Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O TR¦êng ®¹i häc ngo¹i th¬ng
NguyÔn H÷u Th¾ng
“PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ”
Thuộc chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế Quốc tế Mã số: 62.31.07.01
Hµ Néi, 2010
Luận án được hoàn thành tại: Trường Đại học Ngoại Thương
Người hướng dẫn khóa học: 1. GS, TS Vũ Văn Hiền
2. GS, TS Hoàng Văn Châu
Phản biện 1: GS, TS Hoàng Đức Thân
Phản biện 2: PGS, TS Nguyễn Quốc Thịnh
Phản biện 3: GS, TS Nguyễn Xuân Thắng
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước
Họp tại Trường Đại học Ngoại Thương
Vào hồi 09 giờ 00 ngày 12 tháng 06 năm 2010
Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện Quốc gia
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Dự báo sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Thế giới thời
gian qua, Tạp chí Thương mại, số 17/2009.
2. Đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế phát triển sản xuất và xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Tạp chí Thương mại, số 18/2009.
3. Vì sao HAPROSIMEX Sài Gòn đạt mức tăng trưởng nhanh, Tạp chí
Thương mại, số 23/1999.
i
TÁC GIẢ LUẬN ÁN LỜI CAM ĐOAN TÔI XIN CAM ĐOAN LUẬN ÁN: “PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ” LÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA RIÊNG TÔI. CÁC SỐ LIỆU, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LÀ TRUNG THỰC, CÓ NGUỒN GỐC RÕ RÀNG.
Nguyễn Hữu Thắng
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................... i MỤC LỤC ................................................................................................................................. ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................................ vi DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... viii DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ ......................................................................... ix MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ VÀ TIỀM NĂNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ..................................................................................... 10 1.1. Khái niệm về làng nghề và doanh nghiệp làng nghề.......................................... 10
1.1.1. Khái niệm về làng nghề và làng nghề thủ công mỹ nghệ ................................. 10 1.1.2. Khái niệm về doanh nghiệp làng nghề và doanh nghiệp làng nghề thủ công mỹ nghệ ............................................................................................................................ 12 1.2. Lịch sử phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam .................. 13
1.2.1. Quá trình ra đời và phát triển làng nghề ........................................................... 13 1.2.2. Quá trình ra đời và phát triển của doanh nghiệp làng nghề Việt Nam .......... 22 1.3. Đặc điểm và thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ............................ 25 1.3.1. Đặc điểm làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .................................... 25 1.3.1.1.Đặc điểm của làng nghề ......................................................................... 25 1.3.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp làng nghề ....................................................... 27 1.3.2. Thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ........................... 28
1.3.2.1. Thực trạng của làng nghề ..................................................................... 28
a/ Số lượng, quy mô, cơ cấu và tổ chức làng nghề ...................................................... 28 b/ Đánh giá thực trạng làng nghề hiện nay .................................................................. 32 1.3.2.2.Thực trạng của doanh nghiệp làng nghề ................................................ 38
a/ Quy mô, tốc độ phát triển các doanh nghiệp làng nghề ......................................... 38 Cơ cấu các loại doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam ............................................. 40 Mô hình quản lý các doanh nghiệp làng nghề ............................................................. 41
iii
b/ Đánh giá thực trạng doanh nghiệp làng nghề hiện nay ......................................... 43 1.4. Vai trò của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề với việc đẩy mạnh xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển kinh tế - xã hội ............................................... 47
1.4.1. Vai trò đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ................... 47 1.4.2. Vai trò đối với phát triển kinh tế ......................................................................... 49 1.4.3. Vai trò đối với phát triển văn hoá dân tộc ......................................................... 52 1.4.4. Vai trò đối với xã hội ............................................................................................ 53 1.4.5. Vai trò đối với quan hệ đối ngoại ....................................................................... 54 1.5. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và
doanh nghiệp làng nghề ............................................................................................. 55
1.5.1. Nguồn lao động .................................................................................................... 55 1.5.2. Nguồn nguyên liệu ................................................................................................ 56 1.6. Kinh nghiệm phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề của một số nước
trên thế giới ................................................................................................................ 57
1.6.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc ............................................................................. 58 1.6.2. Kinh nghiệm của Thái lan ................................................................................... 59 1.6.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản ................................................................................. 62 1.6.4. Bài học kinh nghiệm quốc tế ............................................................................... 65
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM ............................................................................................................................. 69 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ....................................... 69 2.2. Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của nước ta ......................................... 72 2.3. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu ............................................................ 75 2.3.1. Mặt hàng gốm, sứ .................................................................................. 75 2.3.2. Hàng mây, tre, cói, thảm ....................................................................... 79 2.3.3. Mặt hàng sơn mài .................................................................................. 84 2.3.4. Hàng thêu ren ........................................................................................ 88 2.3.5. Đồ gỗ mỹ nghệ và gỗ gia dụng ............................................................. 91 2.4. Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ................................................... 95 2.4.1. Những yếu tố tác động tới sự hình thành và chuyển dịch ..................... 95
iv
2.4.2. Quá trình hình thành, chuyển dịch và cơ cấu thị trường xuất khẩu ..... 98 2.4.3. Vai trò Nhà nước và doanh nghiệp với cơ cấu thị trường .................. 100 2.5. Đánh giá kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề ................................................................................................................................................. 103 2.5.1 Kết quả đạt được ................................................................................................. 103 2.5.2. Hạn chế ................................................................................................................ 110 2.5.3 Nguyên nhân ........................................................................................................ 114 a. Nguyên nhân đạt được kết quả .................................................................. 114 b. Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................. 116
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP ............................................................................................................. 118 3.1. Quan điểm, đường lối và những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta .................................................................................................. 118
3.1.1. Quan điểm và đường lối của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế..... 118 3.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .......... 119 3.2. Dự báo tình hình sản xuất giai đoạn 2010 - 2020 và nhu cầu tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới thời gian tới ................................................................. 121 3.2.1. Dự báo về sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới và khu vực ......................................................................................................121 3.2.2. Dự báo nhu cầu tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới .......... 122 3.3. Quan điểm, định hướng phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt
Nam và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ............................................ 123
3.3.1. Quan điểm phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam .... 123 3.3.2. Phương hướng, mục tiêu phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam ......................................................................................................................... 125 3.3.3. Phương hướng, mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ....................................................................................................................... 128 3.3.4. Phương hướng, mục tiêu xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu của Việt Nam .................................................................................... 130 3.3.5. Định hướng một số thị trường chủ yếu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ............................................................................................................... 140
v
3.4. Giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ ............................................................................................ 148
3.4.1. Giải pháp phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .......................... 148 3.4.1.1. Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .............. 148 3.4.1.2. Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .......... 151 3.4.1.3. Xây dựng mô hình và cơ chế quản lý phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ........................................................................................................... 153 3.4.1.4. Tạo chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến xuất khẩu .............. 156 3.4.1.5. Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của các Hiệp hội làng nghề và Hiệp hội ngành hàng ........................................................................................ 158 3.4.2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ........ 160 3.4.2.1. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ........................................................................... 160 3.4.2.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, vốn, thị trường cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .............................................................................................. 165 3.4.2.3. Đổi mới và ứng dụng công nghệ hiện đại kết hợp với công nghệ truyền thống .......................................................................................................................... 166 3.4.2.4. Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề 167 3.4.2.5. Gắn phát triển làng nghề với phát triển văn hoá du lịch .................... 169 3.5. Một số kiến nghị phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ................................................................. 171
3.5.1. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước ......................................................... 171 3.5.2. Kiến nghị với các địa phương ........................................................................... 176 3.5.3. Kiến nghị với các hiệp hội ................................................................................. 177 KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 179 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 183 PHỤ LỤC .............................................................................................................................. 192 MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA ................................................................................................... 192
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AFTA (Asean Free Trade Area): Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC (Asia Pacific Economic Cooperation): Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á- Thái Bình Dương
ASEM (Asia Erope Summit Meeting ): Diễn đàn hợp tác Á- Âu
ASEAN (Association of South East Asia Nations ): Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á
CNH: Công nghiệp hoá
DN: Doanh nghiệp
DOC (Department of Commerce ) : Bộ Thương mại Hoa Kỳ
EU (European Union ) Liên minh châu Âu
FDI (Foreign Direct Investment ) : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FAO (Food and Agriculture Organization ): Tổ chức Nông lương Liên
hợp quốc
GATT (General Agrement for Trade and Tariff ) : Hiệp định chung về
thuế quan và mậu dịch
GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội
GSP (Generallized System Preperences): Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
HĐH: Hiện đại hoá
HS (Hamounized System): Hệ thống phân loại hàng hoá
ITC (International Trade Committee) Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa
Kỳ
ISO (International Standard Organization): Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế
MFN (Most Favour Nation) : Quy chế tối huệ quốc
NK: Nhập khẩu
NTR (Normal Trade Relation): Quy chế thương mại bình thường
vii
ODA (Official Development Assistance) : Hỗ trợ phát triển chính thức
R: Đồng Rup
SL: Sản lượng
USD (United State Dollar) : Đồng đô la Mỹ
XK: Xuất khẩu
XTTM: Xúc tiến thương mại
WB (World Bank) : Ngân hàng thế giới
WTO (World Trade Organization): Tổ chức Thương mại thế giới.
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
BẢNG 1.1. QUY MÔ LÀNG NGHỀ THEO KHU VỰC ........................................ 29
BẢNG 1.2. LAO ĐỘNG NGÀNH NGHỀ THỦ CÔNG ....................................................30
BẢNG 2.1. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA
DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ............................................................................. 72
BẢNG 2.2. CƠ CẤU MẶT HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ XUẤT KHẨU CỦA
DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ .........................................................................................74
BẢNG 2.3. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA
DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ .........................................................................................77
BẢNG 2.4. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG GỐM, SỨ ............................................83
BẢNG 2.5. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG MÂY TRE, CÓI, THẢM ..................87
BẢNG 2.6. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG SƠN MÀI MỸ NGHỆ.......................89
BẢNG 2.7. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THÊU REN ..............................93
BẢNG 2.8. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GỖ ......................................... 100
BẢNG 2.9. NHÀ CUNG CẤP ĐỒ DÙNG TRONG NHÀ VÀ QUÀ TẶNG SANG EU
................................................................................................................................................ 113
BẢNG 3.1. CHỈ TIÊU XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ĐẾN NĂM
2020 ......................................................................................................................................... 129
ix
DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ HÌNH 1.1. PHÂN BỔ LÀNG NGHỀ THEO KHU VỰC ....................................... 29
HÌNH 1.2. CƠ CẤU LÀNG NGHỀ THEO MẶT HÀNG ...................................... 30
HÌNH 1.3. DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ PHÂN THEO SỞ HỮU ................ 39
HÌNH 1.4. SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG TRONG MỖI DOANH NGHIỆP LÀNG
NGHỀ .............................................................................................................. 40
HÌNH 1.5. CƠ CẤU MẶT HÀNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
LÀNG NGHỀ ............................................................................................................... 41
HÌNH 1.6. MÔ HÌNH LỘ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
LÀNG NGHỀ ............................................................................................................... 42
HÌNH 1.7. VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ....................... 44
HÌNH 3.1. MÔ HÌNH QUẢN LÝ LÀNG NGHỀ VÀ DOANH NGHIỆP LÀNG
NGHỀ .......................................................................................................................... 155
HÌNH 3.2. LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ HOẠT ĐỘNG CỦA LÀNG NGHỀ VÀ
DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ............................................................................ 156
1
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Cho đến nay Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp. Tỷ lệ dân số sống
ở nông thôn hiện chiếm khoảng 75%. Nông nghiệp giữ vị trí vai trò hết sức
quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước ta.
Ngoài nghề chính là trồng trọt và chăn nuôi, ở nông thôn ngày nay
nhiều ngành nghề được khôi phục và phát triển trở lại như mây tre đan, gốm
sứ, dệt chiếu, thảm cói, thảm xơ dừa, hàng sơn mài, thêu ren, đồ gỗ, làm bún,
miến, bánh,... Trong quá trình tích tụ và liên kết, dần dần hình thành nên
những làng nghề và gần đây xuất hiện thêm mô hình doanh nghiệp làng nghề
chuyên sản xuất, kinh doanh một hoặc vài loại sản phẩm đặc trưng cho làng
đó. Những làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã giải quyết việc làm cho
người nông dân trong thời kỳ nông nhàn và tăng thêm thu nhập cho họ, đồng
thời cũng là yếu tố quan trọng góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, thúc đẩy
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề là nơi chủ yếu sản xuất và kinh
doanh hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, có vai trò quan trọng nhất tới
việc tăng kim ngạch xuất khẩu.
Trong xu thế tự do hoá và toàn cầu hoá về kinh tế và thương mại, với
việc Việt Nam gia nhập WTO, đang tạo ra những cơ hội để phát triển xuất
khẩu nhiều chủng loại hàng hoá của Việt Nam nói chung và hàng thủ công
mỹ nghệ nói riêng. Đồng thời với sự phát triển nhanh của khoa học và công
nghệ, cùng với cuộc sống đang thay đổi từng ngày của đa số người dân trên
thế giới, nhu cầu về sử dụng những hàng hoá độc đáo, tinh xảo, mang tính văn
hoá, nghệ thuật cao, gần gũi với thiên nhiên sẽ tăng lên, tạo ra nhiều cơ hội
cho sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ là sự đòi hỏi
của thực tế hiện tại, mà còn là cả một quá trình lâu dài, góp phần quan trọng
vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước .
2
Muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì phải phát triển
làng nghề và doanh nghiệp làng nghề đúng hướng và bền vững. Làng nghề và
doanh nghiệp làng nghề là cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ.
Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay đang đặt ra cần giải quyết một cách đồng bộ,
từ nguồn lao động, nguyên liệu, vốn, môi trường, khoa học, công nghệ đến thị
trường tiêu thụ,... đòi hỏi Nhà nước Trung ương, địa phương, doanh nghiệp,
các cơ quan chức năng và các hiệp hội phải có những chủ trương, chính sách
và giải pháp triệt để và hiệu quả. Muốn làm được điều đó, trước hết cần có sự
nghiên cứu nghiêm túc, cụ thể và khoa học về các lĩnh vực liên quan đến làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ.
Hiện nay, các hộ kinh tế gia đình, các doanh nghiệp sản xuất trong các
làng nghề vẫn hoạt động chủ yếu theo tính truyền thống và tự phát. Việc
nghiên cứu có tính quy mô, khoa học cho sự phát triển làng nghề chưa được
thực hiện thường xuyên. Do đó hoạt động của làng nghề còn nhiều lúng túng
và hiệu quả chưa cao. Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng
nghề tuy đã có từ lâu, nhưng vẫn thực hiện theo kinh nghiệm thực tế là chủ
yếu, chưa có sự phân tích, đánh giá cụ thể về quá trình sản xuất, mô hình quản
lý và đề ra chiến lược phù hợp với thực tiễn và lâu dài. Vì vậy nhìn chung
hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về nguồn lao
động dồi dào ở khu vực nông thôn và nguồn nguyên liệu còn khá phong phú.
Với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển
kinh tế nông thôn, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thì việc đẩy mạnh phát
triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, phát triển xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ là một vấn đề lớn và cấp bách nhằm tạo ra hàng triệu việc làm tại
3
các vùng nông thôn và tạo ra hàng tỷ USD bằng chính nguồn nguyên liệu sẵn
có ở nước ta như đất sét, mây tre lá, cỏ cây, phế thải công nghiệp, góp phần
quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp,
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế tại khu vực nông thôn.
Với lý do và ý nghĩa đó, nhằm góp phần vào việc thực hiện chủ trương
lớn của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân và mục tiêu đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài “PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG
NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ” làm đề tài Luận án
Tiến sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
* Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài
Trên thế giới, làng nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu
có ở các nước châu Á và một số ít nước châu Phi, còn các nước công nghiệp
phát triển ở châu Âu, châu Mỹ thì rất ít làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ. Do vậy, các công trình nghiên cứu về đề tài này trên thế giới không có
nhiều. Các nước hoặc vùng lãnh thổ có làng nghề như Trung Quốc, Thái Lan,
Malaisia, Inđônêxa, Philippin, Nhật Bản, Hàn Quốc,... có một số đề tài nghiên
cứu phục vụ cho việc xây dựng chính sách phát triển làng nghề của họ, nhưng
thường trong phạm vi hẹp và chưa được công bố rộng rãi.
* Tình hình nghiên cứu đề tài trong nước
Trong những năm gần đây, trong nước đã có một số công trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến việc phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề, đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam.
Trong các công trình này, chủ yếu là một số đề tài cấp Bộ, ngành, hiệp
hội có liên quan đến làng nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
- Bộ Thương mại (nay Bộ Công Thương) đã có công trình “Đề án phát
triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2010” đề án hoàn thành
4
tháng 5/2007. Đề án tập trung vào đánh giá những yếu tố có tầm quan trọng
quyết định sự thành bại của tăng trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề
ra những khuyến nghị nhằm khai thác hiệu quả nhất tiềm năng của Việt Nam,
góp phần giải quyết công ăn việc làm. “Đề án phát triển xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ đến năm 2010” cũng đưa ra những giải pháp, chính sách, cơ
chế nhằm thực hiện những mục tiêu về xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ
nghệ. Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu là phân tích quy trình hoạt
động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu liên quan đến bốn nhóm vấn đề về (1)
sản xuất trong nước; (2) môi trường kinh doanh; (3) phát triển thị trường xuất
khẩu; (4) phát triển bền vững.
- Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) có “Đề án phát triển xuất
khẩu giai đoạn 2006-2010” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đề án
đã xác định mục tiêu, định hướng và những giải pháp lớn cho phát triển xuất
khẩu, trong đó có xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong thời
kỳ 2006-2010.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Cơ quan hợp
tác quốc tế Nhật Bản (JICA), có công trình “Nghiên cứu Quy hoạch phát triển
ngành thủ công mỹ nghệ theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam”,
với các chuyên mục: Báo cáo cuối cùng, Báo cáo chính nghiên cứu quy hoạch
tổng thể. Công trình được nghiên cứu dựa trên các số liệu điều tra thực tế từ
sản xuất, kinh doanh của các làng nghề. Đề án hoàn thành tháng 2/2004.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (Bộ Giáo dục và Đào tạo) “Xây
dựng và phát triển mô hình làng nghề du lịch của một số tỉnh đồng bằng Bắc
Bộ”, mã số B2005-40-5, do GS. TS Hoàng Văn Châu chủ nhiệm đề tài.
- PGS. TS Nguyễn Hữu Khải; ThS. Đào Ngọc Tiến; ThS. Vũ Thị Hiền
“Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam”. Sách chuyên khảo, Nhà
xuất bản Thống kê, năm 2007.
5
- PGS. TS Nguyễn Hữu Khải; ThS. Đào Ngọc Tiến “Thương hiệu hàng
thủ công mỹ nghệ truyền thống”. Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Lao động
Xã hội, năm 2006.
- Vũ Từ Trang “Nghề cổ đất Việt”. Sách khảo cứu, Nhà xuất bản Văn
hoá - Thông tin, năm 2007.
- Phạm Côn Sơn “Làng nghề truyền thống Việt Nam”. Sách tham khảo.
Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, năm 2007.
- Nguyễn Văn Đáng “Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ở Hà
Nội và các vùng phụ cận đến năm 2010 và những năm tiếp theo”. Mã số
B2003 - 39-34.
- Ngoài những công trình nghiên cứu tương đối quy mô này, nhiều hội
thảo của các bộ, ngành, Hiệp hội làng nghề cũng có những đề tài nghiên cứu
trong từng lĩnh vực. Chẳng hạn, năm 2008, Hiệp hội làng nghề Việt Nam tổ
chức Hội thảo: “Cơ hội đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh
mới”, và Hội thảo “Tiềm năng và thực trạng làng nghề Việt Nam hiện nay” đã
có nhiều tham luận, báo cáo nghiên cứu tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ và nêu ra những giải pháp phát triển làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề. Trong đó, đáng lưu ý là những tham luận như: “Bảo tồn và
phát triển làng nghề”, “Phát triển nghề, làng nghề trong điều kiện mới” của
ông Vũ Quốc Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam, “ Một số vấn đề
phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các địa phương - Kết quả
nghiên cứu ở 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ” của ông Lê Đức Thịnh và bà Lê
Thị Phi Vân, “Định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề” của thạc sĩ Bùi
Văn Vượng, “Vài suy nghĩ về du lịch làng nghề Việt Nam” của ông Lưu Duy
Dần, Phó chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều báo, tạp
chí cũng có những bài viết về thực trạng, vai trò, giải pháp phát triển làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề, nhưng chỉ ở từng khía cạnh riêng rẽ, không
mang tính tổng kết.
6
Tóm lại, đến nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu liên
quan đến vấn đề phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, sản xuất và
xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở các cách tiếp cận và mức độ khác
nhau, nhưng chưa có một công trình nào giải quyết một cách toàn diện và có
tính hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong quá
trình hội nhập.
Do vậy, tác giả hy vọng đề tài “Phát triển làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề thủ công để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong quá
trình hội nhập” có thể góp phần giải quyết được phần nào yêu cầu bức xúc
đang đặt ra.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá và góp phần bổ sung cơ sở lý luận về phát triển làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ;
- Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ở
Việt Nam;
- Đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
trong thời gian qua để tìm ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân là cơ sở
thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp thúc đẩy sản xuất trong các làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề, tăng nhanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
Việt Nam;
- Đề xuất chính sách, giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề để tăng nhanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm về làng nghề và doanh nghiệp làng nghề;
- Phân tích quá trình hình thành và phát triển làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề Việt Nam;
7
- Nêu được vai trò của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề trong sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước;
- Rút ra bài học kinh nghiệm từ việc phát triển làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề của một số nước và khu vực trên thế giới;
- Điều tra thực trạng phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề;
- Điều tra thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh
nghiệp làng nghề;
- Đánh giá kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh
nghiệp làng nghề;
- Làm rõ quan điểm phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để
đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam;
- Nêu phương hướng, mục tiêu phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ;
- Đưa ra được những giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ;
- Đề xuất một số kiến nghị phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
b. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng từ năm 2000 đến 2008, đề xuất và
định hướng các giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
- Về không gian:
+ Đề tài đi sâu nghiên cứu tại làng nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của các doanh nghiệp làng nghề. Thực tế các lµng nghÒ vµ doanh nghiệp
làng nghề xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch
8
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Do vậy nghiên cứu xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ của lµng nghÒ vµ doanh nghiệp làng nghề được hiểu là
nghiên cứu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam;
+ Nghiên cứu về sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên cơ
sở tiếp cận các chủ thể là hộ sản xuất và doanh nghiệp trong các làng nghề và
qua các phiếu điều tra;
+ Luận án quan tâm tới các giải pháp vĩ mô của Nhà nước và việc thực
hiện của các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sản xuất và kinh doanh xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ;
- Về lĩnh vực: Sản xuất tại làng nghề, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của làng nghề.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận, kết hợp các
phương pháp thống kê, phân tích thông tin, số liệu, liên hệ và so sánh, khái
quát và tổng hợp.
Đồng thời áp dụng phương pháp điều tra xã hội thông qua khảo sát thực
tế và phát phiếu thăm dò.
6. Đóng góp mới của luận án
a/ Đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc hơn về thực trạng làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề, góp phần hoàn chỉnh khái niệm về doanh nghiệp
làng nghề và mối quan hệ biện chứng giữa việc hình thành và phát triển làng
nghề tới việc ra đời và phát triển doanh nghiệp làng nghề, tạo nền tảng vững
chắc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
b/ Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc sản xuất, kinh
doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và doanh nghiệp làng
nghề.
c/ Xây dựng được những dữ liệu quan trọng và cần thiết về làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề góp phần truyền tải những thông tin, số liệu, quan
điểm, nhu cầu từ cơ sở tới các Bộ, ngành, hiệp hội và các cơ quan chức năng
9
hoạch định chính sách và đề ra các giải pháp hữu hiệu cho việc phát triển làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề.
d/ Xác định rõ những nội dung và nhân tố tác động đến sản xuất và xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ để có hướng điều chỉnh phù hợp hơn.
e/ Cung cấp cho những người quản lý, nghiên cứu và cả những người
sản xuất có cách nhìn mới và thêm kinh nghiệm trong việc phát triển làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của một số quốc gia nổi tiếng về làng nghề.
f/ Đưa ra một số dự báo quan trọng và định hướng phát triển xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 của Việt Nam.
g/ Đề xuất được một cách hợp lý, khoa học với các cơ quan chức năng
về cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
để tăng nhanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tham khảo, nội
dung luận án được kết cấu thành 3 chương.
Chương I: Tổng quan về làng nghề, doanh nghiệp làng nghề và tiềm
năng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của doanh nghiệp làng nghề.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
Chương III: Giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong quá trình hội nhập.
10
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ VÀ
TIỀM NĂNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ.
1.1. Khái niệm, đặc điểm về làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
1.1.1. Khái niệm về làng nghề và làng nghề thủ công mỹ nghệ
Trong lịch sử hình thành và phát triển, đến nay Việt Nam vẫn là một
nước nông nghiệp. Do vậy, làng, xã có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất
cũng như đời sống của cư dân. Làng, xã Việt Nam phát triển từ lâu đời, gắn
bó với nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện
Ngôn ngữ học: “Làng là một khối dân cư nông thôn làm thành một đơn vị, có
đời sống riêng về nhiều mặt ” [110]
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm
nghề nông nghiệp, dần dần do nhu cầu cuộc sống, có một bộ phận dân cư
chuyển sang làm nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau thành lập một số tổ
chức theo nghề nghiệp, tạo thành các phường, hội. Từ đó, các nghề được mở
rộng và phát triển ở nhiều nơi. Cùng với thời gian, các nghề mới ngày càng
nhiều hơn và trở thành nghề quan trọng đem lại thu nhập chính cho một bộ
phận dân cư và bộ phận dân cư này tách hẳn đồng ruộng, chuyển sang làm
nghề mới.
Vậy, theo tác giả, làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một
thôn (một làng), có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để
sản xuất, kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ lệ cao trong
tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.
Theo Thông tư số 116/2006/TT - BNN&PTNT ngày 18/2/2000 về việc:
Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ - CP
ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, định
nghĩa: “Làng nghề là một cụm hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng,
11
buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn,
có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản
phẩm khác nhau”.
Cũng theo Thông tư trên, “được coi là làng nghề, nếu các hộ gia đình
lao động trong làng làm nghề tối thiểu chiếm từ 30% trở lên; hoạt động sản
xuất, kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm công nhận.
Như vậy, làng xã là nơi sinh ra nghề thủ công và các sản phẩm mang
dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh của địa phương và dân tộc. Quá
trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp
ở nông thôn. Sự phát triển được bắt nguồn từ một vài gia đình, rồi đến dòng
họ và sau lan ra quy mô cả làng. Trải qua thời gian dài của lịch sử, lúc thịnh,
lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất
hẳn, có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ tinh
xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công xã hội khá cao, cùng lưu giữ với
thời gian, gọi là nghề truyền thống.
Nghề thủ công với những sản phẩm của nó thật sự đã góp phần tạo nên
bản sắc văn hoá dân tộc và là những di sản văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá
bất kỳ dân tộc nào cũng đều là nền tảng cho sự tồn tại của dân tộc đó. Truyền
thống văn hoá được biểu hiện tập trung ở bản sắc văn hoá dân tộc.
Nói đến làng nghề chính là nói đến làng nghề thủ công. Vì hầu hết sản
xuất trong các làng nghề đều làm bằng thủ công (bằng tay). Thời gian gần
đây, khoa học công nghệ phát triển, một số ít công đoạn được sử dụng bằng
máy. Có một số rất ít làng nghề buôn bán, thì đó không phải là làng nghề thủ
công.
Việt Nam có hàng trăm nghề thủ công khác nhau, sản xuất ra những
sản phẩm sử dụng trong cuộc sống hàng ngày hoặc để vui chơi, giải trí, chiêm
ngưỡng hoặc để xuất khẩu. Mỗi làng nghề đều có những nghề đặc trưng khác
nhau. Chẳng hạn làng nghề gốm, sứ, làng nghề mây tre đan, làng nghề làm
bún, giò chả, làng nghề làm giấy, làng nghề đúc đồng, làng nghề làm bánh,
12
mứt kẹo, làng nghề buôn bán,... Nhưng không phải tất cả các loại làng nghề
trên đều là làng nghề thủ công mỹ nghệ. Theo quan điểm của tác giả, làng
nghề thủ công mỹ nghệ là những làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng thủ
công mang tính thẩm mỹ, tinh xảo có tính nghệ thuật cao.
Trong các làng nghề thủ công mỹ nghệ thường có các nghệ nhân, thợ
thủ công lành nghề nổi tiếng chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, sản xuất
ra những sản phẩm mang tính đặc trưng của làng. Các sản phẩm đó thường có
giá trị nhân văn nhiều hơn giá trị sử dụng.
1.1.2. Khái niệm về doanh nghiệp làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
thủ công mỹ nghệ
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều
thành phần và loại hình kinh tế xuất hiện trong xã hội và đóng góp phần
không nhỏ cho sự phát triển đất nước. Trong những năm đổi mới, nhất là từ
khi Luật Doanh nghiệp ra đời, hàng loạt doanh nghiệp trong đó quy mô nhỏ
và vừa chiếm đa số, đã được đăng ký và hoạt động. Không ít doanh nghiệp
làng nghề cũng ra đời trong giai đoạn này.
Hiện nay, chưa có một định nghĩa hoặc khái niệm thống nhất nào về
doanh nghiệp làng nghề. Vì vậy, tác giả đưa ra khái niệm cơ bản về doanh
nghiệp làng nghề như sau: “Doanh nghiệp làng nghề là những doanh nghiệp
ra đời và hoạt động theo LuËt Doanh nghiÖp, nhằm chñ yÕu sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ hoặc dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh
doanh hàng thủ công mỹ nghệ”.
Trong những năm gần đây, nhiều hộ kinh tế gia đình trong các làng
nghề đã thay đổi hình thức sở hữu, mô hình sản xuất, kinh doanh. Số lượng
doanh nghiệp làng nghề ngày càng tăng nhanh và chứng tỏ có nhiều ưu thế
hơn so với kinh tế hộ gia đình. Loại hình doanh nghiệp chiếm đa số trong các
làng nghề là Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư
nhân.
13
Ở đây ta cần phân biệt khái niệm doanh nghiệp làng nghề với doanh
nghiệp tại các làng nghề. Theo tác giả, khái niệm doanh nghiệp làng nghề là
chỉ những doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh hàng thủ công của các làng
nghề hoặc những doanh nghiệp dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng thủ công. Chẳng hạn như doanh nghiệp sản xuất hàng gốm, sứ;
doanh nghiệp kinh doanh hàng mây tre đan; doanh nghiệp chuyên cung ứng
nguyên liệu cho sản xuất gốm sứ,.... Còn những doanh nghiệp tại các làng
nghề mà không sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, không liên quan
đến các dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thì không
phải là doanh nghiệp làng nghề. Chẳng hạn như doanh nghiệp vận tải hành
khách, doanh nghiệp thu mua, chế biến thóc, gạo tại các làng nghề,...
Sở dĩ chúng ta phải xác định cụ thể khái niệm này vì nó liên quan đến
việc xây dựng mô hình quản lý, đánh giá thực trạng doanh nghiệp làng nghề
và xây dựng cơ chế, chính sách cùng các giải pháp phát triển doanh nghiệp
làng nghề.
1.2. Lịch sử phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam
1.2.1. Quá trình ra đời và phát triển làng nghề
a/ Thời kỳ phong kiến
Làng nghề thủ công Việt Nam từng tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch
sử và góp phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc. Truyền thống văn
hoá đó là niềm tự hào của dân tộc qua các thế hệ nối tiếp nhau. Đó là những
thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật với các sản phẩm, công cụ, kinh nghiệm
sản xuất còn lưu truyền đến ngày nay. Đây chính là nền tảng và động lực cũng
như mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài của nghề và làng nghề thủ công.
Qua các tài liệu nghiên cứu dấu vết người cổ đã tìm thấy hàng vạn công
cụ đồ đá ghè, đẽo thô sơ. Những dấu vết đó khẳng định một giai đoạn đồ đá
cũ khoảng ba, bốn vạn năm về trước.
14
Thời kỳ Đông Sơn (thời đại đồ đồng), người Việt Đông Sơn đã đúc
được trống đồng đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật. Những trang trí
trên mặt trống đồng đã phản ánh một cách phong phú và sinh động cuộc sống,
lao động và chiến đấu, những hình thức tín ngưỡng, hoạt động vui chơi, giải
trí của người Việt cổ.
Theo nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy rằng,
ở thời kỳ này nền nông nghiệp phát triển mạnh, nên nghề thủ công có điều
kiện mở rộng. Ngược lại, nghề thủ công, nhất là nghề luyện kim đã tác động
vào nông nghiệp bằng các loại công cụ sản xuất có hiệu quả hơn các công cụ
bằng đá, gỗ, tre thô sơ, làm cho các nghề trồng trọt, nhất là trồng lúa phát
triển mạnh. Đương nhiên, nghề thủ công phát triển không chỉ nhờ nông
nghiệp, mà còn chịu chi phối bởi nhiều yếu tố khác. Trong đó, đáng chú ý là
do chiến tranh chống xâm nhập của phương Bắc. Vũ khí bằng đồng, sắt là
những thứ không thể thiếu của thời kỳ này. Người Việt Đông Sơn đã ổn định
sản xuất ít nhất 7 nhóm nghề thủ công lớn như nghề luyện kim, nghề gốm,
nghề thuỷ tinh, nghề mộc và sơn, nghề dệt vải, nghề đan lát (mây, tre, nứa,
cói), nghề chế tác.
Thời kỳ Bắc thuộc, các nghề chủ yếu sản xuất công cụ và vật dụng
bằng sắt, đồng, giấy, thuỷ tinh, mộc,... Đạt đến trình độ tinh xảo. Sử sách còn
ghi: “Lái buôn Trung Quốc sang Giao Chỉ (Việt Nam) mua giấy trầm hương,
vua Tần cuối thế kỷ thứ III sai quan lại dùng giấy này để chép sách Xuân Thu,
Kinh truyện. Vào thế kỷ thứ IV, trên cơ sở tiếp thu kỹ thuật từ Ấn Độ, người
Việt Nam đã thổi những bình, bát thuỷ tinh nhiều màu sắc. Dưới thời nhà Ngô
đô hộ, hàng ngàn thợ thủ công Việt Nam bị bắt sang Trung Quốc để xây dựng
kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh)”. [3]
Tuy vậy, phải đến thế kỷ thứ XI - XIV, dưới triều nhà Lý (1010 - 1225)
và nhà Trần (1225 - 1400) đất nước mới thực sự phục hưng. Nhà nước Đại
Việt lúc này khá hùng mạnh. Mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội, văn hoá phát
triển đến mức cao. Bối cảnh xã hội lúc đó vô cùng thuận lợi cho các nghề thủ
15
công phát triển. Hàng loạt nghề thủ công ra đời mở rộng nhanh chóng. Nhiều
loại sản phẩm không những có sản lượng lớn, mà còn có sự thay đổi về chất
lượng và chủng loại. Theo tư liệu cổ sử cho biết, vào thời Lý - Trần, hay
chậm nhất là đến thời phục hưng Lý - Trần, thế kỷ thứ XI - XIII, các làng
nghề thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. Một số sản phẩm trở nên nổi tiếng
và sống mãi với lịch sử, văn hoá, văn minh dân tộc. Nổi bật là làng nghề dệt
La Khê, Vạn Phúc, nghề gốm ở Bát Tràng, nghề đúc đồng ở Đại Bái, Đê Cầu
(Bắc Ninh), Đông Mai (Hải Dương), làng rèn sắt Văn Chàng (Nam Định),
làng nón Ma Lôi (Hải Dương).
Thế kỷ thứ XV - XVII, thời hậu Lê và nhà Mạc, kéo dài suốt 300 năm.
Những làng nghề, phố nghề tập trung khá nhiều thợ chuyên sản xuất một số
sản phẩm nhất định. Nhà nước phong kiến đương thời thu thuế bằng hiện vật
các sản phẩm được làm ra từ các làng nghề, phường nghề, phố nghề để sử
dụng trong triều thần và làm cống phẩm nộp cho Trung Quốc. Kinh thành
Thăng Long đổi tên thành Đông Đô, rồi Đông Kinh, lập ra 36 phố phường.
Tại đó có các nghề chuyên sản xuất, buôn bán hàng thủ công. Như phường
Yên Thái làm nghề giấy dó, phường Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải lụa,
phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Hàng Bạc chế tác đồ vàng bạc,
phường Ngũ Xá đúc đồng, phường Hàng Khay bán sơn và đồ mỹ nghệ,
phường Hàng Trống bán dù, lọng, trống và sản xuất tranh dân gian.
Cuối thời Hậu Lê, nhiều làng nghề hay trung tâm sản xuất gốm được
ghi trong sử sách: làng Thổ Hà (Bắc Ninh) nổi danh về gốm đỏ, làng Hương
Canh (Vĩnh Phúc) làm chum vại, làng Hàm Rồng (Thanh Hoá) sản xuất các
đồ gốm gia dụng. Những làng nổi tiếng về sản xuất nồi đất nung thời Lê -
Mạc là Vân Đình (Hà Tây - nay là Hà Nội), Đình Trung và Hiếu Lễ (Vĩnh
Phúc), chợ Bộng (Nghệ An). Riêng trung tâm gốm sứ lớn ở Nam Sách (Hải
Dương) đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ suốt 2 thế kỷ XVI - XVII, đó là gốm
Chu Đậu. Phần lớn gốm mỹ nghệ và gốm gia dụng cao cấp xuất khẩu đương
thời đều sản xuất tại Chu Đậu. Trung tâm này bị phá huỷ vào cuối thế kỷ thứ
16
XVII do cuộc chiến tranh ác liệt giữa 2 thế lực phong kiến triều Mạc và chúa
Trịnh. Gần đây gốm Chu Đậu đã được khôi phục lại và đang có xu hướng
phát triển nhanh.
Phía Đông Nam kinh thành Thăng Long (Hà Nội) có làng gốm Bát
Tràng, hình thành và phát triển suốt 600 năm nay. Nếu gốm Chu Đậu giỏi về
chế tạo gốm hoa lan, đưa gốm hoa lan lên đỉnh cao nhất vào thế kỷ thứ XVII,
thì Bát Tràng có tài sản xuất nhiều loại gốm quý: hoa lan, hoa nâu, men ngọc,
men rạn từ xưa tới nay. Hiện tại, Bát Tràng là làng gốm lớn nhất, phát triển
nhất miền Bắc, đồng thời là một trong 3 trung tâm gốm, sứ lớn nhất cả nước
(cùng với trung tâm gốm sứ Biên Hoà - Đồng Nai và Lái Thiêu - Bình
Dương).
Mặc dù thế kỷ thứ XV - XVII là thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh,
sông Gianh thành giới tuyến Đằng Ngoài và Đằng Trong, nhưng sự tranh
giành quyền lực giữa các thế lực phong kiến không thể ngăn cản được sự lao
động sáng tạo của nhân dân. Các làng nghề và phường nghề mọc lên ngày
càng nhiều ở nông thôn và thành thị. Những nghề phát triển khá mạnh lúc bấy
giờ là nghề: gốm, tiện, khắc gỗ, đồ nữ trang, tơ lụa. Đồng bằng sông Hồng - ở
Đằng Ngoài và xứ Thuận Hoá - ở Đằng Trong, có nhiều nghề hơn hẵn các nơi
khác trong cả nước. Chính quyền Trịnh, Nguyễn chủ trương phát triển sản
xuất để tăng thêm nguồn thu cho nhà nước, đáp ứng nhu cầu của giới cầm
quyền. Những thợ lành nghề bị trưng thu vào các xưởng thủ công của nhà
nước, làm việc theo chế độ lao dịch, cưỡng bức.
Nhiều nước phương Tây (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh,
Pháp,...) mở rộng thông thương với Việt Nam. Đây chính là một trong những
nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các làng nghề và trung tâm sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ lúc đó phát triển. Họ mua của Việt Nam, các loại hàng thủ
công như tơ lụa, đường, gốm, đồ mỹ nghệ vàng bạc, mây tre đan,...
Vào thế kỷ thứ XVIII, chính quyền họ Trịnh tăng tô thuế lên cao, với
nhiều loại thuế đánh vào sản xuất, buôn bán. Đây là chính sách bóp nghẹt
17
ngoại thương, ngăn cản kinh doanh, đánh thuế rất nặng vào hàng thủ công mỹ
nghệ. Do vậy đã làm cho nhiều thương nhân và thợ thủ công bị phá sản, có
nhiều người phải bỏ nghề, phá huỷ công cụ sản xuất. Trong cuốn “Lịch triều
khiến chương loại chí”, nhà sử học Phan Huy Chú viết: “Vì trưng thu quá
mức, dân kiệt cả vật lực mà không thể nộp đủ, đến nỗi thành ra bần cùng mà
phải bỏ nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn sống mà phải chặt cây sơn, có
người vì thuế vải lụa mà phải phá khung cửi. Cũng có người vì nộp gỗ cây mà
phải bỏ búa rìu”. Cùng thời kỳ đó, ở Đằng Trong cũng không có gì sáng sủa
hơn, bởi chính sách thuế khoá nặng nề của chúa Nguyễn.
Đầu thế kỷ thứ XVII, hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam tập trung vào
phát triển nhiều làng nghề, phường nghề thủ công có tiếng như nghề dệt, gốm,
rèn, đúc đồng. Thương cảng Hội An lúc đó “hàng hoá rất nhiều, dù hàng trăm
tàu lớn chuyên chở cùng một lúc cũng không hết được” (Lê Quý Đôn - Phụ
biên tạp lục). Lúa gạo từ Gia định chở ra Thuận Hoá và hàng thủ công từ các
làng nghề xứ Thuận Hoá lại được chuyển vào bán ở Gia Định.
Thời cận đại, dưới triều Nguyễn, trước khi Pháp xâm lược nước ta, từ
năm 1858 trở về trước, ngoài nghề nông thì sản xuất hàng hoá hầu hết bằng
công nghệ truyền thống. Nghề thủ công lúc này rất quan trọng và chia thành 2
bộ phận rõ rệt. Một bộ phận gắn chặt với nông nghiệp, nông thôn, một bộ
phận khác tách khỏi nông nghiệp. Nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm đến bộ phận
thứ 2 này và do Công bộ quản lý. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” (biên
soạn vào nửa đầu thế kỷ XIX), cả nước có hàng trăm loại hàng thủ công đặc
sắc, coi như đặc sản thể hiện tài năng và kỹ thuật cổ truyền của dân tộc. Phát
triển nhất có lẽ là ngành dệt. Khắp nước, đâu đâu cũng có sản phẩm dệt, nhất
là các tỉnh, thành như Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam
Định, Thanh Hoá, Quảng Nam, Bình Định, Biên Hoà, Gia Định, An Giang,...
với hàng trăm mặt hàng từ tơ tằm, sợi bông, sợi gai. Sau nghề dệt là các nghề
gốm sứ, đồ gỗ, may, thêu, kim hoàn, đúc đồng, rèn. Nhiều làng nghề và trung
18
tâm sản xuất đồ gốm nổi tiếng trên toàn quốc như Bát Tràng, Thổ Hà, Móng Cái
ở miền Bắc, Quảng Nam ở miền Trung, Biên Hoà, Thủ Dầu Một ở miền Nam.
Lúc này, triều Nguyễn chiêu tập thợ giỏi các nơi về Huế xây dựng cung
điện, đền đài, đúc đồng, làm đồ kim hoàn và nhiều đồ thủ công khác. Tuy
nhiên, những sản phẩm tinh xảo thường vẫn được làm tại Hà Nội và các tỉnh
lân cận thuộc đồng bằng sông Hồng. Còn phía Nam, Gia Định vừa là thủ phủ
của Nam Bộ, vừa là trung tâm thương mại lớn. Nhưng một điều dễ thấy, đó là
khuynh hướng sản xuất hàng thủ công chủ yếu ở miền Bắc, nhưng hoạt động
thương mại chủ yếu ở miền Nam. Các làng chuyên nghề, các phố thợ thủ
công phát triển theo hướng tách rời nông nghiệp. Tại các làng nghề chuyên đã
thu hút 80 - 90% dân số làm nghề thủ công, chỉ còn khoảng 10% dân số làm
ruộng. Còn các phố nghề ở Hà Nội, hầu hết số dân làm nghề thủ công hoặc
buôn bán sản phẩm thủ công. Chính tại các phố phường này đã thể hiện rõ
nhất sự phân công lao động hơn hẳn các làng nghề, để hình thành các tiểu
chủ, chủ bao mua kiêm chủ tư bản, hình thành các nhà tư sản dân tộc nửa đầu
thế kỷ thứ XIX ở Việt Nam.
Những năm đầu thế kỷ thứ XIX, nhà Nguyễn có vai trò quan trọng đối với
sự phát triển sản xuất thủ công của các làng nghề trong cả nước, như việc cho
phép thợ thủ công hội nhau thành các phường nghề, xếp thợ thủ công vào hạng
“miễn sai”, tức là bỏ hay miễn giảm thuế thân, bớt lao dịch, miễn đi lính quân
dịch. Nhiều quan chức, học giả yêu nước đã đề xuất với vua Tự Đức “khuyến
khích các xưởng thợ để đủ đồ dùng” hoặc “không dùng hàng phương Bắc”.
b/ Thời kỳ Pháp thuộc
Nửa cuối thế kỷ thứ XIX đến năm 1945, chính quyền Pháp ở Đông
Dương nắm giữ vai trò chủ đạo phát triển sản xuất hàng thủ công ở Việt Nam.
Người Pháp đến Việt Nam đã đem theo nền sản xuất cơ khí từ chính quốc của
họ. Đối với nền sản xuất thủ công lâu đời của Việt Nam, người Pháp từng
bước có chủ trương và biện pháp chú ý cho cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất. Chính quyền Pháp chủ trương và cho tiến hành cuộc điều tra, nghiên
19
cứu tài nguyên và khả năng sản xuất, nhu cầu của sản xuất thủ công ở Việt
Nam những năm 70 - 80 của thế kỷ XIX.
Từ năm 1898, các trường kỹ nghệ thực hành và mỹ nghệ thực hành ở
Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và một số tỉnh khác được thành lập để đào tạo
thợ kỹ thuật các nghề rèn, nguội, mộc, tằm tơ, khảm, sơn mài, gốm và đúc
đồng. Nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được Pháp đưa ra nước
ngoài tham dự các hội chợ, triển lãm như hội chợ Lyon năm 1893, hội chợ
Paris năm 1907 giới thiệu đồ tơ lụa và đồ khảm của Việt Nam. Tại Hà Nội,
thành lập Bảo tàng Công - Nông - Thương năm 1902; bắt đầu tổ chức hội chợ
hàng năm tại khu Đấu Xảo từ năm 1918. Năm 1900, Toàn quyền Đông
Dương quyết định đặt ra những giải thưởng lớn tặng cho các nghệ nhân hoặc
thợ thủ công có công trau dồi nghề nghiệp.
Từ năm 1930, khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tác động mạnh đến
kinh tế Pháp và Đông Dương, thì thực dân Pháp quan tâm nhiều hơn đến thủ
công nghiệp truyền thống của Việt Nam. Chính quyền Pháp cho tiến hành cuộc
“chấn hưng công nghệ” từ năm 1935, mở đầu bằng cuộc điều tra để tìm phương
án phát triển thủ công nghiệp Bắc Kỳ do Thống sứ Bắc Kỳ phụ trách. Chính
quyền và các nhà kinh doanh bản xứ hiểu rằng, kích thích phát triển thủ công
nghiệp không những chỉ phải bỏ ít vốn hoặc không cần bỏ vốn, mà lợi nhuận thu
được lại cao, bởi tận dụng được nguồn nhân công rẻ mạt và tài khéo léo của
người thợ thủ công có truyền thống lâu đời. Tư sản thương mại Pháp muốn tận
dụng nguồn lợi từ nền sản xuất sản phẩm truyền thống, nhất là hàng mỹ nghệ
Việt Nam luôn được thế giới ưa chuộng và có giá trị cao. Ngoài ra, các loại sản
phẩm này đáp ứng kịp thời và tại chỗ cho nhu cầu tiêu dùng thuộc địa mà nước
Pháp không có khả năng cung cấp được. Bối cảnh lịch sử, kinh tế xã hội lúc đó
đã tạo thuận lợi cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển. Số lượng thợ thủ
công và làng nghề thủ công tăng lên đáng kể, nhất là đồng bằng Bắc Bộ.
Theo số liệu điều tra của P.Gourou năm 1930, số thợ thủ công ở Bắc
Bộ khoảng 250 ngàn người, chiếm 6,5% số người ở độ tuổi lao động trong
20
vùng. Nếu tính cả những người làm nghề thủ công không chuyên nghiệp, thì
số người làm nghề thủ công chiếm khoảng 8% số người lao động. Trung tâm
phát triển nhất về hàng thủ công mỹ nghệ Bắc Bộ là các tỉnh đồng bằng sông
Hồng, sông Mã, sông Đáy, bao gồm các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải
Dương, Bắc Ninh, Thanh Hoá, đặc biệt là Hà Đông. Tỉnh Hà Đông (nay là Hà
Nội) lúc đó có tới 14% lao động (khoảng 65 ngàn người) làm nghề thủ công.
Làng nghề của Hà Đông tập trung chủ yếu dọc ven sông Đáy, thuộc 2 huyện
Thanh Oai, Ứng Hoà. Riêng Thanh Oai, thợ thủ công chiếm 29% lao động
toàn huyện. Con số này lên đến 44% ở Bối Khê, 41% ở tổng Thuỷ Cam.
Vùng này có làng nghề dệt, làm quạt giấy, làm nón, làm mành, mây tre đan,...
Còn huyện Ứng Hoà, 19% lao động làm nghề thủ công, tập trung đông nhất ở
tổng Đông Lỗ (43% lao động thủ công trên tổng số dân). Nói chung, khắp
tỉnh Hà Đông, thời Pháp thuộc đâu cũng có làng nghề thủ công chuyên
nghiệp. Làng La Khê dệt the, vân, xuyến; làng Vạn Phúc dệt vân, the, gấm, xa
tanh; làng Đại Mỗ chuyên làm dây đay, võng; Làng Phú Vinh chuyên mây tre
đan; làng Triều Khúc có 40 nghề, nhưng phát đạt nhất là nghề dệt khăn mặt
và nghề đan lát. Hà Đông còn có nhiều nghề khác như làm quạt, tạc tượng gỗ,
chạm khắc gỗ, làm hương, làm vàng mã. Có thể nói, Hà Đông là một thế giới
thu nhỏ của nghề thủ công, nơi có rất nhiều làng nghề thủ công của đồng bằng
Bắc Bộ. Các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Bắc Ninh, Hưng Yên hay như Sơn Tây
(Hà Nội),... cũng có nhiều làng nghề nổi tiếng với dân số làm nghề chiếm tỷ
lệ cao. Khu vực bên sông Luộc, thuộc địa phận 2 tỉnh Hưng Yên và Thái Bình
có nhiều vùng nghề thủ công tập trung. Tỉnh Thái Bình có làng Đồng Xâm
chuyên chạm bạc và làm nghề trang sức; làng Phúc Khê chuyên mây tre đan.
Tỉnh Hưng Yên có làng Hải Yến làm hàng mã; làng Tiên Phương đan lát;
làng Cảo Cương dệt lụa,...
Các làng nghề, phố nghề Hà Nội phát triển mạnh và tập trung nhiều thợ
giỏi. Những địa danh gắn liền với làng nghề thủ công và sản phẩm tinh xảo,
21
giá trị cao phải kể đến gốm Bát Tràng; dệt Cổ Đô, Trích Sài; giấy dó Yên
Thái, Nghĩa Đô; tranh dân gian Hàng Trống; đúc đồng Ngũ Xá,...
Qua thống kê trên Tập san kinh tế Đông Dương năm 1939, số thợ thủ
công Việt Nam tập trung chủ yếu ở Bắc Kỳ (95.700 thợ), đông gấp 7 lần số
thợ ở Trung Kỳ (12.650) và 4 lần Nam Kỳ (19.130 thợ).
Năm 1945, Việt Nam tuyên bố độc lập, nhưng cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp vẫn kéo dài đến năm 1954. Nên những làng nghề thuộc vùng
có chiến tranh không có điều kiện phát triển.
c/ Thời kỳ từ năm 1954 tới nay
Sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhất là từ năm 1960 nghề và
làng nghề thủ công có điều kiện mở rộng và phát triển mạnh hơn.
Những năm 70 của thế kỷ XX đã đánh dấu một thời kỳ hoàng kim của
nghề, làng nghề thủ công Việt Nam. Hàng loạt tổ chức sản xuất, kinh doanh,
thu mua, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ra đời khắp các vùng nông thôn,
thành thị miền Bắc. Sản xuất hàng thủ công lúc này đã thu hút hàng triệu lao
động chuyên nghiệp và không chuyên thuộc mọi lứa tuổi. Hàng thủ công mỹ
nghệ Việt Nam được ưa chuộng và tiêu thụ lớn tại các nước xã hội chủ nghĩa
như Liên Xô, cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc,... vào những năm
70 - 80 của thế kỷ XX. Hàng thủ công mỹ nghệ có vai trò rất quan trọng trong
việc thanh toán hàng đổi hàng với các nước xã hội chủ nghĩa theo các hiệp
định song phương và đa phương. Đã góp phần rất quan trọng trong việc duy
trì và phát triển mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa nước ta với các nước xã
hội chủ nghĩa.
Nhịp độ lao động rất sôi nổi, khẩn trương rộng khắp trong các làng
nghề. Cuộc sống của người thợ được cải thiện đáng kể. Những chủng loại sản
phẩm thủ công mỹ nghệ được xuất khẩu nhiều trong thời kỳ này là đồ sơn
mài, mây tre đan, thêu ren, thảm các loại, đồ trang sức, lụa,...
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
lần lượt tan rã, thị trường Liên Xô, Đông Âu rơi vào khủng hoảng. Do vậy,
22
hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung rất khó
xuất khẩu sang khu vực thị trường này. Trong khi đó, hầu như toàn bộ hàng
thủ công mỹ nghệ trước đó chỉ xuất khẩu được vào thị trường các nước xã hội
chủ nghĩa. Còn thị trường khu vực II (thị trường tư bản) Việt Nam xuất khẩu
với kim ngạch không đáng kể. Do vậy, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thời
kỳ này bị đình đốn, nhiều làng nghề bị mai một dần, đa số thợ thủ công bỏ
nghề đi tìm việc khác để kiếm kế sinh nhai. Có thể nói, những năm cuối 80,
của thế kỷ XX là những năm suy giảm đối với hàng thủ công mỹ nghệ.
Cuối những năm 80, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi
mới, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế. Nhiều chủ trương lớn liên quan đến
chính sách xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối, khuyến khích đầu tư, cải cách
hành chính,... đã tạo môi trường thông thoáng cho giao lưu quốc tế, khuyến
khích phát triển các thành phần kinh tế. Từ thời gian này, hàng xuất khẩu nói
chung và hàng thủ công mỹ nghệ có nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường nước
ngoài, đặc biệt là thị trường tư bản. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ được
phát triển dần và tốc độ ngày càng tăng nhanh từ năm 1995, tác động đến sự
phục hồi nhanh chóng của làng nghề theo hướng đa dạng mẫu mã, chủng loại
và chất lượng cao hơn, quy mô lớn hơn, chuyên nghiệp hơn.
1.2.2. Quá trình ra đời và phát triển của doanh nghiệp làng nghề Việt Nam
Trước những năm 60 của thế kỷ XX, tại các làng nghề của Việt Nam
hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ hầu như tập trung toàn bộ tại các
hộ gia đình. Sản xuất theo hình thức hộ gia đình bắt đầu hình thành khi làng
nghề xuất hiện, tồn tại cho đến ngày nay và vẫn đang chiếm phần lớn trong
các hình thức hoạt động tại các làng nghề. Hình thức sản xuất theo hộ gia đình
có ưu điểm là tận dụng được mặt bằng sản xuất tại nhà, tận dụng được lao
động chủ yếu trong gia đình vào thời kỳ nông nhàn, chi phí sản xuất thấp,
quản lý đơn giản, nhưng nhược điểm lớn là khó mở rộng quy mô sản xuất,
khó sản xuất lớn, khó đưa máy móc kỹ thuật tiên tiến, hiện đại thay cho lao
23
động thủ công, không đủ vốn để tăng năng lực sản xuất và không đủ lao động,
nhất là thợ nghề bậc cao để sản xuất những mặt hàng giá trị lớn. Ngoài ra, sản
xuất theo hộ gia đình rất khó tiếp cận với thị trường, nhất là thị trường nước
ngoài, khó mở rộng các mối quan hệ để tiếp cận với đầu vào và khó thay đổi
đề tài, mẫu mã, chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.
Quá trình sản xuất thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề theo phương
thức nhỏ lẻ, tự phát, bộc lộ nhiều khó khăn do không có tính tổ chức, chi phí
cao, khó tiêu thụ,... đòi hỏi phải liên kết lại ở các quy mô khác nhau. Vì vậy
sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, trong các làng nghề ở miền Bắc đã
bắt đầu xuất hiện thêm một số hình thức sản xuất mới như tổ sản xuất, hợp tác
xã. Tổ sản xuất là hình thức tập trung, liên kết của một số gia đình cùng sản
xuất những sản phẩm tương đối giống nhau để phát triển sản xuất, nhằm mở
rộng quy mô. Cách thức quản lý tổ sản xuất cũng đơn giản. Các gia đình bầu
ra người đứng đầu, gọi là tổ trưởng, người này phân công công việc cho từng
gia đình và quán xuyến đầu vào, đầu ra cho các gia đình đó. Các gia đình
được phân chia quyền lợi trên cơ sở đóng góp sản phẩm và công lao họ bỏ ra.
Mặc dù tổ sản xuất đã có bước tiến và ưu điểm hơn so với kinh tế hộ gia đình,
nhưng hình thức này vẫn còn đơn giản, quản lý lỏng lẽo và chưa có tính chất
pháp lý ràng buộc với từng hộ gia đình, nên sự kích thích sản xuất cũng còn
hạn chế.
Từ những năm 60, trên miền Bắc đã xuất hiện rầm rộ mô hình sản xuất
hợp tác xã. Trong các làng nghề, hình thức hoạt động hợp tác xã cũng ra đời.
Mô hình hợp tác xã ở cấp cao hơn tổ sản xuất. Đây không phải là sự tập trung
lại của một số hộ kinh tế gia đình, mà là sự tự nguyện của từng cá nhân xin
vào hợp tác xã. Người muốn vào hợp tác xã phải có đơn và phải được chấp
nhận. Xã viên bầu ra Ban chủ nhiệm, Ban chủ nhiệm bầu ra Chủ nhiệm. Ban
chủ nhiệm quyết định mọi công việc của hợp tác xã. Hoạt động của hợp tác xã
có điều lệ rõ ràng. Tại các cấp trung uơng, tỉnh, thành phố đều có cơ quan
quản lý và chỉ đạo phát triển hợp tác xã. Phải nói rằng, các hợp tác xã làng
24
nghề trong thời kỳ 1960 - 1990 ở miền Bắc và thời kỳ sau 1975 ở miền Nam
đã có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển làng nghề. Thời kỳ đó làng
nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa rất lớn trong đời sống
kinh tế của đất nước. Các hợp tác xã làng nghề đã thu hút hàng triệu xã viên
và tăng thu nhập cho người lao động. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ thời kỳ này đóng vai trò đặc biệt quan trọng với nền kinh tế đất nước
chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên, cuối những năm 80 và đầu những năm 90 vai trò của hợp
tác xã làng nghề đã bắt đầu có dấu hiệu giảm sút, do sự sụp đổ của các nước
Đông Âu và Liên Xô, là thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của Việt
Nam, trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ. Sự khủng hoảng thị trường tiêu thụ
đã kéo theo sự giảm sút sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề,
nhiều hợp tác xã làng nghề lâm vào tình trạng khó khăn, không ít hợp tác xã
đã giải thể .
Với công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt từ giữa những năm 1990, tình
hình kinh tế trong nước có những chuyển biến quan trọng, nhiều thành phần
kinh tế mới ra đời, nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh với các hình thức sở
hữu khác nhau cũng xuất hiện. Do vậy đã từng bước khơi dậy tốt hơn tiềm
năng, thế mạnh của đất nước; ngành hàng thủ công mỹ nghệ cũng bắt đầu
phục hồi và phát triển.
Hình thức kinh tế hộ gia đình và ngay cả tổ hợp sản xuất càng ngày
càng bộc lộ nhiều khó khăn do thiếu vốn, kỹ thuật, thị trường. Trước bối cảnh
kinh tế ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đòi hỏi phải
tập trung nguồn lực về tài chính, lao động,... Để tạo ra nhiều sản phẩm có số
lượng lớn, chất lượng cao, đa dạng mẫu mã có sức cạnh tranh cao. Vì vậy, bắt
đầu xuất hiện các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hoặc làm dịch vụ cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đó là doanh nghiệp làng nghề. Các doanh
nghiệp này có bộ máy quản lý chuyên nghiệp hơn, có khả năng tiếp cận với
nguồn nguyên liệu và nguồn vốn lớn với công nghệ tiên tiến và thị trường tiêu
25
thụ rộng hơn. Từ đó tạo ra ưu thế nổi trội trong làng nghề và trở thành lực
lượng nòng cốt thu hút nguyên liệu, lao động và nguồn hàng thông qua các vệ
tinh trực tiếp sản xuất với các mô hình cá thể, tổ nhóm. Sự xuất hiện của các
doanh nghiệp làng nghề theo các mô hình khác nhau như Doanh nghiệp tư
nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần là một bước phát triển
cao tại các làng nghề, là sự tích tụ và tập trung nguồn lực sản xuất, nâng cao
chất lượng và giá trị sản phẩm, thể hiện sự phân công lao động xã hội theo
hướng chuyên môn hoá, tăng quy mô sản xuất, giảm giá thành, nâng cao năng
lực cạnh tranh. Đây là mô hình sản xuất kinh doanh có tổ chức cao, tạo yếu tố
phát triển bền vững và toàn diện của nghề thủ công mỹ nghệ.
1.3. Đặc điểm và thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
1.3.1. Đặc điểm làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
1.3.1.1.Đặc điểm của làng nghề
Làng nghề Việt Nam có lịch sử lâu đời, phát triển đa dạng, phong phú,
mang bản sắc văn hoá của làng Việt. Làng nghề có một số đặc điểm sau đây:
Một là, sự ra đời và phát triển của làng nghề không tách rời sự phát
triển, phong tục, tập quán, văn hoá, tư duy của làng xã nông thôn Việt Nam.
Các làng nghề ở nước ta đều ra đời và tách dần từ nông nghiệp. Ban
đầu, nguời lao động ở nông thôn do nhu cầu cuộc sống và việc làm đã làm
một số nghề thủ công bên cạnh nghề nông. Khi lực lượng sản xuất phát triển,
nghề thủ công tách ra nghề độc lập, vươn lên thành một nghề chính trong
làng. Song để đảm bảo cuộc sống, người dân thường làm thêm nghề nông hay
buôn bán và làm thêm nghề khác. Sự kết hợp đa nghề thường thể hiện trong
một làng hay gia đình. Bởi người thợ thủ công cũng chính là người làm nông
nghiệp. Do vậy, những đặc tính của người nông dân đều được thể hiện trong
đặc tính của người thợ thủ công, mang những nét văn hoá làng xã.
Hai là, làng nghề Việt Nam là sản phẩm của tổ chức nông thôn truyền
thống, theo địa bàn cư trú và có tính gia truyền.
26
Làng nghề Việt Nam là kết quả của quá trình phát triển của xã hội loài
người. Làng xã Việt Nam có tổ chức chặt chẽ. Đó chính là môi trường sống,
là tập thể cộng đồng chủ yếu của người Việt Nam, là kết quả của nền nông
nghiệp tự cấp, tự túc, ít nhu cầu trao đổi hàng hoá, nền sản xuất nông nghiệp
không phát triển. Trong các làng nghề thủ công truyền thống, các sản phẩm
thủ công thường được sản xuất ngay trong làng, thậm chí ngay trong từng nhà
ở những thời kỳ nông nhàn. Nghề thủ công trong các làng nghề mang tính gia
truyền, theo hình thức cha truyền con nối. Mô hình đó, đến nay vẫn còn thích
hợp với một số làng nghề.
Ba là, ngành nghề thủ công là sản phẩm chủ yếu của làng nghề, ra đời
trên cơ sở kỹ thuật thủ công truyền thống. Gần đây do tiến bộ khoa học, công
nghệ một số công đoạn được sử dụng máy móc.
Ngành nghề thủ công truyền thống kết tinh những truyền thống, tinh
hoa của dân tộc, tạo nên đặc thù phản ánh thói quen của nhân dân bao đời
nay. Nhưng cho đến nay chủ yếu vẫn là kỹ thuật thủ công. Trong đó, nổi bật
là thói quen sử dụng nguyên liệu, công cụ lao động, tạo hình, trang trí hình
ảnh, màu sắc và thể hiện tính năng, kỹ xảo trong các thao tác. Sản phẩm thủ
công truyền thống không phải sản xuất hàng loạt, mà mang tính đơn chiếc, có
tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc dân tộc, vừa có giá trị sử dụng, vừa có
giá trị thẩm mỹ. Ngoài ra, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ và nhu cầu
tiêu dùng của thị trường thế giới theo hướng đa dạng và hiện đại đã tác động
đến sản xuất, hình thành nên nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ có hàm lượng
khoa học công nghệ cao.
Bốn là, nhìn chung, tại các làng nghề hình thức tổ chức sản xuất hộ gia
đình là chủ yếu, một số đã thành lập các tổ sản xuất, hợp tác xã, doanh
nghiệp.
Tại các làng nghề hiện nay, phần đông hình thức tổ chức sản xuất vẫn
là kinh tế hộ gia đình. Trong kinh tế hộ gia đình, người chủ gia đình thường là
thợ cả, trong số họ có người là nghệ nhân, còn những thành viên trong hộ gia
27
đình được phân công vào làm những công việc khác nhau trong sản xuất, kinh
doanh, tuỳ thuộc vào kỹ năng, thói quen, giới tính, lứa tuổi của từng người.
Gia đình thường thuê mướn thêm người vào làm việc, chủ yếu trong dòng tộc,
theo hình thức thường xuyên hoặc thời vụ. Hình thức này đảm bảo gắn quyền
lợi và trách nhiệm, tận dụng được lao động và thời gian, nhu cầu đầu tư không
lớn, thích hợp với quy mô nhỏ, phân tán. Hình thức hộ tiểu chủ phát triển ở
làng nghề, có trình độ tập trung sản xuất cao hơn, rộng hơn. Đối với hình thức
này, những tiểu chủ mua sắm thiết bị, thuê lao động, không chỉ trong hộ tộc,
mà còn cả bên ngoài họ hàng, thậm chí cả lao động bên ngoài làng và từ địa
phương xa đến. Cùng với hình thức kinh tế hộ gia đình, làng nghề còn có hình
thức tổ hợp sản xuất, hợp tác xã và gần đây hàng loạt doanh nghiệp làng nghề
ra đời. Đây là những hình thức tổ chức mới, mang nhiều ưu điểm hơn trong
nền kinh tế thị trường.
1.3.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp làng nghề
- Doanh nghiệp làng nghề Việt Nam chủ yếu ra đời trong thời kỳ đổi
mới, đặc biệt từ khi có Luật doanh nghiệp năm 1995.
Trong qua trình đổi mới, đặc biệt càng ngày nền kinh tế nước ta đang
vận hành theo những quy luật của cơ chế thị trường, thì hình thức sản xuất
kinh doanh truyền thống có từ nhiều thập kỷ trước đây không còn hiệu quả,
mà thay dần vào đó là những mô hình mới. Tại các làng nghề, thời gian gần
đây đã có nhiều hình thức hoạt động mới ra đời, đáp ứng đòi hỏi của thực tế
cuộc sống, đó là các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Ví dụ làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) nổi tiếng về mặt hàng gốm, sứ từ
mấy trăm năm nay. Nhưng trước những năm 2000, làng nghề này cũng chủ
yếu chỉ sản xuất theo hình thức kinh tế hộ gia đình. Mới đây, khi Luật Doanh
nghiệp ra đời, mô hình doanh nghiệp và một số mô hình khác mới phát triển.
Theo báo cáo của Hiệp hội làng nghề Bát Tràng, đến năm 2008 cả làng có 65
doanh nghiệp và các hình thức khác không phải kinh tế hộ gia đình. Trong đó,
28
Công ty cổ phần có 6 doanh nghiệp, Công ty tư nhân có 12 doanh nghiệp,
Công ty trách nhiệm hữu hạn (1- 2 thành viên) có 34 doanh nghiệp, còn lại
các hình thức sở hữu khác. Trong số các doanh nghiệp này, phần đông là
doanh nghiệp trực tiếp sản xuất (chiếm 64%), doanh nghiệp cung ứng vật tư
nguyên liệu (17%), doanh nghiệp marketing và các dịch vụ khác (chiếm
19%). Tổng số lao động trong các doanh nghiệp làng nghề ở Bát Tràng
khoảng 3 ngàn người.
Tại Bắc Ninh, theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, đến năm 2007,
toàn tỉnh có 120 làng nghề, trong đó có 62 làng nghề truyền thống, mô hình
chủ yếu là Hộ gia đình (18.405), Công ty trách nhiệm hữu hạn (245), Công ty
tư nhân (170). Các doanh nghiệp làng nghề tại Bắc Ninh được ra đời chủ yếu
từ 10 năm trở lại đây.
- Doanh nghiệp làng nghề Việt Nam đều thuộc loại doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
1.3.2. Thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
1.3. 2.1. Thực trạng của làng nghề
a/ Số lượng, quy mô, cơ cấu và tổ chức làng nghề.
Cho đến nay, số liệu được công bố về số lượng, phân bổ, quy mô và
chủng loại làng nghề ở Việt Nam không có sự thống nhất. Nhiều số liệu công
bố hoàn toàn khác nhau, mặc dù tiêu chí để xác định làng nghề gần như tương
tự như nhau. Theo số liệu của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đưa ra, đến nay
cả nước có 2.017 làng nghề (nguồn: Nên quy hoạch cụ thể các làng nghề của
ông Vũ Quốc Tuấn - Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam - Thời báo Kinh
tế Việt Nam ngày 3/10/2009)
Phân bố làng nghề:
Miền Bắc là nơi tập trung số lượng làng nghề lớn nhất, chiếm tới 63%
số làng nghề cả nước, Trung Bộ chiếm 21%, khu vực Đông Nam Bộ và Đồng
29
bằng sông Cửu Long chiếm 16%, khu vực Tây Nguyên phát triển làng nghề
ĐĐng bĐng sông CĐu L ong 11%
Đông Nam B Đ 5%
Nam T rung B Đ 4%
ĐĐng bĐng sông HĐng 43%
B Đc T rung B Đ 17%
T ây B Đc 12%
Đông B Đc 8%
và doanh nghiệp làng nghề còn chậm (Xem hình 1.1).
Hình1.1. Phân bổ làng nghề theo khu vực
Nguồn: Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
Về quy mô: Trung bình cả nước, dân số mỗi làng nghề (11 loại làng
nghề phân theo mặt hàng) là 2.079 người, trong đó, trên một nửa số làng nghề
có từ 1.000 đến 5.000 người. Thợ thủ công trong làng nghề trung bình là 668
người, chiếm trên 30% dân số trong làng.
Bảng 1.1. Quy mô làng nghề theo khu vực
Làng nghề
Khu vực
Số người làm nghề mỗi làng (người)
Số làng nghề (làng)
Số người làm nghề (người)
1. Đồng bằng sông Hồng 914 848.805 929
2. Đông Bắc 116 35.044 302
3. Tây Bắc 247 102.210 422
4. Bắc Trung Bộ 341 137.568 409
5. Nam Trung Bộ 87 44.730 514
6. Tây Nguyên 0 - -
7. Đông Nam Bộ 101 93.716 122
8. Đồng bằng sông Cửu Long 211 84.286 399
30
Nguồn: Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam năm 2004, phần 4-6
Bảng 1.2. Lao động ngành nghề thủ công
Tổng số lao
Số lao động
Dân số trung
Tỷ lệ tham gia
Sản phẩm
động
trong từng làng
bình của làng
sản xuất hàng
(người)
nghề (người)
(người)
thủ công (%)
830 2.062 39,9 Cói 233.223
370 370 18,6 Sơn mài 11.464
480 3.162 15,2 Mây tre 342.461
575 2.028 28,3 Gốm sứ 35.054
381 4.312 8,80 Thêu ren 129.922
315 1.036 30,4 Dệt 136.255
292 2.058 14,2 Gỗ 99.904
227 1.479 15,3 Đá 10.211
Tổng số lao
Số lao động
Dân số trung
Tỷ lệ tham gia
Sản phẩm
động
trong từng làng
bình của làng
sản xuất hàng
(người)
nghề (người)
(người)
thủ công (%)
301 1.307 23,0 Giấy 2.406
459 4.947 9,30 Tranh bản gỗ 1.834
303 2.031 14,9 Kim khí 61.895
Loại khác 283.720
548
2.065
26,5
Tổng
1.348.349
Nguồn: Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng
công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, năm 2004, phần 4-10.
Cơ cấu làng nghề: Theo kết quả điều tra lập bản đồ của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật
Bản (tháng 4 năm 2004), làng nghề mây tre chiếm 24% trong tổng số làng
nghề (thống kê từ 11 mặt hàng), sau đó là làng dệt vải chiếm 14%, nghề gỗ
chiếm 12%, thêu ren chiếm 11%, cói chiếm 10%, gốm chiếm 2%. Tỷ lệ này
31
cho thấy làng nghề mây tre phân bổ rộng khắp cả nước và chiếm đa số trong
làng nghề (Xem hình 1.2).
Hình 1.2. Cơ cấu làng nghề theo mặt hàng sản xuất
Nguồn: Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn
Cơ chế quản lý các làng nghề Việt Nam
Cũng như các lĩnh vực khác, làng nghề Việt Nam trước hết phải chịu sự
quản lý của pháp luật và các cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Hiện tại, các làng nghề chịu sự quản lý trực tiếp của chính quyền địa
phương (xã, phường). Trong đó vai trò của thôn, xã rất lớn. Thôn, xã trực tiếp
liên quan đến vấn đề đất đai, nguyên liệu, thuế, giao thông vận tải, quy hoạch
làng, xã, thủ tục hành chính trực tiếp, liên quan trực tiếp tới hoạt động các hộ
kinh tế làng nghề.
Bên cạnh sự quản lý hành chính trực tiếp của chính quyền và quản lý
chuyên môn của các bộ ngành nêu trên, gần đây vai trò của các hiệp hội bắt
đầu phát huy tác dụng, nhất là Hiệp hội làng nghề Việt Nam, Hiệp hội xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam và các Hiệp hội làng nghề. Tuy nhiên,
trên thực tế sự quản lý làng nghề vẫn lỏng lẻo, chồng chéo và có thể nói,
không tổ chức nào chịu trách nhiệm chính. Nhiều hộ sản xuất khi có kiến
nghị, nguyện vọng không biết trình cơ quan quản lý nào. Bởi vì nhiều hiệp
32
hội làng nghề tại địa phương “hữu danh vô thực”. Ngay cả Hiệp hội làng nghề
Việt Nam và Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cũng còn
nhiều hạn chế trong hoạt động như: tài chính, nhân sự, trụ sở làm việc và cơ
cấu tổ chức. Vì vậy kiện toàn, đổi mới, phát triển các hội, hiệp hội làng nghề
là vấn đề cần được quan tâm trong thời gian sớm nhất.
b/ Đánh giá thực trạng làng nghề hiện nay
Một là, cơ sở hạ tầng làng nghề Việt Nam còn yếu, thiếu và lạc hậu.
Đặc điểm phổ biến của các làng nghề là mỗi hộ thường là một cơ sở
sản xuất. Khuôn viên của gia đình thường là nơi ở, cũng là nơi sản xuất, do đó
diện tích này trở nên chật hẹp và không đảm bảo vệ sinh môi trường. Thực
trạng thiếu mặt bằng sản xuất trong các làng nghề đã đến mức trầm trọng.
Thời gian gần đây rất nhiều địa phương không quan tâm đến vấn đề này. Trái
lại, nhiều nơi, chính quyền hầu như chỉ chú trọng đến đất đai phát triển khu
công nghiệp, khu chế xuất, khu vui chơi, giải trí, dẫn đến tình trạng thu hẹp
nhanh những vùng đất nông nghiệp hay đất vùng nguyên liệu cho sản xuất thủ
công mỹ nghệ.
Bên cạnh đó, giao thông vận tải vẫn đang là vấn đề nan giải tại nhiều
làng nghề. Việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm hàng hoá tại nhiều làng
nghề còn khó khăn, tốn kém. Nhiều làng nghề hiện nay vẫn chưa có điện,
hoặc tình trạng cắt điện tuỳ tiện vẫn thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng lớn đến
chất lượng và sản lượng hàng hoá. Hệ thống bưu điện, truyền thông, hệ thống
trạm y tế của nhiều làng nghề không đạt tiêu chuẩn với việc chăm sóc sức
khoẻ cho người dân, nhất là những làng nghề nhuộm vải, chế biến thực phẩm,
mỹ nghệ kim loại,...
Hai là, đa số các hộ làng nghề Việt Nam hiện nay đều có quy mô nhỏ,
vốn ít, công nghệ lạc hậu.
Nhiều hộ trong làng nghề hiện nay vẫn mang tính chất tận dụng lao
động nông nhàn và do sản xuất ngành nghề chưa đảm bảo cuộc sống vững
chắc, lâu dài cho người thợ, cùng với tâm lý rủi ro, khiến họ không dám mạnh
33
dạn rời bỏ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, các hộ nghề rất khó phát triển. Theo
khảo sát của tác giả tại 25 làng nghề ở Hải Dương, chỉ có 1% số hộ làm nghề
không giữ ruộng cày cấy. Làng sứ Cậy (Bình Giang) với trên 70% số hộ làm
nghề, nhưng chỉ có không quá 3% số hộ không làm nông nghiệp. Điều này đã
hạn chế khả năng chuyên môn hoá và mở rộng đầu tư vốn, công nghệ, cải tiến
công cụ, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất hàng thủ
công.
Hiện nay, trong các làng nghề, hình thức phổ biến là kinh tế hộ gia
đình, mỗi hộ gia đình chỉ có khoảng 3 - 4 lao động. Loại kinh tế hộ gia đình
có số lao động 7 - 8 người chưa nhiều.
Trong các làng nghề hiện nay, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Lâu nay,
Nhà nước đầu tư vào làng nghề chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất. Việc vay vốn
của các chủ sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn do các hộ gia đình
không có tài sản thế chấp, hoặc có nhưng rất nhỏ. Vốn sản xuất, kinh doanh
chủ yếu dựa vào vốn tự có. Quan hệ tài chính không được phát huy, nên hoạt
động tài chính, tiền tệ mang tính vay mượn lẫn nhau theo quan hệ dòng tộc
hay quen biết.
Theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh, đến năm 2008
toàn tỉnh có 120 làng nghề, trong đó có 60 làng nghề truyền thống. Báo cáo
còn cho biết, chỉ có 11 -12% số hộ và khoảng 42% số cơ sở, doanh nghiệp
vay được vốn ngân hàng. Đối với các chương trình hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế thì tỷ lệ hộ vay còn thấp, từ 1,4 - 4,5%.
Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình, tính đến tháng
12/2007 vốn đầu tư vào làng nghề khoảng 1.000 tỷ đồng, nhưng chủ yếu là
vốn tự có của gia đình và cơ sở sản xuất, vốn của huyện, tỉnh chiếm tỷ lệ ở
mức thấp.
Ba là, thiết bị, máy móc của các làng nghề còn lạc hậu, mẫu mã, chủng
loại hàng hoá nghèo nàn, đơn điệu, chất lượng thấp, chưa đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng, sức cạnh tranh của hàng hoá yếu.
34
Nguyên nhân của tình trạng trên là do thói quen, dần dần dẫn đến bảo
thủ và trì trệ về mặt kỹ thuật, không tập trung thay đổi mẫu mã, chủng loại,
màu sắc, hình dáng. Đồng thời cũng do kinh tế hộ gia đình là chủ yếu, khả
năng quản lý và nguồn vốn có hạn, nên ít có điều kiện phát triển quy mô. Hơn
nữa, người sản xuất ít có điều kiện tiếp cận với thị trường bên ngoài, đặc biệt
là thị trường thế giới, nguồn thông tin ít, dẫn tới hạn chế về nhiều mặt, nhất là
không hiểu rõ tâm lý, thị hiếu, nhu cầu người tiêu dùng.
Thời gian gần đây, do có sự đổi mới, đồng thời, tác động của thị
trường, yêu cầu chất lượng, kiểu dáng phong phú, đa dạng sản phẩm ngày
càng tăng lên. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị
của hầu hết làng nghề còn thô sơ, lạc hậu vì phần lớn đều do các cơ sở cơ khí
trong nước lắp ráp, gia công, nên chất lượng thấp, năng suất không cao. Mặt
khác, cũng do đặc điểm của sản xuất mang tính hộ cá thể chiếm ưu thế, sự
liên kết giữa các hộ sản xuất còn lỏng lẻo, nên khả năng đầu tư hạn chế.
Bốn là, tình trạng ô nhiễm môi trường đang là vấn đề quan tâm hàng
đầu đối với các làng nghề.
Môi trường, sinh thái ở Việt Nam, đặc biệt tại các làng nghề đang là
vấn đề được quan tâm đặc biệt. Từ lâu, nhiều hồi chuông cảnh báo về tình
trạng quá ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. Do hạn chế về hạ tầng cơ
sở, về vốn, công nghệ, nhận thức và thói quen, trong khi sản xuất ngày càng
mở rộng, phát triển, nhưng lại thiếu quy hoạch tổng thể và chi tiết ô nhiễm
ngày càng trầm trọng.
Qua khảo sát, điều tra của các cơ quan chức năng, hiện nay hầu hết các
làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn về môi trường theo mức tối thiểu, ảnh
hưởng rất lớn đến sức khoẻ của người dân làng nghề.
Tại Hà Tây (nay là Hà Nội), ngoài những làng nghề mà do đặc thù sản
xuất không ảnh hưởng mấy đến môi trường, như thêu, ren, nón lá, thì nhiều
làng nghề gây ô nhiễm môi trường nặng.
35
Tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế tại các cơ sở sản xuất lụa, kết quả
cho thấy, hầu như cơ sở nào của làng nghề cũng có những tác động tiêu cực
vào môi trường. Làng Vạn Phúc có 700 cơ sở tham gia sản xuất lụa. Trong đó
có 22 cơ sở làm công việc nhuộm và tẩy rửa lụa. Trong những tác động khiến
môi trường nơi đây bị huỷ hoại, thì đầu tiên phải kể đến các cơ sở tẩy nhuộm
cho toàn bộ lụa làng Vạn Phúc. Theo thống kê, mỗi ngày các cơ sở sản xuất
lụa Vạn Phúc cho ra đời 4.000 - 5.000 mét lụa, tương đương 400 kg lụa.
Trong khi đó, cứ mỗi kg lụa thành phẩm phải mất 30 lít nước tẩy rửa, số hoá
chất được đưa vào phục vụ cho quá trình nhuộm màu cho lụa luôn chiếm tỷ lệ
cao, cứ 10 kg lụa thì mất 300g hoá chất nhuộm. Tất cả khi sử dụng xong đều
được thải trực tiếp ra môi trường, hoàn toàn không qua khâu xử lý. Cách đây
không lâu, khoa Hoá trường Đại học khoa học tự nhiên về đây tổ chức những
cuộc xét nghiệm, cho thấy, mẫu nước ngầm của địa phương này bị nhiễm quá
nhiều các thành phần hoá chất. Trong đó nhiều nhất là các chất như: N2CO3,
CH3COOH, H2S, Na2S,... Đây chính là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh tật
cho người dân.
Những làng nghề khác của Hà Tây (Hà Nội) như Dương Nội, Sơn
Đồng, Chàng Sơn,... Ô nhiễm nước cũng đã ở mức báo động.
Ngoài ô nhiễm nước, tiếng ồn cũng gây nên sự căng thẳng, mệt mỏi
trong các làng nghề. Do đặc thù của một số làng nghề đã sử dụng máy móc
quá cũ, lạc hậu, tự chế tạo gây nên tiếng ồn lớn.
Tại làng Đa Hội (Châu Khê - Từ Sơn - Bắc Ninh) tình trạng ô nhiễm
môi trường cũng đáng lo ngại. Không khí ở đây luôn luôn nặng nề bởi khí
CO, CO2, SO2,... Gấp hàng trăm lần tiêu chuẩn cho phép, ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khoẻ người lao động và dân cư trong vùng. Theo số liệu của Trạm Y
tế xã Châu Khê, có 1/3 lao động trong xã này mắc một số bệnh hô hấp và mắt.
Cùng với ô nhiễm khói, bụi, nguồn nước Đa Hội cũng bị ô nhiễm nặng. Đối
với chất thải khí, phải kể đến làng đúc nhôm, chì, kẽm huyện Yên Phong.
36
Theo kết quả điều tra, phân tích cho thấy, nồng độ ô nhiễm chì vượt tiêu
chuẩn cho phép nhiều lần.
Không những các làng nghề vừa nêu trên đây, mà tình trạng ô nhiễm
môi trường xảy ra tại hầu hết làng nghề trong cả nước.
Năm là, thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề đang gặp nhiều khó
khăn.
Theo điều tra của tác giả tại một số địa phương, tiềm năng, thế mạnh
nhiều làng nghề rất lớn, có thể sản xuất với số lượng và chủng loại sản phẩm
nhiều hơn hiện tại. Song, vấn đề đặt ra là tiêu thụ ở đâu, tiêu thụ như thế nào
và tiêu thụ được bao nhiêu. Có thể thấy rõ một điều, do mô hình sản xuất tại
các làng nghề chủ yếu là kinh tế hộ gia đình, sản xuất nhỏ, lẻ, phân tán, nên
đều mang tính tự cấp, tự túc, tự phát, khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ.
Đánh giá chung, hiện tại sản phẩm làng nghề rất khó khăn về đầu ra, thị
trường đang quyết định sự sống còn của làng nghề.
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một cách khách quan, tiêu thụ sản phẩm
khó khăn cũng có lỗi một phần từ chính làng nghề gây ra. Đó là, không ít cơ
sở sản xuất chưa nỗ lực giữ uy tín. Theo thông tin của một số cửa hàng đại lý
giới thiệu sản phẩm và giao dịch thương mại chuyên về hàng thủ công mỹ
nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều cửa hàng ở đây đã bị đóng cửa do một
số cơ sở sản xuất tại các làng nghề không thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết,
giao hàng không đúng mẫu. Kích cỡ, kiểu dáng, màu sắc sản phẩm bị thay đổi
một cách tuỳ tiện. Do vậy, các cửa hàng, đại lý giới thiệu và bán sản phẩm
mất uy tín với khác hàng. Nhiều đơn hàng ký kết với nước ngoài thực hiện
không tốt. Tương tự như vậy, Công ty Du lịch Greenfield Tour, chuyên tổ
chức các tour về đồng bằng sông Cửu Long, cho biết, họ cũng gặp thất bại lớn
khi làm môi giới cho các làng nghề bán hàng thủ công mỹ nghệ cho khách du
lịch. Trong các lần dẫn khách về miền Tây, Công ty thường đưa khách đi
tham quan, mua sắm tại các làng nghề. Nhiều làng nghề không giữ chữ “tín”,
thay đổi mẫu mã, giá cả khi giao hàng. Tuy nhiên, đây không phải là trường
37
hợp phổ biến, nhưng đối với khách hàng nước ngoài, chữ “tín” cực kỳ quan
trọng. Điều này cũng giải thích về một nguyên nhân của việc tiêu thụ khó
khăn của các sản phẩm làng nghề. Và cũng có thể gây nên tình trạng nhiều
khách nước ngoài “một đi không trở lại”.
Sáu là, trình độ chuyên môn, tay nghề người thợ trong các làng nghề
đang bị giảm sút nghiêm trọng.
Một trong những đặc thù của người thợ thủ công trong các làng nghề là
cần có sự tinh xảo, khéo léo, đặc biệt đối với thợ cả, nghệ nhân. Các nghệ
nhân nổi tiếng thường là những người thuộc những gia đình có truyền thống
cha truyền, con nối hoặc những người có tâm huyết, có sáng tạo. Đối với đội
ngũ người thợ đông đảo cũng cần được đào tạo theo trường lớp hoặc hướng
dẫn kỹ thuật khi làm nghề. Đó là điều kiện kiên quyết cho làng nghề tồn tại và
phát triển. Nhưng thực tế hiện nay, làng nghề đang mất dần một đội ngũ làm
nghề kế cận có niềm say mê và năng lực, nhất là những nghệ nhân tài năng.
Do vậy, những sản phẩm độc đáo, tinh xảo, tính mỹ thuật cao được sản
xuất tại các làng nghề không nhiều. Bởi đây là những sản phẩm đòi hỏi công
sức, trí tuệ, sự sáng tạo, lòng kiên nhẫn của người thợ làng nghề. Hơn nữa, vì
giá thành cao, nhu cầu thị trường không nhiều, không thường xuyên, chủ yếu
để xuất khẩu. Từ đó, những nghệ nhân ở làng nghề, vốn đã ít, lại không
chuyên tâm tạo ra những sản phẩm với tất cả tinh hoa, trí tuệ của nghề. Dần
dần những người thợ không chủ tâm và quên đi những quy trình, thao tác kỹ
thuật vốn rất đặc biệt và tinh xảo. Do vậy, lớp con cháu sau không được
truyền lại những kiến thức cơ bản này. Dẫn đến nhiều làng nghề đã mai một,
suy giảm một cách nhanh chóng, thậm chí có nơi không tồn tại. Cơ chế thị
trường có nhiều mặt tích cực, nhưng cũng có nhiều mặt trái của nó. Nhiều
nghệ nhân, nhiều thợ lành nghề không còn sự say mê sáng tạo trong công
việc, mà chỉ có sự năng động “xoay xở” những sản phẩm bình dân, đại trà,
với trình độ, kỹ nghệ trung bình. Và tầng lớp thợ “gia công” đã trở thành danh
từ phổ biến trong các làng nghề. Cơ cấu lao động mới, lao động không có tay
nghề trong các làng nghề hình thành. Điều mà trước kia các làng nghề ít thấy.
38
Đó là những người thợ, nghệ nhân không trực tiếp sản xuất, mà trở thành
người quản lý, còn những người sản xuất lớp thợ mới. Họ chỉ được đào tạo
qua loa, cấp tốc vài ba công đoạn, không được truyền thụ kỹ thuật, tay nghề
cao thì hình như không có. Thực trạng tại làng nghề hiện nay là “tre già, măng
không mọc”. Điều này sẽ còn tiếp diễn và sẽ hình thành một lớp thợ thủ công
không có khả năng sáng tạo. Đây là thực tế, là nguy cơ trong các làng nghề
hiện nay. Và điều đó đang tiềm ẩn một sự mai một làng nghề.
1.3.2.2.Thực trạng của doanh nghiệp làng nghề
a/. Quy mô, tốc độ phát triển các doanh nghiệp làng nghề
Sự phát triển của làng nghề ngày càng chứng tỏ hộ sản xuất gia đình
như một chiếc áo hẹp mặc không vừa cho người đã lớn, vì vậy cần thay đổi
một hình thức khác để có thể đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của cuộc sống. Đó chính
là các doanh nghiệp làng nghề và nhiều loại hình khác dần dần xuất hiện và
ngày càng chứng tỏ tính ưu việt của nó đối với hộ sản xuất gia đình.
Theo kết quả điều tra của tác giả, hiện nay, số doanh nghiệp tư nhân
chiếm khoảng 42%, số doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn chiếm 31%, số
doanh nghiệp cổ phần chiếm 19%, còn lại là các hình thức khác như tổ hợp,
hợp tác xã, xí nghiệp (hình 1.3).
39
LoĐi khác 8%
DN cĐ phĐn 19%
DN tĐ nhân 42%
DN T NHH 31%
Hình 1.3. Doanh nghiệp làng nghề phân theo hình thức sở hữu
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả
Về lao động của doanh nghiệp làng nghề: Cũng theo kết quả điều tra,
cho đến thời điểm này, số lao động trong mỗi doanh nghiệp vẫn còn ít, trung
bình mỗi doanh nghiệp dưới 50 người là chủ yếu (chiếm khoảng 88%); số lao
động trong doanh nghiệp có trên 50 - 100 người chỉ chiếm khoảng 9%. Chỉ có
một số công ty gốm sứ ở Đồng Nai, Bình Dương, Chu Đậu, Đông Triều có số
lao động trong khoảng trên 100 người (xem hình 1.4). Điều này chứng tỏ quy
mô và lao dộng của doanh nghiệp làng nghề Việt Nam cũng chỉ thuộc loại
doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là rất nhỏ.
40
T rên 100 NgĐĐi 3%
T Đ 50 - 100 NgĐĐi 9%
DĐĐi 50 NgĐĐi 88%
Hình 1.4. Số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp làng nghề
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả
Cơ cấu các loại doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam
Theo kết quả điều tra từ 270 phiếu thu về và theo tư liệu từ trang
website vcic.org.vn của Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
VIETCRAFT, trong 5 nhóm hàng điều tra từ các doanh nghiệp, cơ cấu kinh
doanh của các doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh
hàng mây tre chiếm 35%; doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mặt hàng gỗ
chiếm 32%; doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mặt hàng gốm sứ chiếm 10%;
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mỹ nghệ kim loại chiếm 3%; doanh
nghiệp kinh doanh mặt hàng khác chiếm 20% (xem hình 1.5).
41
MĐt hàng khác 20%
MĐt hàng mây tre 35%
MĐt hàng mĐ nghĐ kim loĐi 3%
MĐt hàng gĐm sĐ 10%
MĐt hàng gĐ mĐ nghĐ 32%
Hình 1.5. Cấu mặt hàng kinh doanh của các doanh nghiệp làng nghề
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả và website vcic.org.vn
Mô hình quản lý các doanh nghiệp làng nghề
Các doanh nghiệp làng nghề Việt Nam hiện nay được tổ chức và hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) của
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 60/2005 QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2005. Trên thực tế các doanh nghiệp này ngoài sự quản lý
theo Luật Doanh nghiệp, còn chịu sự quản lý của chính quyền địa phương và
vai trò của thôn, xã rất quan trọng trong việc cấp đất đai, xây dựng trụ sở, kho
tàng, làm đường giao thông, bảo vệ môi trường,...
Các doanh nghiệp hoạt động theo các lĩnh vực khác nhau theo các hình
thức sở hữu như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh
nghiệp tư nhân. Các s¶n phÈm cña làng nghề và doanh nghiệp làng nghề hoạt
động theo mô hình sau:
42
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp sản xuất khai thác nguyên liệu
thu mua nguyên liệu
Doanh nghiệp chế biến Xuất khẩu
Tiêu thụ sản phẩm
Doanh nghiệp thu gom
Hộ gia công
sản phẩm
Doanh nghiệp Sơ chế
bán thành phẩm
Hình 1.6. Mô hình lộ trình hoạt động của s¶n phÈm lµng nghÒ vµ doanh
nghiệp làng nghề
Giải thích về mô hình này, đầu tiên nguyên liệu được người khai thác
bán cho doanh nghiệp hoặc người thu gom nguyên liệu, người thu gom
nguyên liệu có thể bán cho doanh nghiệp hoặc sơ chế bán cho người thu gom
bán thành phẩm. Nguyên liệu cũng có thể được người khai thác sơ chế bán
cho người thu gom bán thành phẩm. Các doanh nghiệp mua nguyên liệu của
người khai thác hoặc người thu gom nguyên liệu để sơ chế bán cho người thu
gom thành phẩm hoặc hoàn thiện và tiêu thụ sản phẩm. Những người thu gom
bán thành phẩm sẽ bán thành phẩm cho doanh nghiệp để hoàn thiện và tiêu
thụ sản phẩm. Đồng thời người thu gom bán thành phẩm cũng bán lại cho hộ
gia công sản phẩm và các hộ này sau khi gia công sản phẩm sẽ bán lại cho
doanh nghiệp hoặc người thu gom bán thành phẩm để hoàn thiện và tiêu thụ.
Vậy ta thấy mô hình này có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu, từ khâu khai
thác nguyên liệu cho đến hoàn thiện và tiêu thụ sản phẩm. Song do công tác
quản lý không tốt, tình trạng tranh mua, tranh khai thác vẫn diễn ra làm cho
43
chất lượng hàng hóa không tốt. Năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới
không cao.
b/ Đánh giá thực trạng doanh nghiệp làng nghề hiện nay
Một là, doanh nghiệp làng nghề hiện nay cơ sở vật chất còn nghèo nàn,
thiếu vốn hoạt động.
Một mặt là do các doanh nghiệp mới ra đời, mặt khác, các doanh
nghiệp chủ yếu được thành lập trên cơ sở hợp nhất các hộ kinh tế gia đình, mà
hộ kinh tế gia đình thì cơ sở vật chất nghèo nàn, người có khả năng về tài
chính hoặc về kỹ thuật đứng ra thành lập doanh nghiệp thì vẫn còn nhiều hạn
chế. Thực tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp làng nghề vẫn đóng trụ sở tại nhà,
thiếu điện, thiếu nước, thiếu nhà xưởng, thiếu máy móc. Theo số liệu điều tra
từ 270 doanh nghiệp của tác giả cho thấy khoảng 30% doanh nghiệp có khó
khăn và 38% doanh nghiệp kêu rất khó khăn khi muốn thuê đất mở rộng nhà
xưởng.
Cơ sở vật chất đã nghèo nàn, lạc hậu, nguồn vốn cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh cũng khó khăn. Theo kết quả điều tra, loại doanh nghiệp có
vốn từ 1 - 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ cao nhất 36%, tiếp đến là loại doanh nghiệp
có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 32%; loại doanh nghiệp có vốn từ 5 - 10 tỷ đồng
chiếm 24%; loại doanh nghiệp có vốn từ 10 - 20 tỷ đồng chỉ chiếm 6% và
khoảng 2% doanh nghiệp có vốn trên 20 tỷ đồng (xem hình 1.7 trang 44).
44
T rên 20 tĐ ĐĐng 2%
T Đ 10 - 20 tĐ ĐĐng 6%
T Đ 1 - 5 tĐ ĐĐng 36%
T Đ 5 - 10 tĐ ĐĐng 24%
DĐĐi 1 tĐ ĐĐng 32%
Hình 1.7. Vốn trong các doanh nghiệp làng nghề
Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả
Hai là, doanh nghiệp làng nghề hiện nay còn thiếu kinh nghiệm trong
hoạt động kinh doanh đặc biệt là xuất khẩu.
Hầu hết các doanh nghiệp làng nghề đều mới được thành lập, chủ yếu
sau khi có Luật Doanh nghiệp. Theo kết quả điều tra, phần đông doanh nghiệp
làng nghề Việt Nam hiện nay còn thiếu kinh nghiệm trong sản xuất kinh
doanh và đặc biệt là trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Trên 80% doanh
nghiệp làng nghề được hỏi mới chỉ hoạt động trong lĩnh vực này khoảng 10
năm trở lại. Các doanh nghiệp làng nghề hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm từ kinh tế hộ gia đình. Sự hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp,
phong tục tập quán, thị hiếu, nhu cầu tiêu dùng của nước ngoài rất hạn chế.
Cơ hội để các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm, nghiên cứu, tìm kiếm
thị trường không nhiều. Kết quả khảo sát cho thấy, khoảng 41% doanh nghiệp
làng nghề ít được sự hỗ trợ của các cơ quan xúc tiến thương mại Trung ương.
45
Do vậy, việc xuất khẩu của các doanh nghiệp làng nghề phần lớn vẫn do các
công ty kinh doanh hàng xuất khẩu của các thành phố lớn như Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh,… Đảm nhận.
Ba là, doanh nghiệp làng nghề Việt hiện nay đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức khác.
- Khó khăn về cung cấp nguyên liệu: Ngay cả những loại nguyên liệu
có tiềm năng ở Việt Nam trước đây như mây, tre, nứa, lá, cói,... Thì đến nay
đã trở nên khan hiếm. Khai thác rừng một cách bừa bãi đã làm cho nhiều loại
nguyên liệu dễ tái sinh như tre, nứa, mây,... không còn nhiều. Nhiều vùng
trước đây trồng được mây như Thái Bình, Thừa Thiên - Huế thì nay diện tích
đã giảm sút. Ngay loại nguyên liệu có tiềm năng và dễ phát triển như cây cói
ở Ninh Bình, Thanh Hoá, Tây Nam Bộ nay giá mua đã tăng lên gấp nhiều lần
so với trước. Những doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gốm, sứ vùng nguyên
liệu đất sét đã bị thu hẹp nhiều do sự mở rộng các khu định cư, khu công
nghiệp, khu vui chơi giải trí và sự khai thác bừa bãi. Một số loại phụ liệu phải
nhập khẩu của nước ngoài cũng phải chịu giá cao.
- Khó khăn về về tiêu thụ sản phẩm: Ngay cả khi chưa có khủng hoảng
tài chính, tiền tệ xảy ra, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với
doanh nghiệp làng nghề cũng không thuận lợi. Một mặt do doanh nghiệp làng
nghề Việt Nam còn nhỏ bé; mặt khác sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ
nghệ Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu, nhất là về giá cả, mẫu mã,
chủng loại, thời hạn giao hàng so với một số nước trong khu vực. Theo
nguồn: “Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng
công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, tháng 2 năm 2004” tại mục: Các nhà
cung cấp hàng đầu về đồ dùng trong nhà và quà tặng sang EU, cho thấy: sản
phẩm làm từ mây, tre, lá của Trung Quốc tại thị trường này chiếm 54,85%,
Việt Nam 11%; sản phẩm gốm, sứ Trung Quốc chiếm 30,6%, Việt Nam 11%;
sản phẩm gỗ Trung Quốc chiếm 34,9%, Inđônêxia chiếm 5,3%, Thái Lan
chiếm 5%, Ấn Độ chiếm 4,7%, Việt Nam chiếm 1,2%, Nam Phi 0,3%.
46
Hiện nay, do ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế toàn cầu, lĩnh vực xuất
khẩu, trong đó đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang gặp khó
khăn. Các thị trường nước ngoài chỉ tập trung nhập khẩu những mặt hàng
thiết yếu, còn hàng thủ công mỹ nghệ không được chú trọng.
- Khó khăn về tiếp cận với các nguồn vốn.
Kết quả điều tra cho thấy, khoảng 33% doanh nghiệp khó khăn và 38%
rất khó khăn khi tiếp cận với nguồn vốn phải có tài sản thế chấp để vay vốn,
thủ tục hành chính của một số ngân hàng chưa thuận lợi.
- Khó khăn do nhiều chi phí phát sinh.
Thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục hải quan gần đây tuy đã được cải
thiện một bước, nhưng vẫn còn vướng mắc, gây nên sự chậm trễ khi làm thủ
tục xuất khẩu hàng hoá cộng với nhiều loại chi phí phát sinh. Thực tế, thủ tục
hải quan và thủ tục hành chính đã phần nào làm giảm sức cạnh tranh của hàng
thủ công mỹ nghệ xuất khẩu Việt Nam.
- Khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có tay nghề cao.
Nguồn lao động phổ thông hiện nay không thiếu. Tuy nhiên, do sự bất
cập trong đào tạo nghề những năm qua, cộng với tâm lý của giới trẻ không
muốn gắn bó với nông thôn, nên số lao động có tay nghề cao tại các làng nghề
không nhiều. Theo kết quả điều tra, khả năng tiếp cận với nguồn lao động kỹ
thuật của các doanh nghiệp làng nghề có nhiều trở ngại (khoảng trên dưới
10%). Trong khi đó những người thợ lâu năm, có tay nghề giỏi, đặc biệt là các
nghệ nhân đang hiếm dần. Do vậy, tuy nguồn lao động phổ thông dồi dào,
nhưng lao động kỹ thuật, nhất là loại thợ bậc cao trong các doanh nghiệp làng
nghề thật sự hiếm.
Ngoài những khó khăn, thách thức chủ yếu trên đây, doanh nghiệp làng
nghề cũng đang phải đối phó với nhiều vấn đề bất cập khác đang xảy ra.
Chẳng hạn như việc xử lý ô nhiễm môi trường, hạ tầng cơ sở trên địa bàn của
doanh nghiệp hoạt động yếu kém, nhất là giao thông, điện, nước,...
47
1.4. Vai trò của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề với việc đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển kinh tế - xã hội
Thực tế trong những năm qua cho thấy, ở nơi nào làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề phát triển thì ở đó xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tốc
độ tăng trưởng nhanh và bộ mặt nông thôn, địa phương đó có sự thay đổi rõ
rệt. Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề có vai trò rất lớn, điều đó thể hiện
trên các mặt dưới đây.
1.4.1. Vai trò đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có vai trò quan
trọng nhất tới quy mô, cơ cấu thị trường, chất lượng và hiệu quả của công tác
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Có thể nói, hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất bằng
nguồn nguyên liệu trong nước đang được bầy bán tại thị trường Việt Nam,
đang được người dân trong nước tiêu dùng, nếu tổ chức tốt ở hai khâu đều có
thể trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị đó là:
+ Một là: Tổ chức sản xuất thành mặt hàng có số lượng lớn hơn, đồng
đều hơn, có chất lượng và kiểu dáng phù hợp với nhu cầu của một hoặc nhiều
dân tộc trên thế giới; hàng hóa có kiểu dáng hợp lý cho đóng gói bao bì, vận
chuyển và bảo đảm an toàn cho con người,...
+ Hai là: Xúc tiến thị trường, nhằm quảng bá cho các thương nhân, các
cơ quan xúc tiến, người tiêu dùng,... trong nước và nước ngoài biết được công
dụng, giá trị và lợi ích mặt hàng khi có điều kiện sử dụng.
Điều đó khẳng định, quy mô sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở các
làng nghề, doanh nghiệp làng nghề càng cao thì quy mô xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ càng cao.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm hàng hóa, mang đậm nét điều
kiện tự nhiên đất nước, tập quán, mầu sắc văn hóa dân tộc và nghệ thuật cổ
truyền. Với sự tác động của bàn tay khéo léo và công nghệ đã hình thành nên
48
nhiều chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ khác nhau về kiểu dáng, mầu sắc,
tạo ra nhiều công dụng khác nhau. Sự khác biệt về kiểu dáng, chủng loại đã
tác động đến tính đa dạng của thị trường. Chủng loại càng nhiều, càng nhiều
nét độc đáo của ngành hàng thủ công mỹ nghệ thì thị trường xuất khẩu càng
nhiều, càng rộng, đáp ứng được càng nhiều thị trường và nhu cầu của nhiều
dân tộc trên thế giới.
Ví dụ:
Mặt hàng có mầu nền trang nhã, đơn giản thì xuất khẩu sang thị trường
Nhật Bản nhiều hơn;
Mặt hàng nhiều mầu sắc rực rỡ xuất khẩu sang thị trường Nam Âu
nhiều hơn;
Mặt hàng có nguồn gốc nguyên liệu đất sét, tre nứa, song mây thì có
thể xuất khẩu sang hầu hết các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Úc,...
Càng ngày, mặt hàng thủ công mỹ nghệ nước tác càng thay đổi theo xu
hướng tăng cao hàm lượng công nghệ mới; hàm lượng nghệ thuật, văn hóa,
mỹ thuật cổ truyền giảm dần trong thành phần giá trị hàng hóa. Chi phí lao
động giản đơn kết tinh trong hàng hóa cũng giảm dần, song chi phí nguyên
vật liệu, công nghệ càng tăng, dẫn đến giá thành sản phẩm liên tục tăng cao,
tác động trực tiếp đến giá hàng xuất khẩu, làm thay đổi liên tục quy mô và cơ
cấu thị trường. Điều đó đã chứng tỏ, giá thành sản xuất ra hàng thủ công mỹ
nghệ tại các làng nghề, các doanh nghiệp làng nghề tăng lên, đã tác động trực
tiếp tới khả năng xuất khẩu và sức mua của người tiêu dùng nước ngoài, góp
phần làm thay đổi nhu cầu, thị hiếu theo hướng: giảm số lượng, chịu giá cao
và yêu cầu cao về công dụng của hàng hóa.
Bên cạnh đó, thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài; đặc điểm nền
văn hóa của mỗi dân tộc; trình độ phát triển kinh tế và khoa học công nghệ đã
tác động trở lại một cách mạnh mẽ tới tình hình tổ chức sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ tại các làng nghề, các doanh nghiệp làng nghề nước ta. Đòi hỏi
người sản xuất phải tạo ra những mặt hàng có quy mô lớn hơn, đồng đều hơn,
49
sắc sảo hơn, phù hợp với yêu cầu của người mua. Các làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề phải nâng cao trình độ tổ chức quản lý; nâng cao khả năng
tập trung nguồn hàng, tiếp cận kịp thời với nhu cầu, thị hiếu của thị trường
quốc tế, chuyên nghiệp hơn trong tổ chức thực hiện cam kết với khách hàng.
Điều đó sẽ giúp các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề tiêu thụ được nhiều
hàng hóa hơn, nếu giá bán hàng hóa, phù hợp với xu hướng phát triển của nền
kinh tế trong nước và quốc tế.
1.4.2. Vai trò đối với phát triển kinh tế
- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề cho thu nhập cao
hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp, là một ngành góp phần xoá đói, giảm
nghèo ở nông thôn.
Trong quá trình phát triển các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ có vai trò tích cực tăng thu
nhập cho người lao động, đặc biệt là lao động ở các vùng nông thôn và bán
thành thị là một nguồn thu nhập quan trọng đối với người nông dân giữa hai
mùa vụ. Thông qua việc làm tăng thêm số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp và quá trình tích tụ, tập trung sản xuất cũng như thông
qua việc tích luỹ vốn của các cơ sở đó cho phép khai thác và sử dụng có hiệu
quả những tiềm năng, lợi thế hiện có trong nông thôn.
Mặc dù dân số khu vực nông thôn chiếm tới 70 - 75% dân số cả nước,
nhưng chiếm tới 90% số hộ nghèo và chỉ chiếm 30% GDP cả nước. Điều này
phản ánh sự mất cân đối giữa khu vực nông thôn và thành thị. Trước thực
trạng đó, phát triển ngành nghề nông thôn được coi là một giải pháp hữu hiệu
nhằm tạo ra cơ hội rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị với nông
thôn.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Một số
vấn đề cần thảo luận về chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt
50
Nam giai đoạn 2001 - 2010”, thì “thu nhập của khu vực phi nông nghiệp cao
hơn 3 - 4 lần khu vực nông nghiệp”.
Theo số liệu điều tra mới đây của tác giả thì hoạt động nghề và làng
nghề ở Thái Bình đã tạo việc làm cho hơn 163 ngàn lao động, có thu nhập từ
450 - 500 ngàn đồng/người/tháng, trong khi đó sản xuất nông nghiệp thuần
tuý chỉ khoảng 150 ngàn đồng/ người/ tháng. Nghề thêu ren trước đây chủ yếu
tập trung ở xã Minh Lăng (Vũ Thư), nay mở rộng sang các huyện trong tỉnh.
Nhiều cơ sở lúc ra đời chủ yếu nhận nguyên liệu làm gia công, dần dần phát
triển thành doanh nghiệp vươn lên tìm kiếm thị trường tiêu thụ, xuất khẩu trực
tiếp với đối tác nước ngoài. Năm 2006, số lao động nghề thêu có khoảng 35
ngàn người, giá trị gia công đạt hơn 50 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 2001.
Tại các xã của huyện Hưng Hà, nghề dệt khăn, vải và chiếu cói ngày càng
phát triển. Chỉ tính xã Thái Phương đã có hơn 20 doanh nghiệp và hàng chục
tổ sản xuất với hơn 3000 khung dệt thủ công, mỗi năm sản xuất hơn 300 triệu
chiếc khăn các loại, đạt giá trị hơn 230 tỷ đồng, giải quyết thường xuyên cho
hơn 20 ngàn lao động trong xã và các vùng lân cận. Nghề dệt đũi phát triển
mạnh ở xã Nam Cao (Kiến Xương), mỗi năm đạt hơn 7 triệu mét vuông, trị
giá hơn 80 tỷ đồng. Nghề chạm bạc tập trung tại các xã Lê Lợi, Hồng Thái,
Trà Giang (Kiến Xương). Những sản phẩm của làng nghề đã có mặt tại thị
trường các tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La. Nghề mây tre đan xuất khẩu tập
trung ở các huyện Kiến Xương, Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Hưng Hà và Tiền
Hải, hàng năm đạt giá trị hơn 60 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho 18
ngàn lao động nông thôn. Nghề dệt chiếu có từ rất sớm tại các huyện Hưng
Hà, Quỳnh Phụ. Trung bình mỗi năm các cơ sở này sản xuất khoảng 10 triệu
lá chiếu các loại và xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, giá trị hàng năm
đạt hơn 80 tỷ đồng.
- Sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã góp phần
quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
51
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được xác định
là là vấn đề trọng tâm trong chính sách quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội.
Trong “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội quốc gia năm 2001 - 2010” đã
nêu rõ: “coi trọng công tác phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn, với mục tiêu giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp
xuống còn 50%”.
Từ những năm 90 của thế kỷ 20, việc chuyển đổi các hộ thuần nông
sang hoạt động phi nông nghiệp đã diễn ra phù hợp với chính sách quốc gia
về chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng nền kinh tế thị trường. Thuận lợi của
các ngành phi nông nghiệp là giá trị sản phẩm tương đối cao, có thể phát triển
và mở rộng được cả vùng sâu, vùng xa. Trong quá trình phát triển làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề đã làm tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng nông nghiệp, chuyển lao động sản xuất
nông nghiệp, thu nhập thấp sang các ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập
khá hơn. Sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã tạo nên sự
phong phú, đa dạng của ngành nghề nông thôn với nhiều chủng loại sản
phẩm, hàng hoá. Xét về góc độ phân công lao động, thì làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề có nhiều tích cực đến việc phát triển sản xuất nông nghiệp.
Không những cung cấp tư liệu sản xuất cho khu vực sản xuất nông nghiệp,
mà còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp. Khác với
sản xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
là một quá trình liên tục, đòi hỏi các dịch vụ cung ứng vật tư, nguyên liệu và
tiêu thụ sản phẩm thường xuyên. Do vậy, dịch vụ ở nông thôn phát triển
nhanh với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Điều đó được chứng minh
bằng thực tế sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã góp phần
tăng giá trị sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp. Chẳng hạn, tại Thái Bình, năm 2001, giá trị sản xuất công nghiệp đạt
2.961 tỷ đồng, thì giá trị sản xuất của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
chiếm 900 tỷ đồng (khoảng 30%), đến năm 2007 giá trị sản xuất khu vực làng
52
nghề, doanh nghiệp làng nghề đã tăng lên 35%. Việc không ngừng mở rộng
làng nghề, đặc biệt là các doanh nghiệp làng nghề thời gian qua đã làm cho
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thái Bình thay đổi theo hướng tích
cực. Năm 2000, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, thương
mại và dịch vụ của tỉnh lần lượt là 53%; 14,75%; 31,5%, đến năm 2006 các con
số đó là 40%; 25,59%; 34%. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2000 là 3,19%, đến
năm 2007 là 11,51%. Bộ mặt nông thôn đã từng bước thay đổi, hệ thống kết
cấu hạ tầng không ngừng được hoàn thiện. Tại nhiều vùng nông thôn, xuất hiện
các cụm làng nghề, các thị tứ, thị trấn, xoá dần cách biệt giữa thành thị với
nông thôn [96].
1.4.3. Vai trò đối với phát triển văn hoá dân tộc
Lịch sử phát triển của các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thủ công
mỹ nghệ gắn liền với sự phát triển của văn hoá dân tộc, là nhân tố quan trọng
góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú, đồng thời cũng là sự biểu hiện tập
trung của bản sắc văn hoá dân tộc.
Sản phẩm thủ công là kết tinh của của lao động vật chất và lao động
tinh thần. Nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của người thợ
thủ công. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tính nghệ thuật cao. Mỗi sản
phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc văn
hoá riêng, đồng thời thể hiện những nét độc đáo, sắc thái riêng của từng làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề. Với những giá trị văn hoá dân tộc có trong sản
phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ không còn là những hàng hoá đơn thuần, mà đã
trở thành tác phẩm văn hoá với tính nghệ thuật cao. Một số loại sản phẩm
được coi là nghệ thuật của truyền thống văn hoá vùng miền, như đồ đồng thời
kỳ Đông Sơn, gốm Bát Tràng, Chu Đậu, nghệ thuật chạm khắc tại các chùa
chiền, tranh sơn mài, tranh dân gian,.... Nhiều sản phẩm làng nghề sẽ sống
mãi với thời gian bởi những nét tinh hoa, độc đáo của nó.
53
1.4.4. Vai trò đối với xã hội
Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số đông, với diện tích canh tác
bình quân đầu người thấp và có xu hướng giảm nhanh, tỷ lệ thất nghiệp ở
nông thôn rất lớn do dân số tăng nhanh và từ các nguồn khác. Do vậy, giải
quyết nguồn lao động dư thừa đang là vấn đề cấp bách.
Do đặc điểm của sản xuất làng nghề, doanh nghiệp làng nghề lao động
thủ công, nên loại hình này thu hút nhiều lao động và hao phí lao động sống
chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. Vì vậy, phát triển làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề là giải pháp hữu hiệu để tăng việc làm cho lao động
nông thôn. Theo số liệu điều tra, số người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động phân theo ngành nghề, năm 2006 là 30,6 triệu người, trong đó, lao
động nông nghiệp là 20 triệu người, như vậy, lao động phi nông nghiệp và
thất nghiệp là 10,6 triệu người, chiếm tới khoảng 30% tổng số lực lượng lao
động nông thôn (theo nguồn của Tổng cục Thống kê: Kết quả Tổng điều tra
Nông thôn, Nông nghiệp và Thuỷ sản năm 2006 - NXB Thống kê, năm 2007,
trang 2006).
Số lao động bình quân trong một hộ làm nghề 3 - 4 người và của doanh
nghiệp làng nghề là 30 - 50 người. Đến nay, các làng nghề và doanh nghiệp
làng nghề đang thu hút khoảng 1,5 triệu lao động tham gia vào nhiều việc trực
tiếp và gián tiếp liên quan đến sản xuất hàng thủ công. Điều này vừa có ý
nghĩa giải quyết việc làm, vừa tăng thu nhập đáng kể cho nông dân. Hơn nữa,
sự phát triển của làng nghề kéo theo sự ra đời và phát triển của nhiều ngành
nghề khác. Chẳng hạn, nghề chế biến lương thực, thực phẩm trong làng nghề
phát triển, dẫn đến nghề trồng trọt và chăn nuôi phát triển theo. Do vậy, đã
giải quyết thêm được việc làm cho người lao động. Mặt khác, việc phát triển
các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sẽ tận dụng tốt thời gian lao động,
khắc phục được tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phân bố
hợp lý lao động nông thôn. Vai trò của việc thu hút lao động trong các làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề lan toả sang các làng khác, vùng khác, giải
54
quyết lao động không những trong làng, mà còn cả khu vực, từ đó tạo ra động
lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Qua thực tiễn và tính toán của
các chuyên gia, cứ xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ, thì
tạo ra việc làm và thu nhập cho 3.000 - 4.000 lao động thường xuyên, nếu lao
động thời vụ thì sẽ gấp 3 - 4 lần. Như vậy, phát triển làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề là một động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động.
Việc thu hút lao động trong các làng nghề cũng góp phần làm giảm tệ nạn xã
hội, giảm tỷ lệ thấp nghiệp đồng thời nâng cao tay nghề cho người lao động.
1.4.5. Vai trò đối với quan hệ đối ngoại
- Sự phát triển của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề sẽ thu hút
thêm khách du lịch đến với Việt Nam.
Do làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có điều kiện bảo tồn và phát huy
văn hoá bản sắc dân tộc, đây cũng là những địa điểm thu hút khách du lịch, đặc
biệt là du khách nước ngoài. Theo thống kê chưa đầy đủ, hàng năm có tới hàng
trăm ngàn khách du lịch nước ngoài đến các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.
Tại Hà Đông, Sơn Tây (Hà Nội), khi làng nghề, doanh nghiệp làng nghề vươn
ra xuất khẩu làm cho kinh tế xã hội nơi đây phát triển nhanh hơn, thu hút được
sự quan tâm của khách du lịch trong và ngoài nước. Làng nghề mây tre đan Phú
Vinh, Chương Mỹ hàng năm có đến 7.000 – 8.000 khách du lịch nước ngoài đến
tham quan. Làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc, làng gỗ Đồng Kỵ và nhiều
làng thủ công ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã
thu hút nhiều khách nước ngoài đến thăm quan du lịch và mua sắm sản phẩm
của làng nghề.
- Các sản phẩm làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có vai trò quảng bá
thương hiệu Việt Nam, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Các sản phẩm của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu, trước
hết đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho họ, mặt khác qua những sản phẩm
này người nước ngoài biết đến Việt Nam nhiều hơn và sâu sắc hơn. Hiện nay
55
hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại hơn 130 quốc gia, vùng lãnh
thổ trên thế giới. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để các làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề quảng bá thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp
và thương hiệu Việt Nam, để người tiêu dùng trên thế giới biết đến Việt Nam
nhiều hơn, hiểu tiềm năng và giá trị văn hoá nghệ thuật, đất nước và con
người Việt Nam nhiều hơn.
1.5. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng
nghề và doanh nghiệp làng nghề
Muốn xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng
cần thiết phải có những yếu tố chủ yếu để tạo ra hàng hoá đó. Đó là con người
nguyên liệu công nghệ, thiết bị, máy móc, kiến thức kinh doanh, ngoại ngữ,
cơ chế chính sách, tài chính,... nhưng tác giả tập trung phân tích, đánh giá 2
yếu tố cơ bản mà Việt Nam có thế mạnh là nguồn lao động và nguồn nguyên
liệu.
1.5.1. Nguồn lao động
Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, đội ngũ thợ có
tay nghề tương đối cao. Với dân số khoảng 86 triệu người, đa số sống ở nông
thôn, trong đó có hơn 10 triệu lao động trong các ngành nghề phi nông
nghiệp, chiếm 29,5% lực lượng lao động ở nông thôn, đây là nguồn lao động
dồi dào cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Trong số lao động hoạt động
trong các ngành nghề hiện nay, có tới 17,9% thuộc nhóm nông, lâm, thuỷ sản;
40,76% thuộc nhóm nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và 41,34% thuộc
nhóm dịch vụ. Tuy hiện nay còn một số hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ,
kỹ thuật sản xuất, kiến thức thị trường, hàng hoá, nhưng nhìn chung, lực
lượng lao động nông thôn vẫn có những mặt mạnh cơ bản, đó là cơ cấu lao
động trẻ chiếm đa số, trình độ văn hoá cao hơn nhiều so với trước đây, cần cù,
chịu khó, tiếp thu kỹ thuật nhanh. Tại nhiều làng nghề vẫn có số lượng khá
56
thợ thủ công. Đặc biệt vẫn còn những người thợ, nghệ nhân muốn gắn bó với
nghề. Một số lao động ở thành phố, thị xã, có kiến thức cao về thiết kế mẫu
mã, chủng loại, quản lý, nghiệp vụ ngoại thương, luật pháp,... cũng đang cần
việc làm. Khi công nghệ thông tin phát triển, giao thông thuận tiện việc giao
lưu giữa thành thị với nông thôn được thực hiện nhanh chóng, đặc biệt mối
quan hệ với các doanh nghiệp làng nghề.
Nhìn chung, mức tiêu dùng ở nông thôn hiện nay không cao, nên giá
nhân công trong các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề vẫn thấp hơn nhiều so
với khu vực thành thị. Mức lương của lao động Việt Nam hiện nay thấp hơn
nhiều so với các nước và vùng lãng thổ trong khu vực. GDP bình quân đầu
người của Việt Nam còn thấp. Theo số liệu năm 2006 của Tổng cục Thống
kê, GDP bình quân đầu người của Nhật Bản là 34,1 ngàn USD, của Đài Loan
là 15,6 ngàn USD, của Trung Quốc là 2,03 ngàn USD, của Inđônêxia là 1,64
ngàn USD, của Philippin là 1,36 ngàn USD, của Thái Lan là 3,2 ngàn USD,
trong khi đó của Việt Nam là 723 USD. Từ đó cho thấy, sức cạnh tranh về giá
của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thuận lợi hơn về chi phí lao động.
Hàng năm số lượng lao động ở nước ta tăng lên nhanh chóng từ nhiều
nguồn, như lao động đến độ tuổi, lao động từ các trường đại học, cao đẳng,
trung học, dạy nghề, lao động nông nhàn.
Từ những phân tích, đánh giá trên, có thể thấy, nước ta có nguồn lao
động dồi dào để sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở
đây là cần chú trọng việc đào tạo, nâng cao tay nghề, đặc biệt là đào tạo thợ
có tay nghề cao, nghệ nhân. Giá nhân công rẻ chỉ là yếu tố trong ngắn hạn.
1.5. 2. Nguồn nguyên liệu
Nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đến nay tuy có
giảm, do chưa có quy hoạch bài bản khai thác bừa bãi, nhưng nhìn chung vẫn
còn dồi dào và đa dạng, nếu chú trọng khai thác hợp lý, đặc biệt gây trồng
57
những nguyên liệu có thể tái tạo được thì vấn đề nguyên liệu vẫn là một lợi
thế cho hàng thủ công mỹ nghệ nước ta.
Nguyên liệu chủ yếu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như đất sét, song
mây, tre, lá cọ, gỗ, kim loại, dừa,... thường có sẵn trong nước, phân bổ khắp
nơi trong cả nước.
Đất sét sản xuất gốm, sứ có nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng,
nhất là khu vực Bát Tràng (Hà Nội), Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và các
tỉnh miền Đông Nam bộ như Đồng Nai, Bình Dương. Tre, nứa, song, mây,
tuy không còn nhiều như trước đây, nhưng vẫn còn nhiều tại các vùng núi
rừng Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Nhiều
địa phương thời gian qua đã trồng được nhiều loại mây có giá với khối lượng
lớn như Thừa Thiên - Huế, Bình Dương; cây cói có nhiều ở Ninh Bình, Thanh
hoá, các tỉnh Tây Nam Bộ; cây sơn ở Phú Thọ và Yên Bái; lá buông, dừa ở
các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ. Đây là nguồn nguyên liệu có dòng đời
ngắn, dễ tái tạo, dễ khai thác và thường thu hoạch theo mùa vụ, không gây tác
hại lớn cho môi trường. Chỉ còn một số phụ liệu cần thiết hiện nay vẫn phải
nhập khẩu, nhưng trong nước đang dần sản xuất được một phần thay thế nhập
khẩu.
Tóm lại, nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tuy
đã giảm, nhưng vẫn còn tiềm năng to lớn, đây là một lợi thế quan trọng. Đặc
biệt Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp
trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, quy hoạch và trồng vùng nguyên liệu, điều này
sẽ tạo cơ hội cho tiềm lực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trong nhiều năm
tới.
1.6. Kinh nghiệm phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề của
một số nước trên thế giới
Mặc dù nhiều nước trên thế giới trình độ phát triển công nghiệp đã ở
tầm cao mới. Cuộc sống của người dân ở đây cũng đã được nâng lên nhiều,
58
hoạt động sản xuất, kinh doanh phần lớn điều khiển bằng máy móc. Nhưng
những làng nghề truyền thống của họ vẫn được bảo tồn, giữ gìn và nâng cao
giá trị. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trong
phát triển làng nghề.
1.6.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Có thể nói Trung Quốc là cái nôi của nhiều nghề, làng nghề truyền
thống. Nghề thủ công của Trung Quốc ra đời từ rất sớm và nổi tiếng cho đến
ngày nay. Cách đây mấy ngàn năm, người Trung Quốc đã biết chế tác đồ
gốm, sơn mài, dệt vải, làm giấy,... Từ khoảng thế kỷ thứ XVII đến thế kỷ thứ
XI trước công nguyên, tại Trung Quốc đã xuất hiện nghề luyện kim, chế tác
đồng thau, thuộc da. Từ lâu Nghề gốm, sứ Giang Tây, nghề tơ lụa Hàng Châu,
Tô Châu đã nổi tiếng khắp thế giới. Đầu thế kỷ thứ XX, Trung Quốc đã có
hơn 10 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp làm việc
trong các công trường thủ công và hộ gia đình, trong các phường, hội, làng
nghề. Đến năm 1954, các hộ sản xuất được tổ chức vào hợp tác xã. Sau này
phát triển thành các xí nghiệp và tồn tại đến ngày nay. Đặc trưng ở Trung
Quốc là ngành nghề thủ công phát triển mạnh ở các đô thị, bởi các đô thị có
từ xa xưa và phát triển mạnh hơn các đô thị các nước châu Á khác. Tuy nhiên,
tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề cũng phát triển. Từ khi thực hiện “cải
cách” năm 1978, nhiều hợp tác thủ công nghiệp Trung Quốc được biến thành
xí nghiệp “Hương Trấn” phát triển mạnh mẽ và góp phần thay đổi bộ mặt
nông thôn. Những năm 80 của thế kỷ trước, các xí nghiệp tư nhân và làng
nghề phát triển nhanh, đóng góp tích cực trong việc tạo ra hơn 65% giá trị sản
lượng công nghiệp nông thôn. Gần đây, Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm
đến việc phát triển làng nghề kết hợp với các điểm tham quan du lịch. Để phát
triển du lịch làng nghề, Chính phủ Trung Quốc chủ yếu phát triển mô hình
Nhà nước và lấy đó làm chủ đạo với hai nội dung chính. Một là Nhà nước và
các địa phương dựa vào bộ máy hành chính quản lý du lịch để chỉ đạo phương
59
hướng, chính sách phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức tuyên truyền xúc
tiến thị trường. Hai là phát huy tính chủ động của chính quyền địa phương,
đặc biệt là các Hiệp hội làng nghề nhằm phát triển mạnh du lịch làng nghề địa
phương. Đặc biệt khuyến khích các làng nghề tạo ra những sản phẩm thủ
công mỹ nghệ độc đáo, mang những nét văn hoá truyền thống của các địa
phương Trung Quốc. Nhờ vậy, hai lĩnh vực du lịch và làng nghề có tác động
tương hỗ lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
1.6.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước châu Á có tốc độ phát triển kinh tế
nhanh nhất trong thời gian gần đây, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Mặc
dù vậy, do ý thức được thế mạnh của truyền thống văn hoá dân tộc thể hiện
qua các làng nghề truyền thống, nên chính phủ Thái Lan đã đặt mục tiêu là
gắn kết các hoạt động thương mại, du lịch và sản xuất các sản phẩm dân tộc
đặc trưng của từng làng nghề địa phương.
Tại Thái Lan có nhiều ngành nghề truyền thống như chế tác vàng, bạc,
đá quý, đồ trang sức. Do kết hợp tay nghề của nghệ nhân tài hoa với công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nên nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ Thái Lan đạt
chất lượng cao, với nhiều mẫu mã đặc sắc, có sức cạnh tranh cao trên thị
trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ vàng, bạc, đá quý
Thái Lan hàng năm đạt hàng tỷ USD. Nghề gốm, sứ cổ truyền Thái Lan trước
đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu nội địa, nhưng gần đây đã phát triển theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trở thành một mặt hàng được thị
trường thế giới ưa chuộng, thu ngoại tệ lớn. Hiện nay, mặt hàng gốm, sứ Thái
Lan được ưa chuộng trên thị trường Mỹ và châu Âu. Vùng gốm truyền thống
ở Chiềng Mai đang được xây dựng thành trung tâm gốm quốc gia, với 3 mặt
hàng chính là gốm truyền thống, gốm công nghiệp và gốm mới.
Chính phủ Thái Lan đã phát động phong trào có tên gọi “One Tambon,
One Product”, nghĩa là “mỗi làng một sản phẩm”. Phong trào này được phát
60
động từ năm 1999 và chính thức đi vào hoạt động năm 2001. Dự án được xây
dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản. Một là mang tính địa phương nhưng phát triển
ra toàn cầu; hai là phát huy tính tự lực và sáng tạo; ba là phát triển nguồn
nhân lực. Mục tiêu của dự án là tạo ra sản phẩm riêng biệt cho từng địa
phương để tăng doanh số bán ra. Hàng hoá muốn thâm nhập thị trường thế
giới, cần phải đáp ứng yêu cầu vệ sinh và chất lượng quốc tế; Phục hồi và
phát huy các kỹ năng truyền thống của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh; Phát huy tri thức địa phương để sáng tạo ra những sản phẩm và
hàng hoá có đặc thù; Xây dựng lòng tự hào dân tộc và xã hội đối với các sản
phẩm của Thái Lan; Phát triển du lịch sinh thái và du lịch tham quan các làng
nghề thủ công mỹ nghệ để tăng thu nhập cho địa phương; Hỗ trợ các doanh
nghiệp địa phương phát triển và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thông qua
việc hỗ trợ thiết kế và phát triển sản phẩm để theo kịp sự thay đổi thị hiếu và sở
thích người tiêu dùng.
Dự án này không chỉ dừng lại ở việc phát triển những sản phẩm hay
dịch vụ đặc thù của địa phương, đặc biệt là sản phẩm thủ công mỹ nghệ
truyền thống, mà còn có tính toàn diện nhằm phát triển có kế thừa văn hoá địa
phương, các kiến thức truyền thống cùng với những kinh nghiệm lâu đời
truyền lại.
Để thực thi dự án có hiệu quả, Chính phủ đã xây dựng cơ chế thực hiện,
có sự phân rõ trách nhiệm, nhấn mạnh đến vai trò điều phối chính sách của
Chính phủ và vai trò tự quản và thực thi của địa phương, đặc biệt sự tham gia
của mọi tầng lớp nhân dân. Hầu hết các bộ, ngành chủ chốt, liên quan đều
tham gia dự án này như Văn phòng Thủ tướng, Cục Phát triển kinh tế - xã hội
và kinh tế quốc gia (NESDB), Bộ Nội vụ (Vụ Phát triển xã hội), Bộ Tài
chính, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và các Hợp tác xã, Bộ Công nghiệp,
Bộ Y tế, Tổng cục Du lịch,... Trên thực tế, để thực hiện dự án trên, nhiều
trung tâm thương mại, dịch vụ, sản xuất đã hình thành ở địa phương.
61
Cơ quan ban hành chính sách là nội các Chính phủ, bao gồm Uỷ ban
Quốc gia phụ trách dự án cùng với 8 tiểu ban khác. Hội đồng làng (Tambon
Council) có vai trò hết sức quan trọng trong dự án, trực tiếp đề ra và phát triển
các các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đặc thù cho từng làng. Mạng lưới liên kết
giữa Hội đồng làng với tiểu ban cấp quận và Uỷ ban Quốc gia trong việc phát
triển sản phẩm. Quan trọng hơn, Chính phủ trực tiếp hỗ trợ hình thành các
kênh phân phối, khuyếch trương sản phẩm và tìm kiếm thị trường cho các sản
phẩm dự án. Như vậy, cơ chế hoạt động này đảm bảo thu hút được mọi nguồn
lực của địa phương để tạo ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có tính dị
biệt cao, đồng thời tạo ra sự đồng thuận ở các cấp địa phương.
Những chính sách ưu tiên hàng đầu của Thái Lan cho dự án này bao
gồm ân hạn nợ 3 năm cho nông dân; lập quỹ 1 triệu baht cho từng làng nghề;
xây dựng mạng internet với website www.thaitambon.com để giúp cộng đồng
dân cư sử dụng thương mại điện tử.
Chính phủ Thái Lan xác định rõ 5 bước thực hiện dự án. Bước một là
quá trình hướng nghiệp, lập kế hoạch và thiết lập các mối quan hệ trong cộng
đồng; bước hai là xác định các sản phẩm nổi bật; bước ba là phát triển sản
phẩm; bước bốn là marketing và phân phối sản phẩm và bước cuối cùng là
đánh giá dự án và các hoạt động hậu dự án.
Những sản phẩm của dự án chính là những sản phẩm truyền thống của địa
phương nhưng được cải tiến về mẫu mã và chất lượng để phù hợp với thị hiếu
khách hàng, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và có hình ảnh khác biệt trên thị
trường toàn cầu. Chính phủ Thái Lan cũng tổ chức các cuộc triển lãm thi sản
phẩm trong nước, trao giải thưởng và các hình thức công nhận khác đối với các
sản phẩm đặc trưng tiêu biểu của địa phương và các làng nghề. Chính phủ hỗ trợ
để mở những trung tâm chuyên mua bán các sản phẩm của dự án ở các tỉnh và
gọi là Trung tâm sản phẩm tinh xảo (State of the Art Center - SOAC). Chính phủ
cũng mở rộng thị trường thông qua tài trợ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại
62
trong nước, đưa các đoàn ra nước ngoài tham gia hội chợ triển lãm quốc tế. Các
đoàn này được Chính phủ hỗ trợ kinh phí.
Thương mại điện tử được xác định là phương tiện chiến lược để giúp
mở rộng thị trường. Hiện tại có hơn 1.200 mặt hàng có thông tin trên mạng.
Dự án này có mục tiêu cụ thể là kích cầu trong nước. Chính vì vậy,
những đánh giá bước đầu về hiệu quả dự án đã đề ra chương trình hành động
khẩn cấp bao gồm việc thực hiện chiến dịch marketing ở cấp quốc gia và quốc
tế; đàm phán và ký kết các hợp đồng kinh doanh; hình thành các kênh phân
phối. Thái Lan cũng mở chiến dịch khuyếch trương mua hàng nội, quảng bá
lịch truyền thống ở địa phương kết hợp với giới thiệu những sản phẩm của
từng địa phương.
Như vậy, dự án “Một làng, một sản phẩm” của Thái Lan tiêu biểu cho
một chiến lược cấp quốc gia về phát triển và quảng bá các sản phẩm trong
nước, xây dựng Thái Lan trên thị trường thế giới như một đất nước có những
nét văn hoá đặc trưng. Dự án tiêu biểu cho sự liên kết có hiệu quả giữa Chính
phủ, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, khu vực tư nhân
và cộng đồng người dân để khai thác nội lực từ cộng đồng dân cư.
Ngoài ra, Thái Lan cũng đã có nhiều hình thức khác để phát triển làng
nghề. Chẳng hạn dự án “Banprasat Archeological site” là dự án phát triển làng
nghề tập trung và đào tạo nghề, quảng bá nghề thủ công, nâng cấp hạ tầng cơ sở,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nghề bằng cách tạo ra môi trường trong sạch.
1.6.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những quốc gia rất chú trọng đến việc bảo tồn và
phát triển hàng thủ công mỹ nghệ. Nghề thủ công mỹ nghệ được chia thành
hai lĩnh vực là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ được xếp vào loại di sản văn hoá vật chất. Các bí quyết, kỹ thuật
nghề thủ công được xếp vào di sản văn hoá tinh thần và những người có công
tái tạo những sản phẩm đó được công nhận là những người làm công tác bảo
63
tồn và Nhà nước sẽ trợ cấp tiền để họ trao đổi nâng cao kỹ năng, tay nghề và
bồi dưỡng thế hệ kế nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước đã ban hành hàng loạt
chính sách khuyến khích phát triển nghề thủ công như chính sách công khai bí
quyết nghề thủ công truyền thống, đào tạo thế hệ kế nghiệp, thúc đẩy quảng
cáo và bán sản phẩm, nghiên cứu sản xuất nguyên vật liệu thay thế cho
nguyên vật liệu truyền thống. Mới đây, Nhà nước đã ban hành chính sách
quan trọng là đầu tư xây dựng các Trung tâm phát triển mẫu mã mới cho sản
phẩm thủ công tại mỗi khu vực có nghề. Các Trung tâm này có nhiệm vụ
nghiên cứu và sản xuất thử những sản phẩm mới theo quy trình công nghệ
truyền thống, có sự kết hợp giữa tính văn hoá truyền thống và văn hoá hiện
đại. Mặt khác, việc nghiên cứu mặt hàng mới cũng nhằm mục đích giúp cho
các cơ sở sản xuất có thể tạo ra số lượng hàng hoá nhiều hơn với giá rẻ, kích
thích sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cho các địa phương.
Năm 1974, Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống (gọi tắt là Luật
Nghề truyền thống) đã được Chính phủ Nhật Bản ban hành với mục đích khôi
phục và phát triển nghề thủ công truyền thống vốn đang đứng trước nguy cơ bị
mai một bởi quá trình công nghiệp hoá. Cho đến nay, đã qua hai lần sửa đổi và
bổ sung, Luật này vẫn còn hiệu lực và đã chứng tỏ vai trò của nó trong việc tạo
dựng lối sống văn hoá Nhật Bản. Bên cạnh Luật này, còn có một số bộ luật có
liên quan cũng góp phần tạo nên hiệu quả trong việc bảo tồn nghề thủ công.
Cơ chế của Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống, bao gồm
nguyên tắc xác định sản phẩm; nguyên tắc chính quyền địa phương làm người
bảo lãnh và kế hoạch phát triển và chính sách hỗ trợ.
Thực hiện Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống:
- Đào tạo đội ngũ kế nghiệp;
- Marketing;
- Công khai, giới thiệu kỹ thuật thủ công - Xây dựng nhà triển lãm thủ
công quốc gia;
- Nghiên cứu về nguyên vật liệu thô;
64
- Sử dụng lao động địa phương;
- Thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới.
Chính phủ Nhật Bản cũng đã thành lập Hiệp hội Khuyến khích phát
triển nghề thủ công truyền thống (gọi tắt là Hiệp hội Nghề truyền thống-
Densankyokai). Hiệp hội này được thành lập năm 1975 dưới sự nhất trí của
các hợp tác xã, là hạt nhân của sự nghiệp khôi phục và phát triển ngành nghề
truyền thống dựa theo Luật Phát triển nghề truyền thống. Hiện nay được sự
ủng hộ của Nhà nước và các đoàn thể cộng đồng địa phương, Hiệp hội hiện
đang tiến hành các dự án khôi phục và phát triển với các nội dung:
- Công nhận tay nghề của các nghệ nhân thủ công truyền thống;
- Công tác khai thác nhu cầu;
- Tổ chức thi đua khen thưởng;
- Giáo dục thế hệ trẻ;
- Thành lập Trung tâm nghề thủ công Quốc gia.
Theo Giáo sư Hiramatsu - Nhật Bản, Chủ tịch Hiệp hội xúc tiến giao
lưu quốc tế “Mỗi làng một sản phẩm” (người vừa đến tham gia hội thảo tại
Việt Nam tháng 9/2009): “Tại Nhật Bản, phong trào “Mỗi làng một sản
phẩm” cũng được khởi xướng tại tỉnh Oita từ năm 1979. Phong trào đã thành
công trong việc đưa các làng quê thoát khỏi đói nghèo và lôi cuốn được lao
động trẻ ở lại với nông thôn. Từ kinh nghiệm thành công của phong trào này,
Nhật Bản đã rút ra được 3 nguyên tắc cơ bản: Một là, phải xây dựng tính toàn
cầu cho mỗi sản phẩm địa phương. Mỗi cộng đồng thôn làng phải phấn đấu
làm ra một sản phẩm và coi đó là niềm tự hào của quê hương mình. Mục tiêu
của phong trào không đơn giản là làm ra những vật lưu niệm cho khách du
lịch, mà phải tạo ra những sản phẩm đặc trưng, không chỉ đưa ra thị trường
địa phương, mà phải xây dựng thương hiệu trên toàn thế giới. Hai là, thúc đẩy
tự chủ, tự lực, tự tin và sáng tạo của người dân. Nỗ lực phấn đấu xây dựng
phong trào là do người dân và cộng đồng quyết định lựa chọn những gì là tinh
hoa để mang sức sống mới cho vùng quê của họ. Nhà nước không nên hỗ trợ
65
trực tiếp cho các địa phương hoặc nông hộ, vì như vậy sẽ làm nảy sinh tính ỷ
lại, trông chờ. Thay bằng đó, Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng, hướng
dẫn kỹ thuật, hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá bán hàng. Cách tốt nhất để
đạt giá trị kinh tế cao là phải biết liên kết, “tựa lưng vào nhau” trong việc
thống nhất giá cả, phương thức bán hàng, chế biến sản phẩm và nên bán chế
phẩm trực tiếp ra thị trường giá trị kinh tế mới cao. Tóm lại, điều quan trọng
nhất là phải làm cho người nông dân thỏa mãn với cuộc sống của mình tại
một làng quê thanh bình. Đó chính là mục tiêu của phong trào “ Mối làng một
sản phẩm”. Ba là, phát triển nguồn nhân lực, đây là động lực quan trọng nhất
của phong trào. Trách nhiệm của Nhà nước là nuôi dưỡng nguồn nhân lực tài
năng, có ý chí để vượt qua thách thức mới trong sản xuất, kinh doanh. Nhật
Bản đã thành lập trường đào tạo để những người đi làm ban ngày giành thời
gian học tập vào buổi tối. Học sinh bao gồm nông dân, cán bộ hợp tác xã,
người làm việc trong các cơ quan địa phương. Trường không có sách giáo
khoa hoặc giáo viên chuyên nghiệp, thay vào đó là một số người dân địa
phương thành đạt trong phong trào đến giảng, Bên cạnh đó còn có các trường
học nhỏ, đào tạo các ngành nghề cần thiết khác. Không phải nghề nào, sản
phẩm nào cũng cũng thành công tất cả, mà cũng có nhiều thất bại. Nhưng
quan trọng nhất là không bao giờ từ bỏ sự tìm kiếm sáng tạo mới, không mất
nhuệ khí khi thất bại, luôn nỗ lực với tinh thần vượt qua khó khăn thực hiện
phong trào” (nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 3/10/2009)
Với những chủ trương và biện pháp này, đến nay, Nhật Bản đã dần
khôi phục và phát triển được nhiều ngành nghề truyền thống.
1.6.4. Bài học kinh nghiệm quốc tế
Qua kinh nghiệm bảo tồn và phát triển làng nghề của một số quốc gia
và khu vực có nhiều điều kiện tự nhiên và xã hội tương đồng như nước ta, có
thể rút ra một số nhận xét sau đây:
66
Một là, bảo tồn, duy trì và phát triển làng nghề truyền thống là vấn đề
đựợc nhiều quốc gia Châu Á chú trọng.
Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, thương mại hoá đã có lúc làm
suy yếu, mờ nhạt hình ảnh và vai trò của làng nghề. Đồng thời, phong cách,
thị hiếu tiêu dùng của người dân cũng có sự thay đổi. Nhưng qua thử thách
của thời gian, nhiều quốc gia ngày càng nhận thức rằng, cho dù có những
ngành nghề mới hiện đại, tiên tiến, cho dù có những sản phẩm mới tinh vi,
hiện đại, hàm lượng khoa học cao, nhưng vai trò của làng nghề, sản phẩm
làng nghề không dễ gì thay được. Làng nghề là bộ phận quan trọng cấu thành
kinh tế của làng, xã. Tuỳ điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của từng nước mà
họ có sự kết hợp với mức độ khác nhau. Trong bố trí sản xuất, họ thường xây
dựng các xí nghiệp lớn gần các làng nghề hoặc xí nghiệp nhỏ để tạo thành các
vệ tinh cho xí nghiệp có quy mô lớn.
Tại Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, người ta cho rằng, đẩy mạnh
công nghiệp hoá nông thôn trước hết phải chú ý đến ngành nghề nông thôn và
làng nghề truyền thống. Từ đó, tạo ra thị trường tiêu thụ ở nông thôn rộng lớn
cho sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ, góp phần thúc đẩy làng nghề phát
triển theo hướng công nghiệp hoá. Các nước như Thái Lan, Trung Quốc đều
xây dựng những chương trình phát triển nghề thủ công và làng nghề thủ công
truyền thống. Nhiều ngành nghề cổ truyền được trang bị máy móc, thiết bị cơ
khí, nửa cơ khí kết hợp với bàn tay điêu luyện, tài ba của người thợ. Vì thế,
phần lớn các làng nghề đang có xu hướng phục hồi và phát triển.
Hai là, Chính phủ chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các
làng nghề.
Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn có vai trò quan
trọng đến sự phát triển của làng nghề thủ công mỹ nghệ. Vì vậy, các nước rất
chú trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo nghề cho người thợ để họ có điều
kiện tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, thiết kế, cải tiến đề tài, mẫu mã, hiểu rõ nhu
cầu, thị hiếu thị trường nước ngoài. Việc hình thành được một đội ngũ thợ có
tay nghề cao là rất quan trọng. Nhìn chung, các nước đều đa dạng hoá hình
67
thức đào tạo, nâng cao tay nghề như đào tạo tại chỗ, bồi dưỡng tập trung ngắn
hạn để đào tạo có hệ thống. Các nước rất chú trọng kinh nghiệm thực tiễn, họ
chú trọng hoạt động có tính cộng đồng như gia đình, làng xóm, hương trấn,
phường hội, câu lạc bộ,...
Tại Nhật Bản, chính phủ có chính sách đầu tư để đào tạo cố vấn. Các
dịch vụ cố vấn được được sự giúp đỡ của hơn 300 viện nghiên cứu và viện
đào tạo nghề, trong đó 49 viện về lĩnh vực dệt may, 48 viện về chế biến mây
tre, gỗ, 20 viện nghiên cứu nghề sơn. Ngoài ra, tại 600 thành phố, đô thị,
chính quyền đã giúp đỡ thành lập nhiều văn phòng cố vấn khác. Nhờ có dịch
vụ cố vấn, các làng nghề có thêm kiến thức quản lý, kinh doanh, sản xuất, kỹ
thuật, phát triển mẫu mã, đề tài.
Ba là, vai trò của Nhà nước trong việc giúp đỡ, hỗ trợ về tài chính cho
làng nghề.
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh của làng nghề truyền thống nhiều
nước đã có sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước về mặt tài chính, như
cấp vốn, giảm lãi suất, bù giá đầu ra cho người sản xuất. Nhờ có sự hỗ trợ
này, các làng nghề có thêm điều kiện để mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật,
đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường. Tại Nhật Bản, Chính phủ cho thành lập hệ thống bảo lãnh và
bảo hiểm tín dụng để giúp đỡ người nghèo vay vốn không cần thế chấp tài
sản. Các ngân hàng đã cho các cơ sở tiểu thủ công nghiệp vay vốn để mua
máy móc, thiết bị trong kỳ hạn 3 - 5 năm với lãi suất thấp.
Hệ thống bảo lãnh và tín dụng còn được áp dụng ở các nước khác như
Thái Lan, với nhiều hình thức khác nhau. Chính phủ nước này đã thành lập
nhiều công ty có chức năng đầu tư hoặc giúp vốn cho những doanh nghiệp
mới thuộc các ngành có thể chịu nhiều rủi ro, với lãi suất thấp, điều kiện dễ
dàng, thủ tục đơn giản, thời gian lên tới 15 năm.
Bốn là, Nhà nước có chính sách ưu đãi mở rộng thị trường để khuyến
khích làng nghề truyền thống phát triển.
68
Đi đôi với việc hỗ trợ tài chính, tín dụng là chính sách ưu đãi thuế và
chính sách mở rộng thị trường. Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc luôn tạo
điều kiện thuận lợi cho các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề tiếp cận với
thị trường nước ngoài như cấp kinh phí tham gia triển lãm hội chợ và nghiên
cứu thị trường nước ngoài
Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp làng
nghề.
Sự kết hợp giữa công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp làng nghề là thực
hiện sự phân công lao động, thông qua sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Tại Nhật
Bản, các làng nghề truyền thống đóng vai trò vệ tinh, gia công cho các công
ty lớn, khu công nghiệp tập trung và cung cấp các loại bán thành phẩm cho
các công ty đó. Trên cơ sở đó, các công ty lớn và làng nghề sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cùng nhau phát triển. Hình thức này cũng được thực hiện tại Thái
Lan. Các trung tâm công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ làng nghề truyền
thống nâng cao năng lực sản xuất, cung cấp tài chính và tạo điều kiện hỗ trợ
đầu ra cho sản phẩm làng nghề.
Sáu là, phát triển làng nghề gắn liền với phát triển du lịch làng nghề:
Thu hút khách du lịch đến với làng nghề không chỉ giúp mở rộng thị trường
mà còn là một trong những kênh quảng cáo cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ
truyền thống. Hai lĩnh vực này cùng thúc đẩy nhau phát triển. Kinh nghiệm
này đã được thực hiện rất thành công tại Thái Lan.
69
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM
2.1. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có từ lâu đời và đã được
xuất khẩu sang các nước nhưng chỉ bắt đầu phát triển mạnh từ những năm
cuối của thế kỷ XX, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Trong
khoảng 10 năm trở lại đây, mặc dù thời gian rất ngắn so với quá trình hình
thành và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ, nhưng lại có nhiều thay đổi
nhất so với quá trình mấy trăm năm. Trong các làng nghề, số lượng doanh
nghiệp làng nghề không ngừng tăng lên. Cơ sở vật chất, trình độ quản lý, khối
lượng sản phẩm, đề tài, mẫu mã đều phát triển, kim ngạch xuất khẩu tăng. Xu
hướng này có thể vẫn được tiếp tục, nếu chúng ta sớm tháo gỡ được những
khó khăn, vướng mắc.
Trước những năm 90 của thế kỷ XX, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
của Việt Nam chủ yếu xuất sang thị trường Liên Xô và Đông Âu theo Nghị
định thư được ký kết giữa các Chính phủ. Mặt hàng chủ yếu là thảm len, thảm
đay, thảm cói, chiếu cói, hàng mây tre đan, mành trúc, mành cọ, hàng thêu
ren, khăn trải bàn, khăn trải giường,... kim ngạch xuất khẩu năm 1985 cao
nhất đạt tới 205 triệu Rup/USD, chiếm tỷ trọng 33,7% kim ngạch xuất khẩu
của cả nước, cá biệt, có năm chiếm tới 53,6% (năm 1979), bình quân 10 năm
(1976-1985) tỷ trọng kim ngạch hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu so với tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt gần 40%.
Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này chiếm tỷ trọng rất cao trong xuất
khẩu của cả nước giúp phần đặc biệt quan trọng với nền kinh tế đất nước,
thực hiện vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế - đối ngoại với các nước xã
hội chủ nghĩa; trao đổi hàng hoá, nhập khẩu máy móc, vật tư, nguyên liệu và
70
hàng tiêu dùng phục vụ công cuộc chống Mỹ cứu nước (trước 1975) và khôi
phục đất nước (sau 1975).
Song, việc trao đổi hàng hoá với các nước xã hội chủ nghĩa trong
chương trình hiệp định song phương và đa phương với các nước khối SEV,
hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu không bị tác động bởi cơ chế thị trường mà
theo kế hoạch. Vì vây, chủng loại và mẫu mã đơn điệu, không được cải tiến,
chất lượng không cao, công dụng và giá trị nghệ thuật thấp, nhiều mẫu hàng
được duy trì với số lượng lớn trên 20 năm không thay đổi như: một số đề tài
mành trúc, thảm cói chùi chân, khăn thêu trải bàn, sơn mài Xuân - Hạ - Thu -
Đông. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh cũng được ra đời theo kế hoạch nên
thiếu tính năng động sáng tạo. Người làm ra sản phẩm chủ yếu làm theo
truyền thống, thiếu cải tiến tìm tòi, hàng hoá sản xuất ra không phải tuân theo
quy trình giám sát chất lượng cao nhưng vẫn được xuất khẩu ra nước ngoài.
Đây là một thời kỳ dài, tạo ra một đội ngũ thợ thủ công, hệ thống tổ
chức sản xuất và quản lý sản xuất cũng như xuất khẩu thiếu năng động, thiếu
tư duy sáng tạo, guồng máy hoạt động theo một chu kỳ kế hoạch, bao cấp,
không thực hiện cơ chế hạch toán đầy đủ.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã
tạo ra luồng không khí mới, một tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh tế nói
chung và ngành kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng.
Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được xoá bỏ từng bước để thay thế
bằng cơ chế hạch toán, nâng cao quyền chủ động và trách nhiệm của cơ sở.
Đây là một bước ngoặt quan trọng cho ngành sản xuất và xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ nước ta.
Vào thời kỳ đầu của những năm 90, khi hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa sụp đổ, hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ nước ta bị tồn lại không xuất
khẩu được, kết hợp với sự thay đổi mạnh mẽ cơ chế quản lý kinh tế trong
71
nước, hàng loạt hợp tác xã thu hẹp sản xuất hoặc đóng cửa, đời sống của
người lao động thủ công vô cùng khó khăn.
Với những biến cố chính trị quan trọng trong hệ thống các nước khối
SEV, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ gần như mất hoàn toàn, thị
trường khu vực 2 (khu vực tư bản chủ nghĩa) nhiều năm có tỷ trọng rất nhỏ
(dưới 10%) do nước ta bị cấm vận và không được quan tâm xây dựng.
Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thời kỳ này giảm sút
nghiêm trọng, từ năm 1990 - 1992 chỉ còn khoảng 30 triệu USD bình quân
năm.
Song, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, tiềm năng sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta dồi dào, hàng thủ công mỹ nghệ của
nước ta cũng có thương hiệu trên thị trường quốc tế. Vì vậy đã dần dần tìm
được chỗ đứng trên thị trường và phát triển nhanh chóng do giao lưu quốc tế
mở rộng, thương nhân nước ngoài tìm đến Việt Nam ngày càng nhiều, các
doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội ra nước ngoài tiếp cận trực tiếp với
thị trường thế giới. Nhiều cuộc hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ được tổ chức
tại Việt Nam và nước ngoài. Thị trường khu vực II qua nhiều năm đóng cửa
đã khai thông. Kim ngach xuất khẩu tăng lên qua các năm. Nếu thời kỳ 1990 -
1992 chỉ bình quân 30 triệu USD/năm thì năm 1996 đã đạt 124, 3 triệu USD
và năm 2008 lên tới con số 820,8 triệu USD (xem bảng 2.1) với mức tăng
trưởng từ năm 2000 đến 2008 là 20%/năm và trở thành 1 trong 12 ngành hàng
xuất khẩu chủ lực của đất nước ta, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao
động, bộ mặt nông thôn nhiều vùng được đổi mới. Hàng thủ công mỹ nghệ
nước ta không ngừng được cải tiến mẫu mã, quy mô sản xuất ngày càng cao,
chất lượng và sự đồng đều của sản phẩm thay đổi rõ rệt. Đã được giới kinh
doanh và người tiêu dùng quốc tế đánh giá cao về sự đa dạng, có giá trị văn
hoá, nghệ thuật độc đáo.
72
Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Đơn vị tính: triệu USD % trong tổng kim ngạch
Kim ngạch
Tỷ lệ tăng %
Năm
xuất khẩu
xuất khẩu
1997 121
1998 111 -8,33 1,18
1999 168 51,26 1,46
2000 287 43,5 1,64
2001 308 7,6 1,57
2002 340 10,2 1,98
2003 397 16,8 1,82
2004 509 29,8 1,94
2005 580,9 12,5 1,75
2006 706,1 21,5 1,57
2007 786,5 11,3 1,7
2008 820,8 4,3 1,29
Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Công Thương
2.2. Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Nước ta nằm ở khu vực Đông Nam Châu Á, khí hậu nhiệt đới gió mùa
nên nguồn nguyên liệu từ cây rừng, cây nông nghiệp và cây cỏ tự nhiên
phong phú và đa dạng.
Trong thời gian qua, do quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước;
tiềm năng nguồn nguyên liệu to lớn chưa được khai thác tối đa, nhiều loại
nguyên liệu chưa được tận thu để chế biến thành hàng hóa xuất khẩu mang
ngoại tệ về cho đất nước như: Cỏ cây mọc tự nhiên trên rừng; tại các vùng
đồng bằng, nông thôn, bờ ao, bờ ruộng, phế thải của ngành nông nghiệp như
vỏ cây, cành cây, rơm rạ,... và phế thải của ngành công nghiệp như: sắt vụn,
vải vụn,... là những nguyên liệu tưởng như không có giá trị kinh tế, song nếu
đầu tư khai thác, tổ chức tạo mẫu mã, tổ chức sản xuất thành hàng hóa và xúc
73
tiến thị trường đều có thể trở thành mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả kinh tế
cao.
Tuy vậy, xét từ nhiều góc độ khác nhau, tác giả khẳng định hàng thủ
công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam tương đối phong phú về chủng loại, đa
dạng về mẫu mã, được người tiêu dùng trên thế giới đánh giá cao. Gồm nhiều
nhóm hàng được phân theo nguồn gốc nguyên liệu như: đất, mây tre lá, gỗ,
cói,... phân theo công dụng của hàng hóa như: giá kệ, chậu, lẵng hoa, bàn
ghế,... hoặc phân theo công nghệ như: thêu ren, sơn mài, sơn dầu,...
Trong phần luận án của mình, tác giả xin được phân cơ cấu mặt hàng
kết hợp giữa nguồn gốc nguyên liệu, công dụng và công nghệ sản xuất ra
hàng hóa. Theo tác giả, mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu nước ta nên
chia thành các nhóm sau đây:
- Nhóm hàng gốm sứ;
- Nhóm mây tre lá;
- Nhóm hàng sơn mài;
- Nhóm hàng thêu ren;
- Nhóm hàng gỗ mỹ nghệ;
- Nhóm hàng đan, móc, dệt thổ cẩm;
- Nhóm hàng đá quý, kim loại quý;
- Nhóm hàng giầy dép đính hạt cườm, kim tuyến, dép thủ công;
- Nhóm hàng đồ chơi;
- Nhóm hàng quà tặng,...
Trong đó có 5 nhóm hàng chính, có kim ngạch lớn, có tiềm năng phát
triển cao hơn đang được Nhà nước, các địa phương và các nhà sản xuất kinh
doanh quan tâm đầu tư phát triển xuất khẩu.
74
Bảng 2.2. Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Đơn vị tính: triệu USD
Mặt
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
TT
hàng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Mây, tre, cói, lá, 92,5 103,1 113,2 141,0 171,7 157,3 214,1 221,3 225,6 thảm
1
Tăng % 48,8 11,5 9,6 24,5 21,7 -9,1 36,1 3,3 1,9
Gốm, sứ 108,5 117,1 123,5 135,9 154,6 255,3 274,4 330,8 344,0
2
Tăng % 30 8 5,4 10 13,7 65,1 7,4 20,1 3,9
Sơn mài mỹ nghệ 36,2 34,0 50,9 59,6 90,5 89,9 119,5 125,1 132,6
3
Tăng % 61 -6 50 17 50 -1 19 4,6 5,8
Thêu ren 50,3 54,7 52,6 60,6 91,6 78,4 98,1 109,3 118,6
4
Tăng % 55 8 -4 15 28 -12 17 11,4 8,5
5 Tổng giá trị 287,5 308,9 340,2 397,1 585,4 580,9 706,1 786,5 820,8
Nguồn: Tổng cục Hải Quan, năm 2000 - 2008
75
2.3. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu
2.3.1. Mặt hàng gốm, sứ
Nghề gốm, sứ nước ta đã có từ lâu đời, nó gắn bó mật thiết với cuộc
sống của người dân. Khởi đầu, gốm, sứ Việt Nam gồm có bát, đĩa, ấm chén,
chậu, lộc bình, về sau phát triển thêm nhiều loại sản phẩm khác. Cùng với lịch
sử phát triển của các triều đại, một số loại gốm, sứ mới được sản xuất với hình
dáng, màu sắc, chất lượng cao hơn như gốm men ngọc thế kỷ thứ XI, gốm hoa
nâu thế kỷ thứ XIII, gốm hoa lam thế kỷ thứ XIV, gốm men ngọc kết hợp điêu
khắc thế kỷ XVIII. Đồ gốm phát triển mạnh nhất vào thế kỷ XVI - XVII, đặc
biệt ở miền Bắc và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á như Trung Quốc,
Nhật Bản. Nơi nào có đất sét tốt, nơi đó nghề gốm có điều kiện phát triển.
Các làng gốm phân bố nhiều nơi trong cả nước. Hiện tại miền Bắc có
những nơi sản xuất gốm, sứ nổi tiếng như Thổ Hà (Bắc Giang), Hương Canh
(Vĩnh Phúc), Đông Triều (Quảng Ninh), đặc biệt là Bát Tràng (Hà Nội) và Chu
Đậu (Hải Dương). Tại miền Trung có Lò Chum (Thanh Hoá), Thanh Hà
(Quảng Nam). Tại Nam Bộ có gốm Biên Hoà (Đồng Nai), Lái Thiêu (Bình
Dương) và gốm Vĩnh Long. Tuy nhiên, gần đây đã có một số làng bị mai một
do nguồn nguyên liệu cạn dần.
Gốm sứ gồm 2 dòng sản phẩm khác nhau, được sản xuất từ chủng loại
nguyên liệu khác nhau, nung trong môi trường nhiệt độ khác nhau:
Sứ được sản xuất từ đất sét tinh chế, có nhiều phụ gia tăng độ liên kết,
tăng khả năng chịu nhiệt độ nung cao hơn và được nung trong lò có nhiệt độ từ
1.300 đến 1.350 độ C, sứ bền chắc, có độ sáng, tiếng kêu vang hơn các loại
khác.
Sứ được áp dụng công nghệ mới trong tinh chế nguyên liệu, trong quá
trình tạo phôi,… đối với mặt hàng này hàm lượng mỹ thuật dân tộc cổ truyền
thấp, hàm lượng kỹ thuật, mỹ thuật mới cao hơn. Sản phẩm chủ yếu được sản
xuất ở các cơ sở lớn, xí nghiệp tập trung; công dụng chủ yếu của mặt hàng này
76
là phục vụ nhu cầu dân dụng, nhu cầu sinh hoạt gia đình, công sở như: bát đũa,
ấm chén,…
Gốm là mặt hàng phát triển lâu đời hơn, được sản xuất bằng nguyên liệu
chế biến thô, ít phụ gia tạo độ dính; nung ở nhiệt độ 900 đến 1.200 độ C, sản
phẩm có mầu tối, đơn giản và có màu sắc văn hóa, dân tộc, thủ công dân gian
cao hơn. Gốm hầu hết được đầu tư nhỏ lẻ, phát triển nhiều nơi và đang là một
mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn (xem bảng 2.3), được nhiều thị trường trên
thế giới ưa chuộng. Hiện tại có 3 trung tâm gốm lớn của cả nước là: Bát Tràng,
Đồng Nai và Bình Dương.
Gần 20 năm trở lại đây với, sự phát triển của ngành gốm sứ xuất khẩu
nước ta, một số trung tâm gốm mới ra đời như: Đông Triều, Vĩnh Long,…
Theo kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả
nước có 61 làng nghề gốm, sứ với khoảng 35 ngàn thợ. Trong tổng số làng
nghề gốm, sứ, loại làng tồn tại trên 100 năm chiếm 28,8%, loại từ 30 - 100
năm chiếm 33,9%, loại từ 10 - 30 năm chiếm 16,9%, loại dưới 10 năm chiếm
24,4%.
Ngoài các doanh nghiệp, hiện nay hộ gia đình tham gia sản xuất gốm,
sứ là chủ yếu. Thợ thủ công với tay nghề cao và các họa sĩ thường sản xuất
độc lập tại các xưởng của họ và bán trực tiếp cho tư thương hoặc bán cho các
cửa hàng bán lẻ ở đô thị. Tuy nhiên, hầu hết cơ cấu tổ chức sản xuất hiện nay
dưới hình thức doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, bao gồm nhiều hộ sản
xuất. Nhìn chung các doanh nghiệp thường đầu tư máy móc, thiết bị cần thiết
và thuê lao động trong làng hoặc lao động từ các làng khác sản xuất theo đơn
đặt hàng của các công ty xuất khẩu ở các đô thị hoặc tự bán sản phẩm.
Trong các làng nghề truyền thống hoặc các doanh nghiệp làng nghề,
cách chế biến, phối hợp nguyên liệu và cách pha màu men được giữ “bí mật”.
Quá trình tạo dáng, vẽ trang trí và nung được các thợ kỹ thuật đảm nhiệm.
77
Nguời ngoài làng chỉ làm những công việc phụ. Các kỹ thuật truyền thống
được truyền từ đời này sang đời khác chủ yếu trong phạm vi gia đình.
Bảng 2.3. Kim ngạch xuất khẩu hàng gốm, sứ
Đơn vị tính: triệu USD
Kim ngạch xuất khẩu
Tăng %
Năm
108,4 30,0 2000
117,1 8,0 2001
123,5 5,4 2002
135,9 10 2003
154,6 13,7 2004
255,3 65,1 2005
274,4 7,4 2006
330,8 20.5 2007
344,0 3,9 2008
Nguồn: Tổng cục Hải quan, năm 2000- 2008
Sản phẩm đồ gốm, sứ rất đa dạng, phong phú với nhiều mục đích sử
dụng khác nhau, từ đồ ăn đến đồ trang trí. Nhưng gốm Việt Nam thường dày,
nặng nề. Cần phải nghiên cứu để đồ gốm mỏng hơn, nhẹ hơn mà không bị
méo, vênh. Nhược điểm của đồ gốm xuất khẩu Việt Nam là thẩm mỹ chưa
cao. Cần tăng cường hơn việc đào tạo kỹ thuật thủ công tinh xảo và kiến thức
thẩm mỹ để sản phẩm gốm đẹp hơn, chất lượng hơn. Mặc dù đồ gốm, sứ có
nguồn gốc từ làng quê Việt Nam, nhưng hầu hết mẫu mã được thực hiện theo
yêu cầu của khách hàng nước ngoài. Thực tế xuất khẩu của các doanh nghiệp
vừa qua cho thấy, các bộ đồ ăn kích thước lớn và các bộ uống trà cho người
78
châu Âu; các sản phẩm nhỏ như bát ăn, kê đũa, bát hương cho thị trường Nhật
Bản đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Trong số những nơi sản xuất gốm, sứ, chỉ có các sản phẩm gốm sứ Bát
Tràng, Chu Đậu, Lái Thiêu, Biên Hoà, Vĩnh Long, Phù Lãng, Kim Bảng, Cổ
Chiên và Đông Triều đạt yêu cầu xuất khẩu.
Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gốm Bát Tràng, Chu Đậu, Biên
Hoà, Lái Thiêu, Cổ Chiên là những thương hiệu khá quen thuộc với với nhiều
thị trường. Đặc biệt gốm Bát Tràng rất được ưa chuộng tại Nhật Bản do đặc
điểm hoa văn trang trí và màu sắc phù hợp với người tiêu dùng Nhật Bản.
Cũng giống như trường hợp của nhiều mặt hàng khác, mẫu mã hàng gốm, sứ
thường được du nhập từ nước ngoài, nên sản phẩm trở nên phổ biến và giá rẻ.
Trung Quốc là quê hương của nghề gốm; các nước và khu vực như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan cũng phát triển hàng gốm, sứ theo phong cách
riêng của họ. Sản phẩm gốm, sứ thường gắn liền với tên địa phương, chẳng
hạn như gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu của Việt Nam. Các nước cạnh tranh
hàng gốm, sứ Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan. Tại nhiều cửa hàng
trưng bày gốm, sứ ở nước ngoài, người ta thường trưng bày gốm Bát Tràng
của Việt Nam, gốm ngọc của Thái Lan, và gốm trắng của Trung Quốc tại
những nơi gần nhau. Phát triển sản phẩm mang giá trị truyền thống và văn
hoá sẽ tạo được sự khác biệt với các sản phẩm của các nước khác, đó là một
trong những yêu cầu đặt ra đối với ngành hàng gốm sứ của nước ta.
Nghề gốm là một trong những nghề truyền thống ở châu Á và phát triển
trong mối quan hệ mật thiết với văn hoá truyền thống địa phương. Mặc dù kỹ
thuật truyền thống đã được truyền lại từ hàng thế kỷ do đặc điểm cha truyền
con nối, nhưng do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tác động vào mọi lĩnh
vực sản xuất và đời sống, việc áp dụng máy móc ngày càng nhiều, nên yếu tố
truyền thống ngày càng bị mai một. Gốm cổ rất đa dạng trong lịch sử và có giá
trị văn hoá cao, do đó, cần nghiên cứu bảo tồn. Bên cạnh đó, ngoài việc duy trì
79
các yếu tố thủ công, việc áp dụng công nghệ mới ở quy mô phù hợp nhằm tận
dụng ưu thế của các sản phẩm thủ công và các kỹ thuật công nghiệp là bước đi
thích hợp nhằm thúc đẩy quy mô sản phẩm, giảm giá thành, cải tiến nhanh mẫu
mã. Đây là một khâu quan trọng trong quá trình phát triển ngành hàng gốm sứ
nước ta.
2.3. 2. Hàng mây, tre, cói, thảm
Nhóm hàng này chủ yếu được sản xuất từ nguồn nguyên liệu tự nhiên
như: lá buông, bèo tây, tre nứa, song, mây, đay,… được tập trung chủ yếu ở
Cao Bằng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Ninh Thuận, Hưng Yên, Vĩnh Long,… Do
không được quy hoạch, khai thác không đúng quy trình, mặt khác do nhu cầu
tạo quĩ đất cho phát triển rừng, cây công nghiệp, nông nghiệp và các khu công
nghiệp tập trung, các cơ sở sản xuất, nên nguồn nguyên liệu đang ngày càng
cạn kiệt, đặc biệt là lá buông, cói, đay,… Đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của
Nhà nước và các địa phương nhằm giữ gìn và phát triển nguồn nguyên liệu
trên cơ sở quy hoạch lâu dài, vừa bảo đảm nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu,
đảm bảo môi trường sinh thái và cân đối các yếu tố kinh tế xã hội trong từng
vùng và cả nước.
Đặc điểm của nhóm nguyên liệu này là dễ trồng, có thể tận dụng những
vùng đất cằn, đất mặn,… các loại nguyên liệu này phát triển nhanh, dễ thu
hoạch. Song yêu cầu cao về sơ chế, bảo quản để tránh độ ẩm cao và gây mốc,
mối mọt,…
Nhóm hàng này được sản xuất từ rất sớm; từ bao đời nay, ông cha ta đã
có nghề đan sọt, đan rổ rá phục vụ nhu cầu gia đình và tiêu thụ tại các địa
phương. Do có lợi thế nguyên liệu ở khắp mọi nơi, dễ sản xuất ra các mặt
hàng phục vụ đời sống hàng ngày.
Khi ngành hàng này trở thành mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, tạo ra
nguồn lợi cho người có nguyên liệu và người có thời gian tìm tòi, tạo ra hàng
80
hóa; mặt hàng mây, tre, lá, thảm,… phát triển nhanh và lan rộng ra hầu hết
các tỉnh, thành của cả nước, mà trọng điểm là các tỉnh: Hà Tây, Thái Bình,
Thanh Hóa, Ninh Bình, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bình Dương,
Lâm Đồng, Vĩnh Long,… mặt hàng nhiều mẫu mã và công dụng khác nhau
như: sọt đựng hoa quả, khay hoa quả, rổ rá, đồ mây tre, đĩa, khay,… thảm
chùi chân, trải nhà, đệm xe hơi,… đã giải quyết hàng trăm ngàn lao động
trong cả nước với tiền công lao động từ 400.000 đến 1.200.000 đồng/tháng,
đặc biệt là lao động không đòi hỏi trình độ văn hóa cao. Lợi thế của ngành
hàng này ngoài nguồn nguyên liệu và lao động dồi dào là đầu tư cho sản xuất
không lớn. Chủ yếu làm thủ công, tập trung tại các hộ gia đình; không phải
xây dựng nhiều nhà xưởng; công nghệ mới trong sản phẩm không cao; không
gây ô nhiễm môi trường như một số ngành nghề khác. Song hàng năm vẫn
mang lại nguồn ngoại tệ tương đối lớn về cho đất nước: khoảng 226 triệu
USD trong năm 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000 – 2008
trên 20%/năm (xem bảng 2.4).
Với lợi thế về nguồn nguyên liệu và lao động của nước ta, nếu có sự
vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương, quy hoạch vùng nguyên
liệu, khuyến khích các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng của mình để tìm
cơ hội phát triển thì mặt hàng có điều kiện phát triển nhanh. Bởi thị trường thế
giới đã và đang có nhu cầu rất lớn, hàng mây tre lá của nước ta đã được người
tiêu dùng tại trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ tín nhiệm. Đây chính là một
cơ hội lớn cần tận dụng và khai thác tối đa.
Từ năm 1931, hàng mây, tre Việt Nam đã có mặt tại Hội chợ Paris. Đến
nay hơn 200 chủng loại hàng mây, tre, cói, thảm đã có mặt khắp năm Châu và
được khách hàng ưa chuộng. Hầu như địa phương nào cũng có làng nghề và
doanh nghiệp làng nghề sản xuất, kinh doanh mặt hàng này. Hà Tây nổi tiếng
về mặt hàng mây tre đan; Ninh Bình, Thanh Hoá nổi tiếng về cói; Vĩnh Long
81
và một số tỉnh phía Nam có nguyên liệu lá buông dồi dào, nên phát triển
mạnh mặt hàng này.
Theo số liệu điều tra, hiện nay cả nước có 713 làng nghề mây tre đan,
trong đó hơn một nửa tập trung tại đồng bằng sông Hồng, với số lượng lao
động khoảng 340 ngàn người. Cả nước có 261 làng nghề cói với 233 ngàn lao
động, trong đó Thanh Hoá có 58 làng. Tại các địa phương phía Nam, nhiều
vùng nông thôn có tre, nứa, lá cọ như các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Hậu
Giang, Vĩnh Long sản xuất các sản phẩm bàn, ghế, giường, tủ, chiếu, thảm,
túi xách,...
Hiện có 4 hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề mây, tre, cói,
thảm. Đó là hợp tác xã; doanh nghiệp tư nhân thuê lại các hộ gia đình trong
làng nghề gia công sản phẩm; Doanh nghiệp tư nhân thuê công nhân tự tổ
chức sản xuất nhóm và người sản xuất đứng ra lập tổ, nhóm sản xuất.
Đa số làng nghề mây, tre, cói, thảm tổ chức sản xuất theo 2 hình thức
đầu. Thị trường tiêu thụ trong nước của mặt hàng này chiếm tới 50%. Nhưng
do sản phẩm thủ công có nguồn gốc từ châu Á ngày càng được ưa chuộng, giá
cả và chất lượng cạnh tranh nên sản lượng xuất khẩu mặt hàng này ngày càng
tăng. Làm thế nào để tổ chức sản xuất các sản phẩm độc đáo là vấn đề đáng
quan tâm của các doanh nghiệp hiện nay. Mặc dù nguồn nguyên liệu mặt
hàng này được trồng bổ sung ở khắp nơi trong cả nước, nhưng do khai thác
không theo quy hoạch và nạn phá rừng gia tăng, nên nguồn nguyên liệu ngày
càng hiếm, Nguyên liệu phải mua từ các vùng xa xôi, nên chi phí vận chuyển
tăng, một số nguyên liệu đã phải nhập từ nước ngoài, trong khi đó là thế mạnh
của Việt Nam như lá buông, song mây,... dẫn đến giá thành cao, chất lượng
sản phẩm không ổn định, do người đi khai thác nguyên liệu chỉ vì nguồn lợi
trước mắt. Hơn nữa, nguyên liệu không được xử lý đúng kỹ thuật, nên chất
lượng giảm sút.
82
Sản xuất hàng mây, tre, cói, thảm chỉ cần những kỹ thuật đơn giản, thủ
công, thông qua quá trình quan sát, học hỏi tại cơ sở sản xuất. Một số công
đoạn như chế biến nguyên liệu và sấy được các doanh nghiệp thực hiện bằng
máy, nhưng các công đoạn khác chủ yếu bằng tay. Các công cụ cần thiết như
dao, kéo, kim khâu, khung dệt thảm cói đều có sẵn tại địa phương. Khi sử
dụng một số mặt hàng mây, tre thường gặp phải một số vấn đề như cong,
vênh, mốc, mọt do điều kiện khí hậu và do lỗi của người sản xuất.
Mặt hàng mây, tre, cói, thảm được tiêu thụ nhiều tại thị trường nội địa,
chủ yếu là chiếu cói, giỏ xách, rổ, rá. Hầu hết các làng nghề bán sản phẩm của
họ tại các đô thị, thông qua trung gian. Những năm 90 trở về trước, hàng mây,
tre, cói, thảm thường được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô và các nước Đông
Âu theo nghị định thư đã được ký giữa các chính phủ. Từ khi thị trường này
tan rã, các doanh nghiệp chuyển hướng sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan, các nước Đông Nam Âu, Pháp, Đức và gần đây là Tây Ban Nha và
Mỹ.
Các mặt hàng mây, tre, cói, thảm ngày càng được thị trường ưa chuộng.
Mặt hàng cói được xem là có lợi cho sức khoẻ cho con người và phù hợp với
sinh hoạt hàng ngày, nên khá phổ biến trên thị trường nước ngoài đặc biệt
thảm và chiếu trên thị trường châu Âu. Ngày nay, các sản phẩm cói như
chiếu, giỏ xách, dép đi trong nhà là những vật dụng khá phổ biến trong các
gia đình Nhật Bản.
83
Bảng 2.4. Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre, cói, thảm
Đơn vị tính: Triệu USD
Kim ngạch xuất khẩu
Tăng %
Năm
92,5 48,8 2000
103,1 11,5 2001
113,2 9,7 2002
141,0 24,5 2003
171,7 21,7 2004
157,3 -9,1 2005
214,1 36,1 2006
221,3 3,3 2007
225,6 1,9 2008
Nguồn: Tổng cục Hải quan, năm 2000-2008
Hoạt động kinh doanh sản phẩm mây, tre, cói, thảm của các nước Châu
Á có tính cạnh tranh cao. Cạnh tranh về mặt hàng tre, cói của Việt Nam là
một số nước trong khu vực; về sản phẩm mây là Philippin và Inđônêxia.
Inđônêxia là nước sản xuất mặt hàng mây lớn nhất thế giới và đã phát triển
nhiều cụm sản xuất tập trung tại đảo Kalimantan và vùng Cirebon. Bên cạnh
đó, các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã đầu tư xây dựng nhiều nhà máy sản
xuất tại Inđônêxia.
Mây, tre, cói, thảm là nghề thủ công dễ phát triển ở Việt Nam. Nó vừa
có điều kiện thuận lợi về nguyên liệu thiên nhiên, vừa có lực lượng lao động
dồi dào, vừa có thị trường khá rộng lớn. Nguồn vốn đầu tư nhỏ nhưng thu
nhập ổn định nên hiện là nghề được quan tâm phát triển để có thể giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Song do chất lượng còn thấp,
chủng loại, mẫu mã đơn điệu nên giá trị không cao. Vì vậy cần nhanh chóng
84
có các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh
tranh trên thị trường thế giới.
2.3.3. Mặt hàng sơn mài
Cách đây trên 2.000 năm, người Việt Nam đã biết dùng sơn để sơn
thuyền và thùng chứa làm từ gỗ để tăng thêm độ bền, chống thấm nước. Sau
này, khi biết dùng màu đỏ pha với nhựa sơn, người ta đã biết dùng sơn để
trang trí đồ thờ, đền chùa và các công trình kiến trúc. Đầu thế kỷ thứ XX, các
hoạ sĩ và nghệ nhân đã cùng nghiên cứu thành công kỹ thuật pha sơn mới với
hình thức thẩm mỹ cao hơn và phong phú hơn. Loại sơn mài này ngày càng
phát triển và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài tăng nhanh (xem bảng 2.5
trang 110). Đa số sản phẩm xuất khẩu sản xuất tại các doanh nghiệp. Trong
quá trình xuất khẩu, muốn cạnh tranh về giá, người ta sử dụng các loại sơn
hoá học được nhập khẩu từ Nhật Bản và nhựa hạt điều thay cho sơn ta. Kỹ
thuật vẽ một lớp cũng được sử dụng nhiều hơn sơn mài truyền thống nhiều
lớp. Trên thế giới nhiều nước làm sơn mài. Một số nước cũng trồng được cây
sơn. Nhưng cây sơn Phú Thọ, Yên Bái có giá trị cao hơn. Nhựa cây sơn Phú
Thọ, Yên Bái tốt hơn nhựa từ các nơi khác. Chính vì vậy, sơn mài Việt Nam
đã nổi tiếng bền, đẹp từ lâu đời. Mỗi năm Việt Nam sản xuất khoảng 400 tấn
sơn, trong khi đó nhu cầu trong nước chỉ cần khoảng 50 tấn, phần còn lại xuất
khẩu sang Trung Quốc. Thế kỷ thứ XVIII, ở Thăng Long (Hà Nội) đã có
phường Nam Ngư chuyên làm hàng sơn mài. Ban đầu sơn mài chỉ có 3 màu,
màu đen gọi là sơn then, màu nâu gọi là sơn cánh gián, màu đỏ gọi là sơn son.
Dần dần, khoa học phát triển, các loại màu sơn phát triển phong phú, tạo cho
sản phẩm sơn mài đẹp lộng lẫy và đa dạng. Ngày nay, những mặt hàng sơn
mài như tranh treo tường, lọ hoa, hộp nữ trang, khay, bàn, bình phong đã trở
nên phổ biến trong gia đình Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.
85
Số lượng làng nghề và doanh nghiệp làng nghề sơn mài không nhiều.
Cả nước có 31 làng nghề sơn mài với khoảng 11 ngàn thợ. Những địa phương
làm nghề sơn mài nhiều như Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Bình Dương,
trong đó nổi tiếng là làng Bình Vọng (Thường Tín) và Đình Bảng (Từ Sơn).
Nghề sơn mài đòi hỏi tay nghề cao, đồng thời, phải có khả năng thẩm mỹ.
Sơn Việt Nam, gọi là sơn ta chất lượng tốt, mềm, dẻo nên dễ trang trí và có
thể đùng để sơn đồ vật có nhiều chi tiết hoặc không phẳng.
Sơn mài truyền thống và sơn mài xuất khẩu thường có các công đoạn
sản xuất khác nhau. Thợ thủ công có tay nghề cao chế tạo sản phẩm thường
độc lập, có xưởng sản xuất riêng và tự quản lý quá trình sản xuất. Có 2 loại
sơn mài xuất khẩu.
- Một là loại sản phẩm có phẩm cấp thấp, sử dụng sơn hạt điều, sản xuất
tại các doanh nghiệp quy mô nhỏ hoặc các hộ gia đình. Các doanh nghiệp quy
mô nhỏ thành lập tại các làng nghề và thường thuê khoảng 30- 40 công nhân
tham gia vào các công đoạn khác nhau. Hộ sản xuất thực hiện gia công sản
phẩm theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trong các
công đoạn sản xuất nhất định.
- Loại thứ hai là sản phẩm có mẫu mã đẹp, được sử dụng như những đồ
nội thất chất lượng cao. Ngày nay, các doanh nghiệp đang sử dụng nhiều loại
máy móc vào quá trình sản xuất, nên năng suất và chất lượng cao hơn nhiều.
Sản phẩm sơn mài rất đa dạng, gồm các loại khay, hộp, lọ, đĩa, đồ dùng
nội thất, tranh,... Khu vực xung quanh Hà Nội thường sản xuất hộp, khay, đĩa
và tranh. Các tỉnh phía Nam, khu vực xung quanh T.P Hồ Chí Minh thường
sản xuất các sản phẩm đồ nội thất và đồ dùng hàng ngày. Gần đây, do áp dụng
một số kỹ thuật mới, đã tạo ra nhiều mẫu mã trang trí và nội thất đẹp, đáp ứng
nhu cầu thị trường nước ngoài. Những sản phẩm sơn mài sản xuất theo
phương pháp và kỹ thuật truyền thống có bề mặt bóng sâu, hoạ tiết vẽ trầm và
nhiều lớp. Trong khi các sản phẩm sản xuất theo kỹ thuật mới hoặc sử dụng
86
nguyên liệu mới nhằm giảm thời gian và chi phí sản xuất, thường có bề mặt
bóng, màu sắc sặc sỡ hơn. Có một số sản phẩm được sản xuất bằng cách kết
hợp gỗ với sơn mài, phát huy tối đa đặc tính mềm và bóng của sơn mài Việt
Nam. Tranh sơn mài Việt Nam mang nét độc đáo riêng và khá phổ biến đối
với khách du lịch nước ngoài. Tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và
một số thành phố lớn, các doanh nghiệp thường xây dựng nên nhiều gallery
để trưng bày và bán tranh sơn mài của các họa sĩ nổi tiếng với giá khá cao.
Khách mua thường là người nước ngoài đến du lịch hoặc công tác tại Việt
Nam.
Các sản phẩm sơn mài được sản xuất không chỉ đáp ứng nhu cầu của
khách tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mà còn được tiêu thụ tại một số
địa phương khác. Có thể nói, nhu cầu về các sản phẩm truyền thống chính là
Huế - thành phố được công nhận là di sản thế giới và Hội An, để sử dụng
trong các ngôi nhà cổ và làm hàng lưu niệm cho du khách. Thị trường trong
nước gần đây nhu cầu cũng tăng lên, bởi vì cuộc sống của nguời dân được cải
thiện nhiều. Người Việt Nam sử dụng sản phẩm sơn mài trong cuộc sống
hàng ngày và trang trí nội thất ngày càng nhiều. Những sản phẩm có tính hữu
ích thường bán chạy hơn sản phẩm để trưng bày. Bên cạnh việc nghiên cứu
giới thiệu sản phẩm để mở rộng thị trường mới, cần nghiên cứu sâu hơn nhu
cầu và thị hiếu của thị trường truyền thống để phát triển thêm các mặt hàng
mới, các mẫu sản phẩm mới, tăng nhanh số lượng xuất khẩu.
Trong tổng số 31 làng nghề sơn mài, thì có 9 làng nghề đã có sản phẩm
bán ra thị trường thế giới. Trực tiếp kinh doanh mặt hàng này chủ yếu là các
doanh nghiệp. Thị trường chính là Hàn Quốc, Đài Loan, châu Âu. Tuy nhiên,
các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là những mặt hàng sản xuất theo phương
pháp và kỹ thuật mới, nguyên liệu mới. Sản phẩm sơn mài truyền thống hiện
nay khá hiếm trên thị trường. Đa số các sản phẩm ở các cửa hàng bán đồ lưu
niệm trong nước là các sản phẩm sử dụng sơn hoá học hoặc sơn hạt điều. Các
87
sản phẩm này được xuất khẩu sang một số nước châu Âu nhiều hơn là xuất
khẩu sang Nhật Bản, nơi có nhu cầu rất lớn về hàng sơn mài cao cấp.
Bảng 2.5. Kim ngạch xuất khẩu hàng sơn mài mỹ nghệ
Đơn vị tính: Triệu USD
Kim ngạch xuất khẩu
Tăng %
Năm
2000 36,2
2003 59,6 64,6
2004 90,5 51,8
2005 89,9 - 0,1
2006 119,5 32,9
2007 125,1 4,6
2008 132,6 5,8
Nguồn: Tổng cục Hải quan, năm 2000- 2008
Sơn là một loại nguyên liệu đặc biệt chỉ có ở một số nước Châu Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam.
Mỗi nước có một loại sơn nguyên liệu khác nhau, tạo nên tính đa dạng của sản
phẩm sơn mài. Sơn mài Nhật Bản được coi là có chất lượng cao nhất và đắt
nhất.
Có thể nói sơn mài là một mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, có đẳng cấp
nghệ thuật và mang đậm nét văn hóa dân tộc. Điều kiện về nguyên liệu, lao
động đều ưu đãi cho khả năng phát triển của mặt hàng. Trong khi nhu cầu của
thị trường thế giới vẫn cao. Trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu tăng lên
4 lần từ năm 2000 đến năm 2008. Đây là mặt hàng mang lại lợi ích kinh tế lớn
cho người cung cấp nguyên liệu, người sản xuất, doanh nghiệp và xã hội. Mặt
hàng sơn mài thường được dùng hoặc trưng bày ở những nơi sang trọng, có giá
trị quảng bá về hình ảnh đất nước, con người và nghệ thuật dân tộc Việt Nam.
88
Vì vậy, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm giải quyết vấn đề sử dụng nguyên
liệu, tránh cong vênh, xúc tiến thị trường, giúp các doanh nghiệp có nhiều cơ
hội quảng bá sản phẩm sơn mài Việt Nam sang các nước khu vực và thị trường
thế giới.
2.3.4. Hàng thêu ren
Nghề thêu ren ở Việt Nam có lịch sử phát triển cách đây khoảng 700
năm. Kết quả điều tra cho thấy, số làng nghề thêu ren hiện có 341 làng, 2/3
trong số đó nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng và 20% là làng của
người dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc.
Số lượng thợ trong nghề thêu ren khoảng 130 ngàn người. Trước đây,
mặt hàng này chỉ phục vụ người giàu sang, quyền quý. Người thợ thêu rất
khéo tay, họ biết hoà sắc hàng chục loại chỉ màu cho những bức thêu tuyệt
mỹ. Các sản phẩm thêu rất phong phú, đa dạng. Những hình ảnh hoa, lá, cây,
con, cuộc sống, lịch sử, chân dung đều được những người thợ tài ba thể hiện
trên các chất liệu vải, lụa để sản xuất quần áo, gối, đệm, kimônô, khăn bàn,
khăn trải giường, tranh tường. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nghề thêu bắt
nguồn từ làng Quất Động (Hà Nội). Trong danh mục khu phố cổ Hà Nội có
phố Hàng Thêu chuyên bán đồ thêu. Vùng Xuân Nẻo (Hải Dương) sản xuất
các loại tranh thêu mang tính đơn giản, bình dị được bán với giá phổ thông.
Làng thêu Văn Lâm (Ninh Bình) cũng đã có thời nổi tiếng. Còn nghề ren
chính thức sau này mới xuất hiện do du nhập từ Pháp sang cách đây chỉ
khoảng 100 năm. Huế xưa và nay vẫn là một thành phố cố đô, nơi quy tụ nghề
thêu và nhiều nghề thủ công truyền thống khác. Nghề thêu ở Huế mang tính
chuyên nghiệp và tồn tại độc lập từ lâu, nhất là thế kỷ thứ XIX, dưới triều đại
nhà Nguyễn. Tại đây đã có những bức tranh tuyệt mỹ, đặc sắc do các hoạ sĩ
tài hoa phác thảo . Trường phái này đang được phục hồi và phát triển mạnh tại
một số cơ sở ở Đà Lạt được tổ chức với quy mô lớn. Làng thêu tranh XQ có
89
những gian hàng chi nhánh tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, cố đô Huế.
Một số sản phẩm mang tính nghệ thuật cao, được thể hiện trong thời gian dài
với nhiều nghệ nhân, có giá trị lớn lên đến vài chục ngàn USD. Trước đây,
nghề thêu ren có kỹ thuật đơn giản, dùng chỉ sợi gồm 5 màu, đến nay dùng tới
50 - 60 loại chỉ khác nhau.
Cũng như nhiều ngành nghề khác, hộ gia đình là đơn vị sản xuất cơ bản
trong ngành thêu ren. Các công ty kinh doanh, sản xuất thường chỉ thực hiện
giai đoạn hoàn thiện sản phẩm như làm sạch, in bao bì, đóng gói,... Một số
nơi tổ chức thành cụm sản xuất, nhưng quy mô nhỏ. Theo điều tra, tiêu thụ tại
thị trường nội địa, chủ yếu là Hà Nội (42%) và Thành phố Hồ Chí Minh
(18%).
Về xuất khẩu, trong những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, mặt hàng thêu
ren được xuất khẩu nhiều sang Liên Xô và Đông Âu. Từ năm 2000 đến năm
2008, kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ nhanh. Mặc dù xuất khẩu được coi
là chính, nhưng các hộ gia đình và doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ gặp khó
khăn về đánh giá thị trường.
Bảng 2.6. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thêu ren
Đơn vị tính: Triệu USD
Kim ngạch xuất khẩu
Tăng %
Năm
2000 - 50,5
2003 20 60,6
2004 51,1 91,6
2005 -16,8 78,4
2006 25,1 98,1
2007 11,4 109,3
2008 8,5 118,6
Nguồn: Tổng cục Hải Quan, năm 2000- 2008
90
Nghề thêu ren Việt Nam có ảnh hưởng kỹ thuật của Pháp, có những kỹ
thuật rất độc đáo mà sản phẩm của Trung Quốc không có. Vấn đề cần chú ý
để phát triển trong tương lai là thợ thêu trong nước cần tránh sao chép các
mẫu mã nhập vào và tập trung thiết kế theo truyền thống dân tộc. Các sản
phẩm thêu ren Trung Quốc, Ấn Độ, Băng-la-đét cũng phổ biến trên thị trường
thế giới. Theo các chuyên gia về thêu ren, kỹ thuật thêu của thợ thủ công Việt
Nam rất cao. Nếu mẫu mã, chất lượng sản phẩm được cải thiện thì sản phẩm
thêu ren Việt Nam có khả năng cạnh tranh với hàng hóa của nước khác.
So sánh kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng thêu ren với kim ngạch xuất
khẩu của nước ta nói chung và ngành hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng thì tỷ
trọng của mặt hàng này không lớn. Song đây là một ngành hàng có tỷ trọng
gia công lao động trong hàng hóa khá cao, là nơi thể hiện bàn tay khéo léo,
đức tính cần cù thanh lịch của người phụ nữ Việt Nam; được kết tinh trong
những sản phẩm có giá trị cao, thể hiện tinh hoa nghệ thuật đặc sắc dân tộc.
Sản phẩm chủ yếu của mặt hàng thêu là ga trải giường, gối, khăn trải
bàn, rèm các loại, quần áo, các loại thời trang cao cấp,... xu hướng của mặt
hàng này đang giảm dần nét nghệ thuật sắc sảo cổ truyền, thay vào đó là
những đề tài đơn giản hơn, thời gian sử dụng ngắn hơn, thậm chí còn kết hợp
giữa thêu thủ công và thêu máy. Đây là một mặt hàng cần duy trì và phát triển
hơn nữa phù hợp với tiềm năng của đất nước, bởi đã hội tụ đủ hai yếu tố là
tiềm năng và hiệu quả kinh tế của mặt hàng.
Nhà nước cần có các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia để
quảng bá nghệ thuật thêu ren truyền thống của Việt Nam và quảng bá hình
ảnh những đôi bàn tay khéo léo của các nữ nghệ nhân tài hoa tới người tiêu
dùng quốc tế để có thế phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thêu ren
Việt Nam đạt con số 200 triệu USD vào năm 2015.
91
2.3.5. Đồ gỗ mỹ nghệ
Nghề gỗ mỹ nghệ có từ lâu đời, nhưng đến thế kỷ thứ VI mới phát
triển. Trong giai đoạn từ thế kỷ thứ X - XIV, vào thời hưng thịnh của các triều
đại phong kiến, cùng với nhu cầu xây dựng và tu sửa đền, chùa, nhiều làng
nghề gỗ đã ra đời.
Chạm khắc gỗ là nghề thủ công mỹ nghệ lâu đời và nổi tiếng ở Việt
Nam. Không ít sản phẩm do các thế hệ thợ mộc chạm thủ công tạo ra không
chỉ lừng danh một thời, mà còn trở thành những cổ vật được coi là tài sản vô
giá của quốc gia. Dù công trình kiến trúc văn hoá, đồ thờ, tượng gỗ hay vật
dụng hàng ngày, các loại hình sản phẩm gỗ chạm khắc dù đơn giản hay phức
tạp, dù khoáng đạt hay tinh vi lộng lẫy, rực rỡ, tất cả đều chỉ nhằm thoả mãn
tối đa nhu cầu sinh hoạt trong đời sống vật chất cũng như tinh thần tâm linh
của con người. Sản phẩm gỗ được chạm trổ nhiều loại, đa phần phục vụ các
nhu cầu tín ngưỡng, thờ phụng như hoành phi, câu đối, sập gụ, tủ thờ, tủ chè,
kiệu, bàn ghế. Nhiều sản phẩm được chạm Long, Lân, Quy, Phượng tinh xảo.
Ngày nay, các sản phẩm gỗ chạm không những được thấy ở mọi nơi trong
nước, mà còn được xuất khẩu tới nhiều quốc gia trên thế giới. Nơi nổi tiếng
và có nhiều gia đình chuyên nghề chạm khắc gia truyền từ bao đời nay là làng
La Xuyên (Nam Định), Lỗ Khê (Hà Nội), Nội Duệ, Đồng Kỵ (Bắc Ninh),
Kim Bồng (Quảng Nam).
Nghề gỗ mỹ nghệ phát triển khá mạnh ở các đô thị cổ như Hà Nội, Huế
đặc biệt những nơi có nhiều di tích lịch sử văn hoá. Có nhiều làng nghề gỗ
nằm rải rác trong khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long nhưng không được phân bố đều trên toàn quốc. Đa số làng nghề chỉ làm
một vài mặt hàng cho thị trường trong nước và xuất khẩu: tượng phật, đồ thờ
hay quà lưu niệm. Sản phẩm gỗ mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam có khả
năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về chất lượng và giá cả.
92
Hiện nay, cả nước có 342 làng nghề gỗ mỹ nghệ với khoảng 100 ngàn
thợ. Các địa phương có nhiều làng nghề gỗ nhất là Bắc Ninh, Hà Tây, Thái
Bình, Ninh Bình, Nam Định, Cần Thơ.
Kỹ thuật làm nghề gỗ theo mô hình học việc. Trong xưởng thường có
người có tay nghề cao làm việc cùng với hàng chục thợ học việc. Người học
việc vừa học vừa làm 2 - 3 năm. Một số làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
phát triển mạnh, thuê thợ thủ công tay nghề cao, quản lý tất cả các công đoạn
sản xuất, có hệ thống phân phối và tiếp cận thị trường ổn định. Tuy nhiên, đa
số các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề chỉ có cơ sở sản xuất quy mô nhỏ
hoặc hộ gia đình làm gia công. Một số cơ sở hợp thành hợp tác xã và thực
hiện kinh doanh tập thể. Tuy nhiên, do nhiều khiếm khuyết trong quản lý,
năng lực của các đơn vị này còn hạn chế, nên hợp tác xã không phát triển
mạnh. Thực chất hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng
này có điều kiện phát triển và mở rộng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thành
phố vừa tham gia sản xuất, vừa thực hiện quản lý và tiếp thị một mảng lưới cơ
sở gia công (gồm các cơ sở sản xuất và hộ gia đình) tại các làng nghề. Các sản
phẩm gỗ cơ bản được chia thành các loại sản phẩm như phục vụ xây dựng, đồ
gỗ nội thất thông thường, đồ gỗ nội thất cao cấp, đồ gỗ chạm khắc thông
thường, đồ thờ cúng và các mặt hàng khác.
Theo báo cáo của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, nguyên liệu gỗ
để sản xuất mặt hàng này phải nhập khẩu lên đến 90%. Điều này chứng tỏ
nghề gỗ đang đứng trước thách thức lớn về nguyên liệu. Khối lượng tiêu thụ
sản phẩm gỗ trong nước là rất lớn. Các mặt hàng như bàn ghế, giường, tủ,
Salông,... là mặt hàng cao cấp đắt tiền. Ngày nay, việc sở hữu các sản phẩm
gỗ trong gia đình đôi khi cũng là một thước đo sự sung túc của gia đình.
Nhiều hoa văn chạm, khắc có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người Việt Nam
thích chạm khắc, chạm càng nhiều giá càng đắt. Các bộ bàn ghế, tủ được
93
chạm trổ và khảm trai thường bán chạy hơn. Nhu cầu sử dụng lớn trong đó có
cả cá nhân và các cơ quan công sở.
Trước những năm 90 của thế kỷ trước, sản phẩm gỗ chủ yếu được xuất
sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ năm 1996, sản phẩm gỗ bắt đầu được
xuất sang Nhật Bản, Đài Loan, EU và Mỹ. Gần đây, thị trường Mỹ đã nhập
khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam với số lượng ngày càng lớn (xem bảng 2.7 ).
Bảng 2.7. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gỗ
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm
Kim ngạch xuất khẩu
Tăng %
2000 311,4
2003 608,9 95,5
2004 1.101,7 80,9
2005 1561,4 41,7
2006 1943,1 24,4
2007 2.404,1 23,7
2008 2.829,3 17,6
Nguồn: Tổng Cục thống kế - Tổng Cục Hải quan, năm 2000- 2008
Trên đây là số liệu kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ. Thống kê không
tách đồ gỗ mỹ nghệ và đồ gỗ gia dụng. Tuy nhiên, theo thống kê mới, một số
loại sản phẩm gỗ không tính vào hàng thủ công mỹ nghệ. Vì vậy số liệu kim
ngạch xuất khẩu đồ gỗ mỹ nghệ sẽ thấp hơn nhiều con số vừa nêu.
Trung Quốc và nhiều nước ASEAN, APEC cũng đang tăng trưởng rất
nhanh về sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ nội thất. Chẳng hạn, sản phẩm làm bằng
gỗ trắc, gụ tếch của Trung Quốc, làm bằng gỗ cao su của Malayxia và Thái
Lan. Mỗi nước đều tập trung vào những nét độc đáo và đặc điểm nguyên liệu
riêng của họ. Để có thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới, cần phát huy
tối đa nét độc đáo của đồ nội thất Việt Nam.
94
Thiết kế mẫu mã và hoa văn truyền thống thường dùng trong các chùa
hay chạm khắc tượng phật thường được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Các sản phẩm cao cấp thường chịu ảnh hưởng của mẫu mã Trung Quốc.
Tuy nhiên, phong cách hiện đại của phương Tây do khách hàng đặt dựa trên
catalogue cũng được áp dụng trên các sản phẩm gia dụng và mỹ nghệ xuất
khẩu sang châu Âu, Mỹ. Nói cách khác, mẫu mã truyền thống chỉ dùng trong
chùa chiền. Cần nâng cao chất lượng nguyên liệu gỗ bằng cách sử dụng các
kỹ thuật xử lý tiên tiến, vừa tăng độ bền, vừa tăng vẻ đẹp của gỗ. Cải tiến
cách kết cấu, lắp ghép các bộ phận của sản phẩm làm cho sản phẩm chắc chắn
hơn. Cần sáng tạo thêm mẫu mã, hoa văn trong các sản phẩm chạm khắc,
giảm sự cầu kỳ, rắc rối và nặng nề, giảm chi phí nguyên liệu vừa tăng vẻ đẹp
của sản phẩm.
Hiện nay, đồ gỗ là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần phải phát triển
nhanh, cần nghiên cứu và phát triển mẫu mã đáp ứng tốt nhu cầu thị trường,
phù hợp với sinh hoạt hiện đại của các nước. Do nguyên liệu hạn chế, cần
nghiên cứu:
- Đơn giản hoá các chi tiết chạm khắc, tạo phong cách trang nhã, sang
trọng;
- Cải tạo phương pháp xử lý nguyên liệu gỗ, bề mặt sản phẩm gỗ;
- Đa dạng hoá nguyên liệu gỗ.
Một vấn đề thách thức lớn nhất của nước ta hiện nay trong sản xuất và
xuất khẩu đồ gỗ là thiếu nguyên liệu trầm trọng. Với khoảng 90% nguyên liệu
gỗ phải nhập khẩu, trong khi đó, giá gỗ trên thế giới hiện nay rất cao. Theo
tính toán của các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ, năm 2008 các làng nghề và
doanh nghiệp làng nghề gỗ phải bỏ ra khoảng 1,2 - 1,4 tỷ USD để nhập khẩu
trên 6 triệu mét khối gỗ chưa kể các nguyên phụ liệu khác. Chi phí nguyên
liệu thường chiếm khoảng hơn 50% giá thành. Với tình trạng này, cần tìm
mọi giải pháp để từng bước khắc phục tình trạng thiếu gỗ hiện nay.
95
Giải pháp quan trọng nhất là phải trồng rừng. Thực tế chứng minh,
trồng rừng sau khoảng 10 năm mới có thể thu hoạch. Một số nước ASEAN
như Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia rất chú trọng trồng rừng. Việt Nam cũng
đã có kế hoạch trồng rừng, nhưng kết quả còn hạn chế. Theo chiến lược Lâm
nghiệp quốc gia, giai đoạn 2006 - 2020, đặt mục tiêu phát triển 825 ngàn ha
rừng nguyên liệu, với sự kết hợp các loại cây có chu kỳ khai thác từ 7 - 10
năm và loại từ 10 - 15 năm. Tuy nhiên, Nhà nước cần có chương trình hỗ trợ.
Nếu không giải quyết đựợc vấn đề nguyên liệu thì ngành sản xuất đồ gỗ
không mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
2.4. Cơ cấu thị trường hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
2.4.1. Những yếu tố tác động tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu thị
trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam: Có bốn yếu tố cơ bản
- Thứ nhất: Thị trường hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam bị tác động
mạnh mẽ bởi yếu tố chính trị của nước sở tại mà hàng Việt Nam xuất khẩu
tới. Đó là sự ổn định chính trị hay bất ổn; đó là mối quan hệ ngoại giao, kinh
tế, thương mại ở các cấp độ khác giữa nước ta với nước nhập khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ của nước ta.
Một minh chứng là thời kỳ chiến tranh lạnh, hàng xuất khẩu thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam xuất khẩu sang các xã hội chủ nghĩa chiếm tới 90% do
có mối quan hệ chính trị - kinh tế - thương mại mật thiết và chiến lược giữa
nước ta với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Còn thị trường các nước Tư
bản chủ nghĩa thì ngược lại.
Ngày nay, với các nước, Việt Nam có mối quan hệ mật thiết về ngoại
giao, kinh tế, thương mại thì các mặt hàng xuất khẩu nói chung và hàng thủ
công mỹ nghệ nói riêng vào các thị trường này có điều kiện phát triển. Ví dụ:
thị trường Mỹ; khi quan hệ ngoại giao giữa Mỹ với Việt Nam được thiết lập ở
cấp đại sứ, đặc biệt khi 2 nước ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
96
đến nay, sau gần 10 năm, hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta xuất vào Mỹ
tăng gần 100 lần.
Điều đó khẳng định, tình hình chính trị của nước sở tại và mối quan hệ
ngoại giao, thương mại với nước ta là một yếu tố quan trọng đặc biệt để mở
đường hình thành cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu nói
chung và với hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ nói riêng.
- Thứ hai: Bản sắc văn hóa dân tộc của một đất nước có tác động tới cơ
cấu thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước ta. Bản sắc văn hóa gắn
liền với thị hiếu tiêu dùng, tới tập quán, gam màu sắc trong sử dụng đồ dùng
sinh hoạt. Điều này được thể hiện rõ nét bởi nhu cầu nhập khẩu khác nhau
giữa nền văn hóa đạo Hồi và nước có nền văn hóa Thiên chúa giáo; giữa các
nước Bắc và Nam Âu; giữa Châu Âu và Châu Á; giữa đất nước có đa số
người da đen và da trắng,…
Cụ thể nhu cầu tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ của các nước Châu
Âu cao hơn nhiều so với các nước Châu Á, Châu Phi.
Mặt hàng thêu nghệ thuật chỉ có thể được tiêu thụ với số lượng lớn tại
thị trường Châu Âu.
Điều này cho chúng ta thấy, trong quá trình xây dựng thị trường xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cần đặc biệt quan tâm đến nền văn hóa của nước
đang nghiên cứu. Để xác định được nhu cầu, thị hiếu và quy mô thị trường, cơ
cấu mặt hàng khác với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cùng loại; hàng thủ công
mỹ nghệ mang đậm nét văn hóa dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa Á Đông.
Vì vậy, mỗi loại hàng hóa chỉ có thể vào được thị trường của một nước khi
phù hợp cơ bản với yêu cầu của nền văn hóa nước đó.
Với những đòi hỏi về yếu tố văn hóa riêng, cho mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc đó có tác động trở lại, làm cho hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của nước
ta ngày càng đa dạng, phong phú và mang đậm nét văn hóa của nhiều dân tộc
trên thế giới.
97
- Thứ ba: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ phụ
thuộc nhiều vào yếu tố kinh tế gồm: chính sách thuế quan, các sắc thuế liên
quan đến hàng hóa, hàng rào bảo hộ và sức mua của cộng đồng xã hội.
Yếu tố kinh tế ngày nay đang từng bước được cởi mở, nới rộng với
ngành hàng thủ công mỹ nghệ trong điều kiện hội nhập toàn cầu. Các rào cản
về thuế quan dần dần được dỡ bỏ, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng giảm dần,
còn lại là sức mua, mối quan hệ giá cả và các lợi ích có liên quan.
Ví dụ: với thị trường Nhật Bản, hàng hóa được chào bán với giá cao
hơn, nhưng yêu cầu về các chỉ tiêu chất lượng và các điều kiện khác khó khăn
hơn nhiều so với các nước và khu vực khác.
Những nước có nhu cầu tiêu thụ lớn nhưng do nền kinh tế không phát
triển mạnh nên thường chỉ chấp nhận giá rẻ như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Nam Âu,…
- Thứ tư: Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên là một yếu tố tác động tới
cơ cấu hàng hóa, quy mô thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước
ta.
Hàng thủ công mỹ nghệ nói chung cồng kềnh, chi phí vận chuyển cao.
Vì vậy, khoảng cách giữa nước ta và nước cần xây dựng thị trường là một yếu
tố cần quan tâm vì nó tác động trực tiếp tới giá thành nhập khẩu của khách
hàng.
Ví dụ: Một container 20’ chỉ chứa được trị giá hàng thủ công mỹ nghệ
trung bình là 5.000 USD; song chi phí vận chuyển đường biển tới Brazin,
Argentina, Hoa Kỳ,… từ 3.000 đến 4.000 USD trong khi cước phí lô hàng
tương tự đi các cảng chính Châu Âu chỉ có 1.500 đến 2.000 USD. Đây là một
trong những lý do hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu vào Châu Âu
tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn nhất hiện nay. Đối với hàng thủ công mỹ
nghệ, giá xuất khẩu theo giá CIF có tỷ trọng chi phí vận tải, bao bì rất cao, có
trường hợp chiếm tới 50 đến 70%. Vì vậy, việc cải tiến mẫu mã, tăng số
98
lượng hàng hóa trong một đơn vị bao bì, giảm cước phí vận tải biển bằng
nhiều phương thức khác nhau là một điều kiện quan trọng để thiết lập cơ cấu
thị trường cho từng khu vực trên thế giới với hàng thủ công mỹ nghệ xuất
khẩu của nước ta.
Bên cạnh đó, điều kiện khí hậu, độ ẩm,… cũng tác động mạnh mẽ tới
khả năng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ví dụ: những nước có khí hậu
khô hanh thì hàng sơn mài có giá nhập khẩu khá cao, do phải xử lý nguyên
liệu, nâng cao chất lượng,… để tránh cong vênh. Những nước có khi hậu ẩm
thì hàng mây tre lá khó tiêu thụ hơn vì cần công nghệ xử lý nguyên liệu cao
hơn bình thường.
2.4.2. Quá trình hình thành, chuyển dịch và cơ cấu thị trường xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta
Là một nước nông nghiệp, khí hậu nóng ẩm tạo cho đất nước một
nguồn nguyên liệu dồi dào cung cấp cho ngành hàng thủ công mỹ nghệ. Vì
vậy, mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là mây tre và gốm sứ được ông cha
ta sản xuất từ lâu đời và được xuất khẩu sang các nước rất sớm.
Cho đến nay thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam đã thay đổi và mở rộng nhiều so với thời kỳ bao cấp. Thời kỳ trước năm
1990 của thế kỷ XX, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu
sang Liên Xô, các nước Đông Âu và sang các nước láng giềng như Thái Lan,
Trung Quốc, thì những năm gần đây thị trường xuất khẩu mặt hàng này đã
được mở rộng (xem bảng 2.8). Hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ của làng
nghề Việt Nam đã có mặt tại hơn 130 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới
(năm 1996 là 50 nước và vùng lãnh thổ). Hiện nay, có 3 khu vực thị trường
lớn cho hàng thủ công mỹ nghệ là EU, các nước Đông Á, Đông Nam Á và
Hoa Kỳ.
99
Liên minh châu Âu EU đang là thị trường có tầm quan trọng nhất. Năm
2005, trong số 15 thị trường xuất khẩu chủ yếu hàng thủ công mỹ nghệ, thì 7
nước thuộc EU chiếm tới 42% (khoảng 241 triệu USD) và gấp 4 lần xuất khẩu
sang Nhật Bản hay Hoa Kỳ. Trước đây, thị trường Nhật Bản được xếp thứ nhất
trong số những thị trường xuất khẩu mục tiêu lớn, nhưng hiện nay dẫn đầu là
Mỹ và Pháp. Mỹ vẫn được xem là thị trường có mức tăng trưởng ấn tượng từ
thời kỳ 1999 đến nay và thị trường này cũng có nhiều tiềm năng tăng trưởng
trong tương lai. Trong gần 10 năm, từ khi 2 nước ký Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam
sang Mỹ đã tăng gần 100 lần. Trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á, thì Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông cũng là những thị trường có triển vọng
lớn. Thời gian gần đây, hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và doanh nghiệp
làng nghề Việt Nam đã có mặt tại thị trường Trung Đông và Mỹ la tinh, nhưng
số lượng chưa nhiều. Nếu có chính sách và giải pháp hợp lý về công tác xúc
tiến thương mại, thì thời gian tới hàng thủ công mỹ nghệ sẽ có chỗ đứng quan
trọng tại những thị trường đầy tiềm năng này. Ngoài những thị trường kể trên,
thị trường Đông Âu, trong đó có thị trường Nga cũng đã nhập khẩu trở lại hàng
thủ công mỹ nghệ.
100
Bảng 2.8. Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của doanh
nghiệp làng nghề
Đơn vị tính: triệu USD
TT Nước, khu vực
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 1999
14,9
1 Pháp
30,4
30
37,4
35,4
59,5
69,3
81,9
31,7
2 Nhật
49,7
51,3
52,1
52,3
48,9
60,6
70,14
0,7
3 Mỹ
1,7
3,2
10,7
28
53,2
60
76,4
5,8
4 Đức
7,2
8,2
10,5
18,2
45,2
50,3
62,58
1
5 Bỉ
2,7
3,5
3,3
4,9
10,8
38,3
36,0
TT Nước, khu vực
Năm 1999
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2006
12,2
6 Hồng Kông
16,9
16,2
21,6
25,3
25,5
14,96
27
5
7 Hàn Quốc
6,3
9,2
11,7
18,7
23,5
22,3
1,2
8 Anh
2,7
3,7
5,8
8,1
23,1
21,4
22,6
0,8
9 Úc
2
3,5
5,5
8,5
24,2
25,0
27,6
3
10 Tây Ban Nha
4,3
5,2
5,5
6,6
13,2
18,8
17,9
21
15,3
62,2
60,2
11 Đài Loan
20,4
23,4
17,3
15,8
2
12 Hà Lan
1,4
2,2
3,5
6,1
16,6
18,78
16,3
3,2
13 Italia
2,3
4,5
5,7
6,3
10,3
16,12
10,1
0,7
14 Thụy Điển
1,4
1,6
2
2,6
6,4
5,9
7,56
1,2
15 Thái Lan
2,7
1,4
1,8
2,1
2,3
8,5
7,2
16 Các nước khác
Tổng giá trị
200,4
287,5
308,9
340,4
397,3
515,8
569
630,4
Nguồn: Thống kê của cục Công nghệ Thông tin - Tổng cục Hải quan, năm 1999 - 20007
2.4.3. Vai trò Nhà nước và doanh nghiệp với cơ cấu thị trường xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ
Như tác giả đã phân tích ở phần 2.4.1 cơ cấu thị trường xuất khẩu phụ
thuộc bởi bốn yếu tố cơ bản trong đó có yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá.
101
Vì vậy, để thúc đẩy thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt
Nam, trước hết cần xác định rõ khả năng cung cấp hàng hoá và nhu cầu của từng
khu vực thị trường làm cơ sở để các cấp, các ngành hỗ trợ phát triển thị trường.
+ Ở cấp Nhà nước: cần có tập trung đầu tư hơn nữa cho chương trình
xây dựng thương hiệu Quốc gia nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam, với tiềm năng thế mạnh sản xuất hàng hoá đa dạng, thân thiện với
môi trường bằng các hoạt động đối ngoại, xúc tiến thương mại quốc gia, cần
đầu tư hơn nữa cho hoạt động của các cơ quan thương vụ Việt Nam tại nước
ngoài, tập trung trọng điểm một số khu vực có tiềm năng lớn như Hoa Kỳ,
Nhật Bản, EU, Nga và SNG tạo đà cho các doanh nghiệp xâm nhập vào các
thị trường tiềm năng.
Một minh chứng cho vai trò của Nhà nước tác động tới những thị
trường trọng điểm. Năm 1995, Mỹ thực hiện bình thường quan hệ với Việt
Nam; Năm 2001 Hiệp định song phương được ký kết. Nhận thấy Mỹ là một
thị trường nhập khẩu dệt may và thuỷ sản rất lớn, Nhà nước đó tập trung hỗ
trợ doanh nghiệp xúc tiến xâm nhập thị trường này. Nhiều tổ chức xúc tiến
thương mại, Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp hội xuất khẩu Thủy sản Việt
Nam,… Hỗ trợ doanh nghiệp khảo sát thị trường, tham gia nhiều Hội chợ
quốc tế về hàng may mặc, thuỷ sản tại nhiều thành phố lớn trên đất nước Hoa
Kỳ. Vì vậy, hàng dệt may và thuỷ sản tăng lên với tốc độ nhanh. Từ chỗ kim
ngạch xuất khẩu không đáng kể, năm 2008, hàng may mặc nước ta đó xuất
khẩu vào Hoa Kỳ trên 5 tỷ USD, bằng gần 60% kim ngạch xuất khẩu may
mặc cả nước. Mặt hàng thủy hải sản từ trị giá rất nhỏ, đó đạt gần 800 triệu
USD trong năm 2008.
Ở đây, vai trò của Nhà nước đó có tác dụng thiết thực đẩy mạnh kim
ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam vào Hoa Kỳ trong 10 năm qua. Cần hỗ trợ
các doanh nghiệp vươn lên làm chủ mẫu mã, công nghệ mới kết hợp với thủ
công truyền thống, giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm.
102
+ Đối với các doanh nghiệp và người sản xuất: cần hiểu nhu cầu, thị
hiếu của từng khu vực thị trường để chủ động xâm nhập, chào bán, cải tiến
mẫu mã, nâng tầm quy mô sản xuất để tạo ra nhiều hàng hoá có giá trị thương
mại cao. Cần chủ động tận dụng mọi cơ hội để tiếp cận thị trường.
Với doanh nghiệp, chủ động tìm kiếm thị trường là một yêu cầu quan
trọng cần phải đặt ra.
Vào cuối những năm 90, ngành hàng thủ công mỹ nghệ dần dần được
phục hồi, các cơ sở sản xuất trong nước bắt đầu có đầu ra, một số làng nghề
hoạt động trở lại. Một số doanh nghiệp đã chủ động ra nước ngoài, tham gia
trưng bày hàng hoá tại những hội chợ quốc tế lớn về hàng thủ công mỹ nghệ
như Frankfurk/M tại Cộng hoà Liên bang Đức bước đầu chỉ có 3 - 4 doanh
nghiệp tham gia, với sự thành công của một số doanh nghiệp đi đầu, ngày
càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia và tiếp tục tìm kiếm được
nhiều cơ hội kinh doanh, đến năm 2008 tại Hội chợ này đó có tới trên 50 công
ty Việt Nam có gian hàng, với nhiều mẫu mã phong phú đó gúp phần tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào thị trường
Châu Âu và các Châu lục khác.
Vì vậy, với quan điểm của tác giả từ thực tiễn cho thấy: trong điều kiện
nền kinh tế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vai trò của Nhà nước với
quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu trong đó có
thị trường thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là rất quan trọng, có tác dụng tạo ra
“cú hích” thị trường, góp phần mở đường cho các Doanh nghiệp Việt Nam
xâm nhập thị trường nhanh hơn hiệu quả hơn.
Ngược lại, doanh nghiệp cần phát huy tinh thần chủ động không chờ
đợi sự hỗ trợ của Nhà nước để vào thị trường thế giới bằng thời cơ và nguồn
lực của chính mình. Đó là điều kiện tiên quyết đưa doanh nghiệp đến thành
công.
103
2.5. Đánh giá kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh
nghệp làng nghề
2.5.1 Kết quả đạt được
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề Việt
Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Trước hết,
đó là tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, trong
vòng 10 năm trở lại đây trung bình khoảng 15 - 20%. Cơ cấu hàng thủ công
mỹ nghệ xuất khẩu cũng có sự thay đổi. Thị trường xuất khẩu không ngừng
được mở rộng. Đến nay hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại hơn
130 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một ngành kinh tế có hiệu quả cao
so với nhiều ngành nghề khác, bởi tận dụng được nguồn lực nội địa sẵn có
trong nước; đầu tư ít nhưng mang lại lợi ích nhiều mặt; là một ngành tương
đối thân thiện với môi trường. Quá trình hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ
nghệ ở nước ta, đặc biệt từ năm 2000 đến nay đã chứng minh điều đó.
- Hiệu quả kinh tế
Phát huy nguồn từ nội lực trong nước biến thành nguồn thu ngoại tệ to
lớn về cho đất nước. Theo số liệu thống kê, năm 2008, cả nước xuất khẩu
được 62,8 tỷ USD, trong đó có 820 triệu USD là hàng thủ công mỹ nghệ,
bằng 1,3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đây là nguồn ngoại tệ đáng kể,
góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ góp phần tăng doanh thu cho hoạt
động kinh tế tại các vùng nông thôn, vùng phụ cận các tỉnh thành phố lớn.
Đặc biệt là thu nhập cho người lao động.
Người lao động bình thường có thu nhập từ 400.000 đồng đến
1.200.000 đồng/người/tháng, cao hơn làm nông nghiệp thuần túy từ 4 đến 6
lần.
104
Hàng năm hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đó mang lại
nguồn thu cho các vùng nông thôn trong cả nước trên chục ngàn tỷ đồng, đây
là một nguồn thu không nhỏ, góp phần xây dựng kinh tế nông thôn Việt Nam.
Phát huy lợi thế và nội lực của nước ta, một nước đi lên từ nông nghiệp,
lao động ở nông thôn chiếm 75%; có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm, cây
cối xanh tốt, tạo ra một nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành thủ công mỹ
nghệ.
Từ thực tiễn và khảo sát tại các vùng nông thôn cho thấy, hầu hết
nguyên liệu cho ngành hàng thủ công mỹ nghệ là nguyên liệu tự nhiên rẻ tiền
(trừ một số loại có giá trị cao như song mây, gỗ,…) còn lại là cỏ cây, rơm rạ,
phế liệu của ngành nông nghiệp,… những loại nguyên liệu này nhiều vùng
chưa có làng nghề phải vứt bỏ hoặc mang đun thay củi,… cả nước hiện nay
còn rất nhiều tiềm năng chưa được tận thu hết.
Từ những loại nguyên liệu rẻ tiền, với sự tác động của bàn tay khéo léo
đó trở thành hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao.
Ví dụ:
+ 2kg rơm khô cộng với 2 ngày công lao động có thể làm ra một con
thú cảnh có giá trị từ 2 - 3 USD theo giá FOB Việt Nam.
+ 2 kg bèo tây khô và 2 - 3 kg tre, nứa với 2 ngày công lao động có thể
tạo ra một sản phẩm “giá báo lục bình”, trị giá xuất khẩu 3 - 5 USD theo giá
FOB Việt Nam.
Có thể nói, phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chính là tận
dụng tiềm năng, thế mạnh của đất nước, đó là tiềm năng về nguồn nguyên liệu
và tiềm năng con người. Đây là nguồn nội lực thực thụ của đất nước - phát
triển tốt ngành thủ công mỹ nghệ sẽ góp phần to lớn cho chương trình phát
triển kinh tế nông thôn do Đảng ta lãnh đạo.
105
Tổ chức sản xuất để xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một ngành
kinh tế có tính đặc thù bởi lý do “Đầu tư ít, mang lại lợi nhuận cao”
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước có chủ trương rất rõ ràng,
nhất quán phải đầu tư phát triển làng nghề, phát triển xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ. Song thực tế đầu tư nguồn tài chính cho lĩnh vực này vẫn chưa cao.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vẫn chủ yếu dựa vào nguồn hàng phát triển
có tính tự phát theo truyền thống và yêu cầu của thị trường, được điều tiết bởi
quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Hỗ trợ của Nhà nước, chính quyền địa
phương các cấp chủ yếu là thủ tục hành chính, xúc tiến thị trường ở mức
khiêm tốn và còn nặng tính phong trào.
Từ thực tiễn tác giả đi đến nhận định:
- Sản xuất, kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tính an
toàn rất cao; rủi ro thấp do vốn đầu tư ít, ít bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ quốc
tế, giá cả thị trường ổn định trong một thời gian dài.
- Tất cả các khâu đều có mức lợi nhuận cao; từ khâu khai thác nguyên
liệu, sơ chế và cung cấp nguyên liệu, vận chuyển bảo quản đến sản xuất và
xuất khẩu hàng hóa. Giá thành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ qua một chu
trình như vậy cơ cấu chủ yếu là công lao động, chi phí vận chuyển, bao bì, chi
phí quản lý hoạt động và lợi nhuận. Phần này chiếm từ 80 – 90% giá xuất
khẩu, còn lại chỉ có 10 – 20% là chi phí nguyên liệu. Từ đó ta thấy thu nhập
ngoại tệ từ ngành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mang lại số ngoại tệ
“thực thu”. Đây là một yếu tố đặc thù, khác với nhiều ngành xuất khẩu của
nước ta hiện nay. Nếu làm một phép so sánh hiệu quả đầu tư giữa xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ với các ngành khác: Dệt may, cao su, than đá, cà phê,
gạo, điện tử,… Bức tranh hiệu quả của hoạt động này sẽ chứng minh đầy đủ;
theo cách tính riêng của tác giả khảo sát từ thực tiễn:
106
Năm 2008, cả nước xuất khẩu 820 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ
xấp xỉ bằng 9% kim ngạch hàng dệt may (9 tỷ USD) tương đương với trị giá
ngoại tệ thu về của 4 tỷ USD hàng may mặc, để có 4 tỷ USD hàng may mặc
phải đầu tư 400 nhà máy may với quy mô 800 lao động mỗi nhà máy, mức
vốn 10.000 tỷ Việt Nam đồng, trên diện tích 400 đến 600 ha đất; trong khi để
có 820 triệu USD xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, tương đương 15.000 tỷ
Việt Nam đồng; theo tính toán riêng của tác giả từ thực tiễn - tổng đầu tư xã
hội cho thiết bị, tài sản cố định chỉ ở mức 500 tỷ Việt Nam đồng.
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bằng 60% kim
ngạch xuất khẩu than (1,4 tỷ USD), bằng 58% kim ngạch xuất khẩu cao su
(1,5 tỷ USD), bằng 41% kim ngạch xuất khẩu cà phê (2 tỷ USD), bằng 27%
kim ngạch xuất khẩu gạo (2,9 tỷ USD) và bằng 30% kim ngạch xuất khẩu
điện tử ( 2,7 tỷ USD).
Song để đạt được mức kim ngạch tương đương 820 triệu USD, các
ngành hàng như: Than đá, cao su, cà phê, gạo,… phải dùng một nguồn tài
nguyên thiên nhiên, khoáng sản, đất khổng lồ, đồng thời tổng mức đầu tư xã
hội cho tài sản cố định, vốn lưu động phải gấp hàng chục lần đầu tư cho
ngành thủ công mỹ nghệ. Trong số nguồn vốn đầu tư khổng lồ cho một số
ngành như vậy, kể cả nguyên liệu phục vụ cho sản xuất cũng chiếm một tỷ
trọng rất lớn là hàng ngoại nhập. Như vậy, ngoại tệ thực thu về cho đất nước
ở một số ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn hiện nay là một bài toán đang
được quan tâm, nhằm tối ưu hóa trong lĩnh vực đầu tư cho các lĩnh vực phát
triển kinh tế xã hội.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn có hiệu quả tích cực tác động trở
lại quá trình sản xuất, tới sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
và kinh tế nông thôn.
107
Trước hết xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tác động mạnh mẽ tới quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp, dịch
vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp thuần túy.
Theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu, quy mô sản xuất phải mở rộng,
thêm chủng loại hàng mới,… Cần đầu tư thêm, cần đào tạo mới nguồn lao
động,… Tác động tới việc giảm lao động nông nghiệp; các dịch vụ khác liên
quan đến nhu cầu tổ chức sản xuất cũng thay đổi làm cho cơ cấu lao động, cơ
cấu sản phẩm nông thôn, ngành nghề thay đổi theo hướng hiệu quả hơn, văn
minh hơn.
Thực tế khảo sát tại hàng trăm làng nghề, doanh nghiệp làng nghề tác
giả đi tới đánh giá: hầu hết các khu vực nông thôn có làng nghề, tỷ trọng sản
phẩm nông nghiệp so với hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn đó giảm, song số giá
trị tuyệt đối của sản phẩm nông nghiệp không giảm; bởi vì, tại các khu vực
này, sản xuất nông nghiệp cũng được đầu tư hiện đại, năng suất lao động cao,
sử dụng lao động ít và hiệu quả hơn.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là yếu tố quan trọng nhất tác động
tới quy mô, trình độ tay nghề, áp dụng công nghệ,… của các làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề.
Tác động của thị trường xuất khẩu, đòi hỏi mặt hàng ngày càng đơn
giản, có giá trị nghệ thuật cao, đồng đều và đảm bảo an toàn cho người sử
dụng. Với đòi hỏi này đặt ra khó khăn và vất vả cho các làng nghề; người sản
xuất sau thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, tâm lý đại khái,
thiếu quan tâm tới chất lượng, thiếu tính đồng nhất trong các sản phẩm đã dần
dần được thay đổi vì sự tồn tại; tác phong sản xuất công nghiệp được hình
thành từng bước theo xu thế của thị trường.
Với tác động và yêu cầu của thị trường ngành hàng thủ công mỹ nghệ,
các làng nghề phải tự phấn đấu đáp ứng như: Môi trường làm việc của công
108
nhân, vệ sinh nơi sản xuất, sử dụng chất phụ gia phụ liệu phải theo quy định.
Vì vậy, cùng với sự tăng trưởng của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, bộ
mặt nông thôn có làng nghề thay đổi nhanh chóng. Nhiều vùng quê thay đổi
từ nhà ở, đường sá, hạ tầng, đời sống vật chất và tinh thần một cách rõ rệt;
tình trạng ô nhiễm môi trường được giảm thiểu so với trước đây.
Cùng với sự phát triển của làng nghề, mật độ doanh nghiệp ra đời thể
hiện một bước tiến trong tiến trình phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn.
Doanh nghiệp làng nghề là một mô hình tổ chức cao hơn các mô hình như tổ
chức nhóm, hợp tác xã,… để đáp ứng nhu cầu tập trung quy mô, tích tụ nguồn
lực sản xuất để phát triển đầu ra. Doanh nghiệp làng nghề là nơi có đủ một số
điều kiện nắm bắt thông tin thị trường, là cầu nối quan trọng không thể thiếu
giữa thị trường xuất khẩu và người sản xuất hàng hóa. Việc ra đời của doanh
nghiệp làng nghề góp phần thúc đẩy quy mô sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Và
ngược lại, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ phát triển cùng tác
động ngược trở lại một cách mạnh mẽ sự hoàn thiện, đổi mới, và vươn lên của
doanh nghiệp làng nghề. Đòi hỏi doanh nghiệp làng nghề phải am hiểu sản
xuất để hướng dẫn sản xuất, tổ chức quy mô sản xuất tạo ra nhiều chủng loại
mặt hàng và số lượng lớn. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải có điều kiện và
khả năng tiếp cận thông tin thị trường xuất khẩu nhằm chào bán, hướng dẫn
tiêu dùng, biến những sản phẩm từ sự sáng tạo của người sản xuất kinh doanh
trở thành mặt hàng được thị trường chấp nhận.
- Hiệu quả xã hội
Ngoài hiệu quả kinh tế, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mang lại
hiệu quả xã hội sâu sắc.
Thực tiễn cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ phải sử
dụng 3.000 – 4.000 lao động trong năm. Vì vậy, với kim ngạch xuất khẩu 820
triệu USD năm 2008 tương đương với 2.460.000 lao động.
109
Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp, 75% dân số sống ở
nông thôn, vì vậy vấn đề giải quyết việc làm là một yêu cầu chiến lược mà
Đảng và Nhà nước đó đặt ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển
kinh tế nông thôn, tạo việc làm. Việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ, thu hút nhiều lao động là thực hiện hiệu quả chủ trương xóa đói giảm
nghèo, giảm tệ nạn xã hội, ổn định xã hội, giảm lao động nông nghiệp.
Hiện nay, hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có làng nghề.
Song, do điều kiện cụ thể của địa phương nên có sự phát triển khác nhau
Qua khảo sát thực tế tại hơn 100 làng nghề cho thấy bất kể ở đâu làng
nghề phát triển, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng ở đó tăng nhanh, đều
đặn, ở đó an sinh xã hội tốt, đời sống văn hóa tinh thần phát triển, nội bộ dân
cư đoàn kết, việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương pháp luật của Đảng và
Nhà nước thuận lợi, người dân sẵn sàng tham gia các hoạt động xã hội, góp
phần xây dựng đất nước.
Vì vậy, chương trình đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn
có hiệu quả to lớn là góp phần tạo nên sự đồng thuận xã hội, cho người dân
cuộc sống đầy đủ, có việc làm, bộ mặt nông thôn được đổi mới. Đây chính là
thể hiện tính ưu việt của chế độ, là nơi vận dụng đầy đủ chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển nông thôn đất nước.
- Phát triển mối quan hệ đối ngoại
Hàng thủ công mỹ nghệ nước ta mang đậm nét văn hóa dân tộc, hiện đó
có mặt tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Vì vậy, đẩy mạnh xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng chính là thúc đẩy mối quan hệ kinh tế
thương mại hai chiều, góp phần phát triển mối quan hệ toàn diện giữa Việt
Nam và các nước trên thế giới.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đến với hệ thống tiêu thụ, đến
tay người tiêu dùng quốc tế, góp phần quan trọng trong việc quảng bá, xây
110
dựng hình ảnh đất nước, tiềm năng sản xuất hàng hóa, giá trị văn hóa và con
người Việt Nam. Vì vậy, việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là
một bộ phận quan trọng cần phải quan tâm trong chương trình xây dựng
thương hiệu quốc gia gắn với xuất khẩu.
2.5.2. Hạn chế
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề Việt
Nam trong những năm qua tuy đã đạt được những kết quả rất quan trọng,
nhưng nhìn chung vẫn còn những mặt hạn chế sau đây:
- Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt
Nam chậm hơn nhiều mặt hàng khác.
Cho đến nay xét trên nhiều góc độ, Việt Nam vẫn có nhiều tiềm năng
và thế mạnh để phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Tuy nhiên, thời
gian gần đây tốc độ tăng trưởng kim ngạch mặt hàng này đã chậm lại. Nếu
như thời kỳ bao cấp, có những năm mặt hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tới
khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, thậm chí có năm chiếm trên
50%, thì dần dần tỷ lệ này đã giảm một cách đáng kể. Chẳng hạn, năm 2006,
kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 630 triệu USD,
nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước năm đó đã đạt gần 40 tỷ
USD, như vậy tỷ lệ này là khoảng 1,57%, một con số quá thấp so với tiềm
năng của mặt hàng này.
- Cơ cấu, chủng loại, mẫu mã mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ít
thay đổi.
So với thời kỳ xuất khẩu mặt hàng này sang các nước xã hội chủ nghĩa
từ những năm 70 - 80 của thế kỷ trước thì cơ cấu, chủng loại, mẫu mã mặt
hàng xuất khẩu thời gian gần đây đã tăng lên nhiều nhưng chỉ đáp ứng được
phần nào nhu cầu thị trường thế giới. Nhìn vào mẫu mã, chủng loại, hoa văn
ta thấy nhiều mặt hàng chẳng khác trước đây vài chục năm. Nhiều doanh
111
nghiệp xuất khẩu không quan tâm đến việc nghiên cứu ứng dụng các mẫu mã,
chủng loại, màu sắc mới, mà chủ yếu thực hiện theo yêu cầu của thị trường
nước ngoài.
- Chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đang là vấn đề cần
cảnh báo, nhiều khách hàng nước ngoài giảm lòng tin.
Trước đây khi xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa, chất lượng
hàng hoá nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng ít được đề cập đến.
Nói chung, thuật ngữ kinh doanh xuất khẩu không thật đúng với nghĩa của nó.
Từ khi chuyển đổi thị trường, vấn đề chất lượng được đặt lên hàng đầu.
Nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp làng nghề đều nhận thức hết điều
đó. Hàng mây, tre, cói, lá mốc mọt, cong vênh; hàng gốm sứ méo, nứt; hàng
gỗ gia dụng và mỹ nghệ kích thước không chuẩn, mọt, cong, vênh,... là những
hiện tượng thường xuyên trong các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.
Một số lượng lớn hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, EU,
nhưng khi sản xuất tại Việt Nam các doanh nghiệp chưa tính hết điều kiện khí
hậu khác nhau nhiều, nên nhiều mặt hàng khi vận chuyển đến nơi hoặc chỉ sử
dụng được một thời gian ngắn.
- Giá cả hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn cao
so với so với hàng hóa các nước trong khu vực
Yếu tố này đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ
Việt Nam. Nguyên nhận chủ yếu là:
+ Sản xuất ở Việt Nam quy mô còn nhỏ, manh mún, chi phí sản xuất
cao. Tính liên kết, hợp tác trong sản xuất chưa chặt chẽ, dẫn đến lãng phí,
nâng giá thành sản phẩm.
+ Nguyên liệu của nước ta khá nhiều, nhưng không tập trung tại một
vùng miền mà rải rác ở nhiều tỉnh thành, thiếu quy hoạch của Nhà nước. Việc
112
thu mua, chế biến có tính tự phát, nhỏ lẻ dẫn đến chi phí đầu vào cao - giá
thành sản phẩm cao.
+ Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi
mới, ngành thủ công mỹ nghệ mới phát triển mạnh được khoảng 10 năm. Vì
vậy, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh chưa bài bản, yếu tố thời
vụ, cạnh tranh không lành mạnh đó tác động không nhỏ đến yếu tố giá,…
Với những yếu tố cấu thành giá nêu trên, dẫn đến hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu của nước ta thường cao hơn một số nước khác.
Một số ví dụ từ thực tiễn: Mây tre lá: cao hơn Trung Quốc khoảng 5 –
10% (tuy nhiên chỉ tương tự về loại nguyên liệu); Hàng gốm sứ: cao hơn Thái
Lan 5 – 10% (gốm sứ 2 nước có khác nhau về gam màu và kiểu dáng); Thảm
thêu của Việt Nam cao hơn của Trung Quốc và Bangladesh khoảng 10 – 15%
(tuy nhiên có sự khác nhau về màu sắc, nguyên liệu,…)
- Tình trạng không giữ chữ tín vẫn thường diễn ra tại các làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề nên việc xuất khẩu tại chỗ đang có xu hướng chậm lại.
Trong kinh doanh, chữ “tín” luôn có tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng
thực tế, không ít làng nghề, doanh nghiệp vẫn xem nhẹ chữ “tín”. Điều đó thể
hiện qua phương thức “xuất khẩu tại chỗ”. Hàng năm khách du lịch nước
ngoài đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Họ đến Việt Nam tham quan, du
lịch hoặc làm việc và họ luôn mong muốn mua được những sản phẩm đặc
trưng làm quà lưu niệm. Tuy nhiên, không ít khách du lịch mua phải những
món quà không đảm bảo chất lượng, do một số nhà sản xuất không thực hiện
đúng cam kết.
Tình trạng gia hạn hợp đồng, hủy hợp đồng, đơn phương không giao hàng
hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng thường xuyên xảy ra.
Hiện tượng phổ biến dẫn đến tình trạng không giữ cam kết với khách
hàng là:
113
+ Khi có hợp đồng xuất khẩu, gặp phải thời vụ nông nghiệp hoặc lễ tết
kéo dài nên lao động không tập trung cho sản xuất, doanh nghiệp không
thường xuyên đôn đốc dẫn đến không kịp thời hạn giao hàng;
+ Không thực hiện cam kết do giá nội địa tăng hoặc có khách hàng
nước ngoài đến mua hàng trả giá cao hơn khách hàng trước đó;
+ Do không đủ năng lực sản xuất, ký hợp đồng quá khản năng.
- Thị phần xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào
EU còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, đặc biệt so với Trung Quốc.
Bảng 2.9. Nhà cung cấp đồ dùng trong nhà và quà tặng sang EU
% nhập khẩu
Nhóm sản phẩm
từ các nước đang phát
Các nhà cung cấp hàng đầu ở các nước đang phát triển vào EU năm 2004
triển 54,4%
Đồ gỗ
Trung Quốc 34,9%; Inđônêxia 5,3%; Thái Lan 5,0%, Ấn Độ 3,7%; Việt Nam 1,2%; Nam Phi 0,3%; Brazin 0,2%
80,5%
Sản phẩm làm từ mây, tre, lá
Trung Quốc 54,85; Việt Nam 11,0%; Inđônêxia 7,1%; Philipin 2,7%; Mađagasca 1,1%; Maroc 0,8%; Myanma 0,6%; Ấn Độ 0,5%; Thái Lan 0,5%; Bănglađesh 0,4%
Gốm 50,7%
Trung Quốc 30,6%; Việt Nam 11,0%; Malaixia 2,1%; Thái Lan 2,1%; Mexico 0,6%; Tuynidi 0,5%; Philippin 0,5%; Ấn Độ 0,4%; Maroc 0,3%
54,4%
Sản phẩm kim loại
Trung Quốc 35,3%; Ấn Độ 10%; Thái lan 2,7%; Việt Nam 2,6%; Inđônêxia o,6%; Philippin 0,6%; Malaixia 0,3% Maroc 0,3%; Nam Phi 0,1%
Nguồn: Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, tháng 2 năm 2004
114
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu của
Việt Nam sang EU, là thị trường quan trọng của nước ta chiếm thị phần
khiêm tốn so với nhiều nước trong khu vực, đặc biệt so với hàng thủ công mỹ
nghệ Trung Quốc. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bảng 2.9.
2.5.3 Nguyên nhân
a. Nguyên nhân đạt được kết quả
Sở dĩ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng
nghề trong thời gian qua đạt được những kết quả như trên là do những nguyên
nhân sau đây:
- Nhờ chính sách đổi mới do Đảng ta đề xướng, nên đã nhanh chóng
chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường.
Trong những năm bao cấp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu để
trả nợ hàng hoá cho các nước xã hội chủ nghĩa. Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa
tan rã, mặt hàng này lâm vào một tình trạng giảm sút mạnh. Thời kỳ này,
không ít làng nghề sản xuất ngừng trệ, nhiều thợ thủ công không có việc làm.
Nhờ chính sách đổi mới, nhiều DN đã trở nên năng động, sáng tạo trong sản
xuất, kinh doanh. Do vậy từ những năm 90 trở đi nhiều mặt hàng thủ công mỹ
nghệ dần dần hồi sinh và phát triển. Cơ chế thị trường đã tạo cho làng nghề
phải có một hướng đi mới phù hợp với điều kiện thực tế đang diễn ra. Nhiều
chính sách, cơ chế mới đã thực sự kích thích sản xuất phát triển. Đặc biệt vấn
đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã từ lâu được Đảng và Nhà nước ta rất
chú trọng, quan tâm. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn kéo theo làng nghề phát triển.
- Các doanh nghiệp đã năng động trong việc chuyển đổi, tìm kiếm thị
trường xuất khẩu mới.
Khi thị trường xã hội chủ nghĩa không còn, các doanh nghiệp muốn tồn
tại và phát triển, không còn con đường nào khác là phải tìm kiếm thị trường
115
mới. Chính vào thời điểm khó khăn đó, nhiều thị trường mới đã được mở ra,
thời kỳ đó gọi là thị trường khu vực II (thị trường các nước tư bản). Từ thị
trường thuộc các nước xã hội chủ nghĩa, đến nay hàng thủ công mỹ nghệ xuất
khẩu Việt Nam đã sang tới hơn 130 nước trên khắp các châu lục. Thị trường
rộng mở là nguyên nhân quan trọng dẫn đến hàng thủ công mỹ nghệ xuất
khẩu của ta phát triển nhanh.
- Các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ngày càng năng động,
sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh.
Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề là những chủ thể tạo ra hàng hoá
và thực hiện việc kinh doanh (tất nhiên, nhiều khi làng nghề và doanh nghiệp
làng nghề xuất khẩu hàng hoá của họ theo phương thức uỷ thác, nhưng dù sao
họ vẫn là chủ thể). Trong cơ chế thị trường, các làng nghề, đặc biệt là doanh
nghiệp làng nghề luôn có ý thức sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu
của khách, có như vậy mới xuất khẩu được. Chính vì thế, họ đã tập trung đầu
tư máy móc, công nghệ để đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá
thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cho nên, hàng hoá của họ
xuất khẩu hiệu quả hơn.
- Nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới ngày càng tăng.
Đây là nguyên nhân mang tính khách quan nhưng rất quan trọng. Bởi vì
hàng hoá sản xuất ra tuy chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hạ nhưng
người tiêu dùng không có nhu cầu thì cũng không thể xuất khẩu được. Thực
tế hiện nay nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới đang ngày càng tăng,
nhất là tại các nước công nghiệp phát triển. Khu vực thị trường này có mức
sống cao, khả năng thanh toán dễ dàng. Đây có thể nói là tiềm năng và cũng
là nguyên nhân để hàng thủ công mỹ nghệ của các nước sản xuất, trong đó có
Việt Nam có điều kiện xuất khẩu.
116
b. Nguyên nhân của những hạn chế
Tuy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề
thời gian qua có những bước phát triển mới và ngày càng có vai trò, vị trí
quan trọng trong đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt ở nông thôn.
Nhưng so với tiềm năng, thế mạnh của một đất nước đông lao động, tương
đối dồi dào về một số loại nguyên liệu, nhiều người thợ có bàn tay, khối óc tài
ba, khéo léo thì những kết quả đạt được trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ thời gian qua chưa tương xứng và còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là
do:
- Cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa thực sự kích thích và khuyến
khích đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Thời gian qua, Nhà nước đã chú trọng phát triển làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên,
nhiều cơ chế, chính sách của Nhà nước vẫn chưa phát huy tác dụng hoặc chưa
được thực hiện nghiêm túc tại các địa phương, cơ sở. Ví dụ việc giải quyết đất
đai để xây dựng nhà xưởng, kho tàng cho doanh nghiệp, hộ gia đình tuy có
chủ trương của Nhà nước nhưng việc thực hiện tại các làng nghề vẫn hết sức
khó khăn. Cũng giống như vậy việc vay vốn cho hoạt động của làng nghề và
làng nghề vẫn chưa thuận lợi. Ngoài ra, nhiều cơ chế khác cũng trong tình
trạng như vậy, dẫn đến tình trạng khó khăn, ách tắc cho hoạt động xuất khẩu.
- Sức cạnh tranh hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa cao.
Sức cạnh tranh hàng hoá phụ thuộc nhiều đến chất lượng và giá cả.
Nhưng cả hai yếu tố này đều không có ưu thế đối với hàng thủ công mỹ nghệ
Việt Nam. Tuy giá nhân công Việt Nam có phần rẻ hơn nhiều nước trong khu
vực nhưng giá bán không rẻ hơn, vì nhiều chi phí phát sinh bất hợp lý. Chẳng
hạn, chi phí vận chuyển cao, chi phí tiêu cực trên đường vận chuyển, ra vào
cảng, kiểm tra, kiểm soát hàng hoá, thủ tục hành chính,...
117
- Các doanh nghiệp làng nghề chưa chú trọng đến việc quảng bá, giới thiệu
sản phẩm.
Quảng bá, giới thiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhưng không ít doanh nghiệp làng
nghề vẫn giữ phương châm như thời bao cấp. Họ thường nghĩ rằng mình có
hàng là bán được. Vì vậy họ chưa chú trọng đến công tác thông tin, quảng
cáo, chưa dành một nguồn chi phí hợp lý cho hoạt động này. Điều này dẫn
đến khách hàng nước ngoài không biết đến hàng hoá và thương hiệu của các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt
Nam sản xuất theo nhu cầu với thị trường nước ngoài, nhưng phải bán qua
trung gian, nên khách hàng không biết đến xuất xứ đích thực.
- Công tác mở rộng thị trường của các doanh nghiệp còn yếu.
Hiện nay, tuy hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại hơn 130
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới nhưng thực sự nhiều nơi chưa biết đến
hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, mà họ chỉ biết đến hàng hoá Trung Quốc
hoặc hàng hoá các nước khác nhiều hơn. Do có nhiều khó khăn về tài chính,
nên các doanh nghiệp làng nghề không có điều kiện nghiên cứu thị trường,
nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ở nước ngoài. Do vậy sản
xuất không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Hơn nữa, công
tác quảng bá, giới thiệu thương hiệu sản phẩm hàng hoá cũng chưa được các
doanh nghiệp quan tâm. Nhiều doanh nghiệp chưa thấy hết vai trò và hiệu quả
của hoạt động xúc tiến thương mại, nên đầu tư cho lĩnh vực này cả tài chính
và lao động chưa tương xứng với nhu cầu mở rộng hoạt động của doanh
nghiệp.
118
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
3.1. Quan điểm, đường lối và những vấn đề đặt ra trong qúa trình hội
nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
3.1.1. Quan điểm và đường lối của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế.
Đứng trước những thay đổi lớn lao về về kinh tế, thương mại toàn cầu,
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sinh học diễn ra như vũ bão; sự tan rã
của hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu,... từ Đại hội VII Đảng ta đã chủ
trương “ Độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với
phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Theo tinh thần đó,
năm 1992, chúng ta đã nối lại được quan hệ với IMF, WB, ADB,... Tháng 7
năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN);
năm 1996 tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3 năm
1996 tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu với tư cách là thành viên sáng lập;
tháng 11 năm 1996, Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức APEC
đây là diễn đàn hợp tác gồm 21 nền kinh tế thuộc Châu Á, Châu Mỹ, Châu
Đại dương ở 2 bên bờ Thái Bình Dương; năm 2001 Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết; tháng 12 năm 1994, chúng ta đã nộp đơn
xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO và đến ngày 7 tháng 11 năm
2006 Việt Nam chính thức trở thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
thế giới; tháng 10 năm 2009 Hiệp định Đối tác kinh tế Nhật Bản chính thức
có hiệu lực cùng nhiều mối quan hệ mới khác được thiết lập với nhiều nước
và khu vực trên thế giới đã đưa Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế
thế giới.
119
3.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình lâu dài, phức tạp. Vì vậy, đối với
các cơ quan quản lý các cấp cần nhận thức sâu sắc những nội dung hội nhập
để kịp thời có những thay đổi trong chính sách, cơ chế phù hợp.
Cần tập trung đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần tăng
trưởng ổn định của nền kinh tế, nhất là thời kỳ hậu khủng hoảng hiện nay.
Định hướng điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất và đầu tư, nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngành hàng hóa, dịch vụ và của các doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở lựa
chọn các sản phẩm có lợi thế, có thị trường và có khả năng cạnh tranh, tiến
hành điều chỉnh, bổ sung chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, nghề, vùng,
lãnh thổ, địa phương, có cơ chế, chính sách thích hợp tạo điều kiện cho doanh
nghiệp thuộc tất cả mọi thành phần kinh tế.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật chính sách quản lý kinh tế. Khi tham gia
hội nhập kinh tế quốc tế, điều không tránh khỏi là sẽ phát sinh nhiều điểm
khác nhau giữa hệ thống luật pháp hiện tại với hệ thống luật quốc tế chúng ta
tham gia .
Đối với các doanh nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi
lớn. Nó sẽ tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp mở rộng quan
hệ, tiếp cận với các phương thức quản lý tiên tiến, tiếp thu những thành tựu
khoa học, công nghệ mới của thế giới và tham gia vào cuộc cạnh tranh đang
diễn ra ngày càng gay gắt giữa các quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, thì thách thức hàng đầu chính là tính cạnh tranh ngày
càng khốc liệt trên cả thị trường trong nước và xuất khẩu do các hàng rào bảo
hộ, cả thuế quan và phi thuế quan cũng như các chính sách ưu đãi đang dần bị
loại bỏ. Vì thế, đòi hỏi đầu tiên đối với các doanh nghiệp trong hội nhập kinh
tế quốc tế chính là phải không ngừng tiến lên. Cụ thể là không ngừng đầu tư
120
tăng vốn, công nghệ mới, chất lượng lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất,
kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh.
Một thách thức nữa của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các doanh
nghiệp và hàng hóa, dịch vụ là sẽ ngày càng phải đương đầu với những rào
cản thương mại quốc tế. Muốn tránh được tình trạng này, bên cạnh nhận
thông tin do các cơ quan Nhà nước cung cấp, các doanh nghiệp cần chủ động
cùng cơ quan chức năng về pháp lý và xúc tiến thương mại nắm bắt các thông
tin liên quan tới các nội dung, lộ trình hội nhập, các vấn đề nóng bỏng phát
sinh trong quá trình này. Các doanh nghiệp cần trang bị cho mình những kiến
thức về thị trường ngoài nước, nắm bắt tập quán, thị hiếu, nhất là luật lệ kinh
doanh của các thị trường của mình. Việc trang bị cho mình những kiến thức
luật pháp vững chắc cũng rất cần thiết để có thể chủ động cũng như có thể tự
bảo vệ mình trong hội nhập.
Doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược sản xuất, kinh doanh
trung và dài hạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 và ngay bây giờ đã
phải có chương trình sản phẩm cho từng loại thị trường, không phải chỉ sản
phẩm cho thị trường Việt Nam.
Đối với làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, ngoài những cơ hội, thuận
lợi và thách thức chung còn có những mặt riêng biệt trong quá trình hội nhập
của đất nước. Một là, mặt hàng thủ công mỹ nghệ không phải chịu sự cạnh
tranh mạnh mẽ như nhiều mặt hàng khác trên thị trường nội địa. Hiện nay,
trên thị trường nội địa chỉ có một ít hàng gốm sứ của Trung Quốc bày bán,
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác không nhiều. Hai là, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế chắc chắn lượng khách du lịch và khách đến quan hệ làm ăn sẽ
tăng nhanh, điều đó tạo thêm cơ hội cho các làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại chỗ và có điều kiện tiếp xúc trực tiếp
với người tiêu dùng để nắm bắt thông tin, nhu cầu, thị hiếu của họ một cách
chính xác hơn. Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn
121
cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thâm nhập vào những thị trường ít hoặc
không sản xuất những mặt hàng thủ công như Châu Âu, Hoa Kỳ, Trung
Đông. Tuy nhiên, vì làng nghề, doanh nghiệp làng nghề quy mô, năng lực,
kinh nghiệm còn nhỏ bé và yếu kém, nên khi bước vào “sân chơi” mới sẽ gặp
nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và phải trả giá.
3.2. Dự báo sản xuất, tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ thế giới giai đoạn
2010 đến 2020
3.2.1. Dự báo về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ
trên thế giới và khu vực
Trong thời gian tới, sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
các làng nghề trên thế giới và khu vực sẽ biến động theo chiều hướng sau đây:
- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thế giới và khu vực sẽ tăng, nhưng
mức tăng không nhiều.
Nhận định trên căn cứ vào những yếu tố sau đây: thứ nhất, nguồn sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới không nhiều, phần lớn chỉ tập trung
vào một số nước châu Á như Trung Quốc, Thái lan, Inđônêxia, Philippin, Việt
Nam, còn các châu lục khác, đặc biệt là châu Âu, châu Mỹ thì sản xuất không
đáng bao nhiêu, ngay cả châu Phi thì cũng chỉ có một số ít nước sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ; hai là, tại các nước sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, thì
vấn đề phát triển làng nghề, tuy vẫn được quan tâm, nhưng thực tế họ vẫn chú
trọng hơn việc phát triển các ngành công nghiệp tiên tiến, hiện đại; ba là,
nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng khan hiếm.
Hiện nay nhiều vùng đất đai có nguyên liệu sản xuất gốm sứ của nhiều nước
sản xuất mặt hàng này đã bị thu hẹp nhiều do phát triển các khu công nghiệp
và dân cư; những loại nguyên liệu có thể tái sản xuất được như gỗ, mây, tre,
lá cũng bị thu hẹp do sự tàn phá rừng bừa bãi. Vì vậy, dự báo tốc độ tăng sản
xuất sẽ không nhiều, khoảng 10%/ năm.
122
- Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ bằng hoặc thấp hơn mức tăng
sản xuất
Dự báo kinh tế của những nước sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chủ
yếu trên thế giới và khu vực sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới (tất nhiên
sau cuộc khủng hoảng hiện nay), và như vậy, cuộc sống của người dân tại
những nước này sẽ tăng lên. Do đó, nhu cầu sử dụng, thưởng thức hàng thủ
công mỹ nghệ của họ cũng tăng theo. Điều này dẫn đến khả năng tăng đột
biến hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu thời gian tới là không thể xảy ra. Vì
một số lượng lớn sẽ được tiêu dùng nội địa tại các nước sản xuất mặt hàng
này. Tác giả dự báo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ
trên thế giới chỉ bằng hoặc thấp hơn tốc độ tăng trưởng sản xuất mặt hàng này
tại các nước. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này ở từng nước khác nhau, tùy
theo những điều kiện thực tế về nguồn lao đông, nguồn nguyên liệu, cơ chế,
chính sách và giải pháp của từng nước về thúc đẩy phát triển làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
3.2.2. Dự báo về nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên thế
giới và khu vực
Cuộc sống ngày càng được nâng cao, thì nhu cầu ngày càng tăng lên.
Một số lượng lớn nguời tiêu dùng có thu nhập cao trên thế giới đang hướng
đến những sản phẩm mang tính dân tộc, tính cổ truyền, nghệ thuật dân gian.
Đó là những sản phẩm không phải sản xuất hàng loạt, tràn lan, mà là những
sản phẩm sản xuất chủ yếu bằng tay, bằng phương pháp thủ công truyền
thống và từ những chất liệu thiên nhiên. Nói cách khác, nhu cầu về hàng thủ
công mỹ nghệ truyền thống đang có xu hướng tăng nhanh.
Dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ, trên thế giới, và nhất là
tại các nước công nghiệp phát triển, đang diễn ra những biến đổi mang tính
cách mạng về thiết kế và thị hiếu tiêu dùng. Công nghệ mới, chất liệu mới
123
đang làm phong phú thêm nhiều loại hàng hoá với giá rẻ hơn, chất lượng cao
hơn. Nhưng những mặt hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất theo phương pháp cổ
truyền thì ngày càng giá trị. Và như vậy dự báo nhu cầu tiêu thụ mặt hàng thủ
công mỹ nghệ sẽ cao hơn khả năng sản xuất và xuất khẩu. Do vậy, giá cả
những mặt hàng này cũng sẽ tăng nhanh, nhất là những mặt hàng đang khan
hiếm nguồn nguyên liệu như đồ gỗ. Đây là cơ hội cho những nước sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, trong đó có Việt Nam.
3.3. Quan điểm, định hướng phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề của Việt Nam và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
3.3.1. Quan điểm phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt
Nam
Trong đường lối phát triển kinh tế xã hội của nước ta từ trước đến nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Đây là những đối tượng được đề cập nhiều nhất và có nhiều ưu đãi nhất. Với
hơn 75% dân số hiện nay vẫn là nông dân, nhưng tỷ lệ hộ nghèo, khó khăn
cũng cao nhất. Đây là vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với Đảng và Nhà nước
ta. Để góp phần xoá đói, giảm nghèo, vấn đề cơ bản nhất là đẩy mạnh sản
xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, để đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm
cho cuộc sống hàng ngày của hơn 85 triệu dân và một phần cho xuất khẩu.
Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Bất kỳ trong giai đoạn nào, đối với nước
ta, nông nghiệp cũng cần được ưu tiên số một. Trong Báo cáo của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá X về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội 5 năm 2006 - 2010, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, đã nêu rõ: “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, hướng tới
124
xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và
bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao” [111]
Tuy nhiên, muốn đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá đất nước, muốn
nhanh chóng xoá đói, giảm nghèo thì không thể chỉ nhìn vào sản xuất nông
nghiệp. Sản xuất nông nghiệp là nền tảng để bảo đảm an ninh lương thực, đủ
thực phẩm cho cuộc sống hàng ngày cho xã hội. Muốn giàu lên, để sánh kịp
với các nước trong khu vực và trên thế giới, thì phải thực hiện quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn tăng thêm thu nhập cho người nông
dân, để họ giàu lên thì phải phát triển thêm nhiều ngành nghề phi nông nghiệp
và tăng cường xuất khẩu. Ngay từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI với tư tưởng chỉ đạo là “Giải phóng năng lực sản
xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước”. Đến Đại hội đảng
lần thứ VII, quan điểm phát triển làng nghề đã được Báo cáo nêu lên trực tiếp và
cụ thể: “Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và ngành nghề mới
bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp,
các loại hình dịch vụ sản xuất và phục vụ nhân dân” [115]
Gần đây, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, trong phần “Đường lối
phát triển nông thôn những năm tới”, Báo cáo nêu rõ “Đẩy mạnh phát triển
công nghiệp và dịch vụ nông thôn, nhất là những ngành nghề sử dụng nhiều
lao động, coi đây là hướng chính tạo ra việc làm mới, góp phần tăng nhanh
thu nhập cho nông dân”, và “tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển
sang làm ngành nghề ngoài nông nghiệp. Khuyến khích để các doanh nghiệp
và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; phát triển
mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển
bền vững các loại nghề” [112]
Như vậy quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đối với việc phát triển nông
thôn từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay đã rõ ràng. Đó là việc thúc đẩy
125
phát triển nông nghiệp, trên cơ sở mở mang thêm ngành nghề để thu hút lao
động và tăng thêm thu nhập cho nông dân. Đây vừa là giải pháp xoá đói, giảm
nghèo, vừa là con đường hợp lý tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Trong việc mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất hàng
thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là một hướng đi hợp lý .
3.3.2. Phương hướng, mục tiêu phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
của Việt Nam
Trong khi chúng ta chưa có nhiều mặt hàng chủ lực xuất khẩu với khối
lượng lớn, giá trị cao để tăng đột biến kim ngạch xuất khẩu thì việc tìm thêm
những mặt hàng có thể xuất khẩu, mang lại lợi ích cho đất nước là điều cần
thiết và hợp lý. Trong phương châm đó, phát triển hàng thủ công mỹ nghệ
đang tạo ra nhiều nguồn lợi cho nông dân. Báo cáo tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII nêu rõ “Tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng để tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su,
hàng thuỷ sản, dệt may, da giày, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện
điện tử, phần mềm máy tính” [116]
Qua Báo cáo này, chúng ta thấy Đảng ta rất chú trọng đến việc thúc đẩy
phát triển hàng thủ công mỹ nghệ, coi hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng
xuất khẩu chủ lực. Sở dĩ mặt hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào loại hàng
xuất khẩu chủ lực, được đánh giá cao là vì ngoài yếu tố tạo ra hiệu quả kinh tế
cho đất nước, mà trực tiếp là người nông dân, còn có ý nghĩa lớn trong việc
giải quyết việc làm cho người lao động.
Trong phần “Các chỉ tiêu, định hướng về phát triển kinh tế xã hội chủ
yếu” của Báo cáo tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “Cơ cấu
ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%, công
nghiệp và xây dựng 43 - 44%, dịch vụ 40 - 41%; lao động nông nghiệp đến
năm 2010 chiếm dưới 50% lao động xã hội; trong 5 năm tạo việc làm cho 8
126
triệu lao động; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11% vào
năm 2010” [ 113]
Để thực hiện đúng phương hướng đó, thì việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ chính là động lực thực hiện 2 nhiệm vụ cơ bản là xoá đói,
giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Theo nghiên cứu của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực thủ công mỹ
nghệ, nếu xuất khẩu mặt hàng này đạt 1 triệu USD, thì sẽ giải quyết việc làm
cho 3.500 - 4.000 lao động. Theo tính toán đó, năm 2008 Việt Nam xuất khẩu
được trên 820 triệu USD về mặt hàng này, thì đã thu hút được khoảng 2,4
triệu lao động trong cả nước.
Thể chế hoá chủ trương, đường lối, phương hướng của Đảng, thời gian
qua Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách, cơ chế, biện pháp ưu tiên, khuyến
khích phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, đẩy mạnh xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ.
Tại Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ, đã
cụ thể hoá và Hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa
đổi), đã quy định ngành nghề truyền thống trong danh mục A, là “ngành nghề
thuộc lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư”.
Ngày 24/11/2000, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
132/2000/QĐ- TTg về “Một số chính sách khuyến khích phát triển làng nghề
nông thôn”, đã nêu rõ:
- Nhà nước có quy hoạch và định hướng phát triển các cơ sở ngành
nghề theo cơ chế thị trường, bảo đảm phát triển bền vững, giữ gìn tốt vệ sinh
môi trường nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn, đồng thời có quy hoạch phát triển ngành nghề truyền thống phải
gắn với ngành du lịch, văn hoá.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện và sử dụng các
sản phẩm ngành nghề nông thôn, nhất là các sản phẩm sử dụng nguồn nguyên
127
liệu tự nhiên trong nước (mây, tre, nứa,...), nhằm hạn chế một phần tác hại
đến môi trường của các sản phẩm chất thải hoá chất, nhựa công nghiệp.
- Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện và có chính sách bảo hộ hợp
pháp các cơ sở sản xuất, kinh doanh ngành nghề nông thôn, nhất là các ngành
nghề truyền thống, nhằm đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, thu hút
nhiều lao động, góp phần giải quyết việc làm ở nông thôn, xoá đói, giảm
nghèo, giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc.
Ngày 7/7/2006, Chính phủ ra Nghị định số 06/2006/NĐ-CP về “Phát
triển ngành nghề nông thôn”. Nghị định này quy định chi tiết về phạm vi áp
dụng; đối tượng áp dụng các hoạt động ngành nghề nông thôn; công nhận
nghề, làng nghề; quản lý chất lượng sản phẩm làng nghề; quy hoạch phát triển
làng nghề nông thôn. Đặc biệt Nghị định dành hẳn một chương quy định các
chính sách khuyến khích phát triển làng nghề. Trong chương này ghi cụ thể
về: Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề; mặt bằng sản xuất; về đầu tư,
tín dụng; xúc tiến thương mại; khoa học công nghệ; đào tạo nhân lực. Có thể
nói, Quyết định 132/1999/QĐ-TTg và Nghị định 66/2006/NĐ-CP là “xương
sống” cho việc thực hiện chủ trương, định hướng và giải pháp phát triển làng
nghề Việt Nam hiện nay và thời gian tới. Ngoài những văn bản có tính định
hướng này, các bộ, ngành liên quan cũng đã có những thông tư, chỉ thị hướng
dẫn thực hiện các nghị định, quyết định trên với nội dung đề cập phạm vi cụ
thể hơn trong việc đẩy mạnh phát triển làng nghề. Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn có Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006, Bộ
Công thương có Chỉ thị 02/2007/CT-BCT ngày 14/11/2007 về việc triển khai
Quyết định 136/2007/QĐ-TTg ngày 20/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2012.
Qua các Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị trên, chúng ta thấy
những định hướng, chính sách, cơ chế của Nhà nước đã đưa ra một cách toàn
128
diện, cụ thể và chi tiết về việc khuyến khích phát triển làng nghề, đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
Phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn chặt với với sản xuất nông
nghiệp. Đây là 2 lĩnh vực kinh tế có chung nguồn gốc, có mối quan hệ chặt
chẽ về lao động, đất đai, nguyên liệu, môi trường, thị trường,... Đây là mối
quan hệ tương hỗ cùng phát triển. Nếu giải quyết tốt nhu cầu và điều kiện cho
nhau thì sẽ cùng nhau phát triển.
Phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn phải đặt trong mối quan hệ
chặt chẽ với công nghiệp thành phố và thị trường, kết hợp hài hoà nhiều quy
mô, loại hình tổ chức và sở hữu (Hộ, Hợp tác xã, Doanh nghiệp tư nhân,
Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn,...), phải lựa chọn công nghệ,
thiết bị thích hợp, kết hợp thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, cơ
khí nhỏ trong sản xuất.
Phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn phải tính đến những đặc
điểm, điều kiện tự nhiên, điều kiện phát triển kinh tế xã hội và cơ sở hạ tầng
của địa phương. Vì vậy phải coi việc phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề nằm trong tổng thể phát triển chung của địa phương, làng, xã, khu vực.
3.3.3. Phương hướng, mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ
Như trên đã phân tích, thủ công mỹ nghệ là ngành hàng có nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển và ngược lại cũng cần nhanh chóng phát triển
ngành hàng này trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn ở mức thấp và số lao
động dư thừa ngày càng nhiều.
Trong Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2010 đã được Chính phủ
thông qua và Đề án xuất khẩu 2005 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt ngày 30/6/2006, nêu rõ mặt hàng thủ công mỹ nghệ phải có bước phát
triển nhanh hơn, phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu mặt hàng này ở mức 20 -
22%/năm và kim ngạch xuất khẩu 1,5 tỷ USD vào năm 2010, hàng năm tạo ra
129
thêm 300 ngàn việc làm ở khu vực nông thôn, phấn đấu tăng thu nhập từ hàng
thủ công mỹ nghệ cao hơn 3 - 4 lần so với sản xuất nông nghiệp. Kế hoạch
năm 2015 đạt kim ngạch xuất khẩu 2,56 tỷ USD. Dự báo đến năm 2020 kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cả nước sẽ đạt hơn 6,3 tỷ USD.
Bảng 3.1. Chỉ tiêu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2020
Đơn vị tính: triệu USD
TT Nhóm hàng 2010 2015 2020
1 Hàng gốm, sứ 600 1.000 2.480
2 Hàng mây, tre, cói, lá 400 700 1.740
3 Hàng sơn mài mỹ nghệ 150 260 647
4 Hàng thêu ren thổ cẩm 140 250 620
5 Thảm các loại 80 130 323
6 Hàng chạm bạc khắc đá 80 140 348
7 Hàng khác 50 80 200
Tổng cộng 1.500 2.570 6.358
Nguồn: Đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (Bộ Thương mại- nay là Bộ
Công Thương, năm 2007)
Ghi chú: Trong bảng trên, không xếp gỗ và sản phẩm gỗ vào nhóm
hàng thủ công mỹ nghệ. Vì hiện nay Tổng cục Thống kê đã tách nhóm gỗ và
sản phẩm gỗ thành một nhóm riêng. Nếu đưa mặt hàng gỗ mỹ nghệ vào nhóm
hàng thủ công mỹ nghệ, thì tổng kim ngạch nhóm mặt hàng này sẽ tăng lên
nhiều. Chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2008 đã đạt
gần 2,9 tỷ USD. Mục tiêu đến năm 2020 mặt hàng gỗ đạt 7 tỷ USD.
130
3.3.4. Phương hướng, mục tiêu xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ
nghệ chủ yếu của Việt Nam
- Nhóm hàng gốm, sứ
Đây là nhóm hàng có nhiều tiềm năng phát triển và xuất khẩu, do
nguồn nguyên liệu vẫn còn khá, mặc dù không gần nơi sản xuất như trước.
Thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước của mặt hàng này vẫn còn nhu cầu
lớn, đặc biệt thị trường nước ngoài.
Mục tiêu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 600 triệu USD
đến năm 2015 tăng lên 1 tỷ USD và đến năm 2020 đạt khoảng 2,48 tỷ USD.
Để đẩy nhanh xuất khẩu mặt hàng này cần chú trọng tới khâu tạo dáng,
hoa văn, màu men. Ngoài những địa danh nổi tiếng như Bát Tràng, Chu Đậu,
Phù Lãng, Biên Hoà, Lái Thiêu cần được bảo tồn, phát huy phải nhanh chóng
nghiên cứu, tìm kiếm những vùng có nguyên liệu và lao động để có thể sản
xuất hàng gốm, sứ. Nhưng cơ bản phải giữ được uy tín về chất lượng.
Cần lưu ý rằng nghề gốm tiêu thụ rất nhiều nguyên liệu, mà đất sét chỉ
có giảm đi chứ không tái tạo được. Sự khai thác nguyên liệu một cách tuỳ tiện
sẽ làm cạn kiệt nguồn đất sét, dẫn đến sự đình đốn. Do vậy tuy vẫn còn nhưng
phải có kế hoạch khai thác đất sét ở từng vùng một. Phải có ý thức tiết kiệm,
giảm tỷ lệ hư hỏng, giảm sản xuất những mặt hàng có khối lượng lớn.
Sản xuất gốm, sứ có thể sử dụng máy móc, thiết bị vào một số công
đoạn. Chẳng hạn trong việc chế biến đất và men có thể áp dụng quy mô nhỏ.
Vì vậy, trước tiên cần nghiên cứu, hoàn thiện kỹ thuật nghiền đất, chế biến
men theo tiêu chuẩn hoá với các mức độ khác nhau, phù hợp với từng loại sản
phẩm. Điều đó, vừa tiết kiệm nguyên liệu, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm,
lại vừa góp phần giải quyết vấn đề môi trường trong làng nghề. Khâu tạo
hình, kỹ thuật trang trí, tráng men nên tăng cường hơn các kỹ thuật thủ công
điêu luyện. Cần hoàn thiện các lò nung dùng điện và than. Trang bị các dụng
cụ đo nhiệt, thành phần khí trong lò để chủ động chế độ nung.
131
Cần đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật, tay nghề cho thợ gốm, sứ theo
từng công đoạn chuyên môn. Tại các khâu sử dụng máy, thiết bị cần phải đào
tạo kỹ thuật vận hành theo các quy chuẩn nghiêm ngặt, vừa để khai thác tốt
máy móc, thiết bị mới, vừa tránh tai nạn, rủi ro; ở các khâu vẽ, tạo hình và
tráng men, cần tăng cường đào tạo về thẩm mỹ và kỹ thuật tinh xảo. Với khả
năng phong phú của nghề gốm, sứ cần coi trọng đào tạo năng lực thiết kế và
sáng tạo mẫu mã cho thợ thủ công.
Cần bảo tồn giá trị truyền thống về hình dáng truyền thống của đồ gốm
Việt Nam. Đó là những đường nét thanh thoát, có đường cong uyển chuyển,
không có những thay đổi đột ngột. Về trang trí, có thể đắp nổi như chạm gỗ,
nhưng các quai thường rất đơn giản, kỹ thuật vẽ phóng khoáng, có tính cách
điệu cao; men màu nhẹ hoặc trầm. Cần phải duy trì kỹ thuật vuốt, nặn bằng
tay trên bàn xoay, dùng các hoa văn truyền thống.
Cần cải thiện điều kiện làm việc. Nghề gốm hiện nay sản xuất với khối
lượng lớn, nên không thể duy trì mãi trong không gian chật hẹp tại các gia
đình được nữa. Bụi, khói, khí độc, nước thải, hơi nóng, phế thải,... làm cho
làng nghề ô nhiễm trầm trọng. Cần có quy hoạch lại nơi sản xuất cho phù hợp
với quy mô sản lượng cần thiết. Tập trung chính vào hoàn thiện kỹ thuật
nghiền đất và lò nung, là hai khâu gây ô nhiễm nhiều nhất, đồng thời trang bị
vận hành các máy móc, thiết bị cho quá trình sản xuất khác.
- Nhóm hàng mây, tre, cói, lá
Đối với nhóm mặt hàng này, cần phát triển theo hướng đa dạng hoá
kiểu dáng, mẫu mã theo yêu cầu khách hàng, khai thác triệt để những lợi thế
về nguyên liệu, lao động. Hiện nay và thời gian tới, hàng mây tre Việt Nam
phải cạnh tranh gay gắt với hàng của Philippin, Inđônêxia, vì các nước này
cũng có tiềm năng về loại nguyên liệu này và cũng chú trọng sản xuất hàng
mây, tre, cói, lá.
132
Mục tiêu năm 2010, mặt hàng này đạt kim ngạch 400 triệu USD, đến
năm 2015 sẽ tăng lên 700 triệu USD, năm 2020 đạt 1,74 tỷ USD.
Đối với việc phát triển hàng mây, tre, cói, lá, cần chú trọng đảm bảo
nguồn nguyên liệu. Cần có ngay biện pháp bảo vệ rừng để mây, tre, nứa, lá
thiên nhiên tái sinh trở lại, đồng thời quy hoạch trồng mây, cói, lá buông ở các
địa phương, vừa tạo nguồn nguyên liệu, vừa tạo môi trường sinh thái cho
nông thôn. Cần nghiên cứu cải tạo giống và du nhập giống mây, tre có chất
lượng cao, cải tiến kỹ thuật trồng và khai thác có kế hoạch, đảm bảo cho sự
tái sinh thuận lợi. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, khai thác các loại thực vật sẵn
có như cỏ, rơm, bèo tây, bẹ chuối,... làm nguyên liệu cho nhóm mặt hàng này
thêm phong phú, đa dạng.
Hàng mây tre, cói, lá Việt Nam hiện nay còn hai nhược điểm chính cần
khắc phục, đó là, hay bị mốc, mọt và kết cấu không chắc chắn. Cần nghiên cứu,
hoàn thiện các giải pháp chống mốc, mọt đồng thời, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật
giáp nối các bộ phận cho chắc chắn hơn. Sản phẩm phải có độ cứng, dày vừa
phải. Nên phát triển thêm những sản phẩm nội thất và trang trí phong phú. Tăng
cường các loại máy chẻ mây, tre để vừa tránh lãng phí, vừa nâng cao chất lượng
sợi mây và nan tre. Các kỹ thuật đan thủ công Việt Nam rất phong phú và tinh
xảo, nhưng kỹ thuật hoàn thiện còn thô sơ, làm giảm giá trị sản phẩm. Cần tập
trung nhiều hơn đến việc nâng cao kỹ thuật hoàn thiện sản phẩm.
Nhìn chung trình độ tay nghề của người thợ mây, tre, cói, lá Việt Nam
khá tốt, song kiến thức thẩm mỹ chưa cao. Cần tổ chức đào tạo về thẩm mỹ,
khả năng sáng tạo mẫu mã của người thợ. Đồng thời, nâng cao nhận thức và
kiến thức của người thợ đối với việc hoàn thiện sản phẩm, tránh sự sơ sài và
những lỗi nhỏ rất phổ biến. Ngoài ra, cần hướng dẫn cho người thợ tìm tòi các
giải pháp kết hợp chất liệu mây, tre, cói, lá với gỗ, gốm, sơn mài, kim loại để
tạo nên sự phong phú, đa dạng và tăng giá trị của hàng hoá xuất khẩu.
133
Trong các nghề thủ công, thì ngành mây, tre, cói, lá hiện đang bảo tồn
được truyền thống khá tốt. Nét đặc trưng truyền thống trong loại sản phẩm
này là hình dáng đơn giản, mộc mạc, nhưng kỹ thuật đan rất tinh xảo. Vì vậy,
cần tránh những xu hướng cầu kỳ, phức tạp cho sản phẩm.
Những năm gần đây, người Việt Nam dùng đồ mây, tre, cói, lá nhiều
hơn trước, nhưng phần lớn vẫn là những sản phẩm trang trí, quà tặng. Cần
phát triển các mặt hàng sử dụng hàng ngày, đồ nội thất, các đồ phụ trợ cho
các loại đồ dùng khác. Mở thêm thị trường xuất khẩu bằng việc nâng cao chất
lượng, đa dạng hoá mẫu mã, chủng loại.
Mây, tre, cói, lá là những mặt hàng phù hợp với sản xuất gia đình và ít
ô nhiễm môi trường hơn các nhóm hàng hoá khác. Cần nghiên cứu giải pháp
chống mốc, mọt thay cho việc sấy lưu huỳnh để khỏi ảnh hưởng đến sức khoẻ
của người sản xuất và người sử dụng mặt hàng này. Đối với đồ mây, tre nội
thất, nên tổ chức sản xuất thành xưởng, tách biệt với nơi ở để tránh bụi, tiếng
ồn và rác thải.
- Nhóm hàng sơn mài, mỹ nghệ
Nước ta có nguồn nguyên liệu sơn rất nổi tiếng ở Phú Thọ và Yên Bái
với chất lượng cao, nhiều thợ sơn mài có tay nghề tinh xảo. Nhóm hàng này
chủ yếu được sản xuất bằng phương pháp thủ công. Sản phẩm sản xuất bằng
máy móc không nhiều. Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này ngày càng
tăng lên, cả khách hàng trong và ngoài nước đều rất ưa chuộng mặt hàng sản
xuất theo phương pháp truyền thống.
Mục tiêu năm 2010 kim ngạch xuất mặt hàng này đạt 160 triệu USD,
đến năm 2015 tăng lên 260 triệu USD đến năm 2020 đạt 647 triệu USD.
Vì làm mặt hàng sơn mài đòi hỏi phải có tay nghề chuyên môn và chỉ
có một số ít người có thể học được kỹ thuật và trở thành người thợ có tay
nghề cao, nên việc mở rộng sản xuất mặt hàng này là điều không dễ. Để bảo
tồn và khôi phục truyền thống của nghề sơn mài thành nghề thủ công mỹ nghệ
134
của Việt Nam, công tác nghiên cứu và phát triển nghề trên nhiều mặt như lịch
sử, khoa học, nghệ thuật,... là việc làm cần thiết. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu
mặt hàng này điều quan trọng là phải làm nổi bật các đặc điểm của Việt Nam.
Muốn phát triển nghề sơn mài lâu dài, cần chú ý mở rộng nguồn
nguyên liệu. Cần có kế hoạch khôi phục lại vùng trồng cây sơn Phú Thọ, Yên
Bái, nơi có điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại sơn có chất lượng cao.
Đồng thời, cần nghiên cứu giống sơn mới có chất lượng tốt ở các vùng thích
hợp. Ngoài ra, cần quan tâm đến việc sản xuất các nguyên liệu phụ như dầu
pha sơn, bột màu, các phụ gia khác.
Hiện nay, trình độ hiểu biết về sơn mài chưa đầy đủ, chỉ làm theo thói
quen và kinh nghiệm, chưa kiểm soát được điều kiện kỹ thuật. Trước tiên, cần
nghiên cứu cải tiến kỹ thuật chế biến nhựa sơn, vừa tránh lãng phí như hiện nay,
vừa tiêu chuẩn hoá chất lượng nhựa sơn trước khi sử dụng. Bên cạnh đó, cần
khôi phục lại kỹ thuật truyền thống theo hướng nâng cao độ tinh xảo, cần đánh
giá, chọn lựa lại kỹ thuật mới phát triển thời gian qua. Nghiên cứu, hoàn thiện
việc chế tạo và sử dụng máy móc vào chế biến sơn và làm cốt cho sơn mài. Khôi
phục lại các trang trí truyền thống theo lối vẽ nhiều lớp rồi mài cho lộ dần ra.
Bên cạnh kỹ thuật sơn mài truyền thống để làm ra các sản phẩm cao cấp, cần
nghiên cứu và hoàn thiện kỹ thuật làm sơn mài phục vụ tiêu dùng bình dân.
Để nâng cao tay nghề cho người thợ, trước hết, cần làm cho người thợ
hiểu rõ về nghề sơn mài, về nét đẹp truyền thống của nó, lý giải quy trình và
hiệu quả của từng công đoạn kỹ thuật để xoá bỏ ngay lối làm ăn dối trá, tuỳ
tiện hiện nay. Nghề sơn mài cần kỹ thuật tinh xảo và sự sáng tạo thẩm mỹ.
Cần phải đầu tư đào tạo nghề một cách cơ bản cả về kỹ năng, kỹ xảo và cả
kiến thức thẩm mỹ.
Để bảo tồn giá trị truyền thống độc đáo của sơn mài Việt Nam, trước
tiên phải khôi phục lại các kỹ thuật sử dụng thuần tuý nhựa sơn tự nhiên và
hết sức thận trọng khi dùng những loại sơn mới. Cần duy trì và tiêu chuẩn hoá
135
kỹ thuật truyền thống theo cách sơn nhiều lớp mỏng (11 - 13 lớp), từ hạt to
nhất, đến hạt nhỏ dần, cho đến hạt cực mịn. Trong kỹ thuật trang trí, cần khôi
phục kỹ thuật bả nhiều lớp rồi mài cho lộ dần ra, đồng thời, nên khôi phục lại
kỹ thuật vẽ nét bạc trong tất cả các sản phẩm sơn quang dầu. Cần phát triển
song song 2 loại sản phẩm sơn mài, loại sơn mài truyền thống có giá trị nghệ
thuật cao và sơn mài mới phục vụ cuộc sống hiện đại. Người làm hàng mỹ
nghệ cần phát triển rộng hơn các sản phẩm tiêu dùng bằng sơn mài như bát,
đĩa, bàn ghế, tủ, hộp, khay,... theo hướng mỹ nghệ hoá tiêu dùng. Các loại sản
phẩm tiêu dùng sơn mài có thể sử dụng các kỹ thuật mới. Cần chú ý nhiều
hơn đến việc kết hợp chất liệu trong sản phẩm sơn mài như tre, kim loại, gốm,
gỗ, đá,... Để nâng cao chất lượng sơn mài, trước hết phải tiêu chuẩn hoá kỹ
thuật làm cốt, tạo sự ổn định và vững chắc cho sản phẩm, sau đó mới đến tiêu
chuẩn hoá kỹ thuật sơn và trang trí. Cần chế tạo những dụng cụ đo độ dầu
trong nhựa sơn, đo độ ẩm và nhiệt độ trong buồng ủ sơn, đo sức căng bề mặt
lớp sơn,... Thực hiện kiểm tra kỹ thuật từng công đoạn làm sơn mài.
Sơn mài là nghề có tính chuyên môn hoá cao, rất thích hợp với việc tổ
chức sản xuất theo xưởng tập trung. Các công đoạn sản xuất tốn nhiều diện
tích, nhiều bụi, rác, nước thải. Không nên sản xuất phân tán trong các gia đình
như hiện nay. Cần có quy hoạch giúp cho dân trong làng nghề và các doanh
nghiệp làng nghề có đủ diện tích đất để xây dựng xưởng, vừa đảm bảo không
gian đủ thoáng, sáng, rộng, vừa tránh ô nhiễm môi trường do nhựa sơn, bụi,
rác, nước thải. Riêng công đoạn trang trí có thể làm tại xưởng hoặc gia đình.
- Nhóm hàng thêu ren, thổ cẩm
Sản phẩm thêu ren được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày, rất
phổ biến ở châu Âu và Nhật Bản. Mẫu mã của châu Âu kết hợp với kỹ thuật
khéo léo của Việt Nam và chi phí nhân công thấp có thể làm tăng sức cạnh
tranh. Bên cạnh đó, các sản phẩm thêu truyền thống của dân tộc thiểu số với
136
mẫu mã độc đáo, có giá trị cao trên thị trường và có thể áp dụng vào trang trí
trang phục quần áo,...
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vào năm 2010 đạt 140
triệu USD và đến năm 2015 tăng lên 250 triệu USD và năm 2020 đạt 620
triệu USD.
Do chất lượng nguyên liệu của Việt Nam chưa tốt, nên hầu như toàn bộ
nguyên liệu ngành thêu đều phải nhập khẩu, thợ thêu chỉ gia công. Theo kết
quả điều tra của tác giả, phần lớn vải thêu đều nhập từ Trung Quốc. Thông
thường, người sản xuất không thể trực tiếp mua nguyên liệu từ Trung Quốc
mà phải thông qua trung gian. Người sản xuất phải chịu chi phí cao. Điều này
phổ biến trong các làng nghề thêu ren. Do đó, cần nghiên cứu và tìm ra chính
sách, cơ chế, giải pháp hỗ trợ cho người sản xuất và xuất khẩu. Trước mắt,
cần duy trì các hợp đồng gia công như hiện nay để đảm bảo việc làm, đồng
thời, phải tìm cách để cải tiến chất lượng nguyên liệu trong nước để thay thế
dần nguyên liệu nhập khẩu, tạo nên sự chủ động và hiệu quả trong sản xuất và
xuất khẩu.
Đến nay quy trình thao tác kỹ thuật nghề thêu ren hầu như đã ổn định,
chỉ cần cải tiến những chi tiết nhỏ theo từng chủng loại sản phẩm. Nhưng để
phát triển nhanh hơn nữa cần chủ động sử dụng cả thêu tay và thêu máy. Các
sản phẩm thêu máy đang ngày càng phổ biến trên thế giới và so với sản phẩm
thêu tay thì thêu máy nhanh hơn và rẻ tiền hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trên thực
tế người tiêu dùng rất khó phân biệt sản phẩm làm bằng tay và bằng máy. Vì
vậy cần đa dạng hoá và nhanh chóng áp dụng các mẫu mã mới cũng như xu
hướng sản xuất mới đối với làng nghề để tăng sức cạnh tranh so với các sản
phẩm công nghiệp đang ngày càng phát triển trên thị trường thế giới.
Cần chú ý nâng cao tay nghề cho người thợ. Tay nghề của người thợ
thêu ren hầu như quyết định tới chất lượng của sản phẩm. Nguời thợ thêu phải
sáng tạo để sử dụng các kỹ thuật thêu phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. Vì
137
thế, phải đào tạo cho người thợ thêu không những thành thạo về kỹ thuật cơ
bản, mà còn biết cách vận dụng linh hoạt các kỹ thuật đó. Đồng thời, phải đào
tạo kiến thức thẩm mỹ cho họ, để họ tự tin, tự biết cách xử lý phù hợp với mỗi
họa tiết.
Kỹ thuật thêu truyền thống chủ yếu là thêu nổi, thêu kim tuyến trên các
tấm màn che, lọng ở nơi thờ cúng hoặc trên trang phục của người dân tộc. Kỹ
thuật này bây giờ ít sử dụng đến. Hầu hết các kỹ thuật thêu trên hàng hoá là
kỹ thuật mới. Giá trị truyền thống thể hiện chủ yếu ở sự tinh tế, cách bố trí
những đường chỉ xen nhau.
Sản phẩm thêu ren hiện nay rất phong phú, từ các loại khăn nhỏ, đệm,
gối, túi đến các loại màn, tấm trải lớn. Có thể các sản phẩm thêu thành 3 loại:
thêu tranh, thêu hàng kỹ (áo kimônô) và thêu hàng tiêu dùng hàng ngày. Đối
với tranh thêu và hàng thêu kỹ, chất lượng rất cao. Nhưng với những mặt
hàng tiêu dùng hàng ngày thì chất lượng còn thấp. Rõ rệt nhất là họa tiết
không đẹp, nhiều khi qua sơ sài, màu sắc tối, mũi kim dài, vừa vụng về, vừa
đơn điệu. Nhược điểm đó, chủ yếu do người thợ thiếu tính thẩm mỹ.
Phần lớn các sản phẩm thêu ren được xuất khẩu sang thị trường Nhật
Bản, thị trường này khá ổn định. Nếu mẫu mã và chất lượng được cải thiện sẽ
có cơ hội mở rộng thị trường hơn. Trong nước, hàng thêu ren cũng được tiêu
thụ nhiều hơn, chủ yếu là các loại khăn, quần áo, túi xách. Các sản phẩm thêu
ren còn có thể mở rộng ra các loại sản phẩm trang trí.
- Nhóm hàng đồ gỗ mỹ nghệ
Đồ gỗ là một mặt hàng quan trọng trong số các mặt hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu của Việt Nam. Có thể nói đồ gỗ là mặt hàng xuất khẩu có tốc
độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong những năm gần đây sản xuất, kinh doanh
đồ gỗ có bước phát triển mạnh. Hiện đồ gỗ Việt Nam đã xuất khẩu sang 120
nước và vùng lãnh thổ. Trước đây không lâu, không ai dám nghĩ mặt hàng gỗ
Việt Nam sẽ có mặt tại các thị trường lớn. Và cách đây không lâu, các doanh
138
nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu đều phải thông qua nước khác, thậm chí
mất cả thương hiệu. Song đến nay, đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam đã tạo được uy
tín và thế đứng vững chắc, kể cả những thị trường khó tính nhất. Sản phẩm gỗ
Việt Nam đã được đưa vào tiêu thụ nhiều hệ thống siêu thị trên thế giới, đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng và kiểu dáng, mẫu mã ngày càng
phong phú hơn. Bên cạnh những sản phẩm mang tính truyền thống, chúng ta
còn có những sản phẩm mới, gồm cả đồ gỗ nội thất và đồ gỗ ngoài trời. Có
được điều này là do thời gian qua, cùng với sự đầu tư của Nhà nước, nhiều
doanh nghiệp cũng đã mở rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị. Trên thực tế, có
những doanh nghiệp đã phải từ chối những hợp đồng lớn do không làm kịp.
Còn kim ngạch xuất khẩu, Việt Nam trước đây chủ yếu tính cho các sản phẩm
nội thất, chủ yếu là gỗ, trong khi nhiều nước tính giá trị sản phẩm gỗ bao gồm
cả các nguyên liệu khác kết hợp với gỗ như sắt, nỉ, thuỷ tinh,... đó là nguyên
nhân vì sao giá trị xuất khẩu gỗ của ta nhiều, nhưng giá trị không cao.
Kim ngạch xuất khẩu tăng, thị trường tiêu thụ sản phẩm gỗ Việt Nam
cũng tăng. Nhưng đến nay sản phẩm gỗ Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị
trường trọng điểm như Mỹ, EU và Nhật Bản. Cụ thể năm 2006 ta xuất sang
Mỹ đạt 774 triệu USD; vào EU đạt khoảng 500 triệu USD; vào Nhật Bản
khoảng 280 triệu USD. Nếu so với trước năm 2000 thì đây là thành tích đáng
kể, nhưng so với nhu cầu thực tế thế giới và tiềm năng của nước thì còn thấp.
Hiện sản phẩm gỗ nước ta mới chiếm khoảng 0,7% thị phần thế giới.
Một thực tế là nguồn nguyên liệu gỗ tự nhiên của nước ta thiếu.
Nguyên liệu gỗ hàng năm phải nhập tới 80 - 90%. Điều đáng lo ngại ở chỗ,
gần đây nguồn nguyên liệu nhập khẩu khó khăn, giá cả tiếp tục bị đẩy lên
nhanh, làm ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp. Mặt khác, trong khoảng 2000
các doanh nghiệp gỗ, chỉ có khoảng 10% áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất
lượng sản phẩm và số trường đào tạo nghề chế biến gỗ còn quá ít so với nhu
cầu.
139
Bên cạnh đó, mỗi năm nước ta xuất khẩu hàng triệu tấn gỗ dăm được khai
thác từ nguồn rừng trồng trong nước, nguyên liệu chính để sản xuất ván nhân
tạo, nhưng lại đang phải nhập gần 0,5 triệu mét khối ván nhân tạo. Nguyên nhân
chính của vấn đề này là do doanh nghiệp trong nước vẫn chưa đầu tư nhiều vào
công nghệ nguồn nguyên liệu và hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ.
Tuy nhiên, các cấp, các ngành cũng đã có nhiều cố gắng và giải pháp
để sớm khắc phục những hạn chế và khó khăn này. Về phần mình, các doanh
nghiệp cũng đã chủ động trong việc đầu tư về mọi mặt nên ngành sản xuất,
kinh doanh gỗ đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Theo thống kê của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cả nước có 2000
doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó có 300 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản
phẩm gỗ trực tiếp, sử dụng xấp xỉ 200.000 lao động trực tiếp cùng gần 1 triệu
lao động thời vụ. Năng lực chế biến gỗ của các doanh nghiệp tăng rất nhanh,
trong 5 năm, từ 2003 đến năm 2008, khả năng sản xuất tăng 5 lần.
Theo số liệu của Hội đồng quản lý rừng thế giới (FSC), mặc dù là nước
đi sau, nhưng hiện nay Việt Nam đang đứng đầu các nước trong khu vực, có
đến 151 nhà máy được cấp giấy chứng nhận quản lý rừng bền vững, so với 66
nhà máy của Malaixia, 59 nhà máy của Inđônêxia, 8 nhà máy của Thái Lan.
Điều đó cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam có ý thức rất rõ ràng trong việc
tuân thủ quy tắc phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường của
thị trường các nhà nhập khẩu. Còn theo đánh giá của Hội đồng xuất khẩu gỗ
cứng Hoa Kỳ, Việt Nam dẫn đầu các nước ASEAN về uy tín và mặt hàng, sản
lượng sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Tại các trung tâm xuất khẩu đồ gỗ là Bình Định, thành phố Hồ Chí
Minh, Đồng Nai, Bình Dương (chiếm hơn 80% kim ngạch xuất khẩu gỗ và
sản phẩm gỗ), các nhà máy đều được trang bị các dây chuyền phun sơn hiện
đại, thay cho sơn bằng tay, bảo đảm đúng yêu cầu của Mỹ và EU. Nhiều
doanh nghiệp lớn như Khải Vy, Tiến Đạt, Trường Thành, Đại Thành,... đã bắt
140
đầu chuyển sang bán sản phẩm tự thiết kế thay vì sản xuất theo mẫu của nhà
nhập khẩu. Một số doanh nghiệp đã mở văn phòng đại diện, công ty thương
mại tại hai thị trường lớn là Mỹ và EU (chủ yếu ở Anh) để chào hàng trực tiếp
và không ít doanh nghiệp thuê chuyên gia nước ngoài trong các khâu thiết kế
và marketing. Nhìn chung, những doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu nằm
trong top 10 của nước ta cạnh tranh rất tốt với các doanh nghiệp có thâm niên
hơn về xuất khẩu đồ gỗ ở Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan,...
Theo Chiến lược phát triển Lâm nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt,
đến năm 2020, xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam đạt 7 tỷ USD. Mục tiêu này là có
cơ sở thực hiện vì tiềm năng, thế mạnh và uy tín đồ gỗ Việt Nam đã khẳng
định được trên thị trường thế giới.
3.3.5. Định hướng một số thị trường chủ yếu xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ
- Thị trường Liên minh Châu Âu EU
Lâu nay, Liên minh châu Âu EU là thị trường có nhiều tiềm năng và
đóng vai trò quan trọng đối với nhiều loại hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
EU ngày nay có 27 thành viên hợp lại thành một nền kinh tế hùng mạnh với
số dân khoảng 493 triệu người, tổng sản phẩm quốc dân xấp xỉ 15.700 tỷ
USD ( tương đương với Mỹ).
Đây là khu vực thị trường rộng lớn, bao gồm cả Tây Âu, một phần Bắc
Âu và một phần Đông Âu. Khu vực thị trường này có sức mua cao, là thị
trường truyền thống của nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam.
Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào
EU chiếm khoảng 16- 17% tổng kim ngạch. Năm 2007, Việt Nam xuất khẩu
vào EU đạt khoảng 8,3 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2006, trong đó, các mặt
hàng dệt may, thuỷ sản, giày dép, đồ gỗ, cà phê, thủ công mỹ nghệ, điện tử,
sản phẩm nhựa,... tăng khá cao. Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu vào EU
141
năm 2006 đạt hơn 182 triệu USD, năm 2007 tăng lên 192 triệu USD. Trong
đó Pháp, Đức, Bỉ , Hà Lan, Tây Ban Nha là những nước đứng đầu trong EU
về nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Thị trường EU rất ưa chuộng
sản phẩm gỗ Việt Nam. Ngoài ra, nhóm hàng gốm, sứ cũng được tiêu thụ
mạnh tại khu vực thị trường này. Thông qua các hội chợ, triển lãm tại Frank
Furt (Đức), Paris (Pháp),... một số doanh nghiệp đã thành đạt trong việc nắm
bắt nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất
khẩu có giá trị cao. Các sản phẩm gốm, sứ Bát Tràng, Chu Đậu, Biên Hoà,
Lái Thiêu, Vĩnh Long,... dần dần trở nên quen thuộc với người tiêu dùng EU.
Các mặt hàng mây, tre đan, thêu ren cũng được xuất khẩu sang thị trường này.
Với một khu vực rộng lớn, giàu có, trình độ phát triển cao, nhu cầu mặt
hàng thủ công mỹ nghệ của EU rất phong phú, đa dạng, tạo cơ hội cho hàng
thủ công mỹ nghệ, trong đó có Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi xuất
khẩu vào khu vực thị trường này. Đặc biệt tại khu vực này hiện nay có
khoảng 500 ngàn Việt kiều đang sinh sống, làm ăn, là nguồn dân cư có nhu
cầu cao về hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Dự báo tốc độ tăng trưởng mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
sang thị trường EU sẽ khoảng 18 - 20 % trong thời gian tới. Thực tế chứng
minh rằng, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vẫn đang chiếm thị phần rất
nhỏ tại EU, mà Trung Quốc mới chiếm thị phần chủ yếu. Nếu các doanh
nghiệp nhanh chóng thay đổi chủng loại, mẫu mã, quảng bá sản phẩm thương
hiệu thì khả năng tăng nhanh xuất khẩu vào EU là điều có thể.
- Thị trường Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là thị trường rất rộng lớn, với dân số khoảng 310 triệu người,
trong đó có 1,5 triệu Việt kiều, GDP năm 2008 của Hoa Kỳ xấp xỉ 15.000 tỷ
USD. Thị trường Hoa Kỳ tiêu thụ nhiều loại hàng hoá khác nhau của nhiều
nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hàng năm kim ngạch nhập khẩu
của Hoa Kỳ lên đến khoảng 1.000 tỷ USD. Cơ cấu nhập khẩu chủ yếu của
142
Hoa Kỳ là nguyên, nhiên vật liệu, hàng tiêu dùng, trong đó hàng thủ công mỹ
nghệ đồ chơi trẻ em và quà tặng xấp xỉ 10 tỷ USD mỗi năm.
Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ, nhất là khi Hiệp định
Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực, quan hệ thương mại hai nước
tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 2000 xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa
Kỳ mới đạt khoảng 733 triệu USD thì đến năm 2008 con số đó đã tăng lên
khoảng 13 tỷ USD.
Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta sang Hoa Kỳ là dệt may, giày
dép, đồ gỗ, thuỷ sản, dầu khí, nông sản,... Mặt hàng thủ công mỹ nghệ tuy chiếm
tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu hàng xuất khẩu, nhưng giá trị tuyệt đối lại cao và tốc
độ tăng nhanh so các thị trường khác. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ đạt 1,7 triệu USD, con số đó đã tăng
lên 76,4 triệu USD năm 2006 vượt qua Nhật Bản (70,14 triệu USD) và Đức
(62,58 triệu USD), chỉ đứng đằng sau Pháp (81,8 triệu USD) và hơn 80 triệu
USD năm 2008.
Dự báo, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
vào Hoa Kỳ sẽ tăng từ 18 - 25%/năm trong thời gian đến năm 2020.
Thị trường Hoa Kỳ ngoài những thuận lợi cơ bản là sức mua, nhu cầu
lớn về hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, hàng thủ công Việt Nam đang gặp
khó khăn lớn trên thị trường này, đó là sự cạnh tranh quyết liệt của hàng thủ
công mỹ nghệ Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc là nguồn cung cấp chính
cho thị trường Hoa Kỳ nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Ví dụ, kim ngạch
mặt hàng mây, tre, lá mã HS 4602 của Trung Quốc chiếm hơn 75% tổng kim
ngạch nhập khẩu mã hàng này của Hoa Kỳ.
Cũng như đối với các nhóm mặt hàng khác, các đơn vị nhập khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ của Hoa Kỳ thường là những đơn vị lớn, trong khi đó các
cơ sở sản xuất, kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta thường là
Hộ gia đình, Hợp tác xã, Công ty tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công
143
ty cổ phần là loại nhỏ, thiếu kinh nghiệm kinh doanh, chi phí vận chuyển lớn,
do vậy gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các đơn hàng có số lượng lớn
và đòi hỏi giao hàng nhanh. Ngoài ra, sự hợp tác rất yếu kém vốn dĩ tồn tại
giữa các doanh nghiệp Việt Nam cũng là trở ngại đáng kể đối với các đơn vị
xuất khẩu.
Do đặc điểm của sản xuất nhỏ, cộng với việc vi phạm bản quyền tràn
lan nên các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam không đủ nguồn lực và ít
quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường, nhất lại là thị trường quá lớn như
Hoa Kỳ. Các nhà sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nên nghiên cứu
những giá trị nghệ thuật và đặc tính văn hoá của các dân tộc sống ở Hoa Kỳ,
để đưa nó vào sản phẩm bán sang thị trường này.
Để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, cái gốc vẫn là sản xuất trong nước
nhưng cần chú trọng những xu hướng sau:
+ Đối với những mặt hàng gốm, sứ, mặc dù đang có khả năng cạnh
tranh tốt, song vẫn chú ý đến cải tiến khâu đóng gói và vận tải để giảm chi phí
từ Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng như trong nội địa Hoa Kỳ, mặt khác cũng cần
cải tiến mẫu mã, màu sắc phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Hoa Kỳ.
+ Đối với mặt hàng làm bằng mây, tre, cói, lá, hàng thêu máy và quà
tặng các doanh nghiệp Việt Nam khó khăn trong cạnh tranh trừ khi tạo ra
những mặt hàng độc đáo, tinh xảo, được tiêu thụ qua kênh phân phối riêng.
Mấy năm gần đây, Thái Lan cạnh tranh bằng giá với Trung Quốc trong ngành
hàng này bằng cách chuyển sang sản xuất những mặt hàng tinh xảo hơn. Việt
Nam khó có thể cạnh tranh với mặt hàng thêu máy, nhưng có thể cạnh tranh
được mặt hàng thêu tay chất lượng cao. Việt Nam có thể thâm nhập mặt hàng
sơn mài, nhưng phải có mẫu mã phù hợp với thị trường.
Do đặc điểm sản xuất của Việt Nam, hướng thâm nhập chủ yếu vào thị
trường này của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian tới là chuyên sản xuất
những mặt hàng tinh xảo, có mẫu mã độc đáo và với số lượng nhỏ để dễ đi
144
vào thị trường ngách của Hoa Kỳ. Tuy các thiết kế truyền thống kiểu châu Á
và Trung Quốc vẫn có thể bán được ở Hoa Kỳ, nhưng nhìn chung không phải
là xu hướng tiêu dùng mạnh hiện nay.
Thiết kế và mẫu mã tạo ra giá trị lớn cho hàng hoá. Đã có trường hợp
một chiếc lọ độc bình có kích thước vừa phải, được đan bằng chất liệu lá do
Việt Nam sản xuất theo mẫu của nước ngoài, được trưng bày trong gian hàng
tại Hội chợ High Point - Hoa Kỳ được bán với giá 250 USD. Một ví dụ khác,
thay cho việc dùng thép để làm chân bàn ăn mặt kính người ta đã dùng các cây
trúc bó lại thành một bộ chân bàn, chi phí nguyên liệu và nhân công làm bộ
chân bàn đó ở Việt Nam tối đa cũng chỉ 20 - 30 USD, nhưng bộ chân bàn đó,
với mặt kính rộng cho 8 người ăn đã được bày bán tại Hoa Kỳ với giá 500
USD.
Do không đủ nguồn lực để nghiên cứu sâu thị trường và tạo ra các sản
phẩm phù hợp, nên các doanh nghiệp Việt Nam cần thiết lập mối quan hệ
kinh doanh chiến lược với các đối tác Hoa Kỳ có khả năng thiết kế và tiêu thụ
sản phẩm và đang tìm đối tác sản xuất ở nước ngoài.
- Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường rộng lớn, với 130 triệu dân, GDP đứng thứ
hai trên thế giới. Nhật Bản là thị trường gần Việt Nam, có nhu cầu lớn về
hàng thủ công mỹ nghệ và khả năng thanh toán cao. Quan hệ kinh tế, thương
mại giữa 2 nước Việt Nam- Nhật Bản đã có từ lâu đời và ngày càng được
củng cố và phát triển. Nhất là gần đây, khi 2 nước ký kết nhiều văn bản mới.
Những năm trước đây, Nhật Bản thường là thị trường tiêu thụ hàng thủ công
mỹ nghệ lớn nhất của Việt Nam, nhưng vài năm trở lại đây vị trí đó đã
nhường lại cho thị trường khác (năm 2000 Nhật Bản chiếm gần 20% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, đến năm 2006 vị trí
của Nhật Bản xuống hàng thứ hai sau Pháp). Nhật Bản là thị trường rộng lớn
về đồ gỗ của Việt Nam. Thời gian qua, Việt Nam thường xuất khẩu sang Nhật
145
Bản đồ gốm, sứ, mây tre, thảm len. Tuy nhiên, thị phần của Việt Nam chiếm
một phần nhỏ chủ yếu vẫn là hàng hoá của Trung Quốc. Nhiều chuyên gia
tính rằng, hiện nay tại Nhật Bản giá hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cao
hơn của Trung Quốc tới 15% mặt hàng cùng loại. Bên cạnh đó, cách thức
thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đa dạng. Cần phải
nghiên cứu sâu thị trường Nhật Bản. Thị hiếu của họ bắt nguồn từ truyền
thống văn hoá và điều kiện kinh tế. Nhìn chung, người Nhật Bản có trình độ
thẩm mỹ cao, tinh tế do có cơ hội tiếp xúc nhiều loại hàng hoá, dịch vụ trong
và ngoài nước.
Thị hiếu của người Nhật rất đa dạng, nhưng cũng khá độc đáo. Người
tiêu dùng Nhật rất để ý đến chất lượng hàng hoá. Sống trong môi trường có
thu nhập cao, nên người Nhật thường đòi hỏi khắt khe về chất lượng, bao
gồm cả vấn đề vệ sinh, hình thức và dịch vụ hậu mãi. Những vết xước nhỏ
trong quá trình vận chuyển cũng gây hậu quả lớn đến quá trình tiêu thụ cả lô
hàng và ảnh hưởng đến uy tín. Người Nhật sẵn sàng trả giá cao hơn cho
những sản phẩm có chất lượng tốt. Yêu cầu này còn bao gồm cả dịch vụ hậu
mãi như sửa chữa kịp thời của nhà sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc,
khả năng và thời gian sửa chữa sản phẩm đó. Bởi vậy cần có sự quan tâm
đúng mức đến khâu hoàn thiện, vệ sinh sản phẩm, bao gói và vận chuyển
hàng. Nguời Nhật cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày. Sau cuộc
khủng hoảng kinh tế những năm 90 của thế kỷ trước, nguời Nhật không chỉ
quan tâm đến chất lượng, mà còn rất chú ý đến sự thay đổi giá cả. Đối tượng
chủ yếu là những phụ nữ nội trợ đi mua hàng ngày, có nhiều thời gian. Tuy
vậy, tâm lý thích dùng hàng xịn, hàng đồ hiệu, cho dù với giá rất cao vẫn
không thay đổi nhiều so với trước đây. Bên cạnh đó, họ cũng quan tâm đến
vấn đề thời trang và màu sắc hàng hoá phù hợp theo từng mùa xuân, hạ, thu,
đông. Mặt khác, tính đa dạng của sản phẩm là yếu tố vô cùng quan trọng cho
việc thâm nhập thị trường. Trên thực tế, trong các siêu thị Nhật Bản có vô số
146
những kiểu dáng của cùng một loại hàng tiêu dùng. Tiêu dùng của người
Nhật mang tính mùa vụ rõ rệt. Không ít mặt hàng, người Nhật chỉ dùng mùa
này, dịp này, mà không bao giờ dùng cho mùa kia và ngược lại. Người Nhật
cũng đặc biệt ưa thích những mặt hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo và thực
sự được làm bằng phương pháp thủ công. Đây là điểm Việt Nam có thể khai
thác triệt để, tận dụng được trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang
Nhật Bản. Tuy nhiên, chất lượng đồng đều cũng rất quan trọng. Nhiều hàng
thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bị trả về do sản phẩm không đồng đều.
Ngày nay, tại Nhật Bản, các giới tiêu thụ thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau
ngày càng tỏ ra ưa chuộng các loại quà tặng và sản phẩm trang trí nội thất
được sản xuất bằng thủ công với các nguyên liệu tự nhiên, phản ánh truyền
thống và đặc thù châu Á.
Dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sang Nhật
Bản sẽ tăng khoảng từ 15-17%/ năm trong khoảng thời gian đến năm 2020.
- Thị trường Nga và Đông Âu
Đây là khu vực thị trường rộng lớn, trong một thời gian dài là thị
trường chủ yếu của hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam trước
những năm 90 của thế kỷ XX. Sau đó, do biến động chính trị, kinh tế các
nước này gặp khó khăn, nên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
sang khu vực thị trường này bị thu hẹp. Tuy nhiên, đây là khu vực thị trường
đông dân, có nhu cầu lớn về nhiều chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ mà ta
có thể đáp ứng được. Trong ký ức người tiêu dùng ở đây, vẫn còn ít nhiều dấu
ấn của hàng hoá Việt Nam. Vì lẽ đó, ta có thể coi đây là thị trường tiềm năng.
Hiện nay, tại khu vực thị trường này có khoảng 240 ngàn người Việt Nam
đang sinh sống, đây là cơ hội lớn cho hàng thủ công mỹ nghệ nước ta vào khu
vực này, nhất là thị trường Nga nền kinh tế đang hồi phục và phát triển nhanh.
Dự báo trong khoảng 5 - 7 năm tới, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
sang thị trường này sẽ tăng khoảng 15 - 18%/năm.
147
Từ nhận định trên, Việt Nam cần quan tâm đên thị trường này, nhưng
không thể với cách thức và bước đi như trước đây, mà khai thác thị trường
này bằng chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng phong phú và giá cả hợp lý hơn. Thị
trường Nga và Đông Âu rất ưa chuộng những mặt hàng song, mây giá trị cao
và bàn, ghế, giường, tủ, giỏ hoa, đồ gốm, sứ. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt
Nam cần thay đổi cách nghĩ, cách làm với thị trường này.
- Thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông
Đây là ba thị trường xuất khẩu quan trọng của hàng hoá Việt Nam,
Năm 2007 Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc trị giá hơn 1,25 tỷ USD, sang
Đài Loan gần 1,4 tỷ USD và sang Hồng Kông gần 590 triệu USD. Đây cũng
là những thị trường nhập khẩu khá nhiều hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.
Năm 2006, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc trị
giá gần 24 triệu USD, sang Đài Loan hơn 62 triệu USD, sang Hồng Kông gần
15 triệu USD.
Dự báo trong thời gian tới, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt
Nam vào ba thị trường này sẽ tăng khoảng 13%/năm.
Đài Loan là thị trường nhập khẩu nhiều đồ gỗ Việt Nam (bao gồm gỗ
gia dụng và gỗ mỹ nghệ), kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ của thị trường này có
năm lên tới 60-70 triệu USD (phần này không tính vào kim ngạch hàng thủ
công mỹ nghệ), chiếm tới 20% kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Đài
Loan. Đây còn là thị trường nhập khẩu nhiều loại hàng mây, tre, gốm, sứ,...
Hàn Quốc, Hồng Kông gần đây đã tăng cường nhập khẩu nhiều loại thủ công
mỹ nghệ của Việt Nam từ các donh nghiệp như Hapro, các doanh nghiệp làng
nghề ở Thái Bình, Bình Dương, Vĩnh Long,...
- Thị trường Trung Đông
Là thị trường có nhiều tiềm năng nhưng các doanh nghiệp chưa khai
thác được nhiều. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một số chủng loại hàng thủ
148
công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại đây, như hàng mây, tre đan, cói, lá
buông,...
Dự báo khu vực thị trường này sẽ nhập khẩu khá nhiều hàng thủ công
mỹ nghệ Việt Nam thời gian tới. Nhưng các doanh nghiệp cần chú ý tới
chủng loại mặt hàng vì chi phí vận chuyển cao và đặc thù tiêu dùng của người
Hồi giáo.
3.4. Giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
3.4.1. Giải pháp phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
3.4.1.1. Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
Hầu hết làng nghề Việt Nam đã hình thành từ lâu đời, nhưng chủ yếu
phát triển một cách tự phát, dựa vào kinh nghiệm thực tiễn, điều kiện kinh tế
xã hội, nguồn nguyên liệu, truyền thống văn hoá,... Lâu nay, Nhà nước chưa
có một quy hoạch tổng thể nào cho sự phát triển của làng nghề. Mới chỉ là
những văn bản còn chung chung của một vài Bộ, ngành trên một số lĩnh vực
nhất định. Tất nhiên, Chính phủ cũng đã có những nghị định, quyết định về
phát triển làng nghề Việt Nam. Nhưng vấn đề quy hoạch tổng thể phát triển
làng nghề vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần bàn.
Khi xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng
nghề thì quy hoạch phải được xây dựng theo từng thời kỳ, phù hợp với quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương và cả nước. Việc
xây dựng phát triển ngành nghề nông thôn thực hiện theo Nghị định số
92/2006/NĐ-CP ngày 7 tháng 9 năm 2006 của chính phủ về lập, phê duyệt và
quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội.
Nội dung chủ yếu của quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tại
Nghị định 92/2006/NĐ-CP là:
149
- Phân tích, đánh giá hiện trạng phát triển ngành nghề nông thôn trên
các vùng lãnh thổ, đi sâu phân tích cơ cấu sản phẩm chủ yếu, vùng nguyên
liệu, công nghệ, lao động, tổ chức sản xuất, cơ sở hạ tầng và môi trường;
- Phân tích, dự báo các yếu tố phát triển ngành nghề nông thôn, trong
đó, có phân tích, dự báo đầy đủ yếu tố tác động đến sự phát triển làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề, nhất là về thị trường, yêu cầu năng lực cạnh tranh
của sản phẩm và dịch vụ;
- Xác định vị trí, vai trò của ngành nghề nông thôn đối với kinh tế địa
phương và các mục tiêu phát triển ngành nghề nông thôn;
- Luận chứng các phương án phát triển ngành nghề nông thôn, các sản
phẩm chủ yếu và các điều kiện đảm bảo mục tiêu quy hoạch được thực hiện
như: nguồn nguyên liệu, lao động, công nghệ,...;
- Xây dựng chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề với nội dung:
bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, phát triển làng nghề gắn với du
lịch, phát triển làng nghề mới;
- Xác định các giải pháp về cơ chế, chính sách và đề xuất các phương
án tổ chức thực hiện;
- Thể hiện các phương án quy hoạch phát triển làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề trên những bản đồ quy hoạch;
Để thực hiện việc xây dựng quy hoạch này, Chính phủ đã giao cho Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng quy hoạch tổng thể trong toàn quốc, ủy
ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn trong
tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tại địa phương.
Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam
nhằm thiết lập một khung chính sách hiệu quả cho công tác xoá đói, giảm
nghèo và phát triển nông thôn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn thông
qua phát triển ngành nghề thủ công và kinh doanh mặt hàng này. Quy hoạch
phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề sẽ được vận dụng trong quá
150
trình xây dựng và triển khai các chính sách, do phát triển ngành nghề thủ công
đã được định hướng là một trong những công cụ chủ yếu của chiến lược quốc
gia về xoá đói, giảm nghèo và tăng trưởng toàn diện.
Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề đảm
bảo sự phát triển nông thôn thông qua phát triển ngành nghề thủ công, có sự
tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân liên quan. Quy hoạch sẽ xác định cơ
chế hợp tác cho nhiều hoạt động khác nhau trong lĩnh vực ngành nghề thủ
công. Cần có sự phối hợp giữa cơ quan Nhà nước và khu vực tư nhân để triển
khai các hoạt động một cách hiệu quả. Các đơn vị tư nhân - chủ thể chính
trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, cần chủ động nỗ lực tăng cường hiệu quả và
sức mạnh của mình. Mặt khác, cơ quan quản lý Nhà nước cần xác định rõ vai
trò và trách nhiệm và xây dựng các chính sách nhằm đảm bảo hỗ trợ các hoạt
động của khu vực tư nhân một cách hiệu quả trong khi vẫn đảm bảo được
mục tiêu trước mắt và lâu dài trong kế hoạch phát triển của Nhà nước. Chính
sách phát triển ngành nghề thủ công ở Việt Nam được dựa trên Quyết định
132/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, Quyết định này
không phải là một quy hoạch tổng thể. Các chính sách của Nhà nước chưa tạo
điều kiện rõ ràng cho các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) xây
dựng quy hoạch của mình, chưa vạch ra được cách thức để các cấp chính
quyền đó tiếp cận với chính quyền cấp trên hoặc của Chính phủ nhằm tìm
kiếm sự hỗ trợ tài chính.
Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam phải được quy hoạch
dựa trên điều kiện tự nhiên sẵn có của địa phương, phong tục tập quán, truyền
thống, bản sắc văn hoá của làng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa
phương đó. Không thể tách rời các yếu tố này. Chẳng hạn, phát triển mặt hàng
gốm, sứ ở Bát Tràng phải dựa trên điều kiện tự nhiên, những nét văn hoá đặc
trưng của vùng này và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Bát Tràng. Một
thực tế hiện nay là quy hoạch phát triển làng nghề không theo một quy chuẩn
151
nào. Tính tự phát sẵn có từ hàng trăm năm nay, mạnh ai nấy làm cho nên
nhiều làng đã phá vỡ tính truyền thống và những tiềm năng, thế mạnh sẵn có.
Thực tế những năm gần đây cho thấy ở những vùng chú trọng quy
hoạch phát triển doanh nghiệp làng nghề một cách khoa học, bài bản và thực
chất thì những làng đó có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ ổn định và nhanh hơn. Ví dụ tại làng Bát Tràng, ngoài những hộ kinh tế
gia đình, các doanh nghiệp đang được thành lập với quy mô và tốc độ một
cách tương đối hợp lý nên các hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển một
cách chủ động. Hiện tại trong làng có 65 doanh nghiệp, trong đó 64% là
doanh nghiệp sản xuất, 17% doanh nghiệp cung ứng vật tư, 19% doanh
nghiệp marketing. Theo đánh giá của tác giả, cơ cấu như vậy khá hợp lý. Và
thực tế sản xuất và xuất khẩu đồ gốm, sứ ở Bát Tràng đã có bước phát triển
tốt, mang lại nhiều giá trị kinh tế xã hội cho địa phương.
3.4.1.2. Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
Phát triển bền vững là vấn đề được đặt ra nhiều trong thời gian gần đây,
như là một tất yếu đối với nhiều quốc gia. Nó không chỉ là mục tiêu cấp thiết trước
mắt, mà còn là chiến lược lâu dài. Phát triển bền vững không chỉ ở lĩnh vực kinh
tế, mà còn đặt ra với nhiều lĩnh vực khác như văn hoá, nhân văn cộng đồng,...
Trong quá trình tồn tại, đổi mới và phát triển, làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề không thể không tính đến tính bền vững, coi đó như là một mục
tiêu bao trùm để có bước đi và hướng đi thích hợp. Vì vậy, khi xây dựng
chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề cần chú trọng
những yếu tố sâu đây:
- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
phải đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội của từng phạm vi
nhất định, tuỳ thuộc vào quy mô (xã, huyện, tỉnh và trên phạm vi toàn quốc).
Đây là yếu tố cần được khẳng định từ nhận thức đến hành động. Thực tiễn
cho thấy, không ít nơi còn lúng túng trong vấn đề này. Lý do, có thể ở nơi đó
152
còn coi nhẹ vị trí, vai trò của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, hoặc họ chỉ
nhìn phiến diện, chỉ thấy giá trị kinh tế, chưa nhìn thấy đầy đủ giá trị xã hội,
giá trị văn hoá, giá trị nhân văn, hoặc cũng có thể vì những lý do khác;
- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
phải tính đến điều kiện tự nhiên của khu vực đó. Điều kiện tự nhiên thể hiện
rất rõ nét trong từng sản phẩm của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề. Cũng
là một loại sản phẩm, chẳng hạn như mặt hàng gốm, sứ, nhưng sản xuất ở Bát
Tràng khác sản xuất tại Chu Đậu hoặc sản xuất tại Lái Thiêu (Bình Dương);
- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
không tách rời những vấn đề xã hội, đó là nhân tố con người, kỹ năng, sự
sáng tạo, sự đoàn kết, đồng thuận, thu nhập, chính sách đãi ngộ nghệ nhân,
đào tạo, bồi dưỡng, truyền nghề, nối nghiệp, các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp,...;
- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề hiện nay càng không thể bỏ
qua vấn đề môi trường. Môi trường đang là vấn đề được cả thế giới quan tâm.
Sự ô nhiễm môi trường trong các làng nghề đang là một tiếng chuông cảnh
tỉnh những người khi xây dựng chiến lược phát triển làng nghề. Trước đây, do
làng nghề phát triển một cách tự phát, không có quy hoạch, không có chiến
lược lâu dài, cộng với khó khăn về tài chính, nên làng nghề bị ảnh hưởng
nặng nề vì môi trường ô nhiễm;
- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập
WTO thì phải tính toán với sự tổng hòa của văn hoá truyền thống của địa
phương. Ngoài nền văn hoá chung của cả nước, mỗi làng, mỗi địa phương lại
có phong tục, tập quán, nét văn hoá riêng biệt, điều đó thường được thể hiện
qua các sản phẩm của làng nghề. Bỏ qua yếu tố này, các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ dễ bị mất đi vẻ đẹp truyền thống vốn có của địa phương. Đã đến lúc
phải nâng cao nhận thức mới về những giá trị vô hình, phi vật thể, như cách
153
nói phổ biến hiện nay trong từng sản phẩm, trong từng nét đặc trưng của mỗi
làng nghề, doanh nghiệp làng nghề. Nó là sự kết tinh của văn hoá bản địa có
chiều dài lịch sử hàng trăm năm;
- Trong thời đại ngày nay, nhất là khi Việt Nam đã mở rộng cửa với thị
trường thế giới, thì sự giao lưu giữa các dân tộc, giữa các nước càng phát triển
mạnh mẽ. Các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề là nơi thu hút đông đảo du
khách nước ngoài đến thăm quan và mua sắm. Vì vậy, xây dựng chiến lược
phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề phải tính đến phát triển các loại
hình du lịch;
Đó là những yếu tố chủ yếu không thể bỏ qua, ngoài ra việc xây dựng chiến
lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề cũng cần tính đến những yếu
tố khác như tác động của khoa học, công nghệ đối với quá trình sản xuất, kinh
doanh, sự biến động của thị trường thế giới về nhu cầu, thị hiếu, phương thức mua
sắm, điều kiện tự nhiên, khí hậu những vùng có quan hệ nhập khẩu hàng hoá của
ta và phong tục tập quán, luật lệ của những nước nhập khẩu,...
3.4.1.3. Xây dựng mô hình và cơ chế quản lý phát triển làng nghề và doanh
nghiệp làng nghề
Khi xem xét, xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế quản lý phát triển làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề, cần xác định những tiêu chí mà làng nghề đáp
ứng và những điều khoản mà doanh nghiệp đảm bảo trong Luật Doanh nghiệp.
Thứ nhất, đối với làng nghề: i/ có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn
tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn; ii/ Hoạt động sản xuất kinh doanh
ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; iii/ chấp hành
tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp làng nghề thì dễ dàng xác định hơn vì đã
có những điều khoản ghi rõ trong Luật Doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý làng nghề và doanh nghiệp làng nghề cần phải tuân thủ
các quy luật của kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và của Luật
154
Doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/ 2005. Việc xây dựng,
điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế quản lý làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Việc này đòi hỏi phải
nắm bắt đúng quy luật kinh tế, như quy luật cung cầu, quy luật giá trị cũng
như các tác động của quy luật đó trong điều kiện nhất định. Sự tác động của
các quy luật kinh tế tại các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề mang tính trực
tiếp. Đó là làng nghề, doanh nghiệp làng nghề giúp cho kinh tế địa phương trở
nên năng động, kích thích, tạo ra những động lực mới cho địa phương. Tuy
nhiên, cũng cần tính đến những mặt trái của những tác động đó như chạy theo
lợi nhuận, làm hàng kém phẩm chất, không chú trọng đến việc bảo vệ môi
trường, bỏ qua việc xử lý nước thải,... Chính vì vậy chính quyền địa phương
cần phải can thiệp để điều chỉnh, nhằm hướng tới đạt được những tác động
tích cực.
Mô hình quản lý làng nghề, doanh nghiệp làng nghề phải phát huy tối
đa các yêu cầu xuất khẩu hàng hoá. Các cấp chính quyền từ Trung ương đến
địa phương, các doanh nghiệp sản xuất hộ gia đình, hợp tác xã, người dân tại
địa phương đều tham gia việc quản lý này. Để các bên tham gia vào mô hình
phát huy chủ động vai trò của mình, cũng như có sự kết hợp chặt chẽ hiệu quả
với các chủ thể khác, cơ chế quản lý làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có sự
phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp của các bên tham gia
nhằm phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.
Ngoài ra vai trò các hiệp hội làng nghề cũng cần được phát huy trong quá
trình xây dụng và phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.
Thực tế hiện nay, việc quản lý làng nghề có nhiều bất cập. Nhiều hộ
kinh tế gia đình, tổ sản xuất và ngay cả doanh nghiệp khi có vấn đề cần giải
quyết, ý kiến tham khảo, đề đạt, chứng nhận,... không biết tìm đến cơ quan
nào, bộ phận nào. Các hộ kinh tế gia đình và tổ hợp sản xuất tại các làng nghề
chủ yếu do chính quyền địa phương thôn xã quản lý hành chính, nhưng cũng
155
chỉ có vai trò khi xin cấp đất đai, mở rộng nhà xưởng, còn những vấn đề khác
như quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý lao động và nhiều mặt khác thì
không rõ vai trò của ai. Các hợp tác xã làng nghề, về danh nghĩa, thực hiện
theo Luật Hợp tác xã, nhưng Luật này hiện nay tại nông thôn còn yếu, do vậy
cơ chế quản lý cũng hầu như tập trung vào chính quyền địa phương. Doanh
nghiệp làng nghề chủ yếu hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đã được Quốc
hội thông qua ngày 29/11/2000, nhưng cũng chịu sự quản lý khá chặt chẽ của
chính quyền địa phương thôn xã. Muốn có cơ chế quản lý tốt tại các làng
nghề và doanh nghiệp làng nghề, cần có sự tách bạch quản lý hành chính và
quản lý theo luật định. Các cấp chính quyền không can thiệp sâu vào hoạt
động của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề. Có chăng chỉ tạo điều kiện
thuận lợi những khâu như cấp đất đai, mở rộng nhà xưởng, phát triển nguồn
nguyên liệu, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,... Cần tăng thêm vai trò của các
cơ quan hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu như xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu
Luật
Luật
tư, khuyến nông vào hoạt động làng nghề và doanh nghiệp làng nghề.
Chính
Hợp tác Doanh quyền
xã nghiệp
Doanh nghiệp làng nghề
Hiệp hội làng nghề và sản phẩm làng ghề Trung ương
Hộ gia đình và tổ hợp sản xuất Hợp tác xã làng nghề
Hình 3.1. Mô hình quản lý làng nghề và doanh nghiệp Làng nghề
156
3.4.1.4. Tạo chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến xuất khẩu
Để có một sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu được sản phẩm đó
là một quá trình, bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn có mối liên hệ mật
thiết với nhau cùng hỗ trợ nhau phát triển. Quá trình đó bao gồm từ khâu
nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, markting, xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong từng khâu đó lại có những công đoạn khác nhau, hỗ
trợ nhau thực hiện những chức năng riêng trong công đoạn đó.
Hình 3.2. Liên kết chuỗi giá trị hoạt động của làng nghề và doanh nghiệp
làng nghề
Sản Xuất Thiết R&D Cung ứng Mar- keting xuất khẩu kế
- R&D: là giai đoạn đầu tiên cho sản xuất và xuất khẩu. Trước hết phải
nghiên cứu khả năng sản xuất mặt hàng, bao gồm đất đai, nguyên liệu, điện,
nước, lao động, giao thông vận tải,... phục cho việc sản xuất mặt hàng đó.
Trong quá trình nghiên cứu, cũng cần xem xét khả năng tiêu thụ của mặt hàng
này tại thị trường nước ngoài, nếu chỉ chú trọng nghiên cứu sản xuất mà
không nghiên cứu nhu cầu thị trường thì sản xuất không thể tồn tại.
- Thiết kế mẫu mã: Đối với hàng thủ công mỹ nghệ, mẫu mã, chủng
loại, hình dáng, màu sắc có ý nghĩa quan trọng. Chiếm phần quan trọng tạo
nên giá trị sản phẩm. Trong những năm qua, khâu thiết kế mẫu mã, chủng
loại, hình dáng hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và doanh nghiệp làng
nghề còn yếu. Phần lớn mẫu mã dựa vào ý tưởng của người đặt hàng hoặc sản
xuất lại từ nhiều năm trước. Vì vậy giá trị hàng hoá không cao. Muốn sản xuất
và xuất khẩu có hiệu quả, làng nghề và doanh nghiệp làng nghề phải tăng
157
thêm chi phí cho việc thiết kế mẫu mã và đào tạo lớp người thợ có chuyên
môn cao về lĩnh vực này.
- Cung ứng nguyên liệu: đối với hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của
các làng nghề là rất quan trọng. Nếu làm tốt mắt xích này sẽ đảm bảo cho sản
xuất ổn định, mặt khác nếu khâu cung ứng đảm bảo đúng quy trình, đúng kỹ
thuật sẽ đảm bảo nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, giữ vững thị trường
tạo công ăn việc làm và thu nhập cho các làng nghề.
- Sản xuất: là quá trình tổng hợp bao gồm nhiều công đoạn và yếu tố
kết hợp với nhau, từ việc cung ứng nguyên liệu, xử lý nguyên liệu, vận hành
(chế tác) đến việc hoàn thiện sản phẩm,... với việc thực hiện lao động bằng
thủ công kết hợp với nhiều loại công nghệ, máy móc khác nhau. Có thể nói,
sản xuất là quá trình quyết định tạo nên giá trị sản phẩm. Vì vậy, mọi chi phí,
trí tuệ, thời gian chiếm phần nhiều vào quá trình sản xuất.
- Markting: Thuật ngữ marketing xuất hiện chủ yếu từ khi có nền kinh
tế thị trường nhưng thực tế trong các nước phát triển đã có từ lâu. Hiện nay,
công tác marketing cũng có vai trò quan trọng khi việc tiêu thụ đã mang tính
quyết định đối với sản xuất hàng hoá.
- Xuất khẩu: là một khâu cuối cùng của cả quá trình hoạt động của làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề, là khâu thực hiện thu về giá trị của sản phẩm
hàng hoá. Tất nhiên, xuất khẩu cũng bao gồm nhiều công đoạn và yếu tố khác
nhau, liên kết với nhau, như chào hàng, ký kết hợp đồng, giao hàng, thanh
toán,... mỗi công đoạn này lại bao gồm nhiều công việc phức tạp. Hiện nay,
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu do các doanh nghiệp làng nghề
thực hiện. Nhưng phần lớn những doanh nghiệp này lại thiếu kinh nghiệm,
thiếu vốn, thiếu cán bộ có năng lực, cho nên nhiều vấn đề nảy sinh trong xuất
khẩu, làm giảm hiệu quả thực tế của hàng hoá. Đây là một trong những điểm
yếu hiện nay cần khắc phục trong hoạt động doanh nghiệp làng nghề.
158
Như vậy, hoạt động của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề bao gồm
các khâu, các công đoạn như trên. Quá trình này liên kết thành chuỗi, từ khâu
đầu tiên là nghiên cứu đến khâu cuối cùng là xuất khẩu. Muốn xuất khẩu có
hiệu quả, thì phải phát triển công tác marketing, sản xuất phải đạt chất lượng,
năng suất. Muốn sản xuất tốt, thì quá trình nghiên cứu, thiết kế mẫu mã,
chủng loại phải đáp ứng nhu cầu thị trường, phải có nguồn nguyên liệu đảm
bảo. Tức là các khâu, các công đoạn này liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
nhau phát triển. Trong chuỗi liên kết này, nếu khâu nào yếu hoặc chậm trễ thì
sẽ kéo theo cả quá trình hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy hoạt động trong các
khâu, các công đoạn của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề phải có mối liên
hệ thật sự chặt chẽ và gắn bó với nhau, không thể coi thường yếu tố nào.
3.4.1.5. Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của các Hiệp hội làng nghề và
Hiệp hội ngành hàng
Hiện nay khi mà Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề không thể đóng cửa tự mình
sản xuất, kinh doanh mà không có mối quan hệ với các đối tượng khác. Mở
rộng các mối quan hệ, tạo nên mối liên kết, các làng nghề và doanh nghiệp
làng nghề bổ sung cho nhau những điều kiện cần thiết mà tự mình còn hạn
chế.
Sự liên kết giữa các làng nghề cùng sản xuất hoặc kinh doanh những
mặt hàng hoặc chủng loại mặt hàng giống nhau, có thể trên cùng một địa bàn
hoặc tại những địa phương khác nhau. Chẳng hạn, làng gốm Bát Tràng liên
kết với gốm Chu Đậu hoặc gốm Biên Hoà, gốm Lái Thiêu. Mối liên kết này
sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
trong sản xuất, kinh doanh. Các mối liên kết đó chỉ đạt được hiệu quả cao khi
có sự tham gia của các hiệp hội làng nghề, như Hiệp hội làng nghề Việt Nam
và hiệp hội ngành nghề như Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng
như các hiệp hội có liên quan như Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ,....
159
Khi các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề tạo mối quan hệ chặt chẽ
với nhau thông qua các hiệp hội, thì những kiến nghị với Nhà nước về hỗ trợ
tài chính và các yêu cầu khác chắc chắn sẽ được đáp ứng dễ dàng hơn, vì đây
mang tiếng nói chung của cả một cộng đồng. Các làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề có thể hợp lực với nhau thông qua các tổ chức nghề nghiệp như
Hiệp hội gốm, sứ, Hiệp hội mây tre đan, Hiệp hội sơn mài, Hiệp hội Gỗ và
Lâm sản Việt Nam,...
Tạo nên mối liên kết làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thông qua các
hiệp hội, cũng sẽ dễ dàng thu nhận thông tin từ các cơ quan chức năng của các
bộ, ngành, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài do việc cung cấp
thông tin tập trung hơn, chủ động hơn và cũng rẻ hơn khi phải cung cấp cho
từng làng nghề, từng doanh nghiệp. Việc thu nhận thông tin đa dạng, nhiều
chiều sẽ giúp làng nghề, doanh nghiệp làng nghề xác định được mục tiêu và
hình thức sản xuất, kinh doanh hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
Việc liên kết các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề cũng sẽ tạo điều
kiện cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người thợ được tập
trung hơn, hiệu quả hơn. Hiện tại việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề
cho người thợ rất khó khăn, do tự các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề
không đủ chi phí, năng lực và kiến thức. Sự liên kết sẽ bù đắp được những
nhược điểm này. Chẳng hạn, các làng nghề gốm liên kết với nhau để mở các
lớp học về sản xuất gốm. Như vậy sẽ dễ dàng và ít tốn kém hơn nhiều.
Việc liên kết sẽ tạo ra thế mạnh cho các làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề trong xuất khẩu sản phẩm của mình, tránh được sự ép cấp, ép giá của
khách hàng nhất là tư thương và chi phí giao dịch, vận tải, các thủ tục cần
thiết cũng được giảm nhiều.
Các hiệp hội không những là đầu mối tạo nên các mối liên kết, mà còn
là nơi tập hợp những kiến nghị, đề xuất của làng nghề và doanh nghiệp làng
nghề với các cơ quan hữu quan, cũng là nơi có thể hỗ trợ đắc lực trong việc
160
kết nối và thông tin về bạn hàng, tìm kiếm thị trường, nghiệp vụ chuyên môn
và giới thiệu sản phẩm,... Vì vậy các hiệp hội cần nhanh chóng kiện toàn cơ
cấu tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động để giúp làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
3.4.2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
3.4.2.1. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển sản xuất và xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Để phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Nhà nước
đã ban hành một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc trong sản xuất, kinh doanh mặt hàng này. Các cơ chế, chính sách này
được thể hiện qua các Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ban, ngành hữu quan. Đến nay đã có
nhưng văn bản chủ yếu, đó là:
- Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 về một số chính
sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Cơ quan chịu trách
nhiệm thực hiện là Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nội dung chủ yếu
là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và áp dụng những chính sách nhằm
đảm bảo quyền lợi cho các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn, đặc biệt là
các nghề truyền thống, nhằm thoả mãn yêu cầu thị trường tiêu thụ trong nước
và xuất khẩu, thu hút lao động và góp phần tạo ra công ăn việc làm ở nông
thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo.
- Quyết định 138/2000/QĐ-TTg ngày 29/11/2000 về phối hợp giữa các
dự án trong vùng, dự án hỗ trợ các dân tộc thiểu số gặp khó khăn. Trong
quyết định này có chương trình hỗ trợ cho các xã miền núi, vùng sâu, vùng
xa, bao gồm việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trung tâm cụm xã.
- Quyết định 132/2001/QĐ-TTg ngày 7/9/2001 về cơ chế tài chính,
thực hiện các chương trình phát triển đường nông thôn và cơ sở hạ tầng phục
161
vụ nông, ngư nghiệp và làng nghề. Cơ quan chịu trách nhiệm là Bộ Tài chính.
Nội dung chủ yếu là khuyến khích các địa phương huy động mọi nguồn lực
và tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển đường và cơ sở
hạ tầng nông thôn phục vụ nông, ngư nghiệp và làng nghề. Quyết định cũng
nêu rõ, các tỉnh có thể vay tín dụng ưu đãi 0% cho những dự án này.
Ngoài những văn bản pháp quy của chính phủ, nhiều bộ, ban, ngành,
như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hoá
- Thể thao - Du lịch, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội,... cũng có những
thông tư, chỉ thị, quyết định thể chế hoá những văn bản của Chính phủ. Nội
dung tập trung vào những lĩnh vực sau:
- Đất đai cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh;
- Phát triển nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất;
- Các chính sách về đầu tư tín dụng;
- Chính sách, biện pháp về thông tin thị trường;
- Chính sách, biện pháp về hỗ trợ xúc tiến thương mại;
- Các quy định về khoa học, công nghệ, môi trường;
- Chính sách về chất lượng sản phẩm, hỗ trợ tiêu thụ;
- Chính sách về lao động và đào tạo;
- Chính sách khuyến công;
- Chính sách đối với các nghệ nhân;
- Các quy định về trách nhiệm của các Bộ, ngành, ban, địa phương
trong lĩnh vực này.
Nhìn chung, các văn bản của Chính phủ và các Bộ, ngành đã thể hiện ý
chí của Nhà nước trong việc mở rộng, phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề, đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, thể hiện một cách khá
toàn diện trên các lĩnh vực liên quan. Tuy nhiên, trong thực tế, đến nay việc
sản xuất, kinh doanh của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề vẫn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc do chính sách, cơ chế chậm được đổi mới, không theo
162
kịp sự biến đổi của thực tế cuộc sống và việc thực thi những chính sách này
còn còn nhiều bất cập.
Điển hình trong những khó khăn nhất của làng nghề và doanh nghiệp
làng nghề hiện nay là vốn. Tuy Nhà nước đã có những văn bản hỗ trợ làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề về vốn, nhưng đi vay vốn ngân hàng không dễ
chút nào. Cụ thể, các điều kiện để được vay vốn rất khắt khe, từ việc đánh giá
tài sản thế chấp, cầm cố thường quá thấp so với thực tế, việc xem xét phương
án kinh doanh và khả năng hoàn trả rất chặt chẽ, chưa kể một số tiêu cực của
nhân viên ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp làng nghề phải tìm đến tín dụng
“đen” với mức lãi suất cao hơn để đảo nợ. Với kinh tế hộ gia đình là chủ yếu
trong các làng nghề hoặc các doanh nghiệp mới thành lập thì tài sản thế chấp
là vấn đề khó thực hiện.
Ngoài khó khăn về vốn, mặt bằng cho sản xuất cũng đang là vấn đề nan
giải. Các văn bản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khi thể chế hoá
chính sách của Nhà nước đều nêu rõ sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ
mặt bằng để sản xuất. Tuy nhiên thực tế lại không hoàn toàn như vậy. Theo
khảo sát của Hiệp hội làng nghề Việt Nam “đến nay, phần lớn diện tích đất đai
ở vị trí thuận lợi đã được giao cho các dự án, lập các khu, cụm công nghiệp.
Giá đất đã cao, chi phí san lấp, xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn, cho nên các
doanh nghiệp làng nghề, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể thuê
lại mặt bằng ở các khu, cụm công nghiệp được. Song việc cấp đất cho doanh
nghiệp ở những vùng lẫn với dân cư cũng không được, nhất là doanh nghiệp
làng nghề, vì gây ra ô nhiễm môi trường. Vì vậy, để giải quyết mặt bằng cho
các doanh nghiệp hiện nay, cần có chính sách trợ giúp về sử dụng kết cấu hạ
tầng và giải quyết môi trường cho doanh nghiệp để có thể thuê mặt bằng ở các
khu, cụm công nghiệp đã có; hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng các khu, cụm
công nghiệp cho làng nghề, chịu chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng, trợ giúp và
giảm nhẹ giá thuê để doanh nghiệp có thể thuê đất với giá thấp nhất” [109]
163
Trong chính sách về phát triển, khai thác và sử dụng nguyên liệu cho
sản xuất làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, cần chú trọng hơn nữa khâu
trồng rừng và nghiên cứu sử dụng những loại gỗ tiềm năng. Đồng thời phải cụ
thể hoá chính sách tiết kiệm những loại nguyên liệu không tái sinh được.
Xúc tiến thương mại là một yếu tố quan trọng để tăng cường xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ. Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp làng nghề nói riêng về hoạt động xúc tiến
thương mại. Trong đó chủ yếu là hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khi tham
gia triển lãm, hội chợ; hỗ trợ thông tin thị trường hàng hoá thế giới. Nhưng
thực tế nhiều doanh nghiệp làng nghề chưa được hưởng hoặc chỉ được hưởng
rất ít chế độ, chính sách này. Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ
đạo đổi mới chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại theo hình thức hỗ trợ trực
tiếp cho những hợp đồng đã được ký kết và thực hiện.
Mặc dù chính sách đào tạo nhân lực cho làng nghề và doanh nghiệp
làng nghề cũng đã được đề ra trong nhiều văn bản. Nhưng hiện nay công tác
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho làng nghề đang có nhiều bất cập.
Trong doanh nghiệp, nhân lực được coi là tài sản quý giá nhất, là nguồn
vốn đặc biệt, yếu tố đảm bảo cho năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp. Chúng ta đã có hàng trăm trường dạy nghề, nhưng
học sinh, sinh viên ra trường không đủ kỹ năng cần thiết để tham gia thị
trường lao động, các nhà đầu tư phải đào tạo lại, đào tạo bổ sung rất tốn kém.
Hơn nữa, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp của lao động nước
ta còn thiếu, thể lực cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Sự thiếu hụt lao động đang
dẫn đến tình trạng di chuyển lao động qua đào tạo giữa các vùng, các ngành,
nghề, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường lao động.
Đến nay, chưa thấy có một trường đại học, cao đẳng nào đào tạo riêng
cho làng nghề, mà chủ yếu những nguời thợ trong làng nghề được đào tạo tại
164
chỗ, kèm cặp là chính. Vì vậy, sắp tới, Nhà nước cần có chính sách cụ thể về
vấn đề này.
Ngoài việc hoàn thiện, đổi mới những cơ chế, chính sách chủ yếu trên,
Nhà nước cũng cần nhanh chóng đưa ra những chính sách hợp lý hơn về đầu
tư, đổi mới công nghệ, chính sách nghệ nhân, chính sách khuyến công,... để
tạo điều kiện cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề phát triển bền vững.
Một trong những khâu cần cải tiến là quy trình cung ứng từ khâu đầu
vào đến xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề cần nhanh, tập
trung và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tác giả xin đề xuất mô hình về hoạt
Hộ gia đình
Đại lý 1
Đại lý 2
Doanh nghiệp xuất khẩu
Thị trường thế giới
Doanh nghiệp sản xuất chế biến
Doanh nghiệp thu mua nguyên liệu
Đại lý 3
Hợp tác xã
động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của các làng nghề,
Hình 3.3. Mô hình hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề
Giải thích mô hình hoạt động như sau: Trước hết phải hình thành các
đại lý, doanh nghiệp khai thác và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ theo từng chủng loại khác nhau, như đại lý cung ứng đất sét để
sản xuất hàng gốm sứ, đại lý cung ứng mây, nứa, tre để sản xuất hàng mây
tre,... Các đại lý này cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chuyên thu
165
mua nguyên liệu. Sau đó nguồn nguyên liệu này được chế biến (có thể là sơ
chế hoặc tinh chế) rồi được cung ứng cho các hộ gia đình, doanh nghiệp sản
xuất, tổ hợp hoặc hợp tác xã trong làng nghề. Các hộ gia, hợp tác xã thực hiện
quá trình sản xuất, tạo ra các thành phẩm, chuyển giao cho các doanh nghiệp
kinh doanh để các doanh nghiệp này thực hiện công đoạn cuối cùng là xuất
khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới.
3.4.2.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, vốn, thị trường cho làng nghề và
doanh nghiệp làng nghề
Một trong những vấn đề nan giải nhất của làng nghề Việt Nam hiện nay
là cơ sở hạ tầng quá yếu kém. Sự yếu kém đó được thể hiện rõ nét nhất trong
hệ thống giao thông vận tải, năng lượng và kho tàng, cơ sở sản xuất. Vận tải
đường sông tăng trưởng kém nhất, mặc dù nước ta có hệ thống sông, ngòi dày
đặc. Vận tải biển cũng còn xa mới đáp ứng được yêu cầu. Hơn 70% tổng
lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phải thuê tàu biển nước ngoài. Trong
mùa mưa bão, khi có thiên tai, lũ lụt, tình trạng giao thông bị chia cắt, đi lại
khó khăn. Doanh nghiệp thêm thời gian và tốn kém thêm về chi phí và thời
gian.
Cơ sở hạ tầng của ngay các hộ gia đình và doanh nghiệp làng nghề
cũng còn thấp kém. Cho đến nay, các hộ gia đình vẫn chủ yếu sản xuất ngay
tại khuôn viên gia đình sinh sống, kho tàng, xưởng sản xuất rất chật hẹp, máy
móc thiếu, lạc hậu. Tình trạng này tại các doanh nghiệp cũng chẳng hơn gì
mấy. Các doanh nghiệp vẫn thiếu mặt bằng sản xuất, thiếu điện, thiếu nước,
thiếu hệ thống xử lý chất thải. Do vậy, tình trạng ô nhiễm môi trường trong
các làng nghề hầu như không được cải thiện, ngược lại có nguy cơ xấu hơn.
Vì vậy việc tập trung đầu tư xây dựng, cải tạo kết cấu hạ tầng đang là một yêu
cầu rất lớn và cấp bách.
Ngoài đầu tư cải tạo hạ tầng cơ sở tại các làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề, đầu tư vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng đang là đòi hỏi lớn
166
của các hộ sản xuất, tổ hợp, hợp tác xã và đặc biệt là các doanh nghiệp làng
nghề. Hạn chế về vốn đã cản trở việc mở rộng sản xuất và tiếp cận thị trường,
đồng thời cũng là nguyên nhân tạo nên sự yếu kém trong cạnh tranh hàng hoá
với các nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, vì các nước đó ứng dụng công
nghệ máy móc phổ biến, nên năng suất lao động tăng nhanh. Nhà nước cần có
chế độ ưu đãi đặc biệt về điều kiện vay vốn và lãi suất cho các hộ sản xuất, tổ
hợp, hợp tác xã và doanh nghiệp làng nghề, vì đây là doanh nghiệp thuộc loại
nhỏ và vừa.
3.4.2.3. Đổi mới và ứng dụng công nghệ hiện đại kết hợp với công nghệ truyền
thống
Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão và
đang ngày càng tác động trực tiếp, to lớn đến mọi mặt sản xuất, đời sống xã
hội. Trong hoạt động của các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề cũng đang
ứng dụng ngày càng nhiều thành tựu khoa học, công nghệ, và hàm lượng khoa
học, công nghệ trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cũng đang ngày càng
tăng lên.
Phương pháp và kỹ thuật sản xuất truyền thống vừa tạo ra sản phẩm
độc đáo, tinh xảo, mang bản sắc của từng làng nghề, vừa mang tính thương
mại. Tuy nhiên, trong thời đại khoa học, công nghệ hiện nay các làng nghề,
doanh nghiệp làng nghề phải biết tận dụng những thành tựu đó và phải tăng
cường áp dụng máy móc, thiết bị vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuỳ
thuộc vào những loại ngành nghề, sản phẩm mà có sự kết hợp giữa thủ công
và máy móc ở những mức độ khác nhau. Đối với một số sản phẩm, chỉ cần
lựa chọn những khâu, những công đoạn thích hợp giữ lại những nét điển hình
của phong cách truyền thống, còn các khâu, các công đoạn khác như cắt, gọt,
tiện, nung,... thì có thể sử dụng và tăng cường máy móc, công nghệ mới để có
thể sản xuất hàng loạt. Xu hướng là sử dụng các máy móc, công nghệ tiên
tiến, hiện đại, nhưng trong những điều kiện nhất định vẫn có thể tận dụng loại
167
bình thường để vừa tiết kiệm chi phí, vừa sử dụng được nguồn lao động đang
dư thừa. Đối với một số ngành nghề truyền thống lâu đời đang có xu hướng bị
mai một, cần nghiên cứu kỹ, nếu sản phẩm thực sự tiêu biểu cho nền văn hoá
truyền thống cần phải lưu giữ, thì nhà nước cần có chính sách kịp thời để
phục hồi lại làng nghề đó, nhằm phục vụ công tác bảo tồn, bảo tàng, thu hút
khách du lịch.
3.4.2.4. Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
Trong bất kỳ lĩnh vực nào, con người bao giờ cũng là trung tâm, là yếu
tố quyết định sự thành, bại của mọi công việc. Thực tế hiện nay tuy ngành
nghề thủ công đang phải đối mặt với vô vàn khó khăn, song các làng nghề
không gặp khó khăn lớn về lực lượng lao động phổ thông tham gia sản xuất.
Điều đó cho thấy, nghề thủ công đóng vai trò rất lớn trong việc tạo việc làm ở
địa phương. Những năm gần đây, lớp lao động trẻ ở nông thôn đã có trình độ
văn hoá cao hơn lớp thợ tuổi trung niên trở lên, vì hầu hết lớp thợ này đã tốt
nghiệp phổ thông trung học. Chỉ có một số lao động ở vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số thì còn trình độ thấp.
Tuy nhiên, lao động có trình độ kỹ thuật sản xuất cao đang thiếu trầm
trọng. Có thể thấy rằng, mặc dù có lực lượng dồi dào, nhưng các làng nghề lại
thiếu thợ có tay nghề cao. Đây chính là yếu tố dẫn đến sự cạnh tranh yếu của
các sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên thị trường.
Chính phủ cũng đã quan tâm đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực và
hỗ trợ các hoạt động đào tạo. Tuy nhiên, ưu tiên vẫn chỉ tập trung vào ngành
công nghiệp. Do đó, cần phải có một cơ chế phát triển nguồn nhân lực hiệu
quả cho ngành thủ công mỹ nghệ.
Vì vậy, cần nghiên cứu sâu hơn về công tác đào tạo đội ngũ kỹ thuật và
nhân sự tham gia vào phát triển sản phẩm để khắc phục những nhược điểm
như hạn chế kỹ thuật và thiếu thông tin của các làng nghề.
168
Bồi dưỡng đội ngũ thợ kỹ thuật: Mặc dù Bộ Lao động thương binh &
xã hội quản lý các trường dạy nghề, nhưng trên thực tế nhiều ban, ngành hoặc
ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Lao động thương binh & xã hội cũng tham gia
quản lý. Hầu như chưa có khoá đào tạo ngành nghề thủ công mỹ nghệ cụ thể
nào. Kết quả điều tra khảo sát của các địa phương cho thấy, chỉ có rất ít
trường có các khoá đào tạo về nghề thủ công mỹ nghệ. Kỹ thuật sản xuất chủ
yếu được dạy trong các khoá học chính thức ở các trường dạy nghề. Tuy
nhiên, qua quá trình thực hiện dự án thí điểm có thể thấy rằng các khoá học về
kỹ thuật thường không phù hợp với học viên học nghề thủ công. Nguyên nhân
là do các hoạt động đào tạo tay nghề kỹ thuật cho thợ thủ công tại các trường
dạy nghề và một số tổ chức khác bố trí không thuận lợi về mặt thời gian vì cả
người hướng dẫn và học viên đều bận tham gia các hoạt động nông nghiệp,
nên khó có thể dành thời gian tham dự các khoá học ở thị xã hoặc trung tâm
thành phố. Hơn nữa, kỹ thuật tay nghề thủ công thường có tính huyết thống
hay được thừa hưởng từ gia đình, do đó thường được truyền cho người nhà. Hầu
hết chương trình giảng dạy về tăng cường kỹ năng giao dịch trên thị trường, đàm
phán và năng lực quản lý cho cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa đều
do các tổ chức cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh cung cấp. Tại các làng
nghề, thợ thủ công thường đồng thời là người quản lý các cơ sở sản xuất nhỏ, do
đó, nâng cao kiến thức cho thợ thủ công không nên chỉ giới hạn ở kỹ thuật sản
xuất, mà còn phải nâng cao cả kiến thức quản lý kinh doanh theo các chương
trình bồi dưỡng nguồn nhân lực cho làng nghề.
Triển khai chiến lược tiếp cận thị trường là việc làm cần thiết để phát
triển sản phẩm. Cũng cần phải có năng lực điều phối để kết nối việc phát triển
sản phẩm với thị trường, đồng thời bồi dưỡng những cá nhân có năng lực thực
hiện. Hiện nay các cơ sở đào tạo thiết kế tập trung bồi dưỡng các nhà thiết kế,
phát huy hết khả năng sáng tạo của họ. Tuy nhiên, do lĩnh vực thiết kế mở
rộng, nên công tác thiết kế mẫu mã có vai trò ngày càng tăng. Do đó, các tổ
169
chức giáo dục và đào tạo cần điều chỉnh giáo trình giảng dạy sao cho phù hợp
với xu thế mới này.
Để có thể vừa phát triển sản phẩm và nguồn nhân lực, ngành nghề thủ
công mỹ nghệ cần có sự liên kết chặt chẽ với cơ sở đào tạo để đào tạo thế hệ
trẻ về phát triển sản phẩm. Việc xây dựng một hệ thống và cơ chế hỗ trợ như
hỗ trợ về tài chính của Chính phủ cho hoạt động phát triển nguồn nhân lực
cũng rất quan trọng. Cán bộ chịu trách nhiệm về phát triển sản phẩm và phát
triển thị trường cần phải có những điều kiện dưới đây:
- Có khả năng nắm bắt và phân tích được đối tượng khách hàng mục
tiêu;
- Có thể đánh giá sản phẩm và xu hướng thị trường;
- Có khả năng nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng, lối sống và xu hướng
tiêu dùng;
- Có khả năng điều chỉnh cạnh tranh về giá như thiết lập quy cách kỹ
thuật về mẫu mã, xác định những biện pháp khắc phục điều kiện sản xuất,
điều phối,...;
- Nắm được những kênh phân phối phù hợp và có thể phát triển các
phương pháp và chiến lược thúc đẩy bạn hàng.
Mới đây, Chính phủ đã dự kiến xây dựng đề án phát triển nguồn nhân
lực cho nông thôn đến năm 2020 với tổng chi phí lên đến 32 ngàn tỷ đồng.
Đây là sự thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc phát triển ngành nghề
nông thôn, đẩy nhanh quá trình công nghệp hoá nông nghiệp, nông thôn.
3.4.2.5. Gắn phát triển làng nghề với phát triển văn hoá du lịch ®Ó t¨ng cêng
ho¹t ®éng xuÊt khÈu t¹i chç
Ngày nay, du lịch đang trở thành một ngành dịch vụ rất quan trọng đối
với nhiều quốc gia trên thế giới. Có những nước doanh thu từ du lịch chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong GDP.
170
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa thị trường, Việt Nam đang
ngày càng thu hút được nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Trong
đó du lịch làng nghề thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
Làng nghề được xác định là một tiềm năng, lợi thế to lớn và rất quan
trọng trong chiến lược phát triển bền vững của du lịch Việt Nam. Làng nghề
du lịch là sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển làng nghề và du lịch. Điều đó
hoàn toàn phù hợp với phương châm du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế
hoạch, bảo đảm hài hoà giữa lợi ích kinh tế xã hội và môi trường; phát triển
có trọng tâm theo hướng du lịch văn hoá lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn
tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch. Phát triển du lịch làng nghề sẽ thu
hút được sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong
phát triển du lịch, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để
quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Làng nghề du lịch là một
trong những tài nguyên du lịch nhân văn cần khai thác. Đó là truyền thống
văn hoá, yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích cách mạng, lịch sử, khảo
cổ, kiến trúc, các công trình sáng tạo của con người và di sản văn hoá vật thể,
phi vật thể.
Làng nghề truyền thống phát triển trên cơ sở kết hợp với du lịch văn
hoá, đảm bảo những gắn kết đặc điểm, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển
kinh tế xã hội và cơ sở hạ tầng của từng địa phương với việc bảo tồn văn hoá.
Phát triển du lịch làng nghề là cách thức quảng bá thương hiệu sản
phẩm làng nghề, là một hình thức xuất khẩu tại chỗ có hiệu quả.
Tuy nhiên, hiện nay làng nghề truyền thống trở thành làng nghề du lịch
còn quá ít. Cơ sở hạ tầng yếu kém, môi trường ô nhiễm nặng là trở ngại lớn
cho việc xây dựng làng nghề trở thành làng nghề du lịch. Hơn nữa, bản thân
các làng nghề truyền thống không có điều kiện tiếp cận và khảo sát nhu cầu
của khách, trong khi đó, cấp chính quyền cơ sở, các hội, hiệp hội và doanh
171
nghiệp chưa khẳng định rõ vai trò của mình và trách nhiệm, định hướng cho
việc bảo tồn, phát huy và khai thác của loại hình du lịch này.
Để làm tốt hơn nữa việc kết hợp phát triển làng nghề với phát triển du
lịch làng nghề, cần xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển làng nghề trên
toàn quốc. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các làng nghề, cần mở rộng
công tác tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế trong làng nghề để du lịch
làng nghề phát triển đúng hướng và hiệu quả, cần có chính sách đồng bộ về
phát triển cơ sở hạ tầng trong làng nghề, nhanh chóng phân cấp quản lý từ
Trung ương đến địa phương và cuối cùng là cần phát triển đồng bộ các thị
trường du lịch.
Tóm lại, phát triển triển làng nghề là động lực cho phát triển du lịch và
ngược lại, nếu du lịch phát triển sẽ tạo điều kiện cho làng nghề phát triển
nhanh hơn.
3.5. Một số kiến nghị phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
3.5.1. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước
- Đối với Chính phủ: cần 3 định hướng hỗ trợ:
+ Hỗ trợ để có nguồn hàng có quy mô phù hợp với thị trường;
+ Hỗ trợ để giới thiệu sản phẩm tại chỗ;
+ Hỗ trợ để phát triển thị trường xuất khẩu.
* Tạo hành lang cơ chế chính sách để phát triển sản xuất tại các làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề nhằm nâng quy mô sản xuất hàng hóa.
+ Quy hoạch trong phạm vi cả nước các vùng nguyên liệu tập trung và
nguyên liệu phân tán. Đặc biệt là 1 số loại nguyên liệu chính như tre nứa, cói,
song mây, gỗ, lá buông, đất sét. Chỉ đạo các địa phương thực hiện nghiêm túc
theo quy hoạch.
172
+ Quy hoạch tổng thể hệ thống làng nghề trong cả nước theo hai hệ
thống:
Khu vực đã có làng nghề đang hoạt động hặc đã bị mai một thất truyền;
Khu vực chưa có làng nghề nhưng hội tụ đủ các yếu tố cáo thể phát
triển làng nghề.
+ Tạo nguồn vốn từ chính quy hoạch tạo quỹ đất để tập trung đầu tư hạ
tầng tới các vùng nguyên liệu, tới làng nghề.
+ Mở các trường đào tạo nghề, đào tạo người quản lý tại các vùng nông
thôn thuộc vùng quy hoạch nhiều làng nghề.
Mỗi tỉnh cần có 1 trường đào tạo người quản lý trình độ sơ cấp, trung
cấp, thời gian học từ 1 - 3 năm.
Mỗi huyện từ 1 - 2 trường đào tạo nghề, thời gian học 1 - 6 tháng.
Việc mở trường hoàn toàn có thể thực hiện được nếu chính phủ và địa
phương tạo cơ chế tốt về đất đai, thủ tục hành chính mở trường.
+ Khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ tối đa để hình thành nhiều doanh
nghiệp làng nghề, mà nòng cốt là hình thành và phát triển từ những cơ sở sản
xuất, có những chủ cơ sở có năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh tại làng
nghề. Đây là 1 hướng đi quan trọng nhằm nâng cao quy mô phát triển sản
xuất thông qua con đường tích tụ và tập trung nguồn lực sản xuất tại địa
phương, tại làng nghề.
* Hỗ trợ để sản phẩm sản xuất ra từ các làng nghề, doanh nghiệp làng
nghề có cơ hội tiếp cận với thị trường.
+ Mỗi làng nghề, khu vực làng nghề cần hình thành nơi trưng bày hàng
hóa tập trung nhằm giao dịch, trưng bày, bán buôn, bán lẻ với đầy đủ chủng
loại hàng hóa của làng nghề như 1 mô hình chợ làng nghề.
Đây là con đường nhanh nhất để sản phẩm sản xuất ra có thể tiếp cận
nhanh với khách du lịch, với các nhà kinh doanh trong nước và nước ngoài.
173
Kinh nghiệm thực tiễn thành công là làng gốm cổ Bát Tràng đã hình
thành chợ gốm, hàng năm thu hút hàng trăm ngàn khách từ trong nước và
nước ngoài tới tiếp cận với sản phẩm gốm Bát Tràng.
Ở Miền Bắc có thể hình thành: Chợ tơ tụa Hà Đông; chợ mây tre đan
Chương Mỹ - Hà Nội; chợ cói Nga Sơn – Thanh Hóa; chợ hàng thổ cẩm Lai
Châu,…
Ở Miền Nam có thể hình thành chợ gốm Bình Dương; chợ mây tre lá
Biên Hòa,...
+ Cần hình thành 2 khu vực Miền Bắc và Miền Nam mội năm 2 kỳ hội
chợ quốc tế lớn chuyên hàng thủ công mỹ nghệ theo đúng nghĩa là hội chợ
quốc tế - Tạo cơ chế mời gọi khách quốc tế tới Việt Nam tham quan, tìm cơ
hội mua bán, kinh doanh.
* Đầu tư thích đáng cho chương trình xúc tiến thương mại quốc gia cho
ngành hàng thủ công mỹ nghệ nhằm:
+ Mở rộng mạng thương mại điện tử, sàn giao dịch hàng thủ công mỹ
nghệ ở cấp quốc gia.
+ Tạo cơ hội về kinh phí, tiếp cận với các thị trường nước ngoài của
các thương nhân, doanh nghiệp. Đặc biệt là tham gia các hội chợ quốc tế lớn
tại Châu Âu, Châu Mỹ, Nhật Bản, Trung Đông.
+ Đầu tư xây dựng thương hiệu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam gắn
liền với thương hiệu quốc gia mà các mặt hàng gốm, mây tre, gỗ mỹ nghệ,
thêu ren,… là các nhãn hiệu dẫn đường. Trong những năm qua chương trình
này đã thực hiện những chưa được đầu tư chính đáng nên hiệu quả chưa cao.
Cần quảng bá bằng nhiều kênh khách nhau như: Thông qua hoạt động kinh tế
thương mại cấp Nhà nước; sử dụng hữu hiệu công nghệ truyền thông, phim
ảnh và giới thiệu tuyên truyền qua cộng đồng người Việt Nam tại hơn 100
Quốc gia trên thế giới,...
174
Để thực hiện tốt chương trình hộ trợ của cấp Nhà nước cần thể chế hóa
bằng pháp luật và văn bản dưới luật, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các
ngành, các địa phương thực hiện theo thẩm quyền.
Trong thời gian qua Nhà nước đã có một số văn bản chính sách phát
triển làng nghề, chẳng hạn, Quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000
về “Một số chính sách khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn” và Nghị
định 06/2006/NĐ-CP về “Phát triển ngành nghề nông thôn”,... Tuy nhiên vẫn
còn thiếu những hướng dẫn cụ thể như đầu tư tín dụng; thông tin thị trường;
hỗ trợ xúc tiến thương mại; chất lượng sản phẩm; hỗ trợ tiêu thụ; lao động,
đào tạo; khuyến công; chính sách đối với nghệ nhân,... cần phải điều chỉnh
kịp thời.
- Đối với các Bộ, ngành
Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy nhanh xuất khẩu
hàng thủ công mỹ nghệ có liên quan đến nhiều Bộ, ngành. Nhưng vai trò
chính vẫn là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ
Văn hoá - Thể thao- Du lịch, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội. Những
kiến nghị sau đây:
+ Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn: Vấn đề thúc đẩy phát triển
ngành nghề thủ công truyền thống cần được xem xét một cách toàn diện trên
quan điểm phát triển nông thôn nói chung có cân nhắc tới vấn đề nghề thủ
công mỹ nghệ được bắt nguồn từ các làng nghề và trên 80% dân số sống tại
khu vực nông thôn. Vì vậy kiến nghị với Bộ Nông nghiệp & phát triển nông
thôn:
a. Hỗ trợ phát triển bền vững làng nghề, đặc biệt là các làng tham gia sản xuất
các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống.
b. Nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn, giảm tỷ lệ nghèo, đói.
Để thực hiện 2 vấn đề cơ bản này, cần có các chính sách, hoạt động cơ
bản:
175
* Xây dựng hệ thống sản xuất bền vững và cạnh tranh;
* Cải thiện hệ thống phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ;
* Tăng cường hệ thống hỗ trợ cho người dân tộc thiểu số;
* Tăng cường năng lực của làng nghề;
* Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hỗ trợ;
- Bộ Công Thương:
* Hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp để tăng cường tính cạnh tranh cho hàng
thủ công mỹ nghệ.
* Tăng cường hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp làng nghề bằng
các cơ chế, chính sách quy định của Nhà nước về xúc tiến thương mại. Đặc
biệt tạo điều kiện thuận lợi về tài chính, thông tin cho làng nghề, doanh
nghiệp làng nghề nghiên cứu thị trường nước ngoài, tham gia triển lãm, hội
chợ trong nước và nước ngoài.
- Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội: Hỗ trợ tăng cường đào tạo dạy
nghề và cải tiến điều kiện làm việc, bảo tồn và phát triển các kỹ thuật sản xuất
thủ công truyền thống để những nguời lao động có năng lực tham gia vào sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ có môi trường và điều kiện làm việc tốt hơn và
có ý thức hơn về yêu cầu phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
- Bộ Kế hoạch - Đầu tư: Tăng cường hỗ trợ làng nghề phục hồi các dự
án phát triển các ngành nghề thủ công ở từng vùng, đồng thời đảm bảo nội
dung hoạt động của dự án đáp ứng nhu cầu các đối tượng hưởng lợi. Kết hợp
các vấn đề phát triển ngành thủ công vào các đề án hiện có.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hỗ trợ đào tạo nghề bằng việc mở các
trường cao đẳng và đại học có nhiều ngành học liên quan đến sản xuất và kinh
doanh các sản phẩm làng nghề; đồng thời, xây dựng tài liệu giảng dạy để phát
triển nguồn nhân lực cần thiết cho ngành nghề thủ công.
- Bộ Khoa học và Công nghệ: Hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng suất,
cải tiến kỹ thuật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
176
- Bộ Tài nguyên và Môi trường: Cần phát triển hệ thống đánh giá
hiện trạng môi trường tại các cơ sở, làng nghề; đề xuất các giải pháp cụ thể
để các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sản xuất và kinh doanh đúng
hướng để cải thiện và bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ cho người lao
động và dân cư trong vùng sản xuất.
- Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch: Tổng cục Du lịch cần tăng cường
mối liện hệ với các làng nghề để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Đối với các làng nghề dân tộc thiểu số, nên cân nhắc kỹ công tác bảo tồn lối
sống và văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc.
3.5.2. Kiến nghị với các địa phương
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần phát triển kinh tế địa phương
và bảo tồn các giá trị truyền thống. Vì vậy, chính quyền địa phương cần đặc
biệt quan tâm phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ ở cấp tỉnh bám sát
chủ trương cơ chế hỗ trợ của Nhà nước để triển khai phù hợp và đúng yêu
cầu. Ngành nghề thủ công được quản lý thông qua các văn bản hướng dẫn
của ủy ban nhân dân tỉnh, đồng thời được sự hỗ trợ của các Bộ, ngành. Ở
nhiều nơi trong tỉnh, các ban, ngành tổ chức, huyện, xã cùng tham gia các
hoạt động hỗ trợ làng nghề. Các tổ chức này hiểu rõ tình hình địa phương,
tình hình các khu vực sản xuất, nên chính quyền địa phương giao nhiệm vụ
cho các tổ chức này là các đối tác chủ chốt tại cấp cơ sở để thúc đẩy phát
triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.
Chính quyền địa phương đóng vai trò nòng cốt trong việc phối hợp với
các thành phần kinh tế địa phương có liên quan trong hoạt động phát triển
ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Nói cách khác, chính quyền địa phương phải
trực tiếp hỗ trợ các khu vực sản xuất như là cầu nối giữa vùng sản xuất và
chính quyền trung ương. Đề nghị chính quyền địa phương:
177
* Giám sát, quản lý các biện pháp, chương trình liên quan đến ngành
nghề thủ công mỹ nghệ để khuyến khích phát triển ngành nghề này;
* Triển khai các biện pháp của Chính phủ sao cho phù hợp với đặc
điểm của mỗi vùng sản xuất;
* Khuyến khích, hướng dẫn và hỗ trợ các giải pháp phù hợp với từng
vùng sản xuất bằng cách tập hợp ý kiến và xác định nhu cầu ở cấp cơ sở về
các vấn đề liên quan đến ngành nghề thủ công mỹ nghệ;
3.5.3. Kiến nghị với các hiệp hội
Hiệp hội là một tổ chức phi chính phủ, được thành lập theo ý chí
nguyện vọng, yêu cầu của một nhóm các cá nhân hoặc doanh nghiệp.
Hiệp hội có nhiệm vụ hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp, đơn vị về
những yêu cầu nghiệp vụ, chuyên môn, thông tin hay kiến nghị với cơ quan
chức năng về các yêu cầu của các cá nhân, doanh nghiệp, đơn vị thuộc hiệp
hội.
Trong cơ chế thị trường và trong quá trình hội nhập, hiệp hội có vai trò
rất quan trọng với một yêu cầu đặt ra theo tác giả “vai trò của Hiệp hội là tạo
sự liên kết, kết nối, hỗ trợ lẫn nhau giữa những người sản xuất, doanh nghiệp
nhằm phát huy sức mạnh liên kết, tạo lợi thế quy mô, giảm chi phí sản xuất
kinh doanh, đồng thời là nơi tuyên truyền thực hiện chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước tới cơ sở và ngược lại. Kịp thời phản ánh nhu cầu của cơ
sở tới Nhà nước nhằm thay đổi cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn”. Đến
nay, nước ta đã thành lập nhiều hiệp hội ngành nghề, làng nghề liên quan đến
sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Chẳng hạn, ở Trung ương có
hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Lâm
sản Việt Nam; ở nhiều địa phương có làng nghề, doanh nghiệp làng nghề như
Bát Tràng có Hiệp hội Gốm, sứ Bát Tràng,...
178
Tuy phương châm hành động, mục tiêu thực hiện rất thiết thực, nhưng
vì đa số mới được thành lập, cơ sở vật chất có hạn, đội ngũ cán bộ còn chắp
vá, khả năng tài chính phụ thuộc vào hội viên, nên thực chất đến nay vai trò
của hiệp hội ngành nghề và làng nghề còn hạn chế. Để phát huy tốt chức
năng, nhiệm vụ, mục tiêu của hiệp hội, cần có nhận thức mới về tổ chức này.
Bản thân các hiệp hội cũng cần có sự đổi mới, năng động, sáng tạo hơn để
hiệp hội thực sự là cầu nối giữa làng nghề, doanh nghiệp làng nghề với Chính
phủ, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố; là nơi cung cấp
thông tin quan trọng về tình hình sản xuất, thị trường, khách hàng trong và
ngoài nước, là động lực thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
179
KẾT LUẬN
Với đường lối cải cách mở cửa, đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh
đạo, trong hơn 20 năm qua, đến nay đã thu được những thành tựu quan trọng.
Bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi nhanh chóng, vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế đã được nâng lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, so với nhiều
quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam vẫn là một nước nghèo,
lạc hậu. Vì vậy, đẩy nhanh phát triển kinh tế là một nhiệm vụ, mục tiêu quan
trọng của đất nước trong những năm tiếp theo. Để đạt được những mục tiêu,
định hướng phát triển kinh tế xã hội thì phải phát triển một cách toàn diện tất
cả mọi lĩnh vực ở mọi ngành, mọi cấp. Trong đó xuất khẩu là một lĩnh vực có
tầm quan trọng đặc biệt. Những năm gần đây, lĩnh vực xuất khẩu đã có những
bước tiến nhanh. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng trưởng với tốc độ
khoảng trên 20%/năm. Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đã đạt gần 63 tỷ USD,
tăng 29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu được mở rộng. Ngày nay
Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên
thế giới. Cơ cấu mặt hàng cũng đã có sự thay đổi nhanh chóng. Năm 2009 có
trên 10 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện tại, một số
mặt hàng xuất khẩu chủ lực đang gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào
cản thương mại mới ngày càng nhiều với những hành vi bảo hộ tinh vi tại các
thị trường lớn. Việc tăng giá trị xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào giá cả thế giới
và những thị trường xuất khẩu lớn. Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó
khăn, thì chi phí đầu vào không giảm, thậm chí còn tăng cao như lương công
nhân, lãi suất ngân hàng, chi phí tiêu cực, khiến nhiều doanh nghiệp đang
đứng trước nguy cơ giảm sút mạnh. Hơn nữa, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều
vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ sản; các mặt hàng công nghiệp
chế biến chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công; các mặt hàng xuất khẩu
chưa đa dạng, phong phú; số lượng mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch
180
lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai
thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông
qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để
hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Cho đến nay, chúng ta vẫn
chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại
song phương và khu vực đã được ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai
thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.
Đồng thời, việc tiếp cận nguồn vốn vay cho sản xuất, kinh doanh vẫn bất cập,
mặc dù lãi suất đã giảm nhiều, nhất là đối với các mặt hàng nông, lâm, thuỷ
sản, hàng thủ công mỹ nghệ và đối với với các doanh nghiệp dịch vụ, điều
này cũng làm chi phí tăng cao, ảnh hưởng tới khả năng của hàng hoá xuất
khẩu.
Trước thực trạng đó, cần đa dạng hoá chủng loại hoá và thị trường xuất
khẩu để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và đối phó với những bất cập, rủi ro
có thể xảy ra. Trong xu hướng đó, thì đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ là một hướng đi đúng đắn và thích hợp.
Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không những mang lại giá trị về
kinh tế, mà còn có ý nghĩa lớn về vấn đề xã hội. Đó là việc giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động với số lượng lớn; là công cụ đắc lực để thực hiện
mục tiêu xoá đói, giảm nghèo; là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động trong xã hội. Đồng thời cũng là giải pháp cơ bản thực
hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Làng nghề, doanh nghiệp làng nghề là nơi sản xuất và kinh doanh chủ
yếu mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Hiện nay, trong cả nước có hơn 2000 làng
nghề và hàng chục ngàn doanh nghiệp làng nghề đang hoạt động trên nhiều
lĩnh vực, chủ yếu là sản xuất và kinh doanh hàng thủ công, trong đó phần
quan trọng là hàng thủ công mỹ nghệ.
181
Tuy các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sản xuất và kinh doanh
hàng thủ công mỹ nghệ, mang lại nhiều lợi ích thiết thực về kinh tế và xã hội,
nhưng hiện tại, làng nghề và doanh nghiệp làng nghề vẫn còn nhiều điều bất
cập. Đó là kết cấu cơ sở hạ tầng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề còn
yếu kém; môi trường ô nhiễm nặng; kỹ thuật, công nghệ sản xuất lạc hậu; đề
tài, mẫu mã sản phẩm chậm được cải tiến; thiếu vốn sản xuất, kinh doanh;
nguồn nguyên liệu đang cạn dần. Đặc biệt việc triển khai những những chủ
trương, đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa thực hiện
tốt và đồng bộ; vai trò làng nghề chưa được chú trọng và nâng cao.
Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc. Do cơ cấu và chủng loại mặt hàng thủ công mỹ nghệ còn manh
mún, phân tán, đơn điệu; đề tài, mẫu mã chậm được cải tiến; chất lượng hàng
hoá không cao. Kết quả là sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt
Nam trên thị trường thế giới thấp. Điều này làm hạn chế khả năng tiếp cận thị
trường mới, duy trì và mở rộng thị trường truyền thống.
Nguyên nhân của sự hạn chế trên là do nội lực làng nghề, doanh nghiệp
làng nghề và cả phía các cơ quan quản lý Nhà nước.
Nhà nước, tuy đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phát triển làng
nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ, nhưng nhiều cơ quan thực hiện, chủ yếu là các bộ, ngành triển khai còn
chậm và không đồng bộ. Nhiều chính sách đưa ra, nhưng chính quyền địa
phương không thực hiện nghiêm túc làm cho làng nghề và doanh nghiệp làng
nghề gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Chẳng hạn như việc giải quyết đất đai
để mở rộng mặt bằng sản xuất, việc vay vốn ngân hàng, đầu tư cải tạo nâng
cấp hạ tầng cơ sở, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ hoạt động xúc tiến
thương mại,....
Về phía làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, chưa theo kịp cơ chế thị
trường, tư tưởng ỷ lại Nhà nước còn phổ biến, thiếu tính chủ động, sáng tạo
182
trong tổ chức sản xuất và kinh doanh, thiếu sự liên kết, thiếu sự cạnh tranh
lành mạnh; không ít làng nghề, doanh nghiệp làng nghề còn có tư tưởng làm
ăn chụp giật, không giữ chữ “tín” với khách hàng
Từ thực trạng trên, rút ra một một nhận định có tính tổng quát là, phát
triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để mở rộng xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ trong thời kỳ hội nhập là một hướng đi đúng đắn và cấp bách đối với
tình hình đất nước hiện nay và trong nhiều năm tới.
Muốn phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì phải giải quyết những khó khăn, vướng mắc
đang xảy ra. Điều đó trước hết phụ thuộc vào sự cố gắng, sự năng động, sáng
tạo của chính các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề, đồng thời, không thể
tách rời những cơ chế, chính sách của Nhà nước và việc vận dụng thực hiện
của các bộ, ngành, địa phương.
Tuy đã có những cố gắng nhưng với những khó khăn khách quan, những
giới hạn về năng lực cá nhân của người thực hiện, luận án không thể tránh khỏi
còn những hạn chế nhất định. Trong quá trình thực hiện luận án, bên cạnh sự cố
gắng của bản thân, tác giả còn nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ một cách hiệu quả
của nhiều cá nhân và tổ chức. Tác giả cũng bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất
đến các thầy giáo hướng dẫn khoa học, các giáo viên, cán bộ lãnh đạo Trường
Đại học Ngoại thương, lãnh đạo và các nhà quản trị doanh nghiệp, các chuyên
gia, các nhà nghiên cứu chuyên ngành, các doanh nghiệp, các cá nhân đã tạo
điều kiện, cung cấp các thông tin tư liệu thực tế, góp ý chân thành cho nội dung
luận án và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, tháng 07 năm 2009
183
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lan Anh (2002), “Đổi thay phố nghề Hà Nội”, Báo Thương mại. (số
52).
2. Nguyễn Phương Bắc (2000), “Hoàn thiện các chính sách nhằm thúc
đẩy phát triển bền vững khu vực kinh tế làng nghề”, Tạp chí Kinh tế
và Dự báo. (số 327). tr. 23.
3. Báo cáo Tổng hợp Bảo tồn & Phát triển làng nghề ĐBSH trong quá
trình CNH-HĐH (1999), Trung tâm KHXH&NV- Viện Kinh tế học,
tr.31
4. Quang Bình (2001), “Tự hào thương hiệu Barotex”, Tạp chí Thương
mại. (số 3). tr. 41.
5. Bộ Công thương (2007-2008), Báo cáo tổng kết 2 năm (2007-2008),
Hà Nội.
6. Bộ Thương mại (2000-2006), Báo cáo tổng kết 7 năm (2000 - 2006),
Hà Nội.
7. Bộ Thương mại (2002), Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ
2001 – 2010, Hà Nội.
8. Bộ Thương mại (2007), Đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thời
kỳ 2006 – 2010, Hà Nội.
9. Bộ NN&PTNT (2002), Báo cáo đánh giá thực trạng và định hướng
phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2010, Hà Nội.
10. Hoàng Văn Châu và tập thể tác giả (2006), Xây dựng và Phát triển mô
hình làng nghề du lịch của một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ, Mã số B2005-40-51-TĐ.
11. Hoàng Văn Châu, Phạm Thị Hồng Yến, Lê Thị Thu Hà (2007), Làng
nghề du lịch Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
12. Trần Đình Chính ( 2001), “Giải pháp nào cho lao động dôi dư ?”, Báo
Nhân Dân (số 11722).
184
13. Trung Chính và Thanh Châu (2001), “Tản mạn về một làng nghề”,
Báo Nhân Dân (số 16745).
14. Cao Cương (2000), “Doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu: chưa được Nhà
nước hỗ trợ thực sự”, Thời báo kinh tế Sài Gòn (số 24/2000), trang
16.
15. Nguyễn Tiến Cường (2001), “Làng gốm Bát Tràng”, Báo Nhân Dân
(số 16921),
16. Nguyễn Sinh Cúc (2001), “Làng nghề và việc làm ở nông thôn”. Báo
Nhân Dân (số 16620).
17. Phạm Thành Dân (2001), “Doanh nghiệp- nhà tiên phong bảo vệ môi
trường”. Tạp chí Thương mại. (số 13/ 2001). tr 3.
18. Nguyễn Dũng (2008), “Làng lụa “chạy” cầm chừng”, Thời báo doanh
nhân. (số 39).
19. Trần Lê Dũng (2000), “Để ngành gốm, sứ Việt Nam phát triển nhanh
trong tương lai”, Tạp chí Thương mại. (số 4/2000). tr 26.
20. Trọng Duy (2001), “Vất vả nghề đan lát Phúc Long”, Báo Nhân Dân.
(số 16893).
21. Nguyễn Văn Điểm (2001), “ Sáu giải pháp cho khôi phục và phát
triển làng nghề ở Bắc Ninh”, Tạp chí Thương mại. (số 6/2001). tr 12.
22. Vũ Bá Định (2001), “Các doanh nghiệp Việt Nam làm gì đề cạnh
tranh”, Thời báo Ngân hàng. (số 27).
23. Vũ Bá Định (2001), “Từ kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tạp chí Thương mại. (số 1/2001). tr 3. 24. Đào Đức (2001), “Làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu”, Tạp chí
Thương mại. (số11/2001). tr 23.
25. Đào Đức (2000), “Hàng thủ công mỹ nghệ trở lại vũ đài xuất khẩu”,
Tạp chí Thương mại. (số 16/2000). tr 21.
26. Trần xuân Giá (2001), “Để doanh nghiệp tại Việt Nam hoạt động có
hiệu quả”, Tạp chí Thương mại. (số1/2001). tr 5.
185
27. Hà Thanh Giang (2001), “Sứ Thanh Trì sang thị trường nhiều nước”;
Báo Nhân Dân. (số 16730).
28. Nguyễn Hà (2000), “Thị trường Canada - còn chỗ cho da giày, thủ
công mỹ nghệ”, Thời báo kinh tế Sài Gòn. (số 23/2000). tr 38.
29. Lê Văn Hải (2008), “Giải pháp tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề ở
các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ”, Tạp chí Thương mại. (số 9/2008). 30. Tiền Hải (2001), “Nhật Bản- đối tác tiềm năng của Việt Nam”, Báo
Thương mại. (số 13).
31. Hữu Hạnh (2001), “Lợi thế xuất khẩu các doanh nghiệp thương mại”,
Báo Nhân Dân. (số 16853).
32. Mỹ Hạnh (2000), “Chợ gốm trên sông”, Báo Thương mại. (số 101). 33. Song Hành (2000), “Đường đi cho cói Kim Sơn”, Tạp chí thương
mại. (số17/2000). tr 12
34. Nguyễn Thế Hào (2000), “Bắc Ninh - Tiềm năng và phát triển”, Báo
Diễn đàn doanh nghiệp. (số 27).
35. H.D (2001), “Hàng thủ công mỹ nghệ sang Canada”, Báo Nhân Dân.
(số 16658).
36. Lê Phương Hiên (2001), “Thoát nghèo từ chiếu cói và đồng vốn nhỏ”,
Báo Nhân Dân. (số 16659).
37. Hoàng Hiền và Hoàng Hùng (2008), “Giải pháp tháo gỡ khó khăn cho
các làng nghề”, Báo Nhân Dân. (số 19477).
38. Lê Thị Kim Hoa (2008), “Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho
sản phẩm làng nghề của tỉnh Thái Bình”,Tạp chí Thương mại.(số
21/2008). tr 3.
39. Đặng Công Hoà (2001), “Vì sao người dân ít được vay vốn ngân
hàng”, Báo Nhân Dân. (số 16765).
40. Lê Thị Kim Hoa (2008), “Giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề
của tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Thương mại. (số 19/2008), tr 11.
186
41. Phan Hùng (2001), “Tiềm năng vùng đất trăm nghề”, Báo Nhân Dân.
(số 16860).
42. Đức Huy (2001), “Quyết tâm giữ nghề”, Báo Đầu tư, (số 38).
43. Trần Hưng (2001), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Từ Sơn”, Báo
Nhân Dân. (số 16931).
44. Đắc Hữu (2001), “Hà Tây - đất trăm nghề”, Báo Nhân Dân. (số
16693).
45. Trần Công Huyền (2001), “Làng nghề và nghệ nhân thời đổi mới”,
Báo Hà Nội mới. (số 11670).
46. P.K (2000), “Mừng, lo một làng nghề”, Tạp chí Thương mại. (số
6/2000). tr 13.
47. Dương Công Khả (2000), “Người đánh thức nghề gốm Vĩnh Long”,
Thời báo kinh tế Sài Gòn. (số 25/2000). tr 28.
48. Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến, Vũ Thị Hiền (2007): Chuyển dịch
cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam; NXB Thống kê, Hà Nội.
49. Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến (2006): Thương hiệu hàng thủ
công mỹ nghệ truyền thống. NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội.
50. Vũ Khoan (2001), “Xuất khẩu những mạt hàng thị trường cần và
được giá”, Báo Nhân Dân. (số16707).
51. Nguyễn Khôi (2001), “Cái mới ở Nga Sơn”, Báo Nhân Dân. (số
16691).
52. Phạm Khu (2001), “Thổ cẩm - một sản phẩm độc đáo từ làng nghề
truyền thống Cao Bằng”; Tạp chí thương mại. (số27/2001).
53. Vũ Kiểm (2001), “Ba làng nghề, một nỗi lo”, Báo Nhân dân. (số
16762).
54. Nguyễn Xuân Lan (2001), “Gốm Vĩnh Long - hạ giá và ngắc ngoải”,
Báo Diễn đàn doanh nghiệp. (số 62).
55. Trần Lâm (1999), “Nguyên nhân tăng trưởng ở sứ Thanh Trì”; Tạp
chí Thương mại. (số 17/1999). trang 20.
187
56. Đắc Lê (2004), Làng nghề Bắc Ninh: Tiềm năng và Hội nhập. NXB
Thế giới, Hà Nội.
57. Minh Lễ (2001), “Hà Tây - cái nôi của mây tre xuất khẩu”, Tạp chí
Thương mại. (số 11/2001). tr 9.
58. Y Linh (2001), “Bát Tràng - bảo tồn làng nghề”, Báo Hà Nội mới. (số
11619).
59. Nguyễn Thảo Linh (2008), “Hàng thủ công mỹ nghệ 2008: Bí đầu
ra”, Thời báo Doanh nhân. (số 39).
60. Hà Linh (2001), “Chợ xa cho sứ Thanh Trì” Báo Diễn đàn doanh
nghiệp. (số 24).
61. Hồ Hải Long (2007), “Ngành đồ gỗ Việt Nam: Hội nhập và phát
triển”, Thời báo Kinh tế Việt Nam.
62. Hoàng Lộc (2001), “Lá buông lại đẹp cho đời”, Thời báo Kinh tế Việt
Nam. (số 38).
63. Ngọc Lý (2001), “Làng nghề tìm đến công nghệ thông tin; Thời báo
Kinh tế Việt Nam. (số 137).
64. Xã luận (2001), “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn”; Báo Nhân
dân. (số 16836).
65. Thiếu Mai (2001), “Khôi phục làng nghề cần một chính sách đồng
bộ”, Báo Hà Nội mới. (số 11722).
66. Nguyễn Hà Minh (2008), “Làng gốm Hương Canh: Hết đất, mất
nghề” Thời báo Doanh nhân. (số 39).
67. Nguyễn Hà Minh (2008), “Trước cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu:
làng nghề lao đao”, Thời báo Doanh nhân. (số 39).
68. Dương Nguyệt Minh (2001), “Tỷ phú đi lên từ dùi đục”, Báo Diễn
dàn doanh nghiệp. (số 24).
69. Nguyễn Văn Minh (2001): “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt
Nam sang Canada”, Tạp chí Thương mại. (số 29/2001), tr 27.
188
70. Nguyễn Quang Minh (2008), “Làng nghề phá sản: Thợ mất việc”,
Thời báo Doanh nhân. (số 39).
71. N.T.N (2000), “Maketing thảm xuất khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số
7/2000). tr 3.
72. Thuý Nga (2001), “Cơ chế nào cho hoạt động làng nghề”, Báo Đầu
tư. (số 67).
73. Việt Nga (2001, “Tơ lụa Vạn Phúc”, Báo Hà Nội mới. (số 11558). 74. Thế Nghĩa (2001), “Cói mỹ nghệ”, Báo Nhân Dân. (số 16834). 75. Kiên Nghĩa (2001), “Khi người dân làng Thổ Hà tự cứu mình”, Báo
Tiền Phong. (số 73).
76. Phạm Hùng Nghị (2000), “Gốm, sứ chưa đủ nội lực”, Thời báo Kinh
tế Việt Nam. (số 17).
77. Vũ Bá Nghiêm (2001), “Quan điểm và bước đi của quá trình CNH -
HĐH nông nghiệp và nông thôn”, Tạp chí Thương mại. (số 28/2001).
tr 3.
78. Hà Tuấn Ngọc (2001), “Công ty sứ Việt Trì hồi sinh và lớn mạnh từ
đầu tư và xúc tiến thương mại), Tạp chí Thương mại. (số 26/2001). tr
25.
79. Bích Ngọc (2001), “Doanh nghiệp nói về xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ”, Báo Thương mại. (số 101).
80. Cao Ngọc (2001), “Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ -
những kiến nghị từ cơ sở”, Báo Thương mại. (số 68).
81. Vũ Hữu Ngoạn (2001), “Đi lên từ nghề truyền thống”, Báo Nhân
Dân. (số 16754).
82. Trần Nguyên (2001), “Làng nghề nông thôn”, Báo Nhân Dân. (số
16680).
83. Hoài Nhân (2001), “Di dời các cơ sở gốm ở Bình Dương”, Báo Nhân
Dân. (số 16794).
84. Nguyễn Thị Nhiễu (2001), “Vấn đề xúc tiến xuất khẩu của doanh
nghiệp nhỏ và vừa,... Tạp chí Thương mại. (số 17/2001). tr 8.
189
85. Nguyễn Kiến Phước (2001), “Rạng danh gốm sứ Minh Long”, Báo
Nhân dân. (số 16843).
86. Huỳnh Kim Phượng (1999), “Hợp tác - một hướng phát triển quan
trọng của ngành gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu Vĩnh Long”, Tạp chí
Thương mại. (số 14/1999), tr 19.
87. Minh Quang (1999), “Vì sao Haprosimex Sài Gòn đạt mức tăng
trưởng nhanh?”, Tạp chí Thương mại. (số 23/1999), tr 21.
88. Trọng Quang (2001), “Làng nghề Bát Tràng: sự lựa chọn cho tương
lai” Báo Hà Nội mới. (số 11520).
89. Đình Quân (2001), “Nỗi niềm nghề sứ”, Báo Đầu tư. (số 77).
90. Nguyễn Thái Sơn (2000), “Nghịch lý ở làng nghề Đa Sỹ”, Tạp chí
Thương mại. (số 14/2000). tr 21.
91. Phạm Côn Sơn (2007), Làng nghề truyền thống Việt Nam, NXB Văn
hoá dân tộc, Hà Nội.
92. Minh Tâm (2001), “Đẩy mạnh đầu tư cho làng nghề”, Tạp chí
Thương nghiệp thị trường Việt Nam. (số 9/2001). tr 4.
93. Hà Tâm (2001), “Doanh nghiệp ở làng quê”, Báo Đầu tư. (số 110). 94. Nghiêm Thanh (2001), “Vùng đất trăm nghề”, Báo Nhân Dân. (số
16935).
95. Phạm Thanh (2001), “Xuất khẩu với sự phát triển của làng nghề”,
Báo Hà Nội mới. (số 11787).
96. Nguyễn Thành (2008), “ Giải pháp phát triển làng nghề Thái Bình”,
Báo Nhân Dân số 19294, ngày 17/6/2008
97. Nguyễn Hữu Thắng (2000), “Để tăng nhanh hơn nữa hàng thủ công
mỹ nghệ xuất khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số 23/2000). tr 4.
98. Nguyễn Hữu Thắng ( 2009), “ Dự báo sản xuất và xuất khẩu hàng thủ
công mỹ nghệ thế giới thời gian tới”, Tạp chí Thương mại. ( số
17/2009), tr 26
190
99. Nguyễn Hữu Thắng ( 2009), “ Đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ
chế phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ”, Tạp chí
Thương mại. ( số 18/2009), tr 11
100. Quang Thư (2000), “Làng gốm Bát Tràng - tương lai sẽ là một bảo
tàng sống”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn. (số 9/2000), tr 21.
101. Anh Thư (2001), “Gốm, sứ Nam Việt, đầu tư để phát triển xuất
khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số 28/2001), tr 18.
102. Nguyễn Bá Thư (1999), “Làng nghề tạo động lực cho sản xuất hàng
hoá và đẩy mạnh xuất khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số1/1999). tr 10.
103. Vũ Hồng Thuý (2001), “Cái khó ở làng nghề Ninh Bình”, Báo Nhân
dân. (số 16680).
104. Yên Thy (2001), “Hàng mây tre xuất khẩu”, Báo Nhân Dân.
(số16714).
105. Nguyên Trung (2001), “Sức sống một làng nghề”, Báo Nhân Dân. (số
16840).
106. Phạm Tư (2001), “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ- trăn trở từ
doanh nghiệp”, Tạp chí Thương mại. (số 22/2001), tr 15.
107. Tổng cục Hải quan (2000-2007), Báo cáo 7 năm Tổng cục Hải quan
(2000-2007).
108. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2000), Báo cáo khảo sát, nghiên
cứu làng nghề.
109. Vũ Quốc Tuấn ( 2008), “ Phát triển nghề, làng nghề trong điều kiện
mới”, Tham luận tại Hội thảo “ Cơ hội đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn trong bối cảnh mới”, Hà Nội, ngày 19/8/2008
110. Từ điển tiếng Việt ( 2005), Viện ngôn ngữ học, tr 524
111. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X (2006), NXB
Chính trị Quốc gia - Hà Nội, tr 191
112. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X ( 2006), NXB
Chúnh trị Quốc gia - Hà Nội, tr 192
191
113. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X ( 2006), NXB
Chính trị Quốc gia - Hà Nội, tr 188
114. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX và lần thứ X
(năm 1998- 2002 và 2006). NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
115. Website Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hộ Đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VII ( 24-27/6/1991)
116. Website Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VIII ( 28/6-1/7-1996)
117. Bùi Văn Vượng (2000): Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam; NXB
Thanh Niên.
118. Hải Yến (2001), “Khuyến khích phát triển ngành nghề thủ công mỹ
nghệ ở nông thôn”, Báo Đầu tư. (số 55).
192
PHỤ LỤC
MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA
“Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thủ công nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
Nhằm thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam đến 2015 và 2020. Nghiên cứu do Nghiên cứu sinh Nguyễn Hữu Thắng (Tổng công ty thương mại Hà Nội) tiến hành điều tra ý kiến của các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề nhằm có cơ sở khoa học thực hiện đề tài luận án Tiến sỹ về Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thủ công nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”
Rất mong quý ông, bà dành thời gian trả lời khách quan, chính xác các nội dung của phiếu điều tra. Tôi cam đoan sẽ chỉ công bố các kết quả điều tra sau khi đã xử lý thống kê. Các thông tin riêng của Công ty sẽ được giữ bí mật.
Xin chân thành cảm ơn.
Tên Doanh nghiệp : ............................................................................................
Địa chỉ.................................................................................................................
thoại: ................................Fax:
Điện .................................Website................................
Họ và tên người trả lời:.............................. Chức vụ:.. ......... .............................
Xin vui lòng khoanh tròn vào ô thích hợp hoặc điền vào chỗ trống
1
Loại hình làng nghề mỹ nghệ?
Mỹ nghệ kim loại
1
Mỹ nghệ gỗ
2
Mỹ gốm
3
Mỹ nghệ mây tre đan
4
Mỹ nghệ khác
5
I. Thông tin chung về làng nghề.
193
2
Dưới 5 DN
1
Số lượng doanh nghiệp trong làng nghề (SX hoặc KD mỹ nghệ)
Từ 5 đến 10 DN Từ 10 đến 15 DN Trên 15 DN
2 3 4
Dưới 1 năm
1
3 Kinh nghiệm Sản xuất và xuất khẩu của làng nghề ? Nêu chỉ sản xuất hoặc chỉ kinh doanh cũng ghi rõ
2
Từ 1 đến 3 năm
3
Từ 3 đến 5 năm
4
Từ 5 đến 10 năm
5
Trên 10 năm
4
Làng Xã
tỉnh
TW
Huy ện
Làng nghề của ông/ bà đã thành lập hiệp hội chưa/ tham gia ở cấp độ nào
1
2
3
4
5
5
-Tỉnh / thành phố
Vai trò của các cơ quan xúc tiến thương mại đối với các làng nghề
- Bộ/ ngành
-Trưng ương
1
2
3
4
5
6
Vai trò của các hiệp hội ngành hàng đối với hoạt động của làng nghề
Vai trò của hiệp hội và các cơ quan xúc tiến
Thấp
Cao
194
-Vốn
1
2
3
4
5
7
- Nguyên liệu
Để phát triển làng nghề theo ông/ bà yếu tố nào là cần thiết nhất
- Lao động/ tay nghề
-Thị trường
Tầm quan trọng của các yếu tố sản xuất
1
2
3
4
5
8
Tốc độ tăng trưởng của doanh thu/ Kim ngạch xuất khẩu
Giải quyết việc làm
1
2
3
4
5
9
10 Môi trường sinh thái
1
2
3
4
5
Sự quan tấm của các làng nghề mỹ nghệ đến phát triển bền vững
Thấp
Cao
11 Loại hình sở hữu của DN ?
DN Nhà nước
1
Công ty cổ phần, công ty TNHH
2
DN tư nhân
3
Hợp tác xã, Tổ hợp tác
4
DN có vốn đầu tư nước ngoài
5
12 Quy mô vốn của DN ?
Dưới 1 tỷ đồng Việt Nam (VND)
1
Từ 1 tỷ đến 5 tỷ VND
2
Từ 5 đến 10 tỷ VND
3
Từ 10 đến 20 tỷ VND
4
Trên 20 tỷ VND
5
B. Thông tin chung về DN.
195
13 Quy mô lao động của DN
Dưới 50 người
1
Từ 50 đến 100 người
2
Từ 100 đến 300 người
3
Từ 300 đến 500 người
4
Trên 5.00 người
5
14 Kinh nghiệm xuất khẩu của DN ?
Dưới 1 năm
1
Từ 1 đến 3 năm
2
Từ 3 đến 5 năm
3
Từ 5 đến 10 năm
4
Trên 10 năm
5
15 Về giá trị sản xuất hoặc tổng doanh thu
.......................%
Tỷ trọng SX, kinh doanh của doanh n ghiệp trong tổng giá trị sản xuất hoặc tổng doanh thu của làng nghề ( Đang quản lý DN)?
....................%/năm
Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng giá trị sản xuất hoặc doanh thu của DN trong 5 năm qua
.....................%/năm
Tốc độ tăng trưởng bình quân của giá trị sản xuất hoặc doanh thu của Mỹ nghệ trong 5 năm qua
16 Về kim ngạch xuất khẩu
Tổng kim ngạch xuất khẩu của DN 5 năm qua?
....................%
..................%/năm
Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm qua
.................%/năm
Tốc độ tăng trưởng bình quân của kim ngạch xuất khẩu Ngành Mỹ nghệ trong 5 năm qua
196
17 Mức đầu tư của DN vào nghiên cứu và phát triển R&D trong
...................%
tổng doanh thu, bình quân trong 5 năm qua?
.....................%
Mức đầu tư của DN vào đào tạo người lao động, bình quân trong 5 năm qua?
Mức đầu tư của DN vào bảo vệ môi trường
.....................%
Kém Tốt
Nguồn lực tự nhiên
1
2
3
4
5
Lao động giản đơn
1
2
3
4
5
17 Chất lượng và khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào cần thiết cho hoạt động của DN
Lao động kỹ thuật
1
2
3
4
5
Vốn cố định
1
2
3
4
5
Vốn lưu động
1
2
3
4
5
Công nghệ sản xuất
1
2
3
4
5
Cơ sở hạ tầng
1
2
3
4
5
C. Đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DN.
Thấp Cao
18
1
2
3
4
5
Mức độ cạnh tranh về sản phẩm giữa các DN
Sự cạnh tranh và chia sẻ giữa các làng nghề Thủ công mỹ nghệ
1
2
3
4
5
Khả năng chia sẻ thông tin giữa các DN trong ngành
1
2
3
4
5
Khả năng di chuyển của người lao động giữa các DN trong ngành
Sự liên kết giữa các làng nghề
197
Bất lợi Thuận lợi
1
2
3
4
5
19
Tác động của các ngành hỗ trợ đến Xuất khẩu TC mỹ nghệ của DN
Các ngành hỗ trợ được hiểu là các ngành cung cấp các đầu vào
1
2
3
4
5
20
Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến ngành TCMN
1
2
3
4
5
21
Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động của DN
Xây dựng môi trường pháp lý
1
2
3
4
5
Có các chính sách hỗ trợ DN
Hiếm khi
Thường xuyên
22 Mức độ
Phân phát ấn phẩm ca-ta-lô
2
3
4
5
1
Tham gia hội chợ quốc tế
2
3
4
5
1
thường xuyên sử dụng các hình thức xúc tiến xuất khẩu
thăm khách hàng nước
1
2
3
4
5
Đi ngoài
2
3
4
5
1
Cập nhật trang web với những thông tin mới
Các chương trình quảng cáo
2
3
4
5
1
2
3
4
5
1
Thông qua các hiệp hội, tổ chức thương mại
Các chương trình khuyến mãi
2
3
4
5
1
Hình thức khác, Xin ghi rõ
2
3
4
5
1
.........................................
198
Dễ dàng Khó khăn
23 Những khó khăn của DN
Tìm kiếm nhà cung cấp
1
2
3
4
5
khi mở rộng xuất khẩu
Tiếp cận với các nguồn vốn
1
2
3
4
5
Thuê đất đai, nhà xưởng
1
2
3
4
5
Tuyển dụng lao động
1
2
3
4
5
Nghiên cứu thị trường
1
2
3
4
5
Thủ tục hành chính
1
2
3
4
5
Tìm kiếm khách hàng
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
Vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm
Thủ tục hải quan
1
2
3
4
5
Khó khăn khác, Xin ghi rõ
1
2
3
4
5
...........................................
Không Có
24
Mở rộng quy mô sản xuất, tăng xuất khẩu
1
0
Mở rộng thị trường trong nước
1
0
Chiến lược của DN trong đoạn giai 2006-2015
Mở rộng thị trường xuất khẩu
1
0
Mở rộng sang các ngành cung cấp đầu vào
1
0
Mở rộng sang các ngành có liên quan
1
0
1
0
Mở rộng sang các ngành khác, không có liên quan
Phát triển hệ thống kênh phân phối
1
0
D. Dự báo khả năng phát triển trong tương lai.
199
Giai đoạn 2006- 2010
..............%/năm
25 Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của toàn ngành
Giai đoạn 2010- 2015
................%/năm
Giai đoạn 2006- 2010
Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng giá trị sản xuất của DN
................%/năm
Giai đoạn 2010- 2015
...............%/năm
Giai đoạn 2006- 2010
..............%/năm
26 Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành
Giai đoạn 2010- 2015
................%/năm
Giai đoạn 2006- 2010
................%/năm
Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng kim ngạch xuất khẩu của DN
Giai đoạn 2010- 2015
...............%/năm
27. Các ý kiến đóng góp khác của làng nghề vàDN làng nghề liên quan đến đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 2010 đên 2015 và 2020 :
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
200
Xin chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp của Quý DN !
Xin vui lòng đóng dấu giáp lai các trang để đảm bảo tính xác thực (nếu có thể).
Mọi thông tin có liên quan xin gửi về:
NCS Nguyễn Hữu Thắng
Tổng công ty Thương mại Hà Nội
Địa chỉ: 38 - 40 Lê Thái Tổ - Quận Hoàn Kiếm- Hà Nội
Tel: 0903909724- 04.38267984
Fax: 04.38267983
Email: hapro@haprogoup.vn
201
DANH SÁCH ĐƠN VỊ ĐƯỢC ĐIỀU TRA
1) Công ty TNHH Thương mại Bảo Phương: xã Duyên Thái - Thường Tín - HN
2) Công ty TNHH Quang Minh: Ninh Sơn- Thường Tín- Hà Nội
3) Doanh nghiệp tư nhân mây tre đan xuất khẩu Dũng Nga : Hoàng Đông-
Duy Tiên- Hà Nam
4) Công ty TNHH Minh Cẩm: 73 Mạc Đĩnh Chi- TP Hải Dương- Hải Dương
5) Công ty CP Mây tre đan XK Ngọc Anh: Ninh Sở- Thường Tín- Hà Nội
6) Công ty CP Khánh Sơn: Yên Đồng, Nam Định
7) Công ty CP Sơn mài Thái Phú Cường: Duyên Thái- Thường Tín- Hà Nội
8) Doanh nghiệp tư nhân Nam Tuyến: Cát Đằng- Nam Định
9) Công ty TNHH Trung Trang: Cát Đằng- Nam Định
10) Công ty TM và SX Tân Châu: Lô33-B1-26 Phan Đăng Lưu- Đà Nẵng
11) Công ty gỗ mỹ nghệ Quang Trung: 280/2A- Cách mạnh Tháng Tám- P10-
Q3- TP.HCM
12) Công ty TNHH Thành Thuý: Cát Đằng- Nam Định
13) Công ty TNHH Bình Phú: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
14) Công ty TNHH Đăng Long: F6 Khu chế biến gỗ- P Tân Hòa- Biên Hòa.
15) Cơ sở gốm Nguyễn Thị Thu Hà: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
16) Công ty CP Đầu tư và Phát triển Việt Bắc: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
17) Công ty CP gốm Nhung: Phù Lãng- Quế Võ- Bắc Ninh
18) Công ty TNHH Hồng Lý Trường Giang 23/15 Nguyễn Hữu Tiếu- P Tây
Thạnh-Q Tân Phú- TP.HCM
19) Công ty TNHH Hà Quy: Bát Tràng- Gia lâm- Hà Nội
20) Công ty Thành Hưng: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
21) Công ty TNHH một thành viên T.T.H Việt Nam: Bát Tràng - Gia Lâm - HN
22) Công ty TNHH Bảo An- Bát Tràng: Bát Tràng- Gia lâm- Hà Nội
23) Công ty TNHH SX - DVTM Bảo Long: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
202
24) Công ty Mỹ nghệ chiến Thắng: Đồng Quang- Từ Sơn- Bắc Ninh
25) Công ty TNHH Mỹ nghệ Thăng Long: Thiết Bình, Vân Hà-Đông Anh - HN
26) Công ty CP Long Sơn: Lô3 -23A-Đường 19/5- Khu CN Tân Bình-
TP.HCM
27) Công ty TM và SX Xưởng Phát: 9B Kha Vạng Cân- P Linh Động- Thủ
Đức- TP.HCM
28) Doanh nghiệp tư nhân Tiến Huynh: Yên Lộc- Kim Sơn- Ninh Bình
29) Doanh nghiệp tư nhân chiếu cói Quang Minh: Thượng Kiệm - Kim Sơn -
Ninh Bình
30) Công ty TNHH TCMN Nhật Linh: Ngõ 4 Yecxanh- Hai Bà Trưng- Hà Nội
31) Doanh nghiệp tư nhân Thanh Tuấn: Phương Yên- Chương Mỹ- Hà Nội
32) Doanh nghiệp tư nhân Thành Đạt: Phương Yên- Chương Mỹ- Hà Nội
33) Tổ hợp tác Mây tre Yên Kiên: Phương Yên- Chương Mỹ- Hà Tây
34) Công TNHH Thủ công mỹ nghệ và Nội thất Ngọc Sơn: Chúc Sơn-
Chương Mỹ- Hà Nội
35) Công ty CP Kim Sơn: Kim Sơn - Ninh Bình
36) Xí nghiếp chiếu cói xuất khẩu Đại Đồng: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình
37) HTX Thêu Quang Trung: Thanh Liêm- Hà Nam
38) Công ty TNHH Á Châu Thăng Long: 236 Chu Văn An- P26- Q Bình
Thạnh- TP.HCM
39) Công ty mỹ thuật Hồng Quảng: số 5- Ngõ 6- Hà Trí- Hà Cầu- Hà Đông-
Hà Nội
40) Doanh nghiệp tư nhân Liệp Tuyết: Quốc Oai- Hà Nội
41) Doanh nghiệp Mây tre đan Thái Toàn: Chương Mỹ- Hà Nội
42) Doanh nghiệp Hiệp Hoà: 34 Nguyễn Thái Học- Thái Bình
43) Công ty Thương mại Hoàng Thành: Thanh Liêm- Hà Nam
44) Xí nghiệp mây tre đan Hưng Thịnh: Văn Giang- Hưng Yên
45) Công ty CP Khánh Sơn: Ý Yên- Nam Định
203
46) Cơ sở Mây tre Hữu nghị: Sài Sơn- Quốc Oai- Hà Nội
47) Doanh nghiệp gốm Phát Thành: Tân Vạn- Biên Hoà- Đồng Nai
48) Doanh nghiệp tư nhân gốm mỹ nghệ xuất khẩu An Hoà: Phước Khánh,
Tân Uyên- Bình Bương
49) Công ty TNHH Thành Phát: Đông Hoà- Dĩ An - Bình Bương
50) Cơ sở mộc Vũ Hoàng: Trường Thọ- Thủ Đức- TP. HCM
51) Công ty TNHH SX và KDTM Thịnh Thành: P13-Q Tân Bình-TP.HCM
52) Công ty TNHH Tứ Cường: P Tân Phú- Q 9- Tp.HCM
53) Cơ sở Phú Long Tân: Hoà Long- Lái Thiêu- Bình Bương
54) Công ty TNHH Minh Tuấn: P Chánh Nghĩa- Thủ Dầu Một- Bình Bương
55) Công ty TNHH SX-TM Thành Hoàng Trung: Xuân Quy- Q7- TP. HCM
56) Cơ sở Mây tre đan XK Phúc Lộc: Bình Đa- Biên Hoà- Đồng Nai
57) Doanh nghiệp tư nhân Mây tre lá Kim Nguyệt: Thị trấn Hóc Môn-
TP.HCM
58) Doanh nghiệp tư nhân Sơn Thảo: Thống Nhất- Gò Vấp-TP.HCM
59) Doanh nghiệp tư nhân SX-TM-DV- Cô Bi: P2-Q4-TP.HCM
60) Công ty TNHH Minh Huyên: Đức Mỹ- Càng Long- Trà Vinh
61) Cơ sở SX gốm MN Minh Hưng: Thuận An- Thuận Giao- Bình Dương
62) Cơ sở bán buôn mây tre lá tạp phẩm XK Bình Đa: Trảng Dài- Biên Hoà-
Đồng Nai
63) Công ty TNHH Nam Hải Dương: Khu phố 2 - Trảng Dài- Biên Hoà - ĐNai
64) HTX Thủ công mỹ nghệ XK Vĩnh Phước: TT.Ninh Hoà- Khánh Hoà
65) Công tyTNHH Mỹ nghệ Đức Thị: An Dương Vương- P9-Q5-TP.HCM
66) Tổ hợp SX-KD Phước Thành: Long An- Châu Thành -Tiền Giang
67) Cơ sở Dạ Lý Hương: 7/2 Lương Định Của- Q2- TP.HCM
68) Công ty SX-TM Khánh Lộc: Tổ 10-KP2-Q9-TP.HCM
69) Công ty TNHH Tấn Khoa: 156 nguyễn Phi Khanh- Q1- TP.HCM
70) Công ty TNHH Thanh Bình: An Hiệp- Châu Thành- Bến Tre
204
71) HTX Mành trúc Bình Minh: 184/3 Lê Văn Sỹ- Q Phú Nhuận- TP. HCM
72) Doanh nghiệp tư nhân gốm Đại Hồng Phát: Thuận An- Bình Bương
73) Doanh nghiệp tư nhân gốm XK Nguyên Ký: Tân Uyên- Bình Dương
74) Cơ sở sản xuất đồ giá gỗ Nguyễn Thị Sang : P2-Q5-TP.HCM
75) Cơ sở gốm Xuân Hiếu: Long Bình- Q9-TP.HCM
76) Công ty CP gốm Việt Thành: Hoà An- Biên Hoà- Đồng Nai
77) Doanh nghiệp tư nhân gốm Hồng Lam: Phước Khánh, Tân Uyên- BD
78) Doanh nghiệp tư nhân Năm Hạnh: Bửu Hoà- Biên Hoà- Đồng Nai
79) Công ty TNHH Tam Thanh: Bình Chuẩn- Thuận An- Bình Dương
80) Doanh nghiệp tư nhân gốm sứ Minh Đúc: Hoà Yên- Thuận An- Bình Dương
81) Cơ sở gốm MNXK Nguyễn Thành Phát: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
82) Công ty TNHH Đại Hiếu: 7/19 KP3- P Hố Nai- Biên Hoà- Đồng Nai
83) Công ty TNHH Sanh Hoà Hưng: Hoà Liên- Thuận An- Bình Dương
84) Công ty TNHH Tân Ngọc Phát: Chánh Nghĩa- TX Thủ Dầu Một- B Dương
85) Công ty TNHH Cường Phát: Thuận An- Bình Dương
86) Doanh nghiệp tư nhân Trí Tâm Đức: Bửu Hoà- Biên Hoà- Đồng Nai
87) Công ty TNHH Nam Sơn :51-53 Phổ Quang- P2-Q Tân Bình- TP.HCM
88) Công ty TNHH Lê Mai Lan: Phước Tân- Long Thành- Đồng Nai
89) Doanh nghiệp tư nhân gốm mỹ nghệ Thanh Nhã: Vĩnh Hiệp- Tân Uyên –
Bình Dương
90) Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Hưng Hoà: Tân Vĩnh Hiệp-
Tân Uyên- Bình Dương
91) Doanh nghiệp tư nhân gốm Vĩnh Phát:160/1A- Thuận An- Bình Dương
92) HTX Phước Hưng: Phước Khánh- Tân Uyên- Bình Dương
93) Doanh nghiệp tư nhân gốm sứ Vân Kiều: Tân Khánh- Tân Uyên- Bình Dương
94) Doanh nghiệp tư nhân gốm XK Vạn Phúc: Phước Khánh- Tân Uyên-Bình Dương
95) Doanh nghiệp tư nhân Định Dân: Hoà Lan- Thuận An- Bình Dương
96) Doanh nghiệp tư nhân Bình Mỹ: Bình Mỹ- Củ Chi- TP.HCM
205
97) Công ty Trí Tuệ: Dân Hoá- Thanh Oai - Hà Nội
98) DNTN Văn Chất: Hưng Mỹ- Châu Thành- Trà Vinh
99) Công ty TNHH TCMN Bình Thuận: Hàm Tân- Bình Thuận
100) DNTN Phong Sơn: P. Tân Vạn- Biên Hoà- Đồng Nai.
101) Công ty TNHH Tiến Thanh: Xóm 4- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
102) Hợp tác xã Hợp Lực: Xóm 2- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
103) Công ty TNHH gốm sứ Quang Vinh: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
104) Công ty TNHH gốm sứ Bát Tràng: Bát Tràng- Giá Lâm- Hà Nội
105) Công ty cổ phần gốm sứ 51: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
106) Công ty TNHH Thiên Phước: Bát Tràng- Gia Lâm-Hà Nội
107) Công ty TNHH Vỹnh Thắng: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
108) Công ty TNHH Hưng Thanh: Xóm 5- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-Hà Nội
109) Công ty TNHH Bát Tràng và gốm Gia Bảo: Xóm 2- Bát Tràng- Gia Lâm-
Hà Nội
110) Công ty TNHH Bình Phú: Xóm 2- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
111) Cơ sở gốm sứ Việt : Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
112) Công ty TNHH Giang Long: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
113) Công ty TNHH gốm sứ Hoàng Long: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
114) Cơ sở gốm sứ Phương Hoa: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
115) Cơ sở gốm Học Hà: Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
116) Công ty gốm mỹ nghệ Linh Trang: số 6- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-
Hà Nội
117) Cơ sở gốm sứ Hải Nhung: số 55- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
118) Cơ sở gốm sứ Duy Long: Xóm 3- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
119) Công ty XNK gốm sứ Hưng Hà: số 82- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-
Hà Nội
120) DN gốm sứ mỹ nghệ Hương Sơn: Số 84- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-
Hà Nội
206
121) Cơ sở gốm sứ Trần Đức Tân: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
122) Cơ sở gốm sứ Quang Huy: Xóm 3- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
123) Xí nghiệp tư doanh TCMN Đổi mới: Đồng Hướng- Kim Sơn- Ninh Bình
124) Xí nghiệp tư doanh chiếu cói Quang Minh: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình
125) DN tư nhân SX cói XK Thành Hóa: Khánh Nhạc- Yên Khánh- Ninh Bình
126) DN tư nhân Quỳnh Văn:Ân Hòa- Kim Sơn- Ninh Bình
127) DN tư nhân Ngọc Sơn: Hùng Tiến- Kim Sơn- Ninh Bình
128) Xí nghiệp tư doanh chiếu cói XK Quang Phong: Phát Diệm- Kim Sơn-
Ninh Bình
129) Xí nghiệp chiếu cói XK Đại Đồng: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình
130) DN tư nhân TCMN Minh Hoàng: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình
131) Xí nghiệp tư nhân cói Năng Động: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình
132) Công ty TNHH Thanh Mai: Yên Phú- Yên Mô- Ninh Bình.
133) Công ty SX thảm cói Thành Sơn: Yên Nhân- Yên Mô- Ninh Bình
134) Công ty CP chế biến cói XK Kim Sơn: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình
135) DN tư nhân Xuân Tình: Yên Mô- Ninh Bình
136) DN Hà Trung: Phú Lộc- Nho Quan- Ninh Bình
137) HTX Hải Mỹ: Kim Mỹ- Kim Sơn- Ninh Bình
138) HTX NN Kim Tân: Kim Tân- Kim Sơn- Ninh Bình
139) HTX NN Bắc Thành: Lai Thành- Kim Sơn- Ninh Bình
140) HTX Tân Khẩn Kim Mỹ: Kim Mỹ- Kim Sơn- Ninh Bình
141) HTX NN Đông Hải: Vân Hải- Kim Sơn- Ninh Bình
142) HTX Nam Thành: Lai Thành- Kim Sơn- Ninh Bình
143) HTX NN Định Hóa: Định Hóa- Kim Sơn- Ninh Bình
144) XN cói Tiến Huynh: Yên Lộc- Kim Sơn- Ninh Bình
145) Công ty CP lâm sản XK tổng hợp Bình Dương: 612 Đại lộ BD- Hiệp
Thành- Thủ Dầu Một- Bình Dương
207
146) Cơ sở mỹ nghệ Cao Văn Ninh: 206 Giáo xứ Ngô Xá- Hố Nai 3- Trảng
Bom- Đồng Nai
147) Có sở TCMN Trường Ngân: 664 Nguyễn Thái Học- Quy Nhơn- Bình Định
148) Công ty TNHH Trung Việt: Yên Nghĩa- Hà Đông- Hà Nội
149) Cơ sở TCMN Truyền Thống: Chương Mỹ Hà Nội
150) Công ty TCMN Hà Tây: Thụy Ứng - Thường Tín- Hà Nội
151) Công ty CP chế biến lâm sản Tuyên Quang: Đường Tân Hà- Minh Xuân-
Tuyên Quang
152) Công ty TNHH Minh Phú: Liên Bảo- Vụ Bản- Nam Định
153) XN đồ gỗ mỹ nghệ Đức Thắng: 41-A1 Khu CN Đồng Kỵ- Từ Sơn- Hà Nội
154) Tổ hợp song mây tre XK Huyền Thu: Trường Yên- Chương Mỹ- HN
155) HTX tre trúc Thu Hằng: Xuân Thu- Sóc Sơn- Hà Nội
156) Công ty TNHH Kim Việt:154 Nguyễn Chí Thanh- Đống Đa- Hà Nội
157) Cơ sở mây tre đan XK Lệ Tùng: Quốc lộ 6ê- Chương Mỹ- Hà Nội
158) Doanh nghiệp Thái Toàn: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội
159) Cơ sở Bùi Cao Thạnh: Ninh Sở- thường Tín- Hà Nội
160) Công ty TNHH SX-XNK hàng TCMN và Thương mại Thu Nguyệt: Ninh
Sở- Thường Tín- Hà Nội
161) Cơ sở mũ Đội Cấn : 38/279 Đội Cấn- Ba Đình- Hà Nội
162) HTX mây tre lá Hồng Kỳ: Phú Túc- phú Xuyên- Hà Nội
163) DN mây tre đan Liệp Tuyến: Thạch Thất- Hà Nội
164) Cơ sở Tiến Tới: Thành phố Thái Bình
165) DN Hiệp Hòa: 34 Nguyễn Thái Học- TP. Thái Bình
166) XN mây tre đan Hưng Thịnh: Thôn Công Luận1- Văn Giang- Hưng Yên
167) HTX mây tre đan XK Liên Khê: Liên Khê- Khoái Châu- Hưng Yên
168) Công ty TNHH mây tre XK Chúc Sơn:Khu CN Phú Nghĩa- Chương Mỹ-
Hà Nội
169) Cơ sở mây tre Hữu Nghị: Sài Sơn- Quốc Oai- Hà Nội
208
170) Công ty TNHH mây tre XK và nội thất Ngọc Sơn: Ngọc Sơn- Chương
Mỹ- Hà Nội
171) DN mỹ nghệ Hùng Quang: Liên Minh- Vụ Bản- Nam Định
172) Công ty TNHH Hùng Anh:Yên Tién- Ý Yên- Nam Định
173) Công ty CP TCMN Việt Hà: Yên Tiến, Ý Yên- Nam Định
174) Công ty CP mây tre mỹ nghệ Trường Giang: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
175) Công ty TNHH Hải Nguyệt: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
176) Công ty TNHH Hoàng Hưng: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
177) Công ty TNHH Nam Hải: Yên Tiến - Ý Yên- Nam Định
178) Công ty TNHH Thành Lợi: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
179) Công ty TNHH Trang Lan: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
180) Công ty TNHH Vũ Việt Anh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
181) DN Thái Anh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
182) DN Thanh Hoàn: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
183) DN tư nhân Anh Quyền: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
184) DN tư nhân Anh Tấn: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
185) DN tư nhân Chiến Quyên: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
186) DN tư nhân Đức Huy: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
187) XN SX hàng TCMN Thông Lai: Phú Lâm- Hà Đông- Hà Nội
188) Cơ sở SX mây tre đan TCMN: Lưu Thượng- Phú Xuyên- Hà Nội
189) Công ty TCMN Đoàn Kết II: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
190) Công ty mây tre XK Nhật Anh: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội
191) Công ty TNHH TCMN XK Phú Nghĩa: 28/131 Thái Hà- Đống Đa- Hà Nội
192) Công ty TNHH mây tre XK Tuấn Quang: Trường Yên- Chương Mỹ-HN
193) Công ty TNHH mây tre XK Hiền Luơng: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội
194) Công ty TNHH SX và XNK Đoàn Kết 1: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội
195) Công ty TNHH mây tre đan Tốt Động: Tốt Động- chương Mỹ- Hà Nội
196) Cơ sở XK đồ mỹ nghệ: Xuân Lai- Gia Bình- Bắc Ninh
209
197) DN tư nhân Đức Mạnh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
198) DN tư nhân Đức Tịnh: Yên Tién- Ý Yên- Nam Định
199) DN tư nhân Đức Tùng: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
200) DN tư nhân Hà Thảo: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
201) DN tư nhân Mỹ Thái: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
202) DN tư nhân Tiến Liễu: Yên Tiến, Ý Yên, Nam Định
203) DN tư nhân Văn Minh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
204) DN XK TCMN Yên Tiến: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
205) DN mây tre đan Đình Triều: Nghi Phong- Nghi Lộc- Nghệ An
206) DN tư nhân mây tre đan XK Dũng Nga: Hoàng Đông- Duy Tiên- Hà Nam
207) Công ty TNHH mây tre Xuân Lạng: Viên Sơn- Sơn Tây- Hà Nội
208) DN SX mây tre XK Khánh Linh: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội
209) Công ty mây tre đan Phú Đô: Phú Nghĩa- Chương Mỹ- Hà Nội
210) Công ty TNHH XNK TCMN Đông Thành: Đường Quyết Thắng- Đông
Thành- Ninh Bình
211) Cơ sở mây tre Thành Phát: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Tây- Hà Nội
212) Cơ sở sơn mài Hương Giang: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
213) Cơ sở sơn mài Huỳnh Thái Hiệp: Phường Chánh Nghĩa- Thủ Dầu Một-
Bình Dương
214) Cơ sở sơn mài Kim Ngân: Bình Thâm- Bình An- Bình Dương
215) Cơ sở sơn mài Lê Nghiêm: Tương Hiệp Bình- Thủ Dầu Một- Bình Dương
216) Cơ sở sơn mài Văn cờ: Tân An- Thủ Dầu Một- Bình Dương
217) Cơ sở sơn mài Minh Hải: Chánh Mỹ- Thủ Dầu Một- Bình Dương
218) Cơ sở sơn mài Nguyễn Văn Hạnh: Phường Chánh Nghĩa- Thủ Dầu Một-
Bình Dương
219) Cơ sở sơn mài Phù Điêu: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
220) Cơ sở sơn mài Phú Hòa: Phường Phú Hòa- Thủ Dầu Một- Bình Dương
210
221) Cơ sở gia công SX sơn mài mỹ nghệ Kim Phúc: Phường Phú Lợi- Thủ
Dầu Một- Bình Dương
222) Cơ sở sơn mài Thái Hiếu: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
223) Cơ sở sơn mài Anh Công : Hiệp An- Thủ Dầu Một- Bình Dương
224) Cơ sở sơn mài Anh Đào: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
225) Cơ sở sơn mài Chí Hiên: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
226) Cơ sở sơn mài Công Tín: Phú Cường- Thủ Dầu Một- Bình Dương
227) Cơ sở sơn mài Hiệp Công: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
228) Cơ sở sơn mài Hoàng Khánh: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
229) Cơ sở sơn mài Hoàng Lâm: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương
230) Cơ sở sơn mài Hoàng Kim: Chánh Mỹ- Thủ Dầu Một- Bình Dương
231) Cơ sở sơn mài Hoàng Phú: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
232) Cơ sở sơn mài Hồng Đức: Tân An- Thủ Dầu Một- Bình Dương
233) Xí nghiệp gốm Chu Đậu: Thái Tân- Nam Sách- Hải Dương
234) HTX gốm Đông Thành: Đông Triều- Quảng Ninh
235) DN Tre Làng: Tân Trung Phú- Củ Chi- TP.HCM
236) DN tư nhân gốm An Hòa: Phước Khánh- An Uyên- Bình Dương
237) DN tư nhân Nam Hạnh: Hóa An- Biên Hòa- Đồng Nai
238) Công ty TNHH Sanh Hòa Hưng: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
239) DN tư nhân gốm Vạn Phú: Phước Khánh- Tân Uyên- Bình Dương
240) Công ty CP gốm Việt Thành: Hóa An- Biên Hòa- Đồng Nai
241) DN tư nhân Van Kiều: Bình Chuẩn- Thuận An- Bình Dương
242) DN tư nhân Minh Đức: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
243) Công ty TNHH Cường Phát: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương
244) Cơ sở mây tre lá Nguyễn Hiệp: Tam Hiệp- Biên Hòa- Đồng Nai
245) HTX mây tre lá XK Hòa Hiệp:189/4 Tôn Thất Thuyết- Q4,TP.HCM
246) Cơ sở mây tre lá Thành Phát: Tân Mai- Biên Hòa- Đồng Nai
247) Cơ sở gốm Minh Hưng:Hưng Định- Thuận An- Bình Dương
211
248) Cơ sở gốm sứ Phục Nguyên: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương
249) Cơ sở gốm sứ Minh Cường: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương
250) Cơ sở gốm sứ 1/5: Lái Thiêu- Thuận An- Bình Dương
251) Công ty TNHH gốm sứ Tân Trường Sanh: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương
252) Cơ sở gốm sứ Liên Thêm: Bình Hòa- Thuận An- Bình Dương
253) Cơ sở gốm sứ Tân Xuân Long: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
254) Cơ sở gốm sứ Ngọc Thành Phong: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
255) Cơ sở gốm sứ Như Ngọc: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương
256) Cơ sở mây tre lá Lan vinh: Tân Phong- Biên Hòa- Đồng Nai
257) Cơ sở gốm sứ Phùng Châu Liên: An Thạnh- Thuận An- Bình Dương
258) DN gốm sứ Vĩnh Phát: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
259) Cơ sở gốm sứ Vương Thành: Thái Hòa- Tân Uyên- Bình Dương
260) Cơ sở gốm sứ Minh Phương: An Phú- Thuận An- Bình Dương
261) Cơ sở gốm sứ Phước Sinh: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
262) THX dệt lụa Vạn Phúc: số 1 Vạn Phúc- Hà Đông- Hà Nội
263) HTX mây tre Tăng Tiến: Phúc Tăng- Việt Yên- Bắc Giang
264) Công ty mỹ nghệ Khải Hoàn: 231/7Lê Văn Sỹ-P14-Q Phú Nhuận-TP.HCM
265) DN tư nhân TCMN-May XK Hòa Thành: Thị trấn Bến Lúc- Long An
266) DN mây tre Thanh Bình: Thái Xuyên- Thái Thụy- Thái Bình
267) Công ty TNHH VNC: Đông Bắc- Nha Trang- Khánh Hòa
268) DN tư nhân SD : Cụm CN Trung An- TP. Mỹ Tho- Tiền Giang
269) Công ty đồ gỗ nội thất Hoa Phương: 45 Đò Quan- Nam Định
270) Công ty CP mỹ thuật Gia Long: 63 Lý Chính Thắng-Q3-TP.HCM
212
BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
Tháng 5/2008, tác giả đã tiến hành điều tra 350 DN làng nghề để xem
xét những vấn đề liên quan đến hoạt động và kiến nghị của các DN làng nghề
và làng nghề. Kết quả tác giả đã nhận được hơn 270 phiếu gửi về. Trong
phiếu điều tra gửi cho DN làng nghề, tác giả định hướng 4 vấn đề lớn với 28
tiêu chí.
Tác giả gửi phiếu hoặc phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi thiết kế sẵn
đối với những cá nhân đại diện cho doanh nghiệp của các DN làng nghề.
Theo D.J Luck, R.S Rubin (1998), Nghiên cứu Marketing, NXB Thống
kê thì số lượng đối tượng cần cho nghiên cứu tính theo công thức sau:
n = pq (Z2 / e2)
P là tần số xuất hiện ( p = 0,5 ) và q = 1- p = 0,5
Z là hệ số tin cậy, ấn định độ tin cậy 95% nên Z = 1,96
E là sai số cho phép:
+ Với cỡ mẫu DN làng nghề: ấn định E = 0.065 (tức 6,5%)
≈
Theo công thức trên số DN làng nghề điều tra sẽ khoảng 200-220.
Việc xử lý toàn bộ các phiếu điều tra đã được thực hiện bằng phần mềm
SPSS. Đây là chương trình xử lý dữ liệu khá phổ biến, áp dụng cho các cuộc
nghiên cứu marketing. Kết quả tổng hợp sau xử lý như sau (Số liệu đã được
làm tròn số):
213
A. Thông tin chung về làng nghề
1. Loại hình làng thủ công mỹ nghệ
- Mây tre: 25%
- Thêu ren: 12%
- Gỗ: 12%
- Dệt 12%
- Cói:10%
- Gốm sứ:2%
- Loại khác: 27%
2. Số lượng DN trong làng nghề (SX hoặc KD hàng thủ công mỹ nghệ)
- Dưới 5 DN : 11%
- Từ 5-10 DN : 24%
- Từ 10-15 DN : 46%
- Trên 15 DN : 29%
3. Kinh nghiệm SX và XK của làng nghề
- Dưới 1 năm : ( KN SX: 0%; KN XK 0%)
- Từ 1-3 năm: ( KN SX: 0%; KN XK 8%)
- Từ 3-5 năm: ( KN SX: 0%; KN XK 29%)
- Từ 5-10 năm: ( KN SX 5%; KN XK 47%)
- Trên 10 năm: ( KN SX: 95%; KN XK: 16%)
4. Làng nghề đã thành lập Hiệp hội chưa/tham gia ở cấp nào?
- Đã thành lập : 14%
- Chưa thành lập : 86%
- Tham gia ở cấp làng: 14%
- Tham gia cấp xã: 10%
- Tham gia cấp huyện: 7%
- Tham gia cấp tỉnh : 5%
214
- Tham gia cấp TW: 2%
5. Vai trò của các cơ quan XTTM đối với làng nghề (theo thứ tự từ ít đến
nhiều - 5 bậc từ 1-5)
- Cấp tỉnh/thành:
+ Bậc 1: 13%; + Bậc2: 16%; Bậc 3: 24%; Bậc 4: 32%; Bậc 5: 15%
- Cấp Bộ/ngành:
+ Bậc 1: 41%; Bậc 2: 27% ; Bậc 3: 19%; Bậc 4: 8%; Bậc 5: 6%
6. Vai trò của Hiệp hội ngành hàng đối với hoạt động của làng (theo thứ tự
từ thấp đến cao- 5 bậc từ 1-5)
- Bậc 1: 19%; Bậc 2: 28%; Bậc 3: 41%; Bậc 4: 7%; Bậc 5: 5%
Tầm quan trọng của các yếu tố sản xuất
7. Để phát triển làng nghề yếu tố nào là cần thiết (theo thứ tự từ thấp đến cao
- 5 bậc từ 1-5):
- Vốn:
+ Bậc 1: 6%; Bậc2: 8%; Bậc 3: 15%; Bậc 4: 25%; Bậc 5: 46%
- Nguyên liệu:
+ Bậc1: 15%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 32%; Bậc 4: 19%; Bậc 5: 13%
- Lao động/tay nghề:
+ Bậc1: 17%; Bậc2: 19%; Bậc 3: 34%; Bậc 4: 14%; Bậc 5: 16%
- Thị trường:
+ Bậc1: 6%; Bậc2: 9%; Bậc3: 11%; Bậc4:29 %; Bậc 5: 45%
Sự quan tâm của làng nghề đến phát triển bền vững
8. Tốc độ tăng trưởng của doanh thu/kim ngạch XK (theo thứ tự từ thấp đến
cao - 5 bậc từ 1-5)
- Bậc1: 5%; Bậc2: 8%; Bậc 3: 17%; Bậc 4: 43%; Bậc 5: 27%
9. Giải quyết việc làm
- Bậc1: 4%; Bậc2:11%; Bậc3: 24%; Bậc 4: 41; Bậc5: 20%
215
10. Môi trường sinh thái
- Bậc1: 17%; Bậc2: 21%; Bậc3: 34%; Bậc 4: 17%; Bậc5: 11%
B. Thông tin chung về DN
11. Loại hình sở hữu của DN
- DN Nhà nước: 0%
- Công ty cổ phần:19%
- Công ty TNHH: 31%
- Công ty tư nhân: 42%
- HTX, Tổ hợp tác: 8%
- DN có vốn đầu tư nước ngoài: 0%
12. Quy mô vốn của DN
- Dưới 1 tỷ đồng: 32%
- Từ 1-5 tỷ đồng: 36%
- Từ 5-10 tỷ đồng: 24%
- Từ 10-20 tỷ đồng: 6%
- Trên 20 tỷ đồng: 2%
13. Quy mô lao động của DN
- Dưới 50 người: 88%
- Từ 50-100 người: 9%
- Trên 100 người: 2%
14. Kinh nghiệm XK của DN
- Dưới 1 năm: 3%
- Từ 1-3 năm: 16%
- Từ 3-5 năm: 36%
- Từ 5-10 năm: 38%
- Trên 10 năm: 7%
216
15. Về giá trị sản xuất hoặc tổng doanh thu
- Tỷ trọng SX, kinh doanh của DN trong tổng giá trị SX hoặc tổng
doanh thu của làng nghề ( đang quản lý DN): 3%);
- Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng giá trị SX hoặc doanh thu của
DN trong 5 năm qua: 12%/năm;
-Tốc độ tăng trưởng bình quân của giá trị SX hoặc doanh thu của mỹ
nghệ trong 5 năm qua: 13%/năm;
16. Về kim ngạch XK
- Tổng kim ngạch XK của DN 5 năm qua: 1,9 triệu USD;
- Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng kim ngạch XK trong 5 năm
qua: 16%/năm;
- Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch XK ngành mỹ nghệ trong 5
năm qua: 17%/năm
17. Mức đầu tư của DN vào nghiên cứu và phát triển trong tổng doanh thu,
bình quân trong 5 năm qua: 7%
- Mức đầu tư của DN vào đào tạo người lao động bình quân trong 5
năm qua: 8%
- Mức đầu tư của DN vào bảo về môi trường
C. Đánh giá về yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DN
18. Chất lượng và khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào cần thiết cho hoạt
động của DN (theo thứ tự từ kém đến tốt - 5 bậc từ 1-5).
- Nguồn lực tự nhiên:
+ Bậc 1: 3%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 28%; Bậc 4: 37%; Bậc 5: 23%
- Lao động giản đơn:
+ Bậc 1: 1%; Bậc 2: 3%; Bậc 3: 14%; Bậc 4: 51%; Bậc 5: 31%
- Lao động kỹ thuật:
+ Bậc 1: 7%; Bậc 2: 52%; Bậc3: 26%; Bậc 4: 14%; Bậc 5: 8 %
- Vốn cố định:
217
+ Bậc 1: 25%; Bậc 2: 28%; Bậc 3: 21%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 13%
- Vốn lưu động:
+ Bậc 1: 36%; Bậc 2: 27%; Bậc 3: 19%; Bậc 4: 10%; Bậc 5: 8%
- Công nghệ SX:
+ Bậc 1: 15%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 35%; Bậc 4: 18%; Bậc 5:11%
- Cơ sở hạ tầng:
+ Bậc 1: 32%; Bậc 2: 29 %; Bậc 3: 21%; Bậc 4: 10%; Bậc 5: 8%
19. Sự cạnh tranh và chia sẻ giữa các làng nghề (theo thứ tự từ thấp đến cao-
5 bậc từ 1-5)
- Mức độ cạnh tranh về sản phẩm giữa các DN:
+ Bậc 1: 2%; Bậc 2: 4%; Bậc 3: 8 %; Bậc 4: 37%; Bậc 5: 49%
- Khả năng chia sẻ thông tin giữa các DN trong ngành:
+ Bậc 1: 34%; Bậc 2: 28%; Bậc 3: 17%; Bậc 4: 14%; Bậc 5: 7%
- Khả năng di chuyển của các DN ngành:
+ Bậc 1: 7%; Bậc 2:12%; Bậc 3: 18%; Bậc 4: 31%; Bậc 5: 32%
20. Tác động của các ngành hỗ trợ đến XK hàng TCMN của DN (theo thứ tự
từ bất lợi đến thuận lợi- 5 bậc từ 1-5)
- Bậc 1: 17%; Bậc 2:21%; Bậc 3:32%; Bậc 4: 18%; Bậc 5: 12%
21. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến ngành TCMN
- Bậc 1: 16%; Bậc 2:18 %; Bậc 3: 41%; Bậc 4: 15%; Bậc 5: 10%
22. Vai trò của Nhà nước đến hoạt động của DN
- Xây dựng môi trường pháp lý:
+Bậc 1: 7%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 42%; Bậc 4: 22%; Bậc 5: 20%
- Có chính sách hỗ trợ DN:
+ Bậc 1: 6%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 54%; Bậc 4: 16%; Bậc 5: 15%
23. Mức độ thường xuyên sử dụng các hình thức XTTM (theo thứ tự từ hiếm
khi đến thường xuyên- 5 bậc từ 1-5)
- Phân phát ấn phẩm ca-ta- lô:
218
+Bậc 1: 25%; Bậc 2: 32%; Bậc 3: 23%; Bậc 4: 11%; Bậc 5: 9%
- Tham gia hội chợ quốc tế:
+ Bậc 1: 48%; Bậc 2: 34%; Bậc 3: 10%; Bậc 4: 6%; Bậc 5: 2 %
- Đi thăm khách hàng nước ngoài:
+ Bậc 1: 51%; Bậc 2: 36%; Bậc 3: 9%; Bậc 4: 3%; Bậc 5: 1%
- Cập nhật trang web với những thông tin mới:
+ Bậc 1: 17%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 34%; Bậc 4: 15%; Bậc 5: 13%
- Các chương trình quảng cáo:
+ Bậc1: 22%; Bậc2: 39%; Bậc3: 29%; Bậc4: 6%; Bậc5: 4%
- Thông qua các hiệp hội, tổ chức thương mại
+ Bậc 1: 16%; Bậc 2: 18%; Bậc 3: 38%; Bậc 4: 16%; Bậc5: 12%
- Chương trình khuyến mãi:
+ Bậc 1: 15%; Bậc 2: 19%; Bậc 3: 37%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 12%
24. Những khó khăn của DN khi mở rộng XK (theo thứ tự từ dễ dàng đến khó
khăn- 5 bậc từ 1-5)
- Tìm kiếm nhà cung cấp:
+ Bậc 1: 4%; Bậc 2: 7%; Bậc 3: 11%; Bậc 4: 37%; Bậc 5: 41%
- Tiếp cận với các nguồn vốn:
+ Bậc 1: 6%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 14%; Bậc 4: 33%; Bậc 5: 38%
- Thuê đất đai, nhà xưởng:
+ Bậc 1: 8%; Bậc 2: 11%; Bậc 3: 13%; Bậc 4: 30%; Bậc 5: 38%
- Tuyển dụng lao động:
+ Bậc1: 28%; Bậc 2: 26%; Bậc 3: 29%; Bậc 4: 15; Bậc 5:12%
- Nghiên cứu thị trường
+ Bậc1: 8%; Bậc 2: 11%; Bậc 4: 20%; Bậc 3: 28%; Bậc 4: 33%
- Thủ tục hành chính:
+ Bậc 1: 8%; Bậc 2: 11%; Bậc 3: 17%; Bậc 4: 26%; Bậc 5: 38%
- Tìm kiếm khách hàng:
219
+ Bậc 1: 4%; Bậc 2: 7%; Bậc 3: 13%; Bậc 4: 32%; Bậc 5: 44%
- Vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm:
+ Bậc 1: 27%; Bậc 2: 26%; Bậc 3: 19%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 11%
- Thủ tục hải quan:
+ Bậc 1: 18%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 25%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 19%
D. Dự báo khả năng phát triển trong tương lai
25. Chiến lược của DN trong giai đoạn 2006 - 2015 (gồm hai câu trả lời: có
hoặc không)
- Mở rộng quy mô sản xuất, tăng XK:
+ Có: 100%
+ Không: 0%
- Mở rộng thị trường trong nước:
+ Có: 100%
+ Không: 0%
- Mở rộng thị trường XK:
+ Có: 100%
+ Không :0%
- Mở rộng sang các ngành cung cấp đầu vào:
+ Có: 99%
+ Không: 1%
- Mở rộng sang các ngành có liên quan:
+ Có: 98%
+ Không: 2%
- Mở rộng sang các ngành khác, không có liên quan
+ Có: 3%
+ Không: 97%
- Phát triển hệ thống kênh phân phối:
220
+ Có: 97%
+ Không: 3%
26. Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng giá trị SX của toàn ngành
+ Giai đoạn 2006-2010: Các ý kiến đánh giá tập trung nhiều nhất vào 3
mức độ: tăng trưởng 10%-14% (có khoảng 58% số ý kiến); tăng trưởng 15%-
17% (có khoảng 25% ý kiến ); tăng trưởng 18%- 20% (có khoảng 8% ý kiến);
số còn lại đánh giá tăng dưới 10% (có khoảng 4% ý kiến) và trên 20% (có
khoảng 3% ý kiến); khoảng 2% không có ý kiến gì.
+ Giai đoạn 2010-2015: Các ý kiến cũng tập trung vào 3 mức độ: tăng
trưởng 10%-14% ( có khoảng 56% ý kiến ); tăng trưởng 15%-17% (có
khoảng 23% ý kiến) ; tăng trưởng 18%-20% (có khoảng 10% ý kiến); số còn
lại đánh giá tăng dưới 10% (có khoảng 4% ý kiến) và trên 20% (có khoảng
5% ý kiến); khoảng 2% không có ý kiến gì.
- Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng giá trị sản xuất của DN:
+ Giai đoạn 2006-2010: Tăng trưởng 10%-14% (có khoảng 63% ý
kiến); tăng trưởng 15%-17% ( có khoảng 21% ý kiến); tăng trưởng 18%-20%
(có khoảng 7 ý kiến); tăng trưởng dưới 10% (có khoảng 5% ý kiến) và tăng
trưởng trên 20% (có khoảng 4% ý kiến)
+ Giai đoạn 2010-2015: Tăng trưởng 10%-14% (có khoảng 59% ý
kiến); tăng trưởng 15%-17% ( có khoảng 23% ý kiến); tăng trưởng 18%-20%
( có khoảng 9 ý kiến); tăng trưởng dưới 10% (có khoảng 2 ý kiến); tăng
trưởng trên 20% (có khoảng 7 ý kiến).
27. Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng tổng KN XK toàn ngành
+ Giai đoạn 2006-2010: Tăng trưởng 10%-15% (có khoảng 69% ý
kiến); tăng trưởng 16%-20% (có khoảng 21% ý kiến); tăng trưởng dưới 10%
(có khoảng 4% ý kiến); tăng trưởng trên 20% (có khoảng 6% ý kiến).
221
+ Giai đoạn 2010- 2015: tăng trưởng 10%-15% (có khoảng 64% ý kiến
); tăng trưởng 16%-10% (có khoảng 26% ý kiến ); tăng trưởng dưới 10% (có
3 % ý kiến); tăng trưởng trên 20% (có 7% ý kiến).
- Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng KN XK của DN:
+ Giai đoạn 2006- 2010: Tăng trưởng 10%-15% có khoảng 67% ý
kiến); tăng trưởng 16%-20% (có khoảng 23% ý kiến); tăng trưởng dưới 10%
(có khoảng 5% ý kiến); tăng trưởng trên 5% có khoảng 5% ý kiến).
+ Giai đoạn 2010-2015: 10%-15% (có khoảng 64% ý kiến); tăng
trưởng 16%-20% (có khoảng 25% ý kiến); tăng trưởng dưới 10% (có khoảng
3 ý kiến); tăng trưởng trên 20% (có khoảng 7% ý kiến).
28. Các ý kiến đóng góp khác của làng nghề và DN làng nghề liên quan đến
đẩy mạnh XK hàng TCMN 2010 đến 2015 và 2020:
Các ý kiến tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây:
- Các làng nghề, DN làng nghề cần được ưu đãi về thuế, lãi suất vay
vốn, điều kiện vay vốn và điều kiện thuê đất đai, nhà xưởng
- Nhà nước cần nhanh chóng quy hoạch phát triển lâu dài nguồn
nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
- Nhà nước cần đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao
cho làng nghề và DN làng nghề.
- Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho làng nghề và doanh
nghiệp làng nghề tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật cao để nâng cao hiệu
quả sản xuất, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới
- Nhà nước cần hỗ trợ hơn nữa cho làng nghề và DN làng nghề trong
việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường.
- Các hiệp hội cần được kiện toàn và phát triển hơn nữa để đóng vai trò
quan trọng hơn đối với việc phát triển làng nghề, DN làng nghề, đẩy mạnh
xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.
222
DANH SÁCH MỘT SỐ DN THAM KHẢO TRÊN TRANG WEBSITE VCIC.ORG.VN CỦA HIỆP HỘI XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM
1. Công ty TNHH XK hàng TCMN Duy Thành: 54 Pasteur- Đà Nẵng
2. Công ty TNHH SX & XNK Tre Làng : 54- Phùng Văn Cung - Q Phú
Nhuận- TP.HCM
3. Công ty TNHH Mây Tre Lá Á Đông: Km 28- QL6A- Trường Yên-
Chương Mỹ - Hà Nội
4. Công ty TNHH Tiến Động: Biêng Giang- Hà Đông- Hà Nội
5. Công ty cổ phần XNK Thủ công mỹ nghệ Nam Định: 45A- Đường Giải
Phóng- TP. Nam Định
6. Công ty TNHH Thủ công mỹ nghệ Nhiệt đới: Phường Long Biên- Q.
Long Biên- Hà Nội
7. Công ty cổ phần Việt C & C: Số 2- ngách 32/15- An Dương - Yên Phụ-
Hà Nội
8. Lan Innovation Co.,Ltd: 128 Nguyễn Minh Hoàng- Tân Bình- TP.HCM
9. DN Mây tre Thanh Bình: Xã Thái Xuyên- Thái Thuỵ- Thái Bình
10. Xí nghiệp Phú Thượng: Lưu Thượng- Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội
11. Công ty TNHH VNC: Đông Bắc- Vĩnh Hoà- Nha Trang- Khánh Hoà
12. Công ty Thương mại và Sản xuất Tân Châu: Lô32- B1- 26 Phan Đăng
Lưu- TP. Đà Nẵng
13. Công ty TNHH Xuân Lâm: Mai Hiên- Mai Lâm- Đông Anh- Hà Nội
14. Xí nghiệp Mây Tre Lá XK Âu Cơ: Cụm công nghiệp Tràng Tôn K7-TT
Núi Thành- Quảng Nam
15. Công ty Thương mại và Sản xuất Mỹ Khánh: 98/16 Thích Quảng Đức-
P. Phú Nhuận-Q. 5- TP.HCM
16. DNTN Sản xuất & Kinh doanh Dương Trí: 132/50 Ấp Đồn- Trung Lập
Hạ- Củ Chi- TP.HCM
223
17. Công ty XNK Indochine: 152- Điện Biên Phủ-P.6-Q.3-TP.HCM
18. Công cổ phần XNK Mỹ nghệ Thái Bình: 12 Hai Bà Trưng- TP. Thái Bình
19. Công ty TNHH Hiệp Hoà: 11 Nguyễn Thái Học- TP. Thái Bình
20. Công ty TNHH XNK Mây tre và mỹ nghệ Trung Hoà: Trung Hoà -
Chương Mỹ - Hà Nội
21. Công ty TNHH Mây tre đan 38: 80B- Pháo Đài Láng
22. DN Thanh Nhã: 442 Thống Nhất- P. Tân An- TX Lagi- Bình Thuận
23. Công ty Sao Mai: 163- QL 30- P.Phú Mỹ- Cao Lãnh- Đồng Tháp
24. Công ty Mỹ nghệ Cát Linh: 441/Phan Văn Trị- P.5- Q. Gò Vấp-
TP.HCM
25. Công ty Mây tre XK Ngọc Động Hà Nam: 94 Phạm Ngọc Nhị- Đồng
Văn- Duy Tiên- Hà Nam
26. DN Á Đông: 86/43A Phố Quang-P.2- Q.Tân Bình- TP.HCM
27. Công ty TNHH SX & XNK Đoàn Kết 1: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội
28. Công ty TNHH Trang Lan: Cát Đằng- Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
29. Công ty TNHH Mây tre đan XK Phú Ngọc: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội
30. Công ty TNHH Mây tre Hoa Nam: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội
31. Công ty SX&KD mỹ nghệ XK: 198B Tôn Đức Thắng- Hà Nội
32. Công ty cổ phần Dệt May mỹ nghệ XK Nam Định: 10A, ô 20 Hạ Long-
TP. Nam Định
33. DNTN TCMN- May XK Hoà Thành L.A ( HALOTEX): 365B/3 Phạm
Văn Màng- TT Bến Lức- Long An
34. Xí nghiệp SX hàng TCMN Quỳnh Văn: Ân Hoà- Kim Sơn- Ninh Bình
35. Công ty TNHH SX&TM DomaVina: 107 Trần Minh Quyên- P.10-Q.10-
TP.HCM
36. Xí nghiệp TCMN XK Vân Anh: Km 52- QL5- P. Cẩm Phượng- Hải Dương
37. Xí nghiệp tư doanh TCMN Xuân Hoà : 176 Kiến Thái-TT Phát Diệm-
Kim Sơn- Ninh Bình.
224
38. DNTN XK hàng TCMN Vinh Thịnh: 231 Tết Mậu Thân- P.4-TP.ỹ Tho-
Tiền Giang
39. Công ty cổ phần SX & XNK Vĩnh Long: Lô A1- Khu C- Khu CN Hoà
Phú- Long Hồ - Vĩnh Long
40. Công ty cổ phần gốm Việt Thành: số 99 QL 1K- Hoà An- Biên Hoà- ĐN.
41. Công ty TNHH Vườn Hồ: 179/15 Hoà Bình- Q.Tân Bình-TP.HCM
42. Công ty TNHH Quang Vinh: 14 Thôn Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
43. Xí nghiệp SX & XNK Việt Nam: 1110 Tân Phước Khánh - Tân Uyên -
Bình Dương.
44. Công ty TNHH Gốm sứ La Thành : 235/1 TT An Thạnh - Thuận An - BD.
45. Công ty TNHH Bình Phú: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội
46. Công ty TNHH Linh Nhật: 65 Tô Ngọc Vân- P.Quảng An- Q. Tây Hồ-
Hà Nội
47. Công ty TNHH Thương mại và Giao nhận Á châu: R 910- Toà nhà CT9
- Khu Định Công- Hà Nội
48. DNTN Đại Huy Hoàng: Hoà Lân- Thuận Giao- Thuận Ấp- Bình Dương
49. Công ty TNHH Chấn Hồng: Ấp 38- Khánh Hồng- Tân Uyên- Bình Dương
50. Công ty cổ phần sơn mài và đầu tư công nghệ Việt: Cụm 5- Duyên Thái-
Thường Tín- Hà nội
51. Công ty cổ phần Viễn Đông: Số 9- Trung tâm viện KHCN & MT – Hà Nội
52. Công ty Tiên Sơn Thanh Hoá: Số 9- Khu CN Bỉm Sơn- P.Bắc Sơn- TX
Bỉm Sơn- Thanh Hoá.
53. Công ty Thế giới Mỹ nghệ: 144 Nguyễn Đình Chiểu- P.6- Q.3-TP.
HCM
54. Công ty XNK TCMN: 80 Hàng Gai- Hà Nội
55. Công ty TNHH Sơn mài mỹ nghệ Hướng Đăng: 204C7A- Phố Quỳnh
Mai- P.Quỳnh Mai- Hà Nội
225
56. Công ty TNHH SX & TM Khai Tâm: 34 Nguyễn Đình chiểu- P.3-
Q.Phú Nhuận -TP.HCM
57. Công ty TNHH Cửa Đỏ: 20 Nhà Chung- Hoàn Kiếm- Hà Nội.
58. KIMA lacquer Art: số 11 Thi Sách- Hai Bà Trưng- Hà Nội
59. Công ty Mỹ nghệ Khải Hoàn: 231/7-9 Lê Văn Sỹ- P.14-Q. Phú Nhuận-
TP.HCM
60. Công ty TNHH Lạc Phương Nam: 95/25 Lê Văn Sỹ - P.13 - Q.Phú
Nhuận - TP. HCM
61. Công ty XNK khu vực Mê Kông: Số 6- Ngõ 1- Âu Cơ- Tây Hồ - Hà Nội
62. Công ty CP Đầu tư và TM Âu Lạc: số 6 Hàng Trống- Hoàn Kiếm - HN
63. DNTN Thanh Hoàn: Cát Đằng- Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định
64. Công ty TNHH TCMN và Nội thất Châu Á: Số 1Tổ 46 - Đê La Thành -
Đống Đa - Hà Nội
65. Công ty Lam Hồng- Quân khu 4: số 29 Phan Đăng Lưu- TP. Vinh- Nghệ
An
66. Công ty TNHH Quốc tế Phúc Sơn Việt: 27 Hậu Giang- P.4- Tân Bình-
TP.HCM
67. Công ty CP SX-XNK Lâm sản và hàng thủ công mỹ nghệ: 4 - 6 Hồ
Tùng Mậu- Q.1- TP.HCM
68. Công ty cổ phần Tân Vĩnh Cửu: Khu phố 9- P. Tân Biên- Biên Hoà -
Đồng Nai
69. Công ty TNHH Minh Hùng: 172/1 Trần Phú- Q. Ninh Kiều- Cần Thơ
70. DNTN SD: Cụm công nghiệp Trung An- Mỹ Tho- Tiền Giang
71. Công ty cổ phần đồ gỗ nội thất Hoa Phương: 45 Đò Quan- Nam Định
72. Công ty TNHH SX & TM DPH: 298/20 Tân Hoà Đông- P.Bình Trị
Đông- Q.Tân Bình- TP.HCM
73. Công ty gỗ mỹ nghệ Quang Trung: 280/2A Cách mạng tháng Tám-
P.10- Q.3- TP.HCM
226
74. Công ty Thương mại và sản xuất Đại Hùng:371/15/11A Cách mạng
tháng Tám - P10 - Q.3 - TPHCM
75. Công ty TNHH Đăng Long: F 6 Khu chế biến gỗ- P.Tân Hoà- Biên
Hoà- Đồng Nai
76. Công ty chế biến gỗ Khánh Phát: Ấp 6- xã Định Hoà-TX Thủ Dầu Một- BD.
77. Công ty TNHH Liên Thanh:Thôn Ngọc Anh-xã Phú Thượng- huyện
Phú Vang- Thừa Thiên- Huế.
78. Công ty Phát triển sản xuất Thương mại Sài Gòn (SADACO): 200 bis
Lý Chính Thắng - Q.3-TP.HCM
79. DNTN Đại Hưng Phát: L04-25-2962 Khu phố mới Hùng Vương-
Đường Hùng Vương- P.9- TP.Tuy Hoà- Phú Yên
80. Công ty cổ phần gỗ mỹ nghệ Thiên ấn: số 45 đường 5 - P. Hiệp Bình
Chánh - TX Thủ Dầu Một - Bình Dương.
81. Công ty Lâm sản Trần Đức: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương
82. Công ty chế biến gỗ An An: 10/22 Phạm Ngọc Thạch - TX. Thủ Dầu
Một - Bình Dương.
83. Công ty TNHH DOME: số 10 Yên Thế- Ba Đình- Hà Nội
84. Công ty TNHH Long Biên Việt Nam: Khu công nghiệp Nhơn Trạch1- ĐN
85. Công ty TNHH Bắc Á: 307-C22A- Bắc Linh Đàm - Hoàng Mai- Hà Nội
86. DNTN Trần Văn Bích: 769 C Nguyễn Thị Minh Khai- K10F7- TX Trà
Vinh- Tỉnh Trà Vinh
87. DNTN Huệ Trang: Ấp Rạch Vôn- Hưng Mỹ- Châu Thành- Trà Vinh
88. Công ty Lâm nghiệp Sông Trem: Ấp 18 - Biến Bạch- Thới Bình- Cà
Mau
89. Công ty TNHH - SXKD Việt Lâm: 351/56 Lê Văn Sỹ- P.13-Q.3- TP. HCM
90. Công ty TNHH Thiên Phú: 12 Trần Não- Q.2- TP.HCM
91. Công ty TNHH SX-TM & Dịch vụ Tường Thuận: 14K 300 Cộng Hoà-
P.12-Q.Tân Bình-TP.HCM
227
92. Công ty TNHH sản xuất TM AQ: Lô A9 - KCN Toà Đa - Pleiku - Gia Lai
93. Công ty Thiên Ấn Furniture: 90A Nguyễn Đình Chiểu- P.Đa Kao- Q.1-
TP.HCM
94. Công ty TNHH SX-TM-DV Văn Chương: 45/2Z - ấp Mỹ Hoà - xã
Trung Chánh- huyện Hóc Môn - TP.HCM
95. Công ty TNHH Cổ Kim Mỹ nghệ: 35-37 Lê Văn Sỹ - P13 - Q.Phú
Nhuận -TP.HCM
96. Công ty TNHH Minh Phát II: P. Bình Chuẩn- huyện Thuận An - Bình Dương
97. Công ty TNHH Hố Nai: KP8 - Long Bình- Biên Hoà - Đồng Nai
98. Công ty TNNH Mỹ nghệ gỗ Gia Huy: 12/11 Man Thiên - Nhơn Phú A -
Q.9 -TP.HCM
99. Công ty TNHH SX & TM Vùng Quê: Đường 10 KCN Sóng Thần 1- Dĩ
An- Bình Dương
100. Công ty TNHH SX & TM Vinh : 124 Nguyễn Trãi - Bến Thành - TP. HCM