
27
6
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ CHO PHÁT TRIỂN HỆ SINH THÁI
KHỞI NGHIỆP: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
TS. Nguyễn Thị Phương Lan
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Phong trào khởi nghiệp tại Việt Nam đang diễn ra hết sức sôi nối và phát triển
một cách mạnh mẽ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, để giúp các doanh nghiệp
khởi nghiệp phát triển nhanh và mạnh trong bối cảnh hội nhập hiện nay, một trong
những vấn đề cấp thiết là xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp. Bài viết thông qua phân tích thực trạng chính sách hỗ hợ cho phát
triển hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam, đồng thời kinh nghiệm về chính sách hỗ
trợ xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ở một số quốc gia. Từ đó, đưa ra
một số gợi ý chính sách hỗ trợ cho Việt Nam để có được một hệ sinh thái khởi nghiệp
vững mạnh.
Từ khóa: hệ sinh thái khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp, chính sách hỗ trợ.
1. Đặt vấn đề
Khởi nghiệp đang là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Hệ sinh thái khởi nghiệp chính là tập hợp các thành tố tạo nên môi trường
cho khởi nghiệp phát triển. Theo Mason và cộng sự (2014), hệ sinh thái khởi nghiệp
là tổng hợp các mối liên kết chính thức và phi chính thức giữa: các chủ thể khởi
nghiệp, tổ chức khởi nghiệp và tiến trình khởi nghiệp tác động trực tiếp đến môi
trường khởi nghiệp tại địa phương. Có thể nhận thấy, hệ sinh thái khởi nghiệp là cách
thức một quốc gia hay một vùng lãnh thổ thiết lập các tác nhân kinh doanh (như các
công ty, các nhà đầu tư mạo hiểm, các ngân hàng, trường đại học, các cơ quan thuộc
khu vực nhà nước, các thực thể tài chính) kết nối với nhau để thúc đẩy hoạt động khởi
nghiệp tại quốc gia hoặc địa phương đó. Hệ sinh thái khởi nghiệp bền vững là nền
tảng và động lực thúc đẩy khởi nghiệp phát triển.
Về cơ bản hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đang dần hình thành với bốn trụ
cột chính gồm: nguồn nhân lực, vốn, hạ tầng và thể chế hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Tuy
nhiên, so với các nước trong khu vực, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam vẫn còn
tương đối non trẻ và chưa kết nối chặt chẽ với nhau. Do đó, cần có nhiều chính sách
để phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp năng động với sự liên kết và hợp tác chặt
chẽ của tất cả các thành tố trên trong hệ sinh thái nhằm tạo nguồn vốn cho việc phát
triển các hoạt động hỗ trợ mới, phục vụ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp tăng trưởng
nhanh tại Việt Nam.

277
2. Thực trạng chính sách hỗ trợ cho phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ở
Việt Nam
Hệ sinh thái khởi nghiệp đang trên đà phát triển, số lượng và chất lượng các
doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, thương vụ đầu tư... ngày càng tăng. Theo
báo cáo thống kê tình hình đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam do Topica
Founder Institute (TFI) thực hiện cho thấy, trong năm 2018 các công ty khởi nghiệp
Việt Nam đã nhận được 889 triệu USD đầu tư trong 92 thương vụ với các quỹ đầu tư
trong và ngoài nước, gấp hơn 3 lần về tổng số vốn đầu tư so với năm 2017 (cùng số
thương vụ với năm 2018, tổng số vốn đầu tư hơn 291 triệu USD) và tăng gần gấp đôi
về mặt số lượng thương vụ và hơn 4 lần về mặt tổng số vốn đầu tư so với năm 2016
(50 thương vụ với 205 triệu USD). Cũng theo báo cáo này, năm 2018 là năm của
những thương vụ đầu tư lớn, cùng tiếp nhận 92 thương vụ đầu tư, trong đó 10 giao
dịch hàng đầu đã mang về 734 triệu USD, chiếm 83% tổng giá trị thỏa thuận, gồm
những giao dịch trên 30 triệu USD đầu tư vào Yeah1, Sendo và Topica cùng 7 thương
vụ khác. Dự kiến trong những năm tới, các doanh nghiệp khởi nghiệp của Việt Nam
sẽ tiếp tục thu hút những khoản đầu tư lớn với ước tính của các năm 2019, 2020 và
2021 lần lượt là 205 triệu USD, 320 triệu USD và 440 triệu USD. Như vậy có thể
thấy, hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam trong những năm vừa qua đã tăng trưởng
hết sức ấn tượng cả về số lượng và chất lượng. Nếu năm 2012, Việt Nam có khoảng
400 doanh nghiệp khởi nghiệp, thì năm 2015 đã tăng hơn 4 lần, đạt 1.800 doanh
nghiệp. Trong hai năm 2017-2018, đã phát triển mạnh mẽ với con số hiện có khoảng
3.000 doanh nghiệp (Nhật Minh, 2019). Sự hiện diện của các nhà đầu tư quốc tế cho
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngày càng tăng, số lượng và hoạt động của nhà đầu tư
thiên thần bắt đầu có xu hướng tăng, với nhận diện chủ yếu là những doanh nhân
khởi nghiệp đã thành công ở thế hệ đầu mong muốn đầu tư cho các doanh nghiệp
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở thế hệ sau. Hoạt động của các nhà đầu tư thiên thần
ở Việt Nam đã bắt đầu có tính hệ thống hơn qua việc phát triển một số hoạt động
liên kết, kết nối, hình thành một số câu lạc bộ, mạng lưới đầu tư cho khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo như: VIC Impact, iAngel, Angel4us, …
Năm 2018, hệ sinh thái khởi nghiệp của Việt Nam đang phát triển với hơn 40
quỹ đầu tư mạo hiểm hoạt động, tăng gấp đôi so với 2015. Nhiều tập đoàn lớn trong
đã tham gia vào đầu tư mạo hiểm như FPT, Viettel, Vingroup, Start-up Viet Partner
... Cùng với đó là 60 khu không gian làm việc chung trên cả nước, hơn 40 cơ sở ươm
tạo và tổ chức thúc đẩy kinh doanh (Nhật Minh, 2019). Một số vườn ươm tiêu biểu
như: vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao Hòa Lạc, vườn ươm doanh nghiệp công
nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh, vườn ươm Đà Nẵng (DNES), trung tâm Hỗ trợ
thanh niên khởi nghiệp, vườn ươm doanh nghiệp công nghệ thông tin đổi mới sáng
tạo Hà Nội. Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn tăng cường đầu tư cho hệ sinh thái khởi

27
8
nghiệp như: tập đoàn Vinacapital đã thành lập quỹ đầu tư Vinacapital Ventures (100
triệu USD); Vingroup thành lập quỹ hỗ trợ khởi nghiệp và quỹ hỗ trợ nghiên cứu
khoa học công nghệ có mức đầu tư 2.000 tỷ đồng,…
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan
trọng hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp. Các chính sách
này đã được triển khai trên phạm vi toàn quốc, với mục tiêu tư vấn, hỗ trợ, thúc đẩy
hoạt động khởi nghiệp như:
- Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến
năm 2025”. Đây là văn bản chính sách bao quát nhất nhằm tuyển chọn các tổ
chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp. Đề án được xây dựng và chủ trì
triển khai thực hiện bởi Bộ Khoa học và Công nghệ.
- Quyết định 171/QĐ-BKHCN ngày 7/2/2017 của Bộ Khoa học và Công nghệ
phê duyệt danh mục nhiệm vụ đặt hàng thuộc Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025” bắt đầu thực hiện từ năm 2017
và Quyết định 3362/QĐ-BKHCN ngày 07/11/2016 của Bộ Khoa học và Công
nghệ về việc ban hành quy định tạm thời xử lý hồ sơ tham gia Đề án “Hỗ trợ
hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025”. Đây là các văn
bản cấp Bộ nhằm triển khai Đề án hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
thông qua kênh đề tài, đề án, dự án khoa học và công nghệ cấp quốc gia (nhiệm
vụ hàng năm) thuộc phạm vi quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.
- Các nghị quyết của các Hội đồng nhân dân tỉnh, các quyết định, kế hoạch,
chương trình của Ủy ban nhân dân tỉnh về khởi nghiệp và khởi nghiệp sáng
tạo ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhằm thực hiện Quyết định
số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016.
- Quyết định 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”. Đây là
Đề án do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì.
- Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”.
Ngoài các chính sách trên, Chính phủ còn triển khai nhiều chương trình hỗ trợ
khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới sáng tạo như: chương trình đối tác đổi mới sáng tạo
Việt Nam - Phần Lan, dự án đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa
học và công nghệ, dự án xây dựng chính sách đổi mới và phát triển các cơ sở ươm
tạo doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo…Các văn bản hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp được hình thành trong Luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tuy nhiên phần

279
lớn các văn bản này nhằm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, không phải dành riêng
cho doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp được đề cập đến trong Luật
với tính chất là một nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc thù.
Mặc dù, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam bắt đầu thu hút sự quan tâm lớn
của các quỹ đầu tư mạo hiểm trên thế giới và trong khu vực. Tuy nhiên, so với các
nước trong khu vực, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam vẫn còn tương đối non trẻ và
chưa kết nối chặt chẽ với nhau. Các yếu tố tạo nên sự thành công của doanh nghiệp
khởi nghiệp bao gồm hạ tầng, thể chế chính sách, tài chính, nguồn vốn đầu tư, thị
trường và văn hóa vẫn cần phải tiếp tục được hoàn thiện từng bước. Cụ thể:
- Chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp khởi nghiệp thường chỉ là
một cấu phần trong các chương trình hoặc chính sách chung cho mọi thành
phần kinh tế, chưa tập trung cụ thể vào đối tượng là doanh nghiệp. Chính
sách thuế hiện hành theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp theo địa bàn, lĩnh vực
nên bất kỳ doanh nghiệp nào đáp ứng được các điều kiện ưu đãi thì sẽ được
hưởng các ưu đãi tương ứng. Do đó, nếu doanh nghiệp khởi nghiệp không
thực hiện kinh doanh tại các địa bàn ưu đãi thuế, không đáp ứng được các
tiêu chuẩn trong các lĩnh vực khuyến khích đầu tư hiện hành thì cũng không
được hỗ trợ về thuế.
- Chính sách tín dụng khó tiếp cận do hầu hết các doanh nghiệp khởi nghiệp
là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ nguồn vốn nội
sinh ít nên để thế chấp vay ngân hàng hầu như không có. Bên cạnh đó,
doanh nghiệp khởi nghiệp thường là những doanh nghiệp có năng lực tài
chính yếu nên việc đáp ứng các điều kiện để có thể niêm yết trên thị trường
chứng khoán và thị trường trái phiếu doanh nghiệp là khó khăn, do đó,
việc huy động vốn qua kênh này chưa thực sự tạo điều kiện cho doanh
nghiệp khởi nghiệp.
- Hệ thống quy định và chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp đang dần được
hoàn thiện, tuy nhiên tính khả thi của các quy định và chính sách này còn rất
hạn chế. Cụ thể: cổng thông tin quốc gia về khởi nghiệp đã chính thức ra đời
nhưng các nội dung, thông tin và tính liên kết đến các cổng thông tin liên
quan còn hạn chế. Vẫn thiếu các thông tin liên quan để kết nối các tổ chức
hỗ trợ khởi nghiệp và các nhà khởi nghiệp; Chưa có văn bản hướng dẫn cụ
thể về hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khởi nghiệp từ nguồn ngân sách nhà
nước nên các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp từ các quỹ có nguồn gốc ngân
sách gần như chưa thể triển khai. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kém phát triển,
thủ tục hành chính rườm rà cũng là những rào cản cho sự phát triển của hoạt
động khởi nghiệp.

28
0
- Chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và các quy định pháp luật tại Việt Nam còn
thiếu đồng bộ và vẫn tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Các quy định chủ
yếu còn mang tính chung chung như hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, tham gia
mua sắm, cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ đào tạo... Phần lớn các chính sách
hỗ trợ này còn dàn trải và áp dụng đồng thời cho nhiều đối tượng mà chưa có
sự định hướng riêng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Ngoài ra, chính phủ
chưa đưa ra các quy định liên quan đến khung pháp lý cho hoạt động của các
tổ chức hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, đó là quỹ đầu tư
mạo hiểm và quỹ đầu tư “thiên thần”.
3. Một số kinh nghiệm quốc tế
Chính sách hỗ trợ cho phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ở Hàn Quốc
Hàn Quốc là quốc gia có mật độ dân số cao thứ ba trên thế giới. Lãnh thổ Hàn
Quốc trải rộng 100.032 km vuông, với dân số 48 triệu người. Chiến lược phát triển
kinh tế dựa vào xuất khẩu mà Hàn Quốc theo đuổi đã đưa nước này từ một nước
nghèo trở thành cường quốc công nghiệp. Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu của Hàn Quốc
luôn duy trì ở mức hai con số, đã đưa nước này trở thành quốc giá có nền kinh tế
đứng thứ 15 trên thế giới trong năm 2015. Các công ty Hàn Quốc đứng đầu thế giới
trong nhiều ngành công nghiệp quan trọng với nguồn nhân lực chất lượng cao và mức
đầu tư lớn (khoảng 4,3% GDP) vào hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Hiện nay, Hàn Quốc hướng tới việc xây dựng một nền kinh tế tri thức, chú
trọng tới việc mở rộng vai trò và khuyến khích phát triển các doanh nghiệp khởi
nghiệp. Theo đó, chính phủ Hàn Quốc cam kết khoản chi ngân sách trị giá 2 tỷ
USD/năm để hỗ trợ xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp. Hệ sinh thái khởi
nghiệp ở Hàn Quốc được xây dựng đựa trên nhiều tác nhân có mối quan hệ hữu cơ
với nhau nhằm giúp nhau cùng phát triển. Hay nói cách khác, sự phát triển của tác
nhân này sẽ thúc đẩy sự phát triển của các tác nhân khác, từ đó giúp cộng đồng doanh
nghiệp khởi nghiệp ngày một phát triển rộng rãi và bền vững hơn. Theo phương thức
này, Chính phủ Hàn Quốc đã điều chỉnh chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế cho hai
tác nhân chủ yếu trong hệ sinh thái khởi nghiệp là doanh nghiệp khởi nghiệp và nhà
đầu tư cho khởi nghiệp.
Ở Hàn Quốc, doanh nghiệp khởi nghiệp thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và
vừa đóng vai trò là trụ cột trong nền kinh tế. Trong những năm qua, Chính phủ Hàn
Quốc đã có các chính sách xúc tiến thương mại, đầu tư nhằm cải thiện môi trường
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung và doanh nghiệp khởi
nghiệp nói riêng. Ngoài ra, Hàn Quốc còn hỗ trợ trực tiếp hay bảo hộ những sản
phẩm đầu ra của các doanh nghiệp này để góp phần nâng cao khả năng hợp tác và
cạnh tranh của doanh nghiệp, phát triển sản phẩm mới theo định hướng khách hàng.