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực con người, hoàn thiện hệ thống pháp lý…Qua đó, một m t Việt Nam giữ được sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội, m t khác phát triển các mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước và các tổ chức quốc tế, tạo điều kiện để hội nhập ngày càng sâu rộng.

Đến nay Việt Nam đ từ một nước nghèo vươn lên trở thành nước có thu nhập trung ình. Đó là một thành công lớn nhưng cũng ch nh vì vậy trong tương lai không xa, Việt Nam sẽ không còn được nhận các nguồn ODA dồi dào như trước. Tuy nhiên việc nhìn nhận, đánh giá lại những thành công, thất bại trong việc sử dụng nguồn vốn này để rút ra những bài học luôn rất cần thiết , nhất là trong giai đoạn tới đây Việt Nam phải tiếp cận, huy động các nguồn vốn đắt hơn với các điều kiện khắt khe hơn.

Trong 20 năm qua, những dấu ấn trong việc huy động và sử dụng ODA của Việt Nam có thể thấy rõ trong mọi lĩnh vực đời sống. và cho đến nay Việt Nam được đánh giá là một mô hình thành công trong việc huy động và sử dụng ODA. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những góc tối mà ta không thể không nói đến.

Chúng ta đ có những chương trình, dự án ODA ho c thất bại hoàn toàn, ho c

không có hiệu quả như mong muốn; một số ví dụ điển hình như:

- Dự án trích trích dầu cám ở Bến Tre, dự án dây chuyền dệt ao đay ở TP.Hồ Chí Minh, vay vốn ODA Ấn Độ, vì công nghệ lạc hậu, không có nguyên liệu và không có nơi tiêu thụ sản phẩm nên sau khi bàn giao hoàn toàn không vận hành được. - Dự án nhà máy thủy sản đông lạnh Hạ Long, vay vốn ODA Italia - không hoạt

động do thiếu nguyên liệu.

- Chương trình phát triển dâu tằm tơ ở Lâm Đồng, vay vốn ODA Italia - thất bại

do sản phẩm không cạnh tranh được trên thị trường.

33

- Nhà máy động cơ xăng nhỏ, dự án dầm thép khẩu độ lớn, vay vốn ODA Pháp; dự án tàu hút bụng tự hành, vay vốn ODA Đức - không hiệu quả do sản phẩm không thích hợp với thị trường.

- Dự án cấp nước sạch ở KonTum, Yên Bái, vay vốn ODA Pháp - không hiệu

quả vì chỉ sử dụng được 1/3 công suất thiết kế.

- Chương trình trồng bông, trồng cà phê Arabica, vay vốn ODA Pháp - thất bại

do không nghiên cứu kỹ quy hoạch, tổ chức thực hiện và quản lý kém.

Có thể thấy các dự án thất bại nói trên đều là các dự án ODA thực hiện theo cơ chế vay về cho vay lại. Theo cơ chế này khi dự án không trả được nợ chúng ta thấy rõ và thừa nhận đó là dự án thất bại. Tuy nhiên trong số các dự án ODA, có tới 70% là các dự án thực hiện theo cơ chế cấp phát từ ngân sách. Đối với các dự án này hầu như chưa có đánh giá về các m t thất bại, trừ việc ở một vài dự án có phát hiện ra một số sai sót ho c biểu hiện tiêu cực.

Thực tế trong các dự án ODA được cấp phát cũng có những thất bại nhất định, lớn nhất là tình trạng lãng phí nguồn vốn: lãng phí do chậm tiến độ, lãng phí do suất đầu tư cao, l ng ph do dự án không phát huy được hiệu quả, do đầu tư dàn trải… V dụ như chương trình phát triển nông thôn, vay vốn WB, không phát huy được hiệu quả vì đại đa số các con đường được xây dựng đ xuống cấp, hư hỏng nghiêm trọng chỉ sau vài năm sử dụng; ho c nhiều bệnh viện cấp tỉnh đầu tư lớn nhưng thiếu thiết bị, thiếu đội ngũ y, ác sĩ…; suất đầu tư trong các dự án ODA thường cao hơn so với các dự án tương tự làm từ các nguồn vốn khác…

Kinh nghiệm sử dụng ODA trên thế giới cho thấy, ODA không phải luôn luôn có hiệu quả đối với bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ lĩnh vực nào. Trước đây, Nhật Bản và Hàn Quốc và gần đây là một số nước ASEAN đ sử dụng ODA có hiệu quả. ODA thành công ở các nước này do phát huy tính tự chủ cao, quản lý ch t chẽ và các cơ quan tiếp nhận ODA đủ năng lực quản lý. Trong khi đó, vì nhiều lý do, trong đó có lý do huy động và sử dụng vốn ODA chưa tốt, nhiều quốc gia đ rơi vào tình trạng bất ổn định (như Trung quốc trong thập kỷ 70-80, Việt Nam trước năm 1990), thậm chí làm suy thoái nghiêm trọng nền kinh tế-xã hội (Argentina, Nigeria, Brazil, một số nước Châu Phi), tạo ra gánh n ng nợ nần khó trả cho một số nước, nhất là ở Châu Phi.

Đối với Việt Nam, m c dù việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA của nước ta trong 20 năm qua đ được thực hiện theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước là ưu tiên sử dụng nguồn lực này để hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân, nhưng trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA cũng đ ộc lộ một số tồn tại, cụ thể là:

34

- Trong quan niệm của một số cơ quan thụ hưởng ODA cả ở trung ương lẫn địa phương vẫn còn vương vấn "ODA thời bao cấp", coi "ODA không hoàn lại là Chính phủ cho, ODA vốn vay là Chính phủ trả nợ". Hậu quả của quan niệm sai lệch này là ra sức tranh thủ nguồn vốn ODA mà không tính toán hiệu quả kinh tế, tính bền vững sau dự án và khả năng trả nợ

- Cơ chế chính sách quản lý Nhà nước về ODA chưa đồng bộ với nhau, thủ tục phê duyệt dự án còn rườm rà, bộ máy cồng kềnh, trách nhiệm của cấp thực hiện dự án không rõ ràng gây lãng phí, ách tắc, giảm tính linh hoạt trong quá trình triển khai, đồng thời không phân định được trách nhiệm của các đơn vị thực hiện trong trường hợp dự án không có hiệu quả.

- Công tác chuẩn bị các chương trình, dự án để đăng ký sử dụng vốn còn sơ sài, chưa được kỹ, cốt sao được đưa vào danh mục yêu cầu tài trợ, thậm chí có một số trường hợp công tác chuẩn bị dự án (văn kiện dự án, báo cáo nghiên cứu khả thi, khảo sát, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, quản lý, giám sát) phó m c cho tư vấn nước ngoài, vì vậy khi triển khai thực hiện g p nhiều vướng mắc, phải điều chỉnh, bổ sung văn kiện dự án dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện dự án, giảm thời gian ân hạn, ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư.

- Công tác thẩm định và phê duyệt dự án còn bị kéo dài, có dự án kéo dài hàng năm, chất lượng thẩm định chưa cao, nhiều hạng mục được thẩm định đ lạc hậu so với tình hình mới, có nhiều dự án đ được phê duyệt khi thực hiện phải thẩm định lại ho c thậm chí không hiệu quả. Hầu hết các dự án trong quá trình thực hiện đều có sự thay đổi và xin điều chỉnh khối lượng phát sinh, các thay đổi, sửa đổi trong thiết kế trên cơ sở đề nghị của nhà thầu có sự phê duyệt của tư vấn giám sát. Sự thay đổi này sẽ kéo theo sự điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư trong các hạng mục dự án.

- Việc thẩm định và phê duyệt tổng dự toán, thiết kế kỹ thuật không ch t chẽ, với chất lượng không cao. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ chuyên môn của các cơ quan thẩm định hạn chế, hệ thống định mức, tiêu chuẩn kỹ thuật chưa được thay đổi căn ản, sự phối hợp giữa các cơ quan thẩm định trong nước chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, sự gắn kết giữa các nhà tài trợ với các cơ quan tư vấn nước ngoài được chọn để thực hiện công tác tư vấn cho dự án nên khó có thể điều chỉnh lại, thêm, bớt các hạng mục của dự án.

- Sự phối hợp thẩm định giữa phía Việt nam với các nhà tài trợ thường không đồng bộ và ăn khớp với nhau, một số dự án đ được phía Việt nam phê duyệt khi trình duyệt nhà tài trợ thì lại không được chấp nhận ho c phải điều chỉnh lại theo ý tưởng của họ gây nên tình trạng tốn kém chi phí chuẩn bị và mất thời gian, một số dự án đ được các nhà tài trợ phê duyệt lại phải chờ thủ tục thẩm định của Việt nam làm ảnh hưởng tới công tác ký kết và giải ngân của các hiệp định vay.

35

- Việc tổ chức đấu thầu để lựa chọn các nhà thầu phức tạp, kéo dài và chất lượng chưa cao, đ c biệt đối với các hạng xây lắp và mua sắm trang thiết bị thường phải mắt từ 2-3 năm, nhiều trường hợp giá cả thiết bị mua sắm cao hơn so với giá thị trường quốc tế, không đồng bộ, chất lượng công nghệ thấp.

- Công tác đền bù giải phóng m t bằng còn nhiều nổi cộm, nhất là chính sách đền bù giải phóng m t bằng và tái định cư của Việt nam chưa phù hợp với các yêu cầu đ t ra của các nhà tài trợ (phạm vi đền bù, giá cả, hỗ trợ tái định cư...) tạo ra các trở ngại ho c chậm bàn giao m t bằng cho xây lắp công trình, gây lãng phí thời gian thực hiện và đưa công trình vào hoạt động.

- Năng lực và trình độ cán bộ quản lý đầu tư còn nhiều hạn chế, thể hiện rõ nhất trong khâu thẩm định dự án, đ c biệt là về các khía cạnh kỹ thuật và tài chính của dự án. Bên cạnh đó, do hạn chế về chuyên môn, kỹ thuật nên trong tổ chức thực hiện, một số dự án thường có quan điểm “chiều ý” các đơn vị tư vấn ho c nhà tài trợ cốt để có được dự án dẫn đến nhiều dự án thiết kế rất cồng kềnh, nhiều hoạt động, liên quan đến nhiều cấp, ngành, nhiều ban bệ, chi phí phần mềm lớn ho c thâm chí gây nên tình trạng lãng phí, kém hiệu quả. Ví dụ: hạng mục mua sắm thiết bị văn phòng, xây trụ sở, ô tô con, xe máy thường được thiết kế gắn trong các gói thầu xây lắp công trình vượt quá định mức tiêu chuẩn của Chính phủ.

Những yếu kém nêu trên có nguyên nhân ch nh là ta chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác ODA phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội phù hợp với đ c thù của nguồn lực này do hạn chế về năng lực, trình độ, ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lý, khả năng phân t ch, đàm phán hợp đồng. M t khác, nhà tài trợ khi xem xét cung cấp ODA đưa ra điều kiện phải sử dụng tư vấn, nhà thầu và thiết bị cung cấp cho các chương trình, dự án (đấu thầu hạn chế ho c chỉ định thầu), làm cho khả năng kiểm soát của chủ dự án rất khó khăn, chi ph cho các hoạt động tư vấn lớn, giá cả thiết bị mua sắm cao làm ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư.

Việc khắc phục những tồn tại nêu trên là vấn đề cơ ản để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Trên thế giới đ có những điển hình về cách thức quản lý và sử dụng hiệu quả vốn ODA, chẳng hạn:

Đối với Trung Quốc, trước những năm 1980 Ch nh phủ Trung Quốc đ theo đuổi ch nh sách hướng ngoại của mình nhằm mục tiêu tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài vào công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước. Quan điểm định hướng này đ tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Trung quốc ngày càng nhiều, trong đó có nguồn vốn ODA. Để sử dụng các nguồn vốn huy động được, Chính phủ đ cho phép phần lớn các chương trình, dự án được nhanh chóng sử dụng nguồn vốn ODA mà không đề cao tính hiệu quả của nó “chạy theo số lượng, chưa chú trọng tới chất lượng và hiệu quả”. Kết quả là nguồn vốn ODA cho vay đ làm gia tăng gánh

36

n ng nợ quốc gia, là một trong những nguyên nhân đưa nền kinh tế vào giai đoạn khó khăn.

Để khắc phục tồn tại này, trong suốt gần ba thập kỷ qua, Trung Quốc đ theo đuổi chiến lược cải cách và hiện đại hoá nền kinh tế, từng ước chuyển đổi nền kinh tế từ hệ thống kế hoạch hoá tập trung là chủ yếu sang nền kinh tế trong đó cơ chế thị trường ngày càng đóng vai trò quan trọng, vì vậy đ có những cải thiện đáng kể trong việc phát triển nguồn nhân lực, giảm đói nghèo và phát triển khoa học công nghệ. Tỷ lệ tiết kiệm cao, chiếm khoảng 40% GDP là nguồn lực cơ ản để đầu tư nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Hàng năm, Trung Quốc huy động khoảng 5-6 tỷ USD vốn ODA từ các nguồn tài trợ song phương và đa phương. Một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác quản lý ODA của Trung quốc là:

- Chuẩn bị dự án tốt, chuyên nghiệp hoá trong việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi và tạo điều kiện thuận lợi ngay từ khâu chuẩn bị dự án. Quá trình lựa chọn và phê duyệt các dự án đăng ký sử dụng vốn ODA được thực hiện theo một trật tự thống nhất và rất hiệu quả từ khâu xác định dự án (nghiên cứu tiền khả thi, đề xuất, lựa chọn dự án), chuẩn bị dự án (nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật, đánh giá tác động môi trường), đánh giá dự án (mục tiêu, kỹ thuật công nghệ, phân tích thị trường, hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường, vốn đối ứng, khả năng trả nợ.v.v.). Việc đánh giá dự án sẽ được giao cho một đơn vị tư vấn đảm nhiệm và chỉ khi có ý kiến tư vấn, Uỷ ban cải cách và phát triển Nhà nước mới xem xét và lựa chọn.

- Nội dung chủ yếu các văn kiện dự án trình duyệt, bao gồm: tình hình cơ ản từng dự án, lý do lựa chọn, quy mô đầu tư, chủ đầu tư, điều kiện nguồn vốn (nhà tài trợ, cơ cấu, kỳ hạn vay, lãi suất...), thủ tục mua sắm, phân tích kinh tế và tài chính, trách nhiệm trả nợ, nguồn tiền và kế hoạch trả nợ, áo cáo và đánh giá các điều kiện ràng buộc.

- Ban hành hệ thống các hướng dẫn chi tiết về hoạt động ở từng khâu trong chu kỳ dự án tiến tới phê duyệt cuối cùng với thẩm quyền được giao cho các cấp chính quyền ở địa phuơng và các Bộ, ngành. Các nghiên cứu khả thi cuối cùng được công ty tư vấn thay m t Chính phủ xem xét một cách toàn diện, sau khi đ thẩm định, Ngân hàng Nhân dân Trung quốc (PBC) ho c Bộ Tài Chính (MOF) có thể tìm kiếm nhà tài trợ cho dự án đ được lựa chọn.

- Việc đàm phán với phía nhà tài trợ chỉ có thể diễn ra khi nghiên cứu khả thi của các dự án lựa chọn đ được phê duyệt và việc chấp nhận khoản vay sau khi đ hoàn tất thiết kế kỹ thuật. Do vậy, tiến độ giải ngân rất nhanh.

- Chịu trách nhiệm cung cấp đủ các nguồn tài chính ngay từ an đầu để thực hiện các chương trình/dự án. Vốn đối ứng được huy động từ các nguồn trong nước, bao gồm: nguồn vốn tự có của cơ quan chủ quản, tín dụng từ các ngân hàng chuyên

37

doanh/thương mại và phát hành trái phiếu "dự án phát triển nhà nước". Việc phân bổ các nguồn vốn theo cách thức trong đó vốn đối ứng chiếm tỷ lệ cao đ làm tăng nhận thức về vai trò làm chủ dự án và giảm bớt ảnh hưởng của các cơ quan ên ngoài, các nhà tài trợ và các tổ chức cho vay.

- Chuyên môn hoá trong đấu thầu và giám sát thi công. Công tác đấu thầu do các cơ quan chuyên trách về đấu thầu thay m t cơ quan chủ quản đảm nhận. Đây là những cơ quan có kinh nghiệm về đấu thầu quốc tế theo hướng dẫn của nhà tài trợ.

- Thành lập một cơ quan giám định đầu tư xây dựng, để thực hiện nhiệm vụ cấp giấy phép trong việc xây dựng và thực hiện dự án. Đó là những cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng giám sát trên cơ sở hợp đồng theo đúng hướng dẫn và qui định trong nước về kinh tế kỹ thuật. Những lĩnh vực này chủ yếu đòi hỏi phải có sự theo dõi và kiểm soát liên tục gồm: Việc tuân thủ tiến độ thực hiện dự án, bố trí nhân sự của cơ quan chủ quản, chất lượng xây dựng có đáp ứng yêu cầu thiết kế hay không, hoạt động của các nhà tư vấn nước ngoài, việc mua sắm các hàng hoá và dịch vụ có đúng qui trình thủ tục của các tổ chức cho vay hay không, công tác giải ngân và rút vốn có phù hợp với nội dung chương trình và đúng qui trình hay không, các công trình xây lắp có đạt tiêu chuẩn và các điều kiện trong hợp đồng hay không, công tác chuẩn bị vận hành và bảo trì dự án sau khi hoàn thành.

- Chú trọng công tác đánh giá sau dự án và thực hiện tốt chế độ báo cáo và kiểm toán các chương trình/dự án sau khi kết thúc. Cơ quan kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm kiểm toán các dự án theo quy chế kiểm toán của Chính phủ. Công tác kiểm toán được thực hiện ở a giai đoạn của dự án: Trước khi dự án khởi công, trong quá trình thực hiện dự án và sau khi hoàn thành dự án. Trung Quốc nhận thấy rằng do hầu hết các nguồn đầu tư cho dự án được huy động từ nguồn tiết kiệm trong nước nên tính hiệu quả và hiệu dụng của đầu tư tác động rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, Trung quốc chú trọng đ c biệt đến công tác đánh giá sau dự án và nâng cao vai trò của công tác này trong việc ra quyết định và quản lý dự án.

- Sử dụng vốn ODA tại địa phương được thực hiện theo một quy trình ch t chẽ: trên cơ sở thông báo của Nhà nước về điều kiện nguồn vốn ODA cụ thể đối với từng nhà tài trợ, căn cứ vào chiến lược, quy hoạch phát triển và ch nh sách ưu tiên sử dụng vốn, các chủ đầu tư tiến hành lập văn kiện chương trình, dự án gửi Uỷ ban cải cách và phát triển tại địa phương để lựa chọn và đưa vào danh mục ưu tiên vận động vốn ODA tại các địa phương. Các địa phương lập danh mục chung trình Uỷ ban cải cách và phát triển Nhà nước xem xét để trình Quốc vụ viện phê chuẩn.

- Cơ chế tài chính và trách nhiệm trả nợ vốn vay ODA cũng được quy định một cách rõ ràng. Hiện tại, Trung Quốc phân thành 3 loại dự án ODA để quy định rõ trách nhiệm trả nợ, cụ thể: dự án nhà nước vay-trả (dự án do Trung ương thực hiện); Chính quyền địa phương vay-chịu trách nhiệm trả nợ (làm theo quyết định của Trung ương);

38

và Dự án do các thành phần kinh tế vay và tự chịu trách nhiệm trả nợ, Chính phủ không tham gia và chịu trách nhiệm trả nợ. Ngoài ra, Chính phủ thực hiện chính sách miễn giảm toàn bộ thuế liên quan đến dự án ODA, kể cả các dự án cho vay lại.

Đối với Malaysia, là một quốc gia có nền kinh tế mới nổi, có trình độ và thu nhập ình quân tương đối cao nên trong 15 năm trở lại đây đất nước này hầu như chỉ tiếp nhận ODA dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc và các nhà tài trợ song phương. Hình thức vay ưu đ i chỉ tập trung chủ yếu vào các tổ chức tài chính lớn như WB, ADB, JBIC (riêng đối với WB chỉ mới nối lại các khoản vay ưu đ i nhằm khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997), với quy mô khoản vay đảm bảo duy trì hạn mức vay nợ nước ngoài hợp lý. Nợ nước ngoài của Malaysia luôn ở giới hạn an toàn. Một số kinh nghiệm thành công của Malaysia trong quản lý hiệu quả các nguồn vốn ODA có thể đúc kết như sau:

- Malaysia chọn lọc rất kỹ lưỡng các dự án được sử dụng vốn vay ODA, đảm bảo phù hợp với chiến lược phát triển tổng thể nền kinh tế và chỉ tiếp nhận những dự án có quy mô lớn.

- Trong tổ chức thực hiện dự án, Malaysia tận dụng tận dụng tối đa sự hỗ trợ của các nhà tài trợ từ khâu đầu tiên của dự án đến khâu kiểm soát sau dự án và có sự tham gia phối hợp ch t chẽ với các nhà tài trợ trong các hoạt động này. Do vậy, mỗi khi đ xây dựng xong F/S là Chính phủ phê duyệt ngay và nhờ đó giúp rút ngắn công đoạn này. Đồng thời áp dụng kịp thời kết quả đánh giá sau dự án của các nhà tài trợ để cải tiến chất lượng thiết kế những dự án mới.

- Có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý ODA. Giữa các cơ quan này có sự phối hợp ch t chẽ và có chung một nhận thức là tạo thuận lợi tối đa cho các BQL dự án, làm sao thực hiện các dự án ODA đúng tiến độ, áp dụng các thủ tục trình duyệt nhanh gọn nhằm giảm bớt phí cam kết. Những hợp phần nào trong dự án khó thực hiện ho c xét thấy không hiệu quả, Chính phủ chủ động đề nghị với nhà tài trợ huỷ bỏ hợp phần này.

- Malaysia không g p nhiều vướng mắc do sự khác biệt về thủ tục trong nước và thủ tục của các nhà tài trợ bởi vì các dự án của nhà tài trợ nào được phép áp dụng thủ tục quy định và hướng dẫn của nhà tài trợ đó. Bên cạnh đó, hệ thống thanh toán được tiến hành trên mạng vi tính nên làm cho các thủ tục được nhanh chóng, hài hoà hơn và phục vụ tốt hơn công tác theo dõi, giám sát của các cơ quan liên quan và nhà tài trợ.

- Chính phủ đảm bảo cung cấp đầy đủ vốn đối ứng cho các dự án để đảm bảo

tiến độ và hiệu quả thực hiện.

39

- Xây dựng và triển khai thực hiện tốt hệ thống theo dõi và đánh giá sau dự án, nhằm phát hiện những vấn đề nảy sinh trong sử dụng vốn, cung cấp thông tin kịp thời cho các cơ quan tổng hợp của Chính phủ và các nhà tài trợ.

Từ những thất bại, những tồn tại trong việc huy động, sử dụng vốn ODA trong thời gian qua cũng như từ kinh nghiệm quốc tế, những bài học cơ ản rút ra đối với Việt Nam là:

Một là, phải chủ động trong việc quản lý và sử dụng vốn ODA, tránh các biểu hiện “chạy theo số lượng mà không thực sự coi trọng việc đảm bảo chất lượng của các khoản đầu tư từ nguồn vốn vay”, sử dụng vốn phải gắn với khả năng tạo ra nguồn thu để trả nợ, những dự án nào xét thấy không hiệu quả và phù hợp với mục tiêu sử dụng thì cần từ chối. Về lâu dài, cần thiết tiếp tục nâng cao hơn nữa mức tiết kiệm và tỷ lệ đầu tư ằng nguồn vốn trong nước, tăng tỷ lệ vốn đối ứng trong cơ cấu đầu tư của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA.

Việc sử dụng nguồn vốn ODA phải được phân bổ tập trung vào các lĩnh vực thiết yếu nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển nhanh và bền vững, đồng thời đảm bảo phù hợp với quy hoạch đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, quy hoạch vùng, lãnh thổ và ngành kinh tế trong sự phối kết các nguồn đầu tư phát triển khác. Ngoài ra, do tính khả thi về m t tài chính của các chương trình, dự án ODA thấp, khó có khả năng tạo nguồn thu trực tiếp bằng ngoại tệ để trả nợ nước ngoài nên sử dụng vốn ODA cũng phải tính đến việc tạo ra ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu, để quốc gia có nguồn trả nợ nhằm tăng cường khả năng trả nợ của quốc gia.

Hai là, tính chủ động trong việc đề xuất, chuẩn bị dự án và sử dụng ODA là điều kiện tiên quyết bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy ở đâu vai trò chủ động của nước nhận tài trợ yếu thì hiệu quả sử dụng kém và đôi khi thất bại. Do vậy, cần nâng cao tính tự chủ và vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư, thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án lựa chọn, lập văn kiện chương trình, dự án, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện các hợp đồng (mua sắm, xây lắp, tư vấn), khả năng trả nợ, tính bền vững trong quá trình phát triển và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả sử dụng vốn ODA.

Ba là, đổi mới phương thức sử dụng nguồn ODA, có thể tăng mạnh việc sử dụng ODA như nguồn vốn mồi để thực hiện các dự án theo phương thức PPP; mở rộng diện cho vay lại đối với chính quyền địa phương để nâng cao trách nhiệm của địa phương về hiệu quả sử dụng vốn vay.

Bốn là, môi trường pháp lý minh bạch và có t nh cưỡng chế cao là một trong

40

những điều kiện thúc đẩy tiến độ thực hiện các chương trình, dự án. Các văn ản pháp qui về quản lý và sử dụng vốn phải đồng bộ và thực hiện nghiêm túc ở các cấp. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách quản lý nhà nước đối với nguồn vốn ODA theo hướng giảm bớt những bất cập hiện tại nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện và hiệu quả sử dụng vốn của các chương trình, dự án ODA, đồng thời đảm bảo phù hợp với tập quán thương mại quốc tế và hài hoà với thủ tục của các nhà tài trợ. Cơ chế chính sách quản lý thời gian tới cần tập trung vào ban hành mới ho c sửa đổi các định mức kinh tế-kỹ thuật cho phù hợp với tình hình thực tế; hướng dẫn quy trình, thủ tục thực hiện chương trình, dự án; đền bù và giải phóng m t bằng; cơ chế thẩm định giá; định mức chi tiêu; quy chế kiểm tra, kiểm toán, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và hoàn trả nợ vay nước ngoài.

Năm là, kiên quyết thực hiện các biện pháp cấp bách về phòng, chống lãng phí

tại các dự án sử dụng vốn ODA như:

- Cần đề ra các nguyên tắc lựa chọn dự án ưu tiên sử dụng vốn ODA, tránh đầu tư dàn trải, phân tán không hiệu quả, không đúng thời gian quy định và cần kiên quyết từ chối các khoản ODA vay xét thấy không hiệu quả ho c hiệu quả thấp do bị chi phối nhiều bởi các yếu tố rằng buộc.

- Làm tốt công tác thẩm định để lựa chọn được các dự án có hiệu quả đăng ký sử dụng vốn nước ngoài, đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan thẩm định và cơ quan thực hiện dự án, tránh tình trạng khi dự án đi vào hoạt động kém hiệu quả phải xin gia hạn trả nợ ho c chuyển trách nhiệm trả nợ cho Ngân sách Nhà nước.

- Thực hiện tốt công tác quản lý tài ch nh nhà nước đối với nguồn vốn ODA, chống tình trạng bố trí sử dụng vốn dàn trải, xác định rõ ngay từ đầu những dự án phải vay lại và trả nợ cho Chính phủ và những dự án được ngân sách cấp để làm căn cứ xây dựng dự án, tháo gỡ những vướng mắc để đẩy nhanh tốc độ giải ngân và thanh toán vốn kịp thời cho các chủ dự án. Cơ chế tài chính phải được xem xét và quyết định cụ thể khi duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi và nêu rõ trong Quyết định đầu tư dự án.

- Đối với các dự án ODA cho vay lại cần quy định vai trò thẩm định của Cơ quan cho vay lại trước khi đề xuất dự án với Nhà tài trợ. Việc thẩm định các dự án vay lại không chỉ dừng ở khâu thẩm định dự án mà phải bao gồm cả việc thẩm định năng lực quản lý và năng lực tài chính của Người vay lại để đảm bảo việc thu hồi vốn cho vay lại. Đối với dự án được xác định là khó có khả năng hoàn vốn thì ho c là không vay ho c Nhà nước cấp phát ho c chuyển Chủ đầu tư không nên để tình trạng biết là khó có khả năng hoàn vốn mà vẫn làm thủ tục nhận vay lại, sau đó lại xin chuyển sang cơ chế ngân sách nhà nước cấp phát.

41

- Bố tr đủ vốn đối ứng đầy đủ và kịp thời, xử lý kiên quyết các vướng mắc trong

khâu giải phóng m t bằng để không để ảnh hưởng đến tiến độ dự án.

- Tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính, công khai qui trình, thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục liên quan đến thực hiện các chương trình/dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Cần rà soát và loại bỏ ngay những quy định về thủ tục xét duyệt không cần thiết, các thủ tục rườm rà và tốn phí thời gian, các vướng mắc về thủ tục với các nhà tài trợ trong các khâu phê duyệt dự án, ký kết hiệp định, trao đổi công hàm, trình tự và thủ tục rút vốn, đấu thầu và xét duyệt kết quả đấu thầu... Các thủ tục về miễn giảm thuế ODA, cấp vốn đối ứng cần được xem xét lại theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ và cấp trung gian xử lý.

Sáu là, phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan tham gia vào quá trình quản lý và sử dụng vốn đi đôi với việc nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan có liên quan.

- Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành chủ quản và chức năng tổ chức thực hiện dự án, nhất là trong các khâu thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán, lập hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu và phê duyệt kết quả đấu thầu, theo dõi và giám sát thực hiện.

- Gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ quan quản lý chủ đầu tư trong việc thực hiện dự án và khi xảy ra các sai phạm bằng các quy định và kỷ luật hành ch nh, đồng thời ban hành các chế tài đủ mạnh trong lĩnh vực này.

- Phân cấp rộng cho cấp dưới nhưng đồng thời phải gắn với trách nhiệm của

người được phân cấp.

- Cần hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng khép kín các khâu trong quy trình thực hiện đầu tư ở một Bộ, ngành ho c một địa phương vì tình trạng này dễ dẫn đến phát sinh tiêu cực.

- Nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan và người thẩm định dự án ở các Bộ, ngành và địa phương, đ c biệt là trình độ chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, kinh nghiệm quản lý của các cán bộ làm việc trong các ban quản lý dự án ODA. Bảy là, tăng cường vai trò kiểm tra, thanh tra của Bộ chủ quản, của các Bộ có chức năng quản lý và của các cơ quan thanh tra, kiểm toán Nhà nước đối với việc thực hiện dự án và đối với hoạt động quản lý của chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án. Bên cạnh đó, cần tăng cường năng lực thu thập thông tin, lưu trữ, xử lý và báo cáo các loại thông tin về ODA. Xây dựng và hoàn thành cơ sở dữ liệu về ODA để cung cấp thông tin kịp thời, chính xác và nhất quán nhằm phục vụ cho quá trình hoạch định chính sách, báo cáo theo yêu cầu cho các cơ quan và nhà tài trợ./.

42

THAM LUẬN CỦA ĐẠI DIỆN NGƯỜI VAY VỐN TỪ DỰ ÁN TÀI CHÍNH NÔNG THÔN DO NG N HÀNG THẾ GIỚI TÀI TRỢ

Ông Cao Văn Đà - Đại diện nông dân Tỉnh Quảng Nam

K nh thưa: Hội nghị!

Tôi tên là: Cao Văn Đà, sinh năm 1972 ngụ tại Thôn Đàng Hạ - X Tam Đàn,

Huyện Phú Ninh, Tỉnh Quảng Nam.

Sinh ra và lớn lên tại vùng đất Quảng Nam khô cằn khắc nghiệt, với nguồn thu nhập ch nh trước đây chủ yếu từ nghề trồng lúa. Để thoát nghèo, từ năm 2007 tôi chuyển sang chăn nuôi trang trại gà để cung cấp cho thị trường.

Thông qua việc vay vốn từ Ngân hàng SHB, tôi đ iết đến nguồn vốn Dự án Tài ch nh nông thôn, là dự án do Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ cho Việt Nam nhằm hỗ trợ cho những hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu vay vốn để phục vụ sản xuất, kinh doanh tại khu vực nông thôn với l i suất ưu đ i. Tôi đ mạnh dạn vay vốn để mở rộng sản xuất nhằm thoát khỏi việc kinh doanh nhỏ lẻ manh mún, hướng tới phát triển ền vững kinh tế hộ gia đình

Tôi đ vay vốn tổng số tiền là 2,5 tỷ đồng, thời hạn 36 tháng với mục đ ch đầu tư mở rộng trang trại nuôi gà qui mô lớn cung cấp cho hệ thống CP. Nhờ có nguồn vốn, tôi đ thành công trong việc mở rộng qui mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho dân quanh vùng, nâng cao thu nhập cho cá nhân và gia đình.

Nguồn vốn dự án Tài ch nh nông thôn đ hỗ trợ rất nhiều cho việc sản xuất kinh

doanh của gia đình tôi, cụ thể:

- Đáp ứng được nhu cầu của gia đình tôi về nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn;

- Trước khi vay vốn từ nguồn Dự án WB, tôi kinh doanh trang trại nhỏ với số

nhân công gia đình là 4 người; Thu nhập ình quân 120 triệu đồng/năm

- Sau khi vay vốn đầu tư mở rộng hệ thống chuồng trại và xử lý môi trường, số lượng nhân công đ tăng lên 14 người; số lượng gà nuôi tăng từ 1.000 con lên 24.000 con rồi 36.000 con. Hiện nay tôi có 3 khu trang trạng, mỗi khu nuôi ình quân 12.000 con gà/lứa. Thu nhập ình quân 600 triệu/năm.

- Thu nhập tăng lên tạo điều kiện cho con cái trong gia đình được học hành tốt hơn, có điều kiện để sửa sang nhà ở, mua sắm phương tiện sinh hoạt và đầu tư thêm cho kinh doanh của gia đình.

- Việc kinh doanh thành công giúp tôi mở rộng kiến thức kinh doanh do tiếp cận mô hình kinh doanh hiện đại, tiếp cận hình thức ảo vệ môi trường như dùng men vi

43

sinh để xử lý mùi hôi khi nuôi gà, cách thức tổ chức khu chăn nuôi cách xa khu dân cư, cách xử lý đường điện, đường nước ….

Để đạt được thành quả của ngày hôm nay là nhờ sự hỗ trợ nhiệt tình của Ngân hàng đ c iệt là sự giúp đỡ của cán ộ t n dụng trong việc hướng dẫn thực hiện các thủ tục vay vốn, và cả về vấn đề ảo vệ môi trường theo qui định dự án. Cán ộ còn thường xuyên đến hỏi thăm gia đình về tình hình kinh doanh và có những lời khuyên ổ ch giúp tôi định hướng kinh doanh hiệu quả hơn.

Hôm nay tôi được Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam và Ngân hàng địa phương giới thiệu, tạo điều kiện để tôi được đến dự Hội nghị. Tôi xin chân thành cảm ơn Quý vị và mong muốn các Ngân hàng Việt Nam tiếp tục đưa các nguồn vốn của các Tổ chức quốc tế đến với người dân chúng tôi, để từ những đồng vốn này, chúng tôi sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế gia đình cũng như kinh tế địa phương.

Với những người nông dân chúng tôi hiện nay đang phấn đấu trở thành nông dân hiện đại mong muốn nhận được sự quan tâm của các cấp ch nh quyền hỗ trợ đào tạo về kiến thức kinh tế trong thời kỳ mới, hỗ trợ đào tạo xây dựng phương án kinh doanh để phát huy được các thế mạnh của địa phương, đào tạo nâng cao kiến thức môi trường để phát triển kinh tế gia đình phát triển ền vững.

Qua hội nghị, tôi xin k nh chúc các cấp L nh đạo của Việt Nam, của Ngân hàng Thế giới, các tổ chức quốc tế và toàn thể các Quý vị đại iểu luôn luôn dồi dào sức khỏe, nhiều niềm vui và hạnh phúc.

Kính chúc Hội nghị thành công tốt đẹp!

Hình ảnh trang trại của anh Cao Văn Đà đang chuẩn bị để thả gà vụ mới

44

Anh Cao Văn Đà cùng các thành viên lớp học do Agrifin do Ngân hàng Thế giới và Ng n hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức 16/7/2015

Anh Cao Văn Đà chụp ảnh lưu niệm cùng BIDV và các chuyên gia Agrifin của WB thăm trang trại ngày 16/7/2015

45

ĐÁNH GIÁ VỀ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ

NƯỚC TRONG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN (ODA TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Nguyễn Mạnh Tiến Phó Chủ nhiệm Uỷ an Đối ngoại của Quốc hội

Trong công cuộc Đổi mới phát triển toàn diện đất nước, viện trợ phát triển ch nh thức (ODA) là nguồn ngoại lực quan trọng giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế - x hội nổi ật, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới và đạt trước thời hạn hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), đ c iệt tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh chóng. Tuy đóng vai trò quan trọng song nếu không được quản lý và sử dung hiệu quả, ODA cũng tiềm ẩn hậu quả ất lợi đối với các nước tiếp nhận ODA. Ch nh vì vậy, ngay từ khi nối lại quan hệ hợp tác phát triển với các nhà tài trợ vào năm 1993, Đảng và Nhà nước ta đ an hành chủ trương, ch nh sách nhằm huy dộng và sử dụng ODA một cách hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - x hội.

Trong phạm vi ài tham luận này, chúng tôi tập trung đánh giá về vai trò của Quốc hội trong công tác xây dựng và giám sát thực hiện pháp luật liên quan đến việc huy động và sử dụng ODA.

I. Những ết quả đạt được

1. Trong công tác xây dựng pháp luật: Cùng với sự phát triển kinh tế - x hội và sự thay đổi trong ch nh sách của các nhà tài trợ, pháp luật về ODA cũng không ngừng được hoàn thiện. Quá trình này phù hợp với chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” được đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ IX; Nghị quyết số 07-NQ/TW “về hội nhập kinh tế quốc tế” ngày 27-11-2001 của Bộ Ch nh trị khóa IX, chủ trương “chủ động và t ch cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ X; Nghị quyết số 22- NQ/TW ngày 10-4-2013 của Bộ Ch nh trị khóa XI về hội nhập quốc tế; chủ trương chủ động và t ch cực hội nhập, hợp tác quốc tế được quy định trong Hiến pháp và các nghị quyết về phát triển kinh tế - x hội được Quốc hội an hành.

Để việc quản lý và sử dụng ODA hiệu quả, phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế - x hội trong từng giai đoạn cũng như phù hợp với cam kết của Việt Nam với các nhà tài trợ và phù hợp với thông lệ quốc tế, từ năm 1993 đến nay, Quốc hội đ an hành mới và sửa đổi, ổ sung nhiều lần nhiều văn ản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc quản lý và sử dụng ODA như Luật ngân sách nhà nước; Luật xây dựng; Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; Luật đầu tư; Luật đấu thầu; Luật quản lý

46

nợ công; Luật doanh nghiệp; Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật đầu tư công, Luật quản lý nợ công (Chi tiết xem tại Phụ lục kèm theo)... Các văn ản quy phạm pháp luật này là cơ sở pháp lý quan trọng để Ch nh phủ cụ thể hóa việc huy động và sử dụng hiệu quả ODA từ các nhà tài trợ.

Trên cơ sở các văn ản quy phạm pháp luật được Quốc hội an hành trên đây, trong 20 năm qua, Ch nh phủ đ thể chế hóa việc huy động và quản lý ODA tại 5 Nghị định gồm Nghị định 20/CP (1994), Nghị định 87/CP (1998), Nghị định 17/2001/NĐ-CP (2001), Nghị dịnh 131/2006/NĐ-CP (2006) và Nghị định 38/2013/NĐ-CP (2013). Như vậy, ình quân khoảng 4 năm một lần, các Nghị định của Ch nh phủ về quản lý và sử dụng ODA được an hành mới, Nghị định sau tiến ộ hơn Nghị định trước, nhất là vai trò l nh đạo ch nh sách thu hút và sử dụng ODA của Ch nh phủ, phân cấp mạnh cho các cơ quan chủ quản trong quá trình thực hiện, đồng thời tăng cường công tác theo dõi, giám sát tình hình và kết quả thực hiện các chương trình, dự án ODA.

2. Trong hoạt động giảm sát: Bên cạnh việc an hành văn ản quy phạm pháp luật liên quan đến ODA, Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội đ tiến hành các hoạt động giám sát liên quan đến việc huy động và sử dụng ODA tại các kỳ họp Quốc hội và thông qua giám sát chuyên đề của các ủy an của Quốc hội.

Hoạt động giám sát việc huy động và sử dụng ODA của các đại iểu Quốc hội được thực hiện dưới hình thức chất vấn trực tiếp của đại iểu Quốc hội đối với các thành viên Ch nh phủ trong thời gian diễn ra kỳ họp Quốc hội và ằng hình thức văn ản trong thời gian Quốc hội không họp. Các đại iểu Quốc hội đ chất vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư với tư cách là người đứng đầu cơ quan giúp Ch nh phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA nhiều vấn đề liên quan đến việc thu hút, ố tr sử dụng vốn ODA, trách nhiệm của Ch nh phủ và các Bộ, ngành, địa phương trong việc quản lý, phân ổ, sử dụng ODA, nhất là trong các trường hợp xảy ra tham nhũng, l ng ph trong sử dụng ODA...

Uỷ an Đối ngoại cũng đ tiến hành các giám sát chuyên đề về việc thu hút, quản lý và sử dụng ODA. Trong năm 2003, Uỷ an Đối ngoại đ chủ trì tổ chức một Đoàn công tác liên ủy an gồm đại diện Uỷ an Đối ngoại, Uỷ an Kinh tế Ngân sách, Uỷ an Khoa học, Công nghệ và Mội trường đ làm việc với 10 ộ, ngành và các tỉnh, thành phố để giám sát việc thu hút, sử dụng và quản lý ODA trong 10 năm từ 1993-2002 và hiệu quả đ đạt được trong việc sử dụng nguồn vốn này. Đoàn giám sát đ đưa ra nhiều nhận xét và kiến nghị có giá trị, đóng góp ý kiến vào việc sửa đổi, ổ sung một số dự thảo luật quan trọng liên quan đến ODA tại thời điểm đó như Luật đất đai, Luật xây dựng, Luật doanh nghiệp nhà nước (sửa đổi) và Pháp lệnh đấu thầu cũng như góp phần giúp Ch nh phủ và các cơ quan liên quan trong việc hoàn thiện

47

các quy định liên quan đến việc huy động và quản lý ODA sau này.

II. Một số tồn tại

- Thứ nhất, môi trường pháp luật về ODA của Việt Nam chưa đồng ộ, tản mạn, t nh pháp lý chưa cao, còn chồng chéo và chưa ổn định. Đây là một trong những yếu tố hạn chế quan trọng đối với việc huy động, quản lý và sử dụng ODA. Tồn tại này đ được Uỷ an Đối ngoại phát hiện và chỉ ra trong áo cáo giám sát 10 năm thu hút, quản lý và sử dụng ODA từ 1993-2002 đến nay vẫn chậm được khắc phục.

Từ năm 1993 đến nay, việc quản lý và sử dụng ODA được quy định ằng một Nghị định và ị chi phối mạnh trên những lĩnh vực có liên quan mật thiết vởi những văn ản pháp quy cùng cấp. Việc quản lý ODA khá phức tạp, ngoài Nghị định chuyên ngành về quản lý và sử dụng ODA, việc sử dụng ODA còn chịu sự chi phối của các văn ản quy phạm pháp luật khác có liên quan trong nước, cũng như các quy định và thủ tục của nhà tài trợ như đấu thầu mua sắm, di dân giải phóng m t ằng và tái định cư, quản lý tài chính... Các văn ản này liên tục được sửa đổi, ổ sung; quy chế sau chồng lên quy chế trước gây khó khăn cho công tác quản lý và sử dụng ODA của các ộ, ngành, địa phương và các an quản lý dự án.

- Thứ hai, một số quy định liên quan đến ODA hiện nay cùng được quy định trong các văn ản quy phạm pháp luật khác nhau mà không có sự thống nhất. Chẳng hạn như Luật quản lý nợ công (khoản 4 Điều 21) cho phép cơ quan chủ trì đàm phán tổ chức đàm phán nội dung thỏa thuận vay với ên cho vay nước ngoài căn cứ kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm và thỏa thuận khung về vay ODA đ được cấp có thẩm quyền phê duyệt mà không cần thực hiện các ước lấy ý kiến các cơ quan liên quan, ý kiến kiểm tra của Bộ Ngoại giao, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, trình Ch nh phủ chủ trương đàm phán và ủy quyền đàm phán. Như vậy, đối với loại điều ước này, Luật quản lý nợ công đ có quy định về trình tự, thủ tục nhanh gọn, thuận lợi hơn so với trình tự, thủ tục quy định tại Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế (ĐUQT) hiện hành.

Các thỏa thuận vay về ODA không phải là ĐUQT theo Công ước Viên về Luật ĐUQT (1969) nhưng được coi là ĐUQT theo quy quy định tại Luật ký kết, gia nhập và thực hiện ĐUQT năm 2005. Nhiều ý kiến của các Bộ, ngành phản ánh tình trạng nhiều ĐUQT, đ c iệt là ĐUQT về ODA và vay vốn nước ngoài, phải trải qua nhiều ước lấy ý kiến tham gia, ý kiến kiểm tra, ý kiến thẩm định, trong khi các ĐUQT này thường có nội dung theo khung mẫu có sẵn, ổn định trong thời gian tương đối dài, dẫn tới tình trạng cơ quan đề xuất đàm phán, ký ĐUQT phải xin ý kiến qua nhiều vòng, nhiều khâu, gây tốn kém thời gian nhưng chủ yếu là thủ tục, không phải là các vấn đề thực chất, trong khi có thể làm lỡ mất cơ hội chốt đàm phán phương án có lợi

48

cho Việt Nam. Bên cạnh đó, trên thực tế, có nhiều trường hợp cần tiến hành đàm phán gấp nhằm ảo đảm nhà tài trợ có thể hoàn tất phê duyệt khoản vay trước khi kết thúc năm tài khóa, nếu không khoản vay sẽ ị hủy, nên cần sửa đổi, ổ sung quy định cho quá trình đàm phán gấp theo dạng nêu trên.

Thứ ba, các hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về quản lý và sử dụng

ODA chưa được tiến hành định kỳ thường xuyên, liên tục.

III. Phư ng hướng trong thời gian tới

Với việc thoát khỏi tình trạng của nước chậm phát triển thu nhập thấp trở thành nước thu nhập trung ình thấp với GDP ình quân dầu người đạt 1.168 USD năm 2010, theo tập quán viện trợ quốc tế, nguồn vốn ODA, nhất là viện trợ không hoàn lại và vốn vay ưu đ i thường có xu hướng giảm dần. Tuy đạt dược mức phát triển tương ứng với một nước thu nhập trung ình thấp, song Việt Nam còn thua kém về nhiều m t so với trình độ phát triển của một số nước thu nhập trung ình trong khu vực và trên thế giới. Kinh nghiệm từ nhiều nước thu nhập trung ình cho thấy, các nước này tiếp tục phát triển quan hệ hợp tác phát triển với các nhà tài trợ để huy động nguồn lực phục vụ sự nghiệp phát triển.

Trong các cam kết toàn cầu về hiệu quả viện trợ như Tuyên ố Pa-ri (PD - 2005), Văn kiện quan hệ dối tác Bu-san (BPD - 2008), cũng như các Văn kiện quốc gia về hiệu quả viện trợ như Cam kết Hà Nội (HCS - 2005) và Văn kiện quan hệ đối tác Việt Nam (VPD - 2013), các nhà tài trợ cam kết hài hòa và sử dụng tối đa hệ thống của Ch nh phủ về đấu thầu, quản lý tài ch nh, kiếm toán, theo dõi và đánh giá,... Các cam kết này là một thuận lợi đối với việc thực hiện thể chế quản lý ODA của Ch nh phủ, song sự tuân thủ hệ thống quản lý quốc gia của các nhà tài trợ gắn liền với yêu cầu đổi mới hệ thống văn ản quy phạm pháp luật của Việt Nam theo hướng tiếp cận các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Do vậy, trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung xây dựng hệ thống pháp luật về ODA phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế, nhất là trong ối cảnh ch nh sách và cơ cấu viện trợ có sự thay đổi khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung ình thấp.

Trong tầm nhìn đến năm 2020 và những năm tiếp theo, nhằm mục tiêu nâng cao trình độ phát triển, vượt qua ẫy thu nhập trung ình, Việt Nam chủ trương dựa vào nội lực là ch nh, đồng thời cần tiếp thục thực hiện hiệu quả ch nh sách hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện để tranh thủ các nguồn lực từ ên ngoài, trong đó có ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và x hội quy mô lớn; hoàn thiện ch nh sách và thể chế của nền kinh tế thị trường; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; ứng phó với iến đổi kh hậu và tăng trưởng xanh.

49

PHỤ LỤC

CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN ODA

ĐƯỢC QUỐC HỘI BAN HÀNH TỪ NĂM 1993 ĐẾN NAY

1. Luật quản lý nợ công (được Quốc hội XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày

17/6/2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010);

2. Luật đất đai (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014, thay thế Luật đất đai số 13/2003/QH11 và trước đó là Luật đất đai năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 2001);

3. Luật đấu thầu (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 26/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014, thay thế Luật đấu thầu sổ 61/2005/QH11);

4. Luật xây dựng (được Quốc hội khỏa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 18/6/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015, thay thế Luật xây dựng số 16/2003/QH11);

5. Luật đầu tư công (được Quốc hội khỏa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày

18/6/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015).

6. Luật doanh nghiệp (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26/11/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015, thay thế Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 và Luật sửa đổi, bổ sung Điều 170 của Luật doanh nghiệp số 37/2013/QH13 và trước đó là Luật doanh nghiệp năm 1999; Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003);

7. Luật đầu tư (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26/11/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015, thay thế Luật đầu tư số 59/2005/QH11 và trước đó là Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Luật sửa đổi, bổ sung một sổ điều của Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998);

8. Luật nhà ở (được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2014, có hiệu lực từ ngày 01/7/2015, thay thế Luật nhà ở số 56/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 34/2009/QH12 và Luật số 38/2009/QH12, Nghị quyết số 19/2008/QH12);

9. Luật ngân sách nhà nước (được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 25/6/2015, thay thế Luật ngân sách nhà nước số 01/2002/QH11 và trước đó là Luật ngân sách nhà nước 1996);

50

KẾT QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA GIAI ĐOẠN 2006-2015:

THỰC TRẠNG VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

TS.Trịnh Ng c Tuấn - Vụ Kinh tế, Văn ph ng Quốc hội

Trong thời kỳ thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước, Việt Nam đ đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Đóng góp vào những thành tựu mà Việt Nam đạt được, cùng với việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc vận động, thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các quốc gia là một trong những mục tiêu ưu tiên mà Việt Nam hướng tới. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam hiện có trên 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động và trong thực tế, nguồn vốn ODA của các quốc gia viện trợ cho Việt Nam đ và đang có những tác động t ch cực đến quá trình phát triển kinh tế -xã hội của nước ta...

Báo cáo của Ch nh phủ về tình hình KT-XH 5 năm 2006-2010 cho iết, trong giai đoạn này, tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân đạt 13,8 tỷ USD, vượt 16%. Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA thời kỳ 2006-2010 của Chính phủ bao gồm: Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sảnkết hợp xoá đói, giảm nghèo); Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại; Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh vực khác); Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên; Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển cao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai. Nhờ thu hút được một khối lượng lớn các nguồn vốn đầu tư, hệ thống kết cấu hạ tầng đ được cải thiện đáng kể, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kết quả số cam kết, giải ngân vốn ODA và các nguồn vốn ưu đ i từ năm 2011-2014 như sau:

Tình hình cam ết và giải ng n vốn ODA và các nguồn vốn tài trợ từ 2011-2014 - ĐVT: tỷ USD

6.50

8.00

6.43

5.65

5.13

6.00

4.18

4.36

4.00

2.00

0.00

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Nguồn: Báo cáo của Chính phủ về t nh h nh KT-XH tr nh Quốc hội (từ năm 2011-2015)

51

Trên cơ sở kết quả đạt được giai đoạn 2006-2010, Ch nh phủ đ t ra mục tiêu cho giai đoạn 2011-2015 đó là: Dự kiến vốn ODA cam kết khoảng 32-34 tỷ USD, giải ngân khoảng 14-16 tỷ USD, trong đó khoảng 50% vốn giải ngân từ các chương trình và dự án đ ký kết trong giai đoạn 2006-2010 chuyển sang.

Đánh giá chung về những kết quả đạt được trong thu hút, giải ngân nguồn vốn ODA từ năm 2011-2014 cho thấy trong ối cảnh kinh tế thế giới suy thoái và Ch nh phủ các quốc gia tài trợ đang phải thực hiện ch nh sách tài khoá thắt ch t để đối phó với khủng hoảng, tuy nhiên Việt Nam vẫn đạt được một số kết quả đáng ghi nhận như sau: (i) Nhờ sự kiên trì, nhất quán trong việc thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế, kết quả t ch cực trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, việc huy động vốn ODA vẫn đạt được những kết quả t ch cực; (ii) Trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và Việt Nam đ là nước có thu nhập trung ình nhưng kết quả vận động, thu hút và giải ngân các nguồn vốn ODA vẫn tăng mạnh đ đóng góp quan trọng làm tăng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Từ năm 2011-2014, số giải ngân nguồn vốn ODA và các nguồn vốn ưu đ i đều có xu hướng tăng, năm 2011 là 3,65 tỷ USD, năm 2012 là 4,18 tỷ USD, năm 2013 là 5,13 tỷ USD và năm 2014 là 5,65 tỷ USD; (iii) Nguồn vốn ODA và vốn ưu đ i mà Việt Nam huy động được ưu tiên sử dụng để hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - x hội, trong đó các ngành giao thông vận tải, năng lượng và công nghiệp, môi trường và phát triển đô thị chiếm tỷ trọng khá lớn (năm 2014 chiếm trên 70%). Các ngành nông nghiệp, nông thôn và xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, tăng cường năng lực thể chế, phát triển nguồn nhân lực… chiếm tỷ trọng khiêm tốn (năm 2014 là trên 20%). Vì vậy, đến năm 2014, một số công trình, dự án trọng điểm quốc gia có sử dụng vốn ODA như cầu Nhật Tân, đường nối Nhật Tân - Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Nhà ga hành khách T2 - Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai... đ được hoàn thành góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển KT-XH, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, nhìn chung, Việt Nam được các nhà tài trợ đánh giá là nước tiếp nhận và sử dụng ODA tương đối tốt, theo đó, các dự án của ADB tại Việt Nam đạt tỷ lệ thành công 82,1%, cao hơn tỷ lệ của một số nước như Ấn Độ (65,2%), Indonesia (63,2%), Philippines (45,5%). Tỷ lệ thành công của các dự án của Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) ở Việt Nam tương đương với mức trung ình thế giới.

Bên cạnh những kết quả t ch cực, trên thực tế, tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA và các nguồn vốn hỗ trợ phát triển vẫn còn những khó khăn, vướng mắc như sau: (i) Hệ thống văn ản pháp quy về quản lý và sử dụng vốn ODA m c dù được các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục xây dựng, sửa đổi, ổ sung để kịp thời hoàn thiện song theo đánh giá vẫn còn xung đột với các văn ản pháp quy khác, đ c biệt trong

52

lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Ngoài ra, sự khác biệt về quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ, đ c biệt trong lĩnh vực đấu thầu, chính sách về an sinh xã hội (đền b , giải phóng m t b ng và tái định cư),... đ gây khó khăn cho các Bộ, ngành và địa phương trong quá trình thực hiện, làm chậm tiến độ thực hiện và giải ngân. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý, hệ thống các văn ản pháp quy liên quan đến ODA trong thời gian qua tuy đ liên tục được hoàn thiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu hài hoà thủ tục trong nước với các Nhà tài trợ, gây khó khăn cho cả cấp quản lý và cấp thực hiện nguồn vốn ODA; (ii) Tiến độ giải ngân các nguồn vốn trong thời gian vừa qua vẫn còn chậm so với tiến độ cam kết; mức giải ngân giữa các ngành, lĩnh vực và giữa các địa phương còn chưa đồng đều; các chương trình, dự án trong lĩnh vực giao thông, năng lượng điện, phát triển đô thị có mức giải ngân cao hơn so với các lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, thông tin truyền thông, lao động, thương inh và xã hội. Theo một kết quả nghiên cứu của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cho thấy vấn đề rất đáng lưu ý, đó là nếu chậm tiến độ thi công thường dẫn đến phụ trội chi phí khoảng 14%. Ví dụ, như dự án thủy lợi Phước Hòa, chi ph tăng 101%, dự án cao tốc Nội Bài - Lào Cai tăng 15% và dự án mạng giao thông miền Trung tăng 51%; (iii) Năng lực tổ chức và quản lý ODA ở các cấp, ngành còn những hạn chế, còn để xảy ra tình trạng thất thoát, l ng ph , thậm ch là tham nhũng tại một số dự án trong thời gian vừa qua đ làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy t n của Việt Nam đối với các nhà tài trợ cũng như làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện, hiệu quả dự án đang được triển khai; (iv) Việc đảm bảo công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với các tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng còn mang t nh nguyên tắc, chưa được cụ thể hóa. Cùng với đó là hoạt động giám sát, nhất là đối với các cơ quan của Quốc hội chưa được chú trọng đúng mức.

Từ những khó khăn, vướng mắc như trên, để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA và các nguồn vốn ưu đ i khác, xin được đưa ra một số đề xuất, kiến nghị như sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn ản pháp luật liên quan đến thu hút, quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA và các nguồn vốn ưu đ i khác theo hướng tinh giản, phù hợp quy trình thủ tục giữa Việt Nam với các nhà tài trợ, đáp ứng tốt những thay đổi về viện trợ phát triển khi Việt Nam đ trở thành quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung ình. Nếu cần thiết, xem xét đề xuất xây dựng một đạo luật riêng về vấn đề này với mục tiêu tăng cường quản lý một cách thống nhất và tạo ra sự minh ạch trong quản lý, sử dụng vốn ODA phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Luật Đầu tư công và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đ tham gia ký kết.

Thứ hai, cần tổng kết việc thu hút, giải ngân vốn ODA giai đoạn 2011-2015 trên cơ sở đó sớm xây dựng định hướng chiến lược về ODA như đề xuất của Bộ Kế hoạch

53

và Đầu tư xét trong ối cảnh kinh tế thế giới vẫn chưa phục hồi mạnh, tiềm ẩn rủi ro, thu hút ODA ngày càng khó khăn cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa công tác tham tra, kiểm toán, giám sát, chống tiêu cực, tham nhũng trong quản lý, sử dụng vốn ODA. Ngoài việc quyết định các chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hướng huy động, sử dụng và quản lý về ODA, chủ trương đầu tư cần nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của Quốc hội trong việc giám sát quản lý ODA, đ c biệt là những dự án ODA được tài trợ bởi các nhà tài trợ đa phương. Quốc hội, các cơ quan Quốc hội cần tăng cường hoạt động giám sát và nếu có thể sớm thực hiện giám sát tối cao về cơ chế ch nh sách, pháp luật về thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA và các nguồn vốn ưu đ i trong thời gian tới đây./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo về tình hình thu hút, quản lý và sử dụng

nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ năm 2014.

2. Ch nh phủ, Báo cáo đánh giá về kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển KT- XH 5 năm 2006-2010, dự kiến Kế hoạch 5 năm 2011-2015 và kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH các năm 2011, 2012, 2013, 2014.

3. Ủy an Kinh tế của Quốc hội, Đổi mới thể thể chế quản lý, sử dụng và giám sát vốn ODA nhằm tăng cường t nh ền vững của nợ nước ngoài và nợ quốc gia Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới (2013-2020).

54

HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN VỐN TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM

TS. Nguyễn Viết Lợi Viện trưởng, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính

1. Bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước

2 “Nhiều chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm (1981-1985) như sản xuất lương thực, than, xi măng, gỗ, vải, hàng xuất khẩu,… không đạt đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân lao động. Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp,… tài nguyên đất nước chưa được khai thác tốt,… lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren,… những mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu d ng, năng lượng, nguyên liệu vận tải,… giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu chậm được thu hẹp, có m t còn gay gắt hơn,… đời sống của nhân dân, nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn” - (Nguồn: tr ch Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới. Phần 1, trang 15,16). Do đó, tại Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đảng VI đ khẳng định “Chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống của nhân dân” - (Nguồn: tr ch Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới. Phần 1, trang 17). 3 Lạm phát lên đến 774,7% vào nǎm 1986. 4 Tr ch: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới. Phần 1, trang 44. 5 “Đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương tr nh kinh tế (lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu). T nh h nh lương thực-thực phẩm có chuyển biến tốt. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo đã vươn lên đáp ứng được nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống của nhân dân và cải thiện cán cân xuất-nhập khẩu”; “Hàng hóa trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi”; “Kim ngạch xuất khẩu tăng 439 triệu rúp và 384 triệu đôla năm 1986 lên 1.019 triệu rúp và 1.170 triệu đôla năm 1990. Đã giảm được khá lớn mức độ nhập siêu so với trước đây. Phần bù lỗ cho xuất khẩu giảm đáng kể. Từ năm 1989 có thêm các m t hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô và một số m t hàng mới khác”. Tr ch: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới. Phần 1, trang 289, 299. 6 Trích: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới. Phần 1, trang 426.

Việt Nam ước vào công cuộc “Đổi mới” đất nước năm 1986 trong ối cảnh kinh tế g p nhiều khó khăn2 do sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt3, đất nước bị bao vây kinh tế song lại phải thường xuyên đối phó với những hành động xâm lược, phá hoại của các thế lực thù địch, thiên tai dồn dập, dân số tăng nhanh cùng với những hậu quả n ng nề của chiến tranh... Trong hoàn cảnh đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đ kiên định, vững vàng với đường lối “Đổi mới”, ra sức khắc phục khó khǎn, giữ vững ổn định chính trị, tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách. Công cuộc “Đổi mới” với “tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”4 đ được triển khai mạnh mẽ. Sau 5 năm đầu thực hiện “Đổi mới”, nền kinh tế có một số chuyển biến tích cực5 nhưng đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế, “vẫn là một nước nghèo và kém phát triển”6; trong thời gian này chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá đất

55

nước ta về nhiều m t. Trong 10 năm “Đổi mới” tiếp theo của quá trình cải cách, Đảng đ thông qua Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000 trên cơ sở đánh giá các lợi thế và nhấn mạnh một số nguồn lực cho phát triển như nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực ngoài nước. Trong giai đoạn này, nước ta đ vượt qua được những biến động chính trị ở Liên Xô, Đông Âu; phá được thế bị bao vây cấm vận7, mở rộng quan hệ đối ngoại và mở đường cho các nước, các tổ chức quốc tế hỗ trợ tài chính cho Việt Nam; giai đoạn này Việt Nam cũng không ị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, đồng thời đ đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng8. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN được xây dựng một cách đồng bộ hơn và có hiệu quả hơn; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện; thế và lực của đất nước được củng cố.

7 Ngày 03/02/1994, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton thông báo quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam. Thượng viện Hoa Kỳ trước đó 1 tuần đ thông qua quyết định trên. 8 Tăng trưởng trung ình giai đoạn 1991-2000 là 7,58%; nông nghiệp phát triển liên tục (giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng ình quân giai đoạn 1996-2000 là 5,7% so với mục tiêu đề ra 4,5 - 5%); năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng khá (năm 2000 so với năm 1995, công suất điện gấp 1,5 lần; xi măng gấp 2,1 lần; phân bón gấp trên 3,0 lần; thép gấp 1,7 lần; m a đường gấp hơn 5 lần); Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp (kể cả tiểu, thủ công nghiệp) tăng nhanh (năm 2000 đạt 10,0 tỷ USD, gấp hơn 3,4 lần năm 1995, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước); Cơ cấu các ngành kinh tế đ từng ước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Đ cải thiện một ước quan hệ tích luỹ và tiêu dùng theo hướng tăng t ch luỹ cho phát triển (tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 18,2% năm 1995 tăng lên 27% năm 2000. Tổng quỹ tích luỹ tăng ình quân hằng năm trên 9,5%; toàn ộ tích luỹ tài sản so với GDP từ 27,2% năm 1995 được nâng lên 29,5% năm 2000); Tổng quỹ tiêu dùng trong giai đoạn 1996- 2000 tăng ình quân hằng năm hơn 5%, tiêu dùng ình quân đầu người tăng hằng năm gần 3,5%. Tỷ lệ tích luỹ trong tổng tích luỹ - tiêu dùng ình quân 5 năm là 26,8%; riêng năm 2000 khoảng 28,7%, tỷ lệ tiêu dùng tương ứng khoảng 71,3%; Cân đối tài chính ngân sách có tiến bộ (tổng thu NSNN tăng ình quân hằng năm giai đoạn 1996-2000 trên 8,7%, cao hơn mức tăng ình quân GDP; trong đó thu từ thuế và phí chiếm 94,2%; mức động viên bình quân hằng năm bằng 20,3% GDP; tổng chi ngân sách nhà nước bình quân hằng năm ằng khoảng 24,2% GDP; bội chi ngân sách bình quân khoảng 4% GDP/năm); Tổng nguồn vốn đầu tư x hội trong 5 năm 1996-2000 tăng ình quân 8,6%/năm... 9 “Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ b nh quân 7,26%/năm. Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước b nh quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều m t, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước”. Trích: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 tại Văn kiện Đại hội đại

Bước sang giai đoạn 2001-2010, cùng với việc hội nhập sâu và nhanh hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, bên cạnh những thuận lợi do tiến trình hội nhập đem lại, kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, khủng hoảng nợ công ở châu Âu năm 2009. Ngoài ra, những yếu kém vốn có của nền kinh tế cùng với những thiên tai, dịch bệnh, các hoạt động chống phá, kích động bạo loạn, diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch đ tác động ảnh hưởng tới kinh tế-xã hội nước ta. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta đ nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội9.

56

Từ năm 2011, các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 được triển khai thực hiện trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp. Thâm hụt ngân sách và nợ công tăng cao ở nhiều nước, đ c biệt là các nước châu Âu10 đ dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công đến nay vẫn chưa hoàn toàn được khắc phục. Tình trạng thất nghiệp cao vẫn còn diễn ra ở nhiều nước, cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt, tranh giành tài nguyên ở một số khu vực gay gắt hơn, nhiều nước công nghiệp phát triển lâm vào khủng hoảng, trì trệ đ phải điều chỉnh ch nh sách theo hướng khuyến khích phát triển công nghiệp trong nước, làm cho cơ hội mở rộng thị trường của các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi dựa vào xuất khẩu phải đối m t với nhiều thách thức. Đồng thời, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên toàn cầu cũng có xu hướng giảm. Tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động, bất ổn chính trị bùng phát ở khu vực Trung Đông, Bắc Phi, Đông Âu (Ukraina),... gây ra nhiều hệ lụy về kinh tế, chính trị thế giới, tác động trực tiếp tới các đối tác ở những mức độ khác nhau. Những diễn biến chính trị phức tạp ở Thái Lan, tình hình căng thẳng trên biển Đông và iển Hoa Đông,… đ tác động đến sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Ngoài ra, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu toàn cầu,… cũng ảnh hưởng tới phát triển kinh tế thế giới nói chung và các nước nói riêng. Nhìn chung, tình hình thế giới trong những năm qua có nhiều tác động không thuận, quá trình phục hồi của nền kinh tế toàn cầu yếu hơn so với dự kiến, ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu các hàng hóa chủ lực của nước ta, đến lượng khách du lịch, đến xuất khẩu lao động và thu hút các nguồn vốn như ODA, FDI, vốn đầu tư gián tiếp (FII),... của nước ta.

biểu toàn quốc lần thứ XI, trang 91, 92. 10 Nợ công ở châu Âu bùng phát bắt đầu từ Hy Lạp vào năm 2010 với mức thâm hụt ngân sách lên đến 15,7% GDP và nợ công là 123% GDP, đến năm 2014 mức thâm hụt ngân sách Hy Lạp giảm xuống còn 3,5% GDP nhưng nợ công đ tăng lên 177,1% GDP. Nợ công đ tăng nhanh chóng ở các nước khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, I-ta-li-a, Ai- len,… 11 GDP ình quân đầu người năm 2010 đạt 1.295,85 USD, gấp hơn 2 lần so với năm 2005. Nguồn: Cơ sở dữ liệu Triển vọng kinh tế thế giới của IMF, tháng 10/2013. 12 Tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc giảm từ mức 22% năm 2005 xuống còn 9,45% năm 2010 (Nghị quyết 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020). 13 Chỉ số phát triển con người của Việt Nam năm 2010 đ tăng 5,1% so với năm 2006 (Chỉ số phát triển con người của Việt Nam năm 2006 là 0,598; năm 2010 là 0,629). Nguồn: Báo cáo phát triển con người.

Trong nước, m c dù nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong giai đoạn 2006-2010 (như ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế ình quân đạt 7%/năm, nước ta đ ra khỏi tình trạng kém phát triển11 và hoàn thành nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ cam kết với quốc tế12, chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện13) nhưng khi ước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, tình hình kinh tế đ có những dấu hiệu bất ổn. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế từ nhiều năm chưa được giải quyết (như sức cạnh tranh thấp, năng lực

57

quản trị yếu kém, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, khoa học công nghệ còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực thấp, thị trường tài ch nh còn chưa phát triển mạnh, tăng trưởng vẫn dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu…) đ ộc lộ ra một cách rõ ràng, gay gắt cùng với m t trái của chính sách hỗ trợ tăng trưởng đ tác động ảnh hưởng tới ổn định kinh tế vĩ mô. Đó là: tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại14; tín dụng tăng trưởng thấp15, nợ xấu cao, thanh khoản của nền kinh tế chưa được cải thiện; lạm phát có xu hướng giảm nhưng còn tiềm ẩn16; sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp g p nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp, tạm ngưng hoạt động ho c giải thể, số doanh nghiệp kê khai kinh doanh có lãi giảm; chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp đạt thấp; sức mua thị trường giảm, chỉ số tồn kho tăng… Điều này cho thấy giai đoạn 2011-2015 nền tài chính quốc gia phải ứng phó với không t khó khăn do các biến động bất lợi của tình hình KT-XH trong nước và quốc tế. Đ c biệt trong giai đoạn 2011-2015, Quốc hội, Chính phủ đ an hành nhiều chính sách miễn, giảm, giãn thời hạn nộp thuế và thu ngân sách của một số đối tượng nhằm tăng khả năng cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Tuy nhiên, trong ngắn hạn đ làm giảm thu ngân sách khoảng 85 nghìn tỷ đồng, tác động làm giảm tỷ lệ động viên xấp xỉ 1% GDP. Nếu tính cả các yếu tố do tăng trưởng kinh tế thấp hơn dự kiến thì tốc độ tăng thu ình quân giai đoạn 2011-2015 khoảng 9-10%/năm, ằng ½ tốc độ tăng thu giai đoạn 2006-2010 ( ình quân trên 20%/năm). Trong khi thu NSNN có xu hướng giảm, tích lũy của nền kinh tế còn nhỏ, khả năng huy động đầu tư từ các nguồn vốn ngoài NSNN còn hạn chế, nên nguồn vốn đầu tư giai đoạn này trông chờ chủ yếu vào nguồn NSNN và TPCP. Tuy nhiên, do tỷ trọng chi thường xuyên trên tổng chi NSNN tăng nhanh17, cùng với nhu cầu tăng chi trả nợ nên tỷ trọng bố trí dự toán chi ĐTPT giai đoạn này giảm lớn so với giai đoạn trước. Giai đoạn này Chính phủ đ phải huy động mức TPCP cho đầu tư rất lớn (giai đoạn 2014-2016 Quốc hội đ chấp thuận huy động thêm 170 nghìn tỷ đồng TPCP ngoài 225 nghìn tỷ đồng giai đoạn 2011-2015) để có nguồn đầu tư các dự án hạ tầng phát triển KT-XH và đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.

14 Tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo giá cố định trung ình 3 năm 2011-2014 là 5,72%/năm (tốc độ tăng GDP theo giá cố định năm 2011 là 6,24%; năm 2012 là 5,25% và năm 2013 là 5,42% và 2014 là 5,98%) trong khi giai đoạn tưng ứng trước đó 2007-2010 là 6,15%/năm. 15 Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân khoảng 35,8%/năm, giai đoạn 2011-2014 đạt bình quân khoảng 11,8%/năm. 16 Chỉ số giá tiêu dùng năm sau so với năm trước trong giai đoạn 2011-2014 lần lượt là 18,13% năm 2011; 6,81% năm 2012; 6,04% năm 2013 và 1,84% năm 2014. 17 Cơ cấu chi thường xuyên giai đoạn 2011-2015 ở mức bình quân 64,8% tổng chi NSNN, tăng xấp xỉ 10% so với giai đoạn 2006-2010 (bình quân 55%).

Thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, m c dù phải đối m t với nhiều

58

khó khăn, thách thức, trong giai đoạn 2011-2015 nước ta đ đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) tiếp tục được hoàn thiện và hoạt động có hiệu quả hơn; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tỷ giá cơ ản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng, cán cân thương mại được cải thiện, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên; thế và lực của đất nước được củng cố và tăng cường. Các cơ chế, ch nh sách làm cơ sở cho việc vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Các điều kiện tiền đề cho thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) tiếp tục được xây dựng và củng cố.

2. Chủ trư ng của Đảng, Nhà nước trong huy động các nguồn vốn trong

và ngoài nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam

Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta, với xuất phát điểm về kinh tế thấp, khả năng t ch lũy nội bộ từ nền kinh tế chưa cao nên nhu cầu về vốn đầu tư trong và ngoài nước đối với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT-XH luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo tại các Văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội. Cụ thể:

2.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước trong huy động nguồn vốn trong nước

Một là, huy động nguồn lực NSNN thông qua việc hoàn thiện hệ thống chính sách thu NSNN cùng với việc nâng cao hiệu quả quản lý thu, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho đối tượng thu nộp ngân sách. Cụ thể:

18 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. 19 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của

Thời kỳ đầu “Đổi mới” giai đoạn 1986-1990, cùng với những quan điểm và chủ trương mới về phát triển KT-XH mà trọng tâm là a chương trình kinh tế lớn (lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu), Đại hội Đảng VI (1986) đ xác định: “...Nghiên cứu và ban hành chính sách tài chính quốc gia thống nhất phù hợp với đ c điểm nước ta, giải quyết đúng đắn việc phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân... có chính sách khuyến khích đúng mức để tăng mạnh nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế, chống thất thu,... căn cứ vào nguồn thu mà bố trí chi, không chi vượt quá khả năng thu của ngân sách”18. Bên cạnh đó còn nhấn mạnh vấn đề phải “thực hiện thu thuế công thương nghiệp theo đúng thời giá; không khoan nhượng đối với những hộ không chấp hành, cố tình không nộp đủ thuế. Xúc tiến nghiên cứu và có sự điều chỉnh hợp lý đối với các loại thuế nông nghiệp, thuế vườn, thuế thuỷ sản... Mau chóng củng cố tổ chức ngành thuế, loại trừ số nhân viên tiêu cực”19; thực hiện

59

“Miễn thuế nông nghiệp trong một thời gian để khuyến khích những nơi tăng vụ ho c mở thêm diện tích”; “cải tiến chính sách thuế đối với tiểu, thủ công nghiệp theo hướng khuyến khích các ngành, nghề cần phát triển” và “nghiên cứu ban hành thuế xuất, nhập khẩu nh m thể hiện chính sách đối với các m t hàng, thiết lập trật tự và kỷ cương trong lĩnh vực ngoại thương”20. Tuy nhiên, các nội dung đề cập tới việc điều chỉnh chính sách thu NSNN tại Đại hội Đảng VI khá rời rạc, chưa có một chương trình tổng thể về đổi mới hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và thu NSNN.

Thời kỳ hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước giai đoạn 1991-1995, Đại hội Đảng VII (1991) tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI và nhấn mạnh: “đã sửa đổi, bổ sung hệ thống thuế,…động viên khá hơn các nguồn thu cho ngân sách”, tuy nhiên, “tình trạng thất thu thuế và bội chi ngân sách còn lớn”, công tác thanh tra, kiểm tra thuế thiếu ch t chẽ, phát hiện và xử lý những vụ vi phạm chưa kịp thời và chưa nghiêm. Theo đó nhiệm vụ cho giai đoạn 1991- 1995 là: “Tiếp tục đổi mới và bổ sung các luật thuế. Kiện toàn hệ thống thu thuế, chống thất thu và lạm thu, chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác thuế”21, đồng thời thực hiện “thu đúng và thu đủ thuế, chống thất thu thuế để tạo thêm nguồn thu cho tài chính nhà nước”22, thực hiện “giáo dục toàn dân nghĩa vụ đóng thuế”23. Như vậy, trong giai đoạn này, không chỉ hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách được rà soát, hoàn thiện mà cả hệ thống các cơ quan thu thuế cũng được kiện toàn, công tác tuyên truyền chính sách thuế được quan tâm, chú trọng.

Đảng. 20 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. 21 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. 22 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. 23 Trích: Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000. 24 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng.

Đại hội Đảng VIII (1996) đánh giá giai đoạn 1991-1995 đ hình thành được hệ thống thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, nâng dần tỷ lệ động viên thuế và phí trong GDP, tạo thành nguồn thu chính của NSNN,... Tuy nhiên, “Hệ thống thuế phức tạp, chồng chéo, chưa hợp lý, vừa ít khuyến khích sản xuất, vừa có nhiều kẽ hở dễ bị lợi dụng”24. Do vậy, nhiệm vụ trong giai đoạn 5 năm 1996-2000 đ nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng vừa bảo đảm nguồn thu cho NSNN, vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh, thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng để tăng t ch luỹ; đơn giản hoá hệ thống thuế và biểu thuế suất; nâng tính ổn định của thuế, áp dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) thay cho thuế doanh thu; bổ sung thuế và phí sử dụng tài nguyên thiên nhiên không tái tạo là nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 1996-2000. Theo đó “Tiếp tục cải cách hệ thống thuế bước 2,

60

đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế và phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng không làm giảm nguồn thu ngân sách. Trong chỉ đạo điều hành, ngoài việc tận thu thuế và phí theo luật định, phải vừa nuôi dưỡng, làm tăng nguồn thu, vừa triệt để khai thác các nguồn thu khác (đất đai, tài nguyên, nhà cửa, trụ sở...) để tăng thu ngân sách, đáp ứng tốt hơn nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước. Đồng thời, để từng bước thực hiện công b ng xã hội, cần sửa đổi, bổ sung các sắc thuế, điều tiết có hiệu quả thu nhập của các tầng lớp dân cư”. Ngoài ra, trong giai đoạn này áp dụng danh mục và sự phân loại hàng hoá, quy chế hải quan phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định chung của các nước ASEAN, chuẩn bị cho tiến trình gia nhập khối mậu dịch tự do AFTA. Thực hiện bảo hộ sản xuất có chọn lọc và có thời hạn bằng các biện pháp thích hợp, hỗ trợ các cơ sở sản xuất nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và ngăn ch n buôn lậu.

Đến năm 2001, tại Đại hội Đảng IX đ chỉ ra việc cải cách thuế giai đoạn 2 đ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng nguồn thu cho ngân sách. Tổng thu ngân sách nhà nước tăng ình quân hằng năm trên 8,7%, cao hơn mức tăng ình quân GDP; trong đó thu từ thuế và phí chiếm 94,2%; mức động viên bình quân hằng năm ằng 20,3% GDP. Tuy nhiên, chính sách thuế chưa thật hợp lý, chưa ao quát hết các nguồn thu. Thất thu ngân sách, nợ thuế và khê đọng thuế còn lớn. Một số cơ chế, ch nh sách có xu hướng trở lại bao cấp như xoá nợ, giảm thuế, miễn thuế của Nhà nước đ làm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thiếu năng động, sáng tạo và có phần ỷ lại. Do đó cần phải: “tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai, minh bạch, giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư; khuyến khích phát triển sản xuất và bảo đảm công b ng xã hội. Tiến hành cải cách thuế giai đoạn 3 theo hướng thu hẹp dần các mức thuế suất, giảm tỷ trọng thuế gián thu, áp dụng các sắc thuế mới như thuế thu nhập cá nhân, thuế bất động sản. Thực hiện các cam kết quốc tế về giảm thuế. Cải tiến hình thức thu phí, lệ phí qua ngân sách; đổi mới phương thức thu thuế, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Bảo đảm thu đúng, thu đủ vào ngân sách nhà nước, chống thất thu và lạm thu. Cơ quan thuế thực hiện chức năng kiểm tra, xử lý vi phạm”; Ngoài ra, xem xét việc giảm thuế (đ c biệt là thuế thu nhập đối với các chuyên gia có trình độ cao của Việt Nam và của nước ngoài), giảm chi phí giao dịch đối với các hoạt động chuyển giao công nghệ, nghiên cứu chính sách thuế, phí bảo vệ môi trường.

Sang Đại hội Đảng X (2006) trên cơ sở xem xét hệ thống chính sách thuế áp dụng giai đoạn 2001-2005 đ chỉ ra rằng “Thu ngân sách còn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ thuế nhập khẩu và dầu thô”. Do đó, để đảm bảo tính bền vững của hệ thống chính sách thuế cần: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo

61

nguyên tắc công b ng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh. Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập. Không lồng ghép chính sách xã hội trong chính sách thuế. Từng bước thực hiện phương pháp tính thuế, quản lý thu thuế, xử lý các vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế; hiện đại hoá công tác quản lý hành chính thuế và phát triển dịch vụ tư vấn thuế”.

Đại hội Đảng XI (2011) đ đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010 và đưa ra định hướng trong giai đoạn 2011-2015 cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, rà soát nghiên cứu ch nh sách ưu đ i về về đất đai, thuế; đổi mới và hoàn thiện chính sách viện phí; tịch thu, sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng.

Hai là, huy động nguồn lực trên cơ sở h nh thành đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Thực hiện phát hành các công cụ vay nợ (cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trong nước,...) trên thị trường.

Nhằm huy động có hiệu quả các nguồn lực trên thị trường, Đại hội Đảng VII (1991) đ đề cập tới việc “từng bước h nh thành và mở rộng đồng bộ các thị trường bao gồm các yếu tố của quá tr nh tái sản xuất (thị trường hàng tiêu d ng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức lao động...). Phát triển các h nh thức thu hút vốn và bảo đảm chu chuyển vốn nhanh, xây dựng thí điểm thị trường chứng khoán khi có điều kiện”25. Bên cạnh đó còn nhấn mạnh việc “cải tổ hệ thống ngân hàng, xúc tiến thành lập các tổ chức bảo hiểm, phát triển các loại doanh nghiệp cổ phần, các h nh thức cổ phiếu, trái phiếu, tạo điều kiện h nh thành thị trường chứng khoán” và để những chủ trương của Đảng sớm đi vào cuộc sống việc “khuyến khích và bảo đảm cho mọi tổ chức và cá nhân an tâm bỏ vốn đầu tư kinh doanh, mua cổ phiếu, trái phiếu, mua bảo hiểm, gửi quỹ tiết kiệm nh m huy động mọi nguồn vốn trong xã hội vào chu chuyển kinh tế”26 cũng được Đảng quan tâm, chú trọng.

25 Trích: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII 26 Trích: Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000

M c dù chủ trương phát triển các loại thị trường nhằm huy động có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế đ được đề cập từ Đại hội Đảng VII (1991) nhưng tới Đại hội Đảng VIII (1996) “thị trường tiền tệ, thị trường vốn chậm phát triển” đòi hỏi cần phải tiếp tục “Phát triển thị trường tiền tệ và thị trường vốn, h nh thành từng bước thị trường chứng khoán”, trong đó “Phát triển thị trường vốn b ng nhiều h nh thức thu hút tiền gửi trung, dài hạn qua ngân hàng và các công ty tài chính để cho

62

vay đầu tư phát triển. Mở rộng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu và xúc tiến chuẩn bị về thể chế, cán bộ và các điều kiện cần thiết cho việc thiết lập thị trường chứng khoán và bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của thị trường này”. Trên cơ sở đó “tăng nhanh mức huy động vốn thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và mở rộng thị trường vốn b ng nhiều h nh thức như: tiền gửi tiết kiệm dài hạn, phát hành trái phiếu, cổ phiếu, kể cả việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp”27.

Bước sang giai đoạn 2001-2005, tại Đại hội Đảng IX (2001) khẳng định “Đã h nh thành thị trường tiền tệ liên ngân hàng, bắt đầu áp dụng công cụ thị trường mở và thành lập trung tâm chứng khoán”28. Cũng trong thời gian này, thị trường vốn, tiền tệ; thị trường ất động sản... đang được hình thành với những cơ chế ch nh sách quản lý phù hợp đ tạo thêm động lực cho sự phát triển, khơi dậy t nh năng động của nền kinh tế. Tuy nhiên, “thị trường vốn phát triển chậm... thị trường chứng khoán đã mở ra, song hoạt động còn lúng túng”29. Do vậy, cần phải “duy tr ổn định các cân đối vĩ mô; phát triển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội”.

Đại hội Đảng X (2006) đ tiếp tục đưa ra giải pháp để phát triển đồng ộ các loại thị trường, trong đó việc phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ được thực hiện “theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị trường chứng khoán thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích h nh thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán. H nh thành đồng bộ thể chế về thị trường chứng khoán; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này”30.

27 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng 28 Trích báo cáo Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. 29 Trích Báo cáo Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2001 – 2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại iểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng 30 Trích báo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại iểu toàn quốc lần thứ X của Đảng

Đến Đại hội XI (2011), một lần nữa tiếp tục khẳng định việc “Tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường”, trong đó “Phát triển thị trường tài chính với cơ cấu hoàn chỉnh, quy mô tăng nhanh, phạm vi hoạt động mở rộng, vận hành an toàn, được quản lý và giám sát hiệu quả. Phát triển và kiểm soát có hiệu quả

63

thị trường chứng khoán. Phát triển lành mạnh, bền vững thị trường bất động sản, ngăn ch n t nh trạng đầu cơ; hoàn thiện cơ chế vận hành sàn giao dịch bất động sản...” 31.

Ba là, huy động nguồn lực từ đất đai và tài nguyên khác

Trong những năm đầu của quá trình “Đổi mới”, Đảng đ nhận thấy “đất đai, rừng, biển chưa được sử dụng tốt...”32 và cần phải khai thác đến mức cao nhất những tiềm năng này. Do đó để thực hiện tốt a chương trình kinh tế lớn, Đại hội Đảng VI (1986) đ nhấn mạnh việc “Phải hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất đai, làm tốt công tác quản lý ruộng đất, nhất là ở cơ sở và đối với đất lúa. Chú trọng các biện pháp tổng hợp để vừa tăng độ ph của đất, vừa tăng hệ số sử dụng ruộng đất”, đồng thời “sử dụng hết những diện tích đất đai còn hoang hoá, đồi trọc và phát triển ngành, nghề” để đến cuối 5 năm (1986-1990) cơ ản sử dụng hết đất đai. Đ c iệt, trong giai đoạn này đ chú trọng việc “thực hiện phân bố lại lao động, gắn lao động với khai thác đất đai, phát triển ngành, nghề, vận động định canh, định cư,... nh m phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội”. Sang Đại hội Đảng VII (1991), Đảng đ nhấn mạnh việc “Tiếp tục xoá bỏ các h nh thức phân phối hiện vật; tính đủ giá trị đối với đất đai, tài nguyên... đưa vào sử dụng”, theo đó thực hiện “Khai thác tổng hợp kinh tế biển, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản, nhất là các loại có khả năng xuất khẩu, gắn liền với chiến lược khai thác và bảo vệ v ng biển của đất nước; Phát triển kinh tế rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng tài nguyên rừng, bảo vệ thiên nhiên và môi trường sinh thái”; “Coi trọng khai thác các tài nguyên, góp phần tạo nguồn tích luỹ ban đầu như dầu khí, sớm xây dựng cơ sở lọc dầu, sản xuất phân đạm; khai thác đá quý, bốcxít, đất hiếm...”. Trên cơ sở coi trọng khai thác các tài nguyên, góp phần tạo nguồn t ch luỹ an đầu.

31 Trích Chiến lược phát triển KT-XH 2011 – 2020. 32 Tr ch Văn kiện Đại hội Đảng VI

Trong những năm 1996-2000, chủ trương của Đảng là đẩy mạnh việc rà soát, quản lý có hiệu quả nguồn lực đất đai, tài nguyên khác. Theo đó chú trọng công tác “điều tra tài nguyên và sinh vật biển để có kế hoạch khai thác, bảo vệ”, phát triển kinh tế iển, đảo, kinh tế rừng. Đối với nguồn lực từ đất đai, cần thực hiện “thu hồi đất đai đã cấp không đúng đối tượng, không đúng chính sách; thu hồi đất đã cấp cho các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng không đúng mục đích, để giao cho các hộ nông dân nghèo chưa được giao đất ho c giao chưa đủ mức”. Chủ động nghiên cứu “bổ sung thuế và phí sử dụng tài nguyên thiên nhiên không tái tạo”. Qua đó nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài nguyên, đất đai.

64

Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển KT-XH giai đoạn 2001-2005, Đại hội Đảng IX đ chú trọng vào các “cơ chế, chính sách, nh m tăng khả năng khai thác các nguồn lực, đ c biệt là nguồn lực trong nước để phát triển như nguồn vốn từ đất đai và từ việc chuyển dịch mục tiêu sử dụng đất (khai hoang, thâm canh tăng vụ, tăng năng suất và giá trị cây trồng, vật nuôi trên mỗi đơn vị diện tích...)”. Qua đó “đảm bảo sử dụng hợp lý tài nguyên, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tiết kiệm và tiết chế sử dụng tài nguyên không tái tạo được”33.

Đến Đại hội Đảng X (2006) đ đánh giá: “Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng”. Tăng trưởng kinh tế những năm qua chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên. Theo đó, Nhà nước nhấn mạnh việc tăng cường quản lý, ảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý và tiết kiệm, hết sức hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản chưa qua chế iến, chú trọng công tác quy hoạch đất đai, đồng thời “Phát triển thị trường bất động sản trên cơ sở thực hiện Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật về kinh doanh bất động sản...; hoàn thiện việc phân loại, đánh giá đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; làm cho quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hoá một cách thuận lợi, đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển”.

M c dù các chủ trương, ch nh sách của Đảng trong quản lý, khai thác nguồn lực tài nguyên đ được đưa ra khá rõ ràng nhưng “tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có m t chưa ph hợp”34. Theo đó, ước sang giai đoạn 2011-2015, Đảng đ nhấn mạnh “Trong thập niên tới, hòa b nh, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc và tôn giáo, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ... có thể gia tăng c ng với những vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên... buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối hợp hành động”. Trong đó, đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, một trong những nhân tố gây mất ổn định nhất là tranh giành ảnh hưởng, tranh chấp chủ quyền iển, đảo, tài nguyên... Ch nh vì vậy, cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng cũng tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài ch nh toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những ước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên đòi hỏi Việt Nam phải “Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các nguồn 33 Tr ch: Văn kiện Đại hội Đảng VII 34 Tr ch: Văn kiện Đại hội Đảng XI

65

tài nguyên thiên nhiên khác. Hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến”. Do đó, đối với nguồn lực đất đai cần phải “Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của người giao lại quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho sự phát triển; khắc phục t nh trạng lãng phí và tham nhũng đất đai”. Ngoài ra, phát triển mạnh kinh tế iển, đảo tương xứng với vị thế và tiềm năng iển của nước ta, gắn phát triển kinh tế iển với ảo đảm quốc phòng, an ninh, ảo vệ chủ quyền vùng iển. Quy hoạch và có ch nh sách phát triển phù hợp các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đ c dụng với chất lượng được nâng cao; Khuyến kh ch các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng sản xuất; gắn trồng rừng nguyên liệu với công nghiệp chế iến ngay từ trong quy hoạch và dự án đầu tư; lấy nguồn thu từ rừng để phát triển rừng và làm giàu từ rừng...

Bốn là, khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực/tiềm năng lao động

Năm 1986, khi ước vào công cuộc “Đổi mới” trong ối cảnh một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm 1981-1985 không đạt. Hàng triệu lao động chưa có việc làm. Để thực hiện a chương trình kinh tế lớn là lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, Đảng đ nhận thấy rằng cần phải giải phóng năng lực sản xuất, trước hết và chủ yếu là giải phóng năng lực sản xuất của hàng chục triệu lao động. Do đó, việc phát triển các ngành nghề và sắp xếp hợp lý lực lượng lao động trong các ngành, nghề có vai trò quan trọng trong thu hút và nâng cao hiệu quả huy động nguồn nhân lực, giải quyết việc làm trong điều kiện nước ta hiện nay. Cùng với đó là việc nghiên cứu an hành các ch nh sách thật sự khuyến kh ch các sáng kiến, sáng chế, động viên hơn nữa lao động sáng tạo với ý thức lao động (là lực lượng sản xuất lớn nhất) được giải phóng trở thành người chủ thực sự của quá trình sản xuất kinh doanh, sẽ vươn lên với sức sáng tạo mới. Đó là nguồn vốn quan trọng và quyết định nhất. Theo đó Đại hội Đảng VII (1991) đ nhận thức một trong những tiềm năng để phát triển là đội ngũ lao động và cán ộ khoa học, kỹ thuật cần cù, thông minh, sáng tạo. Để huy động nguồn lực lao động vào phát triển kinh tế, ên cạnh việc điều chỉnh ch nh sách tiền lương và thu nhập Đảng đ nhấn mạnh việc phát triển các hình thức kinh tế (tập thể, kinh tế hộ gia đình,...) ằng các cơ chế phù hợp (v dụ cơ chế khoán, cơ chế tự chủ,...) cùng với việc kết hợp lao động và khai thác có hiệu quả tài nguyên, khoáng sản,... Từ đó giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân. Ngoài ra, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, ố tr và sắp xếp lại lực lượng lao động trong các ngành, nghề thông qua các ch nh sách, iện pháp của nhà nước “nh m đạt tới sự cân đối giữa đào tạo và sử dụng ở các tr nh độ và các ngành nghề khác nhau, đ c biệt bảo đảm được nhân lực cho các ngành mũi nhọn và

66

các chương tr nh kinh tế - xã hội trọng điểm” cũng đ được đề cập tại Đại hội Đảng VIII (1996). Đến Đại hội Đảng IX (2001), cùng với việc tiếp tục đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, đ c iệt là trong các ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao nhằm nâng cao chất lượng lao động nói chung, tăng chất lượng xuất khẩu lao động nói riêng được xem là những khâu quan trọng trong giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Từ đó góp phần huy động có hiệu quả nguồn lực từ lao động vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Đại hội Đảng X (2006) nhấn mạnh việc phát triển thị trường lao động trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông suốt để thị trường lao động được hình thành theo hướng gắn kết cung - cầu lao động. Bên cạnh đó, vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động cũng là yêu cầu được Đại hội Đảng đưa ra nhằm huy động và sử dụng nguồn lao động hiệu quả. Tiếp đó, đến Đại hội Đảng XI (2011) Đảng đ nhận thức quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng, nguồn lực lao động ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH. Do vậy, cùng với việc phát triển thị trường lao động, việc “Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nh m khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động. Bảo đảm quan hệ lao động hài hoà, cải thiện môi trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và v ng đô thị hoá” là những nội dung quan trọng được đưa ra thực hiện trong giai đoạn 2011-2015 nhằm khai thác tiềm năng lao động.

Năm là, khai thác các nguồn vốn từ dân cư

Bên cạnh nguồn lực lao động, việc khai thác các nguồn lực từ dân cư vào phát triển kinh tế-x hội cũng được Đảng quan tâm, chú trọng. Theo đó, để huy động nguồn vốn nhàn dỗi trong dân cư, Đại hội Đảng VI (1986) đ đề cập tới việc “Mở rộng hoạt động của hợp tác xã tín dụng, để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân phục vụ phát triển sản xuất và lưu thông. Đẩy mạnh huy động tiền tiết kiệm trên cơ sở bảo hiểm giá trị tiền gửi b ng hiện vật và có lãi suất thích hợp”. Đại hội Đảng VII (1991) đ đưa ra các tiềm năng nguồn lực trong dân cư, trong đó đề cập “mọi người có sức lao động có việc làm, mọi tài năng được trọng dụng, mọi tài nguyên, tài sản, tiền nhàn rỗi được đưa vào phát triển kinh tế”, đồng thời “Khuyến khích và bảo đảm cho mọi tổ chức và cá nhân an tâm bỏ vốn đầu tư tự kinh doanh, mua cổ phiếu, trái phiếu, mua bảo hiểm, gửi quỹ tiết kiệm nh m huy động mọi nguồn vốn trong xã

67

hội vào chu chuyển kinh tế”. Tuy nhiên, “Đầu tư của nhân dân vào sản xuất còn ít”35 và điều này tiếp tục được nhấn mạnh tại Đại hội Đảng IX (2001), đó là “Nguồn vốn trong dân cư chưa được huy động đúng mức, chưa có chính sách đủ mạnh để khuyến khích dân bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh”. Theo đó, Đại hội Đảng IX, X và XI đ đề cập tới việc huy động các nguồn lực trong dân cư thông qua các ch nh sách x hội hóa trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục, ảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo,...

Sáu là, đẩy mạnh thu hút các nguồn lực từ các thành phần kinh tế, tổ chức

kinh tế

Khuyến kh ch các thành phần kinh tế ỏ vốn đầu tư, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, x hội của đất nước là chủ trương lớn của Đảng xuyên suốt qua các kỳ đại hội. Trong đó, để thu hút các nguồn lực từ các thành phần kinh tế, tổ chức kinh tế, Đại hội Đảng VI (1986) đ nhấn mạnh việc phát huy hơn nữa mọi khả năng về nguồn vốn của các thành phần kinh tế thông qua khai thác từ những thế mạnh hiện có trong nền kinh tế là nông, lâm, ngư nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp từ việc ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật; từ việc triệt để tiết kiệm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm... Tại các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo Đảng nhấn mạnh tự do kinh doanh, không phân iệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, có cơ chế khuyến kh ch và tạo điều kiện, môi trường kinh doanh thuận lợi để các thành phần kinh tế có cơ hội tiếp cận về vốn, đất đai, lao động, công nghệ, trong sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu,... Qua đó khai thác và thu hút đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực từ các thành phần kinh tế cho thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-x hội đất nước.

Ngoài các chủ trương của Đảng và Nhà nước về huy động các nguồn lực trong nước cho phát triển KT-XH nêu trên, việc sắp xếp và củng cố lại các đơn vị kinh tế; cho thuê, chuyển hình thức sở hữu ho c giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên. Sắp xếp lại các liên hiệp x nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường; Phát triển các hình thức hợp tác đa dạng và mở rộng các hình thức kinh tế cũng là những iện pháp huy động các nguồn lực cho phát triển KT-XH đất nước.

2.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước trong huy động các nguồn lực ngoài

nước

Việc tranh thủ các nguồn vốn ên ngoài với mức cao nhất để thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH đất nước đ luôn được Đảng quan tâm chú trọng. Đ c iệt từ năm 1991 trở đi, nguồn vay ên ngoài cho ngân sách giảm mạnh, những khoản vay 35 Tr ch: Văn kiện Đại hội Đảng VIII

68

để thanh toán nhập siêu và sự ưu đ i về giá đ chấm dứt. Theo đó, việc liên doanh với nước ngoài, tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế là một trong những vấn đề quan trọng. Đ c iệt, tại Đại hội Đảng VIII đ nhấn mạnh: “vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng... và trong những năm đầu thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn lớn, mà vốn trong nước còn hạn hẹp, nên phải huy động thêm nguồn vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển, trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế và trả được nợ”. Nguồn vốn huy động từ bên ngoài bao gồm vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, vốn FDI, vốn đầu tư gián tiếp FII (vốn của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán) và vốn vay ưu đ i, vay thương mại (phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài), và tìm thêm các nguồn vay khác để đầu tư trung và dài hạn. Ngoài ra còn có nguồn kiều hối gửi về và đầu tư hàng năm.

Có thể thấy, việc thu hút nguồn vốn bên ngoài của nước ta trong 30 năm “Đổi

mới” có thể chia làm 3 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1986-2000, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh khai thông, mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút vốn đầu tư mạnh mẽ từ nhiều nước và tổ chức quốc tế cũng như khuyến khích kiều bào ở nước ngoài tham gia xây dựng tổ quốc36; Đại hội Đảng VII (1991) xác định cần “tranh thủ mọi khả năng và d ng nhiều hình thức thu hút vốn ngoài nước, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh, … chú trọng hình thức công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp vào nước ta, gắn với chuyển giao công nghệ tiên tiến và đẩy mạnh xuất khẩu,…”. “Tranh thủ viện trợ và vay dài hạn lãi suất thấp,...”. Ta phải khai thông và tăng cường quan hệ chính trị, ngoại giao, đồng thời tích cực giải quyết nợ cũ theo hướng xác nhận nợ, cố gắng trả một phần, ưu tiên các khoản trả để vay thêm, áp dụng một số hình thức giải quyết nợ, thương lượng hoãn nợ và bảo đảm thực hiện các cam kết qua thương lượng. Hướng sử dụng vốn ODA tập trung trước hết vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng (điện, giao thông, thông tin...). Đối với vốn vay theo lãi suất thị trường, trong hoàn cảnh nguồn vốn ODA chưa được khai thông, nguồn vốn FDI khó thu hút vào cơ sở hạ tầng, thì không loại trừ việc vay vốn theo lãi suất thị trường để xây dựng một số công trình đ c biệt cấp thiết37. Theo đó cơ chế thu hút nguồn tài trợ phát triển song phương và đa phương,... được Đảng quan tâm chú trọng và yêu cầu cần phải được thiết lập. Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA) đa phương và song phương tăng dần lên trong giai đoạn 1986-2000. Tuy nhiên, trong giai đoạn này lại chưa có một chiến lược hay đề án cụ thể thu hút nguồn vốn bên ngoài cho xây 36 Có chính sách khuyến khích Việt kiều gửi tiền và vật tư về nước thay cho việc gửi hàng tiêu dùng - Trích Nghị quyết Đại hội Đảng VI 37 Báo cáo của Bộ Chính trị trình Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về phát triển kinh tế đối ngoại trong tình hình mới. Tr ch Văn kiện Đảng toàn tập số 52.

69

dựng và phát triển đất nước. Đối với nguồn FDI chủ trương đa dạng hóa nhiều hình thức huy động vốn trên cơ sở đó có ch nh sách và iện pháp hữu hiệu để thu hút vào những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn khó khăn. Hình thức đầu tư được Đảng quan tâm bổ sung những hình thức mới, như đầu tư tài ch nh ( ên ngoài góp vốn, mua cổ phần, nhưng không tham gia quản lý như x nghiệp liên doanh). Về đối tác đầu tư, thông qua tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia để tranh thủ được công nghệ nguồn, tiếp cận cách quản lý hiện đại và thâm nhập nhanh vào thị trường quốc tế, mở rộng được thị trường mới.

+ Giai đoạn 2001-2010: việc thu hút ODA đ có chọn lọc trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm trong thu hút vốn ODA, FDI và các nguồn vốn vay bên ngoài khác. Theo đó để thu hút vốn ên ngoài trong giai đoạn này Đảng đ nhấn mạnh việc xây dựng Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), các nguồn vốn huy động từ bên ngoài khác; khuyến khích kiều bào ở nước ngoài tham gia đóng góp, đầu tư xây dựng đất nước. Ngoài ra, chủ trương nghiên cứu để tiến tới áp dụng một khung pháp luật thống nhất chung cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng là một trong những ước tiến cải cách nhằm tăng cường huy động nguồn lực ngoài nước cho phát triển KT-XH đất nước. Bên cạnh đó, để thu hút các nguồn lực bên ngoài, Việt Nam tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế, phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài (thông qua các hình thức bảo lãnh phát hành của Chính phủ cho doanh nghiệp vay, liên doanh liên kết với nước ngoài,...); chú trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn nữa để khai thác lợi thế của đất nước và khắc phục những vướng mắc ảnh hưởng đến việc thu hút các nguồn vốn quốc tế, như vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp dưới nhiều hình thức, tín dụng thương mại và các nguồn vốn quốc tế khác. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI; tranh thủ nguồn vốn ODA đi đôi với việc đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng và có kế hoạch đảm bảo trả nợ. Từng ước mở rộng đầu tư gián tiếp của nước ngoài và có chính sách hiệu quả hơn để thu hút kiều hối vào phát triển kinh tế

+ Giai đoạn từ năm 2011 đến nay: chủ trương của Đảng là tận dụng mọi thời cơ, sự ủng hộ của các tổ chức, chính phủ các nước thực hiện huy động nguồn vốn bên ngoài trên cơ sở định hướng đầu tư ằng các chương trình đầu tư, dự án đầu tư cụ thể. Do đó để thu hút các nguồn lực bên ngoài, Việt Nam đ đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn các công trình, dự án đ được ký kết; xây dựng Chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA cho thời kỳ mới, tập trung vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung

70

tâm kinh tế và các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn; Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tạo lợi thế so sánh để thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đầu tư cho sản phẩm xuất khẩu và công nghệ cao, tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài; thực hiện đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư đối với đầu tư nước ngoài; thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện, mở rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế...

Như vậy, có thể thấy, trong những năm qua, thực hiện cải cách và đổi mới nền KT-XH của đất nước, Đảng và Nhà nước đ có nhiều chủ trương, ch nh sách huy động vốn. Trong đó có thể kể tới 02 nguồn lớn đó là: Nguồn trong nước và nguồn nước ngoài. Nguồn trong nước bao gồm nguồn huy động từ hoạt động sản xuất kinh doanh vào NSNN thông qua các chính sách thuế, phí, lệ phí và các nguồn thu khác như thu từ đất, tài nguyên,…; nguồn huy động trên thị trường vốn, thị trường tiền tệ, trong đó có nguồn tín dụng trong nước; nguồn lực huy động trong dân; nguồn tài nguyên quốc gia (đất đai, rừng biển,…); nguồn nhân lực... Đối với nguồn vốn nước ngoài bao gồm vốn vay ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FII), vốn vay ưu đ i, vay thương mại nước ngoài và nguồn kiều hối…

3. Kết quả thể chế hóa chủ trư ng ch nh sách của Đảng, Nhà nước về huy

động nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế - xã hội.

Một là, hệ thống chính sách thuế và thu NSNN ngày càng hoàn thiện. Cụ thể:

38 Pháp lệnh sửa đổi việc tính các định mức bằng tiền trong Điều lệ thuế công thương nghiệp và Điều lệ thuế hàng hoá do Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 08/11/1986; Nghị định 143-HĐBT ngày 18/11/1986 về thuế công thương nghiệp do Hội đồng Bộ trưởng ban hành, để thi hành pháp lệnh ngày 6-11-1986 và bổ sung nghị định 19-HĐBT; Chỉ thị 63-CT năm 10/3/1988 tăng cường chỉ đạo thi hành pháp lệnh sửa đổi điều lệ Thuế Công thương nghiệp, điều lệ thuế hàng hoá do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành; Nghị định 53-HĐBT năm 1989 thi hành Pháp lệnh sửa đổi Pháp lệnh, Điều lệ về thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá do Hội đồng Bộ trưởng ban hành 27/5/1989,… 39 Pháp lệnh Sửa đổi Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp năm 1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành; Nghị định 52-HĐBT ngày 27/5/1989 thi hành Pháp lệnh Thuế Nông nghiệp và Pháp lệnh thuế nông nghiệp sửa đổi do Hội đồng Bộ trưởng ban hành; Nghị quyết về dự án Luật thuế nông nghiệp do Quốc hội ban hành ngày 30/6/1990, trong đó đề ra việc xây dựng các dự án Luật thuế sử dụng đất và Luật thuế hoa lợi trên đất thay cho dự án Luật thuế nông nghiệp; Nghị định 390-HĐBT ngày 10/11/1990 sửa đổi điều 9 và điều 11 Nghị định 52-HĐBT Hướng dẫn Pháp lệnh thuế nông nghiệp và Pháp lệnh sửa đổi pháp lệnh Thuế Nông nghiệp… 40 Ngày 29/12/1987 Quốc hội đ an hành Luật số 05-HĐNN8 về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch. Tiếp đó đến năm 1998, Quốc hội sửa đổi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch thành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 04/1998/QH10.

Trước năm 1990, chính sách thuế được ban hành chủ yếu thông qua Pháp lệnh ho c Nghị định nên tính pháp lý chưa cao, trong giai đoạn 1986-1990, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI, thuế công thương nghiệp38, thuế nông nghiệp39, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu40… đ được rà soát và hoàn thiện.

71

Cải cách thuế bước 1 (1990-1995): hệ thống thuế Việt Nam đ ao gồm nhiều luật thuế (khoảng 12 sắc thuế lớn và các loại phí, lệ ph ); trong đó, nguồn thu chủ lực là thuế doanh thu, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đ c biệt và thuế lợi tức. Riêng về thuế vốn, thực chất là khoản thu trên vốn NSNN cấp, chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp đối với khu vực nhà nước, không phải là thuế nên Hội đồng Nhà nước giao cho Chính phủ an hành dưới hình thức Nghị định. Nhìn chung, cải cách thuế ước 1 đ đạt được nhiều kết quả quan trọng, ước đầu đ phát huy vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo nguồn thu ngày càng to lớn cho NSNN, đồng thời đ làm cho thuế có cơ sở pháp luật vững chắc, áp dụng ình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thay thế hẳn hệ thống thu cũ. Tuy nhiên, hệ thống thuế vẫn còn những bất cập. Đó là: chưa ao quát các nguồn thu phát sinh trong nền KTTT; hệ thống chính sách thuế còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đảm bảo được t nh tương th ch với các nền KTTT trong khu vực; các sắc thuế dù đ được sửa đổi, bổ sung vẫn chưa đạt được mục tiêu đơn giản và rõ ràng.

Cải cách thuế bước 2 (1996-2004) với mục tiêu là củng cố hiệu lực thu bằng cách tăng cường quản lý và chống thất thu; xây dựng nền ngân sách dựa vào nội lực là ch nh, đồng thời chuẩn bị hội nhập kinh tế khu vực. Do đó, ch nh sách thuế giai đoạn này đ có những thay đổi. Cụ thể:

- Ban hành Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9 (thay thế cho Luật thuế doanh thu) và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) số 57-L/CTN (thay thế cho Luật thuế lợi tức) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999 (theo Nghị quyết Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 ngày 10/05/1997). Đây là hai luật thuế cơ ản quan trọng điển hình cho hai loại thuế: Thuế gián thu (thuế GTGT) và thuế trực thu (thuế TNDN). Phạm vi điều chỉnh của hai sắc thuế này khá rộng, tác động đến nhiều m t KT-XH nên có thể coi là ước đột phá quan trọng nhất của công cuộc cải cách thuế ước 2.

- Ban hành Pháp lệnh thuế tài nguyên (sửa đổi) số 05/1998/PL-UBTVQH

(ngày 16/04/1998) thay thế Pháp lệnh thuế tài nguyên ban hành ngày 30/03/1990.

Ngoài việc ban hành một số luật thuế mới, các luật thuế đ an hành cũng

được rà soát, sửa đổi và bổ sung như:

- Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đối với người có thu nhập cao được sửa đổi,

bổ sung hai lần (ngày 06/02/1997 và ngày 30/06/1999).

- Luật thuế xuất nhập khẩu và thuế tiêu thụ đ c biệt (theo Nghị quyết Quốc hội

khoá X, kỳ họp thứ 3, ngày 20/05/1998, có hiệu lực từ ngày 01/01/1999).

- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất (theo Lệnh số 03L.CTN, kỳ họp thứ 6,

Quốc hội khoá X ngày 04/01/2000).

72

Các quy định về quản lý lệ ph , ph được giao cho Bộ Tài chính41 (Quyết định số 276/CT ngày 28/07/1992) đ ảo đảm được thêm nguồn thu về lệ phí và phí tập trung vào Ngân sách Nhà nước

Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến 201042 được tiến hành trong bối cảnh tình hình kinh tế có nhiều thay đổi, Việt Nam đ ắt đầu tham gia vào các Hiệp định thương mại quốc tế và song phương và ắt đầu tiến hành đàm phán các thỏa thuận quốc tế về thuế như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần43, cam kết về giảm thuế nhập khẩu với ASEAN44, và các thoả thuận quốc tế khác về thuế như Chương trình hành động của quốc gia (IAP)45, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Nhìn chung, cải cách thuế ước 2 về cơ ản đ đạt được những mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế vẫn chưa thực sự phát huy được sức mạnh của một công cụ quản lý và điều tiết chủ đạo của nhà nước đối với nền kinh tế. Những nhược điểm chủ yếu tập trung vào m t kỹ thuật và quy trình quản lý thu thuế; bên cạnh đó, Việt Nam đang ước những ước chủ động trên hành trình hội nhập quốc tế.

41 Trong giai đoạn này, ngoài Chính phủ được phép ban hành phí, lệ phí, một số ngành, cấp cũng an hành các quy định về phí, lệ phí với tên gọi khác nhau, mức thu quy định tuỳ tiện và không sử dụng chứng từ do Bộ Tài ch nh quy định nhằm giấu nguồn thu, tránh sự kiểm tra, kiểm soát, dẫn đến tiêu cực, lãng phí, làm giảm lòng tin của dân vào chính sách động viên đóng góp của Nhà nước

42 Quyết định 201/2004/QĐ-TTg ngày 06/12/2004 phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 43 Mục tiêu của các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nhằm loại ỏ việc đánh thuế trùng, ên cạnh đó, Hiệp định còn tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa cơ quan thuế Việt Nam và các nước trong công tác quản lý thuế quốc tế nhằm ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và vào tài sản. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đầu tiên của chúng ta là ký kết với Autralia ngày 13/10/1992 và cho đến 15/7/2014, Việt Nam đ ký kết hiệp định này với hơn 69 quốc gia trên thế giới 44 Đây là thỏa thuận quốc tế cam kết với ASEAN về giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định về chương trình ưu đ i về thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN ngày 28/07/1995. 45 Đây là Chương trình thực hiện tự do hoá thương mại vào năm 2000 với mức thuế nhập khẩu là 0% theo cam kết để trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) ngày 14/11/1998.

Cải cách thuế bước 3 (2005-2010) được thực hiện trong bối cảnh công nghệ thông tin, khoảng cách giữa các nước gần nhau hơn trong một thị trường rộng mở đ tác động đến chính sách thuế của từng nước và Việt Nam nhằm duy trì sự ổn định. Bên cạnh đó, những chủ trương của Đảng và Nhà nước hướng đến thiết lập tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cũng ảnh hưởng nhiều đến cải cách thuế lần này. Ở giai đoạn này, cùng với các cam kết quốc tế đa phương và song phương dẫn đến sự cắt giảm đáng kể nguồn thu từ thuế nhập khẩudo vậy nội dung của cải cách thuế ước 3 hướng đến việc sửa đổi các sắc thuế hiện hành và ban hành những loại thuế mới theo hướng tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, giảm dần tỷ trọng thuế gián thu; phù hợp hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế. Do đó, trong quản lý thuế, Luật Quản lý thuế ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 (Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 ngày 29/11/2006) quy định đầy đủ các nội dung của công tác quản lý thuế, có

73

phạm vi điều chỉnh thống nhất đối với toàn bộ các loại thuế (thuế nội địa và thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu), các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn ban hành Luật thuế giá trị gia tăng ngày 03/06/2008 (số 13/2008/QH12)46, Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 được ban hành ngày 03/06/200847; Luật thuế TNCN số 04/2007/QH12 ra đời ngày 21/11/200748; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/06/200549; Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 ngày 14/11/200850, Luật thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/200951.

Như vậy, trong giai đoạn này, chương trình cải cách thuế đến năm 2010 cơ ản hoàn thành định hướng ban hành những loại thuế mới và sửa đổi, bổ sung các sắc thuế chủ yếu hiện hành để phù hợp với giai đoạn hội nhập kinh tế, thực hiện các cam kết quốc tế hướng đến thương mại tự do thông qua tỷ trọng các loại thuế trực thu trong tổng thu thuế.

46 Có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 trên cơ sở thống nhất các văn ản luật trước đây (Luật thuế GTGT năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB và Luật thuế GTGT năm 2005) và đưa ra một số quy định mới nhằm phù hợp với thực tiễn nền kinh tế trong giai đoạn này. 47 Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/2009 thay thế cho Luật thuế TNDN năm 2003; có nhiều điểm mới phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. 48 Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 bãi bỏ Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trước đây, tạo khuôn khổ pháp luật vững chắc thực hiện thuế thu nhập cá nhân. 49 Có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2001 để phù hợp với các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế nhập khẩu. 50 Có hiệu lực từ ngày 01/04/2009 được ban hành thay thế cho Luật thuế tiêu thụ đ c biệt năm 1998 và các văn ản có liên quan, tạo cơ sở pháp lý thống nhất và hoàn thiện hơn để thực hiện sắc thuế này. 51 Có hiệu lực từ ngày 01/07/2010, thay thế cho Pháp lệnh thuế tài nguyên trước đây, đây là khuôn khổ pháp lý vững chắc để thuế tài nguyên được thực hiện. 52 Mục tiêu của Chiến lược là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế KTTT định hướng XHCN; mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ ản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao”.

Giai đoạn 2011-2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 732/QĐ- TTg ngày 17/05/2011 về việc phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-202052. Trong giai đoạn này, có hai sắc thuế mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 là Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 17/06/2010) và Luật thuế bảo vệ môi trường (được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày 15/11/2010). Đây là loại thuế mới trong hệ thống thuế hiện hành, thay thế cho việc áp dụng một số loại ph (như ph ảo vệ môi trường đối với nước thải, phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn,…). Theo đó, trong giai đoạn này hệ thống chính sách thuế bao gồm các sắc thuế, phí và lệ phí:

74

(1) Thuế giá trị gia tăng; (2) Thuế tiêu thụ đ c biệt; (3) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; (4) Thuế thu nhập doanh nghiệp; (5) Thuế thu nhập cá nhân; (6) Thuế tài nguyên; (7) Thuế sử dụng đất nông nghiệp; (8) Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; (9) Thuế bảo vệ môi trường; (10) Các khoản phí và lệ phí.

Giai đoạn 2011-2020, hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách đ động viên hợp lý, kịp thời các nguồn lực từ sản xuất. Đến nay, cơ ản hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung và ban hành các luật về thuế, Luật Hải quan theo lộ trình đề ra. Trong đó, đ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN53; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN54; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB. Đồng thời, đ kịp thời hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả một số chính sách mới như Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Luật thuế bảo vệ môi trường từ ngày 01/01/201255. Các chính sách thuế, phí, lệ phí ban hành về cơ ản đ đảm bảo minh bạch, đơn giản, phù hợp với các cam kết về hội nhập quốc tế, góp phần tạo môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn, ình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đ c biệt, việc thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn các khoản thuế và thu NSNN; điều chỉnh giảm mức độ động viên trong một số sắc thuế, khoản thu đ góp phần quan trọng trong việc nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân có thêm nguồn lực cho đầu tư và tiêu dùng, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển56.

53 Điều chỉnh tăng mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng; đối với người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng lên 3,6 triệu đồng tháng. 54 Từ 01/01/2014, giảm mức thuế suất thuế TNDN từ 25% xuống 22% và từ 1/1/2016 là 20%; áp dụng mức thuế suất thấp hơn đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa; bổ sung các ch nh sách ưu đ i để thu hút đầu tư theo các định hướng của nhà nước. 55 Luật thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010; Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010. 56 Bộ Tài ch nh cũng đ kịp thời ban hành theo thẩm quyền, trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ ban hành và trình Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội ban hành một số giải pháp để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh với nhiều giải pháp về miễn, giảm thuế TNDN, thuế GTGT và các khoản thu ngân sách như Nghị quyết số 08/2011/QH13, Nghị quyết số 29/2012/QH13, Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012, Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013, Nghị quyết số 61/NQ-CP ngày 21/8/2014 về sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 25/8/2014,…. Trong năm 2014, Bộ Tài ch nh đ trình Ch nh phủ để trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật thuế, trong đó đ thực hiện điều chỉnh các quy định có liên quan của 5 Luật thuế khác nhau để nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh.

Sau a mươi năm thực hiện cải cách hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách đ từng ước được đổi mới đồng bộ, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời đóng vai trò là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước; hệ thống chính sách thuế rõ ràng, công khai, minh bạch, cơ ản bao quát các nguồn thu chủ yếu và huy động hợp lý vào NSNN; công tác quản lý thuế từng ước được hiện

75

đại hóa đ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế và thu NSNN

Hai là, hệ thống chính sách tài chính phát triển thị trường vốn, thị trường tiền

tệ ngày càng đổi mới

Đối với thị trường tiền tệ, quá trình hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp57 đ xoá ỏ được tính chất độc quyền Nhà nước trong hoạt động ngân hàng bằng cách cho phép thành lập NHTM thuộc nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng là cơ sở hình thành và phát triển thị trường tiền tệ, trong đó có sự hiện diện và hoạt động của ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài góp phần hỗ trợ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như thu hút công nghệ ngân hàng hiện đại vào Việt Nam.

Đối với thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu, việc ban hành Nghị định 120-CP năm 1994 về Quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp Nhà nước đ ước đầu đánh dấu sự ra đời của thị trường cổ phiếu, trái phiếu; tiếp đó cùng với sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các quy định về phát hành TPDN được tiếp tục hoàn thiện, việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp và nay là Nghị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

57 (i) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và thực thi chính sách tiền tệ; (ii) Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ.

58 Sắc lệnh số 122 ngày 16/7/1946 về việc cho phép Uỷ ban hành chính Nam Bộ mở một công trái 5 triệu đồng do Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ban hành 59 Sắc lệnh số 139/SL ngày 19/9/1950 về việc cho phép phát hành trong toàn quốc một công trái gọi là "Công trái Quốc gia" do Chủ tịch nước Việt nam Dân chủ cộng hoà ban hành

60 Nghị định 28/2003/NĐ-CP ngày 31/3/2003 quy định việc phát hành công trái xây dựng tổ quốc năm 2003 - Công trái giáo dục; Nghị định 42/2005/NĐ-CP ngày 29/3/2005 quy định việc phát hành công trái xây dựng tổ quốc năm 2005 - công trái giáo dục.

Đối với trái phiếu Chính phủ, công trái xây dựng tổ quốc: việc huy động nguồn lực trong nước thông qua hình thức phát hành công trái được tiến hành từ năm 194658, 195059, sau đó Pháp lệnh phát hành công trái được an hành năm 1983, được bổ sung năm 1985 và xây dựng mới năm 1999. Ngoài ra, trong các năm 2003, 2005 Chính phủ còn phát hành công trái xây dựng tổ quốc60 nhằm xây dựng các công trình trong lĩnh vực giáo dục. Đối với TPCP, Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương là cơ sở cho việc huy động nguồn lực cho phát triển KT-XH, cùng với quá trình phát triển của thị trường trái phiếu Chính phủ Nghị định 141/2003/NĐ-CP đ được thay thế bằng Nghị định 01/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa

76

phương.

Bên cạnh việc huy động vốn trong nước, Chính phủ còn huy động vốn nước

ngoài thông qua phát hành trái phiếu quốc tế61.

Về phát triển thị trường chứng khoán, văn ản đầu tiên thể chế hóa chủ trương của Đảng là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tiếp đó Luật chứng khoán năm 2006 được sửa đổi năm 2010 đánh dấu ước tiến mới trong huy động nguồn lực trên TTCK. Mới đây Quyết định 366/QĐ-TTg ngày 11/3/2014 phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam và Nghị định 42/2015/NĐ-CP ngày 05/5/2015 của Chính phủ về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh đ đánh dấu công cụ huy động mới cho TTCK.

61 Nghị định 23/CP ngày 22/3/1995 về việc phát hành trái phiếu quốc tế Chính Phủ; Nghị định 53/2009/NĐ-CP ngày 4/6/2009 về phát hành trái phiếu quốc tế.

62 Nghị định 87-CP ngày 17/8/1994 quy định khung giá các loại đất; Quyết định 302-TTg ngày 13/5/1996 điều chỉnh hệ số (K) trong khung giá đất ban hành theo Nghị định 87/CP năm 1994; Nghị định 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 về khung giá đất; Nghị định 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về giá đất,… 63 Như Luật đấu thầu năm 2005, 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật đất đai hoàn thiện qua các năm (năm 1987, năm 1998 (sửa đổi), năm 2001 (sửa đổi), năm 2003, năm 2013). 64 Quyết định 216/2005/QĐ-TTg về quy chế đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất ho c cho thuê đất

65 Nghị định 142/2005/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước; Nghị định 46/2014/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước

66 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp năm 1993, năm 2010; Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1994, sửa đổi năm 1999; Nghị định 38/2000/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất; Nghị định 198/2004/NĐ-CP về việc thu tiền sử dụng đất; Nghị định 45/2014/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất;… 67 Nghị định 68/2001/NĐ-CP về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; Nghị quyết 29/2004/QH11 về quy hoạch sử dụng đất đai đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đai đến năm 2005…

68 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về án đấu giá tài sản;… 69 Như: các luật Khoáng sản, Luật Thủy sản, Luật tài nguyên nước, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; Nghị định 10/2013/NĐ-CP ngày 11/01/2013 về quản lý, sử dụng tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ….

Ba là, chính sách tài chính nhằm khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai, tài nguyên, tài sản cũng đ được tập trung hoàn thiện. Trong đó, các ch nh sách về giá đất được an hành để đảm bảo xác định giá trị đất theo nguyên tắc thị trường62; các quy định về đấu thầu các dự án có sử dụng đất63; về thuê đất64, thuê m t nước65; sử dụng đất66; về quy hoạch đất đai67; về án đấu giá tài sản68, quản lý sử dụng tài sản69… đ được rà soát và hoàn thiện nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực tài nguyên. Đ c biệt, ngày 12/11/2013, Thủ tướng Chính phủ đ an hành Quyết định 2174/QĐ-TTg phê duyệt Đề án khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai và tài sản nhà nước phục vụ phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2013-2020. Ngoài ra, trong giai đoạn 2011-2015, Ủy an Thường vụ Quốc hội đ điều chỉnh mức thuế suất thuế tài nguyên

77

đối với một số nhóm tài nguyên, khoáng sản70; Chính phủ đ an hành Nghị định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản71; Nghị định về phương pháp t nh và mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản72 nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, đồng thời động viên thêm nguồn lực cho NSNN.

Bốn là, hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực ngày càng được hoàn thiện. Hiện nay, chính sách phát triển nguồn nhân lực được quy định tại các Luật giáo dục 1998, sau đó được hoàn thiện năm 2005 (sửa đổi năm 2009); Luật giáo dục nghề nghiệp 2014; Luật NSNN năm 2002 và các văn ản hướng dẫn thi hành,… Đ c biệt, các chính sách về chi NSNN, hỗ trợ ngân sách thực hiện phát triển sự nghiệp giáo dục như chi 20% NSNN cho lĩnh vực giáo dục theo Nghị quyết 37/2004/NQ-QH11 của Quốc hội, các chính sách tạo việc làm73 cho người lao động nhằm phát huy khả năng lao động, chính sách về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ74,… đ hình thành nên hệ thống các chính sách phát triển nguồn nhân lực. Từ đó tạo ra con người mới với chất lượng nguồn lực cao, góp phần tích cực trong xây dựng đất nước.

70 Nghị quyết 712/2013/UBTVQH13 ngày 16/12/2013 về ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên. 71 Nghị định 22/2012/NĐ-CP ngày 26/3/2012 quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản. 72 Nghị định 203/2013/NĐ-CP ngày 28/11/2013 quy định về phương pháp t nh, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản.

73 Như an hành Luật việc làm, Nghị định 61/2015/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm và Quỹ quốc gia về việc làm; Quyết định 52/2012/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp;… 74 Nghị định 20/2014/NĐ-CP ngày 24/3/2014 về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ.

75 Như: Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ban hành Quy chế về tiền gửi tiết kiệm do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành 76 Luật khuyến kh ch đầu tư trong nước 1994, sửa đổi năm 1998; Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp,… 77 Quyết định 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010 về ban hành Quy chế th điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư; Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.

78 Nghị định 108/2009/NĐ-CP ngày 27/11/2009 về đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao, hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh, hợp đồng xây dựng – chuyển giao; Nghị định 24/2011/NĐ-CP ngày 05/4/2011 sửa đổi Nghị định 108/2009/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao

79 Như Quyết định 258/2007/QĐ-UBND ban hành Quy chế huy động vốn đóng góp của cộng đồng dân cư được hưởng lợi từ Dự án Cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng khu dân cư thu nhập thấp thành phố Hải Phòng

Năm là, nguồn lực huy động từ dân cư, các thành phần kinh tế chủ yếu được xác định thông qua chính sách tín dụng, đầu tư trực tiếp ho c gián tiếp thông qua mua cổ phiếu, trái phiếu, gửi tiền tiết kiệm75, chính sách khuyến kh ch đầu tư76, hợp tác đầu tư theo các hình thức đối tác công-tư (PPP)77, hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao78,... Huy động các nguồn lực từ đóng góp của dân cư, của các thành phần kinh tế trong một số ngành, lĩnh vực79… Ngoài ra, ch nh sách khuyến

78

khích xã hội hóa trong một số lĩnh vực80 đ góp phần huy động nguồn lực từ các chủ thể trong nền kinh tế cho đầu tư phát triển.

Sáu là, hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài được ban hành đã

tạo ra các kênh huy động vốn đa dạng

Luật Đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được an hành năm 1987 (sửa đổi năm 1990, 1992), sau đó được ban hành mới vào năm 1996 (sửa đổi năm 2000) cho thấy quá trình hoàn thiện hệ thống chính sách về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được rà soát và sửa đổi thường xuyên, đảm bảo phù hợp với bối cảnh và tình hình KT-XH và đầu tư trong từng giai đoạn. Hiện nay, việc đầu tư của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện theo Luật Đầu tư (2014)81 và Luật doanh nghiệp (2014)82 thể hiện tinh thần hội nhập kinh tế quốc tế, tạo môi trường pháp lý thống nhất, ình đẳng, thông thoáng và minh bạch, không có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Việt Nam cũng đ ký kết nhiều điều ước quốc tế, trong đó có các điều ước quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, về tránh đánh thuế trùng, hợp tác kinh tế, thương mại, các hiệp định và cam kết quốc tế trong khuôn khổ WTO, Khu vực thương mại tự do ASEAN và các hiệp định thương mại tự do khác.

Với việc ban hành Luật Chứng khoán (2006), sửa đổi năm 2010 và mới đây là Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán là cơ sở pháp lý cho việc huy động vốn gián tiếp đầu tư nước ngoài đ được luật hóa cùng với Luật Đầu tư, theo đó, nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; thông qua quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác.

80 Nghị quyết số 90-CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá do Chính phủ ban hành; Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về việc đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao; Nghị định 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao; Nghị định 53/2006/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập 81 Có hiệu lực từ 1/7/2015. Trước đó là Luật Đầu tư năm 2005. 82 Có hiệu lực từ 1/7/2015. Trước đó là Luật doanh nghiệp 2005, Luật doanh nghiệp năm 1999. Trong những năm 1990 doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước chịu sự điều chỉnh của 2 hệ thống luật. Đó là Luật doanh nghiệp tư nhân an hành năm 1990 (sửa đổi năm 1994) và Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 (sửa đổi năm 2003).

Hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài được an hành đ tạo ra các kênh huy động vốn đa dạng, bao gồm đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, nguồn vốn ODA, vay thương mại thông qua phát hành trái phiếu quốc tế... Trong giai đoạn đầu mở cửa, đầu tư nước ngoài góp phần đưa Việt Nam ra khỏi tình thế khó khăn của

79

tình trạng bị bao vây, cấm vận, là nguồn vốn bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn x hội.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn ODA83 đ ổ sung nguồn vốn quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế. Đầu tư nước ngoài đ có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước, tạo sức ép cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất.

Tóm lại, qua quá trình thực hiện cải cách kinh tế đất nước và các chủ trương, ch nh sách huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế đất nước, Đảng đ xác định nội lực có vai trò quyết định đối với sự phát triển. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng cường thì mới bảo đảm được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và sử dụng tốt nhất nguồn lực của Nhà nước. Điều có ý nghĩa quyết định là phải có chính sách phù hợp để phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đ c biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng của dân tộc ta - để góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội.

Ngoại lực có vai trò quan trọng cho sự phát triển. Kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp xây dựng đất nước. Ngoại lực, bao gồm cả vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý và thị trường... bổ sung cho nội lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả cao hơn. Trong ối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại lực càng trở nên quan trọng; một nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta, muốn vươn lên để theo kịp các nước, không thể coi nhẹ việc thu hút và sử dụng tốt nhất ngoại lực. Muốn phát huy tốt ngoại lực, phải có một chiến lược tổng thể, nhất quán và môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, trước hết là có một hệ thống thể chế, ch nh sách đồng bộ, một nền hành chính minh bạch, hiệu lực, hiệu quả.

4. Kết quả huy động các nguồn lực trong và ngoài nước thời gian qua

83 Trong từng giai đoạn, Thủ tướng Chính phủ đ có các Quyết định về thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA như: Quyết định 290/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 phê duyệt đề án " định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kì 2006-2010 "; Quyết định 94/2007/QĐ-TTg ngày 27/6/2007 phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Đề án "Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010"; Quyết định 106/QĐ-TTg ngày 19/1/2012 phê duyệt Đề án "Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và khoản vốn vay ưu đãi khác của nhà tài trợ thời kz 2011 - 2015",…

4.1. Kết quả huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển

80

Trên cơ sở các chủ trương, ch nh sách của Đảng và Nhà nước về huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển KT-XH trong thời gian qua, kết quả huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 1986-2015 cho thấy, quy mô huy động vốn (về số tuyệt đối) tăng hàng năm và so với GDP thì giai đoạn 1986-2008 có xu hướng tăng nhưng từ 2009 bắt đầu có xu hướng giảm. Nguyên nhân được cho là do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đ tác động làm cho vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm cả về số tuyệt đối (giảm 4,98% so với 2008) và tương đối (cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn x hội năm 2009 giảm từ 30,92% năm 2008 xuống 25,56% năm 2009 và nếu so với GDP thì giảm từ 11,8% năm 2008 xuống 10,01% năm 2009).

Hình 1. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội

1600.000 1400.000 1200.000 1000.000 800.000 600.000 400.000 200.000 .000

45.000 40.000 35.000 30.000 25.000 20.000 15.000 10.000 5.000 .000

5 9 9 1

6 8 9 1

7 8 9 1

8 8 9 1

9 8 9 1

0 9 9 1

1 9 9 1

2 9 9 1

3 9 9 1

4 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

8 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

5 1 0 2 H K

4 1 0 2 H T

Vốn đầu tư phát triển toàn x hội (nghìn tỷ đồng)

Vốn đầu tư phát triển toàn x hội (%)

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Xét về cơ cấu vốn đầu tư thì vốn đầu tư từ khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm trong khi vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân có xu hướng tăng. Điều này là phù hợp với thực tế trong thời gian qua khi nguồn thu từ NSNN có xu hướng giảm, nguồn huy động từ ODA, FDI cũng có xu hướng giảm khi Việt Nam trở thành nước có mức thu nhập trung bình thấp kể từ 2009, cơ hội tiếp cận các nguồn vốn ODA và vay ưu đ i sẽ bị hạn chế và trong một số trường hợp phải vay thương mại vốn vay nước ngoài.

81

Hình 2. C cấu vốn đầu tư toàn xã hội

100% 80% 60% 40% 20% 0%

8 8 9 1

8 9 9 1

6 8 9 1

7 8 9 1

9 8 9 1

0 9 9 1

1 9 9 1

2 9 9 1

3 9 9 1

4 9 9 1

5 9 9 1

6 9 9 1

7 9 9 1

9 9 9 1

0 0 0 2

1 0 0 2

2 0 0 2

3 0 0 2

4 0 0 2

5 0 0 2

6 0 0 2

7 0 0 2

8 0 0 2

9 0 0 2

0 1 0 2

1 1 0 2

2 1 0 2

3 1 0 2

5 1 0 2 H K

4 1 0 2 H T

Khu vực kinh tế nhà nước

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Vốn dân cư và tư nhân

Nguồn: Tổng cục Thống kê

4.2. Kết quả huy động vốn ODA và vay ưu đãi

Thứ nhất, đổi mới phương thức, cách thức hoạt động trong huy động vốn ODA

và vay ưu đ i

Đối với nguồn vốn ODA, công tác vận động các nhà tài trợ cung cấp vốn ODA cho Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều hoạt động đối ngoại của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành Trung ương và địa phương cũng như các tổ chức chính trị xã hội Việt Nam. Hội nghị Nhóm tư vấn thường niên các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (viết tắt là Hội nghị CG) là một hội nghị vận động ODA ở cấp quốc gia. Đây là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ và cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế về chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển KT-XH của Việt Nam, trong đó quan hệ hợp tác phát triển và việc cung cấp, sử dụng viện trợ phục vụ sự nghiệp phát triển KT-XH và xóa đói giảm nghèo là một nội dung gắn kết ch t chẽ và không tách rời. Ngoài Hội nghị CG thường niên còn tổ chức Hội nghị CG giữa kỳ không chính thức tại các địa phương, tạo điều kiện cho các nhà tài trợ gần với người dân và nhu cầu phát triển của họ cần được hỗ trợ.

Trong bối cảnh mới, khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp yêu cầu về đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhà tài trợ phải sâu hơn về nội dung, rộng hơn về phạm vi tham gia của các bên vào quá trình phát triển và kết quả đối thoại cần được theo dõi và triển khai thực hiện trong đời sống thực tế. Để đáp ứng yêu cầu này, Chính phủ và các nhà tài trợ nhất trí cần thay đổi phương thức và cách thức tổ chức các Hội nghị CG. Tại Hội nghị CG thường niên lần thứ 19 (tháng 12/2012), Chính phủ và các nhà tài trợ đ quyết định cải tiến phương thức tổ chức Hội nghị CG bằng cách cải tiến Hội nghị này thành một Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam thường niên (VDPF) để tập trung nhiều hơn cho đối thoại về các chính sách phát triển.

82

Thứ hai, kết quả cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA có nhiều cải thiện

Về cam kết: Trên cơ sở kết quả các hội nghị CG/VDPF, tổng vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ giai đoạn 1993-2014 đạt 85,195 tỷ USD với mức cam kết đạt mức kỷ lục trong các năm gần đây. Mức cam kết ODA cao trong suốt thời gian qua đ thể hiện sự đồng tình và ủng hộ chính trị mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế trong công cuộc đổi mới và chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước ta, sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng vốn ODA của Việt Nam.

Về ký kết: Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đ ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA từ năm 1993 đến nay đạt trên 69,189 tỷ USD, bằng 81,21% tổng vốn ODA cam kết, trong đó vốn ODA và vốn vay ưu đ i đạt 62,012 tỷ USD, chiếm khoảng 89,62%, vốn ODA không hoàn lại đạt 7,176 tỷ USD và chiếm khoảng 10,38%. Phần lớn các khoản vay ODA và vay ưu đ i quy mô lớn có lãi suất rất ưu đ i, thời gian vay và ân hạn dài. Khoảng 45% khoản vay có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn vay từ 30-40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; khoảng 40% các khoản vay ODA còn lại có lãi suất từ 1-3%/năm, thời hạn vay từ 12-30 năm, trong đó có 5-10 năm ân hạn và còn lại là các khoản vay có điều kiện ưu đ kém hơn.

Về giải ngân: tổng vốn ODA giải ngân t nh đến hết năm 2014 dự kiến đạt 48,23 tỷ USD, chiếm trên 69,71% tổng vốn ODA ký kết. Có thể thấy mức giải ngân đ có những cải thiện nhất định song chưa có ước đột phá. Riêng hai năm trở lại đây, nhờ quyết tâm cao của Chính phủ, nỗ lực của các ngành, các cấp và nhà tài trợ, giải ngân của một số nhà tài trợ quy mô lớn (Nhật Bản, WB) đ có tiến bộ vượt bậc: Tỷ lệ giải ngân của Nhật Bản tại Việt Nam năm 2011 đứng thứ 2 và năm 2012 đứng thứ nhất thế giới, tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 2012.

Bảng 1. Kết quả cam kết, ký kết và giải ng n ODA giai đoạn 1993-2014

Đvt: triệu USD

Thời kỳ Cam kết Ký kết Giải ngân

1993 - 1995 6.131,00 4.858,07 1.875

1996 - 2000 11.546,50 9.008,00 6.142

2001 - 2005 14.889,20 11.241,05 7.887

2006 - 2010 31.756,25 20.645,56 13.860

2011 - 2014 20.872,77 23.436,63 18.470

83

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Có thể thấy, qua các thời kỳ mức cam kết, ký kết và giải ngân đ có những tiến bộ nhất định, tăng dần qua các năm. Tuy nhiên riêng giai đoạn 2011-2014 số cam kết thấp hơn so với giai đoạn 2006-2010 nhưng số ký kết lại cao hơn giai đoạn 2006- 2010 và cao hơn số cam kết trong cùng giai đoạn. Điều này thể hiện những cố gắng to lớn của Việt Nam và các nhà tài trợ trong việc cải tiến và hài hòa hóa quy trình, thủ tục, hoàn thiện thể chế, tăng cường năng lực ở tất cả các khâu trong huy động nguồn lực (xây dựng văn kiện dự án; thẩm định và phê duyệt dự án; đàm phán và ký kết hiệp định; và tổ chức, quản lý và thực hiện dự án) cũng như sự tin tưởng của các nhà tài trợ đối với Việt Nam.

Thứ ba, quy mô dự án được ký kết tăng dần qua các thời kỳ

Số lượng hiệp định ký kết thời kỳ 2006 - 2010 t hơn, chỉ bằng 58,5% so với thời kỳ 2001 - 2005 song quy mô trung bình của các chương trình, dự án trong thời kỳ này lại cao gấp gần 2 lần. Điều này cho thấy đ có sự thay đổi trong cách tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA: (i) Tập trung ưu tiên ODA cho dự án đầu tư phát triển hạ tầng đồng bộ, quy mô tương đối lớn, đ c biệt trong lĩnh vực giao thông, năng lượng và công nghiệp, thông tin liên lạc, phát triển hạ tầng đô thị (giao thông đô thị, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường,...); (ii) Áp dụng cách tiếp cận theo chương trình, ngành thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia ho c các chương trình ngành thực hiện ở nhiều địa phương như trong ngành giao thông (Dự án Giao thông nông thôn III), nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo (Chương tr nh lâm nghiệp, Chương tr nh 135 Giai đoạn II, Chương tr nh cấp nước nông thôn,...), y tế (xây dựng hệ thống bệnh viện theo vùng lãnh thổ: Dự án y tế Tây Nguyên, Đồng b ng sông Cửu Long,..), giáo dục và đào tạo (Dự án Giáo dục cho tất cả mọi người, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh khó khăn,...).

Tỷ lệ vốn vay trong tổng vốn ODA có xu hướng tăng từ 80% (1993 - 2000) lên mức 81% (2001-2005), 93% (2006 - 2010) và hiện ở mức 96% (2011-2014). Trong thời gian gần đây, đ c biệt sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010, chi ph vốn vay có xu hướng tăng, nhiều khoản vay ODA có điều kiện ràng buộc từ ên ngoài, làm chi ph đầu vào cao, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ trong các trường hợp các dự án được vay lại nguồn vốn vay ODA của Chính phủ. Thực tế này đòi hỏi việc sử dụng ODA vốn vay trong thời gian tới phải đảm bảo hiệu quả kinh tế, vay và trả nợ nước ngoài bền vững.

Thứ tư, các địa phương ngày càng tham gia nhiều hơn trong việc tiếp nhận, quản lý và thực hiện nguồn vốn ODA. Một trong những nhân tố tác động đến xu thế này là do sự phân cấp mạnh mẽ trong công tác thu hút và sử dụng vốn ODA của

84

Chính phủ, đ c biệt là sau khi ban hành Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 của Chính phủ.

Thứ năm, tỷ trọng ODA so với GDP ngày càng cao. Bảng 2 cho thấy mức đóng góp của ODA vào tăng trưởng GDP đ có xu hướng tăng dần theo các năm và thường tăng cao vào những thời kỳ kinh tế đất nước g p nhiều khó khăn, thách thức (như trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế châu Á 1997-1998 và khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008 - 2009). Trong giai đoạn 2004-2014, ODA chiếm trung bình khoảng 3,25% so với GDP, một tỷ trọng không lớn song có thể thấy tác động tích cực của nó trong việc kích cầu đầu tư, góp phần vào việc duy trì đà tăng trưởng của Việt Nam

Bảng 2. Tỷ trọng ODA so với GDP của Việt Nam

2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

45,30 53,11 60,83 70,99 89,11 86,52 106,4 0 122,0 0 128,0 0 134,9 3 GDP (tỷ USD)

3,64 3,36 2,93 3,07 2,53 4,16 3,30 3,00 3,26 4,64

Tỷ trọng ODA trong GDP (%)

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tóm lại, công tác vận động, thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam đã thu được nhiều kết quả tích cực. Kết quả thu hút và hiện thực hóa nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ năm 1993 đến nay cho thấy công tác vận động, thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam đ thu được nhiều kết quả tích cực, thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu gồm: vốn ODA cam kết; vốn ODA ký kết và vốn ODA giải ngân. Hiện có khoảng 50 nhà tài trợ song phương và đa phương đang hoạt động, cung cấp nguồn ODA và vốn vay ưu đ i cho nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội của Việt Nam. Mức cam kết ODA cao trong suốt thời gian qua đ thể hiện sự đồng tình và sự ủng hộ chính trị mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế với công cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng và Nhà nước ta; thể hiện sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào hiệu quả tiếp nhận và sử dụng vốn ODA của Việt Nam

5. Những vấn đề đặt ra

Thứ nhất, Việt Nam ước vào công cuộc “Đổi mới” với cách đi riêng, chưa có tiền lệ, do đó một số chủ trương, ch nh sách về huy động nguồn lực đưa ra còn chưa

85

cụ thể, chưa rõ ràng, chưa đánh giá được tác động của chính sách. Nguyên nhân một phần là do chủ trương, đường lối về chính sách phát triển kinh tế, lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế trong từng giai đoạn chưa rõ ràng; hệ thống thông tin thống kê kinh tế tài ch nh chưa đầy đủ gây khó khăn trong việc đánh giá tác động của chính sách đề xuất. Một số chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn do chậm tổng kết, đánh giá và dự báo tình hình, m t khác một số chủ trương, định hướng ch nh sách huy động nguồn lực cho phát triển KT-XH của Đảng và Nhà nước đề ra lại khó triển khai, chậm thực hiện84, đòi hỏi phải có thời gian dài hơn mới có thể thực hiện được. Trong một số trường hợp, khi tình hình thế giới và quan hệ quốc tế thay đổi, có những việc chưa đánh giá đầy đủ và kịp thời để có chủ trương, ch nh sách huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển sát đúng; chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong thực hiện huy động nguồn lực cho phát triển nói chung và huy động nguồn lực cho một số ngành, lĩnh vực nói riêng.

Thứ hai, hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến huy động, thu hút vốn đầu tư còn chưa đồng bộ và thiếu nhất quán; việc sửa đổi, bổ sung thường xuyên hệ thống chính sách pháp luật về huy động nguồn lực tài chính cho thấy một m t đ có sự chủ động trong xây dựng ch nh sách nhưng cũng thể hiện chất lượng xây dựng chính sách còn thấp, chưa rõ ràng nên tạo ra các cách hiểu khác nhau trong chính sách, trong một số trường hợp các văn ản pháp luật ch nh sách huy động nguồn lực còn chồng chéo, công tác dự áo tình hình để đưa ra các đề xuất chính sách còn hạn chế.

Thứ ba, môi trường đầu tư kinh doanh chưa đảm bảo ình đẳng giữa các thành phần kinh tế và chậm được cải thiện85, ảnh hưởng tới việc thu hút nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế. Nguyên nhân là do một số chủ trương, ch nh sách đưa ra chưa nhất quán, thiếu ình đẳng, chưa minh ạch đ gây cản trở cho quá trình huy động các nguồn lực, đ c biệt là các chính sách về thành phần kinh tế, chính sách đất đai, ch nh sách đầu tư,…

84 Ví dụ như việc triển khai cải cách khu vực sự nghiệp công, xã hội hóa cung ứng dịch vụ công .

85 Ví dụ như trong việc thực hiện Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; Nghị quyết 19/NQ-CP ngày 12/3/2015 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015 - 2016 do Chính phủ ban hành có yêu cầu các Bộ, ngành địa phương phải ban hành các kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết trên nhưng đến 17/6/2015 (tức là đ quá thời hạn quy định) mới có 11 bộ, ngành và 11 UBND các địa phương có kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết.

Thứ tư, nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước chưa được huy động và sử dụng có hiệu quả. Tài nguyên đất đai, rừng, biển,… các nguồn vốn của nhà nước còn

86

bị lãng phí, thất thoát; việc sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước còn chậm, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp; nguồn lực các thành phần kinh tế và trong dân cư còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết.

Thứ năm, việc phát triển các loại thị trường, trong đó có thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, thị trường khoa học công nghệ,.. còn ở mức độ thấp, hàng hóa trên các thị trường chưa đa dạng; cơ chế vận hành của các loại thị trường còn nhiều yếu kém, bất ổn, chưa lành mạnh. Trong một số lĩnh vực nhà nước còn can thiệp quá lớn gây khó khăn trong huy động các nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển KT-XH;

Thứ sáu, việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách về huy động nguồn lực cho phát triển KT-XH chưa kịp thời, chưa nghiêm túc. Nguyên nhân một phần là do các chế tài xử phạt còn chưa mạnh, việc thực hiện các chế tài còn chưa nghiêm; cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc ban hành các chính sách và triển khai thực hiện các chính sách về huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển còn chưa thường xuyên.

Thứ bảy, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong huy động các nguồn lực

đầu tư phát triển còn thiếu ch t chẽ.

- Đối với huy động từ nguồn ODA: M c dù việc huy động vốn ODA và vốn vay ưu đ i đ đạt được những tiến bộ nhất định song so với tiến độ đề ra trong các hiệp định đ ký kết vẫn chưa đạt yêu cầu, nhiều chương trình, dự án phải gia hạn, ảnh hưởng tới quá trình vận động và huy động vốn từ các nhà tài trợ. Hạn chế này xuất phát từ các nguyên nhân sau: (i) Sự khác biệt về quy trình thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ. M c dù giữa Việt Nam và các nhà tài trợ đ đạt được nhiều tiến bộ trong việc hài hòa quy trình, thủ tục song vẫn còn tồn tại các khác biệt giữa hai bên. Trong các văn ản pháp quy hiện hành thường có quy định về tính tối thượng theo đó trong trường hợp có sự khác biệt giữa quy định của Việt Nam và của nhà tài trợ thì tuân thủ theo quy định tại điều ước quốc tế đ ký kết, song thực tế cho thấy việc nêu cụ thể sự khác biệt này trong điều ước quốc tế không đơn giản nên để đảm bảo an toàn trước thanh tra, kiểm toán, Chủ dự án thường áp dụng phương thức “trình duyệt kép” cả phía Việt Nam và nhà tài trợ dẫn đến mất nhiều thời gian trình, duyệt và ra quyết định trong quá trình thực hiện chương rình, dự án ODA; (ii) Chất lượng văn kiện chương tr nh, dự án chưa đáp ứng được yêu cầu do cơ quan chủ quản, chủ dự án chưa phát huy vai trò làm chủ trong việc xây dựng văn kiện dự án, báo cáo khả thi; do năng lực của chuyên gia tư vấn xây dựng dự án còn hạn chế; (iii) Thời gian chuẩn bị dự án và chuẩn bị thực hiện dự án kéo dài; những vướng mắc trong công tác giải phóng m t b ng, đấu thầu và thiếu vốn đối ứng làm chậm quá trình giải ngân và ảnh hưởng tới chất lượng, tiến độ dự án đầu tư. Điều này cũng tác động ảnh hưởng tới quá trình huy động, vận động thu hút nguồn lực từ các nhà tài trợ; (iv) Năng lực tổ

87

chức và quản lý ODA và vốn vay ưu đãi ở cấp địa phương còn nhiều hạn chế do lãnh đạo và cán bộ một số Ban QLDA thường kiêm nhiệm nên tính chuyên nghiệp không cao, nhiều cán bộ có kinh nghiệm quản lý dự án, đ qua đạo tạo song do yêu cầu công việc lại chuyển công tác khác nên hoạt động tổ chức quản lý và thực hiện dự án kém hiệu quả; (vi) Thiếu kinh nghiệm về đàm phán và quản lý hợp đồng: Quản lý hợp đồng (điều chỉnh giá, công thức t nh trượt giá, thay đổi chi phí kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng,…) là một vấn đề g p nhiều khó khăn trong thời gian gần đây của một số chương trình, dự án. Đối với vấn đề quản lý hợp đồng, ngoài việc chủ dự án còn chưa có nhiều kinh nghiệm khi xây dựng, đàm phán, quản lý hợp đồng, còn có nguyên nhân các nhà thầu nước ngoài chưa nắm bắt c n kẽ luật pháp Việt Nam, dẫn tới cách hiểu khác nhau trong hợp đồng và xảy ra tranh chấp; (vii) Năng lực nhà thầu trong nước hạn chế là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ. Do quy định muốn thay nhà thầu phải tổ chức đấu thầu lại thay vì chọn tiếp nhà thầu đứng thứ hai và việc phân xử trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà thầu phức tạp nên các chủ dự án thường không sử dụng giải pháp thay thế nhà thầu dẫn đến việc công trình không triển khai theo tiến độ được. Thực tế này đòi hỏi phải có cơ chế đấu thầu phù hợp, tạo thuận lợi cho việc thay thế nhà thầu không đủ và vốn vay ưu đ i khu vực đồng Euro nên một số nhà thầu khu vực này bị phá sản (như trong một số dự án do Italy tài trợ). Việc xử lý vấn đề này g p khó khăn do các dự án được tài trở bởi các nhà tài trợ song phương châu Âu thường dưới hình thức viện trợ có ràng buộc

6. Một số đề xuất

Một là, thường xuyên tổng kết, đánh giá việc thực hiện các chủ trương, ch nh sách huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội để rút ra nhưng m t tích cực, những hạn chế để có biện pháp sửa đổi, bổ sung.

Hai là, rà soát hệ thống chính sách thuế và thu NSNN theo hướng tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Từ đó huy động bền vững nguồn lực cho NSNN và cho đầu tư phát triển.

Ba là, rà soát hệ thống chính sách tài chính phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ để huy động có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Phát triển thị trường bất động sản trên cơ sở thực hiện Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở và Luật về kinh doanh bất động sản...; hoàn thiện việc phân loại, đánh giá đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; làm cho quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hoá một cách thuận lợi, đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển

Bốn là, rà soát hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo phát

huy hiệu quả nguồn lực con người trong phát triển KT-XH đất nước.

Năm là, trong quá trình thực hiện cơ chế ch nh sách huy động các nguồn lực

88

cần tạo cơ chế phối hợp đầy đủ, nhịp nhàng, đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả các ch nh sách huy động nguồn lực đ đề ra.

Sáu là, đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích hình thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua thị trường chứng khoán

Bảy là, trong thu hút nguồn vốn ODA cần: (i) xem sét sửa đổi Luật ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế 2005 và Pháp lệnh về Thỏa thuận quốc tế phù hợp với các quy định của Hiến pháp (sửa đổi) 2013 và có t nh đến đ c thù đối với nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ; (ii) xây dựng Đề án: “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2016 – 2020” với ước đi, lộ trình huy động nguồn lực rõ ràng, đảm bảo tính khả thi cao; (iii) phát huy tốt vai trò Ban Chỉ đạo Quốc gia về ODA và vốn vay ưu đ i được thành lập theo Quyết định số 216/QT-TTg ngày 23/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ; (iv) Nâng cao chất lượng văn kiện dự án, Báo cáo nghiên cứu khả thi; rút ngắn thời gian đàm phán ký kết, chuẩn bị thực hiện và thực hiện các chương trình, dự án ODA, đ c biệt thông qua việc an hành các quy định cho phép tiến hành các hành động trước trong giai đoạn chuẩn bị thực hiện dự án; (v) tiếp tục hài hòa hơn nữa chính sách, quy trình và thủ tục trong huy động và sử dụng nguồn ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ; (vi) Tăng cường công tác theo dõi, giám sát và đánh giá thông qua việc hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý và dữ liệu về vốn ODA và vốn vay ưu đ i, xây dựng các chỉ số thống kê quốc gia về vốn vay ODA ký kết và giải ngân; nâng cao năng lực cán bộ, xây dựng và áp dụng các chế tài nhằm đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật về theo dõi, giám sát và đánh giá việc quản lý và sử dụng vốn ODA./.

Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo “Nghiên cứu những vấn đề kinh tế” phục vụ Đại hội Đảng XII 2. Báo cáo của Bộ KH&ĐT về tổng quan công tác vận động, thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i thời kỳ 1993-2014 và định hướng trong thời gian tới

3. Tài liệu hội thảo “Giải pháp thúc đẩy và nâng cao chất lượng dòng vốn

ĐTNN vào Việt Nam”

4. Báo cáo Tổng kết 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam 5. Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ khóa VI đến khóa XI

89

VAI TR CỦA NGUỒN VỐN ODA VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI NƯỚC NGOÀI TRONG C N ĐỐI TÀI CHÍNH QUỐC GIA GIAI ĐOẠN 2006-2014

TS. Vũ Nhữ Thăng – Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Tài chính

1. Vai tr của nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong c n đối tài ch nh

quốc gia giai đoạn 2006-2014

Giai đoạn 2006-2014, công tác vận động, công tác vận động, thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam đ thu được nhiều kết quả t ch cực, thể hiện ở 3 chỉ tiêu chủ yếu: Vốn ODA cam kết, vốn ODA ký kết và vốn ODA giải ngân. Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, giai đoạn này, các nhà tài trợ đ cam kết dành cho Việt Nam trên 52 tỷ USD vốn ODA, trong đó đ ký kết hiệp định ch nh thức trên 40 tỷ USD. Với hơn 32 tỷ USD vốn giải ngân, rất nhiều chương trình, dự án sử dụng vốn ODA đ được đưa vào sử dụng, tạo nền tảng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - x hội Việt Nam, góp phần vào xóa đói, giảm nghèo.

Bảng 1: Vốn ODA cam ết, ý ết và giải ng n giai đoạn 2006-2014 Đơn vị: Triệu USD

Cam ết 4.445,60 5.426,60 5.914,67 8.063,87 7.905,51 7.386,77 6.486,00 6.600

Nguồn: Số tính toán dựa trên số liệu của Bộ KH&ĐT và TCTK

Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Tổng 52.229,02 Ký ết 2.945,69 3.911,73 4.359,55 6.217,04 3.207,38 6.814,46 5.869,36 6.414,71 4.362,00 44.101,92 Giải ng n 1.785 2.176 2.253 4.105 3.541 3.650 4.183 5.100 5.600 32.393 GDP 66.300 77.400 97.500 99.800 110.000 133.100 155.300 167.489 184.012

Vai trò của nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ thể hiện qua

những kết quả ch nh đạt được như sau:

Thứ nhất, nguồn vốn ODA đóng góp quan trọng cho cân đối tài ch nh quốc gia, hỗ trợ kinh tế vĩ mô. Nhất là trong những năm cuối của thời kỳ 2006 - 2010 và các năm gần đây khi kinh tế Việt Nam chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, m c dù quy mô vốn ODA trong giai đoạn 2006-2014 trung ình khoảng 3% GDP nhưng đ ổ sung vào tổng vốn đầu tư x hội là khoảng 12%, song nguồn vốn này góp phần đảm ảo cân đối tài ch nh vĩ mô và chiếm khoảng 40% tổng chi

90

ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển, chiếm khoảng 9% tổng chi ngân sách nhà nước. Phần lớn đây là các khoản ODA vay có l i suất rất ưu đ i, thời gian vay và ân hạn dài. Điều này rất có ý nghĩa trong ối cảnh ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển của ta còn hạn hẹp trong khi nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội lại rất lớn, giúp tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh và ền vững của đất nước và ảo đảm phúc lợi và an sinh x hội cho người dân, góp phần quan trọng vào việc tái cơ cấu nguồn ngân sách nhà nước và tập trung vốn cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - x hội. Nguồn vốn ODA đ hỗ trợ phát triển nhiều ngành và lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và x hội, gồm: Phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xóa đói, giảm nghèo; Năng lượng và công nghiệp; Giao thông vận tải, ưu ch nh viễn thông và cấp thoát nước đô thị; Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác…

Thứ hai, nguồn vốn ODA đ góp phần quan trọng trong việc phát triển hệ thống ch nh sách, luật pháp, xây dựng thể chế phục vụ công cuộc đổi mới và cải cách của Việt Nam trong quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực tài ch nh, nguồn vốn ODA đ hỗ trợ Việt Nam phát triển và hoàn thiện hệ thống quản lý tài ch nh công (ngân sách nhà nước, thuế, hải quan,...), phát triển ch nh sách tài ch nh vĩ mô, tăng cường năng lực quản lý nợ quốc gia, quản lý và giám sát thị trường tài ch nh, phát triển thị trường trái phiếu, thu chi ngân sách, quản lý tài ch nh doanh nghiệp,... Các chương trình và dự án ODA đ mang lại nhiều kết quả, đóng góp t ch cực vào tiến trình cải cách quản lý tài ch nh công, đáp ứng một phần nhu cầu cải cách và phát triển của ngành tài ch nh, hỗ trợ hoàn thiện khung khổ thể chế, pháp lý và nâng cao năng lực đội ngũ cán ộ ngành tài ch nh. Xét về m t tác động tổng thể thì hỗ trợ của các chương trình, dự án ODA đ được ghi dấu trong sự ra đời của hầu hết các ch nh sách, chế độ tài ch nh quan trọng được an hành trong thời gian qua, có tác động đáng kể tới những cải cách quản lý tài ch nh công nói riêng và quản lý kinh tế của Việt Nam nói chung.

Thứ ba, nguồn vốn ODA góp phần phát triển và tăng cường năng lực con người thông qua các hoạt động đào tạo trong và ngoài nước, chuyển giao công nghệ, cung cấp tri thức, chia sẻ kinh nghiệm tiên tiến về quản lý kinh tế và x hội; cải cách hành ch nh công ở các cấp từ Trung ương đến địa phương.

Thứ tư, nguồn vốn ODA góp phần phát triển thương mại và đầu tư, tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong thời kỳ chuẩn bị gia nhập WTO, cũng như hậu WTO, ODA đ hỗ trợ các cơ quan hữu quan Việt Nam chuẩn bị và đàm phán với các

91

đối tác về việc gia nhập tổ chức này, cũng như triển khai thực hiện các hoạt động hội nhập quốc tế sâu rộng trong bối cảnh là nước thành viên của WTO. Những công trình hạ tầng kinh tế đầu tư ằng nguồn vốn ODA như các đường quốc lộ, cảng biển, cầu, sân ay,... đ có tác động lan tỏa, kéo theo sự phát triển các khu công nghiệp, gia tăng trao đổi thương mại giữa các vùng miền, nhờ vậy cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh và thành phố chuyển dịch theo hướng tiến bộ với tỷ trọng sản xuất công nghiệp và cung ứng dịch vụ gia tăng, tạo ra nhiều việc làm, tăng nguồn thu cho chính quyền địa phương, cũng như cải thiện thu nhập của dân cư, góp phần xóa đói, giảm nghèo.

2. Hạn chế:

Bên cạnh những m t được là chủ yếu, công tác thu hút, quản lý và sử dụng ODA trong giai đoạn phát triển vừa qua có một số tồn tại và hạn chế cần được khắc phục để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực quan trọng này.

Hạn chế mang tính tổng hợp nhất trong quản lý và sử dụng ODA là năng lực hấp thụ nguồn vốn ODA quốc gia, cũng như ở cấp ngành và địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu. Có thể nhìn nhận thực trạng này thông qua tỷ lệ giải ngân nguồn vốn ODA so với nguồn vốn ODA đ ký kết. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và đầu tư, giai đoạn 2006-2010, tính chung cả nước tỷ lệ giải ngân vốn ODA chỉ đạt khoảng 67% vốn ODA ký kết. Tuy tình hình thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA và vốn vay ưu đ i đ có những chuyển iến t ch cực trong giai đoạn từ 2011 đến 2014 đạt 79% so với số vốn ký kết, đ c iệt là trong năm 2013 và 2014 vừa qua, nhưng nhìn chung tỷ lệ giải ngân nguồn vốn ODA vẫn còn chậm hơn so với tiến độ đ cam kết. Theo Báo cáo của Văn phòng Ban Chỉ đạo quốc gia về ODA cho thấy, chỉ riêng năm 2014, công tác vận động và thu hút vốn ODA, tổng vốn ODA và vốn vay ưu đ i ký kết đạt 4.362,13 triệu USD (4.160,08 triệu USD vốn ODA và vay ưu đ i, 202,05 triệu USD viện trợ không hoàn lại), ằng khoảng 68% của năm 2013. M c dù lượng vốn ODA và vốn vay ưu đ i ký kết năm 2014 giảm song tình hình giải ngân lại có những cải thiện đáng ghi nhận. Giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đ i năm 2014 đạt khoảng 5,6 tỷ USD (vốn vay là 5,25 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại là 350 triệu USD), cao hơn 9% so với năm 2013.

Có thể thấy, một số nguyên nhân ch nh dẫn tới hạn chế trong quản lý và sử

dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ như sau:

Một là, thời gian chuẩn bị và phê duyệt dự án thường bị kéo dài, từ khâu đề xuất ý tưởng đến khâu phê duyệt và ký kết thường mất từ 02 đến 03 năm thậm chí lâu hơn. Chất lượng của một số văn kiện chương trình, dự án ODA chưa đáp ứng được

92

yêu cầu và chưa phù hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam, dẫn tới tình trạng nội dung dự án phải bổ sung và điều chỉnh nhiều lần.

Hai là, quy trình thủ tục của Chính phủ và các đối tác phát triển chưa hài hòa, đ c biệt là trong công tác mua sắm đấu thầu và quản lý tài ch nh. Đồng thời quy trình và thủ tục quản lý chương trình, dự án ODA của Chính phủ còn phức tạp và thiếu nhất quán, vẫn còn những vướng mắc liên quan đến quy định quản lý rút vốn hay liên quan đến việc sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i và cơ chế tài ch nh trong nước đối với các khoản vay ODA và vốn vay ưu đ i

Ba là, việc bố trí vốn đối ứng cho các chương trình, dự án ODA theo tiến độ và cam kết chưa đầy đủ và kịp thời, dẫn tới tiến trình giải ngân nguồn vốn ODA bị chậm. Theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình đầu tư phát triển 2014 và dự kiến kế hoạch đầu tư phát triển 2015, tổng số vốn ODA đ ký kết chưa giải ngân khoảng 22 tỷ USD, yêu cầu trong 05 năm tới phải giải ngân hết số vốn này. Nếu tính số vốn ODA sẽ tiếp tục ký kết trong thời gian tới, thì bình quân mỗi năm giải ngân khoảng 5,5 tỷ UDD. Để thực hiện giải ngân số vốn ODA này, hàng năm cần khoảng 25-30 ngàn tỷ vốn đối ứng. Tuy nhiên theo kế hoạch bổ sung vốn trái phiếu chính phủ 2014-2016 được Quốc hội thông qua mới cân đối được khoảng 07 ngàn tỷ đồng. Với nguồn vốn ngân sách nhà nước như hiện nay thì việc cân đối vốn đối ứng theo tiến độ giải ngân vốn ODA là rất khó khăn.

Bốn là, việc huy động vốn ODA và vốn vay ữu đ i căn cứ nhiều vào nhu cầu, danh mục các chương trình dự án đề xuất mà chưa đ t trong mối quan hệ với khả năng trả nợ, mối quan hệ giữa hiệu quả chương trình dự án với hiệu quả quản lý nợ công và an toàn nợ công. Bên cạnh đó, việc Việt Nam đ ước vào nhóm nước có thu nhập trung bình thấp cũng đ t ra nhiều yêu cầu đối với hiệu quả sử dụng vốn ODA và vốn vay ữu đ i

Năm là, công tác quản lý và tổ chức thực hiện chương trình, dự án của các chủ dự án còn thiếu tính chuyên nghiệp. Năng lực của đội ngũ cán ộ tham gia quản lý dự án còn hạn chế. Nhân sự các Ban quản lý dự án thường không ổn định, đa số là làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Công tác đào tạo quản lý dự án chưa được thực hiện thường xuyên và có hệ thống.

3. Các giải pháp trong giai đoạn tới:

Là quốc gia đang phát triển, trong giai đoạn tới, Việt Nam tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, trong đó nguồn vốn ODA vẫn là nguồn bổ sung

93

quan trọng, góp phần vào việc cân đối tài chính quốc gia.

Bối cảnh quốc tế và trong nước cho thấy việc thu hút và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i trong giai đoạn tới có nhiều thuận lợi và thách thức đan xen. Bên cạnh đó Việt Nam đ ước vào nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, mức độ ưu đ i trong huy động vốn ODA sẽ giảm dần với thời hạn ngắn hơn. Để thu hút và sử dụng các nguồn vốn vốn ODA và vốn vay ưu đ i hiệu quả, đồng thời bảo đảm an toàn nợ công, đáp ứng yêu cầu cân đối ngân sách nhà nước, cần tính tới những giải pháp như sau:

Thứ nhất, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn ODA cần có những thay đổi phù hợp. Đối với ODA vốn vay, cần tập trung nguồn vốn này cho cân đối ngân sách nhà nước để tái cơ cấu nền kinh tế, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội và các dự án thuộc lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và là đối tượng chi của ngân sách nhà nước. Vốn ODA vay kém ưu đ i sẽ tập trung đầu tư cho các chương trình, dự án tầm cỡ quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ.

Thứ hai, thúc đẩy việc áp dụng cách tiếp cận nguồn vốn ODA và vay ưu đ i theo hình thức hỗ trợ mới như tiếp cận theo chương trình, kết quả đầu ra, nhất là hình thức hỗ trợ trực tiếp vào ngân sách để nâng cao hiệu quả sử dụng, giảm bớt các thủ tục và góp phần cải thiện các hệ thống quản lý công của Việt Nam theo chuẩn mức và tập quán quốc tế.

Thứ ba, Việt Nam đ ước vào nhóm nước thu nhập trung bình thấp, nguồn vốn ODA và vay ưu đ i của các nhà tài trợ ngày càng giảm dần, vì vậy cùng với việc nỗ lực sử dụng hiệu quả nhất nguồn vốn ODA, cần mở rộng mạnh mẽ việc thu hút các nguồn lực khác để phục vụ cho việc đầu tư phát triển của quốc gia như nguồn vốn vay kém ưu đ i hơn, nguồn vốn FDI, khuyến kh ch khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo hình thức hợp tác công - tư... Tuy nhiên, cần kiểm soát và duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn, ền vững, phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế. Việc quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài cần phải được thực hiện theo chiến lược thận trọng, thường xuyên cân nhắc và t nh toán đến hiệu quả và khả năng trả nợ.

Thứ tư, đảm ảo đầy đủ và kịp thời các điều kiện đối ứng trong nước để các chương trình, dự án ODA đạt tỷ lệ giải ngân cao và nhanh nhất, ưu tiên cân đối nguồn vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i đ ký kết và thực hiện theo đúng tiến độ. Quá trình xây dựng và hình thành chương trình, dự án ODA cần rà soát và xác định nhu cầu vốn đối ứng và khả năng cân đối

94

các nguồn ngân sách nhà nước; Cần thực hiện nguyên tắc phải cân đối được đủ nguồn vốn đối ứng mới ký kết chương trình, dự án với các nhà tài trợ nước ngoài.

Thứ năm, hoàn thiện thể chế về quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i để đảm bảo tính nhất quán và đồng bộ giữa các văn ản, đổi mới quy trình tiếp nhận và quản lý ODA; Tiếp tục hài hòa hóa với các nhà tài trợ để tinh giản quy trình, thủ tục, đ c biệt trong các khâu: mua sắm đấu thầu, quản lý tài chính...bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong đó cần hoàn thiện khung thể chế trong lĩnh vực đấu thầu trên cơ sở Luật Đấu thầu sửa đổi, ảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế và hài hòa với quy trình, thủ tục của nhà tài trợ, theo hướng trao quyền nhiều hơn cho các Ban Quản lý dự án trong công tác đấu thầu, giải quyết dứt điểm tình trạng phá giá trong đấu thầu, có quá nhiều cấp tham gia vào việc trình, duyệt dẫn đến việc không xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan có liên quan. Đồng thời rà soát các quy định về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Ch nh phủ, trên cơ sở đó xử lý các vướng mắc về các vấn đề như: cơ chế cho vay lại, cơ chế tài ch nh trong nước, quản lý rút vốn, mức tạm ứng hợp đồng cho các dự án ODA và vốn vay ưu đ i...

Thứ sáu, tăng cường và nâng cao chất lượng đối thoại chính sách ở cấp quốc gia và cấp ngành với các nhà tài trợ quốc tế. Đối thoại chính sách cần đi sâu về nội dung, mở rộng phạm vi tham gia của các bên, phát huy vai trò chủ động của Chính phủ, các ngành trong việc xác định chủ đề, chuẩn bị nội dung, đồng thời kết quả đối thoại chính sách cần được theo dõi và triển khai thực hiện.

Thứ bảy, tăng cường năng lực quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đ i cho các Bộ, ngành theo hướng chuyên nghiệp và bền vững; Đào tạo thường xuyên về chính sách, quy trình, thủ tục và nghiệp vụ quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đ i cho đội ngũ cán ộ quản lý dự án ở các cấp ngành; Tăng cường công tác theo dõi, giám sát và đánh giá công tác quản lý và thực hiện các chương trình dự án ODA

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo đánh giá toàn diện 20 năm quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.

2. Tài chính Việt Nam 2013-2014, Nhà xuất bản tài chính.

3. http://oda.mpi.gov.vn.

4. http://mof.gov.vn.

95

CÁC NGUỒN VỐN ODA VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI NƯỚC NGOÀI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1994-2015

Th. sỹ Nguyễn Thanh Hằng – Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải

Qua mấy chục năm chiến tranh, hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam đ ị hư hại, xuống cấp nghiêm trọng, không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Đ c biệt, hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải - một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để phục vụ cho phát triển kinh tế đ ị hư hại n ng nề trong khi Nhà nước chưa đủ nguồn vốn để phục hồi, nâng cấp. Từ những năm cuối thập niên 1980, nhờ ch nh sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, tình hình hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đ gia tăng theo từng năm, kinh tế tăng trưởng nhanh chóng. Để tạo tiền đề vững chắc cho kinh tế phát triển, Đảng và Chính phủ đ đ c biệt chú trọng tới việc phục hồi, nâng cấp và tạo ra những năng lực mới cho hệ thống cơ sở hạ tầng của đất nước. Bắt đầu từ năm 1993, với sự quay trở lại của các nhà tài trợ quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Chính phủ các nước như Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, , Úc, Đài Loan, Bỉ, Đan Mạch, Hà Lan, Hàn Quốc, … Việt Nam đ tranh thủ được sự ủng hộ và phát huy tốt nguồn lực trong nước để đầu tư nâng cấp mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 20 năm qua.

I. Kết quả đạt được 20 năm qua (1995-2015)

Ngay từ đầu những năm 90, để thúc đẩy tiến trình dự án, Bộ Giao thông vận tải (GTVT) đ khẩn trương phối hợp với các nhà tài trợ triển khai một số nghiên cứu tổng quan ngành, quy hoạch, từ đó xác định danh mục và lập nghiên cứu khả thi án để sử dụng nguồn vốn ODA đầu tư các dự án có nhu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, các quy định về trình tự thủ tục quản lý đầu tư cũng đang trong giai đoạn nghiên cứu để ban hành song song. Công tác thẩm định, phê duyệt dự án phải qua nhiều cấp, việc thẩm định và ký hiệp định vốn vay còn rất mới và nhiều bỡ ngỡ. Tuy nhiên, thực hiện chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, Bộ GTVT đ phối hợp với Bộ KH&ĐT (trước đây là UBKHNN), Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính và các nhà tài trợ tập trung chỉ đạo trên cơ sở các quy định mới của Chính phủ, hội thảo đào tạo nghiệp vụ quản lý dự án ODA, các hướng dẫn của các nhà tài trợ về đấu thầu,… đ xây dựng được quy định của Bộ GTVT về phân công, phân cấp và trình tự thủ tục triển khai dự án từ khâu xác định dự án, đấu thầu, thi công xây lắp,… Các Ban Quản lý dự án (QLDA) đ nhanh chóng tiếp cận, học hỏi, triển khai dự án đúng quy định, đảm bảo tiến độ cam kết. Do đó, ngay từ những năm đầu triển khai các dự án ODA, Bộ GTVT đ được các nhà tài trợ, Chính phủ Việt Nam đánh giá cao về sự phối hợp ch t chẽ, có hiệu quả với các Bộ, ngành liên quan và các nhà tài trợ trong việc thúc đẩy tiến

96

trình dự án, kết hợp hài hòa giữa thủ tục trong nước và hướng dẫn của các nhà tài trợ.

TT Tên nhà tài Các chuyên ngành GTVT được hỗ trợ vốn ODA Thời gian

trợ

1 Nhật Bản 1995-2015

- Hỗ trợ kỹ thuật: Nghiên cứu chiến lược ngành; Quy hoạch phát triển đường bộ, đường cao tốc, cảng biển Nghiên cứu tiêu chuẩn, quy chuẩn; Nghiên cứu tiền khả thi, khả thi và thiết kế kỹ thuật một số dự án lớn; Tăng cường năng lực đào tạo cho một số Trường về lĩnh vực GTVT.

- Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Đường bộ (Hệ thống đường quốc lộ, đường cao tốc), sân bay, cảng biển, đường sắt.

1 WB 1995-2015

- Hỗ trợ kỹ thuật nghiên cứu chuẩn bị dự án. - Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Đường bộ (Hệ thống đường quốc lộ, đường cao tốc, đường giao thông nông thôn vùng sâu vùng xa, …), đường thủy.

2 ADB 1995-2015

- Hỗ trợ kỹ thuật nghiên cứu chuẩn bị dự án. - Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Đường bộ (Hệ thống đường quốc lộ, đường cao tốc, đường giao thông nông thôn vùng sâu vùng xa ,…).

4 Anh 2006-2014

5 Pháp 1994-2015

Viện trợ không hoàn lại thông qua việc đồng tài trợ với WB cho các dự án giao thông nông thôn. Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Đường bộ, đường sắt, hàng không. Cung cấp đầu máy, thiết bị phục vụ đường sắt quốc gia.

6 Đức 7 Hàn Quốc Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Đường bộ. 8 Trung Quốc Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Thông tin tín hiệu đường sắt 1998-2000 1996-2015 1999-2015

quốc gia, đường sắt đô thị.

9 Đài Loan Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Đường bộ. 10 Úc 1993-1997 1993-2015

1995-2000 1996-2000 11 Bỉ 12 Canada

Viện trợ không hoàn lại thông qua việc đồng tài trợ với WB cho các dự án xây dựng đường bộ, đường thủy. Đào tạo; Cung cấp thiết bị đường sắt. Cung cấp hệ thống quản lý luồng hành hải và nghiên cứu quản lý cơ sở hạ tầng đường thủy Cung cấp thiết bị sản xuất vật liệu làm đường và đèn iển 1996-2003 Ban

13 Tây Nha

14 Đan Mạch Cung cấp thiết bị đường thủy; đèn t n hiệu, chiếu sáng sân 1995-2004

bay. Hỗ trợ đào tạo hàng hải. Hỗ trợ đào tạo hàng hải. Cung cấp thiết bị sản xuất vật liệu làm đường. Cung cấp thiết bị đường sắt. Cung cấp thiết bị đường sắt. Xây dựng/lắp đ t thiết bị: Bệnh viện GTVT. 2003-2006 2000-2002 1995-1997 1997 2003-2015 2011-2015

15 Hà Lan 16 Na Uy 17 Thái Lan 18 Thụy Sĩ 19 Áo 20 OFID (Quỹ triển phát

97

TT Tên nhà tài Các chuyên ngành GTVT được hỗ trợ vốn ODA Thời gian

trợ quốc tế của OPEC)

Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Giao thông vận tải

Đến nay, Bộ GTVT đ hoàn thành 107 chương trình/dự án ODA của các nhà tài trợ với tổng số vốn vốn ODA là 9.339 triệu USD. Cụ thể theo từng nhà tài trợ như sau: 37 dự án của JICA với tổng giá trị: 5.994 triệu USD, 10 dự án của WB với tổng giá trị: 1.190 triệu USD, 11 dự án của ADB với tổng giá trị 1.176 triệu USD, 18 dự án của Pháp với giá trị 204 triệu USD, 04 dự án của Đức với giá trị 105 triệu USD, 03 dự án của Anh với giá trị 95 triệu USD, 02 dự án của Úc với giá trị 66 triệu USD, 03 dự án của Hàn Quốc với giá trị 166 triệu USD, 02 dự án của Trung Quốc với giá trị 209 triệu USD và 17 dự án của các nhà tài trợ khác với tổng giá trị là 135 triệu USD.

1. Kết quả về kết cấu hạ tầng giao thông (phần cứng)

a. Về lĩnh vực đường bộ:

- Đối với hệ thống quốc lộ, từ năm 1993 khi các nhà tài trợ bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam như Nhật Bản (thông qua OECF - Quỹ Hợp tác Kinh tế Hải ngoại Nhật Bản, nay là JICA - Cơ quan Hợp tác Quốc Tế Nhật Bản), WB, ADB đ quan tâm ưu tiên cải tạo nâng cấp toàn tuyến Quốc lộ 1 - tuyến huyết mạch của đất nước và đến năm 2008 đ hoàn thành toàn tuyến, kịp thời đáp ứng nhu cầu vận tải hành khách và hàng hóa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Song song với quá trình hỗ trợ cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 1, các nhà tài trợ như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đ hỗ trợ Bộ GTVT cải tạo, nâng cấp các quốc lộ 5, 18, 10 thuộc tam giác phát triển kinh tế phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh) và đến năm 2006 đ hoàn thành toàn ộ đáp ứng nhu cầu phát triển của vùng tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc. Một số tuyến quốc lộ quan trọng kết nối với các nước láng giềng đ được ADB hỗ trợ nâng cấp như Đường xuyên Á nối với Campuchia, Quốc lộ 9 nối với Lào góp phần tăng cường thông thương và hợp tác phát triển với các nước trong khu vực. Đ c biệt là các công trình hầm, cầu vượt sông lớn có công nghệ hiện đại trên các tuyến quốc lộ

98

trọng yếu cũng đ được các nhà tài trợ hỗ trợ vốn và công nghệ để xây dựng như hầm Hải Vân (JICA); cầu Mỹ Thuận (Úc); cầu Cần Thơ, B i Cháy, Thanh Trì, Nhật Tân (JICA); cầu Vĩnh Thịnh (Hàn Quốc). Hiện nay, các nhà tài trợ đang tiếp tục hỗ trợ triển khai các dự án: Kết nối đồng bằng sông Mê kông (ADB, Hàn Quốc và Úc đồng tài trợ); Đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện, Tín dụng ngành GTVT để cải tạo mạng lưới đường quốc gia giai đoạn 2 (JICA); Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng Bắc bộ; Quản lý tài sản đường bộ (WB); Hành lang ven biển ph a Nam giai đoạn 1, Quốc lộ 217 (ADB); cầu Hưng Hà, cầu Thịnh Long, tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi (Hàn Quốc).

- Hệ thống giao thông nông thôn cũng được các nhà tài trợ đa phương là WB và ADB đ c biệt quan tâm. Nhằm phát triển hệ thống giao thông đảm bảo đồng bộ và hiệu quả, bắt đầu từ năm 1996, thông qua các dự án giao thông nông thôn 1, 2 và 3 của WB; ADB4, ADB5 của ADB đ có hàng nghìn km đường tỉnh, đường huyện các tỉnh thuộc phạm vi cả nước được đầu tư nâng cấp, xây dựng giúp giao thông thuận lợi tới các trung tâm kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục,... góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững của các địa phương.

- Về giao thông đô thị, từ năm 2002 một số tuyến đường như Vành đai 3 Hà Nội, đường nối Nhật Tân – Nội Bài đ được JICA quan tâm tài trợ góp phần giảm áp lực giao thông tại đô thị Hà Nội. Hiện nay JICA đang hỗ trợ xây dựng cầu cạn đoạn Mai Dịch - Nam Thăng Long.

- Hệ thống đường cao tốc: Trên cơ sở quy hoạch phát triển đường bộ cao tốc của Việt Nam, từ năm 2008, các nhà tài trợ lớn như ADB, JICA và WB đ đồng hành và tài trợ cho các dự án xây dựng đường cao tốc của Bộ GTVT. Hiện đ hoàn thành một số tuyến cao tốc, tiền cao tốc như Hà Nội – Thái Nguyên (JICA), Nội Bài – Lào Cai (ADB), TP. HCM - Long Thành - Dầu Giây (ADB và JICA đồng tài trợ), Nhật Tân – Nội Bài và đang triển khai xây dựng các tuyến Đà Nẵng - Quảng Ngãi (JICA và WB đồng tài trợ), Bến Lức - Long Thành (JICA và ADB đồng tài trợ).

Đánh giá tổng thể lĩnh vực đường bộ: Hơn 20 năm qua nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i đ đóng góp rất đáng kể trong việc xây dựng đường cao tốc; cải tạo, nâng cấp các quốc lộ và giao thông nông thôn đáp ứng kịp thời nhu cầu giao thông để phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i cũng đ từng ước hỗ trợ cho các thành phố lớn nâng cao an toàn, giảm ùn tắc giao thông, kết nối các phương thức vận tải, ...

b. Về lĩnh vực đường sắt:

- Đường sắt quốc gia: Với mục tiêu rút ngắn thời gian chạy tàu, nâng số lượng đôi tàu/ngày,đêm phục vụ vận chuyển hành hóa, hành khách trên tuyến đường sắt Hà Nội – TP. HCM. Từ năm 1993 đến nay, JICA đ tài trợ các khoản vay để thay thế một loạt các cầu

99

yếu mất an toàn chạy tàu, đ c biệt vào mùa mưa lũ; Pháp và Trung quốc đ cấp vốn vay cho một số dự án hiện đại hóa hệ thống thông tin tín hiệu; Đức, Pháp, Bỉ, Thụy Sỹ và Áo đ hỗ trợ vốn vay mua đầu máy, mua ray và phụ kiện đường sắt,.... Kết quả từ năm 1993 đến nay, thời gian chạy tàu Thống Nhất đ rút ngắn được từ 38 giờ xuống còn 32 giờ. Đối với tuyến đường sắt Yên Viên – Lào Cai, ADB và Pháp đ hỗ trợ nâng cấp cải tạo và hoàn thành vào cuối tháng 4/2015 vừa qua góp phần nâng cao an toàn và giảm 40 phút chạy tàu. Ngoài ra, trong thời gian qua, JICA đ hỗ trợ Bộ GTVT nghiên cứu tổng thể về tuyến đường sắt hiện tại và đường sắt tốc độ cao để có chiến lược huy động vốn nâng cấp tuyến đường sắt hiện có phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và tầm nhìn xa hơn về tuyến đường sắt Bắc - Nam khổ 1,435m tốc độ cao. Hiện nay, Bộ GTVT đang được được các nhà tà trợ hỗ trợ triển khai các dự án: Xây dựng trung tâm điều hành vận tải (Đức), Mua máy kiểm tra chất lượng cầu đường và máy điều hoà đá balát đường sắt (Áo).

- Đường sắt đô thị: Đối với TP. Hà Nội, Bộ GTVT đang triển khai thi công tuyến đô thị số 2A đoạn Cát Linh – Hà Đông do Trung Quốc tài trợ, dự kiến sẽ vận hành khai thác trong năm 2016. Tuyến đô thị số 1 đoạn Ngọc Hồi – Gia Lâm do JICA tài trợ hiện đang ở ước hoàn thiện thiết kế kỹ thuật nhưng do vướng mắc vị trí cầu vượt sông Hồng, hành lang chiếm dụng đất, vụ việc JTC, ... nên dự án đang ị chậm tiến độ. Ngoài 2 tuyến này, UBND TP. Hà Nội đang triển khai thi công tuyến số 3 Nhổn – Ga Hà Nội do Pháp, ADB và Ngân hàng châu Âu (EIB) tài trợ. Đối với TP. HCM, hiện đang thi công tuyến số 1 Bến Thành – Suối Tiên do JICA tài trợ và khởi động tuyến số 2 Bến Thành – Tham Lương do Đức, ADB và EIB tài trợ. Các dự án đường sắt đô thị đi vào hoạt động sẽ góp phần rất quan trọng trong việc giảm ùn tắc giao thông và thay đổi bộ m t giao thông của hai đô thị lớn.

c. Về lĩnh vực đường thủy:

Giai đoạn năm 1995-2004, Canada hỗ trợ cơ sở hạ tầng nông thôn đường thủy và Đan Mạch tài trợ khôi phục Phà Mê Kông và phà Mỹ thuận – Cần Thơ đáp ứng nhu cầu cấp bách về kết nối đường bộ qua sông Tiền và sông Hậu khi Nhà nước chưa có nguồn lực để đầu tư xây dựng các cầu qua sông lớn. Từ năm 1998 đến nay, WB đ hỗ trợ vốn hoàn thành nâng cấp 2 tuyến đường thuỷ phía Nam (TP HCM - Cà Mau, TP HCM - Kiên Lương) và đang hỗ trợ thực hiện Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đồng bằng sông Cửu Long (WB5) và Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đồng bằng Bắc bộ (WB6). Dự án WB5 và WB6 sẽ giúp cơ ản hoàn chỉnh hệ thống giao thông đường thủy khu vực đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn chung, ngoài WB quan tâm đầu tư lớn; Bỉ, Canada, Hà Lan quan tâm đào tạo, tăng cường năng lực quản lý, các nhà tài trợ lớn khác chưa có đầu tư lớn cho ngành đường thủy.

d. Về lĩnh vực hàng hải và cảng biển:

Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài, việc phát triển hệ thống cảng biển với vai trò

100

cửa ngõ thông thương hàng hóa xuất nhập khẩu quốc tế là hết sức quan trọng, được nhiều nhà tài trợ quan tâm tài trợ vốn đầu tư các dự án như: JICA hỗ trợ triển khai dự án nâng cấp cảng Hải Phòng, cảng nước sâu Cái Lân cho khu vực phía Bắc; cảng Tiên Sa – Đà Nẵng cho khu vực miền Trung và cảng Cái Mép – Thị Vải cho khu vực phía Nam. Các nhà tài trợ khác như: ADB hỗ trợ nâng cấp cảng Sài Gòn, Pháp hỗ trợ hệ thống đèn vào cảng Hải Phòng, Tây Ban Nha hỗ trợ hệ thống đèn iển Việt Nam, Canada hỗ trợ hệ thống quản lý luồng Sài Gòn – Vũng Tàu, Hà Lan hỗ trợ mua tàu tìm kiếm cứu nạn,... Hiện nay, JICA đang tiếp tục hỗ trợ triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng cảng Lạch Huyện và đường ô tô Tân Vũ – Lạch Huyện.

e. Về lĩnh vực hàng không:

Bắt đầu từ năm 2002, JICA đ tài trợ vốn để Xây dựng Nhà ga hành khách quốc tế sân ay Tân Sơn Nhất đ hoàn thành đưa vào khai thác từ năm 2008. Mới đây nhất, Dự án xây dựng Nhà ga hành khách quốc tế T2 Nội Bài do JICA tài trợ cũng đ được hoàn thành. Đây là hai Cảng hàng không quan trọng bậc nhất của Việt Nam kết nối với thế giới. JICA cũng đ hỗ trợ Bộ GTVT nghiên cứu chuẩn bị dự án theo hình thức PPP Dự án sân bay quốc tế Long Thành thuộc địa phận tỉnh Đồng Nai. Dự án này đ được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 13. Hiện nay, Bộ GTVT đang khẩn trương triển khai các ước để lập báo báo nghiên cứu khả thi dự án.

2. Kết quả về phát triển năng lực thể chế và nguồn nhân lực (phần mềm).

Song song với việc hỗ trợ Bộ GTVT đầu tư nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới kết cầu hạ tầng giao thông (phần cứng), các nhà tài trợ thường lồng ghép vào các dự án ho c cung cấp riêng các hỗ trợ trợ kỹ thuật giúp Bộ GTVT và các đơn vị trực thuộc tăng cường năng lực: xây dựng thể chế quản lý và phát triển, lập quy hoạch, quản lý, vận hành khai thác, duy tu bảo dưỡng, phát triển nguồn nhân lực ... nhằm phát huy hiệu quả kết cấu hạ tầng giao thông đ , đang và sẽ được đầu tư nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Các hỗ trợ kỹ thuật tiêu biểu như:

- Lập chiến lược phát triển ngành, quy hoạch phát triển đường bộ, đường sắt, cảng

biển,... (VITRANSS 1 năm 2000 và VITRANSS 2 năm 2010 do JICA tài trợ);

- Nghiên cứu Hợp tác Nhà nước - Tư nhân (PPP) trong ngành đường bộ năm 2009

(do WB tài trợ);

- Vận tải đa phương thức cho Bộ GTVT năm 2014 (do WB tài trợ);

- Nghiên cứu ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật đường sắt, sổ tay quản lý khai thác đường

bộ (do JICA tài trợ không hoàn lại).

- Đào tạo Kỹ thuật viên ra đa và không lưu (1998-2000); Đào tạo phi công ATR 72

(1999-2002) do Pháp tài trợ;

101

- Tăng cường năng lực Trường Kỹ thuật nghiệp vụ Hàng Giang (1998-2000) do Hà

Lan viện trợ không hoàn lại;

- Trường Hàng hải 2 (2000-2002) do Na Uy tài trợ;

- Dự án tăng cường năng lực cho Trường cao đẳng nghề GTVT 1 (2001-2002) để đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề cao ngang tầm khu vực trong thi công xây dựng các công trình đường bộ do JICA tài trợ;

- Dự án tăng cường năng lực cho Trường Đại học công nghệ giao thông (2011- 2013) đào tạo đội ngũ cán ộ kỹ thuật xây dựng đường cao tốc phục vụ cho các công trường xây dựng đường cao tốc ở Việt Nam do JICA tài trợ;

- Trường Đại học Hàng hải đ tiếp nhận 3 dự án do Chính phủ Nhật Bản tài trợ: (i) Nâng cao năng lực đào tạo các ngành hàng hải chủ yếu cho lái máy, thuyền viên, kỹ thuật điện...( 2002-2004); (ii) Cung cấp thiết bị phục vụ công tác giảng dạy và học tập từ các doanh nghiệp Nhật Bản khu vực bị động đất sóng thần (2012); (iii) Thành lập Trung tâm đào tạo Logistics Tiểu vùng sông Mê Kông tại Việt Nam (2012–2014) nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại cấp độ vận hành để cung cấp cho thị trường logistics của Việt Nam cũng như các quốc gia khác thuộc tiểu vùng sông Mê-kông;

- Tổng cục ĐBVN đ tiếp nhận các dự án hỗ trợ kỹ thuật: (i) Chuyển giao công nghệ về thành lập cơ sở dữ liệu quản lý và duy tu bảo dưỡng hệ thống đường bộ; (ii) Tăng cường năng lực hệ thống vận hành và bảo trì đường cao tốc (2011-2013); (iii) Tăng cường năng lực bảo trì đường bộ (2011-2014) do JICA tài trợ;

Kết quả sử dụng nguồn vốn ODA 20 năm qua trong lĩnh vực GTVT được Chính phủ và các nhà tài trợ đánh giá là đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, các dự án hoàn thành đưa vào khai thác đều có lưu lượng giao thông vượt so với dự báo ban đầu trong bước nghiên cứu khả thi, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo của đất nước trong 20 năm qua.

Hiện nay, Bộ GTVT đang triển khai 25 dự án với tổng vốn ODA 9.831 triệu USD. Cụ thể theo từng nhà tài trợ như sau: 07 dự án của JICA với tổng giá trị: 4.497 triệu USD, 07 dự án của WB với tổng giá trị: 1.416 triệu USD, 06 dự án của ADB với tổng giá trị 2.388 triệu USD, 01 dự án của Pháp với giá trị 51 triệu USD, 01 dự án của Đức với giá trị 14 triệu USD, 01 dự án của OFID với giá trị 13,5 triệu USD, 04 dự án của Úc với giá trị 234 triệu USD, 05 dự án của Hàn Quốc với giá trị 798 triệu USD và 01 dự án của Trung Quốc với giá trị là 419 triệu USD.

102

Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Giao thông vận tải

II. Hạn chế yếu kém, nguyên nhân và giải pháp

Với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i ngoài việc tuân thủ các quy định trong nước còn phải tuân thủ các quy định, thông lệ của các nhà tài trợ. Trong quá trình tiếp nhận và quản lý nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i 20 năm qua, song hành với kết quả đ đạt được rất quan trọng như đ nêu ở trên, còn có tồn tại những hạn chế yếu kém ở cấp độ ngành GTVT cũng như cấp độ quốc gia cần được thường xuyên xem xét, tìm hiểu, đánh giá nguyên nhân để có các chính sách, giải pháp giải quyết phù hợp, kịp thời đáp ứng tình hình thực tế. Những năm gần đây, những quy định trong quản lý đầu tư xây dựng, quản lý đấu thầu, giải phóng m t bằng, quản lý môi trường, ... của Việt Nam đ thường xuyên cập nhật và hoàn thiện, cơ ản tiếp cận và hài hoà với các quy định, thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy còn có một số hạn chế yếu kém, nguyên nhân và đề xuất giải pháp trong thời gian tới như sau:

1. Vướng mắc giải ngân vốn nước ngoài (vốn ODA và vốn vay ưu đãi)

a. Nguyên nhân:

Mục 7, Điều 2, Nghị quyết số 78/2014/QH13 thông qua ngày 10/11/2014 của Quốc hội quy định: “Trong trường hợp giải ngân vốn ODA vượt dự toán, Chính phủ phải báo cáo Ủy an thường vụ Quốc hội trước khi thực hiện”. Trên cơ sở cân đối nguồn lực quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đ có Quyết định số 2375/QĐ-TTg ngày 28/12/2014 của về việc giao Kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN năm 2015 và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đ có Quyết định số 1926/QĐ-BKHĐT ngày 29/12/2014 về việc giao chi tiết Kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN năm 2015, trong đó Bộ GTVT được giao vốn ODA là 4.944,5 tỷ đồng/29.000 tỷ đồng nhu cầu. Quyết định số 2375/QĐ-TTg ngày 28/12/2014, Thủ tướng Chính phủ quy định chỉ cho giải ngân theo giá trị kế hoạch được giao (những năm trước đây cho phép giải ngân theo tiến độ thực tế dự án và cam kết với nhà tài trợ).

Thực tế, các dự án ODA ngành GTVT đang triển khai hiện nay đều là những dự án quy mô lớn, có tác động lớn đến kinh tế - xã hội đất nước và có sự tham gia của các nhà

103

thầu quốc tế. Các dự án này đang được Bộ GTVT chỉ đạo khẩn trương thi công đáp ứng tiến độ đ cam kết với các nhà tài trợ, đo đó nhu cầu giải ngân vốn ODA rất lớn. Việc thiếu kế hoạch vốn ODA để giải ngân cho các dự án sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thi công, kéo dài thời gian hoàn thành, làm tăng chi ph và giảm hiệu quả đầu tư. Ngoài ra, việc kéo dài thời gian hoàn thành các dự án sẽ ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân khu vực dự án và bức xúc trong dư luận xã hội; các nhà thầu khiếu nại bồi thường về việc thanh toán chậm; một số dự án hết hạn giải ngân thì Chính phủ phải bố trí vốn trong nước để chi trả cho khối lượng còn lại dự án,… Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đ có văn ản số 3458/VPCP-KHTH ngày 14/5/2015 cho phép giải ngân vốn ODA theo tiến độ thực hiện dự án và tiến độ cấp vốn của nhà tài trợ, đồng thời giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẩn trương chủ trì với Bộ Tài ch nh và các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, báo cáo Ủy an thường vụ Quốc hội cho phép bổ sung vốn kế hoạch vốn ODA năm 2015 theo tiến độ thực hiện dự án và tiến độ cam kết với các nhà tài trợ.

Như vậy, việc giải quyết vừa qua của Chính phủ chỉ là giải pháp tình thế, chưa chủ động và đảm bảo tính bền vững. Do đó cần có quy định, chính sách ổn định lâu dài, tránh những tác động không đáng có đối với việc thực hiện các dự án ODA, tạo quan ngại của các nhà tài trợ về tính ổn định về chính sách của Việt Nam.

b. Đề xuất giải pháp:

Quốc hội, Chính phủ cần có quy định về việc giao Kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN những năm tiếp theo cho phù hợp với tình hình thực tế các dự án ODA đ cam kết và đang triển khai của Việt Nam hiện nay.

2. Thiếu vốn đối ứng cho các dự án ODA

a. Nguyên nhân:

Do ngân sách nhà nước những năm gần đây g p nhiều khó khăn nên việc bố trí vốn đối ứng thường không kịp thời cho công tác đền bù giải phóng m t bằng (GPMB) và các khoản thuế nên đ ảnh hưởng lớn đến tiến độ thực hiện các dự án ODA.

b. Đề xuất giải pháp:

- Về phía Chính phủ: Đối với các dự án vay vốn ODA và vốn ưu đ i trong thời gian tới cần cân đối bố tr đủ, kịp thời nguồn lực đối ứng trong nước. Trường hợp dự án cấp thiết cần thực hiện mà bị thiếu vốn đối ứng thì xem xét khả năng vay vốn ODA cho công tác GPMB và các khoản thuế. Hiện nay, giải pháp này được WB và ADB ủng hộ.

- Về phía Bộ GTVT: Yêu cầu các Chủ đầu tư/Ban QLDA phải xây dựng kế hoạch sử dụng vốn đối ứng thật chi tiết, phù hợp với điều kiện thực tế của dự án để đề xuất phân bổ và sử dụng hiệu quả số vốn đối ứng được giao.

3. Giảm thủ tục điều chỉnh hiệp định vay trong trường hợp không làm tăng nghĩa vụ

104

trả nợ nước ngoài ho c không thay đổi cam kết đ ký

a. Nguyên nhân

Mục b, Khoản 2, Điều 35, Nghị định 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 của Chính phủ về ODA quy định: “Đối với sửa đổi, bổ sung không làm tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ (như l i suất, thời hạn vay, mức tiền vay, các khoản phí) ho c không thay đổi cam kết khác của Chính phủ so với trước đó, cơ quan đề xuất quyết định việc sửa đổi, bổ sung trên cơ sở ý kiến bằng văn ản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và các cơ quan khác có liên quan”. Thực tế, trong quá trình triển khai dự án ODA việc sửa đổi như trên diễn ra khá thường xuyên như: chuyển từ hạng mục dự phòng lên xây lắp ho c tư vấn, tỷ trọng giữa phần ngoại tệ và nội tệ (ở các hiệp định vay song phương), ... nên việc lấy ý kiến nhiều Bộ, ngành liên quan tốn nhiều thời gian. Trong khi trước đây Bộ Tài ch nh (đối với khoản vay song phương) và Ngân hàng Nhà nước (đối với khoản vay đa phương) quyết định việc triển khai thủ tục sửa đổi, bổ sung.

b. Đề xuất giải pháp:

Để giảm thủ tục và rút ngắn thời gian điều chỉnh hiệp định vay, đề nghị áp dụng như trước đây là Bộ Tài ch nh (đối với khoản vay song phương) và Ngân hàng Nhà nước (đối với khoản vay đa phương) được quyết định việc triển khai sửa đổi, bổ sung.

4. Áp dụng cơ chế tài chính cho nguồn vốn vay kém ưu đ i:

a. Nguyên nhân:

Do Việt Nam đ trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp) nên Việt Nam nên trong những năm tới Việt Nam không được tiếp cận nguồn vốn ODA từ các nhà tài trợ mà phải tiếp cận nguồn vốn kém ưu đ i hơn. Quan điểm hiện nay của Bộ Tài chính là: Trường hợp Việt Nam phải vay vốn kém ưu đ i thì các doanh nghiệp, địa phương phải thực hiện vay lại Chính phủ.

Trên cơ sở Đề án tái cơ cấu đầu tư ngành GTVT được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, thời gian tới Bộ GTVT định hướng sẽ ưu tiên ODA cho lĩnh vực đường cao tốc, đường sắt, đường thủy nội địa, vận tải đa phương thức, logistics và PPP. Đây đều là các lĩnh vực cần có sự hỗ vốn của nhà nước, nếu phải thực hiện vay lại toàn bộ và hoàn vốn cho các dự án thuộc các lĩnh vực này là rất khó khăn.

b. Đề xuất giải pháp

Chính phủ cần có quy định về việc cho vay lại vốn vay kém ưu đ i trên cơ sở

phương án tài ch nh của từng dự án thuộc từng lĩnh vực cụ thể.

5. Công tác chuẩn bị dự án ODA và vốn vay ưu đ i thường kéo dài.

a. Nguyên nhân:

105

Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i, các nhà tài trợ thường cung cấp một khoản ODA không hoàn lại để hỗ trợ kỹ thuật lập báo cáo nghiên cứu khả thi (FS). Tuy nhiên, giá trị của khoản ODA này thông thường khoảng 1 triệu USD nên khi lập dự chủ yếu tập trung vào việc điều tra, phân tích hiệu quả của dự án, xác định quy mô dự án... còn công tác khảo sát lập thiết kế cơ sở không thật chi tiết như quy định trong nước. Theo quy định, FS cần phải được Bộ GTVT duyệt trước khi đàm phán hiệp định vay vốn, do đó để có thể sử dụng ngay FS do nhà tài trợ hỗ trợ thực hiện (như Quyết định 48/2008/QĐ-TTg ngày 03/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ an hành Hướng dẫn chung lập Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án sử dụng vốn ODA của Nhóm 5 Ngân hàng) thì ở ước thiết kế kỹ thuật phải bổ sung nội dung rà soát thiết kế cơ sở và nếu cần phải phê duyệt lại. Điều này sẽ làm kéo dài thời gian thiết kế kỹ thuật và chứa đựng rủi ro phải điều chỉnh lại tổng mức đầu tư khi duyệt lại thiết kế cơ sở. Chính vì thế, đối với các dự án lớn, Bộ GTVT đ yêu cầu tuyển thêm tư vấn trong nước cập nhật, bổ sung thiết kế cơ sở đảm bảo theo quy định của ngành GTVT trước khi phê duyệt FS (như dự án cao tốc Bến Lức – Long Thành, Hà Nội - Lạng Sơn,...), điều này đ làm kéo dài thời gian chuẩn bị dự án.

b. Đề xuất giải pháp:

- Trong quá trình chuẩn bị dự án, cần trao đổi với nhà tài trợ về yêu cầu đối với FS của phía Việt Nam để nhà tài trợ xem xét cung cấp đủ khoản tài ch nh để thực hiện hỗ trợ kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu của cả Việt Nam và nhà tài trợ.

- Đối với các dự án quan trọng, phía Việt Nam có thể xem xét sử dụng vốn trong

nước để thực hiện FS trước để cung cấp cho nhà tài trợ.

6. Năng lực của các Ban Quản lý dự án ODA còn hạn chế

a. Nguyên nhân

Hiện nay, năng lực của các Ban QLDA) còn nhiều bất cập như: Tổ chức, thực hiện đấu thầu kéo dài; Năng lực đàm phán, ký kết và quản lý hợp đồng hạn chế. Thời gian gần đây, tại một số dự án ODA và vốn vay ưu đ i, công tác quản lý hợp đồng đang g p nhiều khó khăn về các vấn đề điều chỉnh giá, xử lý phát sinh, … theo thông lệ quốc tế.

b. Đề xuất giải pháp:

- Cần chuyên nghiệp hóa các Ban QLDA các dự án ODA, không giao dự án ODA

cho các Ban QLDA chưa có kinh nghiệm.

- Để thu hút và giữ được đội ngũ cán ộ có trình độ tiếng anh, có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm để làm việc với các nhà tài trợ, nhà thầu và tư vấn quốc tế cần phải có chế độ đ i ngộ thỏa đáng. Do đó đề nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và an hành định mức chi phí QLDA và mức lương cho các ộ thực hiện quản lý dự án ODA.

106

NHÌN LẠI 20 NĂM VẬN ĐỘNG ODA CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÀ

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN GIAI ĐOẠN 1996-2015

Trần Kim Long86- Lê Thành Văn87 Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Nông nghiệp và PTNT

Tóm tắt

Qua hơn 20 năm tiếp nhận nguồn vốn Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA), tổng lượng vốn ODA huy động trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn vào khoảng hơn 6 tỷ USD, chiếm khoảng 7-8% tổng ODA cả nước, ODA đã tác động tích cực cho toàn ngành và góp phần đáng kể thúc đẩy và thay đổi bộ m t nông nghiệp, nông thôn. Trong tổng số vốn ODA cho ngành nông nghiệp thì thủy lợi chiếm tỷ lệ cao nhất với 45%, tiếp theo là nông nghiệp (21%), phát triển nông thôn (15%), lâm nghiệp (15%) và ít nhất là thủy sản chỉ với 4%. Trong các nhà tài trợ, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) là nhà tài trợ có vốn lớn nhất chiếm 26 %, tiếp đó là Ngân hàng Thế giới 25 %. JIBIC/JICA chiếm 8,9%, DANIDA khoảng 4,6%, AUSAID là 4,3 %, và các nhà tài trợ chính khác có tỷ lệ khoảng 2-3% . WB, ABD và JICA/JIBIC chủ yếu tập trung vào các dự án vốn vay, trong khi đó các nhà tài trợ còn lại chủ yếu là các chương tr nh hợp tác phát triển, tăng cường năng lực dưới dạng hỗ trợ không hoàn lại. Qua những phân tích đánh giá, bài viết này cố gắng nêu nên những thành công và tồn tại trong quá tr nh thu hút, vận động và quản lý nguồn vốn ODA của Bộ/Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, qua đó đưa ra các giải pháp tăng cường và hoàn thiện hơn cho các cơ quan quản lý, thực hiện ODA trong bối cảnh mới khi Việt Nam đã vượt qua ngưỡng thu nhập trung b nh thấp.

Từ khóa: ODA, nhà tài trợ, nông nghiệp, phát triển nông thôn

I. TỔNG QUAN ODA VÀ CÁC NHÀ TÀI TRỢ

1. Tổng quan ODA trong ngành nông nghiệp và PTNT

86 Vụ trưởng Vụ HTQT, Bộ Nông nghiệp và PTNT 87 Chuyên viên theo dõi ODA

Việt Nam đ trải qua hơn 20 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA kể từ khi chính thức nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế vào tháng 11 năm 1993. Hiện nay, Việt Nam có 51 nhà tài trợ song phương và đa phương(28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương), ODA đ dần trở thành một nguồn vốn lớn góp phần đáng kể vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam, kể từ thời kỳ đổi mới. T nh từ năm 1992 đến nay, tổng lượng vốn ODA cam kết tài trợ cho Việt Nam đạt khoảng 70 tỷ USD, trong đó, tổng lượng vốn ODA giải ngân dự t nh đến hết năm

107

2012 đạt gần 40 tỷ USD. Trong tổng số vốn ODA tài trợ, có khoảng 80- 90% là vốn vay và 10- 20% là vốn viện trợ không hoàn lại. Ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, tổng lượng vốn ODA huy động trong giai đoạn 1996-2015 đạt khoảng gần 6 tỷ USD, và được huy động qua các thời kỳ thể hiện ở ảng sau.

Bảng 1: Huy động vốn trong ngành n ng nghiệp thời ỳ 1996-2015

(Đơn vị: USD)

Năm

L m nghiệp N ng nghiệp

Thủy lợi

PTNT

Thủy sản

Tổng ODA

Tổng 1993-1995

141,330,695

98,023,204

326,919,082

330,000

86,648,000

653,250,981

50

0

22

15

100

13

Tỷ lệ %

Tổng 1996-2000

276,877,453

239,158,434

134,613,426

162,987,443

65,620,000

879,256,756

15

19

31

27

100

7

Tỷ lệ %

Tổng 2001-2005

231,742,410

245,368,163

821,638,900

155,585,016

60,821,000

1,515,155,489

54

10

15

16

100

4

Tỷ lệ %

Tổng 2006-2008

122,870,091

341,939,583

343,087,547

190,471,829

1,280,850

999,649,900

34

19

12

34

100

0

Tỷ lệ %

Tổng 2009-2015

92,712,560

416,258,805

1,302,033,835

628,483,103

30,311,277

2,441,799,580

Tỷ lệ %

3.8

17

53.3

25.7

100

1.2

724,202,514

1,242,724,985

2,601,373,708

1,137,527,391

158,033,127

5,835,861,725 100

Tổng giai đoạn 1996-2015 Tỷ lệ %

12.4

21.3

44.6

19.5

2.7

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT

Đây không chỉ là một nguồn vốn lớn trực tiếp trong quá trình thực hiện và hoàn thành các chương trình, dự án, nguồn vốn ODA, mà còn có tác dụng “kéo” lượng vốn từ các nguồn khác đầu tư theo, ho c đầu tư tiếp sang lĩnh vực khác theo sự lan tỏa của nguồn ODA khi thực hiện. Vốn ODA cũng là các ngoại tệ mạnh, góp phần cải thiện cán cân thanh toán tổng thể của quốc gia, có tác dụng ổ sung dự trữ ngoại hối, tăng sức mạnh tài ch nh của đất nước. Có thể nói, ODA đ tác động t ch cựcvà cụ thể trên nhiều ngành, lĩnh vực của Việt Nam, trong đó có một số ngành, lĩnh vực quan trọng, như: phát triển nông nghiệp, nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo và góp phần đáng kể thúc đẩy và thay đổi ộ m t nông nghiệp, nông thôn.

Trong giai đoạn 1996-2015, tổng số vốn ODA thì ngành thủy lợi chiếm tỷ lệ cao nhất với 44,6%, tiếp theo là ngành nông nghiệp (21,3%), phát triển nông thôn (19,5%), lâm nghiệp (12,4%) và ít nhất là thủy sản với chỉ 2,7%.

Bảng trên cho thấy, về cơ cấu phân bổ ODA theo các giai đoạn, tỷ lệ huy động vốn ODA trong ngành Nông nghiệp tăng dần, vào khoảng trên dưới 20% nhưng đang có xu hướng giảm từ sau 2008. Huy động vốn của ngành Lâm nghiệp đạt tỷ lệ cao ở giai đoạn 1996 – 2000, chiếm 31% sau đó giảm dần còn 15 % và giai đoạn 2009 đến nay chỉ còn khoảng 3,8%. Lĩnh vực phát triển nông thôn có xu thế ngược chiều, ngày

108

càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn ODA, hiện nay đang chiếm hơn 25%, trong khi đó, ngành Thủy sản huy động được nhiều vốn giai đoạn trước 1993-1995, chiếm 13 %, sau giảm dần và chỉ còn 1 % sau năm 2005. ODA dành cho Thủy lợi chiếm tỷ lệ khá cao, hiện nay chiếm 53,3%.

2. Các nhà tài trợ

Đối với nguồn vốn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là chủ quản thì Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) là nhà tài trợ có vốn lớn nhất chiếm khoảng 26 % so với tổng số, tiếp đó là Ngân hàng Thế giới 25,29%. JIBIC/JICA, chiếm 8,97%, DANIDA chiếm 4,6%, AUSAID chiếm 4,3 %, các nhà tài trợ chính khác có tỷ lệ chiếm khoảng 2-3%.

Theo số liệu t nh đến cuối năm 2014, tổng nguồn vốn ODA đến từ WB và ADB vào khoảng 3,4 tỷ USD, chiếm gần 2/3 tổng số vốn ODA của ngành, trong đó, ADB khoảng 1,72 tỷ USD và WB là 1,65 tỷ USD. Nguồn vốn của ADB và WB chủ yếu là vốn vay với lãi suất ưu đ i (ADB chiếm 98,4%, WB chiếm 88,5%, vốn không hoàn lại của các ngân hàng này chiểm tỷ lệ thấp và thông qua các hỗ trợ kỹ thuật (TA) để nghiên cứu, là tiền đề xây dựng các đề xuất dự án vốn vay. Đến nay, Nhật Bản đ hỗ trợ cho ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khoảng 60 dự án hỗ trợ kỹ thuật, viện trợ không hoàn lại, hỗ trợ khẩn cấp với tổng vốn viện trợ không hoàn lại khoảng trên 300 triệu USD, 10 dự án vay vốn lớn trong lĩnh vực thủy lợi, lâm nghiệp khoảng 1 tỷ USD. EU cũng là nhà tài trợ lớn của Việt Nam và có mối quan hệ được thiết lập khá sớm; Các nhà tài trợ khác như DANIDA, AUSAID, USAI, các tổ chức của UN, WFP, RNE, SIDA…vốn không hoàn lại là chủ yếu. Ngoài ra, các nhà tài trợ song phương như Pháp, Đức, Hà Lan cũng có vai trò đáng kể giúp đỡ Việt Nam khá nhiều các dự án ODA tập trung dưới dạng hợp tác nghiên cứu, tăng cường năng lực và viện trợ không hoàn lại.

Sơ lược về 6 ngân hàng chính hỗ trợ cho Việt Nam

Sáu ngân hàng gồm Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JIBIC) và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (KExim) là các ngân hàng chính hỗ trợ nguồn vốn ODA cho Việt Nam, thông qua việc trợ giúp các chương trình, dự án đầu tư. Trợ giúp nguồn vốn của sáu ngân hàng chiếm khoảng trên 80 % tổng vốn ODA cho Việt Nam, nguồn vốn ODA, đ c biệt vốn của sáu ngân hàng góp phần phát triển kinh tế -xã hội nói chung và ngành Nông nghiệp, Phát triển nông thôn nói riêng. Mỗi ngân hàng có chính sách và mức độ giúp Việt Nam khác nhau, có thể tóm lược một số thông tin về các ngân hàng này như sau:

a) Ngân hàng Thế giới (WB): WB đ tài trợ cho ngành Nông nghiệp và PTNT

109

tổng số vốn là hơn 1,6 tỷ USD trong đó 1,5 tỷ USD dưới dạng vốn vay ưu đ i.

b) Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB): Tác động phát triển của các hoạt động ADB tại Việt Nam là khá toàn diện, với sự hỗ trợ hiệu quả các chương trình cải cách và phát triển của Ch nh phủ, góp phần vào thành công đáng kể mà Việt Nam đ đạt được từ những năm đầu thập kỷ 90. T nh đến nay, ADB đ tài trợ cho cho ngành Nông nghiệp Việt Nam khoảng 1,7 tỷ USD trong đó 1,6 tỷ USD là vốn vay.

c) Cơ quan Phát triển Pháp (AFD): Cơ quan Phát triển Pháp là một tổ chức Nhà nước thực hiện nhiệm vụ vì lợi ích chung tài trợ cho phát triển. Là đối tác chiến lược của Pháp, Việt Nam nằm trong số các nước được hưởng tài trợ lớn nhất của AFD, với tổng số tiền đ được cam kết từ năm 1994 đến nay lên đến xấp xỉ hơn 900 triệu Euro. Các lĩnh vực ưu tiên gồm:(i) doanh nghiệp nhỏ tư nhân và lĩnh vực tài chính; (ii) hạ tầng cơ sở trong các lĩnh vực môi trường (nước sạch và vệ sinh chất thải đô thị) năng lượng và giao thông; (iii) nông nghiệp và an toàn lương thực. Đối với lĩnh vực này nhiều khoản tài trợ được triển khai nhằm mục đ ch nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số ngành hàng nông nghiệp (đ c biệt là cà phê, chè, đường, bông, cao su). Các chương trình cũng đầu tư cho hạ tầng cơ sở phục vụ cho các cộng đồng dân nghèo nông thôn (đường, chợ nông thôn, tiếp cận với nước sạch, chống lũ lụt, các hồ đập và hệ thống tưới), nhằm xoá đói giảm nghèo, đ c biệt là hỗ trợ các dân tộc thiểu số.

d) Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JIBIC): Tháng 10 năm 1999 Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JIBIC) được thành lập với tư cách là tổ chức tiến hành các chính sách kinh tế và hợp tác kinh tế của Nhật Bản để đáp ứng những biến động của nền kinh tế thế giới. Cam kết vốn ODA của JIBIC cho Việt Nam chủ yếu cho ngành Giao thông vận tải, chiếm 41,45%, kế đó là điện/khí chiếm 31,72%. dịch vụ xã hội: 14,26%, hàng hoá: 6,66%, Viễn thông: 4,67%, Khai thác: 0,81%, Thuỷ lợi và phòng chống lũ lụt: 0,43%, hiện nay vốnJIBIC dành cho ngành nông nghiệp là không đáng kể.

e) Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW): KfW được thành lập từ năm 1948, trụ sở ch nh đ t tại Frankfurt, Cộng hoà Liên Bang Đức. KfW có nhiệm vụ hợp tác về tài ch nh. KfW đầu tư tài ch nh và các dự án liên quan đến dịch vụ tư vấn để hỗ trợ phát triển bền vững về kinh tế và hạ tầng xã hội, cũng như tài trợ về các giải pháp bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên. KfW là đối tác quan trọng của Việt Nam trong nhiều năm nay. Trong số vốn tài trợ cho Việt Nam, Giao thông chiếm 27%, Nước sạch và Xử lý nước: 18%, Y tế và Kế hoạch hoá gia đình: 13%, Phát triển kinh tế bền vững: 12%, Lâm nghiệp 11%, các ngành khác: 19%.

f) Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc: Chính phủ Hàn Quốc thiết lập Quỹ

110

Hợp tác Phát triển Kinh tế (EDCF) vào 1 tháng 6 năm 1987 với mục đ ch khuyến khích sự hợp tác kinh tế giữa Hàn Quốc và các nước đang phát triển. EDCF cung cấp khoản vay đầu tiên cho Việt Nam từ 1995. Hiện nay, EDCF hỗ trợ cho Việt Nam tập trung các lĩnh vực Giao thông, Năng lượng và công nghệ thông tin, trong tương lai, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiếp cận nguồn vốn vay mới của KExim ank và tăng tỷ lệ vốn vay hơn nữa đối với JIBIC.

II. PH N TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ ODA CỦA

NGÀNH NÔNG NGHIÊP

1. Một số kinh nghiệm từ thu hút và sử dụng ODA

Công tác thu hút và sử dụng ODA cho ngành nông nghiệp và phát triển nông

thôn, thời kỳ 1996-2015, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:

a) Nhận thức đúng đắn về ODA: Nhận thức đúng đắn về ODA với hai yếu tố ch nh trị và kinh tế đan xen từ đó có quan niệm đúng đắn về nguồn lực này để tranh thủ được sự hỗ trợ quốc tế, thực hiện có hiệu quả chủ trương độc lập, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. ODA gắn với mục tiêu ch nh trị và lợi ch kinh tế của nhà tài trợ, đây là ản chất của nguồn vốn này, do vậy thành hay ại của ODA tuỳ thuộc chủ yếu vào vai trò làm chủ của nước tiếp nhận. Cần nghiên cứu kỹ các chiến lược, chương trình của các nhà tài trợ trong từng thời kỳ để có phương án lựa chọn vận động th ch hợp nhằm ảo đảm lợi ch kinh tế, ch nh trị cao nhất cho đất nước nói chung và cho ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói riêng.ODA vay, kể cả ODA không hoàn lại không phải là ”thứ cho không”. ODA là nguồn vốn quốc tế tài trợ cho Ch nh phủ. Nguồn vốn này phải được nhập vào ngân sách Nhà nước và Ch nh phủ sử dụng cho đầu tư phát triển kinh tế - x hội. Do ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ, nhiều người còn có tâm lý ao cấp, coi ODA là thứ cho không, Ch nh phủ vay, Ch nh phủ phải trả nợ nên chưa nhận thức đúng trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.

b) Sự cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia rộng rãi của người dân trong quá tr nh thu hút và sử dụng ODA: Vốn ODA được Ch nh phủ sử dụng cho đầu tư phát triển kinh tế - x hội. Người được hưởng lợi từ các dự án đầu tư này là người dân, dưới sự giám sát của ch nh quyền các cấp. Một khi ch nh quyền cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia rộng r i của người dân thì ất kỳ chương trình dự án ODA nào, dù lớn hay nhỏ đều được thực hiện đúng tiến độ, có chất lượng với hiệu quả cao và ền vững. Tăng cường phi tập trung hoá, đối với các dự án yêu cầu kỹ thuật không cao nên chuyển dự án/hoạt động của dự án cho các địa phương thực hiện, như vậy các địa phương coi dự án là của mình, nên huy động các Sở, Ban, Ngành trong tỉnh cùng tham gia, có trách nhiệm trong việc đền ù giải phóng m t

111

ằng, đóng góp vốn đối ứng. Cần tăng cường áp dụng phương pháp có sự tham gia của người dân trong các hoạt động của dự án.

c) Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy và xây dựng trong hợp tác phát triển: Quan hệ giữa Việt Nam và các nhà tài trợ trong giai đoạn vừa qua không đơn thuần giữa một ên “cho” và một ên “nhận” viện trợ, mà đ phát triển đạt tới mức quan hệ đối tác trên cơ sở tin cậy và xây dựng trong hợp tác phát triển. Nó ao gồm đối thoại về ch nh sách phát triển trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và xây dựng, không áp đ t, đề cao và chia sẻ trách nhiệm chung và trách nhiệm giải trình về các kết quả phát triển.

d) Quá tr nh chuẩn bị dự án thường kéo dài: Quá trình này thường kéo dài 2-3 năm, có dự án trên 3 năm. Điều này không phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội hiện tại. Nhiều thông số dự án, chỉ tiêu t nh toán và thể chế đến khi thực hiện dự án không còn phù hợp, dẫn đến phải điều chỉnh làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.

đ) Đền b , giải phóng m t b nglà công việc khó, có nhiều rủi ro: Khi chuẩn ị và thực hiện dự án cần quan tâm đánh giá thực chất quy mô về đền ù, giải phóng m t ằng, tái định cư và tổ chức thực hiện công tác này. Đây là công việc khó, có nhiều rủi ro, và khó lường về tiến độ, trong đó vai trò của địa phương là vô cùng quan trọng.

e) Huy động đóng góp vốn đối ứng chưa kịp thời: Hầu hết các dự án ODA, ph a Việt Nam đều phải có đóng góp vốn đối ứng (Trung ương, địa phương, người dân tham gia dự án). Việc đóng góp đủ và đúng thời hạn vốn đối ứng góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Tuy nhiên, trong thực tế một số dự án vốn đối ứng của Việt Nam cấp ho c đóng góp chưa kịp thời, đ c iệt ở cấp tỉnh và người dân tham gia dự án.

f) Cán bộ tham gia quản lý thực hiện dự án: Đội ngũ cán ộ tham gia quản lý và thực hiện các chương trình dự án từ nguồn vốn ODA là nhân tố quan trọng góp phần thành công của dự án. Cán ộ này cần thiết ở tất cả cấp quản lý theo chức năng của từng cơ quan tác động đến hoạt động dự án.

g) Tổ chức quản lý: Tổ chức quản lý và thực hiện tại các cơ quan quản lý các dự án (các Ban QLDA, Trung tâm nước sạch nông thôn và vệ sinh môi trường, các Tổng cục) chưa thực sự rõ ràng và sự liên kết giữa các đơn vị còn hạn chế.

h) Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu, quản lý hợp đồng và cải tiến cơ chế, thủ tục giải ngân các dự án: Công tác đấu thầu, quản lý hợp đồng có ý nghĩa đ c iệt quan trọng quyết định chất lượng công trình và hiệu quả đầu tư của nguồn vốn thì việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện dự án. Đây là hai chỉ tiêu mà WB, ADB, các nhà tài trợ khác, cơ quan quản lý Nhà nước căn

112

cứ vào đó để đánh giá quá trình thực hiện dự án nhanh hay chậm, tốt hay xấu. Hiện tại việc đấu thầu và giải ngân còn nhiều ất cập, nên cần nâng cao chất lượng công tác này trong thời gian tới.

2. Một số vấn đề trong quản lý và theo dõi ODA

Sau 20 năm, thu hút, quản lý thực hiện các chương trình, dự án từ nguồn vốn ODA cho ngành Nông nghiệp, bên cạnh những thành công đạt được, vẫn còn một số tồn tại. Một số vấn đề chính cần phải xem xét và giải quyết là:

Vấn đề 1: Nguồn vốn ODA ngày càngtăng và có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của ngành Nông nghiệp nói chung, tuy nhiên xét riêng hai tiểu ngành Lâm nghiệp và Thủy sản thì đang có xu hướng giảm mạnh trong cơ cấu phân bổ nguồn vốn. Trong tương lai, với bối cảnh nguồn vốn kém ưu đ i sẽ tăng dần, thì cần có định hướng rõ và mang tính dài hạn các lĩnh vực cần thu hút hỗ trợ để đảm bảo sử dụng hiệu quả tối đa nguồn vốn.

Các chương trình, dự ántrong những năm tới cần định hướng rõ hơn để có thể hấp dẫn tài trợ ngoài chủ đề xóa đói giảm nghèo (vì nội dung này sẽ không còn nhiều sự quan tâm như trước đây), chẳng hạn biến đổi khí hậu và các giải pháp giảm thiểu, thích ứng trong cả nền kinh tế và trong ngành Nông nghiệp đang là vấn đề được quan tâm và thu hút nhiều sự chú ý. Ngoài ra, các chủ đề khác cũng cần cân nhắc nhưquản lý thiên tai dịch bệnh, vấn đề an toàn lương thực, thực phẩm biến đổi gien, và gần đây là tập trung vàonông thôn mới.

Vấn đề 2: Ngành Nông nghiệp gồm các tiểu ngành: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thuỷ lợi, Thủy sản và Phát triển nông thôn (bao gồm cả nước sạch vệ và sinh nông thôn), trong những năm vừa qua ở các tiểu ngành có sự khác nhau về tỷ lệ nguồn vốn đầu tư (ngân sách, ODA, xây dựng cơ ản, sự nghiệp kinh tế, vốn vay và không hoàn lại), có sự khác nhau về hiệu quả đầu tư. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2006), nông nghiệpcho thu hồi lớn nhất trong sản xuất, cứ chi 1 đồng thì có thể sản xuất ra 12,22 đồng trong tổng giá trị nông nghiệp, đường xá đứng thứ hai: 3,01 đồng, giáo dục: 2,06 đồng, trong khi đó thuỷ lợi chỉ đạt 1 đồng. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Baker et.al (2002) cho thấy “đầu tư vào thuỷ lợi là nguồn quan trọng nhất của tăng trưởng nông nghiệp (chiếm 28% của tăng trưởng), nghiên cứu nông nghiệp: 27%, đường xá 11%, giáo dục 8%” (Báo cáo tổng kết 15 năm thu hút ODA của Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2009), như vậy, cần phân bổ nguồn vốn ODA cho từng tiểu ngành sao cho hợp lý trong đó cần cân đối, và hài hòa với nguồn đầu tư trong nước (Trung ương và địa phương).

Vấn đề 3: Một số dự án trong lĩnh vực Thuỷ lợi, Lâm nghiệp trải rộng trên địa bàn của nhiều tỉnh, dẫn đến tình trạng đầu tư thiếu tập trung, và khó tạo được tác

113

động mang t nh đột phá cho sự phát triển của nguồn đầu tư.Như vậy, cần lựa chọn địa bàn thực hiện dự án sao cho phù hợp với năng lực của từng địa phương, chủ trương phân cấp và đảm bảo đầu tư tập trung và có sự gắn kết, tác động hiệp lực giữa các tiểu ngành, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển toàn khu vực và lan tỏa sang vùng khác.

Vấn đề 4: Trong thời gian tới, để vay nguồn vốn lãi suất kém ưu đ i hơn, Việt Nam sẽ phải đề ra các tiêu ch đánh giá, ình chọn và phê duyệt danh mục đầu tư ng t nghèo hơn. Các chương trình, dự án của ngành nông nghiệp thường có tỷ lệ sinh lời thấp hơn các ngành khác và thường nhiều rủi ro. Do vậy, cần nghiên cứu và chỉ ra những lĩnh vực nào, vùng nào và đối tượng doanh nghiệp nào trong Ngành sẽ hội đủ điều kiện để tiếp nhận dựán và mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp trong Ngành để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn.

Vấn đề 5: Các văn ản quy phạm pháp luật và các quy định về quản lý và sử dụng ODA của Việt Nam còn chưa đồng bộ, còn có sự khác biệt với các nhà tài trợ nước ngoài. Hơn nữa, một khi phải huy động, sử dụng nguồn vốn vay kém ưu đ i hơn thì các quy định, nhất là tiêu chí chọn lựa đầu tư cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện các thể chế, xây dựng chiến lược tổng thể huy động ODA cho ngành và tổ chức bộ máy quản lý để sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA vay ưu đ i cũng như kém ưu đ i hơn.

Vấn đề 6: Một số vấn đề khác như những vướng mắc về: (i) quá trình hình thành, thẩm định, phê duyệt dự án; (ii) đấu thầu mua sắm; (iii) đền bù giải phóng m t bằng, vốn đối ứng; (iv) quá trình giải ngân chậm, nhất là trong 1-2 năm đầu; (v) kiểm tra, giám sát; (vi) thanh quyết toán các dự án hoàn thành; (vii) năng lực cán bộ quản lý và thực hiện dự án…Các vấn đề này luôn nẩy sinh và cần có cơ chế, giải pháptheo dõi, đánh giá,phát hiện kịp thời các bất cập và giải quyết nhanh những vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện dự án.

III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ ODA CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP TRONG THỜI GIAN TỚI

1. Định hướng

Kể từ sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung ình thấp vào năm 2010, chi ph vốn vay có xu hướng tăng nên nhiều khoản vay ODA có điều kiện ràng uộc từ ên ngoài, làm chi ph đầu vào cao và ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ của Ch nh phủ, vì vậy, cần phải trân trọng từng đồng vốn viện trợ/vay và t nh toán cận trọng hiệu quả đầu tư của mỗi dự án.

Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ban hành ngày 23/4/2013 về quản lý sử dụng

114

nguồn vốn phát triển ch nh thức (ODA) và nguồn vốn ưu đ i của các nhà tài trợ, theo đó, có các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA và vốn vay ưu đ i gồm: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đồng ộ, quy mô lớn và hiện đại, ao gồm hạ tầng giao thông (đường ộ, đường sắt, sân ay, cảng iển và đường thủy nội ộ); hạ tầng đô thị (giao thông đô thị, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị, hạ tầng cấp điện đô thị); hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hạ tầng năng lượng (ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng mới); hạ tầng thủy lợi và đê điều. Trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn có ao gồm chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế nông nghiệp, hạ tầng kinh tế - x hội nông thôn, xây dựng nông thôn mới, ên cạnh đó, còn có lĩnh vực tăng cường năng lực thể chế và cải cách hành ch nh, ảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, phòng chống và giảm nhẹ rủi ro thiên tai, ứng phó với iến đổi kh hậu, phát triển ền vững và tăng trưởng xanh.

2. Một số giải pháp

Theo dự báo, nguồn ODA của Việt Nam sau 2015 sẽ vẫn được duy trì, nhưng sẽ khó thu hút hơn do Việt Nam phải chọn lọc các dự án đảm bảo các yếu tố về môi trường, sinh thái, và phù hợp với định hướng phát triển quốc gia và các chương trình mục tiêu quốc gia như nông thôn mới, tái cơ cấu ngành. Ngoài ra, cơ cấu và chính sách viện trợ cũng có những thay đổi nhất định, trong đó khối lượng vốn vay ODA kém ưu đ i có khả năng sẽ tăng lên. Nhằm thực hiện các định hướng của Chính phủ, khắc phục những tồn tại trong thời gian vừa qua và đáp ứng tình hình mới cần xem xét thực hiện một số giải pháp sau:

a) Tiếp tục huy động, quản lý và thực hiện nguồn vốn ODA lãi suất ưu đãi và đón đầu việc huy động vốn ODA lãi suất kém ưu đãi, bao gồm cả các chương tr nh vay lãi suất thương mại.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới cho thấy rằng ”Việt Nam có lẽ chưa tài trợ đủ vốn cho ngành Nông nghiệp, nông thôn để đạt được mục tiêu chính sách nhằm hỗ trợ mức tăng trưởng hợp lý và xoá nghèo”. Điều này cho thấy trong tương lai việc huy động vốn cho ngành Nông nghiệp, nông thôn là vẫn cần thiết. Để tiếp tục huy động nguồn vốn ODA lãi suất ưu đ i và đón đầu huy động nguồn vốn ODA lãi suất kém ưu đ i, một số giải pháp cụ thể là:

- Nỗ lực chuẩn bị các chương trình và dự án đ được cam kết vốn để ký kết Hiệp định nhằm tiếp tục thu hút nguồn vốn kể cả song phương và đa phương từ nguồn vốn không hoàn lại, vốn vay với lãi suất ưu đ i cho đến khi các nhà tài trợ có chính sách mới; đẩy mạnh việc thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA đang triển khai;

115

- Do ch nh sách ưu tiên của các nhà tài trợ nên có thể thời gian tới, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phải vay với lãi suất kém ưu đ i chậm hơn so với một số ngành khác. Chính vì vậy, sau năm 2015, tiếp tục thu hút nguồn vốn ODA song phương từ nguồn vốn không hoàn lại ho c các nguồn vốn vay ưu đ i cho các dự án đ c biệt theo chính sách của các nhà tài trợ về xoá đói giảm nghèo, các dự án ở các vùng nghèo, khó khăn, và các dự án trồng rừng;

- Hiện nay có nguồn vốnkhá lớn của “Quỹ đầu tư iến đổi khí hậu“, được sử dụng thông qua Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á. Lãi suất của nguồn vốn này là 0,25%/năm, cao hơn l i suất ưu đ i là 0,1%/năm, ằng ho c nhỏ hơn 1/10 l i suất thương mại. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có nhiều chương trình dự án phù hợp chính sách của Quỹ này, chẳng hạn: bảo vệ đê iển khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, chương trình kh sinh học, chống hoang mạc, xa mạc hóa, trồng và bảo vệ rừng.... Do vậy, cần tiếp cận và xây dựng các chương trình, dự án để thu hút nguồn vốn này;

- Chuẩn bị mở rộng thành phần được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn ODA, kể cả khu vực tư nhân trong nước trên cơ sở quan hệ đối tác công – tư kết hợp trong đầu tư phát triển, đ c biệt khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển chế biến nông hải sản, dịch vụ cấp nước sinh hoạt cho nông thôn, BOT cho các tuyến đường liên huyện, liên x , nơi mà có lượng vận chuyển hàng hoá lớn. (Do các dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp tỷ lệ sinh lời thấp nên cần làm th điểm và nhanh chóng tổng kết một số dự án để rút kinh nghiệm);

- Các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư các dự án về phát triển công nghiệp, dịch vụ ở Việt Nam, Nhà nước cần có yêu cầu các doanh nghiệp này dành tỷ lệ vốn th ch đáng để phát triển vùng nông nghiệp phụ cận các dự án trên và xem đây là điều kiện cam kết để đầu tư nhằm đảm bảo vùng liên kết công-nông;

b) Lựa chọn các chương tr nh, dự án ưu tiên theo các tiểu ngành ở các v ng

sinh thái

Các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA cần hướng tới một chiến lược đa dạng hoá bền vững trong đó tập trung giải quyết về định hướng thị trường, quản lý tài nguyên thiên nhiên, tăng cường sự tham gia và trao quyền cho người dân nhằm: (i) đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo; (ii) đảm bảo phát triển bền vững về kinh tế, xã hội ở nông thôn gắn liền với quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và môi trường; (iii) phát triển các thị trường nông thôn để xúc tiến đầu tư và thương mại; (iv) tăng cường năng lực quản lý Nhà nước và dịch vụ công đối với ngành, năng lực quản trị kinh doanh và tiếp cận thị trường đối với các doanh nghiệp trong ngành.

116

c) Hoàn thiện thể chế, cơ chế và bộ máy quản lý thực hiện các dự án do Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý

Nhiều dự án vốn vay lớn có tốc độ giải ngân chậm là do quá trình thực hiện dự án phải qua các ước về lập và thẩm định dự án, (đền ù tái định cư, khảo sát và thiết kế kỹ thuật thi công - tổng dự toán, đấu thầu, thi công đối với dự án xây dựng cơ bản); nghiệm thu, thanh quyết toán. Các dự án, đ c biệt là dự án đầu tư xây dựng cơ bản đều vướng mắc ở các ước trong quá trình trên. Để tháo gỡ những vướng mắc nàycần: (i) căn cứ Nghị định 38/2013/NĐ-CP, các thông tư hướng dẫn của Bộ Ngành liên quan để ban hành văn ản pháp qui nhằm phân rõ chức năng nhiệm vụ của từng đơn vị liên quan trong Bộ về các ước của quá trình hình thành, thực hiện dự án và quy trình phê duyệt nội bộ giữa các đơn vị liên quan trong Bộ; (ii) xác định rõ đối với từng trường hợp cụ thể ai là Chủ đầu tư dự án và đ c biệt Chủ đầu tư được giao quyền và trách nhiệm quản lý quá trình triển khai dự án; (iii) hỗ trợ tăng cường năng lực cho các CPO, các Ban quản lý dự án Trung ương và các Ban quản lý dự án tỉnh đảm bảo các Ban quản lý dự án đảm đương được nhiệm vụ và yêu cầu mới trong công tác quản lý các dự án ODA theo tinh thần của Nghị định 38/CP; và (iv) tiếp tục thực hiện chủ trương phi tập trung hoá, đ c biệt là việc giao bớt các khối lượng công việc kế toán, giải ngân, rút vốn cho bộ phận kế toán tại các tỉnh, tránh tình trạng “Tập trung hoá“ trên các Ban quản lý dự án Trung ương; (v) nhanh chóng xây dựng chiến lược huy động vốn ODA cho toàn ngành, làm cơ sở định hướng cho các đơn vị/lĩnh vực có nhu cầu sử dụng nguồn vốn này.

d) Tăng cường năng lực của Ban quản lý dự án và điều chỉnh chức năng, nhiệm

vụ của các Ban ph hợp với giai đoạn phát triển mới

Các Ban quản lý dự án Nông nghiêp, Lâm nghiệp, Thuỷ lợi, Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan được Bộ giao quản lý và thực hiện dự án. Việc tăng cường khả năng của các Ban, Trung tâm này về tổ chức và quản lý có ý nghĩa rất lớn trong việc sử dụng ch t chẽ và hiệu quả nguồn vốn cũng như thúc đẩy tiến trình giải ngân.

đ) Thực hiện đúng toàn bộ các giai đoạn trong chu kỳ của chương tr nh, dự án

Như trình ày ở trên, trong quá trình thực hiện chương trình, dự án, ở các giai đoạn và từng ước của mỗi giai đoạn luôn có vướng mắc, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tập trung giải quyết các vấn đề như: (i)Triển khai nhanh và nâng cao chất lượng báo cáo nghiên cứu khả thi; (ii) Tăng cường hệ thống quản lý tài chính; (iii)Nâng cao chất lượng công tác đấu thầu và quản lý hợp đồng; (iv)Đảm bảo đủ và kịp thời nguồn vốn đối ứng; (v) Hạn chế về đền bù, giải phóng m t bằng, tái định cư trong các dự án ODA do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản

117

lý;(vi) Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá dự án tại Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; (vii) Lựa chọn và đào tạo đội ngũ cán ộ; và (viii) Thúc đẩy công tác tổng quyết toán các dự án đ hoàn thành.

Kết luận:

Trong thời kỳ 1996-2015, vốn ODA đ ký trong các Điều ước quốc tế đạt hơn 70 tỷ USD, trong đó cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là gần 6 tỷ USD. Nguồn vốn ODA trong 20 năm qua đ song hành và đóng góp không nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng như: xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn, xoá đói giảm nghèo, tăng cường hệ thống khoa học nông nghiệp, hoàn thiện thể chế, phát huy nội lực trong nước và tăng vị thế của ngành nông nghiệp trên trường quốc tế. Bên cạnh những thành công, quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn một số hạn chế cơ ản như chưa hoàn thiện thông tư sửa đổi về quản lý thu hút ODA vào ngành (sửa đổi thông tư 49), trình độ và kinh nghiệm quản lý của các cán bộ dự án chưa cao; công tác quản lý, đánh giá, giám sát dự án còn chưa ch t chẽ. Theo dự báo nguồn ODA của Việt Nam sau 2015 sẽ vẫn được duy trì, thậm chí có khả năng khối lượng còn có thể tăng lên so với thời kỳ trước đây, tuy nhiên, về cơ cấu và chính sách viện trợ cũng có những thay đổi nhất định trong đó khối lượng vốn vay ODA kém ưu đ i có khả năng sẽ tăng lên. Nhằm đáp ứng tình hình mới, ngành Nông nghiệp cần hiểu đúng, có tầm nhìn đúng và làm đúng thông qua các giải pháp, trong đó giải pháp tiếp tục huy động, quản lý và thực hiện nguồn vốn ODA lãi suất ưu đ i và đón đầu việc huy động vốn ODA lãi suất kém ưu đ i là giải pháp tiên quyết, góp phần thu hút nhiều nguồn vốn hơn phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn của Việt nam trong tương lai./.

Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo tổng kết đánh giá 15 năm thu hút ODA giai đoạn 1993-2008, Bộ

Nông nghiệp và PTNT, 2009.

2. Báo cáo 20 năm hợp tác phát triển vơi các nhà tài trợ của Bộ Nông nghiệp và

PTNT gửi Bộ KH&ĐT, 2013.

3. Nghị định 131/2006/NĐ-CP về Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát

triển chính thức, 2006.

4. Nghị định số 38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng nguồn Hỗ trợ phát triển

chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ, 2013.

5. Thông tư số 49/2009/TT-BNNPTNT hướng dẫn quản lý và sử dụng nguồn

vốn hỗ trợ nước ngoài thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2009.

118

SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG NGÀNH THÔNG TIN VÀ

TRUYỀN THÔNG

Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Thông tin và Truyền thông

I. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN HỆ HỢP TÁC VỚI CÁC NHÀ TÀI

TRỢ

Trong những năm qua, ngành Bưu ch nh, Viễn thông và Công nghệ thông tin được đánh giá là một trong những ngành có sự phát triển nhảy vọt ở nhiều khía cạnh, từ thành công trong công tác quản lý với vai trò của cơ quan quản lý nhà nước tới phát triển thị trường, dịch vụ, công nghệ mới… Từ một nước có nền tảng cơ sở hạ tầng về Bưu ch nh, Viễn thông và Công nghệ thông tin kém phát triển, công nghệ lạc hậu, vừa thiếu vốn vừa yếu về nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý… nhưng đến nay ngành Bưu ch nh, Viễn thông và Công nghệ thông tin đ thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, không ngừng phát triển, đóng góp t ch cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ngay trong những năm đầu tiên, ngành Bưu ch nh - Viễn thông đ ắt đầu thiết lập mối quan hệ hợp tác phát triển với Pháp với 02 dự án ODA đầu tiên của Ngành là dự án “Mở rộng thông tin di động Hà Nội” và “Tổng đài điện thoại TP Hà Nội”. Trong những năm tiếp theo, Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây là Bộ Bưu chính - Viễn thông) tiếp tục phát triển mối quan hệ hợp tác phát triển với Pháp, đồng thời mở rộng mối quan hệ hợp tác phát triển với các nhà tài trợ khác như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Ngân hàng thế giới, Thụy Điển... Các kết quả đạt được từ các chương trình, dự án ODA trong thời gian qua đ tác động đáng kể trong việc thực hiện mục tiêu phát triển KTXH của đất nước nói chung và sự phát triển mạnh mẽ của ngành thông tin và truyền thông nói riêng, góp phần không nhỏ trong việc thực hiện thành công chiến lược tăng tốc và chuyển sang Chiến lược Hội nhập và Phát triển của Ngành.

Với sự năng động, sáng tạo và quyết tâm của các tổ chức, doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp trong lĩnh vực Thông tin và Truyền thông tiếp tục có ước phát triển mạnh mẽ, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, góp phần ổn định giá cả thị trường trong nước, đóng góp t ch cực vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Hạ tầng mạng lưới viễn thông, internet của Việt Nam tiếp tục hoạt động ổn định, thị trường dịch vụ viễn thông và internet tiếp tục cạnh tranh, lành mạnh. T nh đến nay

119

có khoảng 24 doanh nghiệp viễn thông được cấp phép thiết lập mạng viễn thông công cộng; hơn 100 doanh nghiệp được cấp phép cung cấp dịch vụ viễn thông. Số lượng thuê ao internet ăng rộng đạt 11.923.000 thuê ao. Trong đó: Băng rộng cố định đạt 6.980.000 thuê ao, ăng rộng di động 3G (Datacard 3G): 4.943.000 thuê bao. Số lượng thuê ao di động đạt 138.630.000 thuê bao. M c dù số thuê bao cố định có xu hướng giảm, nhưng do số lượng thuê ao di động phát sinh cước tăng nên tổng doanh thu trong lĩnh vực viễn thông năm 2014 ước đạt 305.000 tỷ đồng. Trong lĩnh vực này, các doanh nghiệp viễn thông đ thực hiện tốt các dự án đầu tư ra nước ngoài, tập trung vào một số thị trường như: Lào, Campuchia, Môdăm ch, Peru.

Công nghiệp CNTT tiếp tục khẳng định là ngành kinh tế quan trọng, đ và đang tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, đóng góp ngày càng tăng vào tăng trưởng GDP cũng như xuất khẩu của cả nước. Trong điều kiện giảm sút vốn đầu tư nước ngoài FDI và kinh tế khó khăn nhưng nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất tại Việt Nam như: Samsung, LG, Panasonic, Canon, Intel... Tổng doanh thu công nghiệp CNTT tiếp tục đạt mức cao, ước t nh đạt hơn 27 tỷ USD. Các doanh nghiệp phần mềm tiếp tục giữ vững thị trường xuất khẩu, dịch vụ CNTT tiếp tục phát triển khá, đa dạng các loại hình dịch vụ. Tổng số nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp CNTT ước đạt 350.000 người. Về ứng dụng CNTT, 100% cơ quan nhà nước có Trang/Cổng thông tin điện tử, cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến các loại phục vụ người dân và doanh nghiệp. Hệ thống đào tạo nhân lực CNTT tiếp tục được duy trì ổn định với khoảng 290 cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và gần 150 cơ sở đào tạo nghề về CNTT-TT.

II. ĐÁNH GIÁ QUAN HỆ HỢP TÁC VỚI CÁC NHÀ TÀI TRỢ

1. Nhận xét và đánh giá hiệu quả, hiệu suất, những lợi ích, tác động và tính bền vững của các chương trình, dự án ODA thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông

Trong thời kỳ đầu của thời kỳ đổi mới, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác phát triển ODA với nhà tài trợ Pháp đ đem lại hiệu quả rõ nét cho ngành Bưu ch nh - Viễn thông Việt Nam. Từ khi đất nước còn bị cấm vận, việc đưa công nghệ viễn thông tiên tiến vào nước ta g p nhiều khó khăn nhưng qua việc hợp tác với Pháp thì ngành Bưu ch nh - Viễn thông đ nhập khẩu được tổng đài điện thoại kỹ thuật số có công nghệ tiên tiến trên thế giới, mở ra thời kỳ công nghệ số, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển và hiện đại hoá mạng lưới, từng ước nâng cao chất lượng và khả năng cung cấp dịch vụ của Ngành.

Trong những năm tiếp theo, ngoài việc giữ vững và phát triển mối quan hệ hợp tác phát triển với nhà tài trợ Pháp thì việc mở rộng mối quan hệ hợp tác phát triển

120

với các nhà tài trợ khác như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Ngân hàng thế giới, Thụy Điển... đ đạt được những kết quả khả quan, đảm bảo hài hòa giữa mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục tiêu góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy quá trình phát triển mạnh mẽ của ngành thông tin và truyền thông, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn vừa qua.

Bên cạnh những kết quả đạt được như đ nêu trên thì trong quá trình triển khai các chương trình, dự án ODA không tránh khỏi những khó khăn vướng mắc vì nhiều lý do, cả khách quan và chủ quan, dẫn đến dự án có thời gian thực hiện quá lâu, kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn vốn ODA và phí cam kết phải trả.

2. Nhận định và đánh giá về chính sách, thể chế về quản lý và sử dụng nguồn

vốn ODA của Chính phủ

Về cơ ản, các chính sách, thể chế về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA của Chính phủ cũng như định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đ i khác của nhà tài trợ đ đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát triển của đất nước qua từng thời kỳ.

Ngày 19/01/2012, Thủ tướng Chính phủ đ có Quyết định số 106/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đ i khác của nhà tài trợ thời kỳ 2011-2015” đ đưa ra các định hướng mang tính chiến lược cho việc hoàn thiện môi trường thể chế, pháp lý, tổ chức, quản lý và các hoạt động liên quan đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ đối với các cơ quan quản lý các cấp và các đơn vị thụ hưởng nhằm thu hút tối đa và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA và vốn vay ưu đ i.

Ngày 23/4/2013, Chính phủ đ an hành Nghị định số 38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ thay thế Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, đáp ứng được các yêu cầu hiện nay như sau:

- Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 131/2006/NĐ-CP bao gồm vốn

ODA và các nguồn vốn kém ưu đ i khác;

- Đ có cơ chế cho phép doanh nghiệp tư nhân tiếp cận vốn vay ODA và các khoản vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ nhằm thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên của Chính phủ trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm, lợi ích và rủi ro cùng với Chính phủ trong việc sử dụng nguồn vốn này;

- Nâng cao hiệu quả, đơn giản hóa, đồng bộ về các thủ tục liên quan đến ODA

121

và các nguồn vốn kém ưu đ i khác phù hợp với yêu cầu mới và các quy định hiện hành của Nhà nước...

3. Nhận xét và đánh giá về chính sách, quy trình và thủ tục của các nhà tài

trợ

- Các ch nh sách, quy trình và thủ tục của các nhà tài trợ còn phức tạp, mỗi nhà tài trợ lại có những quy định riêng dẫn đến khó khăn cho các cơ quan chủ quản cũng như các chủ dự án trong quá trình thực hiện các dự án ODA của nhiều nhà tài trợ khác nhau. Đ c iệt là những dự án lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam đ mất nhiều thời gian để thống nhất các thủ tục, nội dung liên quan trong quá trình triển khai dự án.

Hiện nay, các nhà tài trợ cũng như các quốc gia đối tác đều mong muốn có các quy chế và hệ thống đơn giản hoá để cùng nhau thực hiện, tiến tới các điểm chung về mẫu, nội dung và t nh thường xuyên cho một áo cáo định kỳ ở mỗi chương trình, dự án phù hợp yêu cầu của tất cả các nhà tài trợ. Vì vậy, việc hoàn thiện khung thể chế về quản lý, sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i nếu đảm ảo hài hoà thủ tục giữa các nhà tài trợ thì sẽ thúc đẩy nhanh quá trình vận động, quản lý và triển khai các chương trình, dự án ODA.

III. ĐỊNH HƯỚNG QUAN HỆ HỢP TÁC PHÁT TRIỂN VỚI CÁC NHÀ

TÀI TRỢ TRONG THỜI GIAN TỚI

Hiện nay Việt Nam đ ước vào nước có thu nhập trung bình nên việc thu hút nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) sẽ khó khăn hơn, kém ưu đ i hơn và đang có xu hướng giảm. Trong khi đó, hiện nay tình hình kinh tế trong nước và quốc tế tiếp tục diễn biến phức tạp, lạm phát tăng cao, Ch nh phủ đ an hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ảo đảm an sinh xã hội như: Thực hiện chính sách tiền tệ ch t chẽ, thận trọng; Thực hiện chính sách tài khóa thắt ch t, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi NSNN...

Vì vậy, trong thời gian tới việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i phải đảm bảo việc sử dụng và quản lí có hiệu quả nguồn vốn này góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cụ thể như sau:

- Với tốc độ phát triển nhanh, cũng như thay đổi về khoa học công nghệ, các dự án về CNTT nói chung đều vấp phải nhưng khó khăn trong vấn đề về thủ tục triển khai. Quy trình triển khai dự án ODA hiện nay còn rất bất cập, quy định trong nước và các nhà tài trợ không tương th ch với nhau gây ra kéo dài thời gian dự án gây ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng của dự án.

122

- Khi xây dựng các chương trình, dự án ODA cần tập trung phát huy nguồn lực hiện có của địa phương, những lợi thế sẵn có và phải xuất phát từ thực tế của địa phương để tài trợ hiệu quả hơn, phải tạo điều kiện để người dân của địa phương có thể trực tiếp tham gia và quản lý chương trình, dự án;

- Phải xác định khả năng trả nợ cả gốc và l i trong tương lai để xây dựng kế hoạch trả nợ, cập nhật các thông tin trong và ngoài nước về sự biến động của các nhân tố có khả năng tác động đến nguồn vốn vay để xử lý kịp thời và có những quyết định đúng đắn, tránh tình trạng lỗ do những tác động của những nhân tố khách quan khi dự án đ đi vào hoạt động;

- Tăng cường công tác đào tạo cán bộ để nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán ộ thuộc các bộ phận liên quan đến việc xác định nhu cầu đàm phán, k kết những hiệp định với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hơn nữa cả về số lượng và chất lượng của nguồn vốn ODA thu hút được. Đồng thời tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn về những kiến thức có liên quan đến ODA để tạo ra những thay đổi sâu rộng về nhận thức, thái độ, kỹ năng và trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán ộ quản lý và thực hiện các chương trình, dự án ODA.

123

CÁC NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN (ODA) VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC CẤP THOÁT NƯỚC ĐÔ THỊ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 – 2015: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Xây dựng

Trong hơn một thập kỷ qua, được sự quan tâm tập trung ưu tiên của Chính phủ, các Bộ, ngành, sự nỗ lực của các địa phương, đ c biệt là sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các định chế tài ch nh, lĩnh vực cung cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị đ có ước phát triển hết sức tích cực. Quy mô, công suất các nhà máy nước, phạm vi phục vụ tăng mạnh, chất lượng dịch vụ ngày càng được cải thiện. Hiện nay hơn 80% dân số đô thị đ được phục vụ nước sạch qua các nhà máy xử lý nước tập trung (trong đó các đô thị vừa và lớn đạt trên 90%). Lĩnh vực vệ sinh môi trường đô thị như thoát nước, sử lý nước thải … cũng được quan tâm tập trung quản lý, đầu tư, cải tạo, mở rộng góp phần từng ước hạn chế tình trạng ngập úng, ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, lĩnh vực cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị vẫn còn hạn chế, bất cập, chưa theo kịp với tốc độ đô thị hóa và sự gia tăng dân số ở các đô thị. Việc thường xuyên đánh giá t nh hiệu quả của các dự án, đ c biệt là các dự án sử dụng vốn ODA là cần thiết cho định hướng thu hút các nguồn lực cho đầu tư, quản lý, vận hành, hiện đang là những thách thức đối với lĩnh vực cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường đô thị.

Về tổng quan, đối với việc phát triển ngành và lĩnh vực, ODA là nguồn vốn đầu tư ch nh cho nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của Chính phủ và là chất xúc tác cho các nguồn vốn đầu tư khác như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư của khu vực tư nhân.

Vốn đầu tư đ thực hiện của lĩnh vực cấp, thoát nước và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị trong giai đoạn 10 năm vừa qua khoảng 80 ngàn tỷ đồng; tương ứng khoảng 8,4 ngàn tỷ đồng/năm, trong đó chủ yếu là đầu tư từ nguồn vốn vay ODA, cụ thể:

- Đối với lĩnh vực cấp nước, nguồn vốn nhà nước để đầu tư xây dựng chiếm khoảng 87% (trong đó, vốn ngân sách chiếm khoảng 12%, vốn ODA chiếm khoảng 66%, vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 9%) và vốn của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chiếm khoảng 13%.

- Đối với lĩnh vực thoát nước đô thị, vốn để đầu tư xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải chủ yếu được đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước, trong đó vốn ngân sách chiếm khoảng 18% (bao gồm cả vốn của các dự án thực hiện theo hình thức hợp đồng BT) và vốn ODA chiếm khoảng 82%.

124

- Đối với lĩnh vực xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị, khu vực kinh tế tư nhân đ có sự tham gia đầu tư xây dựng nhiều hơn so với lĩnh vực cấp, thoát nước đô thị. Tuy nhiên, vốn nhà nước sử dụng để đầu tư xây dựng vẫn chiếm khoảng 80% (trong đó, vốn ngân sách chiếm khoảng 35%, vốn ODA chiếm khoảng 45%), vốn của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chiếm khoảng 20%.

Trong gần 10 năm qua, Bộ Xây dựng đ trực tiếp quản lý thực hiện và điều phối thực hiện 20 chương trình, dự án ODA và vốn vay ưu đ i trong lĩnh vực cấp nước, thoát nước đô thị, trong đó có 07 dự án hỗ trợ kỹ thuật và 13 dự án vốn vay. Các chương trình, dự án ODA của Bộ Xây dựng đ tăng không ngừng cả về số lượng cũng như quy mô. Cụ thể:

- Vốn viện trợ không hoàn lại: 605.038.000.000 VND (khoảng 30 triệu USD,

tỷ giá: 1 USD = 20.000 VND)

- Vốn vay ưu đãi: 22.646.021.000.000 VND (khoảng 1.133 triệu USD, tỷ giá: 1 USD = 20.000 VND), chưa ao gồm 01 dự án đang trong quá trình ký thỏa thuận tài chính.

- Tổng số nhà tài trợ: có 8 nhà tài trợ song phương và đa phương: Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Phần Lan, Đức, Nhật Bản, Na uy, Đan mạch, Liên minh các thành phố (CA).

Nhìn chung, việc triển khai các chương trình, dự án trong lĩnh vực này hầu hết đều được các nhà tài trợ đánh giá ở mức độ hoàn thành/tốt. Sau khi dự án hoàn thành, các đô thị được đầu tư xây dựng các hệ thống cấp thoát nước và xử lý nước thải, thu gom và xử lý chất thải rắn đảm bảo chất lượng, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu của dân cư tại đô thị có dự án. Thông qua triển khai các dự án ODA, thể chế quản lý được cải cách, ý thức cộng đồng được nâng cao, chất lượng cuộc sống của người dân trong các đô thị dự án cũng như các vùng phụ cận được cải thiện rõ rệt. Các hệ thống này hiện đ và đang được quản lý và vận hành theo đúng quy trình và phát huy được hiệu quả.

Với việc thiết kế các chương trình, dự án ODA mang tính toàn diện (không chỉ tập trung cho công tác đầu tư, còn có các hợp phần xây dựng thể chế, nâng cao năng lực...), các dự án đ giúp cho các Công ty cấp nước, các nhà quản lý dịch vụ có những ước tiến đáng kể về khả năng quản lý và vận hành. Năng lực cũng như kinh nghiệm của các Công ty cấp thoát nước, môi trường đô thị, các Ban Quản lý dự án đ được hoàn thiện nhiều qua quá trình thực thi chương trình, dự án. Thông qua các cơ hội tham gia dự án, chất lượng công việc của đội ngũ tư vấn, nhà thầu hoạt động trong lĩnh vực này được cải thiện rõ rệt, từ vị trí thầu phụ ho c thực hiện các công việc, nhiệm vụ đơn giản do Tư vấn quốc tế giao lại đ dần tiến tới vai trò đảm nhiệm các phần việc quan trọng như thiết kế, giám sát thi công; từ vị trí là nhà thầu xây lắp

125

phụ đ có năng lực, tư cách tham gia các gói thầu đấu thầu quốc tế với tư cách nhà thầu xây lắp chính.

So sánh giữa chi phí sử dụng nguồn vốn ODA và sử dụng vốn trong nước, Bộ Xây dựng cho rằng về tổng thể chi phí sử dụng nguồn vốn ODA đạt hiệu quả hơn so với nguồn vốn trong nước. Nếu chỉ xét về chi ph đầu tư trực tiếp (chi ph đầu tư xây dựng các công trình) thì trong các dự án ODA chi phí này có thể cao hơn suất đầu tư do các dự án thường phải sử dụng tư vấn nước ngoài, đấu thầu quốc tế, nhập khẩu thiết bị … theo yêu cầu của nhà tài trợ. Tuy nhiên, với việc thiết kế dự án mang tính toàn diện nêu trên, nếu t nh vòng đời dự án bao gồm cả quá trình vận hành và bảo dưỡng thì thông thường các dự án ODA có tính bền vững và hiệu quả cao hơn do chất lượng công trình tốt, chi phí quản lý và vận hành thấp hơn. Các dự án cấp nước và một số dự án xử lý rác thải đều được yêu cầu vay lại thông qua Ngân hàng phát triển Việt Nam theo quy định của Chính phủ. Theo các số liệu báo cáo, thì nhiều dự án vay lại cho cấp nước đ triển khai tốt việc trả nợ vốn đầu tư cho ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên bên cạnh những thành công, hiệu quả đạt được thì các dự án đều còn những tồn tại nhất định. Kinh nghiệm cho thấy một số chương trình, dự án không đạt được kết quả như mong muốn là do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:

- Ở một số dự án cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải, các hạng mục đầu tư chưa hợp lý dẫn tới chỉ tập trung vào việc đầu tư phần trạm xử lý, nâng cao công suất, chưa đầu tư đầy đủ phần mạng lưới, số lượng đấu nối ít, hệ thống đầu tư xong không phát huy hết công suất, hiệu quả kinh doanh thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ của Công ty (đối với các công ty nước) ho c không đủ lượng nước thải để xử lý (đối với công ty thoát nước). Vấn đề này đ được các dự án triển khai ở giai đoạn gần đây rút kinh nghiệm, xác định quy mô công suất đầu tư hợp lý, chú trọng đầu tư phần mạng lưới cung cấp đảm bảo phát huy hiệu quả dự án ngay sau khi hoàn thành.

- Chậm giải phóng m t bằng, thiếu vốn đối ứng, năng lực hạn chế của Ban quản lý dự án, chất lượng nhà thầu… là những nguyên nhân chính gây nên việc chậm tiến độ, cắt giảm vốn tại một số tiểu dự án và ảnh hưởng đến hiệu quả chung của toàn dự án. Vấn đề này cũng đ và đang được Bộ Xây dựng phối hợp hiệu quả với các UBND các tỉnh và các nhà tài trợ giải quyết thông qua cơ chế phối hợp trong việc lập kế hoạch, tổ chức khóa đào tạo, tăng cường năng lực, thuê tư vấn hỗ trợ. Ở một số trường hợp cụ thể, nhà tài trợ đ đề xuất phân giao trách nhiệm giữa Ban quản lý Trung ương và Ban quản lý Dự án địa phương (như tăng cường thêm các dịch vụ tư vấn chung của cả dự án, kiểm toán, giải ngân...) nhằm giải quyết vấn đề năng lực hạn chế của các Ban quản lý dự án ở một số địa phương.

126

Ngoài ra, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc chậm trễ thực hiện dự án là các hoạt động khởi động dự án: như tuyển tư vấn thực hiện dự án, lập thiết kế chi tiết và hồ sơ mời thầu xây lắp chỉ được triển khai sau khi khoản vay có hiệu lực. Tuy nhiên, việc Chính phủ và nhà tài trợ thống nhất cho phép triển khai “các hành động trước” trong một số các dự án gần đây đ góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.

- Ngoài các giải pháp được áp dụng cho từng dự án, từng lĩnh vực cụ thể, trong những năm qua, các cơ quan Ch nh phủ và các nhà tài trợ đ cùng phối hợp thực hiện một số sáng kiến và áp dụng các giải pháp và hoạt động “đổi mới” để cải thiện quá trình xây dựng danh mục đầu tư, kiểm điểm dự án. Hoạt động kiểm điểm quản lý thực hiện danh mục đầu tư theo cách truyền thống đ được chuyển đổi theo hướng đánh giá cụ thể các chỉ tiêu, dựa vào kết quả đầu ra và mang tính tập trung, thông qua các cuộc họp cấp cao để giải quyết những vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án.

Nhìn nhận lại quá trình 10 năm thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA trong lĩnh vực cấp thoát nước và xử lý rác thải, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:

- Để dự án có hiệu quả, ph a cơ quan tiếp nhận dự án cần có tinh thần làm chủ trong toàn bộ chu trình ODA từ khâu hình thành ý tưởng, thiết kế dự án đến khâu tổ chức, quản l‎h‎ ýực hiện, theo dõi và đánh giá dự án. Xác đinh vai trò của ODA là nguồn lực bổ trợ và xúc tác cho quá trình phát triển sẽ khắc phục tư tưởng thụ động, trông chờ vào viện trợ và giúp phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong phát triển.

- Sự tham gia rộng rãi của các đối tượng thụ hưởng vào quá trình tiếp nhận và sử dụng vốn ODA là yếu tố quan trọng để giúp ODA được sử dụng đúng mục đ ch và có hiệu quả cao.

- Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy và cùng sẻ chia trách nhiệm giữa Việt Nam và nhà tài trợ sẽ góp phần đảm bảo sự thành công của các chương trình, dự án ODA.

Từ những phân t ch, đánh giá nêu trên, để nâng cao hiệu quả, tiếp tục thu hút đầu tư đối với lĩnh vực cấp nước sạch và vệ sinh môi trường đô thị, Bộ Xây dựng tiếp tục triển khai và đề xuất một số hoạt động, giải pháp sau:

- Hoàn thiện và đổi mới ch nh sách giá nước, giá dịch vụ thoát nước theo hướng giá nước sạch được t nh đúng, đủ các chi phí hợp lý đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, nhà nước, người sử dụng với chất lượng dịch vụ ngày càng cao. Giá dịch vụ thoát nước hướng tới ù đắp được chi phí vận hành và bảo dưỡng và chi ph đầu tư.

- Rà soát, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn, chỉ tiêu, suất vốn

127

đầu tư, định mức kinh tế kỹ thuật áp dụng trong lĩnh vực cấp, thoát nước và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị.

- Rà soát, nghiên cứu ban hành các mẫu hợp đồng quản lý và vận hành giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ với Ủy ban nhân dân nhằm đảm bảo trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng giữa doanh nghiệp và chính quyền trong việc cung cấp các dịch vụ mang tính công ích.

- Xác định nguồn vốn ODA như là nguồn lực bổ trợ và xúc tác trong công tác huy động vốn đầu tư, Bộ Xây dựng sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tiếp tục, nghiên cứu đa dạng hóa các loại hợp đồng đầu tư, cho thuê vận hành bảo dưỡng, có giải pháp tài chính tạo thị trường vốn, phát triển các quỹ tài chính, quỹ quay vòng nước quốc gia, quỹ tín dụng vệ sinh môi trường…hỗ trợ triển khai th điểm các dự án thực hiện theo mô hình hợp tác công - tư (PPP).

- Có kế hoạch cụ thể triển khai “Đề án Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống cấp, thoát nước và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 7/2014.

Trong quá triển triển khai nhiệm vụ do Chính phủ giao, Bộ Xây dựng mong muốn các đối tác tiếp tục quan tâm, hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ, tài trợ các chương trình, dự án trong lĩnh vực cấp nước và vệ sinh môi trường đô thị, cụ thể:

- Hỗ trợ trong việc hoàn thiện môi trường pháp lý và cơ chế chính sách liên quan đến thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư. Hỗ trợ triển khai th điểm các dự án thực hiện theo mô hình đối tác công - tư (PPP).

- Tiếp tục hỗ trợ công tác tăng cường năng lực, cải cách đổi mới các doanh nghiệp cấp thoát nước (WB, JICA hiện đang triển khai nghiên cứu ước đầu với một số đơn vị trực thuộc Bộ Xây dựng).

- Tiếp tục triển khai các Dự án hỗ trợ kỹ thuật nhằm chia sẻ kinh nghiệm, tăng

cường năng lực cho đội ngũ cán ộ trong lĩnh vực đầu tư.

- Nghiên cứu, cho vay vốn Dự án Cấp nước Vùng đồng bằng Sông Cửu Long thực hiện theo Quy hoạch cấp nước vùng Kinh tế trọng điểm Vùng ĐBSCL đ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (WB đ và đang nghiên cứu tài liệu, tiến hành khảo sát Dự án).

Bộ Xây dựng mong muốn tiếp tục nhận được sự chỉ đạo của Chính phủ, tiếp tục hợp tác với các đối tác phát triển trong công cuộc phát triển hạ tầng kỹ thuật cấp nước, thoát nước và vệ sinh môi trường, để tăng hiệu quả, năng lực cạnh tranh của các đô thị là cốt lõi của tăng trưởng kinh tế./.

128

PHỤ LỤC: DANH MỤC DỰ ÁN CẤP THOÁT NƯỚC VÀ XỬ LÝ NƯỚC THẢI ĐÔ THỊ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA VÀ VỐN VAY ƯU ĐÃI NƯỚC NGOÀI

(ĐVT: 1 triệu đồng)

TT Tên chư ng trình, dự án Loại tài trợ Nhà tài trợ Phư ng thức tài trợ Thời gian Bắt đầu - Kết thúc Tổng vốn theo Hiệp định về ODA và vốn vay ưu đãi

WB Vay ưu đ i 2005 -2013 78,120 1 Hỗ trợ dự án

ADB Vay ưu đ i 2007 - 2014 132,546 2 Hỗ trợ dự án Dự án Phát triển cấp nước đô thị Việt Nam (WB1, khoản tín dụng WB số 4028- VN)- Phần PCU thực hiện Dự án phát triển đô thị vừa và nhỏ miền Trung (khoản vay ADB số 2272- VIE(SF)) (ADB4) - Phần PCU thực hiện

2008 - 2015 18,932 3 Dự án phát triển giao thông đô thị Hà Nội - Tiểu hợp phần III (D) WB Hỗ trợ dự án ODA viện trợ không hoàn lại

2011 - 2013 9,347 4

ODA viện trợ không hoàn lại Hỗ trợ chương trình Dự án hỗ trợ kỹ thuật "Tăng cường Diễn đàn đô thị Việt Nam (VUF) và thực hiện Chương trình Nâng cấp đô thị quốc gia (NUUP) - TF010121 Quỹ môi trường toàn cầu tài trợ thông qua WB Quỹ ủy thác tài trợ đa phương của Liên minh các thành phố (CA)

2011 - 2014 164,286 5 Hỗ trợ kỹ thuật Chương trình Quản lý Nước thải và Chất thải rắn tại các tỉnh lỵ (GIZ3) - Q3 tăng thêm 100 triệu vốn đối ứng Tổ chức HTQT Cộng hòa liên ang Đức ODA viện trợ không hoàn lại

129

6 WB 2011 - 2014 2,472 ODA không hoàn lại Hỗ trợ dự án

7 WB Vay ưu đ i 2011 - 2016 37,800 Hỗ trợ dự án

9 ADB Viện trợ 2012 - 2015 41,656 Hỗ trợ kỹ thuật

10 Đan Mạch Viện trợ 2012 - 2014 3,507 Hỗ trợ kỹ thuật

11 WB Vay ưu đ i 2012 - 2017 155,071 Hỗ trợ dự án

12 WB 2013 - 2015 12,733 Hỗ trợ dự án ODA viện trợ không hoàn lại

13 Nauy Viện trợ 2013 - 2015 68,640 Hỗ trợ kỹ thuật

14 Phần Lan 2004 - 2009 21,900,000

15 Phần Lan Viện trợ 2009 - 2013 241,500 Xây dựng các đô thị tiên tiến thông qua các nhà quản lý đô thị giỏi Dự án cấp nước và nước thải đô thị (khoản t n dụng WB số 4948 - VN) phần PCU thực hiện Dự án hỗ trợ kỹ thuật hỗ trợ các cơ quan quản lý Trung ương và địa phương thực hiện cải tạo môi trường đô thị (ADB-TA 7885-VIE) Dự án HTKT chống thất thoát, thất thu nước sạch tại các đô thị nhỏ ở Việt Nam (DAC:14020) Dự án thành phần Hỗ trợ kỹ thuật cho Bộ Xây dựng thực hiện Chương trình Nâng cấp đô thị quốc gia và điều phối tổng thể dự án Nâng cấp đô thị vùng đồng ằng sông Cửu Long - 5083VN Tiểu dự án Hỗ trợ kỹ thuật sử dụng vốn PPTAF chuẩn ị dự án “Chương trình đô thị miền núi ph a Bắc” Dự án hỗ trợ kỹ thuật tăng cường năng lực cho lĩnh vực cấp thoát nước và quản lý chất thải rắn ở Việt Nam (Norad) Chương trình cấp nước và vệ sinh thị trấn nhỏ ở Việt Nam - Giai đoạn I Chương trình Nước và vệ sinh tại các thị trấn nhỏ ở Việt Nam - Giai đoạn II Hỗ trợ dự án Hỗ trợ dự án

130

Phần Lan Viện trợ 2013 - 2016 57,500 16 Hỗ trợ dự án

2013 - 2017 143,520 17 Hỗ trợ kỹ thuật Chương trình Nước và Vệ sinh các thị trấn nhỏ ở Việt Nam – Giai đoạn III Dự án thoát nước và chống ngập úng các đô thị vừa vùng duyên hải VN ứng phó với iến đổi kh hậu Tổ chức HTQT Cộng hòa liên ang Đức

JICA 2014 - 2017 129,429 18 Dự án tăng cường NLQLTH Chất thải rắn tại các đô thị VN Hỗ trợ kỹ thuật ODA viện trợ không hoàn lại ODA viện trợ không hoàn lại

WB 2014 19 Chiến lược phát triển đô thị quốc gia đến năm 2020 tầm nhìn 2030 Đang trong quá trình ký thỏa thuận tài ch nh

Norad-KfW 2013 -2017 54,000 20 Hỗ trợ kỹ thuật

Dự án tăng cường năng lực trong lĩnh vực cấp nước, vệ sinh và quản lý chất thải rắn tại Việt Nam Tổng ODA viện trợ không hoàn lại 23,251,059

131

ĐÁNH GIÁ 20 NĂM HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG ODA TẠI TP.HCM

Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

I. Tình hình chung về huy động và sử dụng nguồn vốn ODA:

Trong thời kỳ đầu của sự nghiệp “Đổi mới và phát triển đất nước”, nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) như những “viên gạch” đầu tiên giúp Việt Nam xây dựng nền tảng để thu hút các nguồn lực khác. Trong những năm qua, các nhà tài trợ đ cung cấp cho Việt Nam một nguồn tài ch nh đáng kể, góp phần thực hiện cải cách kinh tế và hội nhập quốc tế.

Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp đất nước ta thực hiện các chiến lược phát triển KTXH của mình. ODA là nguồn vốn bổ sung giúp đảm bảo chi đầu tư phát triển, giảm gánh n ng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đ c t nh ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 - 30 năm, l i suất thấp khoảng từ 0,25% đến 2%/năm. Nhờ nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đ i như vậy chúng ta mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thủy lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế. Những cơ sở hạ tầng KTXH được xây dựng mới ho c cải tạo nhờ nguồn vốn ODA là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của nước ta trong thời gian qua.

Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò là một trung tâm kinh tế, văn hóa và khoa học kĩ thuật quan trọng của cả nước nên luôn là một trong những địa phương nhận được vốn ODA đáng kể so với tổng vốn tài trợ ODA quốc tế cho Việt Nam (chiếm khoảng 25% vốn ODA cho Việt Nam). Ngoài các dự án có quy mô nhỏ và hỗ trợ kỹ thuật cho nghiên cứu, quy hoạch, Thành phố cũng nhận được nguồn vốn lớn tài trợ cho các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.

Từ năm 1993 đến nay, Thành phố đ vận động và triển khai thực hiện 94 dự án ODA với tổng giá trị tài trợ ODA khoảng 115.447,66 tỷ đồng, trong đó đến hết năm 2014 đ hoàn thành 74 dự án với giá trị giải ngân vốn ODA là 44.363,77 tỷ đồng (trong đó vốn ODA là 35.591,50 tỷ đồng và vốn đối ứng là 8.772,27 tỷ đồng).

Hiện tại, Thành phố đang triển khai thực hiện 15 dự án với tổng giá trị tài trợ

ODA là 109.829,24 tỷ đồng.

Với vai trò là cơ quan tham mưu của Thành phố trong công tác đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, ngành kế hoạch đầu tư đ chủ động tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố và Thành ủy nhiều chủ trương, giải pháp nhằm bố trí một cách hiệu quả nhất các nguồn vốn từ ngân sách, quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cũng như thu hút m nh mẽ các nguồn lực đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân vào công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố.

132

II. Đánh giá c chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phư ng trong huy

động và sử dụng nguồn vốn ODA

1. Thực trạng:

Công tác phối hợp giữa các ngành các cấp đang được chú trọng tăng cường thông qua các quy định cụ thể về cơ chế phối hợp trong xử lý các vấn đề có liên quan của các ngành, các địa phương, nhằm tạo sự gắn kết, liên hệ ch t chẽ với nhau trong công tác, bảo đảm tiến độ thực hiện các công việc theo đúng thời gian quy định, phục vụ tốt cho hoạt động chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân thành phố, cũng như đáp ứng kịp thời nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

- Sự phối hợp giữa sở, ngành đối với Ủy ban nhân dân Thành phố: Thành phố đ an hành Quyết định số 13/2009/QĐ-UBND ngày 03 tháng 02 năm 2009 và Quyết định số 06/2010/QĐ-UBND ngày 23 tháng 01 năm 2010 về Quy định quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của thành phố Hồ Ch Minh, trong đó phân định rõ trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư nhằm phát huy tính chủ động của đơn vị thực hiện dự án và đảm bảo sự phối hợp ch t chẽ giữa các đơn vị trong quá trình vận động, tiếp nhận, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân Thành phố đ tập trung chỉ đạo thực hiện các nội dung đ cam kết với các nhà tài trợ và thường xuyên tổ chức các buổi làm việc cùng với các sở, ngành và chủ dự án, ban quản lý dự án để chỉ đạo xử lý các khó khăn, vướng mắc liên quan đến vấn đề giải phóng m t bằng, tái định cư và các thủ tục trong quá trình đầu tư…, đồng thời đảm bảo bố trí vốn đối ứng đầy đủ và kịp thời để thực hiện công tác đền bù giải phóng m t bằng và tái định cư phù hợp với tiến độ thực hiện của các dự án ODA và từng ước tăng cường năng lực cho các Ban quản lý dự án, Chủ đầu tư..

- Sự phối hợp giữa chủ đầu tư và các sở, ngành: các sở, ngành cùng với chủ dự án, ban quản lý dự án ODA định kỳ họp giao an để xem xét, giải quyết các khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện và đề xuất các biện pháp xử lý nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án.

- Sự phối hợp giữa Ủy ban nhân dân Thành phố và nhà tài trợ: đối với các nhà tài trợ lớn, Thành phố định kỳ hàng tháng, hàng quý tổ chức các buổi làm việc, tiếp xúc để vận động, nắm tình hình thực hiện, xác định và kịp thời xử lý các vướng mắc nảy sinh liên quan giữa nhà tài trợ và các chủ đầu tư nhằm thúc đẩy tiến độ thực hiện và nâng cao tỷ lệ giải ngân các chương trình, dự án ODA.

- Sự phối hợp giữa Ủy ban nhân dân Thành phố với các Bộ, ngành, Trung

ương:

+ Các Bộ, ngành Trung ương đ tổ chức nhiều cuộc hội thảo, các buổi làm việc về chủ trương, định hướng huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn ODA có sự tham gia của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố.

+ Tiến độ giải ngân các dự án sử dụng nguồn vốn ODA nhìn chung đáp ứng

133

được yêu cầu, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Thành phố. Tuy nhiên, so với nhu cầu cần đáp ứng về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kinh tế cho một Thành phố trung tâm khu vực (như phát triển giao thông đô thị; cải thiện môi trường; cấp nước; cải tạo mạng lưới điện; tăng cường trang thiết bị cho ngành y tế, giáo dục, dạy nghề, đổi mới công nghệ ...) thì nguồn vốn ODA vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu.

+ Thời gian xem xét và phê duyệt danh mục tài trợ của các cơ quan Trung ương trước khi trình Thủ tướng Ch nh phủ còn kéo dài; vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến quy định quản lý rút vốn hay liên quan đến việc sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đ i đối với các hạng mục chi tiêu thường xuyên vì sự nghiệp phát triển; liên quan đến cơ chế tài ch nh trong nước đối với các khoản vay ODA và vốn vay ưu đ i; khác iệt về quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ…

2. Mặt được:

Nhờ sự phối hợp ch t chẽ giữa các đơn vị có liên quan, từ Trung ương đến địa phương và có chung một quan điểm là tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các an quản lý dự án để thực hiện các dự án đúng tiến độ, áp dụng các thủ tục trình duyệt nhanh gọn nhằm giảm ớt ph cam kết, Thành phố đ đạt được những thành tựu đáng kể trong những năm qua.

Nhìn chung, việc sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA của Thành phố đều mang lại hiệu quả, rất nhiều chương trình, dự án sử dụng vốn ODA đ được đưa vào sử dụng như các dự án nghiên cứu quy hoạch giao thông đô thị của Thành phố, Dự án nghiên cứu và qui hoạch tổng thể thoát nước và xử lý nước thải của thành phố, Dự án nghiên cứu tổng thể về cải thiện môi trường Thành phố Hồ Chí Minh, Dự án nghiên cứu đánh giá hiện trạng các khu nhà lụp xụp của WB… giúp cho Thành phố có cái nhìn tổng quát và xác định chiến lược phát triển đầu tư các công trình về cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thành phố từ năm 2000 đến 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Những năm gần đây, với những dự án quan trọng tập trung vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông và cải thiện môi trường có quy mô đầu tư lớn như dự án Xây dựng tuyến đường sắt đô thị Bến Thành - Suối Tiên; dự án Xây dựng tuyến tàu điện ngầm Bến Thành - Tham Lương; dự án Cải thiện môi trường nước lưu vực kênh Tàu Hủ - Bến Nghé - kênh Đôi - Tẻ (giai đoạn 2); dự án Nâng cấp đô thị và dự án Giảm thất thoát nước và tăng cường mở rộng mạng lưới cấp nước giai đoạn 2011-2015 cũng mang lại hiệu quả, tạo nền tảng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, góp phần vào xóa đói, giảm nghèo.

3. Mặt hạn chế:

Tình hình thực hiện và giải ngân các chương trình, dự án ODA và vốn vay ưu đ i tuy có những chuyển iến t ch cực song vẫn còn chậm hơn so với tiến độ đ cam kết. Công tác quản lý, sử dụng vốn ODA cũng còn một số hạn chế, cụ thể qua từng giai đoạn triển khai dự án như sau:

134

- Giai đoạn chuẩn ị đầu tư:

+ Trong giai đoạn này dự án chỉ ở ước nêu lên ý tưởng an đầu căn cứ trên định hướng hợp tác, lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA và nhu cầu huy động vốn ODA của thành phố. Đối với các hoạt động thực hiện trước trong giai đoạn này như nghiên cứu tiền khả thi, đánh giá tác động môi trường,... rất khó thực hiện vì các Bộ ngành chưa có văn ản hướng dẫn nguồn kinh ph để trả cho các hoạt động này được lấy từ đâu, hạch toán như thế nào.

+ Về cơ chế tài chính, dù Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ có quy định : “Ngân sách nhà nước cấp phát 100% cho các chương tr nh, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội ho c các lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước và Ngân sách nhà nước cho vay lại toàn bộ ho c một phần vốn cho Các chương tr nh, dự án có khả năng thu hồi toàn bộ ho c một phần vốn; Các chương tr nh, dự án không thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước”. Tuy nhiên, hiện nay, tất cả các dự án kể cả dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp như dự án Quản lý rủi ro ngập nước TPHCM,...Bộ Tài ch nh đều yêu cầu Thành phố vay lại toàn bộ. Bên cạnh đó, đối với các dự án vay lại, Bộ Tài ch nh cũng chưa xác định được cơ chế tài chính ngay từ đầu của giai đoạn chuẩn bị đầu tư theo hướng dự án được vay lại và vay lại với tỷ lệ bao nhiêu, lãi suất vay lại ra sao. Việc này làm cho thành phố không chủ động được nguồn ngân sách chuẩn bị đầu tư, cân đối bố trí ngân sách địa phương để hoàn trả vốn vay lại cho Chính phủ, dự án sau khi đ được phê duyệt lại phải điều chỉnh lại cơ chế tài chính cho phù hợp với yêu cầu của Bộ Tài chính.

- Giai đoạn chuẩn ị thực hiện: thời gian chuẩn ị chương trình, dự án ODA thường ị kéo dài, ao gồm từ khâu đề xuất ý tưởng dự án cho đến khi ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA thường mất khoảng từ 2 - 3 năm. Do đó, khi dự án đi vào giai đoạn triển khai thực hiện thường phải điều chỉnh thiết kế ho c điều chỉnh lại dự án cho phù hợp với tình hình thực tế. Việc kéo dài thời gian thực hiện dự án thường dẫn đến nhiều hệ lụy: các lợi ch từ dự án không được chuyển giao cho đối tượng hưởng lợi kịp thời, chi ph giám sát, quản lý và chi ph cam kết gia tăng. Qui trình thủ tục của Ch nh phủ Việt Nam và của nhà tài trợ còn nhiều khác nhau nên còn chồng chéo nhau trong thực hiện các hoạt động.

- Giai đoạn triển khai thực hiện dự án: quá trình triển khai các gói thầu chậm do chủ đầu tư còn lúng túng trong việc xây dựng đầu ài, xác định nhiệm vụ cho từng gói thầu. Các gói thầu khi tiến hành đấu thầu xong phải điều chỉnh giá gói thầu (do trượt giá ho c do ước lượng giá trong dự án hỗ trợ kỹ thuật chưa sát).

135

- Giai đoạn kết thúc đưa vào vận hành, quản lý: công tác chấp hành báo cáo theo quy định của Chính phủ của các chương trình, dự án còn thấp. Báo cáo thường nộp chậm, thiếu thông tin, dẫn đến khó khăn trong công tác theo dõi, đánh giá của Bộ Tài chính. Công tác theo dõi, đánh giá chương trình, dự án ODA và hoạt động của các Ban QLDA chưa được thực hiện hiệu quả. Vai trò điều hành và tính tự chủ của Việt Nam trong một số các dự án hỗ trợ kỹ thuật còn thấp. Đ c biệt là đối với các dự án hỗ trợ kỹ thuật của ADB, Nhật Bản và một số các nhà tài trợ song phương khác.

4. Nguyên nhân:

- Quy trình và thủ tục quản lý và sử dụng ODA của Việt Nam và nhà tài trợ chưa hài hòa (như các quy định về đấu thầu, nghiệm thu kỹ thuật và giải ngân), vẫn còn tồn tại những sự khác biệt, chậm được xử lý đ ảnh hưởng tới tiến độ chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án ODA.

- Cơ chế phối hợp giữa các ngành và nhà tài trợ trong vận động và quản lý

nguồn vốn ODA chưa đạt hiệu quả cao.

- Công tác theo dõi, đánh giá chương trình, dự án ODA và hoạt động của các

Ban quản lý dự án chưa được thực hiện hiệu quả.

III. Một số giải pháp:

Để nâng cao hiệu quả trong việc thu hút nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i

nước ngoài, Thành phố nhận thấy cần phải giải quyết tốt những vấn đề sau:

- Xây dựng Đề án Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2016 – 2020; sớm có Nghị định mới thay thế Nghị định số 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 của Chính phủ về quản lý và sử dụng nguồn ODA và nguồn vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng; nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế 2005 phù hợp với Hiến pháp 2013 trong đó cho phép áp dụng quy trình rút gọn đối với việc ký kết các điều ước quốc tế về ODA và vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ.

- Tiếp tục điều chỉnh các quy định nhằm thực hiện hài hòa thủ tục giữa quy định của Việt Nam và chính sách của Nhà tài trợ (trọng tâm là những vấn đề cụ thể trong các quy định về nghiệm thu kỹ thuật và giải ngân).

- Ngành Tài chính cần chủ động xác định cơ chế tài ch nh trong nước áp dụng đối với các chương trình, dự án thuộc Danh mục tài trợ từ nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i của Chính phủ ngay từ đầu để Thành phố chủ động hơn trong việc vận động, tiếp nhận triển khai dự án.

- Thường xuyên thông áo cho địa phương, Ủy ban nhân dân các tỉnh thành về định hướng tài trợ của các nhà tài trợ song phương, đa phương để Thành phố chủ động trong vận động tài trợ cho các dự án của Thành phố./.

136

NGUỒN VỐN ODA CÙNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.Hà Nội

Ngày 29/5/2008, Quốc hội an hành Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 về mở rộng địa giới hành ch nh Thủ đô. Hiện nay, Thủ đô Hà Nội với dân số khoảng 6,4 triệu người (chiếm khoảng 7,4% dân số cả nước), diện t ch 3.344,7 km2 (chiếm 1% diện t ch l nh thổ quốc gia) nhưng hàng năm đóng góp khoảng 10% GDP và khoảng 25% tổng đầu tư x hội của cả nước.

Trong thời gian qua, kinh tế xã hội Thủ đô đạt được những kết quả quan trọng. Tăng trưởng trung ình GRDP giai đoạn 2011 - 2014 đạt 9,17% /năm, trong đó, ngành dịch vụ đạt mức tăng trưởng cao nhất: 9,98%/năm; công nghiệp - xây dựng tăng 8,99%/năm; nông nghiệp tăng 2,45%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm; lao động nông nghiệp giảm, lao động các ngành phi nông nghiệp tăng lên.

Những thành tựu quan trọng trên là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng của nhân dân Thủ đô và ch nh quyền các cấp, sự chỉ đạo của Nhà nước, sự hợp tác của các Bộ, ngành, địa phương và của ạn è quốc tế, trong đó có sự đóng góp của các nhà tài trợ dành cho thành phố Hà Nội thông qua các chương trình, dự án hợp tác phát triển (ODA).

Nguồn vốn ODA – nguồn lực và xúc tác quan trọng đối với sự phát triển hạ

tầng inh tế xã hội của Thủ đ

Kể từ khi các nhà tài trợ nối lại viện trợ cho Việt Nam vào năm 1993, đến nay thành phố Hà Nội đ thu hút và triển khai khoảng 90 dự án ODA với giá trị tài trợ khoảng 5.173 triệu USD. Nhật Bản là quốc gia cung cấp vốn ODA lớn nhất cho Hà Nội với tổng số tiền cam kết khoảng 2.663 triệu USD, chiếm 51,47% trên tổng số, tiếp theo là Pháp 13,37%, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) 13,37%, Ngân hàng Thế giới (WB) 4,86% và các nhà tài trợ song phương, đa phương khác (như Phần Lan, Bỉ, Hàn Quốc, EIB, CTF… 16,94%.

Hà Nội là một trong những địa phương được tiếp nhận vốn ODA sớm nhất. Hầu hết các dự án ODA có qui mô vốn lớn được đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng và ít có khả năng sinh lời trực tiếp như: hệ thống hạ tầng giao thông đô thị, môi trường, cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải… Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các dự án ODA là lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông đô thị 51,5 % và cấp, thoát nước và xử lý nước thải 29,2%. Các dự án xây dựng cơ sở hạ

137

tầng kỹ thuật đi trước một ước đ góp phần thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước và tạo tiền đề thúc đẩy phát triển các khu đô thị và các khu công nghiệp một cách đồng bộ. Đ c biệt, một số dự án có tính chất phức tạp về công nghệ, quy mô vốn lớn, công tác quản lý vận hành hoàn toàn mới lạ đ được triển khai bằng nguồn vốn ODA như các dự án đường sắt đô thị (UMRT), xe uýt nhanh (BRT) đ góp phần quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với việc đào tạo, chuyển giao công nghệ mới cho các cơ quan quản lý và các đơn vị quản lý vận hành của thành phố Hà Nội.

Trước tiên phải nói đến lĩnh vực cấp nước, bắt đầu bằng dự án Cấp nước Phần Lan (từ năm 1985-2001) với 4 giai đoạn, tổng giá trị viện trợ không hoàn lại là 57,422 triệu USD, lần đầu tiên người dân Hà Nội được sử dụng nước sạch xử lý theo công nghệ hiện đại. Có một thời, người dân Hà Nội luôn nhắc đến cụm từ “nước Phần Lan” như một sự ghi nhận về sự giúp đỡ vô cùng to lớn của nhà tài trợ Phần Lan. Tiếp sau Phần Lan đến Nhật Bản với dự án Cấp nước Gia Lâm (1993-1997) và nhà máy nước Bắc Thăng Long - Vân Trì, rồi Ngân hàng Thế giới với dự án Cấp nước 1A (1999 - 2004) đ góp phần nâng công suất cấp nước của Thành phố từ 200.000m3/ngày lên trên 500.000 m3/ngày đêm (năm 2005) và đưa tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt đạt trung bình khoảng 120-130 l t/người/ngày, giảm tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch xuống còn dưới 35%.

Tiếp theo là lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải, bắt đầu là dự án Thoát nước Hà Nội giai đoạn I sử dụng vốn vay ODA của Nhật Bản được thực hiện từ năm 1996 đ góp phần hạn chế tình trạng úng ngập khu vực nội thành, hệ thống các trạm ơm, hệ thống kênh mương, hồ điều hòa được xây dựng và nâng cấp cải tạo góp phần giảm đáng kể tình trạng úng ngập và cải thiện môi trường đô thị, giai đoạn II của dự án cũng sử dụng vốn vay ODA của Nhật Bản đang tiếp tục được triển khai và dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015, góp phần giải quyết tình trạng úng ngập đối với những trận mưa có lưu lượng là 310mm/2 ngày. Mới đây, dự án xử lý nước thải Yên Xá đ được phê duyệt đầu tư ằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản với công suất 270.000m3/ngđ, dự án thiết kế sẽ thu gom và xử lý nước thải phục vụ khu vực có diện tích 4.874ha. Ngoài ra một loạt các công trình xử lý nước thải cũng được thực hiện bằng nguồn vốn ODA như nhà máy xử lý nước thải Bắc Thăng Long - Vân Trì, trạm xử lý nước thải Kim Liên, Trúc Bạch, hồ Bẩy Mẫu, … cũng đ góp phần cải thiện công tác tiêu thoát nước và môi trường nước các sông, hồ, kênh, mương của thành phố Hà Nội.

Lĩnh vực được đầu tư lớn nhất từ nguồn vốn ODA là phát triển hạ tầng giao thông đô thị. Thông qua các dự án ODA, hệ thống giao thông đô thị thành phố Hà Nội đ được cải thiện đáng kể, có thể kể ra một loạt các công trình như: đường Kim Liên – Ô Chợ Dừa, các nút giao thông Ng Tư Vọng, Ng Tư Sở, Kim Liên, hệ

138

thống cầu vượt cho người đi ộ, hệ thống đèn t n hiệu giao thông. Đóng góp đáng kể là tuyến đường vành đai 2 đoạn Nhật Tân – Cầu Giấy và tuyến BRT sẽ đưa vào sử dụng trong đầu năm 2016, góp phần hoàn thiện tuyến đường vành đai 2, phát huy hiệu quả cầu Nhật Tân (cây cầu hữu nghị Việt – Nhật) và tuyến đường Nhật Tân – Sân bay Nội Bài.

Hiện nay, thành phố Hà Nội đang triển khai các dự án có ý nghĩa quan trọng và quyết định cải thiện cơ ản hệ thống giao thông công cộng của Thủ đô theo hướng hiện đại, nhằm giảm ùn tắc giao thông phải kể đến các dự án đường sắt đô thị đang triển khai và dự kiến hoàn thành vào các năm từ 2016 đến 2020 như các tuyến đường sắt đô thị (Cát Linh - Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội, Nam Thăng Long – Trần Hưng Đạo).

Còn phải kế đến lĩnh vực môi trường đô thị, với các dự án được tài trợ từ nguồn vốn ODA đ góp phần giảm đáng kể hiện tượng rác thải sinh hoạt ùn tắc lưu cữu, môi trường ngày càng được cải thiện và ý thức của người dân trong công tác vệ sinh môi trường được nâng cao thông qua việc tiếp cận chương trình 3R (Giảm thiểu – Tái sử dụng – Tái chế) của Nhật Bản, cũng như tiếp nhận các trang thiết bị vận chuyển, xử lý rác thải của các nhà tài trợ Nhật Bản và Đức, đ c biệt là dự án Nhà máy xử lý chất thải công nghiệp để phát điện tại Nam Sơn, Sóc Sơn do Tổ chức Phát triển công nghệ công nghiệp và năng lượng mới Nhật Bản (NEDO) tài trợ được triển khai thử nghiệm tại Hà Nội nhằm tái sử dụng chất thải công nghiệp để sản xuất năng lượng hòa vào lưới điện quốc gia.

Ngoài ra, trong khuôn khổ chương trình hợp tác Uỷ ban chuyên gia hỗn hợp Việt - Nhật (từ năm 2007 đến nay), hai ên đ tổ chức nhiều cuộc điều tra nghiên cứu thực địa làm rõ nhiều giá trị của di t ch Hoàng thành Thăng Long. Đây là di t ch được các chuyên gia Nhật Bản khi nghiên cứu khai quật đánh giá là có nhiều mối liên hệ với Nhật Bản. Hiện nay, một dự án nghiên cứu và bảo tồn di tích Hoàng thành Thăng Long do UNESCO chủ trì với sự tài trợ của Quỹ tín thác Nhật Bản đang được triển khai.

Thành phố Hà Nội đánh giá cao sự hợp tác giúp đỡ quí báu của các nhà tài trợ đ đồng hành cùng thành phố Hà Nội trong quá trình xây dựng và phát triển Thủ đô Hà Nội. Có thể khẳng định rằng, ở Thủ đô Hà Nội, khắp các con đường, các công trình, trên phố lớn hay trong mỗi ngõ nhỏ, phố nhỏ, nơi đâu cũng ghi dấu của những công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ.

139

C cấu vốn ODA theo nhà tài trợ C cấu ODA theo lĩnh vực

Những h hăn, vướng mắc và c chế phối hợp để thúc đẩy giải ngân

nguồn vốn ODA

Bên cạnh những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô từ các dự án ODA đ và đang triển khai như đề cập ở trên, việc sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian qua cũng ộc lộ một số hạn chế, làm giảm hiệu quả sử dụng của nguồn vốn này.

Sẽ tốt hơn nếu các dự án ODA được đưa vào sử dụng đúng tiến độ. Mức độ giải ngân các dự án ODA là khác nhau, nhưng nhìn chung việc giải ngân các dự án ODA có quy mô lớn chưa đạt được yêu cầu, tỷ lệ giải ngân còn thấp, mới chỉ đạt khoảng 31,79% so với giá trị đ ký Hiệp định (1.060,7 triệu USD/3.336,7 triệu USD). Thời gian chuẩn ị dự án, ao gồm từ khâu lập danh mục đề xuất tài trợ đến khi dự án được ký kết với nhà tài trợ thường kéo dài, ình quân 2-3 năm, nhiều trường hợp đến 4-5 năm, làm ảnh hưởng đến chất lượng và t nh đồng ộ của dự án, chậm thực hiện các mục tiêu đ t ra, phần nào đ hạn chế việc phát huy hiệu quả của dự án. Một trong những nguyên nhân ch nh dẫn đến sự chậm trễ là do t nh phức tạp, khó khăn trong công tác GPMB và tái định cư; các văn ản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA còn thiếu t nh đồng ộ, nhất quán. Nghị định số 38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các nguồn vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ mới được an hành vào ngày 23/4/2013, tuy nhiên đ ộc lộ ngay những ất cập; quy trình thủ tục trong nước cũng như của các nhà tài trợ còn phức tạp và có sự khác iệt, đ c iệt đối với các dự án đồng tài trợ. Ngoài ra, vấn đề năng lực của một số Ban quản lý dự án còn hạn chế, thiếu t nh chuyên nghiệp, đ c iệt là đối với những dự án ODA có sử dụng kỹ thuật công nghệ cao; sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình triển khai dự án còn chưa kịp thời và hiệu quả.

140

Một vấn đề đang được quan tâm rất nhiều là sự tiếp cận của khu vực tư nhân đến nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đ i khác. Cho đến nay, m c dù đ có những quy định cho phép khu vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đ i khác, tuy nhiên việc áp dụng trên thực tế lại rất phức tạp và đến nay chưa có dự án nào thành công thành công. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tham mưu để trình Ch nh phủ sửa đổi ổ sung Nghị định 38/2013/NĐ-CP, theo đó có hướng dẫn cụ thể thủ tục tiếp cận nguồn vốn ODA cho khu vực tư nhân;

Riêng đối với các dự án đường sắt đô thị lần đầu tiên triển khai tại Việt Nam nên quy chuẩn, tiêu chuẩn thiết kế chưa đầy đủ nên mất nhiều thời gian thỏa thuận, phê duyệt; việc thiết kế, lập quy hoạch tổng m t bằng tuyến và các ga trong khu vực phố cổ, đông dân nên phức tạp mất nhiều thời gian xin ý kiến góp ý, tham vấn trong quá trình thẩm định, phê duyệt của nhiều cấp, nhiều ngành. M t khác,tại thời điểm lập dự án, quy hoạch chi tiết về hệ thống đường sắt đô thị chưa có, do vậy việc xác định hướng tuyến, vị trí các ga ngầm và nổi trong báo cáo khả thi chưa thực sự phù hợp với quy hoạch được duyệt sau thời điểm lập báo cáo khả thi. Do đó phải chỉnh sửa dự án nhiều lần cho phù hợp với quy hoạch và quy mô thay đổi của dự án. Việc xây dựng khung tiêu chuẩn thẻ vé cho dự án cũng mất nhiều thời gian do phải nghiên cứu, lựa chọn một tiêu chuẩn đảm bảo phù hợp với các công nghệ khác nhau của các nhà tài trợ và phù hợp với các loại hình giao thông công cộng của thành phố Hà Nội.

Xác định nguồn vốn ODA là một nguồn hỗ trợ quý báu trong phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội của Thủ đô, đ c biệt đối với việc triển khai các dự án quan trọng, có yêu cầu vốn lớn, trong thời gian qua, thành phố Hà Nội đ phối hợp ch t chẽ với các bộ, ngành cũng như các nhà tài trợ để kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc và đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án ODA ở Hà Nội. Một trong những giải pháp là tập trung chỉ đạo quyết liệt để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đẩy nhanh tiến độ, thường xuyên phối hợp giữa các cấp của Thành phố với các Bộ, ngành liên quan và với các nhà tài trợ để kiểm điểm lại tiến độ, rà soát các khó khăn vướng mắc đối với từng dự án.

Đ c biệt đối với những dự án ODA trọng điểm có sự chậm chễ nhiều từ những năm giai đoạn trước như dự án “Phát triển giao thông đô thị Hà Nội” (vay vốn WB) thì giữa UBND thành phố Hà Nội và Ngân hàng Thế giới thường xuyên có cuộc họp ở cấp l nh đạo 2 ên để cùng đề ra giải pháp đẩy nhanh tiến độ. Việc phối hợp ch t chẽ này đ được WB ghi nhận bằng việc cho phép gia hạn thời gian Hiệp định thêm 18 tháng (đến tháng 6/2015) để hoàn thành dự án theo đúng mục tiêu đề ra. Tương tự như ở dự án “Tuyến đường sắt đô thị th điểm thành phố Hà Nội (Tuyến 3), đoạn Nhổn – Ga Hà Nội”, giữa UBND thành phố Hà Nội và các nhà đồng tài trợ (Chính phủ Pháp, AFD, ADB và EIB) hàng quý đều có cuộc họp để cùng phối

141

hợp xem xét, đề xuất các giải pháp thúc đẩy tiến độ dự án. Đến nay, về cơ bản tiến độ các dự án này đ được cải thiện đáng kể và kiểm soát được tiến độ đ t ra.

Nhìn chung, nếu có sự phối hợp ch t chẽ, thường xuyên giữa các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ thì các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các dự án ODA sẽ sớm được giải quyết và cùng đồng thuận.

Định hướng sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian tới và những giải

pháp

Trong những năm tới Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, theo đó ch nh sách, quy mô và điều kiện cung cấp ODA cho Việt Nam của các nhà nhà tài trợ sẽ thay đổi, theo đó nguồn vốn ODA ưu đ i giảm dần, đồng thời vốn vay ODA kém ưu đ i sẽ tăng hơn.

Sự thay đổi được bắt đầu từ chính sách của các nhà tài trợ: Theo tập quán viện trợ phát triển quốc tế, viện trợ với những điều kiện ưu đ i dành cho các nước nghèo, chậm phát triển, thu nhập thấp. Trước kia khi Việt Nam là nước thu nhập thấp, chúng ta đ được hưởng những ưu đ i của ODA trong thời kỳ 1993 – 2010. Do vậy, sự thay đổi đầu tiên của chính sách viện trợ của các nhà tài trợ đối với Việt Nam dễ nhận thấy là quy mô vốn ODA ưu đ i, ao gồm viện trợ không hoàn lại và vay ưu đ i giảm dần, thay vào đó là những khoản vay kém ưu đ i tiệm cận với mức lãi suất vay thương mại.

Để kịp thời ắt nhịp với những thay đổi trên, một trong những động thái đầu tiên từ Ch nh phủ là an hành Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó đưa ra nguyên tắc việc vay nước ngoài của Ch nh phủ trong tương lai sẽ giảm dần, tăng vay trong nước.

Vấn đề đ t ra là việc xác định các lĩnh vực ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp theo của Thành phố cần phải được tính toán cân nhắc kỹ, đảm bảo việc đầu tư sử dụng nguồn vốn ODA được hiệu quả và có khả năng trả nợ vốn vay, đảm bảo phù hợp với các lĩnh vực ưu tiên được xác định trong Đề án của Chính phủ, đồng thời cần phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050; và các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và 5 năm 2011 - 2015 của Thành phố.

Tại Quyết số 832/QĐ-UBND ngày 6/2/2014, UBND Thành phố đ phê duyệt Đề án “Thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp theo của thành phố

142

Hà Nội”, theo đó trong những năm tới, thành phố Hà Nội ưu tiên tập trung triển khai đẩy nhanh tiến độ các dự án theo đúng tiến độ Hiệp định đ ký kết để đảm bảo hoàn thành các dự án đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả đầu tư. Đ c biệt cần đẩy nhanh công tác GPMB và tiến độ triển khai, giải ngân các dự án trong lĩnh vực: GTĐT nhằm góp phần giải quyết tình trạng ách tắc giao thông, bao gồm: tuyến đường vành đai 2, các tuyến BRT và các nút giao thông; các tuyến đường sắt đô thị Hà Nội: Tuyến số 2 (đoạn Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo) và Tuyến số 3 (đoạn Nhổn – Ga Hà Nội); các dự án đầu tư công trình hạ tầng kỹ thuật nhằm giải quyết môi trường của Thủ đô như: tăng cường năng lực hệ thống thoát nước, các nhà máy xử lý nước thải đô thị và xử lý chất thải rắn tập trung,...

Đồng thời với việc triển khai các dự án chuyển tiếp từ giai đoạn trước sang, thành phố Hà Nội tiếp tục tranh thủ nguồn vốn ODA và các nguồn vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ cho phát triển đô thị và kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, bền vững, hiện đại đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Các lĩnh vực sẽ ưu tiên thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ giai đoạn 2013 - 2015 và những năm tiếp theo, bao gồm: (1) u tiên sử dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đ i khác của các nhà tài trợ cho các dự án đầu tư công có quy mô lớn, tác động mạnh, ảnh hưởng lớn tới sự thay đổi ở những lĩnh vực quan trọng mà khó có khả năng thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân cũng như sử dụng các nguồn vốn vay thương mại khác như: tiếp tục đầu tư xây dựng các tuyến đường sắt đô thị còn lại theo quy hoạch đ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; Xây dựng mới các nhà máy xử lý nước thải tập trung quy mô lớn với công nghệ tiên tiến hiện đại; (2) Sử dụng nguồn vốn ODA và các nguồn vốn vay ưu đ i khác như nguồn vốn bổ trợ để khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật của Thành phố thông qua các mô hình và phương thức đầu tư khác nhau như (như PPP, BOT,…), ao gồm: xây dựng mới và nâng công suất một số nhà máy cấp nước sử dụng nguồn nước m t, đồng thời với việc xây dựng đồng bộ mạng lưới truyền dẫn nước sạch; Xây dựng các nhà máy xử lý nước thải tập trung quy mô lớn; Xây dựng các trung tâm tái chế rác thải, bùn thải,… ; (3) Phát triển nông nghiệp Thủ đô theo hướng phát triển nền nông nghiệp sinh thái, hài hòa và bền vững với môi trường; gắn phát triển nông nghiệp với ngành nghề khác (thủ công nghiệp, du lịch nông thôn, du lịch sinh thái, du lịch làng nghề…); Hỗ trợ thực hiện Chương trình nông thôn mới (giao thông nông thôn, điện nông thôn,…); (4) Hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên để góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; (5) Các dự án nhằm hỗ trợ cải thiện đời sống và sinh kế của người dân địa phương, hỗ trợ giải quyết các vấn đề bức xúc trong quá trình phát triển đô thị hoá nhanh góp phần gải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp

143

phần xoá đói giảm nghèo một cách bền vững,… ; (6) Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, …).

Để triển khai thực hiện các dự án ODA đảm bảo đúng tiến độ cam kết với các nhà tài trợ cũng như nâng cao hiệu quả thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các nguồn vốn vay ưu đ i khác, một số giải pháp, kiến nghị mà thành phố Hà Nội đ t ra hàng đầu cho các cơ quan quản lý nhà nước là hoàn thiện khung khổ pháp lý theo hướng tiếp cận tới các chuẩn mực quốc tế nhằm quản lý đồng bộ. Cụ thể: Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, ngành liên quan tiến hành nghiên cứu sửa đổi Nghị định 38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng ODA để đảm bảo t nh đồng bộ và phù hợp với các Luật mới ban hành; cần có hướng dẫn giám sát, theo dõi đánh giá dự án ODA theo một quy chuẩn chung trên cả nước; thiết lập hệ thống dữ liệu chính thức về các chương trình, dự án ODA phục vụ công tác theo dõi, đánh giá và phân t ch việc sử dụng nguồn vốn này. Xây dựng cơ chế đảm bảo việc theo dõi và giám sát từ phía cộng đồng, góp phần thực hiện các biện pháp phòng chống thất thoát, lãng phí và tham nhũng. Đồng thời rà soát, sửa đổi hệ thống các văn ản pháp quy trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường theo hướng phù hợp với quy định về quản lý nguồn vốn ODA và hài hòa thủ tục với các nhà tài trợ.

Đồng thời, Bộ Giao thông vận tải và các Bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu hoàn thiện hệ thống văn ản quy phạm pháp luật về đường sắt đô thị và xây dựng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật và định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn khung thẻ vé để làm cơ sở cho việc quản lý và triển khai các dự án đường sắt đô thị; hướng dẫn các địa phương hoàn thành quy hoạch chi tiết hệ thống đường sắt đô thị để đảm bảo công tác quy hoạch đi trước, tránh phải điều chỉnh trong quá trình triển khai thực hiện dự án đường sắt đô thị; Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Bộ Giao thông Vận tải với UBND thành phố Hà Nội và UBND thành phố Hồ Chí Minh trong việc triển khai dự án đường sắt đô thị để kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc (đ c biệt là các vấn đề liên quan đến công tác thi công, giải phóng m t bằng, tái định cư).

Năng lực thực hiện dự án vẫn luôn là điểm yếu của phía Việt Nam, đ c biệt là những dự án ODA có quy mô lớn, kỹ thuật công nghệ cao. Như hiện nay thành phố Hà nội đang triển khai dự án xây dựng các tuyến đường sắt đô thị có quy mô lớn, lần đầu tiên triển khai thực hiện ở Hà Nội, hầu hết các cán bộ của phía Việt Nam đều chưa có kinh nghiệm, trong khi đó các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về đường sắt đô thị, các hướng dẫn liên quan đến chính sách bồi thường, hỗ trợ các chủ sở hữu công trình trên m t đất khi có công trình ngầm xây dựng đi qua còn chưa hoàn chỉnh. Do vậy, trước tiên bản thân các ban quản lý dự án phải chủ động củng cố và kiện toàn cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động để đáp ứng các yêu cầu công việc trong các giai đoạn của dự án. Thậm ch đối với những Ban quản lý dự án hoạt động kém hiệu

144

quả, có thể mạnh dạn giải thể ho c sát nhập để tạo thành những đơn vị có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu và có tính chuyên nghiệp trong quản lý các dự án ODA của Thành phố.

Khi xu hướng tài trợ trong thời gian tới là cắt giảm và dần xóa bỏ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại và các khoản vốn vay ưu đ i, chuyển sang các kênh tín dụng mới có các điều kiện cho vay kém ưu đ i hơn, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay này đòi hỏi người thụ hưởng phải có trình độ cả về khoa học kỹ thuật, tài ch nh, năng lực quản lý và thực hiện dự án trước khi quyết định vay vốn ODA./.

145

HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN TƯ NH N TRONG PHÁT

TRIỂN KINH TẾ -XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2006-2015: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NH N – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

TS. Phạm Ngọc Long, Ủy viên BCH Hiệp hội DNNVV VN, Viện Trưởng Viện KH QT DNNVV

Khu vực kinh tế tư nhân (chủ yếu là các DNNVV, gồm 05 loại h nh doanh nghiệp là DN tư nhân, Cty TNHH tư nhân, Cty hợp danh, Cty CP có vốn NN và Cty CP ko có vốn NN), đều được Pháp luật tạo điều kiện đầu tư, kinh doanh ình đẳng với các khu vực kinh tế khác. Vị thế có thể là “trụ cột” kinh tế hay “động lực” tăng trưởng kinh tế của khu vực này cần được xem xét làm rõ thêm từ góc độ huy động và sử dụng các nguồn vốn tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế - x hội nước ta giai đoạn 2006-2015. Tham luận gồm 03 phần : (i) Tổng quan huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân giai đoạn 2006-2015; (ii) Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân đóng góp phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2006-2015; (iii) Kiến nghị 01 số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân.

I- Tổng quan

1. Tổng quan về khu vực kinh tế tư nhân giai đoạn 2006 đến nay ...

Theo số liệu điều tra hàng năm về doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê (GSO), số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân (gồm có 05 loại hình đ nêu) của cả nước là khoảng 458.656 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm 97,5% số doanh nghiệp cả nước, thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế chiếm ình quân 35,8% so GDP, tạo hơn 60% việc làm ... Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vị tr của mình, nhiều thương hiệu có chỗ đứng khá vững chắc ở thị trường trong, ngoài nước, giữ vai trò quan trọng “xung k ch” giải quyết phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế-x hội, góp phần quan trọng khôi phục, tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và an sinh x hội tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu ...

Đồ thị 1 : Số lượng DNTN và tốc độ tăng giai đoạn 2006-2014

458.656

500

405.891

362.402

400

312.416

268.831

300

291.43

226.676

Số lượng DN

246.4

183.246

N D ố S

209.28

200

140.627

Tốc độ tăng (%)

166.62

117.173

129.43

100

93.45

56.39

20.01

11.59

0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Nguồn : GSO/SISME

146

Các doanh nghiệp khu vực tư nhân có m t hầu khắp các lĩnh vực, ngành, hàng kinh tế, tập trung chủ yếu án uôn, án lẻ (chiếm 44,51%), tiếp đến là lĩnh vực chế iến, chế tạo (17,15%). Kể cả 01 số lĩnh vực vốn là l nh địa độc quyền khu vực DNNN như điện, cung cấp nước, gas, kh đốt, khai khoáng, thông tin, truyền thông ho c đòi hỏi vốn lớn và hạn chế số lượng như tài ch nh, ngân hàng, ảo hiểm có khoảng 1% (trừ thông tin, truyền thông là 2,13%) doanh nghiệp tư nhân có m t hoạt động. Các hoạt động dịch vụ công như giáo dục, y tế và các ngành khác cũng chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động. Điều này cho thấy dư địa cho sự tiếp cận các cơ hội kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân còn rất lớn.

Bảng 1 : Tỷ lệ số lượng DN tư nh n ph n theo ngành inh tế năm 2012

Ngành

Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản Khai khoáng Chế iến, Chế tạo Điện, ga, nước, kh đốt Xây dựng và Bất động sản Bán uôn, án lẻ Kinh doanh khách sạn và dịch vụ ăn uống Thông tin và truyền thông Tài ch nh, Ngân hàng, Bảo hiểm Khoa học Kỹ thuật Hành ch nh và dịch vụ công Giáo dục và Y tế Ngành khác Tỷ lệ (% 3,37 0,98 17,15 0,99 3,3 6,59 4,27 2,13 0,9 9,38 3,69 1,05 1,7

Nguồn: Tính toán từ điều tra doanh nghiệp năm 2013 của GSO

Xét theo loại hình doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu là công ty TNHH. T nh đến thời điểm 31/12/2012, có đến 63% là công ty TNHH, tiếp đến là công ty cổ phần, ao gồm cổ phần có vốn nhà nước nhưng Nhà nước không giữ cổ phần chi phối là 22%. Chỉ có 14% là doanh nghiệp tư nhân và chưa đến 1% là công ty hợp danh. Xuất phát từ t nh chất chịu trách nhiệm hữu hạn ho c vô hạn trong phạm vi vốn góp của cổ đông, người góp vốn ho c chủ doanh nghiệp, đa số nhà đầu tư lựa chọn hình thức công ty cổ phần ho c công ty TNHH khi thành lập doanh nghiệp.

Xét về qui mô, hầu hết doanh nghiệp khu vực tư nhân (cụ thể là doanh nghiệp ngoài nhà nước) có qui mô nhỏ và vừa (khoảng 99%) xếp theo các tiêu ch của Nghị định 56/NĐ-CP/2009; trong đó khoảng 67,7% là doanh nghiệp siêu nhỏ có không quá

147

10 lao động. Số doanh nghiệp nhỏ chiếm khoảng 28% và số doanh nghiệp vừa là 3,3%. Chỉ có 1% số doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động là doanh nghiệp lớn với số lao động trên 250 tỷ và vốn điều lệ từ 100 tỷ trở lên.

Số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2007 đến 2013 qui mô doanh nghiệp tư nhân được thành lập có xu hướng nhỏ đi với sự tăng lên của doanh nghiệp siêu nhỏ, sự sụt giảm của các doanh nghiệp có qui mô lớn, vừa và nhỏ. Chẳng hạn năm 2007, tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ và 58,7% thì đến năm 2012 tỷ lệ này xấp xỉ 65%. Với qui mô siêu nhỏ và nhỏ là chủ yếu, các doanh nghiệp tư nhân g p nhiều khó khăn trong việc huy động và sử dụng các nguồn lực, đ c iệt là vốn đầu tư trung dài hạn.

2. Tình hình huy động và sử dụng nguồn vốn tư nh n

Số liệu thống kê cho thấy nguồn vốn khu vực tư nhân có tốc độ tăng trưởng ình quân 155%/năm, gấp 13,96 lần trong vòng 09 năm . Xét về cơ cấu loại hình doanh nghiệp trong nguồn vốn, lấy năm 2011 là 6.875.014 tỷ, thứ tự lần lượt là: Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 3.585.198 tỷ (52,15%); Công ty TNHH tư nhân 1.910.666 tỷ (27,8%), Công ty cổ phần có vốn Nhà nước 1.173.167 tỷ (17,06%), Doanh nghiệp tư nhân 205.527 tỷ (2,99%), Công ty hợp danh 456 tỷ (0,007%). Xét theo cơ cấu số lượng doanh nghiệp hoạt động năm 2011 là 312.416 doanh nghiệp, lần lượt tương ứng huy động vốn : Công ty cổ phần không có vốn Nhà nước 21,86% ( đứng thứ 01 huy động vốn, thứ 02 về số doanh nghiệp); Công ty TNHH tư nhân 61,86% (đứng thứ 02 huy động vốn, thứ 01 về số doanh nghiệp); Công ty cổ phần có vốn Nhà nước 0,56% (đứng thứ 03 huy động vốn, thứ 04 về số doanh nghiệp); Doanh nghiệp tư nhân 15,66% (đứng thứ 04 huy động vốn, thứ 03 về số lượng doanh nghiệp); Công ty hợp danh 0,06% (đứng cuối cùng cả 02 tiêu ch ).

2.99%

0.06%

Cty CP ko có vốn NN 21.86%

Đồ thị 2 : C cấu nguồn vốn tư nhân

17.06%

Cty TNHH tư nhân 61.86%

Cty CP có vốn NN 0.56%

52.15%

Doanh nghiệp tư nhân 15.56%

27.80%

Cty hợp danh 0.06%

Nguồn : Tính toán của SISME theo nguồn GSO

148

0.06% Đồ thị 3 : C cấu doanh nghiệp tư nh n

0.56%

Cty CP ko có vốn NN

15.56%

21.86%

Cty TNHH tư nhân

Cty CP có vốn NN

Doanh nghiệp tư nhân

61.86%

Cty hợp danh

Nguồn : Tính toán của SISME theo nguồn GSO

Xét về cơ cấu lĩnh vực ngành nghề trong nguồn vốn khu vực tư nhân lấy năm 2011 để minh họa với tổng nguồn là 7.619.434 tỷ đồng, tương ứng 312.416 doanh nghiệp hoạt động, hoạt động tài ch nh, ngân hàng và ảo hiểm chỉ chiếm 0,45% số doanh nghiệp có lượng vốn huy động 29,83%, công nghiệp và xây dựng chiếm 30,11% số lượng doanh nghiệp có lượng vốn 27,77%, công nghiệp chế iến, chế tạo chiếm 14,96% doanh nghiệp có lượng vốn 15,08%, kinh doanh ất động sản chỉ chiếm 2,07% doanh nghiệp đạt mức 9,79%, thấp nhất là nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 0,89% số doanh nghiệp chỉ đạt cơ cấu 0,56% nguồn chung. T nh riêng 05 ngành này đ chiếm 83,03% tổng nguồn vốn chung.

Đồ thị 4 : C cấu nguồn vốn theo lĩnh vực ngành năm 2011

29.83

27.77

%

16.97

15.08

: ệ l

9.79

ỷ T

0.56

35 30 25 20 15 10 5 0

NN, LN, TS

CN, XD

Lĩnh vực khác

Kinh doanh BĐS

CN chế iến, chế tạo

TC, NH và ảo hiểm

Nguồn : GSO

Xét về cơ cấu sử dụng vốn có 02 cấu thành chủ yếu là vốn đầu tư phát triển và vốn hoạt động. Giai đoạn 2006 -2014, phần vốn dành cho TSCD và đầu tư dài hạn tăng trưởng ình quân 214,4%/năm (gấp 28,3 lần), vốn đầu tư phát triển tăng ình quân hàng năm 34%, gấp 3,04 lần trong vòng 09 năm. Chênh lệch huy động/sử dụng vốn là phần dành cho vốn lưu động phục vụ SXKD thông thường (tỷ trọng ình quân dưới 50%/năm). Theo đó cho thấy tỷ lệ vốn dành cho đầu tư phát triển ình quân tăng 56,43%/năm là khá cao và sự chủ động t ch cực về huy động và sử dụng vốn của khu vực này. Sẽ càng rõ ý nghĩa vấn đề này nếu iết rằng trong tổng nguồn vốn tư nhân

149

huy động được phần vốn t n dụng ngân hàng chỉ chiếm khoảng 15,68% tổng nguồn năm 2012 (9.365.753 tỷ), tương ứng khoảng 50% dư nợ t n dụng đến 31/12/2012 là 2.936.800 tỷ đồng (Theo Tổng hợp từ báo cáo của NHNN). Bởi lẽ ở nhiều thời điểm tiếp cận vay vốn ngân hàng vẫn luôn là trở ngại đối với khu vực dân danh nói chung, trong đó chủ yếu là khu vực kinh tế tư nhân, nhất là vốn cho đầu tư trung, dài hạn

Bảng 2: Huy động và sử dụng nguồn vốn hu vực tư nh n

Năm Nguồn vốn

Chênh lệch huy động sử dụng

c đến 31 12 (tỷ đồng Vốn đầu tư phát triển giá hiện hành (tỷ đồng Tỷ lệ đầu tư phát triển (%)

964.532 1797.347 2679.991 4158.318 6214.181 7619.434 9365.753 11707.192 13463.270 TSCĐ và đầu tư dài hạn đến 31 12 (tỷ đồng 291.872 583.326 941.196 1269.028 2129.722 2151.045 3441.672 5162.508 8260.012 154.000 204.700 217.000 240.100 299.500 356.000 385.000 412.500 468.500 491.160 827.524 1135.595 2045.990 2941.659 3969.589 4040.281 4275.884 3285.462 49,07 53,96 57,63 50,79 52,66 47,90 56,86 63,47 75,60

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 (exp)

Nguồn : GSO/SISME

So sánh cùng giai đoạn 2006 – 2014, sử dụng vốn đầu tư giữa khu vực tư nhân (còn gọi là khu vực NNN) tăng 3,04 lần, KVNN tăng 2,63 lần, FDI tăng 4,04 lần. Xu hướng chung tổng vốn thực hiện đầu tư so % GDP giảm 9% trong vòng 9 năm. Đến năm 2014 trong tỷ trọng vốn đầu tư chiếm 31% GDP thì phần đóng góp t nh được của khu vực kinh tế tư nhân là 11,9%, khu vực kinh tế nhà nước là 12,37%; khu vực FDI là 6,73% (xem bảng 3);

Bảng 3: Tư ng quan sử dụng nguồn vốn tư nh n so hu vực hác

Đơn vị : tỷ đồng

Chia ra

Tổng số KT NNN Khu vực FDI

KT Nhà nước Vốn đầu tư thực hiện so % GDP

404.700 532.100 616.700 708.800 185.100 198.000 209.000 287.500 154.000 204.700 217.000 240.100 38,1 42,7 38,2 39,2 65.600 129.400 190.700 181.200 2006 2007 2008 2009

150

830.300 924.500 1010.100 316.300 341.600 406.500 299.500 356.000 385.000 214.500 226.900 218.600 38,5 33,3 31,1 2010 2011 2012

1094.500 1220.700 441.900 486.800 412.500 468.500 240.100 265.400 30,5 31,0 2013 2014

Nguồn : GSO/SISME

Xét về cơ cấu vốn đầu tư toàn x hội, nguồn vốn tư nhân không chỉ luôn chiếm vị tr thứ 02 giữa 03 khu vực, mà còn có xu hướng tăng nhẹ từ mức 22% năm 2000 lên 38,4% năm 2014, trong khi khu vực FDI lại giảm rõ rệt từ mức cao nhất 30,9% năm 2008 về mức 21,7% năm 2015 và khu vực KT NN giảm từ 47% năm 2006 về khoảng 40% năm 2014. Ngay những giai đoạn kinh tế khó khăn (2008-2009 và 2011- 2013) thì vốn đầu tư khu vực tư nhân vẫn tăng cho thấy t nh ổn định, ền vững của khu vực này.

Đồ thị 5 : C cấu vốn đầu tư giữa inh tế tư nh n và các hu vực hác

50

38.1

36.1

38.5

38.5

38.4

38.1

37.7

40

35.2

33.9

30.9

30

25.8

24.3

25.6

24.5

%

21.9

21.6

21.7

ệ l

16.2

20

ỷ T

10

0

2006

2007

2011

2012

2013

2014

2010 KT NN

FDI

2008 2009 KT Tư nhân

Nguồn : GSO

3. Đ ng g p của hu vực inh tế tư nh n trong phát triển inh tế

Theo các nguồn số liệu thống kê, so với khu vực KTNN và FDI, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 40% GDP cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa án lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa vận chuyển88. Trong thời gian tới, theo dự báo của GSO, khu vực kinh tế tư nhân vẫn đóng góp khoảng 30% ngân sách và khoảng 40% GDP của cả nước.

88 Nguồn: PGS, TS Đào Duy Huân, Bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2012-2014, Trường Đại học KT Tài chính TP HCM

3.1. Tỷ lệ đ ng g p vào GDP

151

Khu vực kinh tế ngoài nhà nước (gồm các doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình kinh doanh cá thể, hộ nông nghiệp) đóng góp cho tăng trưởng kinh tế khoảng 50% tổng GDP. Khu vực FDI dù được hưởng ngày càng nhiều ưu đ i do cơ chế, ch nh sách khuyến kh ch đầu tư nước ngoài nhưng tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng có phần hạn chế, hầu như không có nhiều thay đổi “đột iến” như kỳ vọng mà chỉ xuay quanh 18% GDP giai đoạn 2005-2013.

Đồ thị 6 : C cấu GDP theo đ ng g p từng hu vực inh tế

120

100

80

%

60

ệ l

ỷ T

40

20

0

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

FDI

KT tư nhân KT Nhà nước

Nguồn: GSO

3.2. Tỷ lệ đ ng g p vào tạo c ng ăn việc làm

Khu vực tư nhân tạo ra số việc làm rất ấn tượng, góp phần không nhỏ tái cấu trúc nền kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, đ c iệt tạo việc làm mới cho những đối tượng ị giảm iên chế ho c mất việc làm do quá trình tinh giản ộ máy hành ch nh, cải cách doanh nghiệp nhà nước hay dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn. Các doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò tạo thêm 1,2 triệu việc làm mỗi năm và giúp duy trì tỷ lệ thất nghiệp thấp ở Việt Nam trong thời gian qua.

Đồ thị 7 : Tỷ lệ lao động làm việc trong các hu vực doanh nghiệp năm 2013 (%

25

DN tư nhân

63

DNNN

12

FDI

Nguồn: Tính toán từ điều tra doanh nghiệp năm 2013 của GSO

3.3. Cải thiện thu nhập cho người lao động :

Mức thu nhập cho người lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước được cải thiện đáng kể. T nh trung ình, mức thu nhập ình quân hàng năm của người lao

152

động năm 2005 khoảng 25,4 triệu đồng/người/năm (theo giá năm 2010) đ tăng lên 42,3 triệu đồng/người/năm 2014. Kể từ 2005 đến 2014, lương người lao động khu vực tư nhân không ngừng tăng t nh theo giá 2010, cụ thể là 1,66 lần (2014/2005). Tốc độ tăng lương này cao hơn hẳn so khu vực DNNN (1,26 lần) và thấp hơn khu vực FDI trong cùng giai đoạn (1,68 lần). Khu vực ngoài nhà nước chủ yếu là các DNNVV, qui mô vốn nhỏ, kém lợi thế nhiều m t và phải đối diện các chi ph đầu vào không ngừng tăng mà có được tốc độ tăng lương, cải thiện đời sống người lao động đáng kh ch lệ.

Đồ thị 8 : Lư ng bình qu n năm theo giá 2010 trong các hu vực doanh nghiệp giai đoạn 2005-2014

120

100

80

60

g n ồ đ u ệ i r T

42.3

41.3

40

40

39.5

38.5

34.5

31.8

31.5

30

25.5

20

0

2005

2006

2007

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2008 DNTN

DNNN

FDI

Nguồn : Tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO;

II. Hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn tư nh n

Hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân được phân t ch rõ hơn ở 01 số

tiêu ch có minh họa số liệu trong phần này.

1. Giá trị sản xuất và qui m vốn CSH bình qu n

Đồ thị 9 và 10 cho iết qui mô tài sản ình quân (vốn CSH) và giá trị sản xuất/lao động ình quân hàng năm có so sánh giữa khu vực tư nhân và 02 khu vực còn lại.

Xét theo qui mô vốn CSH, khu vực DNTN thấp nhất trong 03 khu vực, chỉ ằng 1/8 DNNN, 1/14 DN FDI. Giá trị sản xuất (gồm CN, XD)/lao động ình quân của DNTN tuy chỉ ằng khoảng 1/2 DNNN, 1/5 DN FDI nhưng tăng trưởng khá ổn định. Đ c iệt từ 2012 đến nay có xu hướng tăng gần sát với DNNN.

Như vậy có thể thấy với qui mô vốn nhỏ hơn nhiều nhưng hiệu quả sử dụng vốn của các DNNNN không hề thua kém DNNN và DN FDI, thậm ch có khả năng ắt kịp khi có cơ hội và điều kiện thuận lợi.

153

Đồ thị 9 : Vốn CSH bình qu n 01 doanh nghiệp so sánh giữa các hu vực

200

150

DNTN

100

DNNN

g n ồ đ ỷ T

FDI

50

0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Nguồn : Tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO

Đồ thị 10 : Giá trị sản xuất lao động bình qu n theo hu vực doanh nghiệp

DNTN

DNNN

FDI

g n ồ đ u ệ i r T

900 800 700 600 500 400 300 200 100 0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Nguồn : Tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO

2. Năng suất lao động (doanh thu lao động

Trong giai đoạn 2006-2014 dù có qui mô nhỏ và yếu thế về nguồn vốn, vốn CSH, năng suất lao động (doanh thu/số lao động) trong các DNTN vẫn cao hơn DN FDI (2007-2011) và giảm nhẹ sau đó đến nay, trong khi DN FDI xu hướng tăng liên tục. Các DNNN có năng suất lao động cao gấp ình quân 1,8 lần so DNTN giai đoạn 2006-2010, từ 2010 giảm chỉ còn cao hơn 1,2-1,3 lần so DN FDI và DNTN .

Đồ thị 11: Năng suất lao động trong các hu vực doanh nghiệp

1400

1200

1000

DNTN

800

DNNN

600

FDI

400

200

0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Nguồn : Tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO

154

3. Doanh thu trên tổng tài sản (ROA

Doanh thu trên nguồn vốn (t nh đến 31/12 hàng năm) phản ánh hiệu suất tài sản/đồng vốn. Ngoại trừ năm 2006 DNTN có tỷ lệ cao hơn DN FDI còn luôn ở mức thấp hơn khoảng 1,35-1,5 lần so DN FDI và DNNN. Từ năm 2007 đường iểu diễn tỷ lệ giữa DNTN và DNNN có cùng xu hướng tăng/giảm là chủ yếu và xoay quanh hệ số 1,0. Từ năm 2013 tỷ lệ này của DNTN có xu hướng tăng nhẹ. Trong suốt giai đoạn tỷ lệ của DN FDI luôn ở xu hướng tăng ổn định ở mức cao trên 1,4. Nguyên nhân của hiện tượng này là do tác động kéo dài của suy thoái kinh tế và thời kỳ ất ổn kinh tế vĩ mô (2009-2012) đối với khu vực kinh tế tư nhân. Trong khi khu vực FDI t chịu tác động và DNNN vẫn nhận được nhiều sự hỗ trợ từ Ch nh phủ.

Đồ thị 12 : Doanh thu trên nguồn vốn giữa các hu vực DN

1.6

1.4

1.2

1

DNTN

DNNN

0.8

FDI

0.6

0.4

0.2

0

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

Nguồn : Tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO

4. Hệ số nợ (đ n bẩy tài chính)

Hệ số nợ trên tổng tài sản hay còn gọi là hệ số đòn ẩy tài ch nh cho iết cơ cấu vay trong tổng nguồn vốn SXKD của từng khu vực doanh nghiệp. Chỉ số này cũng gián tiếp cho iết mức độ “thâm dụng” về huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân.

Đồ thị 13 cho thấy DNNNN có hệ số nợ thấp nhất so 02 khu vực còn lại. Năm 2011 hệ số cả 03 khu vực đồng loạt giảm về mức thấp nhất (0,02-0,05) sau đó tăng nhanh trở lại vào năm 2012. Đây có thể là hệ quả của ch nh sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát cao. Năm 2011-2012, m t ằng l i suất cũng tăng cao, hầu hết các doanh nghiệp rơi vào nợ ngân hàng nhiều, chi ph tài ch nh lớn, vòng xoáy t n dụng k ch hoạt hệ số nợ tăng nhanh trở lại.

155

Đồ thị 13 : Hệ số đ n bẩy tài ch nh trong các hu vực DN

2

1.8

1.6

1.4

FDI

1.2

DNNN

1

DNTN

0.8

0.6

0.4

0.2

0

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Nguồn : Tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO

Trong suốt giai đoạn 2006-2013 các DNTN sử dụng hệ số đòn ẩy thấp có thể xuất phát từ qui mô “nhỏ hóa” như đ đề cập ở các phần trước, chủ yếu kinh doanh ằng vốn tự có (vốn CSH). Tuy nhiên, đây cũng phản ánh phần nào hệ quả của việc khó tiếp cận t n dụng của các DNTN (chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa).

5. 03 chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn tư nh n

Dựa trên cơ sở dữ liệu của GSO có thể đánh giá sâu hơn về hiệu quả sử dụng

nguồn vốn tư nhân giai đoạn 2006-2014.

- So sánh hiệu quả giữa 03 khu vực, lần lượt KVNN tỷ lệ nộp NS BQ/doanh thu là 7%, ROA BQ là 3,3%; ROT BQ là 5,9%; KV FDI tỷ lệ nộp NS BQ/doanh thu là 9,65% có xu hướng giảm nhẹ; ROA BQ là 7,4%; ROT BQ là 8,9%; KVTN tỷ lệ nộp NS BQ/doanh thu là 3,3% xu hướng giảm; ROA BQ là 1,65% xu hướng giảm; ROT BQ là 2% xu hướng đi ngang;

- Mức thâm dụng cao nổi trội về nguồn vốn đầu tư của KVNN so KV FDI nhưng hiệu quả về tỷ lệ nộp NS, ROA, ROT lần lượt thấp hơn hẳn (7%/9,65%; 3,3%/7,4%; 5,9%/8,9%). Trong khi đó KVTN có mức tăng nguồn vốn đầu tư đứng thứ 02 là 3 lần thì tỷ lệ nộp NS, ROA, ROT đều kém hơn hẳn so 02 khu vực đ nêu (3,3%/so 7%; 9,65%; 1,65%/so 3,3%;7,4% và 2%/so 5,9%;8,9%);

Bảng 4 : Hiệu quả sử dụng vốn của hu vực tư nh n so sánh các hu vực hác

Tỷ suất lợi nhuận (%

Tỷ lệ nộp NSNN trên doanh thu thuần (%) Trên vốn SX (ROA) Trên doanh thu (ROT)

156

Nguồn : Tính toán của SISME theo nguồn số liệu GSO năm 2014

1. KTTN 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2. KV DNNN 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 3. KV FDI 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 3,0 3,5 3,1 3,3 4,0 3,0 3,5 3,2 3,0 7,3 7,3 6,4 8,5 7,1 6,4 6,8 6,9 6,5 14,1 10,4 12,0 10,4 6,9 8,0 7,8 8,2 9,1 2,0 2,6 1,3 1,8 1,9 1,1 1,3 1,5 1,4 3,5 3,6 2,9 3,8 2,9 3,0 3,2 3,5 3,8 13,1 11,7 9,7 9,1 6,6 4,4 3,8 4,0 4,3 1,7 2,8 1,2 2,3 2,7 1,5 1,8 1,9 2,2 6,1 6,8 5,1 7,9 5,3 5,2 5,3 5,8 6,0 14,2 13,1 10,6 11,0 8,8 5,1 5,3 5,8 6,1

- Ngoại trừ TC, NH và ảo hiểm thuộc lĩnh vực kinh doanh đ c thù nên có qui mô lao động, nguồn vốn, tài sản đầu tư lớn nhất (BQ tăng trên 3 lần), có mức tăng doanh thu ấn tượng 4,6 lần, nhưng về hiệu quả thì trừ ROT có mức BQ tăng ấn tượng 13,2% nhưng ko ổn định và có xu hướng giảm mạnh thì các tỷ lệ nộp NS, ROA ko có nổi trội so các lĩnh vực khác. Lĩnh vực NN, LN và TS; CN và XD, Chế iến, Chế tạo có qui mô lao động, vốn, tài sản không lớn, mức độ tăng vừa phải, hiệu quả về mức tăng doanh thu, tỷ lệ nộp NS, ROA, ROT khá ổn định, lần lượt (2-3 lần; 1,5-3,5%; 2,5-3,5%). Đáng lưu ý tuy doanh thu/lao động lĩnh vực NN, LN và TS còn thấp (chỉ tăng 1,8 lần), qui mô vốn BQ tăng ấn tượng 4,5 lần đưa số doanh nghiệp tuy còn t (cả nước khoảng 3.500 doanh nghiệp) đầu tư lĩnh vực này đạt qui mô trên mức 10 tỷ đồng BQ/doanh nghiệp). Lĩnh vực BĐS có qui mô tăng cao về vốn (hơn 3 lần), về tài

157

sản (4,3 lần), nhưng về doanh thu giảm mạnh (1,67 lần) do ong óng BĐS xì hơi, trong khi đó tỷ lệ nộp NS ở mức khá cao (gần 7 lần) tuy có giảm, ROA khá thấp (1,27%) so với ROT khá cao (10,6%).

6. Mức độ lan tỏa của hu vực tư nh n trong nền inh tế ...

Mức độ lan tỏa về hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân trong nền kinh tế có thể được t nh toán khi sử dụng các ảng cân đối liên ngành (I/O) để đánh giá độ lan tỏa của khu vực kinh tế tư nhân (những ngành có vốn hoạt động chiếm tỷ trọng từ 50% thị phần trở lên) đối với XK, NK, tổng cầu, tổng cung và nền kinh tế. Tương tự như vậy có thể lựa chọn, so sánh ngành tiêu iểu của các khu vực DNNN, DN FDI để xác định lan tỏa ngược, kết nối lẫn nhau. Phương pháp t nh toán dựa hàm mở rộng Keyness-Leontief [1] (X-A.X = C+I+E-M; trong đó X,C,I, E và M là các véc tơ giá trị sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu tùng cuối cùng và đầu tư);

Hệ số lan tỏa (Index of the Power of Dispersion) được iểu diễn : BLi = ∑rij (sử dụng ma trận Leotief). Hệ số lan tỏa = n.BLi/∑BLi; trong đó : rij – các phần tử ma trận Leontief; n – số ngành trong mô hình. Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa liên kết ngược của ngành càng lớn và khi ngành này phát triển nhanh sẽ kéo theo sự tăng trưởng nhanh của toàn ộ các ngành cung ứng (về sản phẩm, dịch vụ) của toàn hệ thống.

Kết quả nghiên cứu theo số liệu năm 2012 của GSO : những ngành mà DNTN chiếm tỷ trọng lớn, như thủy sản (82,6%); chế iến thực phẩm, đồ uống (54,2%); chế iến gỗ và các sản phẩm từ gỗ (79,4%); xây dựng (71,6%); án uôn, án lẻ ngoại trừ xe có động cơ và xe máy (93,2%);

Những ngành mà DN FDI chiếm tỷ trọng lớn : sản xuất máy t nh, điện tử, quang học (93,4%); sản xuất thiết ị điện khác (53,2%); sản xuất MMTB khác (65,4%); sản xuất xe có động cơ rơ móc (53,4%) sản xuất các phương tiện vận tải khác (53,8%)

Bảng 5 : Hệ số lan tỏa inh tế[2] và hệ số lan tỏa nhập hẩu[3]

STT Hệ số lan tỏa nhập hẩu

Ngành Hệ số lan tỏa kinh tế

Ngành doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm tỷ tr ng lớn

Thủy sản

01 02 Chế iến gỗ và các SP 1,050748 1,075274 0,898231 0,975931

03 04 05 1,059081 1,450314 0,758331 0,9882 0,863322 0,820787

từ gỗ Xây dựng Chế iến thực phẩm Bán uôn trừ xe có động cơ và xe máy

Ngành mà doanh nghiệp FDI chiếm tỷ tr ng lớn

158

01 1,35885 1,39978

02 03 1,017728 1,050589 1,306107 1,192396

04 0,90044 1,42778

05 0,97408 1,3183

Nguồn : Tính toán của nhóm nghiên cứu dựa bảng I/O 2007 (cập nhật 2012)

SX máy t nh, thiết ị điện tử và quang học SX thiết ị điện SX máy móc và thiết ị khác SX xe có động cơ, rơ móc và án rơ móc SX các phương tiện vận tải khác

Kết quả cho thấy ngành mà DNNNN chiếm tỷ trọng lớn đều có hệ số lan tỏa cao tới nền kinh tế (trừ ngành án uôn, ngoài trừ xe có động cơ và xe máy). Nếu chú ý đầu tư phát triển sẽ tạo ra độ lan tỏa cao đối với các ngành khác và đối với nền kinh tế. M t khác, hệ số lan tỏa tới nhập khẩu của những ngành này đều nhỏ hơn 1, tức là không kích thích nhập khẩu cao, nếu được phát triển không gây thâm hụt thương mại. Đó đều là những ngành Việt Nam có lợi thế cạnh tranh. Tương tự 01 số ngành hiện nay thu hút FDI chiếm tỷ trọng cao cũng có sự lan tỏa tốt đến nền kinh tế và các ngành khác (hệ số lớn hơn 1). Tuy nhiên, hệ số lan tỏa tới nhập khẩu của những ngành này lại rất cao đều lớn hơn 1. Cho thấy nếu tiếp tục ưu tiên phát triển những ngành này sẽ đối m t tăng thâm hụt thương mại. Đây cũng là thực tế để phát triển những ngành này phải nhập nhiều nguyên phụ liệu, linh kiện để gia công, lắp ráp. Sắp tới sau khi các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (TPP, EVFTA) được ký kết, cần đẩy mạnh liên kết giữa các DNTN và khu vực FDI cùng sự hỗ trợ trợ giúp mạnh mẽ của khu vực DNNN để phát triển công nghiệp phụ trợ, nhằm giảm sự phụ thuộc nhập khẩu các nguyên liệu “đầu vào” cho sản xuất, mới có cơ hội tiếp cận các ưu đ i mở cửa, hội nhập chủ động, t ch cực và sâu rộng mang lại.

Việc phân t ch ảnh hưởng của các nhân tố tổng cầu cuối cùng đến sản xuất và thu nhập cho thấy trong cơ cấu vốn đầu tư hiện nay, FDI là khu vực có ảnh hưởng t ch cực tới sản xuất nhưng lại kém t ch cực đối với thu nhập. Những ngành FDI chiếm tỷ trọng lớn tuy có hệ số lan tỏa tới nền kinh tế tốt nhưng lại k ch th ch mạnh nhập khẩu, phần giá trị gia tăng Việt Nam nhận được chủ yếu vẫn ở khâu gia công với hàm lượng giá trị gia tăng thấp, thâm hụt thương mại lớn và kéo dài luôn là nguy cơ hiện hữu. Khu vực kinh tế tư nhân có độ lan tỏa tới sản xuất và thu nhập đều rất tốt. Nếu khu vực kinh tế tư nhân nhận được ưu đ i đầu tư phát triển phù hợp thì khả năng tạo động lực và k ch th ch cho nền kinh tế phát triển sẽ rất lớn.

159

III. Một số tồn tại, hạn chế về c chế, ch nh sách huyến h ch huy động và

sử dụng nguồn vốn tư nh n

1. Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: Quy định tại điều 14, khoản 01 Luật thuế TNDN năm 2008 và khoản 7-8 điều 1 Luật thuế TNDN số 32/2013 QH 13 sửa đổi, ổ sung có hiệu lực từ 1/1/2014 về đối tượng được áp dụng mức thuế TNDN 10% chỉ có lợi cho DN FDI. Ngoài ra còn có qui định miễn giảm thuế tối đa 04 năm và giảm 50% cho 09 năm tiếp theo đối với “ DN thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đ c biệt khó khăn, khu kinh tế, khu CN cao, lĩnh vực CN cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đ t biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất phần mềm, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực giáo dục-đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường “. Trong thực tế rất khó tìm thấy DNNNN ở Việt Nam được hưởng miễn giảm vượt khung này.

Theo Tạp ch Kinh tế và Dự áo4 tại Bắc Ninh Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam (SEV) tổng vốn đầu tư 670 triệu USD sản xuất điện thoại di động, ngoài được hưởng thuế suất 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án, còn được hưởng ưu đ i miễn 100% (4 năm đầu khi có thu nhập) và giảm 50% (9 năm tiếp theo). Ngoài ra còn được địa phương dành hàng tỷ đồng giải phóng m t ằng và tạo dựng hạ tầng sát hàng rào dự án SEV. Trong khi đó vào tháng 10/2013, Viettel cũng đề nghị áp mức thuế TNDN ưu đ i 10% cho sản phẩm điện thoại di động do Viettel lắp ráp trong nước lại không được Bộ Tài Ch nh chấp nhận. Bản thân Công ty TNHH Nokia Việt Nam, tổng vốn đầutư 302 triệu USD còn có ý kiến khác nhau xếp dự án vào nhóm doanh nghiệp chế xuất hay công nghệ cao, vì thực chất Công ty này chỉ lắp ráp chứ không sản xuất linh kiện hay nghiên cứu phát triển tại Việt Nam để được hưởng ưu đ i theo Giấy chứng nhận đầu tư được xác định chưa rõ tiêu ch khi cấp;

2. Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu: Khoản 6 điều 16 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005 nhất quán miễn thuế nhập khẩu cho các dự án được khuyến kh ch đầu tư theo Luật đầu tư. Về hình thức là có sự ình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Thực tế trong khi doanh nghiệp FDI nhập khẩu hầu hết các MMTB tạo TSCĐ thì doanh nghiệp trong nước, đ c iệt là các doanh nghiệp ngoài nhà nước có quy mô vừa và nhỏ lại mua trực tiếp MMTB tại thị trường nội địa. Vậy là doanh nghiệp FDI được miễn khoản thuế nhập khẩu, còn doanh nghiệp nội địa phải đóng khoản thuế này. Đó là chưa kể nhiều trường hợp ghi vống giá trị MMTB để tăng giá vốn đầu tư, được khấu trừ chi ph khấu hao sau này (01 dạng chuyển giá). Tháng 10/2013, Viettel đề nghị được hưởng ưu đ i thuế nhập khẩu đối với toàn ộ nguyên liệu phụ kiện dùng cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế chế tạo, sản xuất lắp ráp điện thoại di động không phân iệt trong nước đ sản xuất được hay chưa. Đề xuất này ị Bộ Tài ch nh

160

ác ỏ với lý do không so ì với Công ty Samsung Electronics Việt Nam là chế xuất, công nghệ cao mới được hưởng;

3. C chế, ch nh sách hỗ trợ đầu tư: Đến nay dù hạn chế về chi tiêu ngân sách nhưng vẫn có các cơ chế, ch nh sách hỗ trợ đầu tư cho DNNN, tiếp theo là các DN FDI, trong khi luôn “khắt khe”, với khu vực DNNNN, điển hình là tiếp cận sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản, t n dụng, đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ. Hầu hết DNNN đ được giao đất với giá thấp từ trước, có nhiều quyền sử dụng đất ở vị tr đắc địa, theo giá thị trường là khối tài sản lớn. Đây là lợi thế cách iệt lớn so khu vực kinh tế tư nhân, nếu muốn phải ỏ rất nhiều tiền theo m t ằng giá mới để có được m t ằng SXKD. DNNN cũng có lợi thế tiếp cận các nguồn t n dụng dồi dào với chi ph thấp so với các DNNNN. Chẳng may vay vốn làm ăn thua lỗ, nợ xấu lớn như trường hợp Vinashin thì được Ch nh phủ yêu cầu các NHTM khoanh nợ, gi n nợ. Nhiều dự án của DNNN được Ch nh phủ cấp ảo l nh t n dụng, trong khi có dự án qui mô tương tự của tư nhân không ao giờ có chuyện đó. Các doanh nghiệp FDI ngoài hỗ trợ từ công ty mẹ, với ưu thế xuất khẩu cũng dễ dàng tiếp cận vay vốn ngoại tệ, hưởng chi ph thấp so l i suất vay VND. Nên các doanh nghiệp này có chi ph vốn đầu tư và sản xuất kinh doanh hết sức cạnh tranh.

Khu vực DNNN còn được đ c iệt ưu ái trong tiếp cận các nguồn lực là tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản. Vinacomin độc quyền khai thác công nghiệp tất cả các mỏ than của Việt Nam hay apatit Lào Cai, dù hiệu quả hoạt động hiện rất thấp. Luật khoáng sản cũng có qui định cơ chế đấu giá cấp quyền khai thác khoáng sản. Nhà đầu tư phải trả khoản tiền lớn cho công tác thăm dò, thanh toán trước quyền khai thác ... Nên từ 2011 đến nay chưa có mỏ nào được đấu giá và cấp phép khai thác theo qui định này.

IV. Kiến nghị n ng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn tư nh n

1. Tháo gỡ nút thắt cản trở sự phát triển khu vực tư nhân

Khu vực DNNNN đ chứng tỏ vai trò “động lực” phát triển kinh tế hiện nay. Khu vực này chỉ chiếm 38% vốn đầu tư x hội (30% vốn t n dụng), đóng góp 31% xuất khẩu, tạo 51% việc làm ,43,2% GDP. Trong khi DNNN chiếm 40,4% vốn đầu tư x hội, 70% vốn t n dụng, chỉ tạo 32,2% GDP; DN FDI chiếm 22% vốn đầu tư x hội, tạo 68% xuất khẩu, 47% giá trị SXCN, góp 20% GDP. Khu vực kinh tế tập thể với 19.800 HTX kiểu mới chỉ góp 5,05% GDP. Khu vực DNNNN có độ lan tỏa rất tốt và có xu hướng tăng theo thời gian trong phát triển kinh tế, dựa vào sự cải thiện rõ rệt hơn về công nghệ sản xuất, năng suất lao động, hiệu quả vốn đầu tư và năng lực cạnh tranh theo hướng hội nhập.

161

Tuy nhiên, theo nhiều phân t ch đ nêu khu vực DNNNN chưa thực sự được tạo điều kiện để phát triển do có những ất cập nhất định về khung khổ thể chế, pháp lý và ch nh sách. Điều này rất cần kịp thời tháo gỡ tạo cú h ch mạnh mẽ cho cả huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân cho phát triển kinh tế hiện nay.

1.1. Nhận thức của cơ quan quản lý nhà nước và xã hội : Cần thay đổi triệt để sự đánh giá còn “mập mờ” vai trò khu vực DNNNN so các khu vực khác, nhất là khu vực FDI và khu vực DNNN. Đây là cản trở lớn chi phối từ hoạch định chủ trương, ch nh sách đến tổ chức triển khai các chương trình hỗ trợ phát triển các DNNNN (chủ yếu là DNNVV) phần lớn còn thiếu “tâm” và chưa đủ “tầm”. Kết quả lâu nay thực chất vẫn đảm ảo đ c quyền của nhiều DNNN và tạo lợi thế dễ dàng cho DN FDI, làm cho khoảng cách và trình độ phát triển giữa các khu vực ngày càng do ng ra, thậm ch có nơi, có lúc sự phát triển DNNNN như “ốc đảo” trong nền kinh tế. Tâm lý, tâm thế và tâm tư đại ộ phận lao động trong x hội chưa hẳn đ sẵn sàng gắn ó lâu dài với các DNNNN.

1.2. Quy định và áp dụng pháp luật chưa thật sự công ằng: Cần tạo sân chơi thật sự ình đẳng, công ằng cho các loại hình doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Có cơ chế phân ổ mọi nguồn lực x hội hợp lý và hiệu quả theo các nguyên tắc thị trường. Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNNN dễ dàng tiếp cận thụ hưởng ch nh đáng các ưu đ i, hỗ trợ phát triển của Nhà nước. Bên cạnh hoàn thiện khung khổ pháp lý, thực thi tốt pháp luật thì việc cụ thể hóa và hiện thực hóa nhanh chóng các văn ản dưới luật hướng dẫn áp dụng hệ thống các luật mới an hành, sửa đổi đáp ứng yêu cầu hội nhập là cấp thiết.

1.3. Hạn chế nguồn lực ản thân doanh nghiệp tư nhân: Có đến 99% các doanh nghiệp ngoài nhà nước có quy mô nhỏ và vừa, trong đó chủ yếu qui mô nhỏ và siêu nhỏ. Phản ánh hạn chế lớn về huy động vốn, lao động, công nghệ, quản trị, thị trường, m t ằng SXKD, thông tin, pháp lý. Theo đó yêu cầu tăng cường năng lực cạnh tranh của khu vực này là cấp thiết. Cần khắc phục trước hết đ t thù quản lý “khép k n, gia đình trị” và phương thức hoạt động dựa chủ yếu “quan hệ, thân hữu” hơn là tách ạch quyền, nghĩa vụ pháp lý về sở hữu và quản trị doanh nghiệp của chủ doanh nghiệp, sử dụng đa diện, đa dạng các yếu tố ên ngoài để nâng cao kỹ năng quản trị doanh nghiệp. Tiếp đó phải thay đổi tâm lý đầu tư ngắn hạn, kinh doanh chụp giật, nhất thời còn chi phối n ng nề hoạt động của nhiều doanh nghiệp. Ngoài tạo lập môi trường kinh doanh đầu tư thật sự minh ạch, thông thoáng, ổn định, các cấp ngành quản lý cần hạn chế dần, giúp điều chỉnh hành vi của chủ doanh nghiệp, giúp họ yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài, chú trọng yếu tố quản trị doanh nghiệp, nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, hợp tác liên kết phát triển ền vững, đáp ứng yêu cầu hội nhập...

162

2. Một số iến nghị nhằm n ng cao hiệu quả huy động, sử dụng nguồn vốn

tư nh n

2.1. Nhận thức đúng và khách quan về vai trò nguồn vốn khu vực tư nhân : Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, tỷ lệ đóng góp trong tổng vốn đầu tư toàn x hội, tạo nhiều việc làm, thu nhập cho người lao động, hiệu quả hoạt động ngày càng tăng và có sức lan tỏa lớn đối với nền kinh tế, “sẽ là động lực quan trọng ậc nhất đóng góp vào tăng trưởng của Việt Nam”[5]. Quan tâm phát triển khu vực này phù hợp xu thế tất yếu phân ổ lại hợp lý mọi nguồn lực song hành chương trình CPH “dứt khoát” DNNN hiện nay, đồng thời xem xét, điều chỉnh tận dụng hợp lý hơn các nguồn vốn đầu tư nước ngoài như FDI, ODA ...Vai trò kiến tạo của Nhà nước đòi hỏi các giải pháp cụ thể hỗ trợ, khuyến kh ch phát triển khu vực này, phát huy ưu điểm linh hoạt, đổi mới, sáng tạo và t nh ền vững của nó, khắc phục nhược điểm cố hữu như đ nêu trên;

2.2. Khung khổ pháp lý minh bạch, b nh đẳng, môi trường cạnh tranh công b ng giữa các khu vực kinh tế : Cần sự ình đẳng thực sự không chỉ từ nhận thức x hội, mà ngay trong việc xây dựng, thực thi các cơ chế, ch nh sách, phản ánh đúng, đáp ứng yêu cầu và phù hợp đ c điểm, khả năng, trình độ phát triển từng loại hình doanh nghiệp (05 loại hình DNTN), cũng như lĩnh vực ngành hàng thuộc “dư địa” cần khuyến kh ch thu hút vốn đầu tư phát triển (nông nghiệp, chế iến, chế tạo, xây dựng dân sinh, xuất khẩu, án lẻ, du lịch, giáo dục ...). u tiên chú trọng chuyển tải toàn ộ sự minh ạch, công ằng, hợp lý vào các qui định qui phạm pháp luật có hiệu lực “thực chất” về mọi ưu đ i liên quan từ ph a nhà nước mà doanh nghiệp xứng đáng được hưởng (tiếp cận đất đai, t n dụng, thuế, công nghệ ...). Bên cạnh đó cũng cần chú ý mọi sự ưu đ i hỗ trợ đối với doanh nghiệp không vi phạm cam kết ảo hộ trong các hiệp định thương mại, đầu tư mà Việt Nam ký kết với quốc tế;

2.3. Cần sự hỗ trợ kịp thời, thực chất và hiệu quả ưu tiên doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ: Cần khắc phục ngay tình trạng trợ giúp nửa vời, hình thức, thiếu trọng tâm, trọng điểm, l ng ph nguồn lực vốn hạn chế, theo kiểu cơ chế “xin, cho, phân ổ kế hoạch” của các cơ quan quản lý nhà nước[6]. Cần ắt uộc kiểm điểm, đánh giá định lượng được hiệu quả chi tiêu hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân nói chung/DNNVV nói riêng, kể cả khả năng thu hồi vốn hỗ trợ theo các phương pháp t nh khác nhau. Tránh tình trạng kéo dài áo cáo việc này thường đánh giá rất chung chung, hơn 80% các ch nh sách, chương trình trợ giúp không rõ hiệu quả. Khắc phục ngay tình trạng nhiều ch nh sách mới chỉ qui định về nguyên tắc, chưa cụ thể về đối tượng, thủ tục, nội dung hỗ trợ đang tình trạng chờ giải quyết “nợ đọng” văn ản hướng dẫn nằm đâu đó ở các ộ, an, ngành (Hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, Bảo lãnh tín dụng, Quỹ đầu tư DNNVV, Hỗ trợ phát triển CN phụ trợ, Chương tr nh đổi mới CN quốc gia

163

đến năm 2020, Chương tr nh phát triển CN cao ...); Đ c iệt còn thiếu nhiều chương trình hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp (start up ussiness), chương trình thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, vùng xa, vùng sâu, chương trình thu hút DNNVV tham gia vào các chuỗi cung ứng (SCs), chương trình hỗ trợ chủ doanh nghiệp là đối tượng dễ tổn thương, yếu thế trong x hội, chương trình phát triển làng nghề trọng điểm ...

2.4. Cần có quy hoạch chiến lược phát triển mới cho khu vực kinh tế tư nhân/cốt lõi là khu vực DNNVV : trên cơ sở sửa đổi, ổ sung nâng cấp Chương trình phát triển DNNVV theo Quyết định 1231/QĐ-TTg/2011 của Thủ tướng Ch nh phủ giai đoạn 2011-2015 tầm nhìn 2020. Lưu ý định hướng phát triển 12 lĩnh vực ngành hàng theo cam kết khi gia nhập AEC. Chú trọng các lĩnh vực, ngành hàng thuộc khuôn khổ các FTAs thế hệ mới (TPP, EVFTA ...) Việt Nam sẽ ký kết tạo ra vận hội phát triển mới cho doanh nghiệp Việt Nam (nhiều ưu đ i về thuế quan, dịch vụ, thương mại và đầu tư). Đồng thời đẩy mạnh cải cách thể chế, tạo lập môi trường kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nhằm ắt kịp cơ hội, đối m t khó khăn, thách thức (miếng ánh ngon TPP/NFTA không dễ xơi);

2.5. Cần tái cấu trúc hệ thống thể chế hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân : Cần 01 Ủy an đủ thực quyền, thực lực về phát triển DNNVV (trực thuộc Quốc hội là tốt nhất), gồm các yếu nhân có kiến thức ài ản về kinh tế thị trường “định hướng XHCN” điều hành Ủy an này. Cần hậu thuẫn của hệ thống ch nh trị ằng 01Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế tư nhân/hay DNNVV, cần sớm thông qua Dự án Luật Quy hoạch phát triển với hàm ý “mở đường, khoan sức, thực sự khuyến kh ch” kinh tế tư nhân phát triển lành mạnh, đúng hướng. Cần tiếp tục chỉnh sửa Luật Tổ chức Ch nh phủ, sớm an hành Luật về Hội nhằm thu gọn vai trò “độc tôn” của mô hình “công lập”, tăng cường vai trò của các tổ chức x hội-nghề nghiệp thực hiện các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân;

2.6. Sớm chấm dứt các hình thức trợ giúp phát triển DNNVV theo kiểu “ an phát, xin cho” thay vào đó là các hình thức hỗ trợ “gián tiếp” ằng các cơ chế, ch nh sách “chọn gửi” theo nguyên tắc thị trường, không theo địa chỉ doanh nghiệp cụ thể mà theo các lĩnh vực ngành, hàng, thông qua đại diện các hiệp hội doanh nghiệp nhằm hướng đến chiến lược phát triển trước mắt và lâu dài đáp ứng các yêu cầu của FTAs, định lượng được hiệu quả, thu hồi được vốn đầu tư, kinh ph hỗ trợ của Nhà nước. Cần tiếp tục hoàn thiện các Luật NSNN, Luật quản lý đầu tư công, Luật KH&CN, sớm an hành Luật hỗ trợ phát triển DNNVV);

2.7. Có cơ chế, ch nh sách cụ thể triển khai “hiện thực hóa” các chương trình khuyến kh ch khu vực công, các DNNN, các DN FDI thu hút các DNNVV cung cấp dịch vụ công, chế tạo cơ kh nhỏ, chế iến, ảo quản nông sản xuất khẩu, hàng nông

164

phẩm CN cao, nguyên phụ liệu cho sản xuất tham gia chuỗi liên kết, chuỗi cung ứng, tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, vùng xa, vùng sâu. Cần tiếp tục hoàn thiện các Luật thương mại, Luật đầu tư, Luật đấu thầu, an hành Luật mới về PPP;

2.8. Cần chủ động, t ch cực hơn nữa “ươm tạo và nhân ản” số DNNVV qui mô vừa và đủ lớn, đủ sức làm “đầu tầu” lôi kéo, dẫn dắt tạo cú h ch thúc đẩy phát triển lĩnh vực, ngành hàng mà Việt Nam cần nhanh chóng tăng cường năng lực cạnh tranh nhằm hội nhập sâu rộng theo khuôn khổ AEC hiệu lực vào 31/12/2015 (12 ngành nghề ưu tiên, chú trọng các ngành hàng ưu thế cạnh tranh cao, tạo nhiều giá trị gia tăng như da giày, dệt may, thủy sản, nông sản chất lượng cao, điện tử, tin học ...). Cần sớm an hành Nghị định phát triển CNHT, định hướng có Luật về phát triển CNHT);

2.9. Tăng cường quản lý thị trường nội địa, chú trọng ảo vệ người tiêu dùng, ảo vệ môi trường, chống gian lận thương mại, trốn thuế, chuyển giá, ngăn ch n kịp thời và kiên quyết xử lý xâm phạm ản quyền sở hữu tr tuệ nhằm đảm ảo công ằng, minh ạch trong cạnh tranh thương mại và đầu tư theo đúng khuôn khổ cam kết FTAs. Tuân thủ lộ trình cam kết về thuế quan kết hợp với ứng xử khéo léo giành quyền ình đẳng khi cần áp đ t, sử dụng các hàng rào kỹ thuật nhằm ảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ch ch nh đáng của cộng đồng DN VN. Cần chỉnh sửa cho phù hợp các Luật thương mại, Luật ảo vệ người tiêu dùng, Luật SHTT, Luật thuế, Luật TNMT;

Tài liệu tham hảo :

- Nguồn dữ liệu điều tra khảo sát và tính toán của SISME;

- Nguồn dữ liệu thống kê của GSO;

- Sự phát triển của doanh nghiệp ngoài nhà nước – NXB Thống kê năm 2014-

- Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế m a Xuân năm 2015 của Ủy ban KTQH;

- CIEM, Đ c điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam – Kết quả điều tra

DNNVV năm 2011, 2012;

- Lê Duy Bình, Đánh giá nhanh chất lượng khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam

sau 10 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, 2010;

- PGS, TS Đào Duy Huân, Phát triển DNNVV ở Việt Nam ph hợp với tái cấu trúc và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Phát triển & hội nhập số 4(14) tháng 5-6/2012;

- Bui Trinh, Kiyoshi Kobayashi, Trung – Dien Vu, Pham Le Hoa, Nguyen Viet Phong. New Economic Structure for Vietnam Toward Sustainable Economic Growth

165

in 2020, Global Journal of HUMAN SOCIAL SCIENCE Sociology Economics & Political Science, Vol.12, Issue10, Vers 1.0.2012;

[1] Theo kết quả nghiên cứu năm 2012 của Nhóm ngiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu dự áo của GSO;

[2] Hệ số này lớn hơn 1 thì tốt;

[3] Hệ số này é hơn 1 thì tốt;

[4] Nguồn : http://kinhtevadubao.com.vn/tieng-noi-doanh-nghiep/samsung-electronics- vietnam-noi-khoi-nguon-cua-nhung-giac-mo-79.html

[5] Trả lời của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT tại Chương trình “dân hỏi, Bộ trường trả lời” ngày 4/5/2014;

[6] Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện các ch nh sách, chương trình trợ giúp SMEs cập nhật đến tháng 8/2014 của MPI;

- Nguyễn Phương Thảo, Ngô Văn Phong & Bui Trinh “Tổng cầu cuối c ng, sản xuất và thu nhập của Việt Nam : một vài so sánh với Trung Quốc” (2014), Tạp chí Kinh tế & Dự báo, số 12/2014;

166

HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG CÁC NGUỒN VỐN NƯỚC NGOÀI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TỄ XÃ HỘI TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2015:

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN, KIẾN NGHỊ

Tiến sỹ khoa h c Võ Đại Lược

Tham luận sẽ tập trung phân tích hai nguồn vốn nước ngoài quan trọng: vốn ODA và vốn FDI trên các khía cạnh sau: (i) Lợi thế của Việt Nam trong việc thu hút nguồn vốn nước ngoài bao gồm vị trí địa lý, triển vọng kinh tế, môi trường đầu tư ổn định và quy mô dân số 90 triệu người với cơ cấu dân số vàng; (ii) thực trạng sử dụng vốn ODA và vốn FDI tại Việt Nam.

Vốn ODA đóng vai trò quan trọng với Việt Nam, chiếm tới 17% tổng nguồn vốn đầu tư nhà nước và đầu tư vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Vốn ODA có vai trò rất lớn vào tăng trưởng và kết quả xóa đói giảm nghèo của Việt Nam. Tuy nhiên, nguồn vốn này còn bộc lộ nhiều hạn chế như hiệu quả thấp; thiếu tính kế hoạch, các quy định quản lý và giám sát còn yếu. Nhiều biện pháp cần được áp dụng để xử lý các tổn tại trên như lập kế hoạch sử dụng vốn dài hạn, tập trung đầu tư vào những lĩnh vực quan trọng và then chốt, hoàn thiện cơ chế quản lý vốn

Đối với vốn FDI, tổng vốn đăng ký lũy kế tới cuối năm 2012 là 234 tỷ USD. Trong các năm gần đây, trung b nh thu hút vốn FDI hàng năm khoảng 10 tỷ USD. Các dự án có vốn FDI là nguồn động lực quan trọng cho việc phát triển kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tế việc thu hút và đầu tư vốn FDI còn g p 1 số hạn chế: 80% vốn FDI là từ các nước Châu Á, chỉ có một phần nhỏ là từ Mỹ và các nước Châu Âu; quá trình chuyển giao cộng nghệ từ các nhà đầu tư nước ngoài cho đối tác Việt Nam còn chậm; sự hợp tác đa quốc gia khiến cho các khoản đầu tư chủ yếu có quy mô nhỏ và công nghệ thấp. Các giải pháp, đề xuất đối với tình trạng trên bao gồm: Việt Nam cần cải cách hành chính, xây dụng các khu kinh tế hiện đại và sửa đổi luật đầu tư nh m khuyến khiachs các công ty Mỹ và Châu Âu với công nghệ hiện đại đầu tư vào Việt Nam

I. Các lợi thế của Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài chú ý

- Trước hết đó là lợi thế địa chiến lược và kinh tế. Việt Nam có bờ biển dài 2640 kn, với nhiều vịnh nước sâu, đ c biệt là vịnh Cam Ranh và Vân Phong. Việt Nam còn có nhiều bãi biển đẹp hàng đầu thế giới. Việt Nam nằm ở trung tâm vùng Đông Á, án ngữ Biển Đông, một đường hàng hải quốc tế quan trọng có tới khoảng 50% giao thương quốc tế qua lại. Việt Nam có vị trí m t tiền và ở ng tư khu vực. Lịch sử cho thấy các cường quốc luôn muốn có lợi thế địa chiến lược và kinh tế của Việt Nam.

167

- Việt Nam có môi trường hòa bình và ổn định – đây là điều kiện cơ ản đảm

bảo cho các hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư.

- Dân số trên 90 triệu người đang ở giai đoạn dân số vàng, là một thị trường lớn có sức hấp dẫn, hầu hết lao động đều có văn hóa phổ thông, có khả năng tiếp cận công nghệ mới, tiền lương còn thấp so với các quốc gia trong khu vực.

Những lợi thế trên đây thực sự đ có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước

ngoài.

II. Hiện trạng sử dụng các nguồn vốn ODA và FDI

Thực ra 2 nguồn vốn này có quan hệ với nhau không kể ODA của các tổ chức quốc tế như WB, ADB nhằm mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, còn ODA của các quốc gia phát triển cho Việt Nam đều nhằm tạo tiền đề cho các dòng FDI của họ có thể được sử dụng có hiệu quả.

1. Về nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA)

T nh đến cuối năm 2012, tổng vốn ODA được giải ngân đạt 37,59 tỷ USD chiếm trên 66,92% trong tổng vốn ODA ký kết. Tuy nhiên từ năm 2011 Nhật Bản và WB đ có iến chuyển đột phá về tỷ lệ giải ngân – giữ vị trí nhất nhì trong các nhà tài trợ ODA. Tỷ lệ giải ngân của WB tại Việt Nam đ tăng từ 13% năm 2011 lên 19% năm 201289.

Tổng số vốn ODA ký kết từ 1993 đến 2012 đạt 56,05 tỷ USD, trong đó ODA vay ưu đ i đạt 53.607 tỷ USD, chiếm 88,4% tổng ODA, vốn ODA không hoàn lại đạt 6,76 tỷ USD chiếm 11,6%.

Khoảng 45% khoản vay có lãi suất dưới 1% năm, thời hạn vay từ 30 – 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, khoảng 40% ODA còn lại có lãi suất 1-3% với thời hạn vay 12 – 30 năm.

Sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp năm 2010, chi ph vốn vay có xu hướng tăng, có các điều kiện ràng buộc từ bên ngoài, làm cho chi phí đầu vào cao đ ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư.

ODA đến nay chỉ chiếm khoản 4% GDP của Việt Nam song lại chiếm tới 15 -

17% tổng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước, do vậy nó có ý nghĩa quan trọng.

89 Báo cáo của Chính phủ trước quốc hội về Tình hình thực hiện các công trình dự án quan trọng sử dụng vốn ODA, ngày 3/6/2013.

Trong thời gian qua, ODA có m t ở hầu hết các lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Các công trình sử dụng vốn ODA đ góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống của nhân dân.

168

Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, một số dự án trọng điểm quan trọng được triển khai như hệ thống tưới Phan Rí-Phan Thiết, giảm thiểu lũ và hạn hán vùng sông Mê Kông mở rộng, hệ thống thủy lợi Phước Hòa, chống lũ Sài Gòn, chương trình 5 triệu hécta rừng, chương trình 135, dự án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, dự án phát triển sinh kế miền Trung...

Trong lĩnh vực năng lượng và công nghiệp, nguồn vốn này đ hỗ trợ cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn, điển hình là Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 công suất 288 MW; nhà máy nhiệt điện Phả Lại II công suất 600 MW; nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận - Đa Mi công suất 475 MW; nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ I công suất 1.090 MW; nhà máy nhiệt điện Ô Môn công suất 600 MW...

Cũng nhờ nguồn vốn này mà lĩnh vực giao thông vận tải và ưu ch nh viễn thông đ khôi phục và ước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Điển hình là các tuyến đường như: Hệ thống đường bộ ở phía Bắc (Quốc lộ 5, 10, 18), Quốc lộ 1A, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây, đường xuyên Á Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài, hầm đường bộ đèo Hải Vân, cảng biển nước sâu Cái Lân, cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), cảng Sài Gòn, nhà ga quốc tế sân ay Tân Sơn Nhất, các cầu lớn như cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, cầu Thanh Trì, cầu Bãi Cháy, cầu Nhật Tân.

Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo, nguồn vốn này đ hỗ trợ cho việc thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề)... Các dự án vốn vay ODA điển hình là dự án xây dựng Trường Đại học Việt Đức (WB); dự án xây dựng Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (ADB).

Bên cạnh đó, nhờ nguồn vốn ODA, hầu hết các thành phố lớn, các thành phố trực thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt. Các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... hiện đang triển khai thực hiện nhiều dự án ODA phát triển cơ sở hạ tầng đô thị quan trọng, quy mô lớn như đường sắt nội đô, thoát nước và xử lý nước thải, chất thải rắn.

Về định hướng thu hút và sử dụng vốn ODA trong thời kỳ 2011 – 2020, báo cáo của Chính phủ nhấn mạnh, sắp tới sẽ tập trung vào những nhà tài trợ lớn, đ c biệt là nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (ADB, AfD, JICA, KEXIM, KfW, WB) để phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, tạo ra những "cú huých" và "tác động lan tỏa" thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư, các vùng và khu vực phát triển trọng điểm.

Tuy nhiên phải thừa nhận là cho đến nay việc sử dụng các nguồn vốn ODA còn

có những hạn chế:

169

- Thiếu tập trung vào các vùng trọng điểm tạo sự phát triển đột phá, lan tỏa và lôi kéo. Kết cấu hạ tầng của 2 tuyến phát triển quan trọng nhất đất nước Hà Nội – Hải Phòng, Hồ Chí Minh – Vũng Tàu, cho đến nay vẫn bất cập, chưa có đường sắt tốc độ cao – để giảm chi phí vận tải, giảm tai nạn giao thông.

- Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, nhưng vận tải đường thủy chưa

được coi trọng.

- Thiếu quy hoạch huy động và sử dụng vốn ODA, do vậy đ không có tầm nhìn

dài hạn, thường là theo yêu cầu của các địa phương.

- Cơ chế quản trị việc sử dụng nguồn vốn ODA còn bất cập do vậy tình trạng lãng phí, kể cả tham nhũng đ sẩy ra (ODA Nhật Bản, Vụ PMU 18...) đ có những ảnh hưởng không tốt.

- Có không ít dự án như dự án xây dựng cảng Lạch Huyện – Thành phố Hải Phòng, nhà tài trợ Nhật đ giữ đ c quyền quy hoạch, thiết kế, thi công... nên rất khó cho Việt Namcó thể giám sát.

Để khắc phục những hạn chế trên đây, trong thời gian tới cần có những giải

pháp sau:

- Cần có quy hoạch với tầm nhìn dài hạn đối với việc sử dụng vốn ODA với

những cân nhắc hiệu qủa kinh tế - xã hội cụ thể cho từng lĩnh vực cần vốn ODA.

- Không nên sử dụng vốn ODA một cách phân tán mà cần tập trung vào những vùng thuộc các tuyến phát triển quan trọng của đất nước để có thể tạo ra những cực tăng trưởng có tác động dẫn truyền.

- Đổi mới cơ chế quản trị việc sử dụng nguồn vốn ODA theo hướng hiện đại,

công khai, minh bạch… để tránh tình trạng l ng ph , tham nhũng

- Mạnh dạn loại bỏ những dự án ODA kém hiệu quả kinh tế - xã hội. Đà Nẵng

đ đi đầu trong việc dám từ chối dự án ODA.

Đ đến lúc không chỉ Đà Nẵng, mà Việt Nam phải “tốt nghiệp” tài trợ ODA, nghĩa là phải từ chối những ODA kém hiệu qủa, chỉ lựa chọn và chấp nhận những ODA có ý nghĩa thiết thực và hiệu quả kinh tế - xã hội cụ thể.

2. Về vốn dầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Nếu t nh đến 31/12/2013, tổng vốn FDI được cấp giấp phép còn hiệu lực là 234,121 tỷ USD với 15.932 dự án90. Nếu t nh trong giai đoạn 2011 – 2015 FDI đăng ký có thể đạt mức 90,79 tỷ USD, FDI thực hiện có thể đạt 54,96 tỷ USD, bình quân mỗi năm trên 10 tỷ USD. Điều đáng chú ý là trong thời kỳ 2011 – 2015 xu hướng 90 Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2013.

170

FDI vào Việt Nam không vận động theo hướng tăng lên mà luôn duy trì ở mức trên 10 tỷ USD mỗi năm. Những ngành thu hút được nhiều FDI nhất là các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo: 125,858 tỷ USD, bất động sản: 49,042 tỷ USD; dịch vụ lưu trú và ăn uống: 10,739 tỷ USD; xây dựng: 10,292 tỷ USD.

FDI t nh theo địa phương dẫn đầu là vùng Đông Nam Bộ với tổng số dự án là 8,962, tổng vốn đăng ký là 102,97 tỷ USD; Đồng bằng sông Hồng có 4.531 dự án với tổng vốn đăng ký là 56,117 tỷ USD. Lũy kế đến hết năm 2014 các khu công nghiệp trên cả nước đ thu hút được 5.573 dự án FDI với tổng vốn đăng ký là 85,5 tỷ USD, vốn thực hiện là 49 tỷ USD.

Khu vực FDI trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang có một vai trò quan trọng chiếm tới 70% giá trị sản xuất công nghiệp và khoảng 67% giá trị xuất khẩu; 19,5% GDP của Việt Nam.

Nếu t nh theo nước, thì đến năm 2013 các nhà đầu tư Nhật Bản dẫn đầu với tổng dự án là 2.186 và tổng vốn đăng ký là 35.179,9 tỷ USD. Thứ hai là Singapore có số dự án là 1.243 với tổng số vốn đăng ký là 29,94 tỷ USD. Thứ ba là Hàn Quốc có số dự án lá 3.011 với tổng số vốn đăng ký là 29,65 tỷ USD. Nhưng trong 6 tháng đấu năm 2015 Hàn Quốc đ lên vị trí thứ nhất thay thế Nhật Bản. Điều đáng lưu ý là 10 nước đầu tư hàng đầu vào Việt Nam đều là các nước châu Á, các nước này đ chiếm tới 80% tổng vốn FDI vào Việt Nam.

Các khu công nghiệp và khu kinh tế là nơi thu hút khá lớn các nguồn vốn FDI. Lũy kế đến hết năm 2014 các khu công nghiệp trên cả nước đ thu hút được 5.573 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư đang ký là 85,5 tỷ USD vốn đầu tư đ thực hiện đạt 49 tỷ USD (bằng 57% vốn đầu tư đ đăng ký); Các khu kinh tế ven biển đ thu hút được 247 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 37 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 135 tỷ USD (bằng 36% tổng vốn đầu tư đ đăng ký). Các khu kinh tế cửa khẩu đ thu hút được 70 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 700 triệu USD91.

91 Báo cáo của Trần Duy Đông, Vụ trưởng Vụ Quản lý các khu kinh tế, Bộ KD&ĐT. Một số vấn đề chính sách phát triển khu chế xuất, khu kinh tế, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, ngày 20/6/2015, Ban Kinh tế Trung ương.

Trong các dự án FDI vào Việt Nam có những dự án lớn nhóm từ 1 tỷ USD trở lên không nhiều, phần lớn những dự án này là các dự án về luyện kim, lọc hóa dầu (những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường), hay là thuộc các ngành điện tử – các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc nhập linh kiện vào lắp ráp ở Việt Nam – trên thực tế Việt Nam chỉ là nơi gia công, các nhà đầu tư đ tận dụng các ưu đ i của chính phủ Việt Nam và tiền lương của lao động thấp... Đ có những đại dự án như khu đô thị mới Bắc Phú Yên với tổng số vốn đầu tư hàng trăm tỷ USD của tập đoàn

171

Samadubai thuộc Tiểu Vương quốc Ả rập là chủ đầu tư. Dự án này có thể chế hành chính và kinh doanh rất quốc tế và hiện đại. Dự án này dù đ được chính phủ Việt Nam đồng ý và ký kết bản ghi nhớ, nhưng do khủng hoảng tài chính 2007 – 2008, nên dự án này đ ị tạm đình lại. Một đại dự án khác đó là dự án Trung tâm tài chính ở Khánh Hòa do các tập đoàn tài ch nh Hoa Kỳ là chủ đầu tư. Dự án dịch vụ tài chính này cũng có số vốn đầu tư lên tới hàng trăm tỷ USD, với những thể chế hiện đại và quốc tế cao. Chính phủ Việt Nam cũng đ đồng ý về nguyên tắc, nhưng tới nay vẫn chưa có quyết định cuối cùng.

Hai đại dự án trên thực chất là những dự án xây dựng các d c khu kinh tế với các thể chế hành chính và kinh tế hiện đại ngang tầm quốc tế, do vậy đ thu hút được các nhà đầu tư hàng đầu thế giới.

Việc thu hút FDI trong những năm qua đ có những tác dụng to lớn đối với sự

phát triển kinh tế Việt Nam trên các m t:

- Đ góp phần bổ sung một số lượng lớn vốn đầu tư vào Việt Nam, đ c biệt là

trong điều kiện Việt Nam ở trong tình trạng thiếu vốn đầu tư phát triển.

- Đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hiện này chiếm

khoảng 67% kim ngạch xuất khẩu.

- Góp phần đổi mới công nghệ ở Việt Nam.

- Giải quyết việc làm cho hàng trăm ngàn người lao động

- Tạo ra các mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại ở Việt Nam, tạo sức ép cạnh

tranh với các doanh nghiệp Việt Nam.

- Góp phần đưa Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.

- Đóng góp vào nguồn thu ngân sách của Việt Nam.

Tuy nhiên, các dòng vốn FDI vào Việt Nam đến nay vẫn còn những hạn chế:

- Hầu hết FDI vào Việt Nam (80%) thuộc các nước châu Á, không phả là những nước có công nghệ đầu nguồn, các nước Âu, Mỹ có công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam còn hạn chế.

- Các nhà đầu tư nước ngoài rất chậm trễ trong việc chuyển giao công nghệ cho

Việt Nam, do vậy tính lan tỏa thấp.

- Phần lớn các công nghệ thiết bị mà các chủ đầu tư đưa vào Việt Nam đều là

các thiết bị có trình độ công nghệ trung bình và lạc hậu, ít công nghệ hiện đại.

- Do công nghệ trung bình và lạc hậu, nên đ gây ô nhiễm môi trường nghiêm

trọng, đ c biệt là các khu luyện kim, hóa dầu…

172

- Việc phân cấp cấp phép, quản lý các dự án đầu tư nước ngoài hiện nay đang được khoán trắng cho các chính quyền địa phương. Năm 2010 đ sẩy ra tình trạng có hơn 200 doanh nghiệp FDI của Đài Loan và Hàn Quốc bị phá sản, các ông chủ biến mất, để lại một khoản nợ 79 triệu USD cho các ngân hàng Việt Nam. Đây là cái giá phải trả cho việc quản lý vốn FDI lỏng lẻo hiện nay.

- Phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đem một lượng vốn thực của họ rất ít vào Việt Nam, và khi được cấp phép họ lại vay vốn của chính các ngân hàng Việt Nam. Do vậy vốn nước ngoài thực sự trong các dự án FDI không cao.

- Đa số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là nhỏ và vừa, rất ít các tập đàn

lớn có công nghệ hiện đại.

- Quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam nói

chung còn lỏng lẻo, do vậy tác động truyền dẫn thấp…

Để khắc phục những hạn chế trên đây, cần có những giải pháp thỏa đáng:

- Trước hết Việt Nam phải đổi mới thể chế hành chính và kinh tế theo hướng hiện đại và quốc tế để có thể tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.

- Sớm có quy định xây dựng các đ c khu kinh tế hiện đại. Bộ Chính trị đ có chủ trương, Quốc hội đ thảo luận Luật đ c khu. Các đề án về 3 đ c khu kinh tế: Vấn Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) đ hoàn tất, chính phủ cần sớm có quyết định xây dựng các đ c khu này trên thực tế. Đây là một vấn đề cấp bách, vì Việt Nam khó có thể hiện đại hóa thể chế trên cả nước, do vậy cần thực hiện trước hết ở các đ c khu. Từ 3 đ c khu này có thể nhân rộng ra các đ c khu khác và sau đó là cả nước. Nhiều nước trên thế giới đ áp dụng hình thức này, kể cả những nước đ phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản.

- Cần sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài theo hướng khuyến khích mạnh mẽ các tập đoàn lớn Âu, Mỹ, có công nghệ cao, kinh nghiệm quản trị hiện đại; tạo ra những rào cản đối với các dự án FDI gây ô nhiễm môi trường, t tác động tới sự phát triển của Việt Nam, chèn ép các doanh nghiệp Việt Nam.

- Khu vực DN tư nhân Việt Nam cần được nhà nước xem trọng hơn, ưu đ i hơn, ình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay khu vực này chưa được xem trọng.

- Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay có 3 khu vực: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, doanh nghiệp FDI. Về luật pháp 3 loại doanh nghiệp này đều được ình đẳng, không phân biệt đối xử, nhưng trên thực tế thì doanh nghiệp nhà nước được nhiều ưu đ i nhất về các m t như đất đai, vay vốn, thị trường v.v…

173

Doanh nghiệp FDI cũng được nhiều ưu đ i về miễn giảm thuế… Chỉ có doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là không được ưu đ i gì. Do vậy các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam muốn có lợi thế ngang bằng với các doanh nghiệp nhà nước và FDI buộc họ phải có quan hệ “thân hữu” với các quan chức nhà nước các cấp. Những quan hệ không minh bạch này đ làm méo mó môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam. Hiện trạng này cần phải được khắc phục

Kết luận

Các dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua đ có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam. Trong thời gian tới, những dòng vốn này cũng có vai trò quan trọng không kém. Vấn đề là Việt Nam phải đổi mới thể chế, phải hiện đại hóa kết cấu hạ tầng và đổi mới giáo dục để đào tạo một nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu phát triển. Chỉ trong điều kiện đó Việt Nam mới có thể thu hút được các nguồn FDI từ Mỹ, châu Âu, đây mới thực sự là những nguồn vốn chất lượng cao giúp Việt Nam có thể cất cánh. Nếu Việt Nam vẫn duy trì môi trường đầu tư như hiện nay, thì Việt Nam sẽ cũng chỉ có thể thu hút được các dòng vốn FDI từ châu Á. Singapore đ từng xem các dòng vốn FDI từ châu Á này không phải là FDI. Nguồn vốn ODA đ , đang và sẽ còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam, nhưng cùng với sự phát triển, vai trò của vốn ODA sẽ giảm dần và Việt Nam cần có chính sách lựa chọn các dự án ODA, loại bỏ các dự án kém hiệu quả.

Tài liệu tham khảo:

1. Báo cáo của chính phủ trước Quốc hội về tình hình thực hiện các dự án quan

trọng sử dụng vốn ODA, ngày 3/6/2013.

2. Trần Duy Đông (2015): Một số vấn đề về chính sách phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 20/6.

3. Võ Đại Lược (2015): Những vấn đề phát triển kinh tế Việt Nam, NXB.

KHXH, Hà Nội.

4. Ban Kinh tế Trung ơng: Đổi mới hô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh

tế. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2015.

174

ĐÁNH GIÁ CHẶNG ĐƯỜNG 20 NĂM ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ VAI TRÒ NGUỒN VỐN ODA - ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐỀ XUẤT

Trung tâm nghiên cứu Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam

Ch ng đường 20 năm (1995-2015) là ch ng đường mang t nh ước ngo t có tính lịch sử quan trọng, khẳng định đường lối đổi mới và hội nhập đúng đắn của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam. Những ước tiến trong hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới một m t ghi nhận những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp m t khác là những cơ hội phát triển thương mại, thu hút đầu tư và hợp tác toàn diện. Trong đó, sự hợp tác ch t chẽ và thường xuyên với các nhà tài trợ, tổ chức quốc tế thông qua vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là động lực quan trọng về cả vật chất và tinh thần để Việt Nam vượt qua khó khăn, đ c biệt là hai cuộc khủng hoảng 1997-1999 và 2008-2009, khắc phục những bất ổn, yếu kém nội tại để đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế xã hội.

I. ĐÁNH GIÁ CHẶNG ĐƯỜNG 20 NĂM ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP

(GIAI ĐOẠN 1995-2015)

“Công cuộc đổi mới và hội nhập lần thứ nhất (I)” (1995-2015) với sự đổi mới, phát triển toàn diện cả về tư duy lý luận và thực tiễn, Việt Nam đ và đang thực hiện những ước đi cần thiết trong phát triển kinh tế xã hội đất nước theo hướng bền vững, tạo điều kiện để đẩy mạnh CNH-HĐH theo định hướng XHCN. Đây cũng là ch ng đường đánh dấu những sự kiện quan trọng trong tiến trình hội nhập của đất nước, từ sự kiện ình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ năm 1995 đến sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ngày 28/07/1995, và chính thức trở thành thành viên 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2006; Việt Nam ký kết và tham gia các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương quốc tế: Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, Các Hiệp định ASEAN+(ASEAN-TQ; ASEAN-Hàn Quốc,ASEAN- Nhật Bản, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Úc Newzealand), Hiệp định đối tác kinh tế VN - Nhật Bản, Hiệp định FTA Việt Nam ChiLê, Hiệp định FTA Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA) và FTA Việt Nam - Liên minh hải quan gồm Nga, Belaruts và Khzakhstan (VCUFTA)….

Cùng với những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, sự hỗ trợ to lớn, đầy nhiệt huyết từ cộng đồng các nước anh em, bạn è, các đối tác, các nhà tài trợ quốc tế về cả vật chất và tinh thần trong đó có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đ tạo nên những thành tựu kinh tế xã hội to lớn trong ch ng đường 20 năm đổi mới, đưa đất nước từ tình trạng kém phát triển trở thành nước đang phát triển thu nhập trung bình, nâng cao vị thế trên trường quốc tế, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân và

175

là cơ sở quan trọng để đạt mục tiêu Việt Nam cơ ản trở thành nước công nghiệp.

1. Khái quát các giai đoạn phát triển trong chặng đường 20 năm

Những nỗ lực vượt qua khó khăn song hành với những ước tiến hội nhập

được chia thành các giai đoạn phát triển như sau:

* Giai đoạn 1995 - 2005: Việt Nam chính thức thoát khỏi tình trạng kém phát triển, ước đầu hội nhập: M c dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 1997-1999) và thiên tai nghiêm trọng, những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, với việc triển khai tích cực các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2001 - 2010 và Kế hoạch các kế hoạch phát triển 5 năm 1996-2000, 2001-2005 theo hướng CNH, HĐH, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP ình quân giai đoạn 1996 -2005 đạt 7,14%/năm, đ c biệt năm 2005 đạt tốc độ cao nhất 8,44%, đạt giá trị 837,8 nghìn tỷ đồng (54 tỷ USD), gấp đôi so với năm 1995; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp - xây dựng tăng 10,2%; dịch vụ tăng 7%. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đ đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các m t hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;… Đây là giai đoạn đánh dấu Việt Nam chính thức thoát khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành nước có thu nhập trung bình với GDP/người khoảng 10 triệu đồng (640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD)92.

* Giai đoạn 2006 – 2010: Tăng cường phát huy lợi thế, tận dụng cơ hội trong hội nhập để vượt qua khủng hoảng. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đ thiết lập quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ đầu tư với hơn 84 nước và vùng lãnh thổ và ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương và là thành viên t ch cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và trong khu vực. Nhờ đó, Việt nam tiếp tục phát huy lợi thế, cơ hội trong xuất nhập khẩu hàng hóa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và khắc phục tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, GDP ình quân 5 năm đạt 6,32%, GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 200093.

92 Võ Hồng Phúc: Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005), trong Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, tr. 141; 93 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 151;

* Giai đoạn 2011-2015: Vượt qua thách thức - Hội nhập sâu hơn, mạnh mẽ hơn: Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 khẳng định ước chuyển chiến lược trong tư duy điều hành của Chính phủ: nhất quán chuyển từ tập trung “duy tr tăng trưởng” sang nhiệm vụ trọng tâm, cấp ách là “tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định

176

kinh tế vĩ mô”, tiếp đó là các quyết sách quan trọng về tháo gỡ khó khăn cho các DN, đẩy mạnh tái cơ cấu và thực hiện 3 đột phá chiến lược, chuyển từ tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang tăng trưởng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu nhằm khắc phục những biểu hiện yếu kém của nền kinh tế chịu ảnh hưởng n ng nề cuộc khủng hoảng tài ch nh và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008: Tăng trưởng kinh tế chạm đáy 5,25% năm 2012 - mức thấp nhất trong vòng hơn 10 năm; Lạm phát tăng cao ở mức hai con số (Năm 2011 tăng 18,13%, mức cao nhất lên tới 23% so cùng kỳ (T8/2011); Nợ xấu tăng nhanh, lên tới 10% cuối năm 2012, chiếm tới 10% GDP, l i suất cho vay năm 2011 tăng lên mức 23-25%, mức cao nhất kể từ năm 1993, thanh khoản ngân hàng căng thẳng, gây nghẽn dòng vốn t n dụng; cầu nội địa suy yếu, sức cạnh tranh và niềm tin suy giảm. Nhờ các quyết sách kịp thời, quyết liệt của Ch nh phủ, các Bộ ngành, việc tăng cường các nguồn vốn đầu tư, nền kinh tế đ dần khắc phục những biểu hiện yếu kém, từng ước phục hồi: Lạm phát giảm mạnh từ mức 18,13% năm 2011 xuống còn 4,09% năm 2014 và dưới 5% so cùng kỳ, là mức thấp nhất trong vòng 11 năm; Tăng trưởng GDP có ước đột phá năm 2014 với mức 5,98%, dự kiến năm 2015 là 6,2-6,5% từ mức đáy 5,25% năm 2012.

2. Đánh giá thành quả và tồn tại

Đ c trưng rõ nhất của ch ng đường 20 năm đổi mới và hội nhập là việc chuyển từ một nền kinh tế khép kín, nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, thực hiện thắng lợi các Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập qua từng ch ng đường 5 năm, từng ước hoàn thành các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020. Nổi bật trong giai đoạn 20 năm đổi mới qua, kinh tế Việt Nam đ đạt được những kết quả quan trọng:

- Thứ nhất, kinh tế nỗ lực vượt qua khó khăn và trên đà khởi sắc, hiệu quả hoạt động SXKD được tăng cường: Lạm phát giảm từ mức 2 con số xuống mức 1 con số và trong tầm kiềm soát, đà tăng trưởng được khôi phục đ c biệt từ năm 2014, sự phát triển của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ theo hướng ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng ước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế; Xuất khẩu tăng trưởng nhanh, cán cân thương mại liên tục th ng dư từ năm 2012 ( ình quân tăng 15%/năm); Thị trường nội địa được mở rộng và tăng nhanh cả về dung lượng, không gian thị trường; Quy mô nền kinh tế tăng nhanh và cao, tổng sản phẩm quốc nội đạt 40 - 50 tỷ USD trong vòng hai thập kỷ (từ 1996 đến 2014), GDP đ đạt trên 175 tỷ USD vào năm 2014; Đổi mới mô hình tăng trưởng đ ghi nhận sự chuyển iến ước đầu: sự phụ thuộc của tăng trưởng vào vốn đ giảm, chất lượng tăng trưởng được chú trọng, hệ số ICOR từ mức cao nhất 8,04 lần (năm 2009) đ giảm xuống còn 5,18 năm

177

201494; Năng suất lao động đến năm 2014 đ tăng 6,7 lần so với năm 2001 (đạt 2.200 USD/người theo giá năm 2010).

94 ICOR theo số liệu Tổng cục thống kê và tính toán của TTNC

- Thứ hai, tái cơ cấu các lĩnh vực ưu tiên gắn với 3 đột phá chiến lược đã đạt được những kết quả ước đầu đáng khích lệ. (1) Tái cơ cấu TCTD: Đây là lĩnh vực có hiệu quả nhất, góp phần đáng kể vào việc ngăn ch n sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng và củng cố ổn định kinh tế vĩ mô: (i) Nợ xấu được kiểm soát ở mức an toàn, khơi thông dòng tín dụng cho nền kinh tế: Tỷ lệ nợ xấu của các TCTD đến cuối tháng 2/2015 còn khoảng 3,59%, giảm mạnh so với mức 10% cuối năm 2012, t nh đến 18/06/2015, tín dụng toàn hệ thống đ tăng 6,09% so với cuối năm 2014, cao hơn so với cùng kỳ các năm 2012-2014; (ii) Hoàn tất xử lý 8/9 ngân hàng yếu kém, bước vào giai đoạn 2 của đề án tái cơ cấu, theo đó sẽ tiếp tục tái cấu trúc ho c sáp nhập 6- 7 ngân hàng; hệ số an toàn vốn CAR đạt 13,49% cao hơn quy định của NHNN (9%); (2) Tái cơ cấu đầu tư công: Tỷ lệ đầu tư công/GDP đ giảm từ 8,5% năm 2010 xuống còn 6%, hiệu quả được nâng lên, 90% dự án đ được ố tr đúng quy định, giảm nợ đọng xây dựng cơ ản, giải ngân ODA năm 2014 đạt mức cao nhất trước đến nay (5 tỷ USD); (3) Tái cơ cấu DNNN: T nh đến 23/6/2015, cả nước đ CPH 61 DN chiếm 21,1% trong kế hoạch CPH 289 DN trong năm 2015; các DNNN đ thoái 7.000 tỷ đồng, thu về trên 11.000 tỷ đồng, ằng 1,48 lần giá trị sổ sách, tiến độ và giá trị thoái vốn từ năm 2011 đến tháng 6/2015 lên tới 16.114 tỷ đồng, hoàn thành 74% kế hoạch 21.797 tỷ đồng cần thoái; (4) Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới: Đến tháng 5/2015, đ có 36/63 tỉnh, thành phố an hành đề án ho c kế hoạch hành động tái cơ cấu nông nghiệp của địa phương và tổ chức triển khai trong thực tiễn; việc chuyển đổi từ trồng lúa được chuyển sang trồng ngô, vừng, rau, dưa hấu, ắp, mè, đậu, thanh long… đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa từ 20% - 30%; những mô hình sản xuất mới cho hiệu quả như: nuôi tôm trong nhà theo công nghệ cao ở Bạc Liêu và Kiên Giang; mô hình cánh đồng mẫu lớn, nuôi cá tra theo chuỗi giá trị ở Đồng Tháp…; (5) Về công tác triển khai thực hiện 03 đột phá chiến lược đã đạt được một số kết quả tích cực bước đầu, trong đó, trên cơ sở Hiến pháp sửa đổi an hành năm 2013 và 63 Luật quan trọng được an hành và sửa đổi trong giai đoạn 2011-2014, lĩnh vực thể chế được được đánh giá là một trong những khâu đột phá chiến lược quan trọng, góp phần lan tỏa, hỗ trợ đối với 2 đột phá còn lại cũng như đối với tái cơ cấu nền kinh tế. Cải cách thủ tục hành ch nh theo Nghị quyết số 19/NQ-CP có nhiều kết quả t ch cực, nền hành ch nh công hiện đại đ được triển khai tại nhiều địa phương; Nguồn nhân lực ngày càng được chú trọng nâng cao về chất và lượng; Kết cấu hạ tầng đồng ộ được triển khai mạnh ở tất cả địa phương, vùng, miền tạo nền tảng hạ tầng cho phát triển kinh tế x hội.

178

Thứ a, môi trường kinh doanh tiếp tục cải thiện, những nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế được các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực: (1) Việt Nam tăng 2 ậc so với năm 2013, lên hạng thứ 68/144 và đứng thứ 6 khu vực Đông Nam Á trong Bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2014 của WEF nhờ sự cải thiện kinh tế vĩ mô (tăng 12 ậc), hiệu quả thị trường lao động và quy mô thị trường; (2) Moody’s nâng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lần đầu tiên từ năm 2005 (từ B2 lên B1) vào tháng 8/2014; (3) Việt Nam vượt 5 bậc trong bảng xếp hạng chỉ số đổi mới toàn cầu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế còn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức: (i) Môi trường kinh doanh chưa thực sự cải thiện nhiều, đóng góp của cầu nội địa (tiêu dùng, đầu tư) trong GDP giảm sút, động lực ngoại thiếu bền vững; (ii) Thâm hụt ngân sách và nợ công gia tăng, hiệu quả khu vực công chưa cao khiến dư địa tài khóa cho đầu tư phát triển giảm; (iii) Cơ sở hạ tầng, nhân lực còn bất cập chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội; (iv) Hệ thống thị trường tài chính chưa phát triển và (v) Tái cơ cấu và thực hiện 03 đột phá chiến lược diễn ra chậm so với yêu cầu, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế đ có sự cải thiện tốt song chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu và xu thế hội nhập.

3. Quá trình chuyển đổi m hình tăng trưởng trên chặng đường 20 năm

- Tăng trưởng vẫn phụ thuộc lớn vào vốn và lao động giản đơn, đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)95 vẫn ở mức thấp và chậm cải thiện: Qua 20 năm đổi mới 1995-2015, có thể nhận thấy, mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫn là tăng trưởng theo chiều rộng với bản chất là phụ thuộc lớn vào vốn đầu tư. Giai đoạn 2011-2014, m c dù có sự cải thiện nhất định về chất lượng tăng trưởng so với các giai đoạn trước, song đóng góp của yếu tố vốn vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất là 51,5%, gấp 2 lần yếu tố lao động (23%) và yếu tố TFP (25,5%). Sự suy giảm tăng trưởng của giai đoạn 2011 - 2014 là do vốn đầu tư ị sụt giảm lớn, trong khi đóng góp của TFP vẫn ở mức thấp, trung ình 25,3% giai đoạn 2013-2014, đây vẫn là mức trung bình thấp (<30%), chưa đạt tiêu chuẩn của các nước đang phát triển và cách xa so với các nước trong khu vực (45-55%).

95 Năng suất các yếu tố tổng hợp – Total Factor Productivity (TFP) phản ánh sự đóng góp của các yếu tố vô h nh như kiến thức- kinh nghiệm- kỹ năng lao động, cơ cấu lại nền kinh tế hay hàng hoá - dịch vụ, chất lượng vốn đầu tư mà chủ yếu là chất lượng thiết bị công nghệ, kỹ năng quản lý... Cách gọi khác của TFP là MFP – Multifactor productivity 96 Đánh giá qua một số chỉ tiêu chính: ICOR, năng suất lao động, mức tăng GDP/người thực theo giá so sánh 2010

- Chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của tăng trưởng đã có sự cải thiện tốt song chưa cao96, vì vậy tăng trưởng vẫn thiếu bền vững và tiềm ẩn rủi ro: (1) Về hệ số ICOR: Với các những hạn chế của mô hình tăng trưởng theo chiều rộng như trên, hệ số ICOR m c dù đ được cải thiện khi giảm từ mức cao nhất 8,04 lần năm

179

2009 xuống trung bình 5,24 lần giai đoạn 2011-2014 song còn ở mức cao gấp 2-3 lần so với khu vực và tiêu chuẩn WB đối với nước đang phát triển (ICOR chỉ 3-4 lần); (2) Về năng suất lao động (NSLĐ): NSLĐ của Việt Nam đ tăng liên tục kể từ năm 2001 tới nay. NSLĐ năm 2014 đ tăng 15,5% so với năm 2010, tăng 449% so với năm 2005 và tăng 569% so với năm 2001, tốc độ tăng ình quân đạt 4,26%/năm trong giai đoạn 2001-2014, góp phần thu hẹp dần khoảng cách so với năng suất lao động của các nước trong khu vực. Tuy nhiên, theo tổ chức Lao động Quốc tế ILO, NSLĐ Việt Nam chỉ cao hơn so với Bangladesh và Cambodia song vẫn có khoảng cách lớn so với các nước ASEAN và Châu Á, chỉ bằng 1/18 NSLĐ của Singapore; bằng 1/135 năng suất lao động của Nhật Bản, bằng 1/6 của Malaysia; bằng 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc. Hơn nữa, NSLĐ tăng thấp hơn mức tăng lương làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng; (3) Về mức tăng GDP/người thực: M c dù thu nhập ình quân đầu người (GDP/người) danh nghĩa của Việt Nam liên tục tăng trong giai đoạn 2005-2014, năm 2014, GDP/người đ lên đến hơn 2000 USD/người, gấp 3,2 lần mức 640 USD/người năm 2005. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của lạm phát nên tốc độ tăng trưởng thu nhập thực khá thất thường, đ c biệt trong những giai đoạn lạm phát tăng cao.

II. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA TRONG 20 NĂM ĐỔI MỚI VÀ

HỘI NHẬP ĐẤT NƯỚC

1. Đánh giá tổng quát về thu hút và sử dụng ODA 20 năm (1995-2015)

Với sự thành công của Hội nghị bàn tròn về viện trợ cho Việt Nam tại Paris ngày 9-10/11/1993, sự kết nối giữa Việt Nam và các nhà tài trợ ngày càng ch t chẽ và thường xuyên. T nh đến tháng 12/2012 đ có 20 Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (gọi tắt là Hội nghị CG thường niên) được tổ chức. Từ năm 2013, các quan hệ hợp tác của Việt Nam với các Nhà tài trợ được nâng lên tầm đối tác thông qua Diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam (chủ yếu từ các nước Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Hiệp hội Phát triển Quốc tế IDA, ADB, WB). Với sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của các nhà tài trợ với công cuộc đổi mới và chính sách phát triển đúng hướng của Việt Nam, cam kết ODA cho Việt Nam liên tục gia tăng hàng năm.

Nguồn vốn ODA tại Việt Nam được thực hiện dưới 3 hình thức chủ yếu gồm ODA viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 10-12%, ODA vay ưu đ i chiếm khoảng 80% với lãi suất thấp, thời gian vay từ 10-40 năm và thời gian ân hạn từ 5-10 năm (yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%) và ODA hỗn hợp chiếm khoảng 8-10%, trong đó một phần không hoàn lại và một phần vay ưu đ i. Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA, cùng với việc quản lý nợ công nói chung, khung pháp lý và phương thức quản lý và sử dụng vốn ODA của Việt Nam liên tục được đổi mới, hoàn thiện và ngày càng tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế, đ c biệt từ năm 2009 đến nay. Cùng với

180

Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ban hành ngày 17/6/2009 và nghị định 79/2010/NĐ-CP ngày 14/07/2010 hướng dẫn nghiệp vụ quản lý nợ công, Nghị định 38/2013/NĐ-CP về quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đ i của các nhà tài trợ đ cụ thể hóa vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ban ngành, chính quyền địa phương, các cơ quan chủ quản…Các khâu hoạch định chủ trương đến các khâu cụ thể của quá trình quản lý, sử dụng, giám sát và báo cáo kết quả thực hiện các chương trình, dự án ODA được quy định ch t chẽ đảm bảo hiệu quả cao nhất, hướng dòng vốn đến đúng địa chỉ, các chương trình, các dự án, các địa bàn và góp phần thúc đẩy phát triển KTXH của Việt Nam.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế từ năm 1993 đến 2014, tổng giá trị vốn ODA cam kết đ lên đến 89,5 tỷ USD, tổng vốn đ ký kết đạt 73,68 tỷ USD bình quân 3,5 tỷ USD/năm, vốn ODA và vốn vay ưu đ i giải ngân đạt 53,89 tỷ USD, chiếm trên 73,2% tổng vốn ODA đ ký kết. Hiệu quả sử dụng vốn ODA được các nhà tài trợ đánh giá t ch cực, Việt Nam tiếp tục là nước sử dụng nguồn vốn ODA tốt97. Một m t, đó là sự trân trọng, đáp lại sự nhiệt thành, sự ưu đ i của các nhà tài trợ, m t khác, việc sử dụng hiệu quả vốn ODA sẽ góp phần nâng cao vị thế của nền kinh tế, tạo niềm tin và thu hút, khuyến khích nguồn vốn FDI, các nguồn vốn tư nhân và tổng thể các nguồn vốn đầu tư x hội tạo thành sức bật quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

Thu hút ODA 1993-2014

Giải ng n ODA 1993-2014

6000

150%

10000.0

4000

100%

5000.0

2000

50%

0

0%

.0

Giải ngân

Tỷ lệ giải ngân/ký kết

Năm

Ký kết

Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư

2. Hiệu quả kinh tế xã hội của vốn ODA trong 20 năm đổi mới và hội nhập

Với sự hỗ trợ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, với ý thức nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sứ mệnh lịch sử của nguồn vốn ODA không chỉ ở những thành tựu phát triển kinh tế Việt Nam mà còn được khẳng định rõ nét trong tiến bộ xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân.

97 Theo các báo cáo đánh giá của các dự án đã hoàn thành trong khuôn khổ các hội nghị đánh giá về tình hình thực hiện các dự án lần thứ 5 và lần 6 giữa tổ công tác ODA của Chính phủ và Nhóm 6 ngân hàng phát triển

Thứ nhất, hỗ trợ Việt Nam khắc phục khó khăn, phát triển kinh tế

181

Với đ c trưng của một nước đang phát triển theo mô hình kinh tế theo chiều rộng, sự phụ thuộc của tăng trưởng vào vốn còn ở mức cao (1% tăng trưởng cần 5- 6% tăng vốn đầu tư, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam đạt mức đỉnh 124,66% vào năm 2010 cao gấp 2 lần các nước trong khu vực), nguồn vốn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Với mức bình quân khoảng 3 tỷ USD/năm, chiếm khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn x hội và khoảng 17% trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn ODA là nguồn tài chính quan trọng cho nhiều dự án phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế. Nhờ vốn giải ngân tăng mạnh qua các giai đoạn (1993-2000 là 1 tỷ USD/năm, giai đoạn 2001-2010 tăng lên mức 2,2 tỷ USD/năm), kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng khá cao trong giai đoạn 1995-2010: 7,23% đồng thời chính thức thoát khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành nước đang phát triển thu nhập trung ình. Giai đoạn 2011-2014, nhờ tác động tích cực của một số biện pháp tái cơ cấu đầu tư công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng cường phòng chống tiêu cực trong các chương trình, dự án ODA và vốn vay ưu đ i, giải ngân ODA cũng đạt mức kỳ lục 5 tỷ USD/năm, đ c biệt là các nhà tài trợ quy mô lớn (Nhật Bản, WB, IDA), điều này góp phần tạo nên sự khởi sắc của tăng trưởng kinh tế trong 2 năm cuối giai đoạn 2014-2015.

Thứ hai, hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp cơ ản và cung cấp các

đầu vào để phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế khác

Bên cạnh nguồn vốn trong nước, ODA là nguồn vốn bên ngoài quan trọng đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển toàn diện, đồng bộ các ngành, lĩnh vực, đ c biệt là các lĩnh vực hạ tầng thiết yếu, công nghiệp cơ ản theo đúng định hướng của Chính phủ: (i) Giao thông vận tải, chiếm khoảng 28%; (ii) năng lượng- công nghiệp: 19%; (iii) nông nghiệp và phát triển nông thôn 15%; (iv) môi trường và phát triển đô thị 13%; (v) giáo dục, y tế xã hội 8%; (vi) Các ngành còn lại 14%.

Ngành năng lượng và công nghiệp: Trong giai đoạn 1993-2012 đạt trên 11,55 tỷ USD, trong đó, vốn vay ODA là 11,36 tỷ USD, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, truyền tải, phân phối, quản lý hệ thống điện, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải ở mức cao (15-17%/năm); xây dựng các nhà máy điện công suất lớn, tăng cường năng lực cho đường dây 500 KV Bắc - Nam, góp phần ổn định cung cấp điện cho các tỉnh phía Nam; hỗ trợ các dự án phát triển xi măng, xây dựng nhà máy lọc dầu; hỗ trợ DN năng lượng và công nghiệp tiếp cận nguồn vốn trong khuôn khổ hạn mức tín dụng ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ như dự án phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)…

Ngành giao thông vận tải và bưu chính viễn thông: Đến nay đ hoàn thành và đang thực hiện 132 dự án với tổng vốn ODA hơn 17 tỷ USD giúp VN khôi phục và phát triển các công trình GTVT quan trọng, huyết mạch của đất nước như quốc lộ

182

xuyên Việt 1A, quốc lộ 3,5,10,18 ở phía Bắc, Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, Nhà máy Thủy điện sông Hinh, cầu Mỹ Thuận… chuyển giao công nghệ tiên tiến giúp tăng cường năng lực của ngành xây dựng giao thông; hỗ trợ lĩnh vực ưu ch nh viễn thông và công nghệ thông tin hoàn thành thành công Chiến lược tăng tốc và chuyển sang Chiến lược hội nhập và phát triển.

Ngành nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới: Trong thời kỳ 1993-2012, tổng giá trị đạt khoảng 8,85 tỷ USD (ODA vốn vay: 7,43 tỷ USD, ODA viện trợ không hoàn lại 1,42 tỷ USD). Trong đó, ngành thủy lợi có tỷ trọng cao nhất (45%), tiếp theo là nông nghiệp (21%), phát triển nông thôn (15%), lâm nghiệp (15%), thủy sản (4%), bên cạnh đó là các chương trình cải thiện môi trường đô thị và nông thôn, hỗ trợ nhẹ thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm phát triển nông nghiệp bền vững.

Thứ ba, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống

98 Chuẩn nghèo của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội là 500.000 đồng/người/tháng cho thành thị và 400.000 đồng/người/tháng cho nông thôn. 99 Theo Báo cáo mới cập nhật của Ngân hàng thế giới: Chuẩn nghèo của quốc tế (tương đương 653.000 đồng/người/tháng ho c 2,25 đô la Mỹ/người/ngày, PPP 2005)

Nhờ sự tài trợ vốn ODA thông qua các Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững và chương trình t n dụng Hỗ trợ giảm nghèo của World Bank (Chương trình PRSC tổng số vốn 3 tỷ USD), nhờ đó, Việt Nam đ hoàn thành mục tiêu về xóa đói giảm nghèo cùng cực và thiếu đói từ năm 2002; Tỷ lệ nghèo của Việt Nam đ giảm mạnh từ mức gần 60% vào đầu những năm 1990 xuống còn 14,2%98 vào năm 2010 và 5,8% năm 2014 theo chuẩn nghèo của Việt Nam và 20,7% theo chuẩn nghèo của quốc tế99, vượt Mục tiêu Thiên niên Kỷ số 1 của Liên hiện Quốc trước 7 năm. Lĩnh vực giáo dục và y tế cũng được quan tâm hỗ trợ từ nguồn ODA, nhiều trường tiểu học, trạm y tế đ được xây mới, cải tạo bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Chợ Rẫy, chất lượng dịch vụ y tế được nâng cao, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia, các chương trình tiêm chủng mở rộng; hệ thống trường dạy nghề; phòng chống tệ nạn xã hội và ình đẳng giới; các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh, thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi; … Nhờ đó, Việt Nam cũng đạt được những thành tựu ấn tượng trong giáo dục và y tế: hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2010; tỷ lệ nhập học ở bậc tiểu học của người nghèo đạt mức hơn 90% và ở bậc trung học cơ sở là 70%; thành công trong việc kiểm soát bệnh sốt rét, một số dịch bệnh nguy hiểm, ước đầu ngăn ch n được sự lây lan của HIV; Tỷ suất tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi đ giảm hơn một nửa trong hai thập kỷ qua, từ 5,8% năm 1990 xuống còn 2,29% năm 2014; Cơ ản hoàn thành mục tiêu về ình đẳng giới; tăng tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 (1992) lên 73 (2012).

183

Thứ tư, tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, góp phần

thu hút, mở rộng các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế đất nước.

Cùng với nguồn vốn ODA, tổng số vốn FDI đăng ký ước đạt 220 tỷ USD từ năm 2006 đến 2015, vốn FDI giải ngân 10-11 tỷ USD/năm cũng là động lực quan trọng hỗ trợ kinh tế Việt nam vượt qua thách thức để đổi mới và hội nhập. Trong những giai đoạn khó khăn như khủng hoảng, ảnh hưởng bởi thiên tai, nguồn vốn ODA góp phần ổn định tiêu dùng trong nước, từ đó góp phần hồi phục nền kinh tế. Sự kết hợp giữa vốn vay nước ngoài cùng với đầu tư trong và ngoài nước để phát triển các ngành kinh tế mang lại hiệu quả cao, thúc đẩy kinh tế phát triển. DN ngoài nhà nước và DN FDI lần lượt đóng góp hơn 40% và 32,2% vào tăng trưởng GDP cuối năm 2013. Đ c biệt, hiệu quả đầu tư của khu vực DN tư nhân cao nhất, hệ số ICOR thấp trong 3 khu vực (3,63 lần giai đoạn 2011-2013), đóng góp khoảng 22% vào NSNN giai đoạn 2006-2013; Các Doanh nghiệp FDI cũng ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đóng góp 67% về giá trị xuất khẩu và luôn là khu vực xuất siêu.

Thứ năm, hỗ trợ phát triển chính sách, thể chế và cải cách công

Bên cạnh vai trò là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển, ODA còn góp phần hỗ trợ phát triển chính sách, thể chế và cải cách hành chính công, bảo vệ môi trường, phát triển giao dục đào tạo, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ…, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Trong lĩnh vực tăng cường năng lực thể chế, các nhà tài trợ đ hỗ trợ xây dựng 05 Nghị định của Chính phủ trong thời kỳ 1994-2013 đồng thời hỗ trợ kỹ thuật để nghiên cứu chính sách kinh tế phục vụ xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và các kế hoạch 5 năm, xây dựng các văn ản luật và dưới luật, cải cách hệ thống tài chính – ngân hàng, hệ thống DNNN, đẩy mạnh quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư…

Trong xu hướng cải cách tài chính công, Việt Nam đ thực hiện thành công chương trình tái cơ cấu lại các khoản nợ nước ngoài, giảm được nghĩa vụ trả nợ Chính phủ trên 12 tỷ USD, qua đó, góp phần cơ cấu lại ngân sách nhà nước để tập trung vốn cho việc đầu tư thực hiện các mục tiêu phát triển KTXH. Với việc sử dụng một phần vay mới để đảo nợ với kỳ hạn dài hơn, l i suất thấp hơn, góp phần giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn, chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn so với tổng thu NSNN đ giảm từ mức 22,3% năm 2013 xuống mức 14,2% năm 2014. Bên cạnh đó, ODA đ góp phần chuyển giao được các kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến cho các cơ quan và trung tâm nghiên cứu cũng như các Bộ, Ngành và địa phương Việt Nam (như Dự án phát triển hạ tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu Công nghệ cao Hòa Lạc…).

184

3. Một số rủi ro tiềm ẩn từ việc vay nợ ODA và vay nợ nước ngoài nói

chung

Việc quản lý và sử dụng vốn ODA hiện nay còn bộc lộ nhiều bất cập khiến nguồn vốn ODA nói riêng và nguồn vốn vay nước ngoài nói chung chưa được phân bổ, sử dụng thực sự hiệu quả cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đồng thời gây gánh n ng trả nợ tương lai.

Thứ nhất, những bất cập trong quản lý và sử dụng vốn ODA khiến lợi ích thu được hạn chế, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế: (i) Tình trạng chậm tiến độ chưa được giải quyết triệt để dẫn đến nhiều trường hợp phải gia hạn thời gian thực hiện ho c phải cắt giảm, hủy một số hạng mục; (ii) Việc quản lý ODA hiện nay còn chồng chéo về cả khung pháp lý và trách nhiệm thực tế; (iii) Vai trò giám sát, quản lý Nhà nước của các Bộ, Ngành ở một số dự án ODA còn hạn chế do chất lượng nhân sự không ổn định, thông tin không đầy đủ, việc xử lý những vấn đề phát sinh mất thời gian; tính linh hoạt trong xử lý những phát sinh trong quá trình quản lý các Dự án ODA còn hạn chế. Do đó, t nh chung trong 20 năm qua, tỷ lệ giải ngân vốn ODA chỉ đạt khoảng 73,2% vốn ODA ký kết, hay còn đến khoảng 30% (tương đương 21 tỷ USD) vốn ODA chưa được giải ngân trong tổng số vốn đ ký kết. M c dù tổng vốn đầu tư x hội tăng cao lên tới 41,45%/GDP song hiệu quả sử dụng vốn vay thấp khiến tăng trưởng kinh tế có sự giảm sút mạnh trong năm 2009 và năm 2012 – mức thấp nhất trong vòng 10 năm. Riêng các dự án của WB, hiện nay tốc độ giải ngân của Việt Nam chỉ đạt khoảng 50%/năm, t nh đến đầu năm 2015, có đến 8 dự án bị WB đưa vào danh sách đen do chậm tiến độ, điển hình có dự án sau gần 7 năm thực hiện chỉ giải ngân được 2% tổng vốn.

Thứ hai, vay vốn ODA và nợ nước ngoài khiến quy mô nợ công tăng nhanh, gánh n ng trả nợ tăng dần. Với hầu hết các khoản nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ công là các khoản vay ODA nên sự tăng nhanh của vốn ODA từ 13.866 tỷ USD lên 61.563 tỷ USD vào năm 2015, khiến tổng nợ nước ngoài tăng và kéo theo là quy mô nợ công tăng nhanh. Với thâm hụt ngân sách ở mức cao 5,3%GDP, theo dự báo của Bộ tài chính, nợ công cả năm 2015 sẽ ở mức hơn 100 tỷ USD và chiếm khoảng 64%GDP, nợ nước ngoài khoảng 45%GDP, tiệm cận mức an toàn (nợ công/GDP dưới 65% và nợ nước ngoài quốc gia/GDP dưới 50%) và tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất là trong điều kiện thâm hụt ngân sách cao và dự trữ ngoại hối mỏng (dự trữ ngoại hối đến đầu năm 2015 đ được cải thiện lên mức 12,5 tuần nhập khẩu từ mức ~7 tuần nhập khẩu năm 2011 song tỷ lệ Dự trữ ngoại hối/tổng dư nợ ngắn vẫn thấp hơn nhiều so với mức khuyến nghị của WB là trên 200%. Rủi ro càng lớn dần khi ưu đ i giảm dần và điều kiện vay nước ngoài ch t chẽ hơn trong các khoản vay ODA kể từ sau năm 2010 khi Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình.

185

Với tốc độ tăng quy mô tăng nhanh cộng với các khoản nợ gốc đến hạn trong giai đoạn này, nhiều khả năng, tỷ lệ nợ công phải trả (nợ gốc và lãi) so với tổng thu NSNN có nguy cơ tiến đến sát vượt ngưỡng cảnh báo 25%. Gánh n ng này có thể để lại hậu quả xấu cho các thế hệ trong tương lai. Nếu để tình trạng quá nghiêm trọng, nền kinh tế quốc gia có thể bị suy thoái và dẫn đến một loạt các vấn đề liên quan kéo theo về môi trường, văn hóa, x hội. Thực tế, nợ nước ngoài tăng nhanh (trung ình 22% một năm trong 20 năm), cao hơn nhiều so với mức tăng danh nghĩa của GDP (trung bình 16% một năm). Theo thống kê của Bộ Tài Chính nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam đ tăng từ 15,2% năm 2006 lên 44,5% năm 2010, ngoài sự gia tăng nguồn vốn ODA, phần nợ của doanh nghiệp không có bảo lãnh với lãi suất cao tăng mạnh hơn nhiều (125%). M c dù nợ nước ngoài của Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn và chưa phải là vấn đề quá nghiêm trọng song nếu xu hướng tăng nhanh không đi kèm với hiệu quả sử dụng cao sẽ chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn cho nền kinh tế và gánh n ng trả nợ tương lai.

Thứ ba, rủi ro liên quan đến biến động lãi suất và tỷ giá: Nhật Bản và IDA là hai chủ nợ lớn nhất của Việt Nam (chiếm 40% các khoản nợ ODA). Các khoản vay ODA của Việt Nam hiện nay là bằng đồng Yên, khoảng trên dưới 30%. Trong khi đó tỷ giá đồng Yên rất dao động, sự lên giá của đồng yên và lãi suất sẽ khiến gánh n ng trả nợ của Việt Nam tăng lên. Thực tế hiện nay, các khoản vay trong tổng vốn vay ODA của Việt Nam với lãi suất ưu đ i 1-3% chỉ chiếm khoảng dưới 70%, còn lại là các khoản vay với lãi suất cao hơn ho c lãi suất thả nổi.

III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ ĐỀ XUẤT

Ch ng đường đổi mới 20 năm đang khép lại, trên cơ sở t ch lũy của ch ng đường đổi mới, khắc phục những tồn tại, bất cập liên quan đến thể chế, tư duy nhất là trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với thế giới, năm 2015 được coi là thời điểm cần thiết để khởi động “Công cuộc Đổi mới và hội nhập lần thứ II với tầm nhìn đến năm 2030”, trong đó xác định mốc thời gian để để trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và những ước đi cần thiết để tận dụng cơ hội mới trong hội nhập, khắc phục những hạn chế nội tại, biến động phức tạp của kinh tế thế giới. Việc thực hiện kết hợp giữa ước đi tuần tự và những ước nhảy vọt, đột phá ở những thời điểm phù hợp sẽ tạo niềm tin vững chắc để cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân vững tin trên ch ng đường CNH, HĐH tiếp theo, nhằm rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước, nhanh chóng đưa đất nước từ tình trạng nước thu nhập trung bình trở thành nước công nghiêp hóa hiện đại với cơ cấu kinh tế hợp lý vào năm 2030.

Để phục vụ cho giai đoạn tới 2016-2020 và tầm nhìn đến năm 2030, nhu cầu vốn là rất lớn (trung bình 1.200 nghìn tỷ đồng/năm) song nợ công và thâm hụt ngân sách lại ngày càng tăng, nguồn vốn ODA đang thu hẹp, điều kiện vay ch t chẽ hơn và

186

mức độ ưu đ i giảm dần. Vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA nói riêng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư x hội nói chung trở nên ngày càng cấp thiết. Thông qua đánh giá ch ng đường 20 năm và vai trò của vốn ODA, đồng thời dựa trên kinh nghiệm thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý ủy thác và cho vay bán buôn nguồn vốn ODA trong 20 năm qua, BIDV đề xuất một số kiến nghị về nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn ODA gắn với các giải pháp về phát triển kinh tế đất nước thời gian tới nhằm thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế xã hội, đưa đất nước phát triền bền vững theo tầm nhìn đến năm 2030. Cụ thể như sau:

3.1. Về nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng nguồn vốn ODA

- Bên cạnh đánh giá và nâng cao hiệu quả vốn ODA, Chính phủ cần mở rộng, đa dạng hóa đối tượng các nhà tài trợ để tìm các nguồn vốn phù hợp theo định hướng lớn như sau: (i) Tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA cho các Dự án phát triển kinh tế xã hội phù hợp với nhu cầu CNH-HĐH đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030, đ c biệt là các chương trình, dự án phát triển kinh tế vùng, liên kết vùng, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ…; (iii) Phát huy kinh nghiệm từ sự thành công của chuỗi Dự án Tài chính Nông thôn do BIDV là chủ dự án, tăng cường tài trợ các dự án kết hợp tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật, đối thoại chính sách để phát triển nông nghiệp, nông thôn và công nghiệp chế tạo liên kết với khu vực DN FDI.

- Hoàn thiện hệ thống văn ản pháp quy của Việt Nam theo hướng hài hòa với quy trình và thủ tục của Nhà tài trợ: (i) Sửa đổi điều 7/Nghị định 78/2010/NĐ-CP ngày 14/7/2010 về lãi suất cho các TCTD vay lại từ nguồn vốn vay nước ngoài (Hiện nay lãi suất cho vay lại được tính bằng rủi ro tỷ giá (6%), cộng lãi suất vay nước ngoài (đối với nguồn WB là 2,0%) và phí của Bộ Tài chính (0,2%), sau khi cộng thêm chênh lệch cho các ngân hàng (khoảng 4%) sẽ làm cho lãi suất đến người vay trở lên quá cao, các dự án sẽ không thực hiện được nên cần điều chỉnh hợp lý; (ii) Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ ngành xây dựng văn ản hướng dẫn thi hành Nghị định 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 về Quản lý và sử dụng nguồn ODA và ban hành các quy định, quy trình cụ thể để các thành phần kinh tế tư nhân có thể tiếp cận và vay ODA, đ c biệt các dự án quan trọng như giao thông, năng lượng, cấp thoát nước, khai thác chế biến khoáng sản,...

- Đổi mới phương thức bổ sung nguồn vốn đối ứng cho các dự án/chương trình thông qua các hình thức: (i) Tăng cường thu hút các nguồn lực của xã hội để bổ sung nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA như hình thức BOT, BT, PPP, qua đó giảm gánh n ng cho Ngân sách Nhà nước; (ii) Mở rộng áp dụng hình thức cho các NHTM vay lại và giải ngân các dự án ODA có cấu phần tín dụng, có thể dưới hình thức là ngân hàng án uôn (như Dự án tài chính nông thôn) ho c là ngân hàng bán lẻ

187

nguồn vốn Dự án (trong dự án Năng lượng tái tạo, Dự án Cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ,…), theo đó các ngân hàng tham gia sẽ tự thu xếp phần vốn đối ứng cho dự án; (iii) Huy động vốn đối ứng thông qua việc vay vốn các NHTM trực tiếp ho c qua phát hành trái phiếu.

- Xây dựng mô hình mới trong việc tổ chức vận động, thu hút và quản lý các dự án vay vốn nước ngoài (các dự án có khả năng thu trả nợ đủ điều kiện cho vay lại): Lựa chọn một định chế tài chính, TCTD có kinh nghiệm về tín dụng đầu tư phát triển (điển hình là BIDV), là đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm thực hiện thẩm định, đề xuất cơ chế tài chính áp dụng đối với dự án, điều kiện vay áp dụng cho Dự án, phối hợp với Bộ ngành trong việc đàm phán các điều kiện Hiệp định vay với Nhà tài trợ nước ngoài và quản lý triển khai thực hiện trong nước.

3.2. Về một số giải pháp nhằm đẩy mạnh 03 đột phá chiến lược trong tiến

trình hội nhập

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới nhận thức về phát triển và sử dụng nhân lực quyết liệt hơn nữa trong cải cách thủ tục hành ch nh, theo hướng công khai, minh bạch nhằm phát huy tối đa sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, hoàn thiện cơ chế, ch nh sách theo hướng tạo môi trường thuận lợi, cạnh tranh ình đẳng cho nhà đầu tư nước ngoài

- Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, và địa phương sớm xây dựng kế hoạch, quy hoạch các khu, cụm công nghiệp hình thành chuỗi giá trị sản xuất – chế biến - tiêu thụ đến năm 2020. Theo đó, Ch nh phủ chỉ đạo Bộ KH&ĐT, Bộ công thương, Bộ tài chính và các Bộ ngành liên quan: (i) Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp trong các khu, các vùng công nghiệp liên kết sử dụng sản phẩm, dịch vụ của nhau vừa phát triển được các ngành công nghiệp hỗ trợ, vừa tăng hàm lượng công nghệ trong sản phẩm và tăng khả năng tiếp cận thị trường trong giai đoạn hội nhập; (ii) Tăng cường tận dụng và chuyển giao, phát triển công nghệ từ các đối tác nước ngoài, đ c biệt là các tập đa quốc gia trong quá trình hội nhập thương mại và đầu tư quốc tế (tham gia TPP, AEC và Hiệp định FTA giữa VN-EU, Việt Nam-Hàn Quốc...).

- Bộ công thương, Bộ KH&ĐT và các Bộ ngành tăng cường phổ biến thông tin hội nhập đến các doanh nghiệp và người dân; Các doanh nghiệp và các đối tượng liên quan chủ động nắm bắt thông tin và các lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế để chủ động đưa ra các chiến lược hoạt động, chính sách mới về thị trường, sản phẩm, quản trị để tạo ra các lợi thế cạnh tranh phù hợp với môi trường hội nhập mới, tập trung vào các vấn đề về an toàn thực phẩm, môi trường và vấn đề về sở hữu trí tuệ, bản quyền - hiện đang là điểm yếu của các DN Việt Nam.

188

THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM LÀ

NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH

PGS.TS. Nguyễn Ng c Sơn Trường Đại h c Kinh tế Quốc dân

1. Đặt vấn đề

Thời gian qua, Việt Nam thu hút được nhiều nguồn ODA của các tổ chức đa phương cũng như ODA song phương và các nguồn này đ có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng cường phúc lợi xã hội. Việt Nam hiện là quốc gia nhận được nguồn vốn ODA tương đối nhiều so với các nước cùng nhóm thu nhập. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, từ năm 1993-2014, các tổ chức quốc tế và chính phủ nước ngoài đ ký kết tài trợ khoảng 78 tỉ đô la Mỹ cho Việt Nam, bao gồm phần lớn là vốn vay ưu đ i (khoảng gần 90%) và một phần viện trợ không hoàn lại. Năm 2013, số vốn ODA được ký kết chiếm tới 4,1% tổng thu nhập quốc gia (GNI) của Việt Nam. Trung ình trong năm 2013, mỗi người dân Việt Nam nhận được 56,62 đô la Mỹ vốn ODA, cao hơn rất nhiều mức trung ình 13 đô la Mỹ của 22 quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp bao gồm cả Việt Nam.

Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng vốn ODA hiện nay chưa thực sự gắn với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như quy hoạch phát triển của các địa phương và vùng lãnh thổ do vậy hiệu quả sử dụng vốn ODA chưa cao. Hơn nữa, Việt Nam đ trở thành nước thu nhập trung bình, Việt Nam sẽ phải chuyển sang vay các nguồn vốn kém ưu đ i hơn từ Ngân hàng Thế giới như nguồn vốn từ IBRD. Trong vòng mười năm tới, nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA khó có thể tăng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và vì lẽ đó sẽ chiếm một phần nhỏ hơn trong tổng đầu tư phát triển. Viện trợ không hoàn lại và những hình thức ưu đ i nhất của các nhà tài trợ sẽ trở nên ngày càng khan hiếm hơn trong ối cảnh Việt Nam là nước thu nhập trung bình. Việt Nam sẽ bắt đầu quá trình “tốt nghiệp”, khi đó Việt Nam chuyển từ nguồn vốn vay ưu đ i của IDA sang nguồn vốn có lãi suất cao hơn của IBRD và chuyển sang dựa vào thị trường tài ch nh tư nhân nhiều hơn. Việt Nam phải tận dụng thời gian của những năm tới để phát triển các thể chế tài chính có khả năng cung cấp nguồn vốn dài hạn cho đầu tư phát triển, nhất là cho cơ sở hạ tầng và giảm nghèo.

Bên cạnh đó, còn nhiều bất cập trong việc thu hút và sử dụng vốn ODA ảnh hưởng đến việc kêu gọi tài trợ vốn ODA g p nhiều khó khăn. Vấn đề quan trọng của Việt Nam trong bối cảnh mới là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i.

189

Bài viết tập trung vào 3 vấn đề lớn: thứ nhất, thực trạng thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam giai đoạn 1993-2014; thứ hai, những vấn đề đ t ra đối với thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam; thứ a, định hướng và giải pháp thu hút ODA trong bối cảnh Việt Nam đ trở thành nước có thu nhập trung bình.

2. Tình hình thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam

Tháng 11/1993, Hội nghị bàn tròn về viện trợ cho Việt Nam được tổ chức tại Pa-ri dưới sự chủ trì của Ngân Hàng Thế Giới (WB) là thời điểm khởi đầu cho việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam sau Đổi mới. Các năm tiếp theo, các hội nghị viện trợ cho Việt Nam đổi tên thành Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (Hội nghị CG). Sau hơn 20 năm, Việt Nam có 51 nhà tài trợ bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương đang hoat động thường xuyên tại Việt nam.

Ngoài ra, có khoảng 600 nhà tài trợ là các Tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động tại Việt Nam với số vốn trên 200 triệu USD chủ yếu dành cho viện trợ nhân đạo và người dân vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. Tình hình thu hút và sử dụng ODA được thể hiện trong Bảng 1.

Bảng 1: Tình hình ODA của Việt Nam giai đoạn 1993-2014

Đơn vị: Triệu đô la

Cam kết (C)

Ký kết (S) Giải ngân (D) % S/C* % D/S*

Năm

1993

1.860,80

816,68

413

0,44

50,57

1994

1.958,70

2.597,86

725

1,33

27,91

1995

2.311,50

1.443,53

737

0,62

51,06

1996

2.430,90

1.597.42

900

0,66

56,34

1997

2.377,10

1.686.01

1.000

0,71

59,31

1998

2.192,00

2.444.30

1.242

1,12

50,81

1999

2.146,00

1.507.15

1.350

0,70

89,57

2000

2.400,50

1.773.12

1.650

0,74

93,06

2001

2,399,10

2.433,17

1.500

1,01

61,65

2002

2.462,00

1.813,56

1.528

0,74

84,25

2003

2.839,40

1.785,89

1.422

0,63

79,62

2004

3.440,70

2.598,14

1.650

0,76

63,51

2005

3.748,00

2.610,29

1.787

0,70

68,46

2006

4.445,60

2.945,69

1.785

0,66

60,60

2007

5.426,60

3.911,73

2.176

0,72

55,63

190

2008

5.914.67

4.359,55

2.253

0,74

51,68

2009

8.063,87

6.217,04

4.105

0,77

66,03

2010

7.905,51

3.207,38

3.541

0,41

110,40

2011

7.386,77

6.814,46

3.650

0,92

53,56

2012

6.486,00

5.869,36

4.183

0,90

71,27

2013

6.500,00

4.593,52

4.500

0,70

97,96

2014

4.362,13

5.600

-

128,6

63%

Tổng số (1993-2013)

78,195.72

58,432.33

37,597.00

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Giai đoạn 1993-2013 số vốn cam kết tài trợ cho Việt Nam là 78,1 tỷ USD, số vốn ODA đ ký kết là 58,4 tỷ USD và đ được giải ngân là 37,5 tỷ USD (Bảng 1). Trong đó, vốn ODA vay ưu đ i chiếm khoảng 80%, vốn ODA viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 20%. Trong giai đoạn này, Việt Nam đ ký kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế cụ thể về vốn ODA tổng giá trị 58,4 tỷ USD, tương đương với 75% trên tổng số vốn ODA cam kết.

Trong giai đoạn 1993-2014, tính trung bình, mỗi năm ODA cam kết đạt 3.909,7 triệu USD, tỷ lệ ODA trung bình ký kết so với cam kết là 71% , tỷ lệ ODA giải ngân so với ký kết đạt trung bình mỗi năm 65%.

Xét về số tuyệt đối thì nguồn vốn ODA được giải ngân qua các năm tăng lên đáng kể với 0,413 tỷ USD vào năm 1993, tăng lên 1 tỷ USD vào năm 1997 và đạt 1,5 tỷ USD vào năm 2001, vào năm 2007 là 2,176 tỷ USD , và 4,5 tỷ USD năm 2013 đạt tỷ lệ giải ngân cao khoảng 97%. Năm 2014 nguồn vốn ODA giải ngân được khoảng 5,6 tỷ USD. Tuy nhiên, từ các số liệu về vốn ODA được giải ngân qua các năm so với vốn ODA đ ký kết chưa giải ngân lũy kế thì thấy rằng trong giai đoạn từ năm 1993 - 2008 tỷ lệ giải ngân giảm một cách rõ rệt, cụ thể năm 1993 tỷ lệ này đạt 51% năm 2000 đạt 22% và đến năm 2008 tỷ lệ này chỉ còn 14%. Điều này thể hiện khả năng tận dụng vốn ODA cho đầu tư phát triển kinh tế tại Việt Nam còn nhiều hạn chế. Những năm cuối của giai đoạn 2008-2013, tỷ lệ giải ngân vốn ODA đạt mức cao hơn nhiều so với giai đoạn trước và ghi nhận ở mức 97% năm 2013 cho thấy những nỗ lực đáng kể của chính phủ và các bộ, ngành, địa phương trong lĩnh vực này.

Cơ cấu vốn ODA tại Việt Nam

Các nhà tài trợ đa phương lớn nhất ở Việt Nam là Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Liên Hợp Quốc (UN), Quỹ tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Công Đồng Châu Âu (EU). Trong khi đó các nhà tài trợ song phương là Nhật Bản, Pháp, Thụy Điển, Đan Mạch, Vương Quốc Anh. Mỗi nhà tài trợ có mối quan

191

tâm và danh mục chương trình, dự án khác nhau. Nhật Bản là nhà viện trợ lớn nhất của Việt Nam, chiếm trên 30% tổng cam kết của các nước cho Việt Nam. Hiện nay, viện trợ của Nhật Bản cho các nước bị sụt giảm do nền kinh tế Nhật Bản g p khó khăn của suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước được nhận viện trợ nhiều ODA nhất của Nhật Bản. Chính sách của Nhật Bản về cung cấp ODA cho Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực sau: như c đầu tư vào cơ sở hạ tầng, Năng lượng điện, Phát triển nguồn nhân lực, cải cách kinh tế bao gồm cả cải cách doanh nghiệp nhà nước, Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung như cải thiện mức sống và điều kiện xã hội, phát triển đô thị; Phát triển nông thôn và Bảo vệ môi trường.

Đứng sau Nhật Bản là Ngân Hàng Thế Giới (WB). Thông qua việc sử dụng nguồn vốn ưu đ i, viện trợ không hoàn lại của WB, Chính phủ Việt Nam đ thiết lập quan hệ đối tác ch t chẽ với WB nhằm giải quyết các thách thức trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam. WB nối lại hoạt động của mình tại Việt Nam từ tháng 09 năm 1993, thông qua Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) là kênh cung cấp nguồn vốn cho vay ưu đ i của WB. Cho đến nay, Ngân hàng thế giới đ cam kết tài trợ cho Việt Nam trên 7,2 tỷ USD và đ góp phần phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. WB quan tâm dành vốn ODA cho Việt Nam vào các chương trình dự án thuộc lĩnh vực phát triển nông thôn, năng lượng, giao thông, phát triển đô thị, giáo dục, y tế và cải cách ngành tài chính. Việt Nam hiện nay đ trở thành một trong những nước trong khu vực hưởng thụ lớn từ nguồn ưu đ i của WB.

C cấu vốn ODA theo ngành, lĩnh vực

Cơ cấu phân bổ vốn ODA theo ngành và lĩnh vực trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực đầu tư cần lượng vốn lớn như: Giao thông vận tải và ưu chính viễn thông chiếm khoảng 30%, đứng thứ nhì là lĩnh vực năng lượng và công nghiệp chiếm 18%, lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp với xóa đói giảm nghèo là 15%, môi trường (cấp nước và vệ sinh..) chiếm 14%, Y tế - xã hội 4%, giáo dục và đào tạo 4%, ngành khác (khoa học kỹ thuật, thể chế) chiếm 15%.

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Hình 2. C cấu vốn ODA theo ngành, lĩnh vực giai đoạn 1993 -2014

192

3. Một số vấn đề trong thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam

Trong thời gian vừa qua, với nỗ lực của Chính phủ Việt Nam và sự quan tâm của các nhà Tài trợ trên thế giới nên việc thu hút vốn ODA cho phát triển kinh tế của Việt Nam đ đạt được nhiều ước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, trong công tác thu hút và sử sụng vốn ODA vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể:

Thứ nhất, tỷ lệ giải ngân vốn ODA còn thấp

Giai đoạn 1993-2013, vốn ODA giải ngân được 37,597 tỷ USD đạt 63% trên tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam trong giai đoạn này. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA Việt Nam thấp hơn mức giải ngân trung ình các nước ASAN, đ c biệt là giai đoạn 1993-2005. Trong giai đoạn 1993 – 2013 tổng số vốn chưa giải ngân t ch lũy lên tới 22,157 tỷ USD. Số vốn tồn đọng cùng với số vốn ký kết mới sẽ tạo áp lực lớn đối với Việt Nam trong thời gian tới.

Nguyên nhân tình hình tỷ lệ giải ngân vốn ODA thấp

(1) Công tác giải ngân vốn ODA thực hiện rất nghiêm ng t, việc giải ngân phải tuân thủ đúng quy trình và các thủ tục giải ngân của Nhà tài trợ, đồng thời phải tuân thủ các quy định giải ngân trong lĩnh vực đầu tư công của Việt Nam. Công tác giải ngân một lúc phải tuân thủ hai hệ thủ tục làm mất nhiều thời gian.

(2) Chất lượng công tác chuẩn bị dự án còn hạn chế; thường nhiều thiếu sót, phải điều chỉnh bổ sung nhiều lần. Công tác chuẩn bị dự án của Cơ quan chủ quản, Chủ đầu tư còn chậm, chưa mang t nh hệ thống.

(3) Ch nh sách đền bù và giải tỏa còn bất cập, xảy ra khiếu kiện kéo dài làm chậm tiến độ bàn giao m t bằng cho dự án. Một trong những vấn đề nan giải và là nguyên nhân phổ biến gây ra sự chậm trễ trong giải ngân các dự án ODA là việc đền bù, giải phóng m t bằng và tái định cư. Nhất là các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng cần m t bằng lớn ở các thành phố lớn đông dân và nhà đất có giá trị cao. Chi phí dành cho đền ù và tái định cư rất lớn, đôi khi chi ph này chiếm đến 2/3 tổng chi phí của dự án. Ngân sách dùng cho công tác đền ù cho người dân bị ảnh hưởng thường bị thiếu và chậm. Chính sách và thủ tục đền bù giải phóng m t bằng còn rất phức tạp.

(4) Vốn đối ứng còn thiếu và phân bổ chưa hợp lý. Vốn đối ứng cho các dự án sử dụng nguồn vốn ODA hiện nay lấy từ các nguồn Ngân sách từ Chính phủ cấp, ngân sách địa phương và từ người dân đóng góp. Các tỉnh nghèo thì nguồn vốn góp từ người dân g p nhiều khó khăn, ngân sách địa phương cũng được phân chia theo kế hoạch nên nếu lấy ngân sách địa phương cấp cho các dự án ODA thì có thể thiếu vốn cho các dự án khác trong kế hoạch đ đề ra. Bên cạnh đó, các địa phương chưa xây dựng kế hoạch nguồn vốn đối ứng cho các dự án có sử dụng vốn ODA khi đề xuất dự

193

án, và các hiệp định được ký kết, địa phương cam kết đảm bảo nguồn vốn đối ứng nhưng khi thực hiện dự án thì không thực hiện được chuyển sang kiến nghị Trung ương hỗ trợ vốn đối ứng nên dự án chưa triển khai được. Vốn đối ứng phân bổ chưa hợp lý như các dự án có sử dụng vốn ODA thuộc Bộ, Ngành trung ương làm chủ quản việc bố trí vốn đối ứng cho các địa phương để phục vụ cho công tác quản lý tiểu dự án; giải phóng m t bằng và tái định cư nhưng khi được bổ sung vốn đối ứng lại tập trung về Bộ, Ngành trung ương. Một số Bộ, ngành trung ương đ có các dự án đầu tư lớn thuộc lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ về phát triển cơ sở hạ tầng như Bộ giao thông vận tải thường đề nghị bố tr lượng vốn đối ứng lớn song thực tế không giải ngân hết làm ảnh hưởng đến cân đối ngân sách chung.

Thứ hai, chi phí vốn vay thực tế không hoàn toàn rẻ

Chi phí của vốn vay ODA trên thực tế thường không rẻ. Các khoản vay ODA ưu đ i thường kèm theo những điều kiện như chỉ định thầu, ưu tiên nhà thầu nước ngoài, yêu cầu mua máy móc, thiết bị, vật liệu từ quốc gia tài trợ vốn ODA. Bằng các điều kiện này, các quốc gia tài trợ ODA đảm bảo được lợi nhuận cho các tập đoàn, tổng công ty của nước họ. Phần lợi ích dành cho các nhà thầu phụ Việt Nam chỉ chiếm phần nhỏ.

V dụ, dự án xây dựng cầu Nhật Tân (Hà Nội) được thực hiện ằng nguồn vốn vay của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) theo hình thức vốn vay đ c iệt (STEP) và một phần vốn đối ứng của Ch nh phủ Việt Nam. Theo quy định của điều kiện vay vốn, nhà thầu xây ch nh trong gói thầu xây lắp phải là nhà thầu Nhật Bản. Hầu hết các dự án khác cũng có tình trạng tương tự, như dự án Đường vành đai 3 (Hà Nội) do nhà thầu Sumitomo (Nhật Bản) thực hiện. Dự án thành phố ven sông có nhà thầu ch nh là POSCO - Hàn Quốc. Dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông phải mua tàu và chọn nhà thầu ch nh Trung Quốc.

M t khác, do các dự án thiếu t nh cạnh tranh nên chi ph đầu tư thực tế thường tăng hơn rất nhiều so với dự toán an đầu. V dụ “Dự án Xây dựng tuyến đường sắt đô thị th điểm thành phố Hà Nội, đoạn Nhổn - Ga Hà Nội” có dự toán là 783 triệu euro, trong đó vốn ODA là 653 triệu euro và vốn đối ứng từ ngân sách thành phố là 130 triệu euro. Song đến tháng 7-2014, dự án đ phải ổ sung 393 triệu euro, trong đó vay thêm 304,99 triệu euro vốn ODA. Dự án “Đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông sử dụng nguồn vốn ODA của Trung Quốc và vốn đối ứng của Ch nh phủ Việt Nam. Sau năm năm thi công thì tổng mức đầu tư được điều chỉnh tăng từ 552 triệu đô la Mỹ lên 891 triệu đô la Mỹ.

Rất khó để đánh giá ch nh xác những chi ph gia tăng này có thực sự cần thiết hay không nhưng trong nhiều trường hợp, có thể nói rằng việc phụ thuộc vào điều

194

khoản ODA khiến cho chi ph gia tăng khó ị kiểm soát và cuối cùng chi ph xây dựng công trình trở nên đắt đỏ hơn so với các công trình tương tự sử dụng vốn vay phi ODA.

Thứ a, năng lực quản lý và tổ chức của ban quản lý dự án còn bất cập

Ban quản lý dự án được chủ đầu tư thành lập và sử dụng pháp nhân của chủ đầu tư trong hoạt động của mình nên chưa giải quyết dứt điểm tình trạng khép kín trong quản lý đầu tư. Một thời gian dài, trong mô hình tổ chức chưa phân rõ quyền hạn và nghĩa vụ của chủ đầu tư với ban quản lý dự án, các Ban quản lý được giao quyền lực rất lớn nhưng không có cơ chế trách nhiệm. Như PMU18 được giao cho quản lý nhiều dự án và còn làm chủ dự án đế tổ chức đấu thầu hay chỉ định thầu một số dự án, hệ lụy là chất lượng công trình sau khi bàn giao bị thả nổi, phát sinh chi tiêu sai mục đ ch và thất thoát trong đầu tư.

Ban quản lý dự án có thể phải giải tán sau khi dự án chương trình kết thúc, điều này làm Chủ đầu tư khó khăn giải quyết nhân sự dôi ra; người lao động không an tâm trong công tác, rất khó thu hút được nhân sự tốt.

Đội ngũ cán ộ quản lý vốn ODA thường kiêm nhiệm; hạn chế về chuyên môn, trình độ ngoại ngữ. Năng lực của cán bộ quản lý vốn ODA ở các bộ ngành còn tương đối khả dĩ do được chuyên môn hoá và được đào tạo bồi dưỡng, có điều kiện thường xuyên tiếp cận với các nguồn thông tin cần thiết. Còn ở các địa phương, đỗi ngũ cán bộ làm công tác quản lý vốn ODA chưa được chuyên môn hóa, t được đào tạo và không có điều kiện tiếp cận với thông tin về chuyên môn.

Thứ tư, tính ền vững của các dự án ODA chưa cao

Tính bền vững là một trong các tiêu ch đánh giá của DAC. Có thể nhận thấy nhiều dự án phải kéo dài thời gian thực hiện, có khi gấp rưỡi thời gian hiệp định đ ký kết. Nhiều dự án sau khi kết thúc thiếu vốn duy tu, bảo dưỡng hay duy trì ho c không phát huy hết tác dụng ho c thậm ch đóng cửa dự án.

Thứ năm, tình trạng sử dụng sai mục đích, thất thoát và lãng phí trong sử

dụng ODA còn lớn.

Nhìn lại thực tiễn tại Việt Nam thời gian qua cho thấy tham nhũng và vấn đề tham nhũng trong sử dụng vốn ODA được Chính phủ quan tâm. Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, tham nhũng trong lĩnh vực sử dụng vốn ODA đ từng được cảnh áo, nhưng có lẽ do thiếu kinh nghiệm trong tổ chức trong quản lý để xảy ra tình trạng PMU 18, một trong những nơi được ưu ái được giao cho hàng trăm triệu USD từ nguồn vốn ODA và Trái phiếu chính phủ… và gần đây dự án Đại lộ Đông Tây mà đối tác Nhật Bản khai nhận đ đưa hối lộ để được ưu đ i các hợp đồng tư vấn

195

gây quan ngại cho dư luận và nhà tài trợ. Việt Nam đứng thứ hai trong danh sách 20 nước nhận được nhiều khiếu nại nhất liên quan đến tham nhũng. Thất thoát vốn không chỉ liên quan đến các dự án lớn (PMU 18, Cầu Thanh Trì, Cầu Hoàng Long, Dự án Đông Tây…) mà cả các dự án quy mô nhỏ. Bên cạnh đó tình trạng hủy khoản vay từ các nhà tài trợ có dấu hiệu gia tăng. Từ năm 2006 – 2012 có 174,3 triệu USD bị hủy trong danh mục của ADB, 12,8 triệu của JICa và 98,6 triệu USD của WB.

Thứ sáu, phân bổ ODA còn dàn trải và vào quá nhiều lĩnh vực

Do thiếu kinh nghiệm và tình hình thiếu vốn đầu tư diễn ra trong tất cả các lĩnh vực, các địa phương nên khi định hướng lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA phân bổ quá rộng và dàn trải. Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng bao gồm: giao thông, năng lượng, ưu ch nh viễn thông, cấp thoát nước; trong giao thông ODA phân bổ cho xây dựng đường bộ, cầu, cảng, sân ay, đường sắt; trong nông nghiệp có cả nông, lâm, ngư nghiệp…Nên việc sử dụng ODA vào nhiều dự án với quy mô không lớn sức lan tỏa của dự án không cao và tốn nhiều chi phí giao dịch trong triển khai dự án.

Thứ bảy, chưa quan tâm đúng mức đến việc tái cơ cấu vốn đầu tư của các dự

án có vốn ODA

Hiện nay, nguồn vốn đầu tư vào các dự án lớn như lĩnh vực xây dựng cơ cấu hạ tầng giao thông vận tải được chủ yếu đáp ứng từ NSNN, vốn ODA và trái phiếu chính phủ. Nguồn vốn ODA không phải lúc nào cũng thuận lợi, trong thời gian vừa qua việc giải ngân các dự án có sử dụng vốn ODA g p nhiều ách tắc. M t khác, trong bối cảnh Nam là nước có mức thu nhập trung bình (GDP ình quân đầu người trên 1.000 USD) nên nhận ít vốn ODA có nhiều ưu đ i hơn và các nhà tài trợ muốn tăng cho vay thương mại. Trong khi đó, Ch nh phủ chưa xây dựng mô hình cũng như thể chế pháp luật, chính sách khuyến khích và giải pháp hạn chế rủi ro để thu hút vốn từ thành phần kinh tế tư nhân tham gia vào lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ ản.

Thứ tám, ODA do các địa phương quản lý chiếm tỷ tr ng nhỏ trong tổng quy

mô vốn cam kết và thực hiện

Số liệu thống kê cho thấy, trong giai đoạn1993-2013, m c dù đạt được số vốn cam kết và giải ngân luỹ kế khá lớn (bảng 2.12), tỷ trọng vốn cam kết và giải ngân thuộc các chương trình, dự án do các bộ, ngành trung ương quản lý chiếm phần lớn (76% đối với cam kết và 87,9% tổng vốn giải ngân trong toàn giai đoạn); vốn ODA do các địa phương quản lý chiếm tỷ trọng nhỏ (21% tổng vốn giải ngân luỹ kế trong giai đoạn 1993-2013). Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến việc lồng ghép các chương trình ODA do các ộ/ngành quản lý vào kế hoạch nguồn vốn đầu tư của các địa phương phần nào trở nên khó khăn hơn do thiếu tính chủ động.

196

Thứ chín, ODA làm gia tăng nợ công và nợ nước ngoài

Trong Viện trợ phát triển chính thức, viện trợ không hoàn lại chỉ chiếm không quá 25% nguồn vốn, phần lớn các khoản viện trợ là khoản vau ưu đ i. Rõ ràng là ODA sẽ làm gia tăng nợ công, đ c biệt là nợ nước ngoài. Theo báo cáo chính thức của Chính phủ, nợ công cuối năm 2013 ằng 54,2%, dư nợ chính phủ bằng 42,3%, nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến đến hết năm 2014, dư nợ công bằng 60,3% (tăng 6,1%), dư nợ chính phủ bằng 46,9%, dư nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Theo con số tuyệt đối thì nợ công cuối năm 2013 lên gần 1,9 triệu tỉ đồng, hết năm nay dự kiến sẽ lên hơn 2,4 triệu tỉ. Do vốn dễ tiếp cận mà trách nhiệm của người đi vay không cao nên các dự án sử dụng vốn ODA có nguy cơ quản lý kém hiệu quả, nảy sinh tham nhũng, hối lộ giữa nhà thầu và ên đại diện dự án. Các hành vi tiêu cực này sẽ được hạch toán vào chi phí thực hiện khiến cho chi phí công trình bị đội lên rất cao. Nhưng do là vay nợ ODA nên cuối cùng gánh n ng nợ được chi trả bằng tiền thuế mà người dân đóng góp. X hội bị mất không một khoản thuế do không quản lý dự án hiệu quả và tham nhũng, hối lộ. Khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung ình, điều kiện vay sẽ ch t chẽ hơn, ODA đắt đỏ hơn. Điều này sẽ làm cho các vấn đề về nợ nước ngoài sẽ trở nên phức tạp hơn. Nếu không duy trì được tốc độ tăng trưởng và các nguồn thu ngoại tệ, cũng như giảm thất thoát, tham nhũng trong thu hút ODA thì Việt Nam cũng có thể đối m t với khủng hoảng nợ. Trước mắt, Việt Nam cần chủ động và tỉnh táo khống chế nợ ở ngưỡng an toàn, quyết định các chương trình, dự án mang tính khả thi cao, có sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng, của cộng đồng và các nhà khoa học . Bên cạnh đó phải t nh đến khả năng trả nợ trong nước.

4. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử dụng

hiệu quả ODA của Việt Nam

4.1. Định hướng thu hút sử dụng ODA trong thời gian tới

Với mục tiêu huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA và vay vốn ưu đ i, Ch nh phủ Việt Nam đ thông qua đề án thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đ i từ các nhà tài trợ thời kỳ 2011-2015. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam tiến hành hoàn thiện tổ chức, thể chế quản lý sử dụng ODA và vay vốn ưu đ i như an hành nghị định 38/2013/NĐ-CP thay thế nghị định 131/2006/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý và sử dụng ODA. Trong thời gian tới thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam cần được triển khai theo định hướng sau đây:

Thứ nhất, Việt Nam đ trở thành nước thu nhập trung ình, đo đó Việt Nam sẽ phải chuyển sang vay các nguồn vốn kém ưu đ i hơn từ Ngân hàng Thế giới như nguồn vốn từ IBRD. Trong vòng mười năm tới, nguồn hỗ trợ phát triển chính thức

197

ODA khó có thể tăng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và vì lẽ đó sẽ chiếm một phần nhỏ hơn trong tổng đầu tư phát triển. Viện trợ không hoàn lại và những hình thức ưu đ i nhất của các nhà tài trợ sẽ trở nên ngày càng khan hiếm hơn trong ối cảnh Việt Nam là nước thu nhập trung bình. Việt Nam sẽ bắt đầu quá trình “tốt nghiệp”, khi đó Việt Nam chuyển từ nguồn vốn vay ưu đ i của IDA sang nguồn vốn có lãi suất cao hơn của IBRD và chuyển sang dựa vào thị trường tài ch nh tư nhân nhiều hơn.

Thứ hai, Việt Nam phải tận dụng thời gian của những năm tới để phát triển các thể chế tài chính có khả năng cung cấp nguồn vốn dài hạn cho đầu tư phát triển, nhất là cho cơ sở hạ tầng và giảm nghèo.

Thứ a, trong giai đoạn 2016-2020 nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đ i đóng vai trò quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên, chỉ nên xem nguồn vốn này là nguồn vốn bổ sung, cần chuyển hướng sang các nguồn vốn của khu vực tư nhân (FDI, FII) nước ngoài và nguồn vốn trong nước (Doanh nghiệp, hộ gia đỉnh và vốn nhà nước).

Thứ tư, huy động và sử dụng ODA phải đảm bảo an ninh tài chính, an toàn nợ

công và hiệu quả kinh tế - xã hội.

Thứ năm, huy động và sử dụng ODA phải bền vững, minh bạch và có sự tham

gia của người dân.

Thứ sáu, đảm bảo tự chủ, sáng tạo và tỉnh táo trong việc huy động và sử dụng ODA, mạnh dạn từ chối những dự án không hiệu quả và không hù hợp với bối cảnh của Việt Nam hiện nay. Trong dài hạn chuyển từ con nợ chín muồi trong chu kỳ nợ sang giảm dần vay nợ thông qua ODA và cuối cùng là chấm dứt sử dụng ODA

4.2. Giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút và hiệu quả sử dụng ODA

của Việt Nam

4.2.1. Xây dựng một cơ chế phối hợp giữa Chính phủ và các nhà tài trợ

Xây dựng một cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan trung ương và các địa phương với các nhà tài trợ trong việc xây dựng dự án, cũng như cơ chế vận động thu hút ODA, cơ chế điều phối, theo dõi và quy trình thực hiện giám sát. Việc có cơ chế thống nhất sẽ nâng cao được khả năng vận động, thu hút và sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn ODA vì những dự án không khả thi, có vấn đề sẽ được loại bỏ và được thay thế bằng những dự án khả thi hơn. Đây ch nh là những cơ sở quan trọng tạo nên thành công của mỗi dự án, qua đó tạo niềm tin cho các nhà tài trợ và nâng cao khả năng thu hút vốn ODA từ các nước và các tổ chức quốc tế. Trong đó, đ c biệt chú trọng đến khâu chuẩn bị tốt dự án. Vì hiện tại đây là khâu Việt Nam còn yếu.

198

Thứ nhất, Việt Nam thiếu sự chủ động, linh hoạt trong việc xây dựng dự án, mà dựa chủ yếu vào các nhà tài trợ, do đó nhiều trường hợp nội dung dự án không phù hợp với phương hướng ưu tiên sử dụng ODA, không đáp ứng được yêu cầu về nội dung của công tác thẩm định, đánh giá theo quy định hiện hành. Hơn nữa Việt Nam thiếu hẳn công tác chuẩn bị và cân đối các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả.

Thứ hai, khâu nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi cũng chưa được thực hiện tốt. Trong thời gian vừa qua, các dự án ODA đều được tiến hành nghiên cứu khả thi sau khi đ ký Hiệp định vay vốn, dẫn đến việc các dự án phải mất một khoảng thời gian từ 6 tháng đến 1 năm không rút vốn để thực hiện những công việc nêu trên, gây lãng phí thời gian ân hạn quy định trong Hiệp định.

Hệ thống thông tin về ODA cũng cần sớm hình thành nhằm thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa giữa các bộ, trung ương và địa phương của Việt Nam và giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ.

Thứ nhất, các cơ quan của trung ương và địa phương cần trao đổi thông tin về các kế hoạch, nhu cầu và việc sử dụng vốn, tiến độ thực hiện các mục tiêu, chương trình… Điều này sẽ góp phần khuyến khích những sáng kiến, tăng cường sự hiểu biết về các quy định, thủ tục, xác định những nơi còn thiếu viện trợ…

Thứ hai, cần phải có một hệ thống các thông tin quản lý viện trợ trong đó có sự chia sẻ thông tin với cộng đồng tài trợ vì lợi ích chung của cả hai bên. Chia sẻ thông tin là một biện pháp không tốn kém mà lại đạt hiệu quả cao.

Bên cạnh nỗ lực của Việt Nam để tăng cường sự phối hợp giữa Việt Nam và các nhà tài trợ, cộng đồng các nhà tài trợ cần thực hiện các chương trình viện trợ theo phương thức tạo thông suốt cho quy trình ra quyết định và hạn chế đến mức tối thiểu sự phức tạp do có quá nhiều các dự án với những khác biệt về thủ tục, quy định và điều kiện tài trợ. Ví dụ như việc đơn giản hóa các yêu cầu về thủ tục và pháp lý đ c thù của từng nhà tài trợ, từng dự án để phối hợp hài hoà hơn với các thủ tục và yêu cầu của Chính phủ. Một trong những việc làm cụ thể mà Chính phủ Việt Nam và cộng đồng các nhà tài trợ cần làm là đẩy mạnh chương trình hài hoà thủ tục do WB khởi xướng đang được thực hiện.

4.2.2. Áp dụng cách tiếp cận viện trợ và mô hình viện trợ mới

Với việc trở thành nước có thu nhập trung bình và hội nhập ngày càng sâu rọng và nền kinh tế toàn cầu, nhiều nhà tài trợ cả song phương lẫn đa phương nhấn mạnh tiếp cận theo ngành, chương trình, hỗ trợ ngân sách trong chính sách viện trợ mới dành cho Việt Nam. Do vậy, để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh bổ sung và sửa đổi hệ thống văn ản pháp luật

199

để phù hợp với cách tiếp cận và mô hình viện trợ mới nhằm đảm bảo một m t bằng chung cho việc áp dụng các phương thức viện trợ. Thiết kế và bổ sung thiết chế tổ chức và trình tự thủ tục cho việc áp dụng phương thức hỗ trợ chương trình và các phương thức tài trợ mới khác theo hướng thể chế hóa việc tiếp cận theo chương trình, bắt đầu từ khâu vận động ODA, và các ngành, vùng, địa phương xây dựng các chương trình mục tiêu làm cơ sở để thu hút ODA, hạn chế tối đa các dự án đơn lẻ.

4.2.3. Linh hoạt hơn trong quy hoạch tổng thể và lập dự án

Quy hoạch tổng thể cần được điều chỉnh linh hoạt hơn trong việc thiết lập một lộ trình ưu tiên theo ngành và lĩnh vực khi lên kế hoạch vận động thu hút, cũng như sử dụng vốn ODA. Các dự án ODA đ cam kết cần được đưa vào cân đối trong kế hoạch hàng năm và được nhanh chóng hợp thức hoá bằng các Hiệp định vay vốn. Trong những năm tiếp theo, thu hút ODA cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực, vùng miền theo thứ tự cần ưu tiên như nông nghiệp nông thôn, thực hiện xoá đói giảm nghèo; năng lượng và công nghiệp; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường, cấp thoát nước và đô thị, đ c biệt là vùng sâu, vùng xa.

4.2.4. Cải tiến cơ chế quản lý nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng

vốn ODA

Môi trường ODA mới không những đòi hỏi phải thay đổi phương pháp quản lý mà cần phải tăng cường năng lực con người tham gia quá trình quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Trước tiên, cần nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan và cán ộ thẩm định dự án ở các bộ ngành, địa phương đ c biệt là chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật và ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lý. Công việc quản lý dự án ODA đòi hỏi các cán bộ dự án phía tiếp nhận phải rất chủ động và linh hoạt. Trong khi đó, trình độ chuyên môn và quản lý của cán bộ dự án Việt Nam, dù đ được cải thiện, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Chính vì vậy, cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ về các kỹ năng xây dựng, đánh giá và quản lý các dự án một cách thường xuyên; hỗ trợ, tăng cường năng lực cán bộ cấp tỉnh để đảm bảo khả năng tham gia tốt hơn vào quá trình quản lý các dự án cấp cơ sở. Mở các khóa học nâng cao, rèn luyện kỹ năng lập kế hoạch, triển khai dự án cho các cán bộ địa phương. Ngoài ra, phải tăng cường đào tạo chung về các lĩnh vực như những hướng dẫn của các nhà tài trợ trong việc thực hiện các thủ tục, đ c biệt trong công tác đấu thầu, thủ tục giải ngân, quản lý hợp đồng, giải phóng m t bằng và tái định cư. Bên cạnh đó, Bộ máy quản lý dự án cần được tổ chức, hoàn thiện theo hướng chuyên nghiệp.

4.2.5. Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA bằng việc chuẩn bị tốt

hơn vốn đối ứng

Nhìn chung, đối với mỗi dự án ODA, nhà tài trợ đều yêu cầu Chính phủ Việt

200

Nam phải cung cấp vốn đối ứng theo một tỷ lệ nhất định, qua đó nâng cao t nh trách nhiệm của Việt Nam, cũng như việc lựa chọn dự án ưu tiên. Như vậy, việc chuẩn bị tốt các nguồn vốn đối ứng sẽ nâng cao hiệu quả thu hút, thúc đẩy nhanh các dự án, cũng như củng cố lòng tin đối với các tài trợ. Các dự án vay vốn OECD ho c Ngân hàng thế giới thường quy định vốn đảm bảo trong nước bằng 15% tổng trị giá dự án; các dự án viện trợ của các tổ chức Liên Hợp Quốc thường yêu cầu vốn đảm bảo trong nước bằng 20% trị giá dự án. Nếu vốn đối ứng không được cung cấp đủ và kịp thời sẽ gây ra sự chậm trễ đối với tiến trình dự án. Do đó, ố tr đủ vốn đối ứng giúp cho quá trình triển khai dự án diễn ra nhanh hơn.

Nâng cao ý thức của các cán bộ trong tiếp nhận dự án ODA, vốn đối ứng cần được giao theo đúng địa chỉ của từng chương trình, dự án ODA cụ thể, không được tùy tiện cho các mục tiêu khác. Để đảm bảo cam kết về vốn đối ứng cần ưu tiên ố trí đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách hàng năm cho các chương trình, dự án thuộc diện được sử dụng vốn ngân sách nhà nước trước khi bố trí cho các nhiệm vụ chi khác.

4.2.6. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân

Tốc độ giải ngân thường thấp hơn kế hoạch vẫn là một hạn chế đáng quan tâm trong việc sử dụng nguồn vốn ODA của Việt Nam. Mức giải ngân ODA của Việt Nam hiện nay còn thấp hơn mức giải ngân trung bình trong khu vực. Đây là điều rất đáng lo ngại vì nếu không đẩy nhanh tốc độ giải ngân, Việt Nam sẽ không thực hiện đúng tiến độ đưa các công trình được tài trợ bằng ODA vào hoạt động, từ đó sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế, giảm hiệu quả sử dụng vốn, ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của đất nước, nhất là đối với các dự án có quy mô lớn như điện, đường sá. M t khác, tốc độ đầu tư công cộng chậm lại có thể ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tương lai. Bên cạnh đó, giải ngân chậm sẽ làm cho thời gian ân hạn của vốn vay bị rút ngắn, gây căng thẳng cho kế hoạch trả nợ của một số dự án.Và giải ngân chậm có thể làm giảm sút lòng tin của các nhà tài trợ và do đó có thể tác động tới mức gia tăng nguồn ODA trong những năm tới. Để đẩy nhanh tốc độ giải ngân, cần đảm bảo mọi vấn đề trong quá trình thực hiện dự án ODA phải được giải quyết một cách nhanh chóng và chính xác. Giải pháp quan trọng nhất là hoàn thiện môi trường pháp lý để không gây ra những bất cập trong quá trình thu hút, quản lý và sử dụng ODA như hiện nay.

4.2.7. Xây dựng cơ chế để khu vực tư nhân tiếp cận được nguồn ODA vốn vay

và tăng cường sự tham gia cộng đồng trong thu hút và sử dụng ODA

Trong thời gian tới khu vực kinh tế tư nhân cũng cần được tiếp cận ình đẳng với khu vực công trong tiếp cận ODA trên cơ sở chia sẻ trách nhiệm, lợi ích và rủi ro

201

cùng với Chính Phủ trong sử dụng nguồn vốn này. Để thực hiện được cần thể chế hóa sự tiếp cận của khu vực tư nhân ằng các văn ản quy phạm pháp luật với các hương dẫn, quy định cụ thể đối với từng phương thức ODA và đảm bảo an toàn vốn vay và giảm thiểu rủi ro.

Bên cạnh đó cần xây dựng cơ chế để khuyến kh ch công đồng (dân cư, nhà khoa học, nghiên cứu…) tham gia trong các khâu từ thu hút, vận động đến triển khai thực hiện và giám sát, đánh giá các dự án ODA. Trước hết cần xây dựng cơ chế minh bạch thông tin tới tất cả các ên như nhà nước, tổ chức dân sự, người dân và xây dựng cơ chế theo dõi đánh giá, giám sát các dự án ODA cũng như các cơ chế để các đối tượng hưởng lợi hiểu rõ về vai trò, quyền lợi, trách nhiệm của mình khi tham gia vào các dự án ODA.

1. Lê Quốc Hội (2007), “Định hướng sử dụng ODA”, Diễn đàn Phát triển Việt

Tài liệu tham khảo

2. Học viện quan hệ Quốc tế (2005), “Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam”,

Nam, Hà Nội.

3. Học viện Chính sách phát triển, Tăng cường thu hút vốn ODA gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và v ng lãnh thổ. Đề tài cấp bộ năm 2014.

4. Dương Đức ng (2008) “ODA và FDI có thể làm việc cùng nhau vì sự nghiệp phát triển”, Hai mươi năm đầu tư nước ngoài – Nhìn lại và hướng tới, NXB Tri thức, Hà Nội

5. Nguyễn Quang Thái, Trần Thị Hồng Thủy, Vốn ODA trong điều kiện mới,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 225 -240.

6. Nguyễn Quang Thái, Trần Thị Hồng Thủy, Chính sách viện trợ trong bối cảnh trở thành nước thu nhập trung bình của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 200 năm 2014.

7. Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội quốc gia, phân tích và dự báo xu thế dịch chuyển của dòng vốn FDI và ODA trên thế giới đến năm 2010. Giải pháp tăng cường thu hút FDI và ODA vào Việt Nam. Đề tài cấp bộ năm 2014.

8. Kimura, Hidemi (2007), “Is Foreign Aid a Vanguard of FDI? A Gravity-

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, tập 30 số 1 năm 2014.

9. Institute of International Finance, Inc, “Update on capital flows to emerging

Equation Approach”.

market economies”, 9/2006, 1/2007.

202

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN VỐN TƯ NH N ĐÁP ỨNG NHU CẦU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

PGS.TS Đặng Ng c Đức & TS. Đoàn Phương Thảo Viện Ngân hàng – Tài chính, Trường Đại h c Kinh tế Quốc dân

Tóm tắt

Nguồn vốn tư nhân có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở các nước phát triển trên thế giới và ngày càng có vai trò quan trọng hơn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam kể từ khi thực hiện xóa bỏ bao cấp và chuyển đổi của nền kinh tế. Nhận thức được điều đó, việc thu hút vốn tư nhân ở nước ta đã được đ c biệt chú trọng và khuyến khích trong thời gian qua. Trên thực tế, tỷ trọng vốn đầu tư của tư nhân trong tổng mức vốn đầu tư của nền kinh tế liên tục tăng: năm 2011 tăng 14% so với năm 2010 và tiếp tục ở mức tăng 11%, 13% và 19% tương ứng trong các năm tiếp theo 2012, 2013, 2014100. Hơn nữa, nguồn vốn thu hút từ khu vực tư nhân đã được đưa vào sử dụng ở nhiều lĩnh vực khác nhau góp phần đảm bảo hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê sơ bộ cũng như nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế thì tiềm năng vốn ở khu vực tư nhân nước ta vẫn còn rất lớn và chủ yếu được dự trữ dưới dạng vàng, tiền m t (gồm cả nội tệ và ngoại tệ mạnh) và các tài sản phi tài chính khác. Sự “dư thừa” nguồn vốn trong dân cư không chỉ là sự lãng phí to lớn nguồn lực tài chính mà còn nảy sinh những diễn biến rất phức tạp của thị trường ngoại hối và sự vận động “luẩn quẩn” của dòng vốn đi ra và đi vào Việt Nam. Điều rất đáng suy nghĩ là trong khi Nhà nước phải huy động vốn ở nước ngoài với lãi suất rất cao và với các cam kết ng t nghèo thì dòng vốn tư nhân ở Việt Nam lại được huy động và gửi sang nước ngoài với mức lãi suất thấp hơn. Nh m góp phần khắc phục những bất cập nêu trên, bài viết này trước hết sẽ tập trung phân tích thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn tư nhân, sau đó dựa trên các dự báo và định hướng cơ bản để đề xuất một số giải pháp khơi thông nguồn vốn tư nhân như là sự phát huy tối đa “nội lực sẵn có” để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.

Key words: Ngân sách Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chính sách

thu hút đầu tư tư nhân, hợp tác công – tư, ch nh sách tài khóa, trái phiếu Chính phủ.

1. Đặt vấn đề

100 Theo tính toán của nhóm tác giả tổng hợp từ www.mof.gov.vn, www.molisa.gov.vn, www.gso.gov.vn

Đảm bảo nguồn vốn cho phát triển và ổn định của nền kinh tế - xã hội luôn là điều thách thách với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Xét trên cả lý thuyết và thực tế,

203

tổng đầu tư vào nền kinh tế (I) chỉ có thể được hình thành từ nguồn vốn của Nhà nước (Ig) và nguồn vốn của nhân (Ip). Tuy nhiên, ở các nước kinh tế thị trường, vốn đầu tư của khu vực tư nhân được coi là nguồn lực quan trọng nhất bởi lẽ đầu tư tư nhân luôn chiếm tỷ trọng tuyệt đối và đầu tư của nhà nước chủ yếu được sử dụng như là công cụ điều tiết về cơ cấu và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Điển hình như các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Singapore, v.v… nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu dựa vào nguồn vốn tư nhân, quyết định và đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như sự phát triển bền vững về xã hội. Tại Singapore, quốc đảo nhỏ bé ở khu vực Đông Nam Á, tổng nguồn vốn đầu tư của tư nhân hàng năm cũng đ lên đến hàng trăm tỷ USD. M t khác, đầu tư của tư nhân luôn được đánh giá về chất lượng và tính hiệu quả rất cao. Thực tế ở hầu khắp các nước cho thấy rằng các cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội như ý tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo hiểm, v.v..., do tư nhân đầu tư và quản lý luôn được đánh giá tốt hơn về chất lượng cũng như giản tiện về thủ tục hành chính so với các cơ sở tương tự được đầu tư ằng nguồn vốn và do Nhà nước vận hành.

Ở Việt Nam, số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây, sự tham gia nguồn vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội với quy mô ngày càng lớn và tỷ trọng lớn nhất kể từ khi thực hiện Đổi mới (1986) đến nay, nhất là giai đoạn 2010-2014. Điều này không chỉ phản ánh nhu cầu đầu tư tìm kiếm lợi nhuận mà còn phản ánh sự sẵn sàng “chung tay hợp tác” của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội vốn là “lĩnh vực độc quyền” của Nhà nước, góp phần giảm tải gánh n ng cho Ngân sách Nhà nước (NSNN). M t khác, thu nhập và đời sống của người dân đ được cải thiện đáng kể trong thời gian qua, do vậy công chúng sẵn sàng tham gia đầu tư để có cơ hội thu nhập cao hơn nữa, đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận chi phí cao hơn để được tiêu dùng và tận hưởng những dịch vụ tiện ích và có chất lượng tốt hơn.

101 Trên thực tế, chỉ số ICOR luôn có xu hướng tăng theo quy luật lợi ích cận biên giảm dần.

Trong giai đoạn sắp tới, để đảm ảo đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng ở mức 7,5%-8% như trong giai đoạn 1990-2001, trong điều kiện chỉ số ICOR của Việt Nam được cho là đang ở mức 5.5101, chúng ta cần lượng vốn đầu tư tăng thêm tối thiểu từ 41,25 đến 44% GDP, tương đương 75,9 đến 80,2 tỷ USD mỗi năm t nh theo GDP năm 2014. Giả thiết thêm rằng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam cũng được ổn định và ở mức cao nhất giai đoạn năm 2009 - 2014 là 11,5 USD/năm thì nhu cầu về lượng vốn đầu tư tăng thêm trong nước vẫn cần đến t nhất ở mức từ 64,8 đến 69,1 tỷ USD mỗi năm. Trong khi NSNN đang khó khăn, tỷ lệ thu NSNN so với GDP đ giảm mạnh từ mức khoảng 26% GDP năm 2011 xuống còn 20% GDP năm 2014 và chi NSNN ngày càng tăng dẫn đến mức thâm hụt

204

giai đoạn năm 2007 – 2014 ước khoảng 5,4% GDP102; năm 2015, các chuyên gia nhận định khả năng thâm hụt NSNN sẽ tăng thêm 45 - 64 nghìn tỷ VND, tương ứng tỷ lệ thâm hụt từ 6,0 - 6,5% GDP103. Với tình hình về NSNN như vậy, rõ ràng quy mô đầu tư của Nhà nước sẽ rất hạn chế. Việc tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân để thúc đẩy sự phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.

Trên cơ sở nhận diện về tình hình thực hiện thu hút nguồn vốn tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua, ài viết tập sẽ trung vào tìm kiếm và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân nhằm đáp ứng phát triển kinh tế - x hội ở Việt Nam trong thời gian tới.

2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn tư nh n ở Việt Nam giai

đoạn 2010 – 2014

Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân ở Việt Nam bao gồm cả ở trong nước và nước ngoài. Nguồn vốn trong nước lại có thể phân chia thành nguồn vốn của các cá nhân, hộ gia đình, ch nh là khoản chênh lệch của thu nhập và tiêu dùng hiện tại và lợi nhuận không chia của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn tư nhân từ nước ngoài vào sẽ bao gồm các khoản đầu tư trực tiếp và gián tiếp, và nguồn kiều hối. Chúng ta sẽ tìm hiểu về tình hình thu hút các nguồn lực này trong giai đoạn 2010-2014.

2.1. Nguồn lực tài chính trong dân cư - Tiềm năng c n rất lớn

102 Bộ tài chính, số liệu tính bao gồm cả trả nợ gốc 103 http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/91-2954-ty-le-tham-hut-ngan-sach-nam-2015-co-the-dat-60-65-gdp- .html

Đối với nguồn vốn của dân cư chủ yếu thông qua các phương thức: huy động tiền gửi tiết kiệm của các (ngân hàng thương mại) NHTM, đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu thông qua hoạt động của thị trường chứng khoán. Ở Việt Nam, huy động vốn từ dân cư thông qua tiền gửi tiết kiệm tại các NHTM vẫn là phương thức phổ biến và quan trọng nhất, đồng thời cũng là kênh hình thành nguồn vốn quan trọng cho đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Trên thực tế, trong khoảng thời gian từ năm 2006 - 2010, khi mức lãi suất huy động tiết kiệm ở mức cao, có thời điểm đến 18%/năm, các NHTM đ huy động được một lượng tiền gửi tiết kiệm rất lớn. Tuy nhiên, giai đoạn năm 2011 - 2013, m t bằng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm bắt đầu giảm, đ c biệt từ đầu năm 2014, mức cắt giảm từ 0,5 - 1,5%/năm so với cuối năm 2013. Tại thời điểm cuối tháng 9/2014, lãi suất huy động phổ biến ở mức 5 - 6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng và 6 - 7,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng, kỳ hạn trên 12 tháng chỉ còn 7,3 - 7,8%/năm. M c dù có tín

205

hiệu tăng nhẹ từ tháng 5/2015, nhưng l i suất huy động tiền gửi tiết kiệm của các NHTM cũng chỉ tăng chủ yếu ở các kỳ hạn dài với mức tăng từ 0,3-0,5%/năm104. Có thể thấy rõ là mức lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm đ không thực sự hấp dẫn, chưa kể những lo lắng về lạm phát và sự biến động phức tạp của tỷ giá giữa đồng Việt Nam (VND) và Đô-la Mỹ (USD). Trên thực tế, các NHTM chủ yếu cũng chỉ huy động được vốn ngắn hạn, tỷ trọng vốn trung và dài hạn khá thấp, do vậy hoạt động sử dụng vốn của các NHTM chủ yếu là cho vay ngắn hạn ho c đầu tư vào trái phiếu chính phủ. Thậm chí, tại nhiều thời điểm, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) còn phải mua bán vốn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao ho c sử dụng vốn vay từ ch nh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).

104 http://www.doisongphapluat.com/kinh-doanh/tu-van-tieu-dung/lai-suat-tien-gui-tiet-kiem-cua-ngan-hang-nao-dang- cao-nhat-a97644.html 105 http://vietstock.vn/2015/04/vn-index-se-buoc-vao-giai-doan-tang-cham-nhat-vao-cuoi-quy-2-145-416380.htm

Bên cạnh nguồn vốn của dân cư được huy động qua từ tiền gửi tiết kiệm, thu hút đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng là một kênh khá hấp dẫn đối với những cá nhân và hộ gia đình sẵn sàng ưa th ch ho c chấp nhận mạo hiểm hơn. Trong giai đoạn từ 2005, đ c biệt từ khi Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006, có hiệu lực từ 01/01/2007, hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đ đạt được những thành công nhất định trong việc huy động và dẫn truyền vốn đầu tư cho nền kinh tế. Quy mô thị trường đ tăng mạnh đến mức 22,7% GDP năm 2006 và tiếp tục tăng đến mức trên 43% năm 2007. Tuy nhiên cũng từ sau năm 2007, chỉ số giá chứng khoán đ sụt giảm liên tục trong năm 2008 làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18% GDP. Sự kém hấp dẫn của thị trường tiếp tục kéo dài trong suốt thời gian năm 2009 - 2013. Trong năm 2014, trước dấu hiệu tích cực của nền kinh tế, thị trường chứng khoán đ dần ổn định và có dấu hiệu tăng tăng trưởng. Tính đến ngày 08/12/2014, chỉ số VN-Index đạt 571,68 điểm tăng 13,3% so với cuối năm 2013, chỉ số HNX-Index đạt 87,17 điểm tăng 28,5% so với cuối năm 2013. Tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 1.164 nghìn tỷ VND, tăng 90% so với năm 2013. Giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 5.448 tỷ VND trong đó giá trị giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ bình quân mỗi phiên đạt 2.971 tỷ VND, cao gấp 2,2 lần so với năm 2013. M c dù vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chỉ được đánh giá là “vẫn trong giai đoạn sơ khai” với chất lượng và t nh đại diện của các loại chứng khoán niêm yết thấp, phương thức quản lý chưa hiệu quả và mức độ rủi ro vẫn cao. Trong năm 2015, m c dù tín dự áo tăng trưởng GDP sẽ đạt ho c vượt 6,2%, lãi suất ngân hàng duy trì ở mức khá thấp, tăng trưởng tín dụng bắt đầu trở lại, sức cầu nền kinh tế đang dần được phục hồi nhưng thị trường chứng khoán lại có dấu hiệu chững lại bởi các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường vẫn còn hạn chế105.

206

Điều đáng nhấn mạnh là trong khi các phương thức huy động vốn từ dân cư một cách chính thức thông qua tiền gửi tiết kiệm của các NHTM hay đầu tư vào thị trường chứng khoán đang g p nhiều khó khăn thì một khối lượng tiền m t rất lớn, nhiều nghìn tỷ VND lại được huy động bằng con đường không chính thức thông qua các hình thức “t n dụng đen”. Khối lượng tiền vốn rất lớn của dân cư đ được triển khai thực hiện ở nhiều địa phương cả các vùng nông thôn đến các thành phố lớn, không được sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống mà đ ị chiếm đoạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều hộ gia đình và tạo sự bất ổn định cho nền kinh tế - xã hội.

Bên cạnh nguồn vốn tư nhân trong nước đ khai thác được qua hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán, còn một lượng dự trữ rất lớn bằng tiền m t kể cả đồng nội tệ và ngoại tệ, vẫn đang “chôn ch t” trong két sắt của nhiều gia đình giàu có. Không thể xác định được ch nh xác, chưa thể huy động và kiểm soát. Nhu cầu vàng nhập khẩu tính cả vàng thỏi và vàng nữ trang lên đến hàng trăm tấn mỗi năm. Ngoài ra, tỷ trọng thanh toán bằng tiền m t cũng như các hoạt động kinh doanh vàng qua sàn giao dịch ảo ở nước ngoài, v.v... là những bằng chứng cho thấy nguồn lực tài chính dồi dào ở khu vực tư nhân nhưng chưa có các phương thức hiệu quả huy động vào nền kinh tế.

Bảng 1: Số lượng vàng nhập khẩu của Việt Nam

Đơn vị: tấn

2011 13 87,8 100,8 2012 12,5 75,2 97,7 2013 40 70 110 2014 12,7 56,4 69,3 Nội dung Năm Vàng nữ trang Vàng thỏi Tổng

Nguồn: Hiệp hội vàng thế giới WGC

106 http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/128924/tru-tram-tan-vang--nguoi-viet-thiet-hai-ngan-ty.html

Ngoài tiền m t, tiềm năng nguồn lực tài ch nh dân cư của Việt Nam còn rất lớn nhưng rất l ng ph dưới hình thức dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh. Bảng 1, Hiệp hội vàng thế giới (WGC) cho biết lượng vàng nhập khẩu các loại của Việt Nam giảm qua các năm trong giai đoạn 2011-2014, song đây chỉ là những con số chính thức, “phần nổi”. Thật sự khó khăn để xác định chính xác, tuy nhiên, thời điểm tháng 6/2013, số liệu Hội đồng Vàng thế giới cung cấp dự trữ vàng trong dân ở Việt Nam khoảng 1.072 tấn (số cộng dồn từ các hóa đơn mua án vàng của Việt Nam ở nước ngoài từ năm 2000), xếp vị trí khoảng thứ 5 thế giới về lượng vàng dự trữ106. Như vậy, nếu căn cứ số liệu tiếp theo đến hết năm 2013, năm 2014, số lượng vàng dự trữ trong dân xấp xỉ 1.200 tấn. Hoạt động kinh doanh của các sàn vàng vẫn diễn ra với quy mô nhiều

207

tấn bất chấp sự nghiêm cấm của Nhà nước. Người dân Việt Nam dự trữ vàng không phải chỉ là sự sùng bái hay thói quen truyền thống mà còn có những lý do về chính sách quản lý, kinh doanh vàng, sự duy trì chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế, thậm chí những động cơ này còn mạnh hơn cả thói quen truyền thống hay những lo lắng về sự mất giá của VND.

Cùng với dự trữ vàng cũng là dự trữ ngoại tệ mạnh, chủ yếu là USD. Số liệu thống kê của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2014 cho thấy tình trạng Đô-la hóa (Dollarization) ở Việt Nam đ giảm trong giai đoạn 2010-2014, xuống còn mức thấp, dưới 15% (2014) được đánh giá thông qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trong mức cung tiền M2 (FCD/M2). Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng M2 của Việt Nam có mức tăng trung ình trong giai đoạn này là 15,6% năm và như vậy rõ ràng lượng tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân cư vẫn tăng và quy mô là không nhỏ. Hơn nữa, điều mà số liệu thống kê chính thức đều không thể phản ánh đầy đủ đó là lượng tiền m t bằng USD do công chúng nắm giữ dưới dạng tài sản phi tài chính, không nằng trong các tài khoản tiền gửi tiết kiệm hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ. Chỉ khi cần thiết, mới phục vụ cho các giao dịch khác nhau ở mọi quy mô, từ mua bán những hàng hóa tiêu dùng thông thường đến mua án nhà, đất, xe ô-tô, v.v..., từ các thành phố đến các địa phương và vùng iên mậu đều có thể diễn ra trực tiếp bằng ngoại tệ.

Điểm chung nhau của việc dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh là người dân Việt Nam sẵn sàng mua vàng và USD mỗi khi giá vàng và tỷ giá USD/VND trong nước tăng, thậm chí ngay cả những thời điểm giá vàng và ngoại tệ trên thị trường quốc tế giảm. Riêng điều này cũng đ làm cho thị trường ngoại hối Việt Nam diễn biến rất phức tạp, gây khó khăn không nhỏ cho các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và NHNN nói riêng. Xét riêng tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân cư tại các NHTM luôn gây ra trạng thái dư thừa ngoại tệ dẫn đến sự vận động một cách luẩn quẩn của luồng vốn ngoại tệ ra – vào Việt Nam. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam nhiều lần phải chấp nhận mức lãi suất rất cao, từ 6,95% đến 7,125% năm và với những điều kiện khác để huy động từ vài trăm triệu đến 1 tỷ USD từ nước ngoài về thì các NHTM Việt Nam đang huy động ngoại tệ của dân cư trong nước với mức lãi suất dưới 2% năm và sau đó gửi vào các NHTM nước ngoài với quy mô hàng tỷ USD. Câu hỏi đ t ra là tại sao có hiện tượng này và liệu có mâu thuẫn về lợi ích của Nhà nước, nhân dân và các định chế tài chính trung gian.

Nguồn vốn tư nhân khác là kiều hối cũng đóng góp phần quan trọng không nhỏ khi được đầu tư cho sản xuất kinh doanh ở Việt Nam. Hiện nay, cộng đồng người Việt ở nước ngoài với khoảng 4 triệu người, sống và làm việc ở hơn 100 quốc gia. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam có xu hướng tăng qua các năm và không đơn thuần nhằm mục đ ch trợ cấp cho thân nhân trong nước. Năm 2008, m c dù khủng

208

hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra, nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn đạt mức 7,2 tỷ USD. Năm 2010, với đà phục hồi của kinh tế thế giới, Việt Nam tiếp tục nhận được dòng kiều hối với giá trị trên 8 tỷ USD và được Ngân hàng Thế giới (WB) xếp ở vị tr 16/20 nước tiếp nhận nguồn kiều hối lớn nhất thế giới. Năm 2013, Việt Nam lọt vào top 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất, đạt tới 11 tỷ USD107 và năm 2014 đạt 12 tỷ USD108. Dòng vốn này thật sự đ có những tác động to lớn đối với các cá nhân nhận tiền nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.

Quy mô kiều hối về Việt Nam có xu hướng tăng xuất phát từ sự ổn định và phát triển của nền kinh tế trong nước, tạo ra những cơ hội đầu tư cho kiều bào ở nước ngoài. Ngoài ra, các chính sách về đầu tư, cho phép mua và đăng ký quyền sử dụng đất, v.v..., chính là những động thái quan trọng thu hút vốn đầu tư từ kiều bào ở nước ngoài. Vấn đề đ t ra là trong thời gian tới cần có những chính sách mạnh mẽ và hiệu quả hơn nữa góp phần duy trì và tăng cường khả năng thu hút kiều hối nhiều hơn nữa trong tương lai.

Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2014.

2.2. Thu hút đầu tư của tư nhân thông qua phương thức kết hợp công - tư

(PPP)

107 http://www.business.gov.vn/tabid/99/catid/432/item/13400/vai-tr%C3%B2-ngu%E1%BB%93n-ki%E1%BB%81u- h%E1%BB%91i-trong-ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-kinh-t%E1%BA%BF---x%C3%A3-h%E1%BB%99i.aspx 108 http://tapchitaichinh.vn/thi-truong-tai-chinh/vang---tien-te/kieu-hoi-nam-2014-can-moc-12-ty-usd-58441.html

Trong thời gian 2011-2014, ngoài việc gia tăng đầu tư của NSNN, việc thu hút đầu tư tư nhân cùng tham gia phát triển kinh tế - x hội ở các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế cũng đ được tăng cường khuyến kh ch. Nhiều văn ản pháp lý như: Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc an hành Quy chế th điểm đầu tư theo hình thức kết hợp công – tư (PPP) được an hành và ch nh thức có hiệu lực từ ngày15/1/2011; Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/1/2012 của Ban chấp hành Trung

209

ương về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng ộ nhằm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại năm 2020; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư an hành ngày 14/2/2015 quyết định dỡ ỏ hạn mức vốn Nhà nước đ tăng t nh hấp dẫn của các dự án PPP được thực hiện không chỉ ở mảng hạ tầng mà còn mở rộng sang các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể thao, v.v... Trên cơ sở đó, khu vực tư nhân đ có cơ hội thực hiện các hoạt động đầu tư ở các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế: Ở mảng cơ sở hạ tầng, nguồn vốn tư nhân đ tham gia cho các lĩnh vực điện, viễn thông giao thông đường ộ, đường không và cảng iển được thực hiện chủ yếu dưới hình thức sử dụng nguồn vốn tư nhân, nguồn vốn hỗn hợp Nhà nước kết hợp tư nhân (PPP) cho các dự án BOT, BT, BTO, được triển khai ở nhiều tỉnh thành phố trong cả nước. V dụ; Quảng Ninh hiện có 6 dự án đang triển khai theo hình thức đối tác công tư trong đó có 3 dự án Bộ Giao thông Vận tải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các dự án này gồm dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ18 đoạn TP.Uông B – TP.Hạ Long; dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18 đoạn Bắc Ninh – TP.Uông B và dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18 đoạn Hạ Long – Mông Dương; dự án cầu Bạch Đằng; dự án cảng hàng không Quảng Ninh; dự án đường cao tốc Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái109.

Ở các lĩnh vực y tế, theo số liệu của WHO về Tài khoản y tế quốc gia, năm 2013, Việt Nam đ chi 7,8% GDP hay 80 USD/người cho y tế, trong đó chi từ NSNN chiếm 40%, tư nhân chiếm 60%. Số lượng các phòng khám và ệnh viện tư nhân cũng đang tăng nhanh, cùng với loại hình dịch vụ y tế đa dạng được cung cấp trên cơ sở người ệnh trực tiếp trả tiền. Ngay cả tại các phòng khám và ệnh viện công, các nhà thuốc tư nhân cũng phát triển ùng nổ. Ở ngành giáo dục, số lượng các trường tư đ tăng nhất là các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học. T nh ình quân ở tất cả các hệ, số lượng trường tư/tổng số trường học năm sau cao luôn hơn năm trước.

109 http://www.baogiaothong.vn/trien-khai-nhieu-du-an-ppp-giao-thong-lon-tai-quang-ninh-d83592.html 110 Hợp tác với CHLB Đức (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020 và tổng hợp số liệu từ www.molisa.gov.vn

Nếu như trong năm 2010, số lượng các trường tư chỉ chiếm tỷ trọng 21% thì đến tháng 6/2015 đ lên đến khoảng 26,3%. Số học sinh đăng ký vào các trường tư cũng gia tăng từ 4,2 triệu năm 2010 lên tới 5,2 triệu năm 2014 tương ứng với mức tăng từ 16% lên 22%/tổng số học sinh đăng ký trong giai đoạn này110. Tại các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Ch Minh, ngày càng nhiều những t n hiệu đáng mừng của khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ giáo dục. Hội nghị xúc tiến đầu tư 2014 được Đại học Quốc gia thành phố Hồ Ch Minh tổ chức đ thu hút được nhiều nhà đầu tư cho 20 dự án tại khu đô thị Đại học Quốc gia thành phố Hồ Ch Minh với tổng số vốn lên đến 8.682 tỷ VND. Tất cả các dự án này đều được thực hiện dưới

210

hình thức đầu tư PPP nhằm phát triển hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập, giảng dạy, cư trú, thể dục thể thao vui chơi giải tr cho toàn ộ sinh viên và cán ộ nhà Trường111.

Tương tự như lĩnh vực y tế, giáo dục, sự tham gia của các công ty cổ phần trong lĩnh vực ảo hiểm cũng cho thấy sự nỗ lực và sẵn sàng tham gia của tư nhân tương ứng với thị phần hoạt động so với các công ty ảo hiểm Nhà nước từ 14%/năm 2010 lên đến 20,4%/tháng 6/2015. Ngoài ra, năm 2014, chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cũng đ ước đầu tạo được sự thu hút tư nhân đầu tư. Kết quả là số lượng, quy mô và vốn đầu tư của các dự án của khu vực tư nhân ngày càng lớn như tỉnh Hà Nam có 11 doanh nghiệp, tỉnh Thái Bình đ có những ch nh sách đột phá hỗ trợ cho tư nhân theo phương thức kết quả đầu ra (hỗ trợ 3 triệu VND/m3 công suất của nhà máy) và hiện 17 doanh nghiệp đăng ký đầu tư xây dựng công trình nước sạch với số vốn 1.085 tỷ VND. Trên cả nước hiện nay, toàn quốc hiện có khoảng 15.093 công trình cấp nước tập trung với các mô hình quản lý khác nhau như cộng đồng 48%, trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh 19%, tư nhân 11%, ủy an nhân dân x 12%, doanh nghiệp 5%, hợp tác x 3%, Ban quản lý 2%, v.v…

Bảng 2: Sự tham gia của khu vực tư nh n với các hoạt động giáo dục, y tế và bảo hiểm ở Việt Nam

Đơn vị: %

2010 21 2011 23 2012 23 2013 24 2014 T6/2015 26 26,3

9 11 12 13 15 15,1

14 15 17 18 20 20,4

Nội dung Năm Tỷ lệ trường tư/trường công tham gia hoạt động giáo dục Tỷ lệ ệnh viện tư/ ệnh viện công tham gia cung cấp dịch vụ y tế Thị phần hoạt động của công ty cổ phần ảo hiểm /công ty ảo hiểm Nhà nước

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ www.moet.gov.vn, www.moh.gov.vn, www.vietstock.vn

Sự tham gia của đầu tư tư nhân thực sự đ tạo ra những hỗ trợ t ch cực đối với nền kinh tế, tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn tư nhân chưa đảm ảo khả năng phát triển kinh tế - x hội một cách ền vững, thể hiện ở một số m t khác nhau. Thứ nhất, 111 http://www.thesaigontimes.vn/123984/Keu-goi-dau-tu-vao-khu-do-thi-Dai-hoc-Quoc-gia-TPHCM.html

211

đầu tư của tư nhân chỉ tập trung ở một số lĩnh vực và tại các đô thị lớn, đảm ảo được mức sinh lợi nhất định và những điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện đầu tư hơn là những “địa chỉ” thực sự cần thu hút. Điển hình về lĩnh vực giao thông, đa số các dự án PPP tập trung vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chủ yếu là đường cao tốc hay các trường học tư nhân tư nhân có xu hướng tập trung vào giáo dục ậc cao như dạy nghề, đào tạo đại học và việc chiêu sinh dựa trên khả năng chi trả học ph chứ không phải trên cơ sở năng lực hay nhu cầu học tập. Thứ hai, chư có cơ chế đảm ảo hiệu quả và t nh ền vững của các dự án cũng như giảm thiểu sự lệ thuộc vào quy mô, thu nhập và năng lực triển khai dự án của tư nhân. Thực tế đ có không ít dự án PPP phải dừng thực hiện ho c kéo dài đ giảm hiệu quả thậm ch thua lỗ do những thay đổi về cơ chế, ch nh sách, sự iến động của giá cả ho c giải ngân của NHTM. Thứ ba, thực hiện dự án không đúng tiến độ và không đảm ảo chất lượng nên công trình dự án xuống cấp, chậm đưa vào sử dụng, ngay cả khi đ hoàn thành, tình trạng thất thoát, l ng ph vốn xảy ra và mức độ nghiêm trọng xu hướng gia tăng đ c iệt với các dự án PPP. Thứ tư, việc tiếp cận và sử dụng vốn vẫn còn g p nhiều khó khăn khi thủ tục hành ch nh chưa được cải cách triệt để, trong khi sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ sở pháp lý lại “vừa thừa”, “vừa thiếu”. Thứ năm, quá trình triển khai các dự án PPP đ ộc lộ nhiều vấn đề ất cập về năng lực quản lý sử dụng vốn và tài sản, chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ, v.v..., từ cả hai ph a Nhà nước và chủ đầu tư tư nhân đ gây ra những hậu quả đáng tiếc cả về tài sản và con người. Có thể thấy rằng những hạn chế trên đây cũng ch nh là “rào cản” đối với việc mở rộng ứng dụng các dự án PPP, thu hút đầu tư tư nhân, tham gia đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển ền vững kinh tế - x hội Việt Nam.

2.3 Tình hình thu hút và triển khai các dự án FDI

112 http://fia.mpi.gov.vn/tinbai/3206/Tinh-hinh-dau-tu-nuoc-ngoai-nam-2014

Các dự án đầu tư trực tiếp (FDI) nước ngoài ch nh là đầu tư tư nhân nước ngoài vào Việt Nam. Một cách khái quát, việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn 2011-2014 đ rất thành công và đạt mức trung ình hàng năm là cao nhất, trên 11,5 tỷ USD. Trên thực tế, các doanh nghiệp FDI đ được ghi nhận là đóng góp tới 3 trong 4 “điểm sáng” của nền kinh tế Việt Nam năm 2014. Đến thời điểm hiện nay, có 101 quốc gia có đầu tư tại Việt Nam với 17.768 dự án, tổng vốn đăng ký 252,715 tỷ USD. Đầu tư tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo với 9.600 dự án, vốn đăng ký 141,4 tỷ USD, chiếm 54% số dự án và 56% tổng vốn đăng ký, tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản, xây dựng, dịch vụ lưu trú, v.v..., trong đó Nhật Bản là một trong những quốc gia có mức đầu tư nước ngoài lớn tại Việt Nam112.

212

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia thuộc các cơ quan quản lý khác nhau dự đoán rằng vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam kể cả các dự án mới và tăng thêm vốn cho các dự án đang thực hiện đều có xu hướng giảm. Cụ thể trong trường hợp các nhà đầu tư Nhật Bản, vốn đầu tư đ cắt giảm 65% từ mức 5,87 tỷ USD vào năm 2013 xuống còn 2,05 tỷ USD vào năm 2014113. Những khó khăn chung của nền kinh tế thế giới sẽ làm giảm nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam có thể kể đến bao gồm: kinh tế Nhật Bản tăng chậm; khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và những sự chi phối, ảnh hưởng các nước khu vực Eurozone như CHLB Đức, Pháp; nền kinh tế Mỹ phục hồi chậm; kinh tế Trung Quốc cũng có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, v.v.... Do vậy, số lượng và quy mô các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đ có sự giảm thấp bắt đầu từ năm 2014, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 21,92 tỷ USD, chỉ bằng 98,1% so với năm 2013. M t khác, chất lượng và sự phân bổ các dự án FDI đ cấp phép và thực hiện cũng là vấn đề đáng quan ngại mang tính chủ quan, chưa kể đến các vấn đề về ô nhiễm môi trường và chuyển giá chưa được giải quyết một cách triệt để. Đa số các dự án FDI đến nay vẫn bị đánh giá là có hàm lượng công nghệ khá thấp, chủ yếu là gia công lắp ráp và giá trị gia tăng không lớn, tỷ trọng giá trị nguyên vật liệu nhập khẩu trong giá thành xuất khẩu rất cao. Nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất ho c chế biến nhưng chưa “sâu” để phát huy tiềm năng thế mạnh của Việt Nam, trong khi nhiều sự án khác hướng vào cung cấp dịch vụ giải trí ho c số t người tiêu dùng thu nhập ở mức rất cao. Nguyên nhân của những hạn chế này lại thuộc về trách nhiệm của các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư. Ngoài ra, môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi các thủ tục hành chính cấp phép và quản lý hoạt động các dự án FDI khá phức tạp, thiếu đồng nhất đ thực sự gây quan ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí phải thay đổi các quyết định về đầu tư, gây ra những phí tổn và sự lãng phí.

3. Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn tư nh n nhằm đáp ứng phát

triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới

113 icp.danang.gov.vn

Về m t định hướng, để có thể giải tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian tới theo chúng tôi, trước hết và quan trọng nhất là phải ổn định kinh tế vĩ mô. Bức tranh kinh tế xã hội năm 2014 và đầu năm 2015 cho thấy GDP tăng trưởng 5,6%-6,2% trong khi lạm phát được duy trì ở mức khá thấp, cán cân thương mại th ng dư khoảng 1 tỷ USD, v.v... là những thành công đáng ghi nhận. Song, trong dài hạn vẫn phải chú trọng đến sự ổn định và bởi lẽ tăng trưởng GDP và xuất khẩu 2011-2014 phần lớn vẫn dựa vào các doanh nghiệp FDI.

213

Thứ hai, thu hút đầu tư của tư nhân cần triệt để sử dụng công cụ chính sách tài khóa. Quan sát diễn biến của chỉ số CPI, IPI và m t bằng lãi suất tín dụng trong giai đoạn 2013-2014 và đầu năm 2015 có thể nói là ở mức thấp và tiếp tục có xu hướng giảm nhưng tăng trưởng tín dụng thực vẫn chưa phục hồi, vốn hướng vào khu vực sản xuất vật chất không nhiều chứng tỏ rằng trong giai đoạn này tác động và hiệu quả của chính sách tiền tệ không cao. Ngược lại, như đ đề cập trên đây, việc tăng cường đầu tư công đ và đang mang lại những hiệu ứng rất tích cực trong giai đoạn 2012- 2014 với những gói hỗ trợ lớn cho thấy cơ hội để vận hành ch nh sách đầu tư thu hút (Crowding-in).

Để thực hiện tốt việc tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội, sáu nhóm giải pháp bao gồm: (1) tăng cường phát hành trái phiểu chính phủ để thu hút nguồn vốn trong dân cư; (2) tăng đầu tư và chi tiêu NSNN thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân; (3) tăng lương và thực hiện ưu đ i thuế, cắt giảm một số nghĩa vụ tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp tư nhân; (4) thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với khu vực tư nhân; (5) Giải phóng nguồn lực thông qua xử lý nợ xấu; (6) Phát triển thị trường ngoại hối để thu tài sản phi tài ch nh trong dân cư, hạn chế đầu cơ ngoại tệ, tình trạng đô-la hóa và vàng-hóa, có thể được nghiên cứu và áp dụng.

3.1 Tăng cường thu hút vốn từ dân cư thông qua phát hành trái phiếu chính

phủ

Ở các nước phát triển trên thế giới, việc phát hành trái phiếu chính phủ là việc thường xuyên và được coi là giải pháp tối ưu để ù đắp chi tiêu của NSNN, không dẫn đến lạm phát qua bội chi hay phát hành thêm tiền, đồng thời còn tạo cơ hội cho sự phát triển của thị trường trái phiếu. Hơn nữa, đây là hình thức huy động vốn có lợi ích cho các chủ thể tham gia, đ c biệt là Nhà nước và người dân theo đúng khái niệm hiệu quả Pareto (Pareto efficiency). Lượng tiền nhàn rỗi của dân cư đầu tư vào trái phiếu chính phủ sẽ đảm bảo chi ph cơ hội của chi tiêu NSNN là thấp nhất.

114 http://vietbao.vn/Kinh-te/No-cong-tang-chong-mat-gan-60-GDP/22243284/88/

Vấn đề là những quan ngại về trần nợ công, đ c biệt là tốc độ gia tăng nợ công tăng ở Việt Nam khá nhanh trong thời gian 2011-2014. Năm 2014 ằng 16% tổng thu ngân sách Nhà nước114 tương ứng khoảng 57% GDP và trên 50% tổng nợ công là nợ công nước ngoài.

214

Nguồn: Bộ tài chính

M c dù vậy, chúng tôi thấy rằng nợ công Việt Nam vẫn chưa chạm trần, với 2,3 triệu tỷ VND bằng 59,6% GDP nên “room” để gia tăng phát hành trái phiếu chính phủ thực sự vẫn còn. Để tăng khả năng thu hút vốn trong dân cư cũng như tăng khả năng đầu tư của Nhà nước nhằm thu hút đầu tư của tư nhân, theo chúng tôi vẫn cần tăng lượng trái phiếu chính phủ phát hành vào lưu thông. Việc gia tăng phát hành trái phiếu chính phủ trong ngắn hạn có thể gia tăng nợ công và nhanh chóng đạt tới mức giới hạn của trần nợ công. Tuy nhiên chúng tôi thấy rằng nếu quản lý và sử dụng tốt vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả chi tiêu của NSNN, thì chỉ số nợ công/GDP (trần nợ công) sẽ không những không tăng mà còn giảm, bởi lẽ hiệu quả chi tiêu và đầu tư công sẽ luôn đảm bảo rằng tốc độ tăng của GDP luôn nhanh hơn tốc độ tăng của nợ công115. Thực hiện giải pháp này, không những có thể thu hút tiềm năng về vốn trong dân cư mà NSNN sẽ có thêm khả năng đầu tư, kết hợp với những chính sách làm giảm thấp lãi suất sẽ k ch th ch, gia tăng đầu tư của tư nhân.

Để thực hiện được giải pháp này, điều quan trọng nhất là áp dụng các biện pháp để đảm bảo rằng nguồn đầu tư vào trái phiếu chính là tiền nhàn rỗi công chúng, không phải của các doanh nghiệp hay các định chế tài chính mà cuối cùng là “Nhà nước cho ch nh Nhà nước vay tiền”. Muốn vậy, ngoài việc xác định lãi suất và thị giá trái phiếu phải được hình thành trên cơ sở thị trường và người dân mua trái phiếu thực sự hoạt động đầu tư tài ch nh và hoàn toàn mang ý nghĩa kinh tế.

3.2 Tăng đầu tư và chi tiêu NSNN để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân và thúc đẩy nhu cầu của khu vực tư nhân, cả nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng

115 Một VND nợ công được huy động và sử dụng thêm mang lại hơn một VND tăng lên trong GDP do vậy tỷ trọng nợ công/GDP sẽ giảm.

Trên cơ sở tăng phát hành trái phiếu, đầu tư của Chính phủ có cơ hội gia tăng,

215

trước hướng đầu tư vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội, đ c biệt ưu tiên cho 5 lĩnh vực chủ đạo: (1) hệ thống giao thông công cộng; (2) cung cấp năng lượng; (3) công nghệ mới và hiện đại cho sản xuất nông nghiệp; (4) hệ thống bệnh viện và dịch vụ chăm sóc sức khỏe; (5) đầu tư đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo.

Đầu tư vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội theo các chương trình trên là những khoản đầu tư lớn sẽ có tác động tích cực và rất mạnh đến nền kinh tế - xã hội ngay trong ngắn hạn và cả trong dài hạn. Trước mắt, các khoản chi tiêu đầu tư như vậy sẽ góp phần quan trọng vào giải quyết lượng hàng tồn kho với giá trị lớn bao gồm sắt thép, xi măng và các nguyên vật liệu cho xây dựng. Về lâu dài, sự phát triển những lĩnh vực trên là tất yếu, là điều kiện để duy trì sự ổn định và phát triển bền vững, đ c biệt trong khi Việt Nam chưa đáp ứng được nhưng tiêu chuẩn tối thiểu về mật độ đường giao thông, thiếu hụt về năng lượng, nông nghiệp là chủ đạo nhưng thâm canh và chuyên canh vẫn còn mang tính chất truyền thống và ở trình độ thấp, quá tải và tình trạng nhiễm trùng của các bệnh viện ở Trung ương và các thành phố lớn, nhu cầu đổi mới và tăng cường chất lượng giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Khi hệ thống hạ tầng cơ sở được phát triển sẽ là động lực to lớn để thu hút đầu tư tư nhân và hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể, khi hệ thống giao thông được phát triển sẽ thu hút đầu tư của tư nhân ở các khu vực quốc lộ, tỉnh lộ đi qua. Đồng thời k ch th ch tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng nhà ở, nhu cầu vay vốn của các NHTM để xây nhà ở, cơ sở kinh doanh, gia tăng nhu cầu sử dụng ô-tô của công chúng, kích thích nhu cầu đi lại, thăm quan, du lịch và nhu cầu tiêu dùng hàng hóa sẽ gia tăng. Tương tự như vậy, khi đầu tư xây dựng và hiện đại hóa các bệnh viện, đ c biệt ở các vùng lân cận thành phố lớn và vùng nông thôn sẽ góp phần tăng chi tiêu của dân cư ở các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Đầu tư và hiện đại hóa giáo dục và đào tạo sẽ làm tăng nhu cầu học tập, không chỉ cải thiện nhận thức và thu nhập của người dân mà còn góp phần phát triển hệ thống giáo dục cũng như các dịch vụ đi kèm.

Để đảm bảo hiệu quả khi gia tăng đầu tư công và sự tham gia của khu vực tư nhân theo hình thức PPP, hoạt động đầu tư công phải được hoàn thiện về cơ chế quản lý và giám sát theo hướng tăng cường tính kỷ luật và trách nhiệm giải trình. Áp dụng các tiêu ch đánh giá theo kết quả cuối cùng (Result – ased) và cá nhân nhà l nh đạo các cấp phải chịu trách nhiệm về các quyết định phê duyệt và quản lý đầu tư một cách minh bạch và nghiêm túc.

3.3 Tăng lương và thực hiện ưu đãi thuế, cắt giảm một số nghĩa vụ tài chính

cho cá nhân và doanh nghiệp tư nhân để khuyến khích và gia tăng quỹ đầu tư

216

Trong bối cảnh lạm phát 2013-2014 và 6 tháng đầu năm 2015 được duy trì ở mức thấp, sự phục hồi kinh tế chưa thực sự vững chắc, các doanh nghiệp vẫn còn khó khăn thì việc xem xét thực hiện tăng lương và ch nh sách ưu đ i thuế trong thời điểm này là rất cần thiết, góp phần giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân, tạo điều kiện giảm giá để tiêu thụ hàng hóa. Ngoài ra, Nhà nước cần thể chế hóa việc điều chỉnh thuế và giá cả những m t hàng thiết yếu bằng cách xây dựng và thống nhất quy chế điều chỉnh thuế, điều chỉnh giá xăng dầu, điện, than hướng tới các nguyên tắc thị trường; cần an hành các quy định về các loại ph trên cơ sở luật pháp. M t khác, mọi điều chỉnh trong phạm vi chính sách tài khóa cần đảm bảo sự phối hợp ch t chẽ và đồng bộ với chính sách tiền tệ và các ch nh sách vĩ mô khác, nhằm hạn chế sự mâu thuẫn, hạn chế và triệt tiêu hiệu quả điều tiết của các chính sách kinh tế vĩ mô.

3.4 Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với khu vực tư nhân

Đầu tư của khu vực tư nhân không chỉ dựa vào tiết kiệm của dân cư mà phần chiếm tỷ trọng cao hơn là đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn của các doanh nghiệp tham gia đầu tư không nhất thiết chỉ là vốn tự có, tự tích lũy, huy động qua thị trường chứng khoán, quan trọng hơn vẫn là nguồn nguồn tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, để gia tăng đầu tư tư nhân, tăng trưởng tín dụng đối với khu vực này cũng có ý nghĩa quyết định. nhân một phần các cá nhân.

Để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cho khu vực tư nhân, trước hết, các NHTM cần thay đổi tư duy, chuyển hướng sang việc cung cấp các sản phẩm tài chính tổng thể cho hệ thống các doanh nghiệp (cho vay theo chuỗi giá trị) để hỗ trợ được đồng bộ tất cả các của quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời cũng cần chủ động hơn nữa trong hỗ trợ doanh nghiệp từ quản lý tài khoản, cung cấp các sản phẩm tài trợ thương mại, v.v.... Có như vậy, doanh nghiệp tư nhân mới nhận thấy hiệu quả tổng thể và mạnh dạn vay vốn tham gia đầu tư. Đây cũng là phương cách giúp cho các NHTM có thể kiểm soát tín dụng một cách hiệu quả nhất mà không cần đến hàng loạt các thủ tục hành chính phức tạp và gia tăng chi ph sử dụng vốn vay như hiện nay. Trong thời gian qua, m c dù lãi suất cho vay được công bố giảm song các doanh nghiệp vay vốn phải chịu các khoản chi phí không nhỏ làm cho tổng chi phí vay vốn rất cao. Cần gắn kết lợi ích của ngân hàng thương mại và của khách hàng, đ c biệt là các doanh nghiệp tư nhân có quan hệ nhiều năm và khó khăn tài ch nh được xác định chỉ là tạm thời. Lý giải cho thực tế đang diễn ra là lãi suất giảm nhưng vốn vẫn không thể đến được nơi cần ch nh là do các điều kiện tín dụng của ngân hàng thương mại quá ch t chẽ và doanh nghiệp không thể đáp ứng. Do vậy, các ngân hàng thương mại cần song hành và nắm bắt được đ c thù kinh doanh của khách hàng để đưa ra các cấu trúc tín dụng phù hợp, tránh dập khuôn dẫn đến việc bỏ qua các khách hàng tốt ho c cho vay vốn đối với các doanh nghiệp không cần ho c không thể sử dụng được. Thứ

217

hai, các ngân hàng thương mại cần mềm dẻo trong việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân, đ c biệt là các doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh tốt, trong một số trường hợp cần áp dụng hình thức cho vay thêm, cho vay mới ngay cả khi doanh nghiệp chưa thể trả được nợ cũ nhưng có cơ hội phát triển. Làm được như vậy, không những các mục tiêu của mỗi NHTM được thực hiện, góp phần đảm bảo tăng trưởng tín dụng trong cả nước mà còn thúc đẩy tăng trưởng đầu tư của khu vực tư nhân một cách hiệu quả vào nền kinh tế - xã hội.

3.5 Giải phóng nguồn lực của nền kinh tế thông qua xử lý nợ xấu

Nợ xấu không chỉ làm ứ đọng một lượng vốn khổng lồ của các NHTM mà còn làm đông kết khối tài sản đảm bảo có giá trị lớn tương đương với vốn đó. Chừng nào nợ xấu chưa được xử lý một cách triệt để, chừng đó nguồn lực tài chính của nền kinh tế còn bị “ách tắc”. Chúng tôi cho rằng cần coi việc xử lý triệt để nợ xấu là biện pháp quan trọng nhất để khơi thông nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Liên quan đến xử lý nợ xấu, chúng tôi vẫn tiếp tục khuyến nghị rằng, nợ xấu cần được giải quyết triệt để thông qua chứng khoán hóa bằng trái phiếu Chính phủ116 để được mua bán một cách rộng rãi trên thị trường. Việc giải quyết nợ xấu thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ không những khả thi mà còn đáp ứng những yêu cầu của việc “x hội hóa xử nợ xấu” bởi lẽ tất cả các cá nhân và các tổ chức đơn vị kinh tế, xã hội đều có thể mua trái phiếu và tự nguyện tham gia và hưởng lợi từ phương thức và kết quả xử lý nợ xấu nói trên.

3.6 Phát triển thị trường ngoại hối để thu hút tài sản phi tài chính trong dân

cư, đồng thời hạn chế đầu cơ ngoại tệ, tình trạng đô-la hóa và vàng-hóa117

Đầu cơ ngoại tệ và vàng được nhận diện và xác định là những “địa chỉ” giam hãm nguồn lực tài chính lớn nhất và lãng phí nhất ở nước ta. Như đ đề cập, đầu cơ ngoại tệ và vàng xuất phát từ sự mất lòng tin vào Đồng Việt Nam (VND), sự khan hiếm và chênh lệch giá cả, sự sùng bái ngoại tệ và vàng. Tuy nhiên, cả a căn nguyên này có chung nguồn gốc là những hạn chế của hệ thống tài chính, cụ thể là sự kém phát triển của thị trường ngoại hối ở Việt Nam. Do vậy, cần nhanh chóng củng cố và phát triển thị trường ngoại hối đồng thời hạn chế tín dụng ngoại tệ để loại bỏ tình trạng đô-la hóa, vàng hóa ở Việt Nam.

116 GS. TS Nguyễn Văn Nam và các cộng sự (2014), “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Kỷ yếu hội thảo. 117 Như chú th ch 15.

Trước hết hoàn thiện cơ chế giá cả, từng bước áp dụng chế độ lãi suất và tỷ giá linh hoạt theo cơ chế thị trường. Lãi suất và tỷ giá luôn luôn là một nhân tố rất quan trọng nhất tác động đến hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính. Lãi suất và tỷ giá

218

nếu được xác định trên cơ sở thị trường sẽ luôn phản ánh đúng nhu cầu cũng như chi phí sử dụng vốn, do vậy có thể phân bổ, sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Trong khi chưa thể thả nổi hoàn toàn lãi suất và tỷ giá, chúng ta cũng nên mạnh dạn hơn trong việc xóa bỏ kiểm soát trần lãi suất và neo tỷ giá, từng ước nới dần sự kiểm soát trực tiếp đối với lãi suất và coi đây như một giải pháp để tháo dỡ những khó khăn cản trở sự phát triển của hoạt động ngân hàng, thị trường chứng khoán và hệ thống tài chính nói chung ở nước ta. Song song với giải phóng về lãi suất cần thực hiện giải phóng đối với tỷ giá, cho phép các định chế tài ch nh được thỏa thuận một cách công khai và minh bạch đối với khách hàng giá mua bán ngoại tệ cả hai chiều, đáp ứng nhu cầu sử dụng ngoại tệ ch nh đáng của người dân. Khi không còn “tỷ giá rẻ” trong ngân hàng, khi lãi suất VND là dương và thực sự hấp dẫn, sẽ không còn nhu cầu ngoại tệ ảo, động cơ nắm giữ ngoại tệ dự phòng và kỳ vọng tăng giá sẽ giảm, góp phần giảm áp lực và chi phí can thiệp vào “giá cả” và thị trường của nhà nước.

Hai là, hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhận tiền gửi tiết kiệm b ng ngoại tệ, khuyến khích dân cư và các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM. Nhận tiền gửi tiết kiệm ằng ngoại tệ nhằm mục đ ch thu hút ngoại tệ trong dân cư và tăng khả năng cung ngoại tệ cho các NHTM, song vô hình chung lại khuyến kh ch đầu cơ ngoại tệ và đô-la hóa. Nếu công chúng thỏa m n được yêu cầu về khả năng sinh lời qua l i suất, trong khi tỷ giá và sức mua của VND luôn được giữ ổn định thì việc loại ỏ tiết kiệm ằng ngoại tệ rõ ràng là trùng hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và là nhiệm vụ ch nh trị của các cơ quan chức năng của nhà nước như NHNN, Bộ Tài ch nh, v.v… Một số người có thể lo ngại việc chấm dứt nhận tiền gửi ằng ngoại tệ sẽ làm thất thoát nguồn ngoại tệ, giảm khả năng cung ngoại tệ của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên khi l i suất và tỷ giá ở Việt Nam được xác định và duy trì một cách thỏa đáng, đảm ảo những nguyên lý về ngang ằng về sức mua (PPP) và ngang ằng về l i suất (IRP) và nếu như lợi tức kỳ vọng của các đồng tiền ở Việt Nam cao hơn thì luồng luồn vốn sẽ đi vào và ngoại tệ sẽ được án cho các NHTM nhiều hơn.

Ba là, hạn chế tình trạng nắm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp tư nhân thông qua việc tái thiết lập chế độ kết hối ngoại tệ và khuyến khích bán ngoại tệ cho các NHTM. Khác với công chúng, việc nắm giữa ngoại tệ của các doanh nghiệp tư nhân nhằm dự phòng cho nhu cầu sử dụng để nhập khẩu phục vụ hoạt động kinh doanh. Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc là nước được đánh giá rất thành công giải quyết vấn đề tỷ giá và vấn đề mất cân đối về ngoại tệ. Trong các năm từ 1994 đến 1996, Trung quốc đ thực hiện ch nh sách kết hối ngoại tệ 100%, nghiêm cấm việc giữ và sử dụng ngoại tệ. Chỉ đến 2007, dự trữ ngoại hối Trung Quốc đạt 1.528,249 tỷ USD, cán cân v ng lai th ng dư 371,832 tỷ USD, cán cân vốn th ng dư

219

73,454 tỷ USD, khi đó Trung Quốc mới xóa ỏ ch nh sách kết hối ngoại tệ118.

Bốn là, hạn chế cho vay b ng ngoại tệ tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ. Việc sàng lọc khách hàng để giảm đối tượng vay vốn bằng ngoại tệ cần được dựa trên cơ sở khả năng tái tạo nguốn vốn bằng ngoại tệ và án cho các NHTM. Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung quy định về đối tượng cho vay vốn bằng ngoại tệ của NHNN Việt Nam hiện nay đồng thời cũng phù hợp với thực tế ở Việt Nam là “xuất khẩu dựa trên nhập khẩu”119. Sau khi chọn lọc được khách hàng, các NHTM cần xác định hạn mức tín dụng bằng ngoại tệ cho từng khách hàng cụ thể, thậm chí theo các nhu cầu khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh và nhập khẩu. Làm được như vậy, các ngân hàng có thể tiết kiệm được nguồn vốn ngoại tệ và loại bỏ được những hành vi kinh doanh trái đạo đức khi mà chúng ta chưa thể xóa bỏ tình trạng hai tỷ giá hai lãi suất hiện nay. Trên cơ sở xác định hạn mức tín dụng ngoại tệ, các ngân hàng thương mại có thể chủ động xây dựng các phương án huy động trong từng thời kỳ để đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng đồng thời hạn chế trạng thái ngoại hối âm (short position) thừa vốn và phải điều chuyển vốn gửi ra nước ngoài.

Năm là xóa ỏ những cơ sở tạo ra chênh lệch giá vàng giữa thị trường trong nước và giá vàng trên thị trường quốc tế. Đây là điều đ được các nhà quản lý và khoa học đề cập nhiều lần nhưng hiện nay vẫn chưa được giải quyết. Giá vàng trong nước luôn cao hơn giá vàng trên thị trường quốc tế, thậm ch có những thời điểm đến hàng triệu VND/Ounce. Chênh lệch giá là động cơ nhập khẩu vàng và dự trữ vàng trong nước. Nếu muốn hạn chế điều này, cần hoàn thiện quy định quản lý xuất nhập khẩu vàng sao cho không tạo ra sự chênh lệch giá vàng.

Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng hạn chế và xóa ỏ t n dụng ngoại tệ và vàng ở Việt Nam là một sự đánh đổi, chấp nhận những khó khăn thách thức trước mắt để củng cố lòng tin, sức mua và chủ quyền của đồng tiền Việt Nam, một trong những điều kiện cơ ản để ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô. Sự phát triển lành mạnh và hiệu quả của thị trường tiền tệ nước ta, ao gồm thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, là điều kiện tiền đề cho sự ổn định và phát triển hoạt động hệ thống tài ch nh. Thực ra, những vấn đề về “giải phóng” tỷ giá và l i suất hay i ỏ các quy định gây ra tình trạng hai tỷ giá, hai l i suất được kết hợp với cho sự phép các NHTM thỏa thuận mua án vốn để thỏa m n nhu cầu thanh khoản ch nh là những giải pháp cơ ản củng cố và thúc đẩy sự phát triển thị trường ngoại hối ở Việt Nam.

4. Kết luận

118 Chiến lược tỷ giá và quản lý ngoại hối của Trung Quốc, 2009. 119 Phần lớn giá trị xuất khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu, bao gồm nguyên vật liệu và các yếu tố đầu khác.

Nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi

220

những giải pháp thiết thực và đồng bộ để thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân, gồm cả cá nhân, các hộ gia đình và các doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở những nhận diện về tiềm năng tài ch nh còn rất lớn trong dân cư và những “nút thắt” cơ ản trong nền kinh tế giai đoạn 2010-2014, căn cứ vào những điểm còn hạn chế trong cơ chế, chính sách và các biện pháp thu hút đầu tư tư nhân trong thời gian qua, chúng ta có thể chia sẻ về những giải pháp cơ ản góp phần hướng quỹ đầu tư của tư nhân đồng hành với quỹ đầu tư ngày càng eo hẹp hơn của nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu và cải thiện hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, ít nhất trong giai đoạn 2016-2020.

Điều cần được nhấn mạnh trong giai đoanh này là lựa chọn và sử dụng chính sách tài khóa như là công cụ chủ đạo. Theo đó, các giải pháp như tăng nợ công thông qua phát hành trái phiếu để có thể gia tăng đầu tư công, thu hút đầu tư tư nhân cũng như k ch cầu toàn bộ nền kinh tế có thể được coi là giải pháp cơ ản đầu tiên và kế tiếp sẽ là những ưu đ i về thuế và tăng lương để tăng quy mô quỹ đầu tư tư nhân. Song song và phối hợp ch t chẽ với sự vận hành chính sách tài khóa, những biện pháp cắt giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng một cách lành mạnh cho khu vực tư nhân cũng ch nh là điều kiện cần và đủ để đầu tư tư nhân tham gia t ch cực hơn vào sự phát triển và ổn nền kinh tế.

Do những hạn chế về thời gian và sự thiếu đầy đủ của số liệu thống kê, những luận điểm trong bài viết chắc chắn để ngỏ nhiều câu hỏi. Chúng tôi trân trọng cảm ơn và mong muốn nhận được những ý kiến chia sẻ và hoàn thiện thêm cho bài viết.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ tài chính (2014), “Số liệu công khai ngân sách Nhà nước”,

http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/1351583.

2. Đỗ Đức Bình, Phạm Văn Hùng (2013), “Nợ công Việt Nam: Khái quát thực trạng và một số giải pháp hạn chế nợ công đến năm 2020”, Kỷ yếu hội thảo Khủng hoảng nợ công ở Liên minh Châu Âu và những vấn đề gợi mở với Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam ngày 25/4/2013.

3. Đỗ Văn Thành (2013), “Các kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm

2013”, Thông tin và dự báo kinh tế xã hội, số 85 + 86.

4. Đảng cộng sản Việt Nam - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2012), “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020”, Báo Nhân Dân điện tử ngày 6/6/2012.

5. Nguyễn Văn Nam, Đàm Văn Huệ, Đ ng Ngọc Đức, Nguyễn Đức Hiển (2014), “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện

221

nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia – Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

6. Trương Đình Tuyển (2014), “Kinh tế Việt Nam 2014 và triển vọng 2015”, Diễn đàn kinh tế mùa thu 2014, Tái cơ cấu nền kinh tế: Kỳ vọng chuyển biến mạnh mẽ và cơ bản, 7. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, UNDP, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Ninh Bình ngày 27/8/9/2014.

8. UNDP, Ủy ban Kinh tế Quốc Hội (2010), “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy tr đà tăng trưởng: Kinh tế Việt Nam năm 2010 và triển vọng năm 2011”, Kỷ yếu hội thảo.

9. UNDP (2011), “Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người”, Báo cáo quốc

gia về phát triển con người, Chương trình phát triển Liên hiệp Quốc.

10. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2012), “Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá tr nh tái cơ cấu kinh tế”, Nhà xuất bản Tri thức.

11. Behrendt, C. and Hagemejer, K. (2001): “Can low-income countries afford social security?”, in Charlton, R. and McKinnon, R.: Pensions in Development (Aldershot, Ashgate).

12. Mizunoya, S.; Behrendt, C.; Pal, K. and Léger, F., (2006), “Costing of basic social protection benefits for selected Asian countries: First results of a modelling exercise”. Issues in Social Protection, Discussion Paper 17 (Geneva, International Labour Office).

13. Mukul G. Asher (2008), “Social Security Reform Imperatives in Developing

Asia”, Indian Economic Journal 2008.

14. www.undp.org

15. www.mof.gov.vn

16. www.molisa.gov.vn

17. www.vnexpress.net

222

223