
255
PHÁT TRIỂN KHỞI NGHIỆP TRONG ĐẤU THẦU TƯ VẤN
GIÁM SÁT THI CÔNG XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
NCS. Trần Mạnh Linh
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
TS. Hà Sơn Tùng
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Những năm gần đây, hoạt động đấu thầu nói chung, đấu thầu gói thầu tư vấn
giám sát thi công xây dựng công trình nói riêng ở Việt Nam diễn ra càng ngày càng
sôi động, tốc độ tăng lên không ngừng qua các năm cả về số lượng gói thầu và tổng
giá trị đấu thầu. Theo đó, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực xây
dựng cũng tăng nhanh. Thông qua các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn
có liên quan, bài báo chỉ ra rằng từ góc độ thị trường, nhu cầu về thi công xây dựng
công trình, hay từ góc độ luật pháp các doanh nghiệp khởi nghiệp vẫn có những cơ
hội nhất định. Điều quan trọng là các doanh nghiệp khởi nghiệp cần làm gì để nắm
bắt các cơ hội đó.
Từ khóa: Đấu thầu, gói thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình,
dự định tham dự thầu, phân loại các yếu tố tác động, doanh nghiệp khởi nghiệp
1. Đấu thầu dịch vụ tư vấn và gói thầu giám sát thi công xây dựng công trình
1.1.
Giới thiệu chung về đấu thầu dịch vụ tư vấn
Đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn, gói thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng
công trình (TCXDCT) ở nước ta thời gian qua là rất lớn và không ngừng tăng lên cả
về số lượng và giá trị. Nếu trên cả nước trong năm 2015 đã tiến hành 1.845 cuộc đấu
thầu gói thầu dịch vụ tư vấn, thì trong năm 2016 con số đó đã tăng lên thành 6.132
cuộc; trong năm 2017, cả nước đã tổ chức 15.891 cuộc đấu thầu và năm 2018 đã tổ
chức 23.937 gói thầu dịch vụ tư vấn. Về mặt tổng giá trị, nếu các gói thầu dịch vụ tư
vấn đưa ra đấu thầu năm 2015 đạt mức 1.274 tỷ đồng thì các năm 2016, 2017 và 2018
cũng lần lượt tăng lên thành 4.204 tỷ đồng, 13.874 tỷ đồng và 17.397 tỷ đồng (nguồn
Cục Quản lý đấu thầu, Bộ KH & ĐT)
Theo đó, các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT cũng tăng lên cả về
số lượng và giá trị. Tuy vậy, số lượng các nhà thầu thực tế tham dự thầu tính trung
bình trên một cuộc đấu thấu rất hạn chế (dao động trung bình 2 nhà thầu/cuộc đấu
thầu) so với con số trung bình đăng ký tham dự (dao động trung bình 4 nhà thầu/cuộc

25
6
đấu thầu). Số nhà thầu thực tế tham dự thấp như trên không chỉ ảnh hưởng tới tính
cạnh tranh giữa các nhà thầu, phần nào ảnh hưởng chất lượng giám sát TCXDCT mà
còn không đáp ứng mong đợi của Chính phủ Việt Nam khi đưa mô hình mua sắm
theo cơ chế đấu thầu vào áp dụng thay thế cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung vốn bị
coi là cơ chế “xin, cho” rất kém hiệu quả trước đây.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp tham gia đấu thầu gói thầu tư vấn giám sát
thi công xây dựng công trình cũng đa dạng về quy mô, loại hình và giá trị gói thầu.
Vậy liệu các doanh nghiệp khởi nghiệp với “tuổi đời” non trẻ, kinh nghiệm ít, năng
lực hạn chế có cơ hội thắng thầu hay không? Đây là câu hỏi mà bài báo muốn tìm ra.
Từ đó, có những khuyến nghị phù hợp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp khi muốn
tham gia đấu thầu gói thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình.
1.2. Đặc điểm của gói thầu giám sát thi công xây dựng công trình
Gói thầu giám sát thi công xây dựng công trình là một loại gói thầu dịch vụ
tư vấn. Thông qua hoạt động đấu thầu, nhà thầu tham gia đấu thầu để cung cấp
dịch vụ tư vấn; tức là cung cấp kiến thức, kinh nghiệm của mình để thực hiện
nhiệm vụ giám sát việc thi công xây dựng công trình nhằm đảm bảo các yêu cầu
đã được chủ đầu tư và nhà thầu thi công quy định chi tiết trong hợp đồng thi công
xây dựng công trình (như thời gian, tiến độ thực hiện; tiêu chuẩn chất lượng thi
công xây dựng;...). Dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình bao gồm
các gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát TCXDCT giao thông như đường cao tốc,
đường nội đô, đường nội khu công nghiệp, cầu, cống...; dịch vụ tư vấn giám sát
TCXDCT nhà ở, trụ sở cơ quan, văn phòng làm việc...; dịch vụ tư vấn giám sát
TCXDCT hạ tầng đô thị và nông thôn như công trình điện lưới, trạm điện, nhà
điều hành điện...
Gói thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình có một số đặc điểm chung
của gói thầu dịch vụ tư vấn, bao gồm:
Thứ nhất, là hoạt động vô hình bao gồm việc cung cấp kiến thức, kinh nghiệm
để thực hiện những nhiệm vụ được giao. Chính vì đặc điểm này, việc lựa chọn nhà
thầu thực hiện công việc được giao chủ yếu dựa vào việc đánh giá năng lực, kiến
thức, kinh nghiệm đội ngũ nhân sự của nhà thầu. Nó cũng chú trọng đến đánh giá giải
pháp, phương pháp luận thực hiện hoạt động giám sát thi công xây dựng công trình
của nhà thầu.
Thứ hai, là dịch vụ tư vấn khó đánh giá kết quả. Chính đặc điểm này đã làm
phát sinh yêu cầu cần phải tìm tòi và hình thành hệ thống các chỉ tiêu cần thiết, hợp
lý và khoa học để đánh giá kết quả phục vụ cho cả khâu đánh giá nhà thầu khi tham
dự đấu thầu cũng như đánh giá kết quả thực hiện hợp đồng, khi trúng thầu và thực
hiện hợp đồng.

257
Thứ ba, tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình luôn đi liền với quá trình
thi công xây dựng công trình. Đặc điểm này đòi hỏi nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn
giám sát thi công xây dựng công trình cần phải có phương pháp luận giải quyết tốt
mối quan hệ giữa các bên, tránh làm phát sinh hoặc tăng các mâu thuẫn có thể xẩy ra
trong quá trình thực hiện hoạt động thi công xây lắp, đảm bảo thực hiện các mục tiêu
thi công xây dựng của chủ đầu tư.
Thứ tư, tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình phải dựa trên nền tảng
cơ sở của việc am hiểu chuyên môn sâu và cần những kỹ năng riêng biệt để có thể
phát hiện những hạn chế, khiếm khuyết phát sinh trong quá trình thi công, xây dựng
và lắp đặt của công trình. Trong mỗi lĩnh vực chuyên môn sâu như xây dựng giao
thông; xây dựng nhà ở, công sở; xây dựng công trình điện... đều cần có những kiến
thức đặc thù, nếu không am hiểu, sẽ không thể giám sát tốt được. Các lĩnh vực xây
dựng khác nhau cũng cần phải có những kỹ năng giám sát chuyên biệt mới đem lại
hiệu quả cao của hoạt động giám sát.
2. Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp khởi nghiệp các gói thầu tư vấn
giám sát thi công xây dựng công trình
2.1. Tình hình phát triển khởi nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam
Những năm qua, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp có xu hướng tăng
mạnh hơn so với thời điểm trước năm 2015. Các doanh nghiệp khởi nghiệp rất đa
dạng về ngành nghề kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp theo ngành
được thể hiện trong bảng 1 dưới đây:
Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp ở Việt Nam
theo ngành nghề kinh doanh
Đơn vị: Số lượng doanh nghiệp
STT
Ngành nghề kinh doanh
Năm
2016
Năm
2017
Thay
đổi
1
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản
1.883
1.955
3,82%
2
Khai khoáng
642
687
7,01%
3
Công nghiệp chế biến, chế tạo
14.806
16.191
9,35%
4
Sản xuất và phân phối điện, nước, gas
763
1.026
34,47%
5
Xây dựng
14.502
16.035
10,57%
6
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe
máy và xe có động cơ khác
38.956
45.411
16,57%
7
Vận tải kho bãi
6.269
5.903
-5,84%
8
Dịch vụ lưu trú và ăn uống
5.303
6.336
19,48%

25
8
STT
Ngành nghề kinh doanh
Năm
2016
Năm
2017
Thay
đổi
9
Thông tin và truyền thông
2.928
3.649
24,62%
10
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
1.185
1.538
29,79%
11
Hoạt động kinh doanh bất động sản
3.126
5.065
62,03%
12
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ
8.430
9.392
11,41%
13
Dịch vụ việc làm; du lịch; cho thuê máy móc thiết
bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác
5.541
6.742
21,67%
14
Giáo dục và đào tạo
2.793
3.435
22,99%
15
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội
535
741
38,50%
16
Nghệ thuật, vui chơi và giải trí
1.403
1.518
8,20%
17
Hoạt động dịch vụ khác
1.035
1.235
19,32%
Tổng số
110.100
126.859
15,22%
Nguồn: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh
Có thể thấy, trong 3 năm trở lại đây, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp
trong ngành xây dựng rất lớn. Điều này cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong ngành này rất cao. Năm 2018 là năm tương đối khó khăn khi thị trường
bất động sản có dấu hiệu chững lại. Điều này cho thấy sự cạnh tranh trong ngành xây
dựng ngày càng trở nên gay gắt hơn. Năm 2018, doanh nghiệp ngành xây dựng có
kết quả kinh doanh giảm mạnh nhất toàn thị trường so với năm 2017. Theo Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), xét trên tổng lợi nhuận sau thuế của toàn thị trường
niêm yết tại HNX, ngành xây dựng là ngành có kết quả kinh doanh giảm mạnh nhất
so với năm 2017, từ 3.380 tỷ đồng năm 2017 giảm xuống 1.642 tỷ đồng năm 2018
(tương đương 51,1%); có tới 40/68 doanh nghiệp ngành xây dựng có kết quả kinh
doanh năm 2018 giảm so với năm 2017 (điểm danh những ngành nghề kinh doanh
thua lỗ nhất 2018, 2019). Điều này có thể giải thích bằng nhiều nguyên nhân như sự
cạnh tranh quá mạnh giữa các doanh nghiệp; đặc thù ngành xây dựng là bị chiếm dụng
vốn, các doanh nghiệp chỉ được thanh toán sau khi nghiệm thu, bàn giao và quyết toán.
Quá trình này thường kéo dài 2-3 tháng tùy theo công trình hay chủ đầu tư, điều này
ảnh hưởng lợi nhuận của doanh nghiệp nếu tỷ lệ lạm phát tăng cao; hoặc cũng có thể
do nhu cầu giảm. Xét về khía cạnh này, liệu nhu cầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công
công trình có thực sự giảm hay không, các phân tích dưới đây sẽ cho thấy điều đó.
2.2. Tình hình phát triển dịch vụ tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình
Xét về số lượng, gói thầu dịch vụ tư vấn giám sát thi công công trình có số
lượng tăng qua các năm. Năm 2016, số lượng gói thầu dịch vụ tư vấn được tổng hợp
là 6.132 gói, bằng hơn 3,3 lần so với năm 2015 (năm 2015 cả nước tổ chức 1.845

259
cuộc đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn). Năm 2017, với số lượng gói thầu dịch vụ tư
vấn đã tổ chức là 15.891 cuộc đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn, bằng hơn 2,58 lần so
với năm 2016 và bằng hơn 8,6 lần so với năm 2015. (nguồn Cục Quản lý đấu thầu,
Bộ KH & ĐT)
Nếu tính bình quân theo ngày làm việc trên cả nước trong vòng 3 năm từ 2015
đến 2017, mỗi ngày tổ chức trên 32 cuộc đấu thầu dịch vụ tư vấn (năm 2015 khoảng
7,5 cuộc/ngày; năm 2016 khoảng 24,5 cuộc/ngày; và năm 2017 khoảng 60
cuộc/ngày).
Xét về giá trị, hình 1 dưới đây cho thấy sự thay đổi trong tổng giá trị gói thầu
tư vấn giám sát TCXDCT.
Hình 1: Tổng giá trị đấu thầu các gói thầu dịch vụ tư vấn tổ chức trong năm
trên cả nước tính theo giá gói thầu (Tỷ đồng)
(Nguồn: Cục Quản lý đấu thầu, Bộ KH & ĐT)
Trong năm 2015, tổng giá trị gói thầu dịch vụ tư vấn là 1.274,125 tỷ đồng,
năm 2016 tổng giá trị này đã tăng lên đạt mức 4.204,443 tỷ đồng (tương đương 3,35
lần so với năm 2015). Năm 2017, tổng giá trị đấu thầu gói thầu dịch vụ tư vấn đạt
mốc 13.874,193 tỷ đồng, bằng gần 3,3 lần so với năm 2016.
Xét về giá trị tính theo giá gói thầu, các gói thầu dịch vụ tư vấn đã được tổ
chức ở Việt Nam các năm từ 2015 đến 2017 trải rộng từ 4 triệu đồng/gói thầu đến 80
tỷ đồng/gói thầu (không tính đến các gói thầu quá nhỏ khác). So với các gói thầu xây
lắp, mua sắm hàng hóa, các gói thầu dịch vụ tư vấn, tư vấn giám sát TCXDCT thường
có giá trị không cao. Trong đó, các gói thầu dịch vụ tư vấn được tổ chức đấu thầu có
giá trị từ 200 triệu đồng trở xuống chiếm khoảng 55 đến 65%. Tỷ trọng các gói thầu
1274
4204
13874
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Tổng giá trị đấu thầu
các gói thầu dịch vụ tư
vấn tổ chức trong năm
tính theo giá gói thầu
(Tỷ đồng)