Bé GI¸O DôC Vµ §µO T¹O TR¦êng ®¹i häc ngo¹i th­¬ng

NguyÔn H÷u Th¾ng

“PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ”

Thuộc chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế Quốc tế Mã số: 62.31.07.01

Hµ Néi, 2010

Luận án được hoàn thành tại: Trường Đại học Ngoại Thương

Người hướng dẫn khóa học: 1. GS, TS Vũ Văn Hiền

2. GS, TS Hoàng Văn Châu

Phản biện 1: GS, TS Hoàng Đức Thân

Phản biện 2: PGS, TS Nguyễn Quốc Thịnh

Phản biện 3: GS, TS Nguyễn Xuân Thắng

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước

Họp tại Trường Đại học Ngoại Thương

Vào hồi 09 giờ 00 ngày 12 tháng 06 năm 2010

Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện Quốc gia

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ

1. Dự báo sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Thế giới thời

gian qua, Tạp chí Thương mại, số 17/2009.

2. Đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế phát triển sản xuất và xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Tạp chí Thương mại, số 18/2009.

3. Vì sao HAPROSIMEX Sài Gòn đạt mức tăng trưởng nhanh, Tạp chí

Thương mại, số 23/1999.

i

TÁC GIẢ LUẬN ÁN LỜI CAM ĐOAN TÔI XIN CAM ĐOAN LUẬN ÁN: “PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ” LÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA RIÊNG TÔI. CÁC SỐ LIỆU, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LÀ TRUNG THỰC, CÓ NGUỒN GỐC RÕ RÀNG.

Nguyễn Hữu Thắng

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ..................................................................................................................... i MỤC LỤC ................................................................................................................................. ii DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................................ vi DANH MỤC CÁC BẢNG ...................................................................................... viii DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ ......................................................................... ix MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ VÀ TIỀM NĂNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ..................................................................................... 10 1.1. Khái niệm về làng nghề và doanh nghiệp làng nghề.......................................... 10

1.1.1. Khái niệm về làng nghề và làng nghề thủ công mỹ nghệ ................................. 10 1.1.2. Khái niệm về doanh nghiệp làng nghề và doanh nghiệp làng nghề thủ công mỹ nghệ ............................................................................................................................ 12 1.2. Lịch sử phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam .................. 13

1.2.1. Quá trình ra đời và phát triển làng nghề ........................................................... 13 1.2.2. Quá trình ra đời và phát triển của doanh nghiệp làng nghề Việt Nam .......... 22 1.3. Đặc điểm và thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ............................ 25 1.3.1. Đặc điểm làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .................................... 25 1.3.1.1.Đặc điểm của làng nghề ......................................................................... 25 1.3.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp làng nghề ....................................................... 27 1.3.2. Thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ........................... 28

1.3.2.1. Thực trạng của làng nghề ..................................................................... 28

a/ Số lượng, quy mô, cơ cấu và tổ chức làng nghề ...................................................... 28 b/ Đánh giá thực trạng làng nghề hiện nay .................................................................. 32 1.3.2.2.Thực trạng của doanh nghiệp làng nghề ................................................ 38

a/ Quy mô, tốc độ phát triển các doanh nghiệp làng nghề ......................................... 38 Cơ cấu các loại doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam ............................................. 40 Mô hình quản lý các doanh nghiệp làng nghề ............................................................. 41

iii

b/ Đánh giá thực trạng doanh nghiệp làng nghề hiện nay ......................................... 43 1.4. Vai trò của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề với việc đẩy mạnh xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển kinh tế - xã hội ............................................... 47

1.4.1. Vai trò đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ................... 47 1.4.2. Vai trò đối với phát triển kinh tế ......................................................................... 49 1.4.3. Vai trò đối với phát triển văn hoá dân tộc ......................................................... 52 1.4.4. Vai trò đối với xã hội ............................................................................................ 53 1.4.5. Vai trò đối với quan hệ đối ngoại ....................................................................... 54 1.5. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và

doanh nghiệp làng nghề ............................................................................................. 55

1.5.1. Nguồn lao động .................................................................................................... 55 1.5.2. Nguồn nguyên liệu ................................................................................................ 56 1.6. Kinh nghiệm phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề của một số nước

trên thế giới ................................................................................................................ 57

1.6.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc ............................................................................. 58 1.6.2. Kinh nghiệm của Thái lan ................................................................................... 59 1.6.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản ................................................................................. 62 1.6.4. Bài học kinh nghiệm quốc tế ............................................................................... 65

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM ............................................................................................................................. 69 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ....................................... 69 2.2. Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của nước ta ......................................... 72 2.3. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu ............................................................ 75 2.3.1. Mặt hàng gốm, sứ .................................................................................. 75 2.3.2. Hàng mây, tre, cói, thảm ....................................................................... 79 2.3.3. Mặt hàng sơn mài .................................................................................. 84 2.3.4. Hàng thêu ren ........................................................................................ 88 2.3.5. Đồ gỗ mỹ nghệ và gỗ gia dụng ............................................................. 91 2.4. Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ................................................... 95 2.4.1. Những yếu tố tác động tới sự hình thành và chuyển dịch ..................... 95

iv

2.4.2. Quá trình hình thành, chuyển dịch và cơ cấu thị trường xuất khẩu ..... 98 2.4.3. Vai trò Nhà nước và doanh nghiệp với cơ cấu thị trường .................. 100 2.5. Đánh giá kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề ................................................................................................................................................. 103 2.5.1 Kết quả đạt được ................................................................................................. 103 2.5.2. Hạn chế ................................................................................................................ 110 2.5.3 Nguyên nhân ........................................................................................................ 114 a. Nguyên nhân đạt được kết quả .................................................................. 114 b. Nguyên nhân của những hạn chế .............................................................. 116

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP ............................................................................................................. 118 3.1. Quan điểm, đường lối và những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế của nước ta .................................................................................................. 118

3.1.1. Quan điểm và đường lối của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế..... 118 3.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .......... 119 3.2. Dự báo tình hình sản xuất giai đoạn 2010 - 2020 và nhu cầu tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới thời gian tới ................................................................. 121 3.2.1. Dự báo về sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới và khu vực ......................................................................................................121 3.2.2. Dự báo nhu cầu tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới .......... 122 3.3. Quan điểm, định hướng phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt

Nam và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ............................................ 123

3.3.1. Quan điểm phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam .... 123 3.3.2. Phương hướng, mục tiêu phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam ......................................................................................................................... 125 3.3.3. Phương hướng, mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ....................................................................................................................... 128 3.3.4. Phương hướng, mục tiêu xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu của Việt Nam .................................................................................... 130 3.3.5. Định hướng một số thị trường chủ yếu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ............................................................................................................... 140

v

3.4. Giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ ............................................................................................ 148

3.4.1. Giải pháp phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .......................... 148 3.4.1.1. Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .............. 148 3.4.1.2. Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .......... 151 3.4.1.3. Xây dựng mô hình và cơ chế quản lý phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ........................................................................................................... 153 3.4.1.4. Tạo chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến xuất khẩu .............. 156 3.4.1.5. Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của các Hiệp hội làng nghề và Hiệp hội ngành hàng ........................................................................................ 158 3.4.2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam ........ 160 3.4.2.1. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ........................................................................... 160 3.4.2.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, vốn, thị trường cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề .............................................................................................. 165 3.4.2.3. Đổi mới và ứng dụng công nghệ hiện đại kết hợp với công nghệ truyền thống .......................................................................................................................... 166 3.4.2.4. Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề 167 3.4.2.5. Gắn phát triển làng nghề với phát triển văn hoá du lịch .................... 169 3.5. Một số kiến nghị phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề nhằm đẩy

mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ................................................................. 171

3.5.1. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước ......................................................... 171 3.5.2. Kiến nghị với các địa phương ........................................................................... 176 3.5.3. Kiến nghị với các hiệp hội ................................................................................. 177 KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 179 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 183 PHỤ LỤC .............................................................................................................................. 192 MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA ................................................................................................... 192

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

 AFTA (Asean Free Trade Area): Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

 APEC (Asia Pacific Economic Cooperation): Diễn đàn hợp tác kinh tế

châu Á- Thái Bình Dương

 ASEM (Asia Erope Summit Meeting ): Diễn đàn hợp tác Á- Âu

 ASEAN (Association of South East Asia Nations ): Hiệp hội các quốc

gia Đông Nam Á

 CNH: Công nghiệp hoá

 DN: Doanh nghiệp

 DOC (Department of Commerce ) : Bộ Thương mại Hoa Kỳ

 EU (European Union ) Liên minh châu Âu

 FDI (Foreign Direct Investment ) : Đầu tư trực tiếp nước ngoài

 FAO (Food and Agriculture Organization ): Tổ chức Nông lương Liên

hợp quốc

 GATT (General Agrement for Trade and Tariff ) : Hiệp định chung về

thuế quan và mậu dịch

 GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội

 GSP (Generallized System Preperences): Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập

 HĐH: Hiện đại hoá

 HS (Hamounized System): Hệ thống phân loại hàng hoá

 ITC (International Trade Committee) Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa

Kỳ

 ISO (International Standard Organization): Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế

 MFN (Most Favour Nation) : Quy chế tối huệ quốc

 NK: Nhập khẩu

 NTR (Normal Trade Relation): Quy chế thương mại bình thường

vii

 ODA (Official Development Assistance) : Hỗ trợ phát triển chính thức

 R: Đồng Rup

 SL: Sản lượng

 USD (United State Dollar) : Đồng đô la Mỹ

 XK: Xuất khẩu

 XTTM: Xúc tiến thương mại

 WB (World Bank) : Ngân hàng thế giới

 WTO (World Trade Organization): Tổ chức Thương mại thế giới.

viii

DANH MỤC CÁC BẢNG

BẢNG 1.1. QUY MÔ LÀNG NGHỀ THEO KHU VỰC ........................................ 29

BẢNG 1.2. LAO ĐỘNG NGÀNH NGHỀ THỦ CÔNG ....................................................30

BẢNG 2.1. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA

DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ............................................................................. 72

BẢNG 2.2. CƠ CẤU MẶT HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ XUẤT KHẨU CỦA

DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ .........................................................................................74

BẢNG 2.3. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA

DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ .........................................................................................77

BẢNG 2.4. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG GỐM, SỨ ............................................83

BẢNG 2.5. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG MÂY TRE, CÓI, THẢM ..................87

BẢNG 2.6. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU HÀNG SƠN MÀI MỸ NGHỆ.......................89

BẢNG 2.7. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THÊU REN ..............................93

BẢNG 2.8. KIM NGẠCH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG GỖ ......................................... 100

BẢNG 2.9. NHÀ CUNG CẤP ĐỒ DÙNG TRONG NHÀ VÀ QUÀ TẶNG SANG EU

................................................................................................................................................ 113

BẢNG 3.1. CHỈ TIÊU XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ ĐẾN NĂM

2020 ......................................................................................................................................... 129

ix

DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ HÌNH 1.1. PHÂN BỔ LÀNG NGHỀ THEO KHU VỰC ....................................... 29

HÌNH 1.2. CƠ CẤU LÀNG NGHỀ THEO MẶT HÀNG ...................................... 30

HÌNH 1.3. DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ PHÂN THEO SỞ HỮU ................ 39

HÌNH 1.4. SỐ LƯỢNG LAO ĐỘNG TRONG MỖI DOANH NGHIỆP LÀNG

NGHỀ .............................................................................................................. 40

HÌNH 1.5. CƠ CẤU MẶT HÀNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

LÀNG NGHỀ ............................................................................................................... 41

HÌNH 1.6. MÔ HÌNH LỘ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

LÀNG NGHỀ ............................................................................................................... 42

HÌNH 1.7. VỐN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ....................... 44

HÌNH 3.1. MÔ HÌNH QUẢN LÝ LÀNG NGHỀ VÀ DOANH NGHIỆP LÀNG

NGHỀ .......................................................................................................................... 155

HÌNH 3.2. LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ HOẠT ĐỘNG CỦA LÀNG NGHỀ VÀ

DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ............................................................................ 156

1

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài

Cho đến nay Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp. Tỷ lệ dân số sống

ở nông thôn hiện chiếm khoảng 75%. Nông nghiệp giữ vị trí vai trò hết sức

quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước ta.

Ngoài nghề chính là trồng trọt và chăn nuôi, ở nông thôn ngày nay

nhiều ngành nghề được khôi phục và phát triển trở lại như mây tre đan, gốm

sứ, dệt chiếu, thảm cói, thảm xơ dừa, hàng sơn mài, thêu ren, đồ gỗ, làm bún,

miến, bánh,... Trong quá trình tích tụ và liên kết, dần dần hình thành nên

những làng nghề và gần đây xuất hiện thêm mô hình doanh nghiệp làng nghề

chuyên sản xuất, kinh doanh một hoặc vài loại sản phẩm đặc trưng cho làng

đó. Những làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã giải quyết việc làm cho

người nông dân trong thời kỳ nông nhàn và tăng thêm thu nhập cho họ, đồng

thời cũng là yếu tố quan trọng góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, thúc đẩy

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề là nơi chủ yếu sản xuất và kinh

doanh hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, có vai trò quan trọng nhất tới

việc tăng kim ngạch xuất khẩu.

Trong xu thế tự do hoá và toàn cầu hoá về kinh tế và thương mại, với

việc Việt Nam gia nhập WTO, đang tạo ra những cơ hội để phát triển xuất

khẩu nhiều chủng loại hàng hoá của Việt Nam nói chung và hàng thủ công

mỹ nghệ nói riêng. Đồng thời với sự phát triển nhanh của khoa học và công

nghệ, cùng với cuộc sống đang thay đổi từng ngày của đa số người dân trên

thế giới, nhu cầu về sử dụng những hàng hoá độc đáo, tinh xảo, mang tính văn

hoá, nghệ thuật cao, gần gũi với thiên nhiên sẽ tăng lên, tạo ra nhiều cơ hội

cho sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ là sự đòi hỏi

của thực tế hiện tại, mà còn là cả một quá trình lâu dài, góp phần quan trọng

vào tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước .

2

Muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì phải phát triển

làng nghề và doanh nghiệp làng nghề đúng hướng và bền vững. Làng nghề và

doanh nghiệp làng nghề là cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ.

Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ hiện nay đang đặt ra cần giải quyết một cách đồng bộ,

từ nguồn lao động, nguyên liệu, vốn, môi trường, khoa học, công nghệ đến thị

trường tiêu thụ,... đòi hỏi Nhà nước Trung ương, địa phương, doanh nghiệp,

các cơ quan chức năng và các hiệp hội phải có những chủ trương, chính sách

và giải pháp triệt để và hiệu quả. Muốn làm được điều đó, trước hết cần có sự

nghiên cứu nghiêm túc, cụ thể và khoa học về các lĩnh vực liên quan đến làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ.

Hiện nay, các hộ kinh tế gia đình, các doanh nghiệp sản xuất trong các

làng nghề vẫn hoạt động chủ yếu theo tính truyền thống và tự phát. Việc

nghiên cứu có tính quy mô, khoa học cho sự phát triển làng nghề chưa được

thực hiện thường xuyên. Do đó hoạt động của làng nghề còn nhiều lúng túng

và hiệu quả chưa cao. Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng

nghề tuy đã có từ lâu, nhưng vẫn thực hiện theo kinh nghiệm thực tế là chủ

yếu, chưa có sự phân tích, đánh giá cụ thể về quá trình sản xuất, mô hình quản

lý và đề ra chiến lược phù hợp với thực tiễn và lâu dài. Vì vậy nhìn chung

hoạt động sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh về nguồn lao

động dồi dào ở khu vực nông thôn và nguồn nguyên liệu còn khá phong phú.

Với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển

kinh tế nông thôn, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thì việc đẩy mạnh phát

triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, phát triển xuất khẩu hàng thủ công

mỹ nghệ là một vấn đề lớn và cấp bách nhằm tạo ra hàng triệu việc làm tại

3

các vùng nông thôn và tạo ra hàng tỷ USD bằng chính nguồn nguyên liệu sẵn

có ở nước ta như đất sét, mây tre lá, cỏ cây, phế thải công nghiệp, góp phần

quan trọng trong việc thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp,

chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế tại khu vực nông thôn.

Với lý do và ý nghĩa đó, nhằm góp phần vào việc thực hiện chủ trương

lớn của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân và mục tiêu đẩy

mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài “PHÁT

TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG

NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ

TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ” làm đề tài Luận án

Tiến sĩ kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu

* Tình hình nghiên cứu đề tài ở nước ngoài

Trên thế giới, làng nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu

có ở các nước châu Á và một số ít nước châu Phi, còn các nước công nghiệp

phát triển ở châu Âu, châu Mỹ thì rất ít làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ

nghệ. Do vậy, các công trình nghiên cứu về đề tài này trên thế giới không có

nhiều. Các nước hoặc vùng lãnh thổ có làng nghề như Trung Quốc, Thái Lan,

Malaisia, Inđônêxa, Philippin, Nhật Bản, Hàn Quốc,... có một số đề tài nghiên

cứu phục vụ cho việc xây dựng chính sách phát triển làng nghề của họ, nhưng

thường trong phạm vi hẹp và chưa được công bố rộng rãi.

* Tình hình nghiên cứu đề tài trong nước

Trong những năm gần đây, trong nước đã có một số công trình nghiên

cứu khoa học có liên quan đến việc phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề, đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam.

Trong các công trình này, chủ yếu là một số đề tài cấp Bộ, ngành, hiệp

hội có liên quan đến làng nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.

- Bộ Thương mại (nay Bộ Công Thương) đã có công trình “Đề án phát

triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2010” đề án hoàn thành

4

tháng 5/2007. Đề án tập trung vào đánh giá những yếu tố có tầm quan trọng

quyết định sự thành bại của tăng trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, đề

ra những khuyến nghị nhằm khai thác hiệu quả nhất tiềm năng của Việt Nam,

góp phần giải quyết công ăn việc làm. “Đề án phát triển xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ đến năm 2010” cũng đưa ra những giải pháp, chính sách, cơ

chế nhằm thực hiện những mục tiêu về xuất khẩu ngành hàng thủ công mỹ

nghệ. Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu là phân tích quy trình hoạt

động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu liên quan đến bốn nhóm vấn đề về (1)

sản xuất trong nước; (2) môi trường kinh doanh; (3) phát triển thị trường xuất

khẩu; (4) phát triển bền vững.

- Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) có “Đề án phát triển xuất

khẩu giai đoạn 2006-2010” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đề án

đã xác định mục tiêu, định hướng và những giải pháp lớn cho phát triển xuất

khẩu, trong đó có xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong thời

kỳ 2006-2010.

- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Cơ quan hợp

tác quốc tế Nhật Bản (JICA), có công trình “Nghiên cứu Quy hoạch phát triển

ngành thủ công mỹ nghệ theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam”,

với các chuyên mục: Báo cáo cuối cùng, Báo cáo chính nghiên cứu quy hoạch

tổng thể. Công trình được nghiên cứu dựa trên các số liệu điều tra thực tế từ

sản xuất, kinh doanh của các làng nghề. Đề án hoàn thành tháng 2/2004.

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (Bộ Giáo dục và Đào tạo) “Xây

dựng và phát triển mô hình làng nghề du lịch của một số tỉnh đồng bằng Bắc

Bộ”, mã số B2005-40-5, do GS. TS Hoàng Văn Châu chủ nhiệm đề tài.

- PGS. TS Nguyễn Hữu Khải; ThS. Đào Ngọc Tiến; ThS. Vũ Thị Hiền

“Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam”. Sách chuyên khảo, Nhà

xuất bản Thống kê, năm 2007.

5

- PGS. TS Nguyễn Hữu Khải; ThS. Đào Ngọc Tiến “Thương hiệu hàng

thủ công mỹ nghệ truyền thống”. Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Lao động

Xã hội, năm 2006.

- Vũ Từ Trang “Nghề cổ đất Việt”. Sách khảo cứu, Nhà xuất bản Văn

hoá - Thông tin, năm 2007.

- Phạm Côn Sơn “Làng nghề truyền thống Việt Nam”. Sách tham khảo.

Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, năm 2007.

- Nguyễn Văn Đáng “Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống ở Hà

Nội và các vùng phụ cận đến năm 2010 và những năm tiếp theo”. Mã số

B2003 - 39-34.

- Ngoài những công trình nghiên cứu tương đối quy mô này, nhiều hội

thảo của các bộ, ngành, Hiệp hội làng nghề cũng có những đề tài nghiên cứu

trong từng lĩnh vực. Chẳng hạn, năm 2008, Hiệp hội làng nghề Việt Nam tổ

chức Hội thảo: “Cơ hội đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh

mới”, và Hội thảo “Tiềm năng và thực trạng làng nghề Việt Nam hiện nay” đã

có nhiều tham luận, báo cáo nghiên cứu tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ và nêu ra những giải pháp phát triển làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề. Trong đó, đáng lưu ý là những tham luận như: “Bảo tồn và

phát triển làng nghề”, “Phát triển nghề, làng nghề trong điều kiện mới” của

ông Vũ Quốc Tuấn, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam, “ Một số vấn đề

phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các địa phương - Kết quả

nghiên cứu ở 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ” của ông Lê Đức Thịnh và bà Lê

Thị Phi Vân, “Định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề” của thạc sĩ Bùi

Văn Vượng, “Vài suy nghĩ về du lịch làng nghề Việt Nam” của ông Lưu Duy

Dần, Phó chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều báo, tạp

chí cũng có những bài viết về thực trạng, vai trò, giải pháp phát triển làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề, nhưng chỉ ở từng khía cạnh riêng rẽ, không

mang tính tổng kết.

6

Tóm lại, đến nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu liên

quan đến vấn đề phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, sản xuất và

xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở các cách tiếp cận và mức độ khác

nhau, nhưng chưa có một công trình nào giải quyết một cách toàn diện và có

tính hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong quá

trình hội nhập.

Do vậy, tác giả hy vọng đề tài “Phát triển làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề thủ công để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong quá

trình hội nhập” có thể góp phần giải quyết được phần nào yêu cầu bức xúc

đang đặt ra.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

a. Mục tiêu nghiên cứu

- Hệ thống hoá và góp phần bổ sung cơ sở lý luận về phát triển làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ;

- Đánh giá thực trạng phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ở

Việt Nam;

- Đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

trong thời gian qua để tìm ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân là cơ sở

thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp thúc đẩy sản xuất trong các làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề, tăng nhanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của

Việt Nam;

- Đề xuất chính sách, giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề để tăng nhanh hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ khái niệm về làng nghề và doanh nghiệp làng nghề;

- Phân tích quá trình hình thành và phát triển làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề Việt Nam;

7

- Nêu được vai trò của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề trong sự

phát triển kinh tế xã hội của đất nước;

- Rút ra bài học kinh nghiệm từ việc phát triển làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề của một số nước và khu vực trên thế giới;

- Điều tra thực trạng phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề;

- Điều tra thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh

nghiệp làng nghề;

- Đánh giá kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh

nghiệp làng nghề;

- Làm rõ quan điểm phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để

đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam;

- Nêu phương hướng, mục tiêu phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ;

- Đưa ra được những giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ;

- Đề xuất một số kiến nghị phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

b. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: Đánh giá thực trạng từ năm 2000 đến 2008, đề xuất và

định hướng các giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020.

- Về không gian:

+ Đề tài đi sâu nghiên cứu tại làng nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ của các doanh nghiệp làng nghề. Thực tế các lµng nghÒ vµ doanh nghiệp

làng nghề xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch

8

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam. Do vậy nghiên cứu xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ của lµng nghÒ vµ doanh nghiệp làng nghề được hiểu là

nghiên cứu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam;

+ Nghiên cứu về sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trên cơ

sở tiếp cận các chủ thể là hộ sản xuất và doanh nghiệp trong các làng nghề và

qua các phiếu điều tra;

+ Luận án quan tâm tới các giải pháp vĩ mô của Nhà nước và việc thực

hiện của các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sản xuất và kinh doanh xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ;

- Về lĩnh vực: Sản xuất tại làng nghề, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

của làng nghề.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận, kết hợp các

phương pháp thống kê, phân tích thông tin, số liệu, liên hệ và so sánh, khái

quát và tổng hợp.

Đồng thời áp dụng phương pháp điều tra xã hội thông qua khảo sát thực

tế và phát phiếu thăm dò.

6. Đóng góp mới của luận án

a/ Đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc hơn về thực trạng làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề, góp phần hoàn chỉnh khái niệm về doanh nghiệp

làng nghề và mối quan hệ biện chứng giữa việc hình thành và phát triển làng

nghề tới việc ra đời và phát triển doanh nghiệp làng nghề, tạo nền tảng vững

chắc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

b/ Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc sản xuất, kinh

doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và doanh nghiệp làng

nghề.

c/ Xây dựng được những dữ liệu quan trọng và cần thiết về làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề góp phần truyền tải những thông tin, số liệu, quan

điểm, nhu cầu từ cơ sở tới các Bộ, ngành, hiệp hội và các cơ quan chức năng

9

hoạch định chính sách và đề ra các giải pháp hữu hiệu cho việc phát triển làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề.

d/ Xác định rõ những nội dung và nhân tố tác động đến sản xuất và xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ để có hướng điều chỉnh phù hợp hơn.

e/ Cung cấp cho những người quản lý, nghiên cứu và cả những người

sản xuất có cách nhìn mới và thêm kinh nghiệm trong việc phát triển làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

của một số quốc gia nổi tiếng về làng nghề.

f/ Đưa ra một số dự báo quan trọng và định hướng phát triển xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 của Việt Nam.

g/ Đề xuất được một cách hợp lý, khoa học với các cơ quan chức năng

về cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

để tăng nhanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tham khảo, nội

dung luận án được kết cấu thành 3 chương.

Chương I: Tổng quan về làng nghề, doanh nghiệp làng nghề và tiềm

năng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của doanh nghiệp làng nghề.

Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.

Chương III: Giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong quá trình hội nhập.

10

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ VÀ

TIỀM NĂNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA

CÁC DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ.

1.1. Khái niệm, đặc điểm về làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

1.1.1. Khái niệm về làng nghề và làng nghề thủ công mỹ nghệ

Trong lịch sử hình thành và phát triển, đến nay Việt Nam vẫn là một

nước nông nghiệp. Do vậy, làng, xã có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất

cũng như đời sống của cư dân. Làng, xã Việt Nam phát triển từ lâu đời, gắn

bó với nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện

Ngôn ngữ học: “Làng là một khối dân cư nông thôn làm thành một đơn vị, có

đời sống riêng về nhiều mặt ” [110]

Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm

nghề nông nghiệp, dần dần do nhu cầu cuộc sống, có một bộ phận dân cư

chuyển sang làm nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau thành lập một số tổ

chức theo nghề nghiệp, tạo thành các phường, hội. Từ đó, các nghề được mở

rộng và phát triển ở nhiều nơi. Cùng với thời gian, các nghề mới ngày càng

nhiều hơn và trở thành nghề quan trọng đem lại thu nhập chính cho một bộ

phận dân cư và bộ phận dân cư này tách hẳn đồng ruộng, chuyển sang làm

nghề mới.

Vậy, theo tác giả, làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một

thôn (một làng), có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để

sản xuất, kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ lệ cao trong

tổng giá trị sản phẩm của toàn làng.

Theo Thông tư số 116/2006/TT - BNN&PTNT ngày 18/2/2000 về việc:

Hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ - CP

ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, định

nghĩa: “Làng nghề là một cụm hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng,

11

buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn,

có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản

phẩm khác nhau”.

Cũng theo Thông tư trên, “được coi là làng nghề, nếu các hộ gia đình

lao động trong làng làm nghề tối thiểu chiếm từ 30% trở lên; hoạt động sản

xuất, kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm công nhận.

Như vậy, làng xã là nơi sinh ra nghề thủ công và các sản phẩm mang

dấu ấn tinh hoa của nền văn hoá, văn minh của địa phương và dân tộc. Quá

trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp

ở nông thôn. Sự phát triển được bắt nguồn từ một vài gia đình, rồi đến dòng

họ và sau lan ra quy mô cả làng. Trải qua thời gian dài của lịch sử, lúc thịnh,

lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất

hẳn, có những nghề mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ tinh

xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công xã hội khá cao, cùng lưu giữ với

thời gian, gọi là nghề truyền thống.

Nghề thủ công với những sản phẩm của nó thật sự đã góp phần tạo nên

bản sắc văn hoá dân tộc và là những di sản văn hoá dân tộc. Bản sắc văn hoá

bất kỳ dân tộc nào cũng đều là nền tảng cho sự tồn tại của dân tộc đó. Truyền

thống văn hoá được biểu hiện tập trung ở bản sắc văn hoá dân tộc.

Nói đến làng nghề chính là nói đến làng nghề thủ công. Vì hầu hết sản

xuất trong các làng nghề đều làm bằng thủ công (bằng tay). Thời gian gần

đây, khoa học công nghệ phát triển, một số ít công đoạn được sử dụng bằng

máy. Có một số rất ít làng nghề buôn bán, thì đó không phải là làng nghề thủ

công.

Việt Nam có hàng trăm nghề thủ công khác nhau, sản xuất ra những

sản phẩm sử dụng trong cuộc sống hàng ngày hoặc để vui chơi, giải trí, chiêm

ngưỡng hoặc để xuất khẩu. Mỗi làng nghề đều có những nghề đặc trưng khác

nhau. Chẳng hạn làng nghề gốm, sứ, làng nghề mây tre đan, làng nghề làm

bún, giò chả, làng nghề làm giấy, làng nghề đúc đồng, làng nghề làm bánh,

12

mứt kẹo, làng nghề buôn bán,... Nhưng không phải tất cả các loại làng nghề

trên đều là làng nghề thủ công mỹ nghệ. Theo quan điểm của tác giả, làng

nghề thủ công mỹ nghệ là những làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng thủ

công mang tính thẩm mỹ, tinh xảo có tính nghệ thuật cao.

Trong các làng nghề thủ công mỹ nghệ thường có các nghệ nhân, thợ

thủ công lành nghề nổi tiếng chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, sản xuất

ra những sản phẩm mang tính đặc trưng của làng. Các sản phẩm đó thường có

giá trị nhân văn nhiều hơn giá trị sử dụng.

1.1.2. Khái niệm về doanh nghiệp làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

thủ công mỹ nghệ

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều

thành phần và loại hình kinh tế xuất hiện trong xã hội và đóng góp phần

không nhỏ cho sự phát triển đất nước. Trong những năm đổi mới, nhất là từ

khi Luật Doanh nghiệp ra đời, hàng loạt doanh nghiệp trong đó quy mô nhỏ

và vừa chiếm đa số, đã được đăng ký và hoạt động. Không ít doanh nghiệp

làng nghề cũng ra đời trong giai đoạn này.

Hiện nay, chưa có một định nghĩa hoặc khái niệm thống nhất nào về

doanh nghiệp làng nghề. Vì vậy, tác giả đưa ra khái niệm cơ bản về doanh

nghiệp làng nghề như sau: “Doanh nghiệp làng nghề là những doanh nghiệp

ra đời và hoạt động theo LuËt Doanh nghiÖp, nhằm chñ yÕu sản xuất, kinh

doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ hoặc dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh

doanh hàng thủ công mỹ nghệ”.

Trong những năm gần đây, nhiều hộ kinh tế gia đình trong các làng

nghề đã thay đổi hình thức sở hữu, mô hình sản xuất, kinh doanh. Số lượng

doanh nghiệp làng nghề ngày càng tăng nhanh và chứng tỏ có nhiều ưu thế

hơn so với kinh tế hộ gia đình. Loại hình doanh nghiệp chiếm đa số trong các

làng nghề là Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư

nhân.

13

Ở đây ta cần phân biệt khái niệm doanh nghiệp làng nghề với doanh

nghiệp tại các làng nghề. Theo tác giả, khái niệm doanh nghiệp làng nghề là

chỉ những doanh nghiệp sản xuất hay kinh doanh hàng thủ công của các làng

nghề hoặc những doanh nghiệp dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh

doanh hàng thủ công. Chẳng hạn như doanh nghiệp sản xuất hàng gốm, sứ;

doanh nghiệp kinh doanh hàng mây tre đan; doanh nghiệp chuyên cung ứng

nguyên liệu cho sản xuất gốm sứ,.... Còn những doanh nghiệp tại các làng

nghề mà không sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, không liên quan

đến các dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ thì không

phải là doanh nghiệp làng nghề. Chẳng hạn như doanh nghiệp vận tải hành

khách, doanh nghiệp thu mua, chế biến thóc, gạo tại các làng nghề,...

Sở dĩ chúng ta phải xác định cụ thể khái niệm này vì nó liên quan đến

việc xây dựng mô hình quản lý, đánh giá thực trạng doanh nghiệp làng nghề

và xây dựng cơ chế, chính sách cùng các giải pháp phát triển doanh nghiệp

làng nghề.

1.2. Lịch sử phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam

1.2.1. Quá trình ra đời và phát triển làng nghề

a/ Thời kỳ phong kiến

Làng nghề thủ công Việt Nam từng tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch

sử và góp phần quan trọng tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc. Truyền thống văn

hoá đó là niềm tự hào của dân tộc qua các thế hệ nối tiếp nhau. Đó là những

thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật với các sản phẩm, công cụ, kinh nghiệm

sản xuất còn lưu truyền đến ngày nay. Đây chính là nền tảng và động lực cũng

như mục tiêu phát triển bền vững, lâu dài của nghề và làng nghề thủ công.

Qua các tài liệu nghiên cứu dấu vết người cổ đã tìm thấy hàng vạn công

cụ đồ đá ghè, đẽo thô sơ. Những dấu vết đó khẳng định một giai đoạn đồ đá

cũ khoảng ba, bốn vạn năm về trước.

14

Thời kỳ Đông Sơn (thời đại đồ đồng), người Việt Đông Sơn đã đúc

được trống đồng đạt tới đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật. Những trang trí

trên mặt trống đồng đã phản ánh một cách phong phú và sinh động cuộc sống,

lao động và chiến đấu, những hình thức tín ngưỡng, hoạt động vui chơi, giải

trí của người Việt cổ.

Theo nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy rằng,

ở thời kỳ này nền nông nghiệp phát triển mạnh, nên nghề thủ công có điều

kiện mở rộng. Ngược lại, nghề thủ công, nhất là nghề luyện kim đã tác động

vào nông nghiệp bằng các loại công cụ sản xuất có hiệu quả hơn các công cụ

bằng đá, gỗ, tre thô sơ, làm cho các nghề trồng trọt, nhất là trồng lúa phát

triển mạnh. Đương nhiên, nghề thủ công phát triển không chỉ nhờ nông

nghiệp, mà còn chịu chi phối bởi nhiều yếu tố khác. Trong đó, đáng chú ý là

do chiến tranh chống xâm nhập của phương Bắc. Vũ khí bằng đồng, sắt là

những thứ không thể thiếu của thời kỳ này. Người Việt Đông Sơn đã ổn định

sản xuất ít nhất 7 nhóm nghề thủ công lớn như nghề luyện kim, nghề gốm,

nghề thuỷ tinh, nghề mộc và sơn, nghề dệt vải, nghề đan lát (mây, tre, nứa,

cói), nghề chế tác.

Thời kỳ Bắc thuộc, các nghề chủ yếu sản xuất công cụ và vật dụng

bằng sắt, đồng, giấy, thuỷ tinh, mộc,... Đạt đến trình độ tinh xảo. Sử sách còn

ghi: “Lái buôn Trung Quốc sang Giao Chỉ (Việt Nam) mua giấy trầm hương,

vua Tần cuối thế kỷ thứ III sai quan lại dùng giấy này để chép sách Xuân Thu,

Kinh truyện. Vào thế kỷ thứ IV, trên cơ sở tiếp thu kỹ thuật từ Ấn Độ, người

Việt Nam đã thổi những bình, bát thuỷ tinh nhiều màu sắc. Dưới thời nhà Ngô

đô hộ, hàng ngàn thợ thủ công Việt Nam bị bắt sang Trung Quốc để xây dựng

kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh)”. [3]

Tuy vậy, phải đến thế kỷ thứ XI - XIV, dưới triều nhà Lý (1010 - 1225)

và nhà Trần (1225 - 1400) đất nước mới thực sự phục hưng. Nhà nước Đại

Việt lúc này khá hùng mạnh. Mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội, văn hoá phát

triển đến mức cao. Bối cảnh xã hội lúc đó vô cùng thuận lợi cho các nghề thủ

15

công phát triển. Hàng loạt nghề thủ công ra đời mở rộng nhanh chóng. Nhiều

loại sản phẩm không những có sản lượng lớn, mà còn có sự thay đổi về chất

lượng và chủng loại. Theo tư liệu cổ sử cho biết, vào thời Lý - Trần, hay

chậm nhất là đến thời phục hưng Lý - Trần, thế kỷ thứ XI - XIII, các làng

nghề thủ công xuất hiện ngày càng nhiều. Một số sản phẩm trở nên nổi tiếng

và sống mãi với lịch sử, văn hoá, văn minh dân tộc. Nổi bật là làng nghề dệt

La Khê, Vạn Phúc, nghề gốm ở Bát Tràng, nghề đúc đồng ở Đại Bái, Đê Cầu

(Bắc Ninh), Đông Mai (Hải Dương), làng rèn sắt Văn Chàng (Nam Định),

làng nón Ma Lôi (Hải Dương).

Thế kỷ thứ XV - XVII, thời hậu Lê và nhà Mạc, kéo dài suốt 300 năm.

Những làng nghề, phố nghề tập trung khá nhiều thợ chuyên sản xuất một số

sản phẩm nhất định. Nhà nước phong kiến đương thời thu thuế bằng hiện vật

các sản phẩm được làm ra từ các làng nghề, phường nghề, phố nghề để sử

dụng trong triều thần và làm cống phẩm nộp cho Trung Quốc. Kinh thành

Thăng Long đổi tên thành Đông Đô, rồi Đông Kinh, lập ra 36 phố phường.

Tại đó có các nghề chuyên sản xuất, buôn bán hàng thủ công. Như phường

Yên Thái làm nghề giấy dó, phường Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải lụa,

phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Hàng Bạc chế tác đồ vàng bạc,

phường Ngũ Xá đúc đồng, phường Hàng Khay bán sơn và đồ mỹ nghệ,

phường Hàng Trống bán dù, lọng, trống và sản xuất tranh dân gian.

Cuối thời Hậu Lê, nhiều làng nghề hay trung tâm sản xuất gốm được

ghi trong sử sách: làng Thổ Hà (Bắc Ninh) nổi danh về gốm đỏ, làng Hương

Canh (Vĩnh Phúc) làm chum vại, làng Hàm Rồng (Thanh Hoá) sản xuất các

đồ gốm gia dụng. Những làng nổi tiếng về sản xuất nồi đất nung thời Lê -

Mạc là Vân Đình (Hà Tây - nay là Hà Nội), Đình Trung và Hiếu Lễ (Vĩnh

Phúc), chợ Bộng (Nghệ An). Riêng trung tâm gốm sứ lớn ở Nam Sách (Hải

Dương) đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ suốt 2 thế kỷ XVI - XVII, đó là gốm

Chu Đậu. Phần lớn gốm mỹ nghệ và gốm gia dụng cao cấp xuất khẩu đương

thời đều sản xuất tại Chu Đậu. Trung tâm này bị phá huỷ vào cuối thế kỷ thứ

16

XVII do cuộc chiến tranh ác liệt giữa 2 thế lực phong kiến triều Mạc và chúa

Trịnh. Gần đây gốm Chu Đậu đã được khôi phục lại và đang có xu hướng

phát triển nhanh.

Phía Đông Nam kinh thành Thăng Long (Hà Nội) có làng gốm Bát

Tràng, hình thành và phát triển suốt 600 năm nay. Nếu gốm Chu Đậu giỏi về

chế tạo gốm hoa lan, đưa gốm hoa lan lên đỉnh cao nhất vào thế kỷ thứ XVII,

thì Bát Tràng có tài sản xuất nhiều loại gốm quý: hoa lan, hoa nâu, men ngọc,

men rạn từ xưa tới nay. Hiện tại, Bát Tràng là làng gốm lớn nhất, phát triển

nhất miền Bắc, đồng thời là một trong 3 trung tâm gốm, sứ lớn nhất cả nước

(cùng với trung tâm gốm sứ Biên Hoà - Đồng Nai và Lái Thiêu - Bình

Dương).

Mặc dù thế kỷ thứ XV - XVII là thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh,

sông Gianh thành giới tuyến Đằng Ngoài và Đằng Trong, nhưng sự tranh

giành quyền lực giữa các thế lực phong kiến không thể ngăn cản được sự lao

động sáng tạo của nhân dân. Các làng nghề và phường nghề mọc lên ngày

càng nhiều ở nông thôn và thành thị. Những nghề phát triển khá mạnh lúc bấy

giờ là nghề: gốm, tiện, khắc gỗ, đồ nữ trang, tơ lụa. Đồng bằng sông Hồng - ở

Đằng Ngoài và xứ Thuận Hoá - ở Đằng Trong, có nhiều nghề hơn hẵn các nơi

khác trong cả nước. Chính quyền Trịnh, Nguyễn chủ trương phát triển sản

xuất để tăng thêm nguồn thu cho nhà nước, đáp ứng nhu cầu của giới cầm

quyền. Những thợ lành nghề bị trưng thu vào các xưởng thủ công của nhà

nước, làm việc theo chế độ lao dịch, cưỡng bức.

Nhiều nước phương Tây (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh,

Pháp,...) mở rộng thông thương với Việt Nam. Đây chính là một trong những

nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các làng nghề và trung tâm sản xuất hàng

thủ công mỹ nghệ lúc đó phát triển. Họ mua của Việt Nam, các loại hàng thủ

công như tơ lụa, đường, gốm, đồ mỹ nghệ vàng bạc, mây tre đan,...

Vào thế kỷ thứ XVIII, chính quyền họ Trịnh tăng tô thuế lên cao, với

nhiều loại thuế đánh vào sản xuất, buôn bán. Đây là chính sách bóp nghẹt

17

ngoại thương, ngăn cản kinh doanh, đánh thuế rất nặng vào hàng thủ công mỹ

nghệ. Do vậy đã làm cho nhiều thương nhân và thợ thủ công bị phá sản, có

nhiều người phải bỏ nghề, phá huỷ công cụ sản xuất. Trong cuốn “Lịch triều

khiến chương loại chí”, nhà sử học Phan Huy Chú viết: “Vì trưng thu quá

mức, dân kiệt cả vật lực mà không thể nộp đủ, đến nỗi thành ra bần cùng mà

phải bỏ nghề nghiệp. Có người vì thuế sơn sống mà phải chặt cây sơn, có

người vì thuế vải lụa mà phải phá khung cửi. Cũng có người vì nộp gỗ cây mà

phải bỏ búa rìu”. Cùng thời kỳ đó, ở Đằng Trong cũng không có gì sáng sủa

hơn, bởi chính sách thuế khoá nặng nề của chúa Nguyễn.

Đầu thế kỷ thứ XVII, hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam tập trung vào

phát triển nhiều làng nghề, phường nghề thủ công có tiếng như nghề dệt, gốm,

rèn, đúc đồng. Thương cảng Hội An lúc đó “hàng hoá rất nhiều, dù hàng trăm

tàu lớn chuyên chở cùng một lúc cũng không hết được” (Lê Quý Đôn - Phụ

biên tạp lục). Lúa gạo từ Gia định chở ra Thuận Hoá và hàng thủ công từ các

làng nghề xứ Thuận Hoá lại được chuyển vào bán ở Gia Định.

Thời cận đại, dưới triều Nguyễn, trước khi Pháp xâm lược nước ta, từ

năm 1858 trở về trước, ngoài nghề nông thì sản xuất hàng hoá hầu hết bằng

công nghệ truyền thống. Nghề thủ công lúc này rất quan trọng và chia thành 2

bộ phận rõ rệt. Một bộ phận gắn chặt với nông nghiệp, nông thôn, một bộ

phận khác tách khỏi nông nghiệp. Nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm đến bộ phận

thứ 2 này và do Công bộ quản lý. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” (biên

soạn vào nửa đầu thế kỷ XIX), cả nước có hàng trăm loại hàng thủ công đặc

sắc, coi như đặc sản thể hiện tài năng và kỹ thuật cổ truyền của dân tộc. Phát

triển nhất có lẽ là ngành dệt. Khắp nước, đâu đâu cũng có sản phẩm dệt, nhất

là các tỉnh, thành như Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam

Định, Thanh Hoá, Quảng Nam, Bình Định, Biên Hoà, Gia Định, An Giang,...

với hàng trăm mặt hàng từ tơ tằm, sợi bông, sợi gai. Sau nghề dệt là các nghề

gốm sứ, đồ gỗ, may, thêu, kim hoàn, đúc đồng, rèn. Nhiều làng nghề và trung

18

tâm sản xuất đồ gốm nổi tiếng trên toàn quốc như Bát Tràng, Thổ Hà, Móng Cái

ở miền Bắc, Quảng Nam ở miền Trung, Biên Hoà, Thủ Dầu Một ở miền Nam.

Lúc này, triều Nguyễn chiêu tập thợ giỏi các nơi về Huế xây dựng cung

điện, đền đài, đúc đồng, làm đồ kim hoàn và nhiều đồ thủ công khác. Tuy

nhiên, những sản phẩm tinh xảo thường vẫn được làm tại Hà Nội và các tỉnh

lân cận thuộc đồng bằng sông Hồng. Còn phía Nam, Gia Định vừa là thủ phủ

của Nam Bộ, vừa là trung tâm thương mại lớn. Nhưng một điều dễ thấy, đó là

khuynh hướng sản xuất hàng thủ công chủ yếu ở miền Bắc, nhưng hoạt động

thương mại chủ yếu ở miền Nam. Các làng chuyên nghề, các phố thợ thủ

công phát triển theo hướng tách rời nông nghiệp. Tại các làng nghề chuyên đã

thu hút 80 - 90% dân số làm nghề thủ công, chỉ còn khoảng 10% dân số làm

ruộng. Còn các phố nghề ở Hà Nội, hầu hết số dân làm nghề thủ công hoặc

buôn bán sản phẩm thủ công. Chính tại các phố phường này đã thể hiện rõ

nhất sự phân công lao động hơn hẳn các làng nghề, để hình thành các tiểu

chủ, chủ bao mua kiêm chủ tư bản, hình thành các nhà tư sản dân tộc nửa đầu

thế kỷ thứ XIX ở Việt Nam.

Những năm đầu thế kỷ thứ XIX, nhà Nguyễn có vai trò quan trọng đối với

sự phát triển sản xuất thủ công của các làng nghề trong cả nước, như việc cho

phép thợ thủ công hội nhau thành các phường nghề, xếp thợ thủ công vào hạng

“miễn sai”, tức là bỏ hay miễn giảm thuế thân, bớt lao dịch, miễn đi lính quân

dịch. Nhiều quan chức, học giả yêu nước đã đề xuất với vua Tự Đức “khuyến

khích các xưởng thợ để đủ đồ dùng” hoặc “không dùng hàng phương Bắc”.

b/ Thời kỳ Pháp thuộc

Nửa cuối thế kỷ thứ XIX đến năm 1945, chính quyền Pháp ở Đông

Dương nắm giữ vai trò chủ đạo phát triển sản xuất hàng thủ công ở Việt Nam.

Người Pháp đến Việt Nam đã đem theo nền sản xuất cơ khí từ chính quốc của

họ. Đối với nền sản xuất thủ công lâu đời của Việt Nam, người Pháp từng

bước có chủ trương và biện pháp chú ý cho cuộc khai thác thuộc địa lần thứ

nhất. Chính quyền Pháp chủ trương và cho tiến hành cuộc điều tra, nghiên

19

cứu tài nguyên và khả năng sản xuất, nhu cầu của sản xuất thủ công ở Việt

Nam những năm 70 - 80 của thế kỷ XIX.

Từ năm 1898, các trường kỹ nghệ thực hành và mỹ nghệ thực hành ở

Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và một số tỉnh khác được thành lập để đào tạo

thợ kỹ thuật các nghề rèn, nguội, mộc, tằm tơ, khảm, sơn mài, gốm và đúc

đồng. Nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam được Pháp đưa ra nước

ngoài tham dự các hội chợ, triển lãm như hội chợ Lyon năm 1893, hội chợ

Paris năm 1907 giới thiệu đồ tơ lụa và đồ khảm của Việt Nam. Tại Hà Nội,

thành lập Bảo tàng Công - Nông - Thương năm 1902; bắt đầu tổ chức hội chợ

hàng năm tại khu Đấu Xảo từ năm 1918. Năm 1900, Toàn quyền Đông

Dương quyết định đặt ra những giải thưởng lớn tặng cho các nghệ nhân hoặc

thợ thủ công có công trau dồi nghề nghiệp.

Từ năm 1930, khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tác động mạnh đến

kinh tế Pháp và Đông Dương, thì thực dân Pháp quan tâm nhiều hơn đến thủ

công nghiệp truyền thống của Việt Nam. Chính quyền Pháp cho tiến hành cuộc

“chấn hưng công nghệ” từ năm 1935, mở đầu bằng cuộc điều tra để tìm phương

án phát triển thủ công nghiệp Bắc Kỳ do Thống sứ Bắc Kỳ phụ trách. Chính

quyền và các nhà kinh doanh bản xứ hiểu rằng, kích thích phát triển thủ công

nghiệp không những chỉ phải bỏ ít vốn hoặc không cần bỏ vốn, mà lợi nhuận thu

được lại cao, bởi tận dụng được nguồn nhân công rẻ mạt và tài khéo léo của

người thợ thủ công có truyền thống lâu đời. Tư sản thương mại Pháp muốn tận

dụng nguồn lợi từ nền sản xuất sản phẩm truyền thống, nhất là hàng mỹ nghệ

Việt Nam luôn được thế giới ưa chuộng và có giá trị cao. Ngoài ra, các loại sản

phẩm này đáp ứng kịp thời và tại chỗ cho nhu cầu tiêu dùng thuộc địa mà nước

Pháp không có khả năng cung cấp được. Bối cảnh lịch sử, kinh tế xã hội lúc đó

đã tạo thuận lợi cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp phát triển. Số lượng thợ thủ

công và làng nghề thủ công tăng lên đáng kể, nhất là đồng bằng Bắc Bộ.

Theo số liệu điều tra của P.Gourou năm 1930, số thợ thủ công ở Bắc

Bộ khoảng 250 ngàn người, chiếm 6,5% số người ở độ tuổi lao động trong

20

vùng. Nếu tính cả những người làm nghề thủ công không chuyên nghiệp, thì

số người làm nghề thủ công chiếm khoảng 8% số người lao động. Trung tâm

phát triển nhất về hàng thủ công mỹ nghệ Bắc Bộ là các tỉnh đồng bằng sông

Hồng, sông Mã, sông Đáy, bao gồm các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hải

Dương, Bắc Ninh, Thanh Hoá, đặc biệt là Hà Đông. Tỉnh Hà Đông (nay là Hà

Nội) lúc đó có tới 14% lao động (khoảng 65 ngàn người) làm nghề thủ công.

Làng nghề của Hà Đông tập trung chủ yếu dọc ven sông Đáy, thuộc 2 huyện

Thanh Oai, Ứng Hoà. Riêng Thanh Oai, thợ thủ công chiếm 29% lao động

toàn huyện. Con số này lên đến 44% ở Bối Khê, 41% ở tổng Thuỷ Cam.

Vùng này có làng nghề dệt, làm quạt giấy, làm nón, làm mành, mây tre đan,...

Còn huyện Ứng Hoà, 19% lao động làm nghề thủ công, tập trung đông nhất ở

tổng Đông Lỗ (43% lao động thủ công trên tổng số dân). Nói chung, khắp

tỉnh Hà Đông, thời Pháp thuộc đâu cũng có làng nghề thủ công chuyên

nghiệp. Làng La Khê dệt the, vân, xuyến; làng Vạn Phúc dệt vân, the, gấm, xa

tanh; làng Đại Mỗ chuyên làm dây đay, võng; Làng Phú Vinh chuyên mây tre

đan; làng Triều Khúc có 40 nghề, nhưng phát đạt nhất là nghề dệt khăn mặt

và nghề đan lát. Hà Đông còn có nhiều nghề khác như làm quạt, tạc tượng gỗ,

chạm khắc gỗ, làm hương, làm vàng mã. Có thể nói, Hà Đông là một thế giới

thu nhỏ của nghề thủ công, nơi có rất nhiều làng nghề thủ công của đồng bằng

Bắc Bộ. Các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Bắc Ninh, Hưng Yên hay như Sơn Tây

(Hà Nội),... cũng có nhiều làng nghề nổi tiếng với dân số làm nghề chiếm tỷ

lệ cao. Khu vực bên sông Luộc, thuộc địa phận 2 tỉnh Hưng Yên và Thái Bình

có nhiều vùng nghề thủ công tập trung. Tỉnh Thái Bình có làng Đồng Xâm

chuyên chạm bạc và làm nghề trang sức; làng Phúc Khê chuyên mây tre đan.

Tỉnh Hưng Yên có làng Hải Yến làm hàng mã; làng Tiên Phương đan lát;

làng Cảo Cương dệt lụa,...

Các làng nghề, phố nghề Hà Nội phát triển mạnh và tập trung nhiều thợ

giỏi. Những địa danh gắn liền với làng nghề thủ công và sản phẩm tinh xảo,

21

giá trị cao phải kể đến gốm Bát Tràng; dệt Cổ Đô, Trích Sài; giấy dó Yên

Thái, Nghĩa Đô; tranh dân gian Hàng Trống; đúc đồng Ngũ Xá,...

Qua thống kê trên Tập san kinh tế Đông Dương năm 1939, số thợ thủ

công Việt Nam tập trung chủ yếu ở Bắc Kỳ (95.700 thợ), đông gấp 7 lần số

thợ ở Trung Kỳ (12.650) và 4 lần Nam Kỳ (19.130 thợ).

Năm 1945, Việt Nam tuyên bố độc lập, nhưng cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp vẫn kéo dài đến năm 1954. Nên những làng nghề thuộc vùng

có chiến tranh không có điều kiện phát triển.

c/ Thời kỳ từ năm 1954 tới nay

Sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhất là từ năm 1960 nghề và

làng nghề thủ công có điều kiện mở rộng và phát triển mạnh hơn.

Những năm 70 của thế kỷ XX đã đánh dấu một thời kỳ hoàng kim của

nghề, làng nghề thủ công Việt Nam. Hàng loạt tổ chức sản xuất, kinh doanh,

thu mua, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ra đời khắp các vùng nông thôn,

thành thị miền Bắc. Sản xuất hàng thủ công lúc này đã thu hút hàng triệu lao

động chuyên nghiệp và không chuyên thuộc mọi lứa tuổi. Hàng thủ công mỹ

nghệ Việt Nam được ưa chuộng và tiêu thụ lớn tại các nước xã hội chủ nghĩa

như Liên Xô, cộng hòa dân chủ Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc,... vào những năm

70 - 80 của thế kỷ XX. Hàng thủ công mỹ nghệ có vai trò rất quan trọng trong

việc thanh toán hàng đổi hàng với các nước xã hội chủ nghĩa theo các hiệp

định song phương và đa phương. Đã góp phần rất quan trọng trong việc duy

trì và phát triển mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa nước ta với các nước xã

hội chủ nghĩa.

Nhịp độ lao động rất sôi nổi, khẩn trương rộng khắp trong các làng

nghề. Cuộc sống của người thợ được cải thiện đáng kể. Những chủng loại sản

phẩm thủ công mỹ nghệ được xuất khẩu nhiều trong thời kỳ này là đồ sơn

mài, mây tre đan, thêu ren, thảm các loại, đồ trang sức, lụa,...

Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu

lần lượt tan rã, thị trường Liên Xô, Đông Âu rơi vào khủng hoảng. Do vậy,

22

hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung rất khó

xuất khẩu sang khu vực thị trường này. Trong khi đó, hầu như toàn bộ hàng

thủ công mỹ nghệ trước đó chỉ xuất khẩu được vào thị trường các nước xã hội

chủ nghĩa. Còn thị trường khu vực II (thị trường tư bản) Việt Nam xuất khẩu

với kim ngạch không đáng kể. Do vậy, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thời

kỳ này bị đình đốn, nhiều làng nghề bị mai một dần, đa số thợ thủ công bỏ

nghề đi tìm việc khác để kiếm kế sinh nhai. Có thể nói, những năm cuối 80,

của thế kỷ XX là những năm suy giảm đối với hàng thủ công mỹ nghệ.

Cuối những năm 80, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi

mới, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế. Nhiều chủ trương lớn liên quan đến

chính sách xuất nhập khẩu, quản lý ngoại hối, khuyến khích đầu tư, cải cách

hành chính,... đã tạo môi trường thông thoáng cho giao lưu quốc tế, khuyến

khích phát triển các thành phần kinh tế. Từ thời gian này, hàng xuất khẩu nói

chung và hàng thủ công mỹ nghệ có nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường nước

ngoài, đặc biệt là thị trường tư bản. Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ được

phát triển dần và tốc độ ngày càng tăng nhanh từ năm 1995, tác động đến sự

phục hồi nhanh chóng của làng nghề theo hướng đa dạng mẫu mã, chủng loại

và chất lượng cao hơn, quy mô lớn hơn, chuyên nghiệp hơn.

1.2.2. Quá trình ra đời và phát triển của doanh nghiệp làng nghề Việt Nam

Trước những năm 60 của thế kỷ XX, tại các làng nghề của Việt Nam

hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ hầu như tập trung toàn bộ tại các

hộ gia đình. Sản xuất theo hình thức hộ gia đình bắt đầu hình thành khi làng

nghề xuất hiện, tồn tại cho đến ngày nay và vẫn đang chiếm phần lớn trong

các hình thức hoạt động tại các làng nghề. Hình thức sản xuất theo hộ gia đình

có ưu điểm là tận dụng được mặt bằng sản xuất tại nhà, tận dụng được lao

động chủ yếu trong gia đình vào thời kỳ nông nhàn, chi phí sản xuất thấp,

quản lý đơn giản, nhưng nhược điểm lớn là khó mở rộng quy mô sản xuất,

khó sản xuất lớn, khó đưa máy móc kỹ thuật tiên tiến, hiện đại thay cho lao

23

động thủ công, không đủ vốn để tăng năng lực sản xuất và không đủ lao động,

nhất là thợ nghề bậc cao để sản xuất những mặt hàng giá trị lớn. Ngoài ra, sản

xuất theo hộ gia đình rất khó tiếp cận với thị trường, nhất là thị trường nước

ngoài, khó mở rộng các mối quan hệ để tiếp cận với đầu vào và khó thay đổi

đề tài, mẫu mã, chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng.

Quá trình sản xuất thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề theo phương

thức nhỏ lẻ, tự phát, bộc lộ nhiều khó khăn do không có tính tổ chức, chi phí

cao, khó tiêu thụ,... đòi hỏi phải liên kết lại ở các quy mô khác nhau. Vì vậy

sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, trong các làng nghề ở miền Bắc đã

bắt đầu xuất hiện thêm một số hình thức sản xuất mới như tổ sản xuất, hợp tác

xã. Tổ sản xuất là hình thức tập trung, liên kết của một số gia đình cùng sản

xuất những sản phẩm tương đối giống nhau để phát triển sản xuất, nhằm mở

rộng quy mô. Cách thức quản lý tổ sản xuất cũng đơn giản. Các gia đình bầu

ra người đứng đầu, gọi là tổ trưởng, người này phân công công việc cho từng

gia đình và quán xuyến đầu vào, đầu ra cho các gia đình đó. Các gia đình

được phân chia quyền lợi trên cơ sở đóng góp sản phẩm và công lao họ bỏ ra.

Mặc dù tổ sản xuất đã có bước tiến và ưu điểm hơn so với kinh tế hộ gia đình,

nhưng hình thức này vẫn còn đơn giản, quản lý lỏng lẽo và chưa có tính chất

pháp lý ràng buộc với từng hộ gia đình, nên sự kích thích sản xuất cũng còn

hạn chế.

Từ những năm 60, trên miền Bắc đã xuất hiện rầm rộ mô hình sản xuất

hợp tác xã. Trong các làng nghề, hình thức hoạt động hợp tác xã cũng ra đời.

Mô hình hợp tác xã ở cấp cao hơn tổ sản xuất. Đây không phải là sự tập trung

lại của một số hộ kinh tế gia đình, mà là sự tự nguyện của từng cá nhân xin

vào hợp tác xã. Người muốn vào hợp tác xã phải có đơn và phải được chấp

nhận. Xã viên bầu ra Ban chủ nhiệm, Ban chủ nhiệm bầu ra Chủ nhiệm. Ban

chủ nhiệm quyết định mọi công việc của hợp tác xã. Hoạt động của hợp tác xã

có điều lệ rõ ràng. Tại các cấp trung uơng, tỉnh, thành phố đều có cơ quan

quản lý và chỉ đạo phát triển hợp tác xã. Phải nói rằng, các hợp tác xã làng

24

nghề trong thời kỳ 1960 - 1990 ở miền Bắc và thời kỳ sau 1975 ở miền Nam

đã có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển làng nghề. Thời kỳ đó làng

nghề và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có ý nghĩa rất lớn trong đời sống

kinh tế của đất nước. Các hợp tác xã làng nghề đã thu hút hàng triệu xã viên

và tăng thu nhập cho người lao động. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ thời kỳ này đóng vai trò đặc biệt quan trọng với nền kinh tế đất nước

chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Tuy nhiên, cuối những năm 80 và đầu những năm 90 vai trò của hợp

tác xã làng nghề đã bắt đầu có dấu hiệu giảm sút, do sự sụp đổ của các nước

Đông Âu và Liên Xô, là thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của Việt

Nam, trong đó có hàng thủ công mỹ nghệ. Sự khủng hoảng thị trường tiêu thụ

đã kéo theo sự giảm sút sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề,

nhiều hợp tác xã làng nghề lâm vào tình trạng khó khăn, không ít hợp tác xã

đã giải thể .

Với công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt từ giữa những năm 1990, tình

hình kinh tế trong nước có những chuyển biến quan trọng, nhiều thành phần

kinh tế mới ra đời, nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh với các hình thức sở

hữu khác nhau cũng xuất hiện. Do vậy đã từng bước khơi dậy tốt hơn tiềm

năng, thế mạnh của đất nước; ngành hàng thủ công mỹ nghệ cũng bắt đầu

phục hồi và phát triển.

Hình thức kinh tế hộ gia đình và ngay cả tổ hợp sản xuất càng ngày

càng bộc lộ nhiều khó khăn do thiếu vốn, kỹ thuật, thị trường. Trước bối cảnh

kinh tế ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đòi hỏi phải

tập trung nguồn lực về tài chính, lao động,... Để tạo ra nhiều sản phẩm có số

lượng lớn, chất lượng cao, đa dạng mẫu mã có sức cạnh tranh cao. Vì vậy, bắt

đầu xuất hiện các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hoặc làm dịch vụ cho

hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đó là doanh nghiệp làng nghề. Các doanh

nghiệp này có bộ máy quản lý chuyên nghiệp hơn, có khả năng tiếp cận với

nguồn nguyên liệu và nguồn vốn lớn với công nghệ tiên tiến và thị trường tiêu

25

thụ rộng hơn. Từ đó tạo ra ưu thế nổi trội trong làng nghề và trở thành lực

lượng nòng cốt thu hút nguyên liệu, lao động và nguồn hàng thông qua các vệ

tinh trực tiếp sản xuất với các mô hình cá thể, tổ nhóm. Sự xuất hiện của các

doanh nghiệp làng nghề theo các mô hình khác nhau như Doanh nghiệp tư

nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần là một bước phát triển

cao tại các làng nghề, là sự tích tụ và tập trung nguồn lực sản xuất, nâng cao

chất lượng và giá trị sản phẩm, thể hiện sự phân công lao động xã hội theo

hướng chuyên môn hoá, tăng quy mô sản xuất, giảm giá thành, nâng cao năng

lực cạnh tranh. Đây là mô hình sản xuất kinh doanh có tổ chức cao, tạo yếu tố

phát triển bền vững và toàn diện của nghề thủ công mỹ nghệ.

1.3. Đặc điểm và thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

1.3.1. Đặc điểm làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

1.3.1.1.Đặc điểm của làng nghề

Làng nghề Việt Nam có lịch sử lâu đời, phát triển đa dạng, phong phú,

mang bản sắc văn hoá của làng Việt. Làng nghề có một số đặc điểm sau đây:

Một là, sự ra đời và phát triển của làng nghề không tách rời sự phát

triển, phong tục, tập quán, văn hoá, tư duy của làng xã nông thôn Việt Nam.

Các làng nghề ở nước ta đều ra đời và tách dần từ nông nghiệp. Ban

đầu, nguời lao động ở nông thôn do nhu cầu cuộc sống và việc làm đã làm

một số nghề thủ công bên cạnh nghề nông. Khi lực lượng sản xuất phát triển,

nghề thủ công tách ra nghề độc lập, vươn lên thành một nghề chính trong

làng. Song để đảm bảo cuộc sống, người dân thường làm thêm nghề nông hay

buôn bán và làm thêm nghề khác. Sự kết hợp đa nghề thường thể hiện trong

một làng hay gia đình. Bởi người thợ thủ công cũng chính là người làm nông

nghiệp. Do vậy, những đặc tính của người nông dân đều được thể hiện trong

đặc tính của người thợ thủ công, mang những nét văn hoá làng xã.

Hai là, làng nghề Việt Nam là sản phẩm của tổ chức nông thôn truyền

thống, theo địa bàn cư trú và có tính gia truyền.

26

Làng nghề Việt Nam là kết quả của quá trình phát triển của xã hội loài

người. Làng xã Việt Nam có tổ chức chặt chẽ. Đó chính là môi trường sống,

là tập thể cộng đồng chủ yếu của người Việt Nam, là kết quả của nền nông

nghiệp tự cấp, tự túc, ít nhu cầu trao đổi hàng hoá, nền sản xuất nông nghiệp

không phát triển. Trong các làng nghề thủ công truyền thống, các sản phẩm

thủ công thường được sản xuất ngay trong làng, thậm chí ngay trong từng nhà

ở những thời kỳ nông nhàn. Nghề thủ công trong các làng nghề mang tính gia

truyền, theo hình thức cha truyền con nối. Mô hình đó, đến nay vẫn còn thích

hợp với một số làng nghề.

Ba là, ngành nghề thủ công là sản phẩm chủ yếu của làng nghề, ra đời

trên cơ sở kỹ thuật thủ công truyền thống. Gần đây do tiến bộ khoa học, công

nghệ một số công đoạn được sử dụng máy móc.

Ngành nghề thủ công truyền thống kết tinh những truyền thống, tinh

hoa của dân tộc, tạo nên đặc thù phản ánh thói quen của nhân dân bao đời

nay. Nhưng cho đến nay chủ yếu vẫn là kỹ thuật thủ công. Trong đó, nổi bật

là thói quen sử dụng nguyên liệu, công cụ lao động, tạo hình, trang trí hình

ảnh, màu sắc và thể hiện tính năng, kỹ xảo trong các thao tác. Sản phẩm thủ

công truyền thống không phải sản xuất hàng loạt, mà mang tính đơn chiếc, có

tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc dân tộc, vừa có giá trị sử dụng, vừa có

giá trị thẩm mỹ. Ngoài ra, do sự tiến bộ của khoa học công nghệ và nhu cầu

tiêu dùng của thị trường thế giới theo hướng đa dạng và hiện đại đã tác động

đến sản xuất, hình thành nên nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ có hàm lượng

khoa học công nghệ cao.

Bốn là, nhìn chung, tại các làng nghề hình thức tổ chức sản xuất hộ gia

đình là chủ yếu, một số đã thành lập các tổ sản xuất, hợp tác xã, doanh

nghiệp.

Tại các làng nghề hiện nay, phần đông hình thức tổ chức sản xuất vẫn

là kinh tế hộ gia đình. Trong kinh tế hộ gia đình, người chủ gia đình thường là

thợ cả, trong số họ có người là nghệ nhân, còn những thành viên trong hộ gia

27

đình được phân công vào làm những công việc khác nhau trong sản xuất, kinh

doanh, tuỳ thuộc vào kỹ năng, thói quen, giới tính, lứa tuổi của từng người.

Gia đình thường thuê mướn thêm người vào làm việc, chủ yếu trong dòng tộc,

theo hình thức thường xuyên hoặc thời vụ. Hình thức này đảm bảo gắn quyền

lợi và trách nhiệm, tận dụng được lao động và thời gian, nhu cầu đầu tư không

lớn, thích hợp với quy mô nhỏ, phân tán. Hình thức hộ tiểu chủ phát triển ở

làng nghề, có trình độ tập trung sản xuất cao hơn, rộng hơn. Đối với hình thức

này, những tiểu chủ mua sắm thiết bị, thuê lao động, không chỉ trong hộ tộc,

mà còn cả bên ngoài họ hàng, thậm chí cả lao động bên ngoài làng và từ địa

phương xa đến. Cùng với hình thức kinh tế hộ gia đình, làng nghề còn có hình

thức tổ hợp sản xuất, hợp tác xã và gần đây hàng loạt doanh nghiệp làng nghề

ra đời. Đây là những hình thức tổ chức mới, mang nhiều ưu điểm hơn trong

nền kinh tế thị trường.

1.3.1.2. Đặc điểm doanh nghiệp làng nghề

- Doanh nghiệp làng nghề Việt Nam chủ yếu ra đời trong thời kỳ đổi

mới, đặc biệt từ khi có Luật doanh nghiệp năm 1995.

Trong qua trình đổi mới, đặc biệt càng ngày nền kinh tế nước ta đang

vận hành theo những quy luật của cơ chế thị trường, thì hình thức sản xuất

kinh doanh truyền thống có từ nhiều thập kỷ trước đây không còn hiệu quả,

mà thay dần vào đó là những mô hình mới. Tại các làng nghề, thời gian gần

đây đã có nhiều hình thức hoạt động mới ra đời, đáp ứng đòi hỏi của thực tế

cuộc sống, đó là các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty trách

nhiệm hữu hạn.

Ví dụ làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) nổi tiếng về mặt hàng gốm, sứ từ

mấy trăm năm nay. Nhưng trước những năm 2000, làng nghề này cũng chủ

yếu chỉ sản xuất theo hình thức kinh tế hộ gia đình. Mới đây, khi Luật Doanh

nghiệp ra đời, mô hình doanh nghiệp và một số mô hình khác mới phát triển.

Theo báo cáo của Hiệp hội làng nghề Bát Tràng, đến năm 2008 cả làng có 65

doanh nghiệp và các hình thức khác không phải kinh tế hộ gia đình. Trong đó,

28

Công ty cổ phần có 6 doanh nghiệp, Công ty tư nhân có 12 doanh nghiệp,

Công ty trách nhiệm hữu hạn (1- 2 thành viên) có 34 doanh nghiệp, còn lại

các hình thức sở hữu khác. Trong số các doanh nghiệp này, phần đông là

doanh nghiệp trực tiếp sản xuất (chiếm 64%), doanh nghiệp cung ứng vật tư

nguyên liệu (17%), doanh nghiệp marketing và các dịch vụ khác (chiếm

19%). Tổng số lao động trong các doanh nghiệp làng nghề ở Bát Tràng

khoảng 3 ngàn người.

Tại Bắc Ninh, theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, đến năm 2007,

toàn tỉnh có 120 làng nghề, trong đó có 62 làng nghề truyền thống, mô hình

chủ yếu là Hộ gia đình (18.405), Công ty trách nhiệm hữu hạn (245), Công ty

tư nhân (170). Các doanh nghiệp làng nghề tại Bắc Ninh được ra đời chủ yếu

từ 10 năm trở lại đây.

- Doanh nghiệp làng nghề Việt Nam đều thuộc loại doanh nghiệp vừa

và nhỏ.

1.3.2. Thực trạng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

1.3. 2.1. Thực trạng của làng nghề

a/ Số lượng, quy mô, cơ cấu và tổ chức làng nghề.

Cho đến nay, số liệu được công bố về số lượng, phân bổ, quy mô và

chủng loại làng nghề ở Việt Nam không có sự thống nhất. Nhiều số liệu công

bố hoàn toàn khác nhau, mặc dù tiêu chí để xác định làng nghề gần như tương

tự như nhau. Theo số liệu của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam đưa ra, đến nay

cả nước có 2.017 làng nghề (nguồn: Nên quy hoạch cụ thể các làng nghề của

ông Vũ Quốc Tuấn - Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam - Thời báo Kinh

tế Việt Nam ngày 3/10/2009)

Phân bố làng nghề:

Miền Bắc là nơi tập trung số lượng làng nghề lớn nhất, chiếm tới 63%

số làng nghề cả nước, Trung Bộ chiếm 21%, khu vực Đông Nam Bộ và Đồng

29

bằng sông Cửu Long chiếm 16%, khu vực Tây Nguyên phát triển làng nghề

ĐĐng bĐng sông CĐu L ong 11%

Đông Nam B Đ 5%

Nam T rung B Đ 4%

ĐĐng bĐng sông HĐng 43%

B Đc T rung B Đ 17%

T ây B Đc 12%

Đông B Đc 8%

và doanh nghiệp làng nghề còn chậm (Xem hình 1.1).

Hình1.1. Phân bổ làng nghề theo khu vực

Nguồn: Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn

Về quy mô: Trung bình cả nước, dân số mỗi làng nghề (11 loại làng

nghề phân theo mặt hàng) là 2.079 người, trong đó, trên một nửa số làng nghề

có từ 1.000 đến 5.000 người. Thợ thủ công trong làng nghề trung bình là 668

người, chiếm trên 30% dân số trong làng.

Bảng 1.1. Quy mô làng nghề theo khu vực

Làng nghề

Khu vực

Số người làm nghề mỗi làng (người)

Số làng nghề (làng)

Số người làm nghề (người)

1. Đồng bằng sông Hồng 914 848.805 929

2. Đông Bắc 116 35.044 302

3. Tây Bắc 247 102.210 422

4. Bắc Trung Bộ 341 137.568 409

5. Nam Trung Bộ 87 44.730 514

6. Tây Nguyên 0 - -

7. Đông Nam Bộ 101 93.716 122

8. Đồng bằng sông Cửu Long 211 84.286 399

30

Nguồn: Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam năm 2004, phần 4-6

Bảng 1.2. Lao động ngành nghề thủ công

Tổng số lao

Số lao động

Dân số trung

Tỷ lệ tham gia

Sản phẩm

động

trong từng làng

bình của làng

sản xuất hàng

(người)

nghề (người)

(người)

thủ công (%)

830 2.062 39,9 Cói 233.223

370 370 18,6 Sơn mài 11.464

480 3.162 15,2 Mây tre 342.461

575 2.028 28,3 Gốm sứ 35.054

381 4.312 8,80 Thêu ren 129.922

315 1.036 30,4 Dệt 136.255

292 2.058 14,2 Gỗ 99.904

227 1.479 15,3 Đá 10.211

Tổng số lao

Số lao động

Dân số trung

Tỷ lệ tham gia

Sản phẩm

động

trong từng làng

bình của làng

sản xuất hàng

(người)

nghề (người)

(người)

thủ công (%)

301 1.307 23,0 Giấy 2.406

459 4.947 9,30 Tranh bản gỗ 1.834

303 2.031 14,9 Kim khí 61.895

Loại khác 283.720

548

2.065

26,5

Tổng

1.348.349

Nguồn: Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng

công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, năm 2004, phần 4-10.

Cơ cấu làng nghề: Theo kết quả điều tra lập bản đồ của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật

Bản (tháng 4 năm 2004), làng nghề mây tre chiếm 24% trong tổng số làng

nghề (thống kê từ 11 mặt hàng), sau đó là làng dệt vải chiếm 14%, nghề gỗ

chiếm 12%, thêu ren chiếm 11%, cói chiếm 10%, gốm chiếm 2%. Tỷ lệ này

31

cho thấy làng nghề mây tre phân bổ rộng khắp cả nước và chiếm đa số trong

làng nghề (Xem hình 1.2).

Hình 1.2. Cơ cấu làng nghề theo mặt hàng sản xuất

Nguồn: Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn

Cơ chế quản lý các làng nghề Việt Nam

Cũng như các lĩnh vực khác, làng nghề Việt Nam trước hết phải chịu sự

quản lý của pháp luật và các cơ chế, chính sách của Nhà nước.

Hiện tại, các làng nghề chịu sự quản lý trực tiếp của chính quyền địa

phương (xã, phường). Trong đó vai trò của thôn, xã rất lớn. Thôn, xã trực tiếp

liên quan đến vấn đề đất đai, nguyên liệu, thuế, giao thông vận tải, quy hoạch

làng, xã, thủ tục hành chính trực tiếp, liên quan trực tiếp tới hoạt động các hộ

kinh tế làng nghề.

Bên cạnh sự quản lý hành chính trực tiếp của chính quyền và quản lý

chuyên môn của các bộ ngành nêu trên, gần đây vai trò của các hiệp hội bắt

đầu phát huy tác dụng, nhất là Hiệp hội làng nghề Việt Nam, Hiệp hội xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam và các Hiệp hội làng nghề. Tuy nhiên,

trên thực tế sự quản lý làng nghề vẫn lỏng lẻo, chồng chéo và có thể nói,

không tổ chức nào chịu trách nhiệm chính. Nhiều hộ sản xuất khi có kiến

nghị, nguyện vọng không biết trình cơ quan quản lý nào. Bởi vì nhiều hiệp

32

hội làng nghề tại địa phương “hữu danh vô thực”. Ngay cả Hiệp hội làng nghề

Việt Nam và Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cũng còn

nhiều hạn chế trong hoạt động như: tài chính, nhân sự, trụ sở làm việc và cơ

cấu tổ chức. Vì vậy kiện toàn, đổi mới, phát triển các hội, hiệp hội làng nghề

là vấn đề cần được quan tâm trong thời gian sớm nhất.

b/ Đánh giá thực trạng làng nghề hiện nay

Một là, cơ sở hạ tầng làng nghề Việt Nam còn yếu, thiếu và lạc hậu.

Đặc điểm phổ biến của các làng nghề là mỗi hộ thường là một cơ sở

sản xuất. Khuôn viên của gia đình thường là nơi ở, cũng là nơi sản xuất, do đó

diện tích này trở nên chật hẹp và không đảm bảo vệ sinh môi trường. Thực

trạng thiếu mặt bằng sản xuất trong các làng nghề đã đến mức trầm trọng.

Thời gian gần đây rất nhiều địa phương không quan tâm đến vấn đề này. Trái

lại, nhiều nơi, chính quyền hầu như chỉ chú trọng đến đất đai phát triển khu

công nghiệp, khu chế xuất, khu vui chơi, giải trí, dẫn đến tình trạng thu hẹp

nhanh những vùng đất nông nghiệp hay đất vùng nguyên liệu cho sản xuất thủ

công mỹ nghệ.

Bên cạnh đó, giao thông vận tải vẫn đang là vấn đề nan giải tại nhiều

làng nghề. Việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm hàng hoá tại nhiều làng

nghề còn khó khăn, tốn kém. Nhiều làng nghề hiện nay vẫn chưa có điện,

hoặc tình trạng cắt điện tuỳ tiện vẫn thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng lớn đến

chất lượng và sản lượng hàng hoá. Hệ thống bưu điện, truyền thông, hệ thống

trạm y tế của nhiều làng nghề không đạt tiêu chuẩn với việc chăm sóc sức

khoẻ cho người dân, nhất là những làng nghề nhuộm vải, chế biến thực phẩm,

mỹ nghệ kim loại,...

Hai là, đa số các hộ làng nghề Việt Nam hiện nay đều có quy mô nhỏ,

vốn ít, công nghệ lạc hậu.

Nhiều hộ trong làng nghề hiện nay vẫn mang tính chất tận dụng lao

động nông nhàn và do sản xuất ngành nghề chưa đảm bảo cuộc sống vững

chắc, lâu dài cho người thợ, cùng với tâm lý rủi ro, khiến họ không dám mạnh

33

dạn rời bỏ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, các hộ nghề rất khó phát triển. Theo

khảo sát của tác giả tại 25 làng nghề ở Hải Dương, chỉ có 1% số hộ làm nghề

không giữ ruộng cày cấy. Làng sứ Cậy (Bình Giang) với trên 70% số hộ làm

nghề, nhưng chỉ có không quá 3% số hộ không làm nông nghiệp. Điều này đã

hạn chế khả năng chuyên môn hoá và mở rộng đầu tư vốn, công nghệ, cải tiến

công cụ, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất hàng thủ

công.

Hiện nay, trong các làng nghề, hình thức phổ biến là kinh tế hộ gia

đình, mỗi hộ gia đình chỉ có khoảng 3 - 4 lao động. Loại kinh tế hộ gia đình

có số lao động 7 - 8 người chưa nhiều.

Trong các làng nghề hiện nay, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Lâu nay,

Nhà nước đầu tư vào làng nghề chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất. Việc vay vốn

của các chủ sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn do các hộ gia đình

không có tài sản thế chấp, hoặc có nhưng rất nhỏ. Vốn sản xuất, kinh doanh

chủ yếu dựa vào vốn tự có. Quan hệ tài chính không được phát huy, nên hoạt

động tài chính, tiền tệ mang tính vay mượn lẫn nhau theo quan hệ dòng tộc

hay quen biết.

Theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Ninh, đến năm 2008

toàn tỉnh có 120 làng nghề, trong đó có 60 làng nghề truyền thống. Báo cáo

còn cho biết, chỉ có 11 -12% số hộ và khoảng 42% số cơ sở, doanh nghiệp

vay được vốn ngân hàng. Đối với các chương trình hỗ trợ của các tổ chức

quốc tế thì tỷ lệ hộ vay còn thấp, từ 1,4 - 4,5%.

Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình, tính đến tháng

12/2007 vốn đầu tư vào làng nghề khoảng 1.000 tỷ đồng, nhưng chủ yếu là

vốn tự có của gia đình và cơ sở sản xuất, vốn của huyện, tỉnh chiếm tỷ lệ ở

mức thấp.

Ba là, thiết bị, máy móc của các làng nghề còn lạc hậu, mẫu mã, chủng

loại hàng hoá nghèo nàn, đơn điệu, chất lượng thấp, chưa đáp ứng nhu cầu

của người tiêu dùng, sức cạnh tranh của hàng hoá yếu.

34

Nguyên nhân của tình trạng trên là do thói quen, dần dần dẫn đến bảo

thủ và trì trệ về mặt kỹ thuật, không tập trung thay đổi mẫu mã, chủng loại,

màu sắc, hình dáng. Đồng thời cũng do kinh tế hộ gia đình là chủ yếu, khả

năng quản lý và nguồn vốn có hạn, nên ít có điều kiện phát triển quy mô. Hơn

nữa, người sản xuất ít có điều kiện tiếp cận với thị trường bên ngoài, đặc biệt

là thị trường thế giới, nguồn thông tin ít, dẫn tới hạn chế về nhiều mặt, nhất là

không hiểu rõ tâm lý, thị hiếu, nhu cầu người tiêu dùng.

Thời gian gần đây, do có sự đổi mới, đồng thời, tác động của thị

trường, yêu cầu chất lượng, kiểu dáng phong phú, đa dạng sản phẩm ngày

càng tăng lên. Tuy nhiên, nhìn chung, trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị

của hầu hết làng nghề còn thô sơ, lạc hậu vì phần lớn đều do các cơ sở cơ khí

trong nước lắp ráp, gia công, nên chất lượng thấp, năng suất không cao. Mặt

khác, cũng do đặc điểm của sản xuất mang tính hộ cá thể chiếm ưu thế, sự

liên kết giữa các hộ sản xuất còn lỏng lẻo, nên khả năng đầu tư hạn chế.

Bốn là, tình trạng ô nhiễm môi trường đang là vấn đề quan tâm hàng

đầu đối với các làng nghề.

Môi trường, sinh thái ở Việt Nam, đặc biệt tại các làng nghề đang là

vấn đề được quan tâm đặc biệt. Từ lâu, nhiều hồi chuông cảnh báo về tình

trạng quá ô nhiễm môi trường trong các làng nghề. Do hạn chế về hạ tầng cơ

sở, về vốn, công nghệ, nhận thức và thói quen, trong khi sản xuất ngày càng

mở rộng, phát triển, nhưng lại thiếu quy hoạch tổng thể và chi tiết ô nhiễm

ngày càng trầm trọng.

Qua khảo sát, điều tra của các cơ quan chức năng, hiện nay hầu hết các

làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn về môi trường theo mức tối thiểu, ảnh

hưởng rất lớn đến sức khoẻ của người dân làng nghề.

Tại Hà Tây (nay là Hà Nội), ngoài những làng nghề mà do đặc thù sản

xuất không ảnh hưởng mấy đến môi trường, như thêu, ren, nón lá, thì nhiều

làng nghề gây ô nhiễm môi trường nặng.

35

Tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế tại các cơ sở sản xuất lụa, kết quả

cho thấy, hầu như cơ sở nào của làng nghề cũng có những tác động tiêu cực

vào môi trường. Làng Vạn Phúc có 700 cơ sở tham gia sản xuất lụa. Trong đó

có 22 cơ sở làm công việc nhuộm và tẩy rửa lụa. Trong những tác động khiến

môi trường nơi đây bị huỷ hoại, thì đầu tiên phải kể đến các cơ sở tẩy nhuộm

cho toàn bộ lụa làng Vạn Phúc. Theo thống kê, mỗi ngày các cơ sở sản xuất

lụa Vạn Phúc cho ra đời 4.000 - 5.000 mét lụa, tương đương 400 kg lụa.

Trong khi đó, cứ mỗi kg lụa thành phẩm phải mất 30 lít nước tẩy rửa, số hoá

chất được đưa vào phục vụ cho quá trình nhuộm màu cho lụa luôn chiếm tỷ lệ

cao, cứ 10 kg lụa thì mất 300g hoá chất nhuộm. Tất cả khi sử dụng xong đều

được thải trực tiếp ra môi trường, hoàn toàn không qua khâu xử lý. Cách đây

không lâu, khoa Hoá trường Đại học khoa học tự nhiên về đây tổ chức những

cuộc xét nghiệm, cho thấy, mẫu nước ngầm của địa phương này bị nhiễm quá

nhiều các thành phần hoá chất. Trong đó nhiều nhất là các chất như: N2CO3,

CH3COOH, H2S, Na2S,... Đây chính là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh tật

cho người dân.

Những làng nghề khác của Hà Tây (Hà Nội) như Dương Nội, Sơn

Đồng, Chàng Sơn,... Ô nhiễm nước cũng đã ở mức báo động.

Ngoài ô nhiễm nước, tiếng ồn cũng gây nên sự căng thẳng, mệt mỏi

trong các làng nghề. Do đặc thù của một số làng nghề đã sử dụng máy móc

quá cũ, lạc hậu, tự chế tạo gây nên tiếng ồn lớn.

Tại làng Đa Hội (Châu Khê - Từ Sơn - Bắc Ninh) tình trạng ô nhiễm

môi trường cũng đáng lo ngại. Không khí ở đây luôn luôn nặng nề bởi khí

CO, CO2, SO2,... Gấp hàng trăm lần tiêu chuẩn cho phép, ảnh hưởng trực tiếp

đến sức khoẻ người lao động và dân cư trong vùng. Theo số liệu của Trạm Y

tế xã Châu Khê, có 1/3 lao động trong xã này mắc một số bệnh hô hấp và mắt.

Cùng với ô nhiễm khói, bụi, nguồn nước Đa Hội cũng bị ô nhiễm nặng. Đối

với chất thải khí, phải kể đến làng đúc nhôm, chì, kẽm huyện Yên Phong.

36

Theo kết quả điều tra, phân tích cho thấy, nồng độ ô nhiễm chì vượt tiêu

chuẩn cho phép nhiều lần.

Không những các làng nghề vừa nêu trên đây, mà tình trạng ô nhiễm

môi trường xảy ra tại hầu hết làng nghề trong cả nước.

Năm là, thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề đang gặp nhiều khó

khăn.

Theo điều tra của tác giả tại một số địa phương, tiềm năng, thế mạnh

nhiều làng nghề rất lớn, có thể sản xuất với số lượng và chủng loại sản phẩm

nhiều hơn hiện tại. Song, vấn đề đặt ra là tiêu thụ ở đâu, tiêu thụ như thế nào

và tiêu thụ được bao nhiêu. Có thể thấy rõ một điều, do mô hình sản xuất tại

các làng nghề chủ yếu là kinh tế hộ gia đình, sản xuất nhỏ, lẻ, phân tán, nên

đều mang tính tự cấp, tự túc, tự phát, khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ.

Đánh giá chung, hiện tại sản phẩm làng nghề rất khó khăn về đầu ra, thị

trường đang quyết định sự sống còn của làng nghề.

Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một cách khách quan, tiêu thụ sản phẩm

khó khăn cũng có lỗi một phần từ chính làng nghề gây ra. Đó là, không ít cơ

sở sản xuất chưa nỗ lực giữ uy tín. Theo thông tin của một số cửa hàng đại lý

giới thiệu sản phẩm và giao dịch thương mại chuyên về hàng thủ công mỹ

nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh, nhiều cửa hàng ở đây đã bị đóng cửa do một

số cơ sở sản xuất tại các làng nghề không thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết,

giao hàng không đúng mẫu. Kích cỡ, kiểu dáng, màu sắc sản phẩm bị thay đổi

một cách tuỳ tiện. Do vậy, các cửa hàng, đại lý giới thiệu và bán sản phẩm

mất uy tín với khác hàng. Nhiều đơn hàng ký kết với nước ngoài thực hiện

không tốt. Tương tự như vậy, Công ty Du lịch Greenfield Tour, chuyên tổ

chức các tour về đồng bằng sông Cửu Long, cho biết, họ cũng gặp thất bại lớn

khi làm môi giới cho các làng nghề bán hàng thủ công mỹ nghệ cho khách du

lịch. Trong các lần dẫn khách về miền Tây, Công ty thường đưa khách đi

tham quan, mua sắm tại các làng nghề. Nhiều làng nghề không giữ chữ “tín”,

thay đổi mẫu mã, giá cả khi giao hàng. Tuy nhiên, đây không phải là trường

37

hợp phổ biến, nhưng đối với khách hàng nước ngoài, chữ “tín” cực kỳ quan

trọng. Điều này cũng giải thích về một nguyên nhân của việc tiêu thụ khó

khăn của các sản phẩm làng nghề. Và cũng có thể gây nên tình trạng nhiều

khách nước ngoài “một đi không trở lại”.

Sáu là, trình độ chuyên môn, tay nghề người thợ trong các làng nghề

đang bị giảm sút nghiêm trọng.

Một trong những đặc thù của người thợ thủ công trong các làng nghề là

cần có sự tinh xảo, khéo léo, đặc biệt đối với thợ cả, nghệ nhân. Các nghệ

nhân nổi tiếng thường là những người thuộc những gia đình có truyền thống

cha truyền, con nối hoặc những người có tâm huyết, có sáng tạo. Đối với đội

ngũ người thợ đông đảo cũng cần được đào tạo theo trường lớp hoặc hướng

dẫn kỹ thuật khi làm nghề. Đó là điều kiện kiên quyết cho làng nghề tồn tại và

phát triển. Nhưng thực tế hiện nay, làng nghề đang mất dần một đội ngũ làm

nghề kế cận có niềm say mê và năng lực, nhất là những nghệ nhân tài năng.

Do vậy, những sản phẩm độc đáo, tinh xảo, tính mỹ thuật cao được sản

xuất tại các làng nghề không nhiều. Bởi đây là những sản phẩm đòi hỏi công

sức, trí tuệ, sự sáng tạo, lòng kiên nhẫn của người thợ làng nghề. Hơn nữa, vì

giá thành cao, nhu cầu thị trường không nhiều, không thường xuyên, chủ yếu

để xuất khẩu. Từ đó, những nghệ nhân ở làng nghề, vốn đã ít, lại không

chuyên tâm tạo ra những sản phẩm với tất cả tinh hoa, trí tuệ của nghề. Dần

dần những người thợ không chủ tâm và quên đi những quy trình, thao tác kỹ

thuật vốn rất đặc biệt và tinh xảo. Do vậy, lớp con cháu sau không được

truyền lại những kiến thức cơ bản này. Dẫn đến nhiều làng nghề đã mai một,

suy giảm một cách nhanh chóng, thậm chí có nơi không tồn tại. Cơ chế thị

trường có nhiều mặt tích cực, nhưng cũng có nhiều mặt trái của nó. Nhiều

nghệ nhân, nhiều thợ lành nghề không còn sự say mê sáng tạo trong công

việc, mà chỉ có sự năng động “xoay xở” những sản phẩm bình dân, đại trà,

với trình độ, kỹ nghệ trung bình. Và tầng lớp thợ “gia công” đã trở thành danh

từ phổ biến trong các làng nghề. Cơ cấu lao động mới, lao động không có tay

nghề trong các làng nghề hình thành. Điều mà trước kia các làng nghề ít thấy.

38

Đó là những người thợ, nghệ nhân không trực tiếp sản xuất, mà trở thành

người quản lý, còn những người sản xuất lớp thợ mới. Họ chỉ được đào tạo

qua loa, cấp tốc vài ba công đoạn, không được truyền thụ kỹ thuật, tay nghề

cao thì hình như không có. Thực trạng tại làng nghề hiện nay là “tre già, măng

không mọc”. Điều này sẽ còn tiếp diễn và sẽ hình thành một lớp thợ thủ công

không có khả năng sáng tạo. Đây là thực tế, là nguy cơ trong các làng nghề

hiện nay. Và điều đó đang tiềm ẩn một sự mai một làng nghề.

1.3.2.2.Thực trạng của doanh nghiệp làng nghề

a/. Quy mô, tốc độ phát triển các doanh nghiệp làng nghề

Sự phát triển của làng nghề ngày càng chứng tỏ hộ sản xuất gia đình

như một chiếc áo hẹp mặc không vừa cho người đã lớn, vì vậy cần thay đổi

một hình thức khác để có thể đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của cuộc sống. Đó chính

là các doanh nghiệp làng nghề và nhiều loại hình khác dần dần xuất hiện và

ngày càng chứng tỏ tính ưu việt của nó đối với hộ sản xuất gia đình.

Theo kết quả điều tra của tác giả, hiện nay, số doanh nghiệp tư nhân

chiếm khoảng 42%, số doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn chiếm 31%, số

doanh nghiệp cổ phần chiếm 19%, còn lại là các hình thức khác như tổ hợp,

hợp tác xã, xí nghiệp (hình 1.3).

39

LoĐi khác 8%

DN cĐ phĐn 19%

DN tĐ nhân 42%

DN T NHH 31%

Hình 1.3. Doanh nghiệp làng nghề phân theo hình thức sở hữu

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả

Về lao động của doanh nghiệp làng nghề: Cũng theo kết quả điều tra,

cho đến thời điểm này, số lao động trong mỗi doanh nghiệp vẫn còn ít, trung

bình mỗi doanh nghiệp dưới 50 người là chủ yếu (chiếm khoảng 88%); số lao

động trong doanh nghiệp có trên 50 - 100 người chỉ chiếm khoảng 9%. Chỉ có

một số công ty gốm sứ ở Đồng Nai, Bình Dương, Chu Đậu, Đông Triều có số

lao động trong khoảng trên 100 người (xem hình 1.4). Điều này chứng tỏ quy

mô và lao dộng của doanh nghiệp làng nghề Việt Nam cũng chỉ thuộc loại

doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là rất nhỏ.

40

T rên 100 NgĐĐi 3%

T Đ 50 - 100 NgĐĐi 9%

DĐĐi 50 NgĐĐi 88%

Hình 1.4. Số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp làng nghề

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả

Cơ cấu các loại doanh nghiệp làng nghề của Việt Nam

Theo kết quả điều tra từ 270 phiếu thu về và theo tư liệu từ trang

website vcic.org.vn của Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam

VIETCRAFT, trong 5 nhóm hàng điều tra từ các doanh nghiệp, cơ cấu kinh

doanh của các doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh

hàng mây tre chiếm 35%; doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mặt hàng gỗ

chiếm 32%; doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mặt hàng gốm sứ chiếm 10%;

doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh mỹ nghệ kim loại chiếm 3%; doanh

nghiệp kinh doanh mặt hàng khác chiếm 20% (xem hình 1.5).

41

MĐt hàng khác 20%

MĐt hàng mây tre 35%

MĐt hàng mĐ nghĐ kim loĐi 3%

MĐt hàng gĐm sĐ 10%

MĐt hàng gĐ mĐ nghĐ 32%

Hình 1.5. Cấu mặt hàng kinh doanh của các doanh nghiệp làng nghề

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả và website vcic.org.vn

Mô hình quản lý các doanh nghiệp làng nghề

Các doanh nghiệp làng nghề Việt Nam hiện nay được tổ chức và hoạt

động theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) của

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 60/2005 QH11 ngày

29 tháng 11 năm 2005. Trên thực tế các doanh nghiệp này ngoài sự quản lý

theo Luật Doanh nghiệp, còn chịu sự quản lý của chính quyền địa phương và

vai trò của thôn, xã rất quan trọng trong việc cấp đất đai, xây dựng trụ sở, kho

tàng, làm đường giao thông, bảo vệ môi trường,...

Các doanh nghiệp hoạt động theo các lĩnh vực khác nhau theo các hình

thức sở hữu như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh

nghiệp tư nhân. Các s¶n phÈm cña làng nghề và doanh nghiệp làng nghề hoạt

động theo mô hình sau:

42

Doanh nghiệp

Doanh nghiệp sản xuất khai thác nguyên liệu

thu mua nguyên liệu

Doanh nghiệp chế biến Xuất khẩu

Tiêu thụ sản phẩm

Doanh nghiệp thu gom

Hộ gia công

sản phẩm

Doanh nghiệp Sơ chế

bán thành phẩm

Hình 1.6. Mô hình lộ trình hoạt động của s¶n phÈm lµng nghÒ vµ doanh

nghiệp làng nghề

Giải thích về mô hình này, đầu tiên nguyên liệu được người khai thác

bán cho doanh nghiệp hoặc người thu gom nguyên liệu, người thu gom

nguyên liệu có thể bán cho doanh nghiệp hoặc sơ chế bán cho người thu gom

bán thành phẩm. Nguyên liệu cũng có thể được người khai thác sơ chế bán

cho người thu gom bán thành phẩm. Các doanh nghiệp mua nguyên liệu của

người khai thác hoặc người thu gom nguyên liệu để sơ chế bán cho người thu

gom thành phẩm hoặc hoàn thiện và tiêu thụ sản phẩm. Những người thu gom

bán thành phẩm sẽ bán thành phẩm cho doanh nghiệp để hoàn thiện và tiêu

thụ sản phẩm. Đồng thời người thu gom bán thành phẩm cũng bán lại cho hộ

gia công sản phẩm và các hộ này sau khi gia công sản phẩm sẽ bán lại cho

doanh nghiệp hoặc người thu gom bán thành phẩm để hoàn thiện và tiêu thụ.

Vậy ta thấy mô hình này có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu, từ khâu khai

thác nguyên liệu cho đến hoàn thiện và tiêu thụ sản phẩm. Song do công tác

quản lý không tốt, tình trạng tranh mua, tranh khai thác vẫn diễn ra làm cho

43

chất lượng hàng hóa không tốt. Năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới

không cao.

b/ Đánh giá thực trạng doanh nghiệp làng nghề hiện nay

Một là, doanh nghiệp làng nghề hiện nay cơ sở vật chất còn nghèo nàn,

thiếu vốn hoạt động.

Một mặt là do các doanh nghiệp mới ra đời, mặt khác, các doanh

nghiệp chủ yếu được thành lập trên cơ sở hợp nhất các hộ kinh tế gia đình, mà

hộ kinh tế gia đình thì cơ sở vật chất nghèo nàn, người có khả năng về tài

chính hoặc về kỹ thuật đứng ra thành lập doanh nghiệp thì vẫn còn nhiều hạn

chế. Thực tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp làng nghề vẫn đóng trụ sở tại nhà,

thiếu điện, thiếu nước, thiếu nhà xưởng, thiếu máy móc. Theo số liệu điều tra

từ 270 doanh nghiệp của tác giả cho thấy khoảng 30% doanh nghiệp có khó

khăn và 38% doanh nghiệp kêu rất khó khăn khi muốn thuê đất mở rộng nhà

xưởng.

Cơ sở vật chất đã nghèo nàn, lạc hậu, nguồn vốn cho hoạt động sản

xuất, kinh doanh cũng khó khăn. Theo kết quả điều tra, loại doanh nghiệp có

vốn từ 1 - 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ cao nhất 36%, tiếp đến là loại doanh nghiệp

có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 32%; loại doanh nghiệp có vốn từ 5 - 10 tỷ đồng

chiếm 24%; loại doanh nghiệp có vốn từ 10 - 20 tỷ đồng chỉ chiếm 6% và

khoảng 2% doanh nghiệp có vốn trên 20 tỷ đồng (xem hình 1.7 trang 44).

44

T rên 20 tĐ ĐĐng 2%

T Đ 10 - 20 tĐ ĐĐng 6%

T Đ 1 - 5 tĐ ĐĐng 36%

T Đ 5 - 10 tĐ ĐĐng 24%

DĐĐi 1 tĐ ĐĐng 32%

Hình 1.7. Vốn trong các doanh nghiệp làng nghề

Nguồn: Kết quả điều tra của tác giả

Hai là, doanh nghiệp làng nghề hiện nay còn thiếu kinh nghiệm trong

hoạt động kinh doanh đặc biệt là xuất khẩu.

Hầu hết các doanh nghiệp làng nghề đều mới được thành lập, chủ yếu

sau khi có Luật Doanh nghiệp. Theo kết quả điều tra, phần đông doanh nghiệp

làng nghề Việt Nam hiện nay còn thiếu kinh nghiệm trong sản xuất kinh

doanh và đặc biệt là trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Trên 80% doanh

nghiệp làng nghề được hỏi mới chỉ hoạt động trong lĩnh vực này khoảng 10

năm trở lại. Các doanh nghiệp làng nghề hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào kinh

nghiệm từ kinh tế hộ gia đình. Sự hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp,

phong tục tập quán, thị hiếu, nhu cầu tiêu dùng của nước ngoài rất hạn chế.

Cơ hội để các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm, nghiên cứu, tìm kiếm

thị trường không nhiều. Kết quả khảo sát cho thấy, khoảng 41% doanh nghiệp

làng nghề ít được sự hỗ trợ của các cơ quan xúc tiến thương mại Trung ương.

45

Do vậy, việc xuất khẩu của các doanh nghiệp làng nghề phần lớn vẫn do các

công ty kinh doanh hàng xuất khẩu của các thành phố lớn như Hà Nội, thành

phố Hồ Chí Minh,… Đảm nhận.

Ba là, doanh nghiệp làng nghề Việt hiện nay đang phải đối mặt với

nhiều khó khăn, thách thức khác.

- Khó khăn về cung cấp nguyên liệu: Ngay cả những loại nguyên liệu

có tiềm năng ở Việt Nam trước đây như mây, tre, nứa, lá, cói,... Thì đến nay

đã trở nên khan hiếm. Khai thác rừng một cách bừa bãi đã làm cho nhiều loại

nguyên liệu dễ tái sinh như tre, nứa, mây,... không còn nhiều. Nhiều vùng

trước đây trồng được mây như Thái Bình, Thừa Thiên - Huế thì nay diện tích

đã giảm sút. Ngay loại nguyên liệu có tiềm năng và dễ phát triển như cây cói

ở Ninh Bình, Thanh Hoá, Tây Nam Bộ nay giá mua đã tăng lên gấp nhiều lần

so với trước. Những doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gốm, sứ vùng nguyên

liệu đất sét đã bị thu hẹp nhiều do sự mở rộng các khu định cư, khu công

nghiệp, khu vui chơi giải trí và sự khai thác bừa bãi. Một số loại phụ liệu phải

nhập khẩu của nước ngoài cũng phải chịu giá cao.

- Khó khăn về về tiêu thụ sản phẩm: Ngay cả khi chưa có khủng hoảng

tài chính, tiền tệ xảy ra, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với

doanh nghiệp làng nghề cũng không thuận lợi. Một mặt do doanh nghiệp làng

nghề Việt Nam còn nhỏ bé; mặt khác sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ

nghệ Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu, nhất là về giá cả, mẫu mã,

chủng loại, thời hạn giao hàng so với một số nước trong khu vực. Theo

nguồn: “Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng

công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, tháng 2 năm 2004” tại mục: Các nhà

cung cấp hàng đầu về đồ dùng trong nhà và quà tặng sang EU, cho thấy: sản

phẩm làm từ mây, tre, lá của Trung Quốc tại thị trường này chiếm 54,85%,

Việt Nam 11%; sản phẩm gốm, sứ Trung Quốc chiếm 30,6%, Việt Nam 11%;

sản phẩm gỗ Trung Quốc chiếm 34,9%, Inđônêxia chiếm 5,3%, Thái Lan

chiếm 5%, Ấn Độ chiếm 4,7%, Việt Nam chiếm 1,2%, Nam Phi 0,3%.

46

Hiện nay, do ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế toàn cầu, lĩnh vực xuất

khẩu, trong đó đặc biệt là hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đang gặp khó

khăn. Các thị trường nước ngoài chỉ tập trung nhập khẩu những mặt hàng

thiết yếu, còn hàng thủ công mỹ nghệ không được chú trọng.

- Khó khăn về tiếp cận với các nguồn vốn.

Kết quả điều tra cho thấy, khoảng 33% doanh nghiệp khó khăn và 38%

rất khó khăn khi tiếp cận với nguồn vốn phải có tài sản thế chấp để vay vốn,

thủ tục hành chính của một số ngân hàng chưa thuận lợi.

- Khó khăn do nhiều chi phí phát sinh.

Thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục hải quan gần đây tuy đã được cải

thiện một bước, nhưng vẫn còn vướng mắc, gây nên sự chậm trễ khi làm thủ

tục xuất khẩu hàng hoá cộng với nhiều loại chi phí phát sinh. Thực tế, thủ tục

hải quan và thủ tục hành chính đã phần nào làm giảm sức cạnh tranh của hàng

thủ công mỹ nghệ xuất khẩu Việt Nam.

- Khó khăn trong việc tuyển dụng lao động có tay nghề cao.

Nguồn lao động phổ thông hiện nay không thiếu. Tuy nhiên, do sự bất

cập trong đào tạo nghề những năm qua, cộng với tâm lý của giới trẻ không

muốn gắn bó với nông thôn, nên số lao động có tay nghề cao tại các làng nghề

không nhiều. Theo kết quả điều tra, khả năng tiếp cận với nguồn lao động kỹ

thuật của các doanh nghiệp làng nghề có nhiều trở ngại (khoảng trên dưới

10%). Trong khi đó những người thợ lâu năm, có tay nghề giỏi, đặc biệt là các

nghệ nhân đang hiếm dần. Do vậy, tuy nguồn lao động phổ thông dồi dào,

nhưng lao động kỹ thuật, nhất là loại thợ bậc cao trong các doanh nghiệp làng

nghề thật sự hiếm.

Ngoài những khó khăn, thách thức chủ yếu trên đây, doanh nghiệp làng

nghề cũng đang phải đối phó với nhiều vấn đề bất cập khác đang xảy ra.

Chẳng hạn như việc xử lý ô nhiễm môi trường, hạ tầng cơ sở trên địa bàn của

doanh nghiệp hoạt động yếu kém, nhất là giao thông, điện, nước,...

47

1.4. Vai trò của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề với việc đẩy mạnh

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển kinh tế - xã hội

Thực tế trong những năm qua cho thấy, ở nơi nào làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề phát triển thì ở đó xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tốc

độ tăng trưởng nhanh và bộ mặt nông thôn, địa phương đó có sự thay đổi rõ

rệt. Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề có vai trò rất lớn, điều đó thể hiện

trên các mặt dưới đây.

1.4.1. Vai trò đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có vai trò quan

trọng nhất tới quy mô, cơ cấu thị trường, chất lượng và hiệu quả của công tác

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Có thể nói, hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ được sản xuất bằng

nguồn nguyên liệu trong nước đang được bầy bán tại thị trường Việt Nam,

đang được người dân trong nước tiêu dùng, nếu tổ chức tốt ở hai khâu đều có

thể trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị đó là:

+ Một là: Tổ chức sản xuất thành mặt hàng có số lượng lớn hơn, đồng

đều hơn, có chất lượng và kiểu dáng phù hợp với nhu cầu của một hoặc nhiều

dân tộc trên thế giới; hàng hóa có kiểu dáng hợp lý cho đóng gói bao bì, vận

chuyển và bảo đảm an toàn cho con người,...

+ Hai là: Xúc tiến thị trường, nhằm quảng bá cho các thương nhân, các

cơ quan xúc tiến, người tiêu dùng,... trong nước và nước ngoài biết được công

dụng, giá trị và lợi ích mặt hàng khi có điều kiện sử dụng.

Điều đó khẳng định, quy mô sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở các

làng nghề, doanh nghiệp làng nghề càng cao thì quy mô xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ càng cao.

Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là sản phẩm hàng hóa, mang đậm nét điều

kiện tự nhiên đất nước, tập quán, mầu sắc văn hóa dân tộc và nghệ thuật cổ

truyền. Với sự tác động của bàn tay khéo léo và công nghệ đã hình thành nên

48

nhiều chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ khác nhau về kiểu dáng, mầu sắc,

tạo ra nhiều công dụng khác nhau. Sự khác biệt về kiểu dáng, chủng loại đã

tác động đến tính đa dạng của thị trường. Chủng loại càng nhiều, càng nhiều

nét độc đáo của ngành hàng thủ công mỹ nghệ thì thị trường xuất khẩu càng

nhiều, càng rộng, đáp ứng được càng nhiều thị trường và nhu cầu của nhiều

dân tộc trên thế giới.

Ví dụ:

Mặt hàng có mầu nền trang nhã, đơn giản thì xuất khẩu sang thị trường

Nhật Bản nhiều hơn;

Mặt hàng nhiều mầu sắc rực rỡ xuất khẩu sang thị trường Nam Âu

nhiều hơn;

Mặt hàng có nguồn gốc nguyên liệu đất sét, tre nứa, song mây thì có

thể xuất khẩu sang hầu hết các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Úc,...

Càng ngày, mặt hàng thủ công mỹ nghệ nước tác càng thay đổi theo xu

hướng tăng cao hàm lượng công nghệ mới; hàm lượng nghệ thuật, văn hóa,

mỹ thuật cổ truyền giảm dần trong thành phần giá trị hàng hóa. Chi phí lao

động giản đơn kết tinh trong hàng hóa cũng giảm dần, song chi phí nguyên

vật liệu, công nghệ càng tăng, dẫn đến giá thành sản phẩm liên tục tăng cao,

tác động trực tiếp đến giá hàng xuất khẩu, làm thay đổi liên tục quy mô và cơ

cấu thị trường. Điều đó đã chứng tỏ, giá thành sản xuất ra hàng thủ công mỹ

nghệ tại các làng nghề, các doanh nghiệp làng nghề tăng lên, đã tác động trực

tiếp tới khả năng xuất khẩu và sức mua của người tiêu dùng nước ngoài, góp

phần làm thay đổi nhu cầu, thị hiếu theo hướng: giảm số lượng, chịu giá cao

và yêu cầu cao về công dụng của hàng hóa.

Bên cạnh đó, thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài; đặc điểm nền

văn hóa của mỗi dân tộc; trình độ phát triển kinh tế và khoa học công nghệ đã

tác động trở lại một cách mạnh mẽ tới tình hình tổ chức sản xuất hàng thủ

công mỹ nghệ tại các làng nghề, các doanh nghiệp làng nghề nước ta. Đòi hỏi

người sản xuất phải tạo ra những mặt hàng có quy mô lớn hơn, đồng đều hơn,

49

sắc sảo hơn, phù hợp với yêu cầu của người mua. Các làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề phải nâng cao trình độ tổ chức quản lý; nâng cao khả năng

tập trung nguồn hàng, tiếp cận kịp thời với nhu cầu, thị hiếu của thị trường

quốc tế, chuyên nghiệp hơn trong tổ chức thực hiện cam kết với khách hàng.

Điều đó sẽ giúp các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề tiêu thụ được nhiều

hàng hóa hơn, nếu giá bán hàng hóa, phù hợp với xu hướng phát triển của nền

kinh tế trong nước và quốc tế.

1.4.2. Vai trò đối với phát triển kinh tế

- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề cho thu nhập cao

hơn hẳn so với sản xuất nông nghiệp, là một ngành góp phần xoá đói, giảm

nghèo ở nông thôn.

Trong quá trình phát triển các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề hoạt

động sản xuất, kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ có vai trò tích cực tăng thu

nhập cho người lao động, đặc biệt là lao động ở các vùng nông thôn và bán

thành thị là một nguồn thu nhập quan trọng đối với người nông dân giữa hai

mùa vụ. Thông qua việc làm tăng thêm số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp và quá trình tích tụ, tập trung sản xuất cũng như thông

qua việc tích luỹ vốn của các cơ sở đó cho phép khai thác và sử dụng có hiệu

quả những tiềm năng, lợi thế hiện có trong nông thôn.

Mặc dù dân số khu vực nông thôn chiếm tới 70 - 75% dân số cả nước,

nhưng chiếm tới 90% số hộ nghèo và chỉ chiếm 30% GDP cả nước. Điều này

phản ánh sự mất cân đối giữa khu vực nông thôn và thành thị. Trước thực

trạng đó, phát triển ngành nghề nông thôn được coi là một giải pháp hữu hiệu

nhằm tạo ra cơ hội rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị với nông

thôn.

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Một số

vấn đề cần thảo luận về chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt

50

Nam giai đoạn 2001 - 2010”, thì “thu nhập của khu vực phi nông nghiệp cao

hơn 3 - 4 lần khu vực nông nghiệp”.

Theo số liệu điều tra mới đây của tác giả thì hoạt động nghề và làng

nghề ở Thái Bình đã tạo việc làm cho hơn 163 ngàn lao động, có thu nhập từ

450 - 500 ngàn đồng/người/tháng, trong khi đó sản xuất nông nghiệp thuần

tuý chỉ khoảng 150 ngàn đồng/ người/ tháng. Nghề thêu ren trước đây chủ yếu

tập trung ở xã Minh Lăng (Vũ Thư), nay mở rộng sang các huyện trong tỉnh.

Nhiều cơ sở lúc ra đời chủ yếu nhận nguyên liệu làm gia công, dần dần phát

triển thành doanh nghiệp vươn lên tìm kiếm thị trường tiêu thụ, xuất khẩu trực

tiếp với đối tác nước ngoài. Năm 2006, số lao động nghề thêu có khoảng 35

ngàn người, giá trị gia công đạt hơn 50 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 2001.

Tại các xã của huyện Hưng Hà, nghề dệt khăn, vải và chiếu cói ngày càng

phát triển. Chỉ tính xã Thái Phương đã có hơn 20 doanh nghiệp và hàng chục

tổ sản xuất với hơn 3000 khung dệt thủ công, mỗi năm sản xuất hơn 300 triệu

chiếc khăn các loại, đạt giá trị hơn 230 tỷ đồng, giải quyết thường xuyên cho

hơn 20 ngàn lao động trong xã và các vùng lân cận. Nghề dệt đũi phát triển

mạnh ở xã Nam Cao (Kiến Xương), mỗi năm đạt hơn 7 triệu mét vuông, trị

giá hơn 80 tỷ đồng. Nghề chạm bạc tập trung tại các xã Lê Lợi, Hồng Thái,

Trà Giang (Kiến Xương). Những sản phẩm của làng nghề đã có mặt tại thị

trường các tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La. Nghề mây tre đan xuất khẩu tập

trung ở các huyện Kiến Xương, Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Hưng Hà và Tiền

Hải, hàng năm đạt giá trị hơn 60 tỷ đồng, tạo việc làm thường xuyên cho 18

ngàn lao động nông thôn. Nghề dệt chiếu có từ rất sớm tại các huyện Hưng

Hà, Quỳnh Phụ. Trung bình mỗi năm các cơ sở này sản xuất khoảng 10 triệu

lá chiếu các loại và xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, giá trị hàng năm

đạt hơn 80 tỷ đồng.

- Sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã góp phần

quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp

hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

51

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được xác định

là là vấn đề trọng tâm trong chính sách quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội.

Trong “Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội quốc gia năm 2001 - 2010” đã

nêu rõ: “coi trọng công tác phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại

hoá nông nghiệp, nông thôn, với mục tiêu giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp

xuống còn 50%”.

Từ những năm 90 của thế kỷ 20, việc chuyển đổi các hộ thuần nông

sang hoạt động phi nông nghiệp đã diễn ra phù hợp với chính sách quốc gia

về chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng nền kinh tế thị trường. Thuận lợi của

các ngành phi nông nghiệp là giá trị sản phẩm tương đối cao, có thể phát triển

và mở rộng được cả vùng sâu, vùng xa. Trong quá trình phát triển làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề đã làm tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng nông nghiệp, chuyển lao động sản xuất

nông nghiệp, thu nhập thấp sang các ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập

khá hơn. Sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã tạo nên sự

phong phú, đa dạng của ngành nghề nông thôn với nhiều chủng loại sản

phẩm, hàng hoá. Xét về góc độ phân công lao động, thì làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề có nhiều tích cực đến việc phát triển sản xuất nông nghiệp.

Không những cung cấp tư liệu sản xuất cho khu vực sản xuất nông nghiệp,

mà còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp. Khác với

sản xuất nông nghiệp, sản xuất trong các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

là một quá trình liên tục, đòi hỏi các dịch vụ cung ứng vật tư, nguyên liệu và

tiêu thụ sản phẩm thường xuyên. Do vậy, dịch vụ ở nông thôn phát triển

nhanh với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Điều đó được chứng minh

bằng thực tế sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề đã góp phần

tăng giá trị sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp. Chẳng hạn, tại Thái Bình, năm 2001, giá trị sản xuất công nghiệp đạt

2.961 tỷ đồng, thì giá trị sản xuất của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

chiếm 900 tỷ đồng (khoảng 30%), đến năm 2007 giá trị sản xuất khu vực làng

52

nghề, doanh nghiệp làng nghề đã tăng lên 35%. Việc không ngừng mở rộng

làng nghề, đặc biệt là các doanh nghiệp làng nghề thời gian qua đã làm cho

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thái Bình thay đổi theo hướng tích

cực. Năm 2000, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, thương

mại và dịch vụ của tỉnh lần lượt là 53%; 14,75%; 31,5%, đến năm 2006 các con

số đó là 40%; 25,59%; 34%. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2000 là 3,19%, đến

năm 2007 là 11,51%. Bộ mặt nông thôn đã từng bước thay đổi, hệ thống kết

cấu hạ tầng không ngừng được hoàn thiện. Tại nhiều vùng nông thôn, xuất hiện

các cụm làng nghề, các thị tứ, thị trấn, xoá dần cách biệt giữa thành thị với

nông thôn [96].

1.4.3. Vai trò đối với phát triển văn hoá dân tộc

Lịch sử phát triển của các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thủ công

mỹ nghệ gắn liền với sự phát triển của văn hoá dân tộc, là nhân tố quan trọng

góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú, đồng thời cũng là sự biểu hiện tập

trung của bản sắc văn hoá dân tộc.

Sản phẩm thủ công là kết tinh của của lao động vật chất và lao động

tinh thần. Nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của người thợ

thủ công. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tính nghệ thuật cao. Mỗi sản

phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc văn

hoá riêng, đồng thời thể hiện những nét độc đáo, sắc thái riêng của từng làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề. Với những giá trị văn hoá dân tộc có trong sản

phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ không còn là những hàng hoá đơn thuần, mà đã

trở thành tác phẩm văn hoá với tính nghệ thuật cao. Một số loại sản phẩm

được coi là nghệ thuật của truyền thống văn hoá vùng miền, như đồ đồng thời

kỳ Đông Sơn, gốm Bát Tràng, Chu Đậu, nghệ thuật chạm khắc tại các chùa

chiền, tranh sơn mài, tranh dân gian,.... Nhiều sản phẩm làng nghề sẽ sống

mãi với thời gian bởi những nét tinh hoa, độc đáo của nó.

53

1.4.4. Vai trò đối với xã hội

Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số đông, với diện tích canh tác

bình quân đầu người thấp và có xu hướng giảm nhanh, tỷ lệ thất nghiệp ở

nông thôn rất lớn do dân số tăng nhanh và từ các nguồn khác. Do vậy, giải

quyết nguồn lao động dư thừa đang là vấn đề cấp bách.

Do đặc điểm của sản xuất làng nghề, doanh nghiệp làng nghề lao động

thủ công, nên loại hình này thu hút nhiều lao động và hao phí lao động sống

chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm. Vì vậy, phát triển làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề là giải pháp hữu hiệu để tăng việc làm cho lao động

nông thôn. Theo số liệu điều tra, số người trong độ tuổi lao động có khả năng

lao động phân theo ngành nghề, năm 2006 là 30,6 triệu người, trong đó, lao

động nông nghiệp là 20 triệu người, như vậy, lao động phi nông nghiệp và

thất nghiệp là 10,6 triệu người, chiếm tới khoảng 30% tổng số lực lượng lao

động nông thôn (theo nguồn của Tổng cục Thống kê: Kết quả Tổng điều tra

Nông thôn, Nông nghiệp và Thuỷ sản năm 2006 - NXB Thống kê, năm 2007,

trang 2006).

Số lao động bình quân trong một hộ làm nghề 3 - 4 người và của doanh

nghiệp làng nghề là 30 - 50 người. Đến nay, các làng nghề và doanh nghiệp

làng nghề đang thu hút khoảng 1,5 triệu lao động tham gia vào nhiều việc trực

tiếp và gián tiếp liên quan đến sản xuất hàng thủ công. Điều này vừa có ý

nghĩa giải quyết việc làm, vừa tăng thu nhập đáng kể cho nông dân. Hơn nữa,

sự phát triển của làng nghề kéo theo sự ra đời và phát triển của nhiều ngành

nghề khác. Chẳng hạn, nghề chế biến lương thực, thực phẩm trong làng nghề

phát triển, dẫn đến nghề trồng trọt và chăn nuôi phát triển theo. Do vậy, đã

giải quyết thêm được việc làm cho người lao động. Mặt khác, việc phát triển

các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sẽ tận dụng tốt thời gian lao động,

khắc phục được tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp, góp phần phân bố

hợp lý lao động nông thôn. Vai trò của việc thu hút lao động trong các làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề lan toả sang các làng khác, vùng khác, giải

54

quyết lao động không những trong làng, mà còn cả khu vực, từ đó tạo ra động

lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Qua thực tiễn và tính toán của

các chuyên gia, cứ xuất khẩu được 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ, thì

tạo ra việc làm và thu nhập cho 3.000 - 4.000 lao động thường xuyên, nếu lao

động thời vụ thì sẽ gấp 3 - 4 lần. Như vậy, phát triển làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề là một động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động.

Việc thu hút lao động trong các làng nghề cũng góp phần làm giảm tệ nạn xã

hội, giảm tỷ lệ thấp nghiệp đồng thời nâng cao tay nghề cho người lao động.

1.4.5. Vai trò đối với quan hệ đối ngoại

- Sự phát triển của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề sẽ thu hút

thêm khách du lịch đến với Việt Nam.

Do làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có điều kiện bảo tồn và phát huy

văn hoá bản sắc dân tộc, đây cũng là những địa điểm thu hút khách du lịch, đặc

biệt là du khách nước ngoài. Theo thống kê chưa đầy đủ, hàng năm có tới hàng

trăm ngàn khách du lịch nước ngoài đến các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.

Tại Hà Đông, Sơn Tây (Hà Nội), khi làng nghề, doanh nghiệp làng nghề vươn

ra xuất khẩu làm cho kinh tế xã hội nơi đây phát triển nhanh hơn, thu hút được

sự quan tâm của khách du lịch trong và ngoài nước. Làng nghề mây tre đan Phú

Vinh, Chương Mỹ hàng năm có đến 7.000 – 8.000 khách du lịch nước ngoài đến

tham quan. Làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc, làng gỗ Đồng Kỵ và nhiều

làng thủ công ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã

thu hút nhiều khách nước ngoài đến thăm quan du lịch và mua sắm sản phẩm

của làng nghề.

- Các sản phẩm làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có vai trò quảng bá

thương hiệu Việt Nam, mở rộng quan hệ đối ngoại.

Các sản phẩm của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề xuất khẩu, trước

hết đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho họ, mặt khác qua những sản phẩm

này người nước ngoài biết đến Việt Nam nhiều hơn và sâu sắc hơn. Hiện nay

55

hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại hơn 130 quốc gia, vùng lãnh

thổ trên thế giới. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để các làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề quảng bá thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp

và thương hiệu Việt Nam, để người tiêu dùng trên thế giới biết đến Việt Nam

nhiều hơn, hiểu tiềm năng và giá trị văn hoá nghệ thuật, đất nước và con

người Việt Nam nhiều hơn.

1.5. Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của làng

nghề và doanh nghiệp làng nghề

Muốn xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng

cần thiết phải có những yếu tố chủ yếu để tạo ra hàng hoá đó. Đó là con người

nguyên liệu công nghệ, thiết bị, máy móc, kiến thức kinh doanh, ngoại ngữ,

cơ chế chính sách, tài chính,... nhưng tác giả tập trung phân tích, đánh giá 2

yếu tố cơ bản mà Việt Nam có thế mạnh là nguồn lao động và nguồn nguyên

liệu.

1.5.1. Nguồn lao động

Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, đội ngũ thợ có

tay nghề tương đối cao. Với dân số khoảng 86 triệu người, đa số sống ở nông

thôn, trong đó có hơn 10 triệu lao động trong các ngành nghề phi nông

nghiệp, chiếm 29,5% lực lượng lao động ở nông thôn, đây là nguồn lao động

dồi dào cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Trong số lao động hoạt động

trong các ngành nghề hiện nay, có tới 17,9% thuộc nhóm nông, lâm, thuỷ sản;

40,76% thuộc nhóm nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và 41,34% thuộc

nhóm dịch vụ. Tuy hiện nay còn một số hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ,

kỹ thuật sản xuất, kiến thức thị trường, hàng hoá, nhưng nhìn chung, lực

lượng lao động nông thôn vẫn có những mặt mạnh cơ bản, đó là cơ cấu lao

động trẻ chiếm đa số, trình độ văn hoá cao hơn nhiều so với trước đây, cần cù,

chịu khó, tiếp thu kỹ thuật nhanh. Tại nhiều làng nghề vẫn có số lượng khá

56

thợ thủ công. Đặc biệt vẫn còn những người thợ, nghệ nhân muốn gắn bó với

nghề. Một số lao động ở thành phố, thị xã, có kiến thức cao về thiết kế mẫu

mã, chủng loại, quản lý, nghiệp vụ ngoại thương, luật pháp,... cũng đang cần

việc làm. Khi công nghệ thông tin phát triển, giao thông thuận tiện việc giao

lưu giữa thành thị với nông thôn được thực hiện nhanh chóng, đặc biệt mối

quan hệ với các doanh nghiệp làng nghề.

Nhìn chung, mức tiêu dùng ở nông thôn hiện nay không cao, nên giá

nhân công trong các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề vẫn thấp hơn nhiều so

với khu vực thành thị. Mức lương của lao động Việt Nam hiện nay thấp hơn

nhiều so với các nước và vùng lãng thổ trong khu vực. GDP bình quân đầu

người của Việt Nam còn thấp. Theo số liệu năm 2006 của Tổng cục Thống

kê, GDP bình quân đầu người của Nhật Bản là 34,1 ngàn USD, của Đài Loan

là 15,6 ngàn USD, của Trung Quốc là 2,03 ngàn USD, của Inđônêxia là 1,64

ngàn USD, của Philippin là 1,36 ngàn USD, của Thái Lan là 3,2 ngàn USD,

trong khi đó của Việt Nam là 723 USD. Từ đó cho thấy, sức cạnh tranh về giá

của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thuận lợi hơn về chi phí lao động.

Hàng năm số lượng lao động ở nước ta tăng lên nhanh chóng từ nhiều

nguồn, như lao động đến độ tuổi, lao động từ các trường đại học, cao đẳng,

trung học, dạy nghề, lao động nông nhàn.

Từ những phân tích, đánh giá trên, có thể thấy, nước ta có nguồn lao

động dồi dào để sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở

đây là cần chú trọng việc đào tạo, nâng cao tay nghề, đặc biệt là đào tạo thợ

có tay nghề cao, nghệ nhân. Giá nhân công rẻ chỉ là yếu tố trong ngắn hạn.

1.5. 2. Nguồn nguyên liệu

Nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ đến nay tuy có

giảm, do chưa có quy hoạch bài bản khai thác bừa bãi, nhưng nhìn chung vẫn

còn dồi dào và đa dạng, nếu chú trọng khai thác hợp lý, đặc biệt gây trồng

57

những nguyên liệu có thể tái tạo được thì vấn đề nguyên liệu vẫn là một lợi

thế cho hàng thủ công mỹ nghệ nước ta.

Nguyên liệu chủ yếu sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ như đất sét, song

mây, tre, lá cọ, gỗ, kim loại, dừa,... thường có sẵn trong nước, phân bổ khắp

nơi trong cả nước.

Đất sét sản xuất gốm, sứ có nhiều ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng,

nhất là khu vực Bát Tràng (Hà Nội), Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và các

tỉnh miền Đông Nam bộ như Đồng Nai, Bình Dương. Tre, nứa, song, mây,

tuy không còn nhiều như trước đây, nhưng vẫn còn nhiều tại các vùng núi

rừng Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Nhiều

địa phương thời gian qua đã trồng được nhiều loại mây có giá với khối lượng

lớn như Thừa Thiên - Huế, Bình Dương; cây cói có nhiều ở Ninh Bình, Thanh

hoá, các tỉnh Tây Nam Bộ; cây sơn ở Phú Thọ và Yên Bái; lá buông, dừa ở

các tỉnh miền Đông và Tây Nam Bộ. Đây là nguồn nguyên liệu có dòng đời

ngắn, dễ tái tạo, dễ khai thác và thường thu hoạch theo mùa vụ, không gây tác

hại lớn cho môi trường. Chỉ còn một số phụ liệu cần thiết hiện nay vẫn phải

nhập khẩu, nhưng trong nước đang dần sản xuất được một phần thay thế nhập

khẩu.

Tóm lại, nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu tuy

đã giảm, nhưng vẫn còn tiềm năng to lớn, đây là một lợi thế quan trọng. Đặc

biệt Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp

trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, quy hoạch và trồng vùng nguyên liệu, điều này

sẽ tạo cơ hội cho tiềm lực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trong nhiều năm

tới.

1.6. Kinh nghiệm phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề của

một số nước trên thế giới

Mặc dù nhiều nước trên thế giới trình độ phát triển công nghiệp đã ở

tầm cao mới. Cuộc sống của người dân ở đây cũng đã được nâng lên nhiều,

58

hoạt động sản xuất, kinh doanh phần lớn điều khiển bằng máy móc. Nhưng

những làng nghề truyền thống của họ vẫn được bảo tồn, giữ gìn và nâng cao

giá trị. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trong

phát triển làng nghề.

1.6.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Có thể nói Trung Quốc là cái nôi của nhiều nghề, làng nghề truyền

thống. Nghề thủ công của Trung Quốc ra đời từ rất sớm và nổi tiếng cho đến

ngày nay. Cách đây mấy ngàn năm, người Trung Quốc đã biết chế tác đồ

gốm, sơn mài, dệt vải, làm giấy,... Từ khoảng thế kỷ thứ XVII đến thế kỷ thứ

XI trước công nguyên, tại Trung Quốc đã xuất hiện nghề luyện kim, chế tác

đồng thau, thuộc da. Từ lâu Nghề gốm, sứ Giang Tây, nghề tơ lụa Hàng Châu,

Tô Châu đã nổi tiếng khắp thế giới. Đầu thế kỷ thứ XX, Trung Quốc đã có

hơn 10 triệu thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp làm việc

trong các công trường thủ công và hộ gia đình, trong các phường, hội, làng

nghề. Đến năm 1954, các hộ sản xuất được tổ chức vào hợp tác xã. Sau này

phát triển thành các xí nghiệp và tồn tại đến ngày nay. Đặc trưng ở Trung

Quốc là ngành nghề thủ công phát triển mạnh ở các đô thị, bởi các đô thị có

từ xa xưa và phát triển mạnh hơn các đô thị các nước châu Á khác. Tuy nhiên,

tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề cũng phát triển. Từ khi thực hiện “cải

cách” năm 1978, nhiều hợp tác thủ công nghiệp Trung Quốc được biến thành

xí nghiệp “Hương Trấn” phát triển mạnh mẽ và góp phần thay đổi bộ mặt

nông thôn. Những năm 80 của thế kỷ trước, các xí nghiệp tư nhân và làng

nghề phát triển nhanh, đóng góp tích cực trong việc tạo ra hơn 65% giá trị sản

lượng công nghiệp nông thôn. Gần đây, Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm

đến việc phát triển làng nghề kết hợp với các điểm tham quan du lịch. Để phát

triển du lịch làng nghề, Chính phủ Trung Quốc chủ yếu phát triển mô hình

Nhà nước và lấy đó làm chủ đạo với hai nội dung chính. Một là Nhà nước và

các địa phương dựa vào bộ máy hành chính quản lý du lịch để chỉ đạo phương

59

hướng, chính sách phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức tuyên truyền xúc

tiến thị trường. Hai là phát huy tính chủ động của chính quyền địa phương,

đặc biệt là các Hiệp hội làng nghề nhằm phát triển mạnh du lịch làng nghề địa

phương. Đặc biệt khuyến khích các làng nghề tạo ra những sản phẩm thủ

công mỹ nghệ độc đáo, mang những nét văn hoá truyền thống của các địa

phương Trung Quốc. Nhờ vậy, hai lĩnh vực du lịch và làng nghề có tác động

tương hỗ lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.

1.6.2. Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái Lan là một trong những nước châu Á có tốc độ phát triển kinh tế

nhanh nhất trong thời gian gần đây, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Mặc

dù vậy, do ý thức được thế mạnh của truyền thống văn hoá dân tộc thể hiện

qua các làng nghề truyền thống, nên chính phủ Thái Lan đã đặt mục tiêu là

gắn kết các hoạt động thương mại, du lịch và sản xuất các sản phẩm dân tộc

đặc trưng của từng làng nghề địa phương.

Tại Thái Lan có nhiều ngành nghề truyền thống như chế tác vàng, bạc,

đá quý, đồ trang sức. Do kết hợp tay nghề của nghệ nhân tài hoa với công

nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nên nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ Thái Lan đạt

chất lượng cao, với nhiều mẫu mã đặc sắc, có sức cạnh tranh cao trên thị

trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ vàng, bạc, đá quý

Thái Lan hàng năm đạt hàng tỷ USD. Nghề gốm, sứ cổ truyền Thái Lan trước

đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu nội địa, nhưng gần đây đã phát triển theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và trở thành một mặt hàng được thị

trường thế giới ưa chuộng, thu ngoại tệ lớn. Hiện nay, mặt hàng gốm, sứ Thái

Lan được ưa chuộng trên thị trường Mỹ và châu Âu. Vùng gốm truyền thống

ở Chiềng Mai đang được xây dựng thành trung tâm gốm quốc gia, với 3 mặt

hàng chính là gốm truyền thống, gốm công nghiệp và gốm mới.

Chính phủ Thái Lan đã phát động phong trào có tên gọi “One Tambon,

One Product”, nghĩa là “mỗi làng một sản phẩm”. Phong trào này được phát

60

động từ năm 1999 và chính thức đi vào hoạt động năm 2001. Dự án được xây

dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản. Một là mang tính địa phương nhưng phát triển

ra toàn cầu; hai là phát huy tính tự lực và sáng tạo; ba là phát triển nguồn

nhân lực. Mục tiêu của dự án là tạo ra sản phẩm riêng biệt cho từng địa

phương để tăng doanh số bán ra. Hàng hoá muốn thâm nhập thị trường thế

giới, cần phải đáp ứng yêu cầu vệ sinh và chất lượng quốc tế; Phục hồi và

phát huy các kỹ năng truyền thống của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả

kinh doanh; Phát huy tri thức địa phương để sáng tạo ra những sản phẩm và

hàng hoá có đặc thù; Xây dựng lòng tự hào dân tộc và xã hội đối với các sản

phẩm của Thái Lan; Phát triển du lịch sinh thái và du lịch tham quan các làng

nghề thủ công mỹ nghệ để tăng thu nhập cho địa phương; Hỗ trợ các doanh

nghiệp địa phương phát triển và cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thông qua

việc hỗ trợ thiết kế và phát triển sản phẩm để theo kịp sự thay đổi thị hiếu và sở

thích người tiêu dùng.

Dự án này không chỉ dừng lại ở việc phát triển những sản phẩm hay

dịch vụ đặc thù của địa phương, đặc biệt là sản phẩm thủ công mỹ nghệ

truyền thống, mà còn có tính toàn diện nhằm phát triển có kế thừa văn hoá địa

phương, các kiến thức truyền thống cùng với những kinh nghiệm lâu đời

truyền lại.

Để thực thi dự án có hiệu quả, Chính phủ đã xây dựng cơ chế thực hiện,

có sự phân rõ trách nhiệm, nhấn mạnh đến vai trò điều phối chính sách của

Chính phủ và vai trò tự quản và thực thi của địa phương, đặc biệt sự tham gia

của mọi tầng lớp nhân dân. Hầu hết các bộ, ngành chủ chốt, liên quan đều

tham gia dự án này như Văn phòng Thủ tướng, Cục Phát triển kinh tế - xã hội

và kinh tế quốc gia (NESDB), Bộ Nội vụ (Vụ Phát triển xã hội), Bộ Tài

chính, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và các Hợp tác xã, Bộ Công nghiệp,

Bộ Y tế, Tổng cục Du lịch,... Trên thực tế, để thực hiện dự án trên, nhiều

trung tâm thương mại, dịch vụ, sản xuất đã hình thành ở địa phương.

61

Cơ quan ban hành chính sách là nội các Chính phủ, bao gồm Uỷ ban

Quốc gia phụ trách dự án cùng với 8 tiểu ban khác. Hội đồng làng (Tambon

Council) có vai trò hết sức quan trọng trong dự án, trực tiếp đề ra và phát triển

các các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đặc thù cho từng làng. Mạng lưới liên kết

giữa Hội đồng làng với tiểu ban cấp quận và Uỷ ban Quốc gia trong việc phát

triển sản phẩm. Quan trọng hơn, Chính phủ trực tiếp hỗ trợ hình thành các

kênh phân phối, khuyếch trương sản phẩm và tìm kiếm thị trường cho các sản

phẩm dự án. Như vậy, cơ chế hoạt động này đảm bảo thu hút được mọi nguồn

lực của địa phương để tạo ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có tính dị

biệt cao, đồng thời tạo ra sự đồng thuận ở các cấp địa phương.

Những chính sách ưu tiên hàng đầu của Thái Lan cho dự án này bao

gồm ân hạn nợ 3 năm cho nông dân; lập quỹ 1 triệu baht cho từng làng nghề;

xây dựng mạng internet với website www.thaitambon.com để giúp cộng đồng

dân cư sử dụng thương mại điện tử.

Chính phủ Thái Lan xác định rõ 5 bước thực hiện dự án. Bước một là

quá trình hướng nghiệp, lập kế hoạch và thiết lập các mối quan hệ trong cộng

đồng; bước hai là xác định các sản phẩm nổi bật; bước ba là phát triển sản

phẩm; bước bốn là marketing và phân phối sản phẩm và bước cuối cùng là

đánh giá dự án và các hoạt động hậu dự án.

Những sản phẩm của dự án chính là những sản phẩm truyền thống của địa

phương nhưng được cải tiến về mẫu mã và chất lượng để phù hợp với thị hiếu

khách hàng, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và có hình ảnh khác biệt trên thị

trường toàn cầu. Chính phủ Thái Lan cũng tổ chức các cuộc triển lãm thi sản

phẩm trong nước, trao giải thưởng và các hình thức công nhận khác đối với các

sản phẩm đặc trưng tiêu biểu của địa phương và các làng nghề. Chính phủ hỗ trợ

để mở những trung tâm chuyên mua bán các sản phẩm của dự án ở các tỉnh và

gọi là Trung tâm sản phẩm tinh xảo (State of the Art Center - SOAC). Chính phủ

cũng mở rộng thị trường thông qua tài trợ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại

62

trong nước, đưa các đoàn ra nước ngoài tham gia hội chợ triển lãm quốc tế. Các

đoàn này được Chính phủ hỗ trợ kinh phí.

Thương mại điện tử được xác định là phương tiện chiến lược để giúp

mở rộng thị trường. Hiện tại có hơn 1.200 mặt hàng có thông tin trên mạng.

Dự án này có mục tiêu cụ thể là kích cầu trong nước. Chính vì vậy,

những đánh giá bước đầu về hiệu quả dự án đã đề ra chương trình hành động

khẩn cấp bao gồm việc thực hiện chiến dịch marketing ở cấp quốc gia và quốc

tế; đàm phán và ký kết các hợp đồng kinh doanh; hình thành các kênh phân

phối. Thái Lan cũng mở chiến dịch khuyếch trương mua hàng nội, quảng bá

lịch truyền thống ở địa phương kết hợp với giới thiệu những sản phẩm của

từng địa phương.

Như vậy, dự án “Một làng, một sản phẩm” của Thái Lan tiêu biểu cho

một chiến lược cấp quốc gia về phát triển và quảng bá các sản phẩm trong

nước, xây dựng Thái Lan trên thị trường thế giới như một đất nước có những

nét văn hoá đặc trưng. Dự án tiêu biểu cho sự liên kết có hiệu quả giữa Chính

phủ, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, khu vực tư nhân

và cộng đồng người dân để khai thác nội lực từ cộng đồng dân cư.

Ngoài ra, Thái Lan cũng đã có nhiều hình thức khác để phát triển làng

nghề. Chẳng hạn dự án “Banprasat Archeological site” là dự án phát triển làng

nghề tập trung và đào tạo nghề, quảng bá nghề thủ công, nâng cấp hạ tầng cơ sở,

nâng cao chất lượng cuộc sống của nghề bằng cách tạo ra môi trường trong sạch.

1.6.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản

Nhật Bản là một trong những quốc gia rất chú trọng đến việc bảo tồn và

phát triển hàng thủ công mỹ nghệ. Nghề thủ công mỹ nghệ được chia thành

hai lĩnh vực là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Các sản phẩm thủ công

mỹ nghệ được xếp vào loại di sản văn hoá vật chất. Các bí quyết, kỹ thuật

nghề thủ công được xếp vào di sản văn hoá tinh thần và những người có công

tái tạo những sản phẩm đó được công nhận là những người làm công tác bảo

63

tồn và Nhà nước sẽ trợ cấp tiền để họ trao đổi nâng cao kỹ năng, tay nghề và

bồi dưỡng thế hệ kế nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước đã ban hành hàng loạt

chính sách khuyến khích phát triển nghề thủ công như chính sách công khai bí

quyết nghề thủ công truyền thống, đào tạo thế hệ kế nghiệp, thúc đẩy quảng

cáo và bán sản phẩm, nghiên cứu sản xuất nguyên vật liệu thay thế cho

nguyên vật liệu truyền thống. Mới đây, Nhà nước đã ban hành chính sách

quan trọng là đầu tư xây dựng các Trung tâm phát triển mẫu mã mới cho sản

phẩm thủ công tại mỗi khu vực có nghề. Các Trung tâm này có nhiệm vụ

nghiên cứu và sản xuất thử những sản phẩm mới theo quy trình công nghệ

truyền thống, có sự kết hợp giữa tính văn hoá truyền thống và văn hoá hiện

đại. Mặt khác, việc nghiên cứu mặt hàng mới cũng nhằm mục đích giúp cho

các cơ sở sản xuất có thể tạo ra số lượng hàng hoá nhiều hơn với giá rẻ, kích

thích sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cho các địa phương.

Năm 1974, Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống (gọi tắt là Luật

Nghề truyền thống) đã được Chính phủ Nhật Bản ban hành với mục đích khôi

phục và phát triển nghề thủ công truyền thống vốn đang đứng trước nguy cơ bị

mai một bởi quá trình công nghiệp hoá. Cho đến nay, đã qua hai lần sửa đổi và

bổ sung, Luật này vẫn còn hiệu lực và đã chứng tỏ vai trò của nó trong việc tạo

dựng lối sống văn hoá Nhật Bản. Bên cạnh Luật này, còn có một số bộ luật có

liên quan cũng góp phần tạo nên hiệu quả trong việc bảo tồn nghề thủ công.

Cơ chế của Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống, bao gồm

nguyên tắc xác định sản phẩm; nguyên tắc chính quyền địa phương làm người

bảo lãnh và kế hoạch phát triển và chính sách hỗ trợ.

Thực hiện Luật Phát triển nghề thủ công truyền thống:

- Đào tạo đội ngũ kế nghiệp;

- Marketing;

- Công khai, giới thiệu kỹ thuật thủ công - Xây dựng nhà triển lãm thủ

công quốc gia;

- Nghiên cứu về nguyên vật liệu thô;

64

- Sử dụng lao động địa phương;

- Thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới.

Chính phủ Nhật Bản cũng đã thành lập Hiệp hội Khuyến khích phát

triển nghề thủ công truyền thống (gọi tắt là Hiệp hội Nghề truyền thống-

Densankyokai). Hiệp hội này được thành lập năm 1975 dưới sự nhất trí của

các hợp tác xã, là hạt nhân của sự nghiệp khôi phục và phát triển ngành nghề

truyền thống dựa theo Luật Phát triển nghề truyền thống. Hiện nay được sự

ủng hộ của Nhà nước và các đoàn thể cộng đồng địa phương, Hiệp hội hiện

đang tiến hành các dự án khôi phục và phát triển với các nội dung:

- Công nhận tay nghề của các nghệ nhân thủ công truyền thống;

- Công tác khai thác nhu cầu;

- Tổ chức thi đua khen thưởng;

- Giáo dục thế hệ trẻ;

- Thành lập Trung tâm nghề thủ công Quốc gia.

Theo Giáo sư Hiramatsu - Nhật Bản, Chủ tịch Hiệp hội xúc tiến giao

lưu quốc tế “Mỗi làng một sản phẩm” (người vừa đến tham gia hội thảo tại

Việt Nam tháng 9/2009): “Tại Nhật Bản, phong trào “Mỗi làng một sản

phẩm” cũng được khởi xướng tại tỉnh Oita từ năm 1979. Phong trào đã thành

công trong việc đưa các làng quê thoát khỏi đói nghèo và lôi cuốn được lao

động trẻ ở lại với nông thôn. Từ kinh nghiệm thành công của phong trào này,

Nhật Bản đã rút ra được 3 nguyên tắc cơ bản: Một là, phải xây dựng tính toàn

cầu cho mỗi sản phẩm địa phương. Mỗi cộng đồng thôn làng phải phấn đấu

làm ra một sản phẩm và coi đó là niềm tự hào của quê hương mình. Mục tiêu

của phong trào không đơn giản là làm ra những vật lưu niệm cho khách du

lịch, mà phải tạo ra những sản phẩm đặc trưng, không chỉ đưa ra thị trường

địa phương, mà phải xây dựng thương hiệu trên toàn thế giới. Hai là, thúc đẩy

tự chủ, tự lực, tự tin và sáng tạo của người dân. Nỗ lực phấn đấu xây dựng

phong trào là do người dân và cộng đồng quyết định lựa chọn những gì là tinh

hoa để mang sức sống mới cho vùng quê của họ. Nhà nước không nên hỗ trợ

65

trực tiếp cho các địa phương hoặc nông hộ, vì như vậy sẽ làm nảy sinh tính ỷ

lại, trông chờ. Thay bằng đó, Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng, hướng

dẫn kỹ thuật, hỗ trợ xúc tiến thương mại, quảng bá bán hàng. Cách tốt nhất để

đạt giá trị kinh tế cao là phải biết liên kết, “tựa lưng vào nhau” trong việc

thống nhất giá cả, phương thức bán hàng, chế biến sản phẩm và nên bán chế

phẩm trực tiếp ra thị trường giá trị kinh tế mới cao. Tóm lại, điều quan trọng

nhất là phải làm cho người nông dân thỏa mãn với cuộc sống của mình tại

một làng quê thanh bình. Đó chính là mục tiêu của phong trào “ Mối làng một

sản phẩm”. Ba là, phát triển nguồn nhân lực, đây là động lực quan trọng nhất

của phong trào. Trách nhiệm của Nhà nước là nuôi dưỡng nguồn nhân lực tài

năng, có ý chí để vượt qua thách thức mới trong sản xuất, kinh doanh. Nhật

Bản đã thành lập trường đào tạo để những người đi làm ban ngày giành thời

gian học tập vào buổi tối. Học sinh bao gồm nông dân, cán bộ hợp tác xã,

người làm việc trong các cơ quan địa phương. Trường không có sách giáo

khoa hoặc giáo viên chuyên nghiệp, thay vào đó là một số người dân địa

phương thành đạt trong phong trào đến giảng, Bên cạnh đó còn có các trường

học nhỏ, đào tạo các ngành nghề cần thiết khác. Không phải nghề nào, sản

phẩm nào cũng cũng thành công tất cả, mà cũng có nhiều thất bại. Nhưng

quan trọng nhất là không bao giờ từ bỏ sự tìm kiếm sáng tạo mới, không mất

nhuệ khí khi thất bại, luôn nỗ lực với tinh thần vượt qua khó khăn thực hiện

phong trào” (nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 3/10/2009)

Với những chủ trương và biện pháp này, đến nay, Nhật Bản đã dần

khôi phục và phát triển được nhiều ngành nghề truyền thống.

1.6.4. Bài học kinh nghiệm quốc tế

Qua kinh nghiệm bảo tồn và phát triển làng nghề của một số quốc gia

và khu vực có nhiều điều kiện tự nhiên và xã hội tương đồng như nước ta, có

thể rút ra một số nhận xét sau đây:

66

Một là, bảo tồn, duy trì và phát triển làng nghề truyền thống là vấn đề

đựợc nhiều quốc gia Châu Á chú trọng.

Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, thương mại hoá đã có lúc làm

suy yếu, mờ nhạt hình ảnh và vai trò của làng nghề. Đồng thời, phong cách,

thị hiếu tiêu dùng của người dân cũng có sự thay đổi. Nhưng qua thử thách

của thời gian, nhiều quốc gia ngày càng nhận thức rằng, cho dù có những

ngành nghề mới hiện đại, tiên tiến, cho dù có những sản phẩm mới tinh vi,

hiện đại, hàm lượng khoa học cao, nhưng vai trò của làng nghề, sản phẩm

làng nghề không dễ gì thay được. Làng nghề là bộ phận quan trọng cấu thành

kinh tế của làng, xã. Tuỳ điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của từng nước mà

họ có sự kết hợp với mức độ khác nhau. Trong bố trí sản xuất, họ thường xây

dựng các xí nghiệp lớn gần các làng nghề hoặc xí nghiệp nhỏ để tạo thành các

vệ tinh cho xí nghiệp có quy mô lớn.

Tại Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, người ta cho rằng, đẩy mạnh

công nghiệp hoá nông thôn trước hết phải chú ý đến ngành nghề nông thôn và

làng nghề truyền thống. Từ đó, tạo ra thị trường tiêu thụ ở nông thôn rộng lớn

cho sản xuất phi nông nghiệp và dịch vụ, góp phần thúc đẩy làng nghề phát

triển theo hướng công nghiệp hoá. Các nước như Thái Lan, Trung Quốc đều

xây dựng những chương trình phát triển nghề thủ công và làng nghề thủ công

truyền thống. Nhiều ngành nghề cổ truyền được trang bị máy móc, thiết bị cơ

khí, nửa cơ khí kết hợp với bàn tay điêu luyện, tài ba của người thợ. Vì thế,

phần lớn các làng nghề đang có xu hướng phục hồi và phát triển.

Hai là, Chính phủ chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các

làng nghề.

Việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ở nông thôn có vai trò quan

trọng đến sự phát triển của làng nghề thủ công mỹ nghệ. Vì vậy, các nước rất

chú trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo nghề cho người thợ để họ có điều

kiện tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, thiết kế, cải tiến đề tài, mẫu mã, hiểu rõ nhu

cầu, thị hiếu thị trường nước ngoài. Việc hình thành được một đội ngũ thợ có

tay nghề cao là rất quan trọng. Nhìn chung, các nước đều đa dạng hoá hình

67

thức đào tạo, nâng cao tay nghề như đào tạo tại chỗ, bồi dưỡng tập trung ngắn

hạn để đào tạo có hệ thống. Các nước rất chú trọng kinh nghiệm thực tiễn, họ

chú trọng hoạt động có tính cộng đồng như gia đình, làng xóm, hương trấn,

phường hội, câu lạc bộ,...

Tại Nhật Bản, chính phủ có chính sách đầu tư để đào tạo cố vấn. Các

dịch vụ cố vấn được được sự giúp đỡ của hơn 300 viện nghiên cứu và viện

đào tạo nghề, trong đó 49 viện về lĩnh vực dệt may, 48 viện về chế biến mây

tre, gỗ, 20 viện nghiên cứu nghề sơn. Ngoài ra, tại 600 thành phố, đô thị,

chính quyền đã giúp đỡ thành lập nhiều văn phòng cố vấn khác. Nhờ có dịch

vụ cố vấn, các làng nghề có thêm kiến thức quản lý, kinh doanh, sản xuất, kỹ

thuật, phát triển mẫu mã, đề tài.

Ba là, vai trò của Nhà nước trong việc giúp đỡ, hỗ trợ về tài chính cho

làng nghề.

Trong quá trình sản xuất, kinh doanh của làng nghề truyền thống nhiều

nước đã có sự quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước về mặt tài chính, như

cấp vốn, giảm lãi suất, bù giá đầu ra cho người sản xuất. Nhờ có sự hỗ trợ

này, các làng nghề có thêm điều kiện để mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật,

đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm

trên thị trường. Tại Nhật Bản, Chính phủ cho thành lập hệ thống bảo lãnh và

bảo hiểm tín dụng để giúp đỡ người nghèo vay vốn không cần thế chấp tài

sản. Các ngân hàng đã cho các cơ sở tiểu thủ công nghiệp vay vốn để mua

máy móc, thiết bị trong kỳ hạn 3 - 5 năm với lãi suất thấp.

Hệ thống bảo lãnh và tín dụng còn được áp dụng ở các nước khác như

Thái Lan, với nhiều hình thức khác nhau. Chính phủ nước này đã thành lập

nhiều công ty có chức năng đầu tư hoặc giúp vốn cho những doanh nghiệp

mới thuộc các ngành có thể chịu nhiều rủi ro, với lãi suất thấp, điều kiện dễ

dàng, thủ tục đơn giản, thời gian lên tới 15 năm.

Bốn là, Nhà nước có chính sách ưu đãi mở rộng thị trường để khuyến

khích làng nghề truyền thống phát triển.

68

Đi đôi với việc hỗ trợ tài chính, tín dụng là chính sách ưu đãi thuế và

chính sách mở rộng thị trường. Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc luôn tạo

điều kiện thuận lợi cho các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề tiếp cận với

thị trường nước ngoài như cấp kinh phí tham gia triển lãm hội chợ và nghiên

cứu thị trường nước ngoài

Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp làng

nghề.

Sự kết hợp giữa công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp làng nghề là thực

hiện sự phân công lao động, thông qua sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Tại Nhật

Bản, các làng nghề truyền thống đóng vai trò vệ tinh, gia công cho các công

ty lớn, khu công nghiệp tập trung và cung cấp các loại bán thành phẩm cho

các công ty đó. Trên cơ sở đó, các công ty lớn và làng nghề sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cùng nhau phát triển. Hình thức này cũng được thực hiện tại Thái

Lan. Các trung tâm công nghiệp có trách nhiệm giúp đỡ làng nghề truyền

thống nâng cao năng lực sản xuất, cung cấp tài chính và tạo điều kiện hỗ trợ

đầu ra cho sản phẩm làng nghề.

Sáu là, phát triển làng nghề gắn liền với phát triển du lịch làng nghề:

Thu hút khách du lịch đến với làng nghề không chỉ giúp mở rộng thị trường

mà còn là một trong những kênh quảng cáo cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ

truyền thống. Hai lĩnh vực này cùng thúc đẩy nhau phát triển. Kinh nghiệm

này đã được thực hiện rất thành công tại Thái Lan.

69

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ CỦA VIỆT NAM

2.1. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đã có từ lâu đời và đã được

xuất khẩu sang các nước nhưng chỉ bắt đầu phát triển mạnh từ những năm

cuối của thế kỷ XX, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ. Trong

khoảng 10 năm trở lại đây, mặc dù thời gian rất ngắn so với quá trình hình

thành và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ, nhưng lại có nhiều thay đổi

nhất so với quá trình mấy trăm năm. Trong các làng nghề, số lượng doanh

nghiệp làng nghề không ngừng tăng lên. Cơ sở vật chất, trình độ quản lý, khối

lượng sản phẩm, đề tài, mẫu mã đều phát triển, kim ngạch xuất khẩu tăng. Xu

hướng này có thể vẫn được tiếp tục, nếu chúng ta sớm tháo gỡ được những

khó khăn, vướng mắc.

Trước những năm 90 của thế kỷ XX, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu

của Việt Nam chủ yếu xuất sang thị trường Liên Xô và Đông Âu theo Nghị

định thư được ký kết giữa các Chính phủ. Mặt hàng chủ yếu là thảm len, thảm

đay, thảm cói, chiếu cói, hàng mây tre đan, mành trúc, mành cọ, hàng thêu

ren, khăn trải bàn, khăn trải giường,... kim ngạch xuất khẩu năm 1985 cao

nhất đạt tới 205 triệu Rup/USD, chiếm tỷ trọng 33,7% kim ngạch xuất khẩu

của cả nước, cá biệt, có năm chiếm tới 53,6% (năm 1979), bình quân 10 năm

(1976-1985) tỷ trọng kim ngạch hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu so với tổng

kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt gần 40%.

Kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này chiếm tỷ trọng rất cao trong xuất

khẩu của cả nước giúp phần đặc biệt quan trọng với nền kinh tế đất nước,

thực hiện vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế - đối ngoại với các nước xã

hội chủ nghĩa; trao đổi hàng hoá, nhập khẩu máy móc, vật tư, nguyên liệu và

70

hàng tiêu dùng phục vụ công cuộc chống Mỹ cứu nước (trước 1975) và khôi

phục đất nước (sau 1975).

Song, việc trao đổi hàng hoá với các nước xã hội chủ nghĩa trong

chương trình hiệp định song phương và đa phương với các nước khối SEV,

hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu không bị tác động bởi cơ chế thị trường mà

theo kế hoạch. Vì vây, chủng loại và mẫu mã đơn điệu, không được cải tiến,

chất lượng không cao, công dụng và giá trị nghệ thuật thấp, nhiều mẫu hàng

được duy trì với số lượng lớn trên 20 năm không thay đổi như: một số đề tài

mành trúc, thảm cói chùi chân, khăn thêu trải bàn, sơn mài Xuân - Hạ - Thu -

Đông. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh cũng được ra đời theo kế hoạch nên

thiếu tính năng động sáng tạo. Người làm ra sản phẩm chủ yếu làm theo

truyền thống, thiếu cải tiến tìm tòi, hàng hoá sản xuất ra không phải tuân theo

quy trình giám sát chất lượng cao nhưng vẫn được xuất khẩu ra nước ngoài.

Đây là một thời kỳ dài, tạo ra một đội ngũ thợ thủ công, hệ thống tổ

chức sản xuất và quản lý sản xuất cũng như xuất khẩu thiếu năng động, thiếu

tư duy sáng tạo, guồng máy hoạt động theo một chu kỳ kế hoạch, bao cấp,

không thực hiện cơ chế hạch toán đầy đủ.

Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đã

tạo ra luồng không khí mới, một tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh tế nói

chung và ngành kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng.

Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được xoá bỏ từng bước để thay thế

bằng cơ chế hạch toán, nâng cao quyền chủ động và trách nhiệm của cơ sở.

Đây là một bước ngoặt quan trọng cho ngành sản xuất và xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ nước ta.

Vào thời kỳ đầu của những năm 90, khi hệ thống các nước xã hội chủ

nghĩa sụp đổ, hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ nước ta bị tồn lại không xuất

khẩu được, kết hợp với sự thay đổi mạnh mẽ cơ chế quản lý kinh tế trong

71

nước, hàng loạt hợp tác xã thu hẹp sản xuất hoặc đóng cửa, đời sống của

người lao động thủ công vô cùng khó khăn.

Với những biến cố chính trị quan trọng trong hệ thống các nước khối

SEV, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ gần như mất hoàn toàn, thị

trường khu vực 2 (khu vực tư bản chủ nghĩa) nhiều năm có tỷ trọng rất nhỏ

(dưới 10%) do nước ta bị cấm vận và không được quan tâm xây dựng.

Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thời kỳ này giảm sút

nghiêm trọng, từ năm 1990 - 1992 chỉ còn khoảng 30 triệu USD bình quân

năm.

Song, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, tiềm năng sản

xuất hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta dồi dào, hàng thủ công mỹ nghệ của

nước ta cũng có thương hiệu trên thị trường quốc tế. Vì vậy đã dần dần tìm

được chỗ đứng trên thị trường và phát triển nhanh chóng do giao lưu quốc tế

mở rộng, thương nhân nước ngoài tìm đến Việt Nam ngày càng nhiều, các

doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội ra nước ngoài tiếp cận trực tiếp với

thị trường thế giới. Nhiều cuộc hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ được tổ chức

tại Việt Nam và nước ngoài. Thị trường khu vực II qua nhiều năm đóng cửa

đã khai thông. Kim ngach xuất khẩu tăng lên qua các năm. Nếu thời kỳ 1990 -

1992 chỉ bình quân 30 triệu USD/năm thì năm 1996 đã đạt 124, 3 triệu USD

và năm 2008 lên tới con số 820,8 triệu USD (xem bảng 2.1) với mức tăng

trưởng từ năm 2000 đến 2008 là 20%/năm và trở thành 1 trong 12 ngành hàng

xuất khẩu chủ lực của đất nước ta, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao

động, bộ mặt nông thôn nhiều vùng được đổi mới. Hàng thủ công mỹ nghệ

nước ta không ngừng được cải tiến mẫu mã, quy mô sản xuất ngày càng cao,

chất lượng và sự đồng đều của sản phẩm thay đổi rõ rệt. Đã được giới kinh

doanh và người tiêu dùng quốc tế đánh giá cao về sự đa dạng, có giá trị văn

hoá, nghệ thuật độc đáo.

72

Bảng 2.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Đơn vị tính: triệu USD % trong tổng kim ngạch

Kim ngạch

Tỷ lệ tăng %

Năm

xuất khẩu

xuất khẩu

1997 121

1998 111 -8,33 1,18

1999 168 51,26 1,46

2000 287 43,5 1,64

2001 308 7,6 1,57

2002 340 10,2 1,98

2003 397 16,8 1,82

2004 509 29,8 1,94

2005 580,9 12,5 1,75

2006 706,1 21,5 1,57

2007 786,5 11,3 1,7

2008 820,8 4,3 1,29

Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Bộ Công Thương

2.2. Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu

Nước ta nằm ở khu vực Đông Nam Châu Á, khí hậu nhiệt đới gió mùa

nên nguồn nguyên liệu từ cây rừng, cây nông nghiệp và cây cỏ tự nhiên

phong phú và đa dạng.

Trong thời gian qua, do quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước;

tiềm năng nguồn nguyên liệu to lớn chưa được khai thác tối đa, nhiều loại

nguyên liệu chưa được tận thu để chế biến thành hàng hóa xuất khẩu mang

ngoại tệ về cho đất nước như: Cỏ cây mọc tự nhiên trên rừng; tại các vùng

đồng bằng, nông thôn, bờ ao, bờ ruộng, phế thải của ngành nông nghiệp như

vỏ cây, cành cây, rơm rạ,... và phế thải của ngành công nghiệp như: sắt vụn,

vải vụn,... là những nguyên liệu tưởng như không có giá trị kinh tế, song nếu

đầu tư khai thác, tổ chức tạo mẫu mã, tổ chức sản xuất thành hàng hóa và xúc

73

tiến thị trường đều có thể trở thành mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả kinh tế

cao.

Tuy vậy, xét từ nhiều góc độ khác nhau, tác giả khẳng định hàng thủ

công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam tương đối phong phú về chủng loại, đa

dạng về mẫu mã, được người tiêu dùng trên thế giới đánh giá cao. Gồm nhiều

nhóm hàng được phân theo nguồn gốc nguyên liệu như: đất, mây tre lá, gỗ,

cói,... phân theo công dụng của hàng hóa như: giá kệ, chậu, lẵng hoa, bàn

ghế,... hoặc phân theo công nghệ như: thêu ren, sơn mài, sơn dầu,...

Trong phần luận án của mình, tác giả xin được phân cơ cấu mặt hàng

kết hợp giữa nguồn gốc nguyên liệu, công dụng và công nghệ sản xuất ra

hàng hóa. Theo tác giả, mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu nước ta nên

chia thành các nhóm sau đây:

- Nhóm hàng gốm sứ;

- Nhóm mây tre lá;

- Nhóm hàng sơn mài;

- Nhóm hàng thêu ren;

- Nhóm hàng gỗ mỹ nghệ;

- Nhóm hàng đan, móc, dệt thổ cẩm;

- Nhóm hàng đá quý, kim loại quý;

- Nhóm hàng giầy dép đính hạt cườm, kim tuyến, dép thủ công;

- Nhóm hàng đồ chơi;

- Nhóm hàng quà tặng,...

Trong đó có 5 nhóm hàng chính, có kim ngạch lớn, có tiềm năng phát

triển cao hơn đang được Nhà nước, các địa phương và các nhà sản xuất kinh

doanh quan tâm đầu tư phát triển xuất khẩu.

74

Bảng 2.2. Cơ cấu mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu

Đơn vị tính: triệu USD

Mặt

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

TT

hàng

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Mây, tre, cói, lá, 92,5 103,1 113,2 141,0 171,7 157,3 214,1 221,3 225,6 thảm

1

Tăng % 48,8 11,5 9,6 24,5 21,7 -9,1 36,1 3,3 1,9

Gốm, sứ 108,5 117,1 123,5 135,9 154,6 255,3 274,4 330,8 344,0

2

Tăng % 30 8 5,4 10 13,7 65,1 7,4 20,1 3,9

Sơn mài mỹ nghệ 36,2 34,0 50,9 59,6 90,5 89,9 119,5 125,1 132,6

3

Tăng % 61 -6 50 17 50 -1 19 4,6 5,8

Thêu ren 50,3 54,7 52,6 60,6 91,6 78,4 98,1 109,3 118,6

4

Tăng % 55 8 -4 15 28 -12 17 11,4 8,5

5 Tổng giá trị 287,5 308,9 340,2 397,1 585,4 580,9 706,1 786,5 820,8

Nguồn: Tổng cục Hải Quan, năm 2000 - 2008

75

2.3. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu

2.3.1. Mặt hàng gốm, sứ

Nghề gốm, sứ nước ta đã có từ lâu đời, nó gắn bó mật thiết với cuộc

sống của người dân. Khởi đầu, gốm, sứ Việt Nam gồm có bát, đĩa, ấm chén,

chậu, lộc bình, về sau phát triển thêm nhiều loại sản phẩm khác. Cùng với lịch

sử phát triển của các triều đại, một số loại gốm, sứ mới được sản xuất với hình

dáng, màu sắc, chất lượng cao hơn như gốm men ngọc thế kỷ thứ XI, gốm hoa

nâu thế kỷ thứ XIII, gốm hoa lam thế kỷ thứ XIV, gốm men ngọc kết hợp điêu

khắc thế kỷ XVIII. Đồ gốm phát triển mạnh nhất vào thế kỷ XVI - XVII, đặc

biệt ở miền Bắc và được xuất khẩu sang nhiều nước châu Á như Trung Quốc,

Nhật Bản. Nơi nào có đất sét tốt, nơi đó nghề gốm có điều kiện phát triển.

Các làng gốm phân bố nhiều nơi trong cả nước. Hiện tại miền Bắc có

những nơi sản xuất gốm, sứ nổi tiếng như Thổ Hà (Bắc Giang), Hương Canh

(Vĩnh Phúc), Đông Triều (Quảng Ninh), đặc biệt là Bát Tràng (Hà Nội) và Chu

Đậu (Hải Dương). Tại miền Trung có Lò Chum (Thanh Hoá), Thanh Hà

(Quảng Nam). Tại Nam Bộ có gốm Biên Hoà (Đồng Nai), Lái Thiêu (Bình

Dương) và gốm Vĩnh Long. Tuy nhiên, gần đây đã có một số làng bị mai một

do nguồn nguyên liệu cạn dần.

Gốm sứ gồm 2 dòng sản phẩm khác nhau, được sản xuất từ chủng loại

nguyên liệu khác nhau, nung trong môi trường nhiệt độ khác nhau:

Sứ được sản xuất từ đất sét tinh chế, có nhiều phụ gia tăng độ liên kết,

tăng khả năng chịu nhiệt độ nung cao hơn và được nung trong lò có nhiệt độ từ

1.300 đến 1.350 độ C, sứ bền chắc, có độ sáng, tiếng kêu vang hơn các loại

khác.

Sứ được áp dụng công nghệ mới trong tinh chế nguyên liệu, trong quá

trình tạo phôi,… đối với mặt hàng này hàm lượng mỹ thuật dân tộc cổ truyền

thấp, hàm lượng kỹ thuật, mỹ thuật mới cao hơn. Sản phẩm chủ yếu được sản

xuất ở các cơ sở lớn, xí nghiệp tập trung; công dụng chủ yếu của mặt hàng này

76

là phục vụ nhu cầu dân dụng, nhu cầu sinh hoạt gia đình, công sở như: bát đũa,

ấm chén,…

Gốm là mặt hàng phát triển lâu đời hơn, được sản xuất bằng nguyên liệu

chế biến thô, ít phụ gia tạo độ dính; nung ở nhiệt độ 900 đến 1.200 độ C, sản

phẩm có mầu tối, đơn giản và có màu sắc văn hóa, dân tộc, thủ công dân gian

cao hơn. Gốm hầu hết được đầu tư nhỏ lẻ, phát triển nhiều nơi và đang là một

mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn (xem bảng 2.3), được nhiều thị trường trên

thế giới ưa chuộng. Hiện tại có 3 trung tâm gốm lớn của cả nước là: Bát Tràng,

Đồng Nai và Bình Dương.

Gần 20 năm trở lại đây với, sự phát triển của ngành gốm sứ xuất khẩu

nước ta, một số trung tâm gốm mới ra đời như: Đông Triều, Vĩnh Long,…

Theo kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cả

nước có 61 làng nghề gốm, sứ với khoảng 35 ngàn thợ. Trong tổng số làng

nghề gốm, sứ, loại làng tồn tại trên 100 năm chiếm 28,8%, loại từ 30 - 100

năm chiếm 33,9%, loại từ 10 - 30 năm chiếm 16,9%, loại dưới 10 năm chiếm

24,4%.

Ngoài các doanh nghiệp, hiện nay hộ gia đình tham gia sản xuất gốm,

sứ là chủ yếu. Thợ thủ công với tay nghề cao và các họa sĩ thường sản xuất

độc lập tại các xưởng của họ và bán trực tiếp cho tư thương hoặc bán cho các

cửa hàng bán lẻ ở đô thị. Tuy nhiên, hầu hết cơ cấu tổ chức sản xuất hiện nay

dưới hình thức doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, bao gồm nhiều hộ sản

xuất. Nhìn chung các doanh nghiệp thường đầu tư máy móc, thiết bị cần thiết

và thuê lao động trong làng hoặc lao động từ các làng khác sản xuất theo đơn

đặt hàng của các công ty xuất khẩu ở các đô thị hoặc tự bán sản phẩm.

Trong các làng nghề truyền thống hoặc các doanh nghiệp làng nghề,

cách chế biến, phối hợp nguyên liệu và cách pha màu men được giữ “bí mật”.

Quá trình tạo dáng, vẽ trang trí và nung được các thợ kỹ thuật đảm nhiệm.

77

Nguời ngoài làng chỉ làm những công việc phụ. Các kỹ thuật truyền thống

được truyền từ đời này sang đời khác chủ yếu trong phạm vi gia đình.

Bảng 2.3. Kim ngạch xuất khẩu hàng gốm, sứ

Đơn vị tính: triệu USD

Kim ngạch xuất khẩu

Tăng %

Năm

108,4 30,0 2000

117,1 8,0 2001

123,5 5,4 2002

135,9 10 2003

154,6 13,7 2004

255,3 65,1 2005

274,4 7,4 2006

330,8 20.5 2007

344,0 3,9 2008

Nguồn: Tổng cục Hải quan, năm 2000- 2008

Sản phẩm đồ gốm, sứ rất đa dạng, phong phú với nhiều mục đích sử

dụng khác nhau, từ đồ ăn đến đồ trang trí. Nhưng gốm Việt Nam thường dày,

nặng nề. Cần phải nghiên cứu để đồ gốm mỏng hơn, nhẹ hơn mà không bị

méo, vênh. Nhược điểm của đồ gốm xuất khẩu Việt Nam là thẩm mỹ chưa

cao. Cần tăng cường hơn việc đào tạo kỹ thuật thủ công tinh xảo và kiến thức

thẩm mỹ để sản phẩm gốm đẹp hơn, chất lượng hơn. Mặc dù đồ gốm, sứ có

nguồn gốc từ làng quê Việt Nam, nhưng hầu hết mẫu mã được thực hiện theo

yêu cầu của khách hàng nước ngoài. Thực tế xuất khẩu của các doanh nghiệp

vừa qua cho thấy, các bộ đồ ăn kích thước lớn và các bộ uống trà cho người

78

châu Âu; các sản phẩm nhỏ như bát ăn, kê đũa, bát hương cho thị trường Nhật

Bản đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.

Trong số những nơi sản xuất gốm, sứ, chỉ có các sản phẩm gốm sứ Bát

Tràng, Chu Đậu, Lái Thiêu, Biên Hoà, Vĩnh Long, Phù Lãng, Kim Bảng, Cổ

Chiên và Đông Triều đạt yêu cầu xuất khẩu.

Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh gốm Bát Tràng, Chu Đậu, Biên

Hoà, Lái Thiêu, Cổ Chiên là những thương hiệu khá quen thuộc với với nhiều

thị trường. Đặc biệt gốm Bát Tràng rất được ưa chuộng tại Nhật Bản do đặc

điểm hoa văn trang trí và màu sắc phù hợp với người tiêu dùng Nhật Bản.

Cũng giống như trường hợp của nhiều mặt hàng khác, mẫu mã hàng gốm, sứ

thường được du nhập từ nước ngoài, nên sản phẩm trở nên phổ biến và giá rẻ.

Trung Quốc là quê hương của nghề gốm; các nước và khu vực như Nhật Bản,

Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan cũng phát triển hàng gốm, sứ theo phong cách

riêng của họ. Sản phẩm gốm, sứ thường gắn liền với tên địa phương, chẳng

hạn như gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu của Việt Nam. Các nước cạnh tranh

hàng gốm, sứ Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan. Tại nhiều cửa hàng

trưng bày gốm, sứ ở nước ngoài, người ta thường trưng bày gốm Bát Tràng

của Việt Nam, gốm ngọc của Thái Lan, và gốm trắng của Trung Quốc tại

những nơi gần nhau. Phát triển sản phẩm mang giá trị truyền thống và văn

hoá sẽ tạo được sự khác biệt với các sản phẩm của các nước khác, đó là một

trong những yêu cầu đặt ra đối với ngành hàng gốm sứ của nước ta.

Nghề gốm là một trong những nghề truyền thống ở châu Á và phát triển

trong mối quan hệ mật thiết với văn hoá truyền thống địa phương. Mặc dù kỹ

thuật truyền thống đã được truyền lại từ hàng thế kỷ do đặc điểm cha truyền

con nối, nhưng do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tác động vào mọi lĩnh

vực sản xuất và đời sống, việc áp dụng máy móc ngày càng nhiều, nên yếu tố

truyền thống ngày càng bị mai một. Gốm cổ rất đa dạng trong lịch sử và có giá

trị văn hoá cao, do đó, cần nghiên cứu bảo tồn. Bên cạnh đó, ngoài việc duy trì

79

các yếu tố thủ công, việc áp dụng công nghệ mới ở quy mô phù hợp nhằm tận

dụng ưu thế của các sản phẩm thủ công và các kỹ thuật công nghiệp là bước đi

thích hợp nhằm thúc đẩy quy mô sản phẩm, giảm giá thành, cải tiến nhanh mẫu

mã. Đây là một khâu quan trọng trong quá trình phát triển ngành hàng gốm sứ

nước ta.

2.3. 2. Hàng mây, tre, cói, thảm

Nhóm hàng này chủ yếu được sản xuất từ nguồn nguyên liệu tự nhiên

như: lá buông, bèo tây, tre nứa, song, mây, đay,… được tập trung chủ yếu ở

Cao Bằng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Ninh Thuận, Hưng Yên, Vĩnh Long,… Do

không được quy hoạch, khai thác không đúng quy trình, mặt khác do nhu cầu

tạo quĩ đất cho phát triển rừng, cây công nghiệp, nông nghiệp và các khu công

nghiệp tập trung, các cơ sở sản xuất, nên nguồn nguyên liệu đang ngày càng

cạn kiệt, đặc biệt là lá buông, cói, đay,… Đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của

Nhà nước và các địa phương nhằm giữ gìn và phát triển nguồn nguyên liệu

trên cơ sở quy hoạch lâu dài, vừa bảo đảm nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu,

đảm bảo môi trường sinh thái và cân đối các yếu tố kinh tế xã hội trong từng

vùng và cả nước.

Đặc điểm của nhóm nguyên liệu này là dễ trồng, có thể tận dụng những

vùng đất cằn, đất mặn,… các loại nguyên liệu này phát triển nhanh, dễ thu

hoạch. Song yêu cầu cao về sơ chế, bảo quản để tránh độ ẩm cao và gây mốc,

mối mọt,…

Nhóm hàng này được sản xuất từ rất sớm; từ bao đời nay, ông cha ta đã

có nghề đan sọt, đan rổ rá phục vụ nhu cầu gia đình và tiêu thụ tại các địa

phương. Do có lợi thế nguyên liệu ở khắp mọi nơi, dễ sản xuất ra các mặt

hàng phục vụ đời sống hàng ngày.

Khi ngành hàng này trở thành mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, tạo ra

nguồn lợi cho người có nguyên liệu và người có thời gian tìm tòi, tạo ra hàng

80

hóa; mặt hàng mây, tre, lá, thảm,… phát triển nhanh và lan rộng ra hầu hết

các tỉnh, thành của cả nước, mà trọng điểm là các tỉnh: Hà Tây, Thái Bình,

Thanh Hóa, Ninh Bình, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bình Dương,

Lâm Đồng, Vĩnh Long,… mặt hàng nhiều mẫu mã và công dụng khác nhau

như: sọt đựng hoa quả, khay hoa quả, rổ rá, đồ mây tre, đĩa, khay,… thảm

chùi chân, trải nhà, đệm xe hơi,… đã giải quyết hàng trăm ngàn lao động

trong cả nước với tiền công lao động từ 400.000 đến 1.200.000 đồng/tháng,

đặc biệt là lao động không đòi hỏi trình độ văn hóa cao. Lợi thế của ngành

hàng này ngoài nguồn nguyên liệu và lao động dồi dào là đầu tư cho sản xuất

không lớn. Chủ yếu làm thủ công, tập trung tại các hộ gia đình; không phải

xây dựng nhiều nhà xưởng; công nghệ mới trong sản phẩm không cao; không

gây ô nhiễm môi trường như một số ngành nghề khác. Song hàng năm vẫn

mang lại nguồn ngoại tệ tương đối lớn về cho đất nước: khoảng 226 triệu

USD trong năm 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000 – 2008

trên 20%/năm (xem bảng 2.4).

Với lợi thế về nguồn nguyên liệu và lao động của nước ta, nếu có sự

vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương, quy hoạch vùng nguyên

liệu, khuyến khích các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng của mình để tìm

cơ hội phát triển thì mặt hàng có điều kiện phát triển nhanh. Bởi thị trường thế

giới đã và đang có nhu cầu rất lớn, hàng mây tre lá của nước ta đã được người

tiêu dùng tại trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ tín nhiệm. Đây chính là một

cơ hội lớn cần tận dụng và khai thác tối đa.

Từ năm 1931, hàng mây, tre Việt Nam đã có mặt tại Hội chợ Paris. Đến

nay hơn 200 chủng loại hàng mây, tre, cói, thảm đã có mặt khắp năm Châu và

được khách hàng ưa chuộng. Hầu như địa phương nào cũng có làng nghề và

doanh nghiệp làng nghề sản xuất, kinh doanh mặt hàng này. Hà Tây nổi tiếng

về mặt hàng mây tre đan; Ninh Bình, Thanh Hoá nổi tiếng về cói; Vĩnh Long

81

và một số tỉnh phía Nam có nguyên liệu lá buông dồi dào, nên phát triển

mạnh mặt hàng này.

Theo số liệu điều tra, hiện nay cả nước có 713 làng nghề mây tre đan,

trong đó hơn một nửa tập trung tại đồng bằng sông Hồng, với số lượng lao

động khoảng 340 ngàn người. Cả nước có 261 làng nghề cói với 233 ngàn lao

động, trong đó Thanh Hoá có 58 làng. Tại các địa phương phía Nam, nhiều

vùng nông thôn có tre, nứa, lá cọ như các tỉnh miền Đông Nam Bộ, Hậu

Giang, Vĩnh Long sản xuất các sản phẩm bàn, ghế, giường, tủ, chiếu, thảm,

túi xách,...

Hiện có 4 hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề mây, tre, cói,

thảm. Đó là hợp tác xã; doanh nghiệp tư nhân thuê lại các hộ gia đình trong

làng nghề gia công sản phẩm; Doanh nghiệp tư nhân thuê công nhân tự tổ

chức sản xuất nhóm và người sản xuất đứng ra lập tổ, nhóm sản xuất.

Đa số làng nghề mây, tre, cói, thảm tổ chức sản xuất theo 2 hình thức

đầu. Thị trường tiêu thụ trong nước của mặt hàng này chiếm tới 50%. Nhưng

do sản phẩm thủ công có nguồn gốc từ châu Á ngày càng được ưa chuộng, giá

cả và chất lượng cạnh tranh nên sản lượng xuất khẩu mặt hàng này ngày càng

tăng. Làm thế nào để tổ chức sản xuất các sản phẩm độc đáo là vấn đề đáng

quan tâm của các doanh nghiệp hiện nay. Mặc dù nguồn nguyên liệu mặt

hàng này được trồng bổ sung ở khắp nơi trong cả nước, nhưng do khai thác

không theo quy hoạch và nạn phá rừng gia tăng, nên nguồn nguyên liệu ngày

càng hiếm, Nguyên liệu phải mua từ các vùng xa xôi, nên chi phí vận chuyển

tăng, một số nguyên liệu đã phải nhập từ nước ngoài, trong khi đó là thế mạnh

của Việt Nam như lá buông, song mây,... dẫn đến giá thành cao, chất lượng

sản phẩm không ổn định, do người đi khai thác nguyên liệu chỉ vì nguồn lợi

trước mắt. Hơn nữa, nguyên liệu không được xử lý đúng kỹ thuật, nên chất

lượng giảm sút.

82

Sản xuất hàng mây, tre, cói, thảm chỉ cần những kỹ thuật đơn giản, thủ

công, thông qua quá trình quan sát, học hỏi tại cơ sở sản xuất. Một số công

đoạn như chế biến nguyên liệu và sấy được các doanh nghiệp thực hiện bằng

máy, nhưng các công đoạn khác chủ yếu bằng tay. Các công cụ cần thiết như

dao, kéo, kim khâu, khung dệt thảm cói đều có sẵn tại địa phương. Khi sử

dụng một số mặt hàng mây, tre thường gặp phải một số vấn đề như cong,

vênh, mốc, mọt do điều kiện khí hậu và do lỗi của người sản xuất.

Mặt hàng mây, tre, cói, thảm được tiêu thụ nhiều tại thị trường nội địa,

chủ yếu là chiếu cói, giỏ xách, rổ, rá. Hầu hết các làng nghề bán sản phẩm của

họ tại các đô thị, thông qua trung gian. Những năm 90 trở về trước, hàng mây,

tre, cói, thảm thường được xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô và các nước Đông

Âu theo nghị định thư đã được ký giữa các chính phủ. Từ khi thị trường này

tan rã, các doanh nghiệp chuyển hướng sang thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc,

Đài Loan, các nước Đông Nam Âu, Pháp, Đức và gần đây là Tây Ban Nha và

Mỹ.

Các mặt hàng mây, tre, cói, thảm ngày càng được thị trường ưa chuộng.

Mặt hàng cói được xem là có lợi cho sức khoẻ cho con người và phù hợp với

sinh hoạt hàng ngày, nên khá phổ biến trên thị trường nước ngoài đặc biệt

thảm và chiếu trên thị trường châu Âu. Ngày nay, các sản phẩm cói như

chiếu, giỏ xách, dép đi trong nhà là những vật dụng khá phổ biến trong các

gia đình Nhật Bản.

83

Bảng 2.4. Kim ngạch xuất khẩu hàng mây tre, cói, thảm

Đơn vị tính: Triệu USD

Kim ngạch xuất khẩu

Tăng %

Năm

92,5 48,8 2000

103,1 11,5 2001

113,2 9,7 2002

141,0 24,5 2003

171,7 21,7 2004

157,3 -9,1 2005

214,1 36,1 2006

221,3 3,3 2007

225,6 1,9 2008

Nguồn: Tổng cục Hải quan, năm 2000-2008

Hoạt động kinh doanh sản phẩm mây, tre, cói, thảm của các nước Châu

Á có tính cạnh tranh cao. Cạnh tranh về mặt hàng tre, cói của Việt Nam là

một số nước trong khu vực; về sản phẩm mây là Philippin và Inđônêxia.

Inđônêxia là nước sản xuất mặt hàng mây lớn nhất thế giới và đã phát triển

nhiều cụm sản xuất tập trung tại đảo Kalimantan và vùng Cirebon. Bên cạnh

đó, các nhà đầu tư nước ngoài cũng đã đầu tư xây dựng nhiều nhà máy sản

xuất tại Inđônêxia.

Mây, tre, cói, thảm là nghề thủ công dễ phát triển ở Việt Nam. Nó vừa

có điều kiện thuận lợi về nguyên liệu thiên nhiên, vừa có lực lượng lao động

dồi dào, vừa có thị trường khá rộng lớn. Nguồn vốn đầu tư nhỏ nhưng thu

nhập ổn định nên hiện là nghề được quan tâm phát triển để có thể giải quyết

việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Song do chất lượng còn thấp,

chủng loại, mẫu mã đơn điệu nên giá trị không cao. Vì vậy cần nhanh chóng

84

có các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh

tranh trên thị trường thế giới.

2.3.3. Mặt hàng sơn mài

Cách đây trên 2.000 năm, người Việt Nam đã biết dùng sơn để sơn

thuyền và thùng chứa làm từ gỗ để tăng thêm độ bền, chống thấm nước. Sau

này, khi biết dùng màu đỏ pha với nhựa sơn, người ta đã biết dùng sơn để

trang trí đồ thờ, đền chùa và các công trình kiến trúc. Đầu thế kỷ thứ XX, các

hoạ sĩ và nghệ nhân đã cùng nghiên cứu thành công kỹ thuật pha sơn mới với

hình thức thẩm mỹ cao hơn và phong phú hơn. Loại sơn mài này ngày càng

phát triển và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài tăng nhanh (xem bảng 2.5

trang 110). Đa số sản phẩm xuất khẩu sản xuất tại các doanh nghiệp. Trong

quá trình xuất khẩu, muốn cạnh tranh về giá, người ta sử dụng các loại sơn

hoá học được nhập khẩu từ Nhật Bản và nhựa hạt điều thay cho sơn ta. Kỹ

thuật vẽ một lớp cũng được sử dụng nhiều hơn sơn mài truyền thống nhiều

lớp. Trên thế giới nhiều nước làm sơn mài. Một số nước cũng trồng được cây

sơn. Nhưng cây sơn Phú Thọ, Yên Bái có giá trị cao hơn. Nhựa cây sơn Phú

Thọ, Yên Bái tốt hơn nhựa từ các nơi khác. Chính vì vậy, sơn mài Việt Nam

đã nổi tiếng bền, đẹp từ lâu đời. Mỗi năm Việt Nam sản xuất khoảng 400 tấn

sơn, trong khi đó nhu cầu trong nước chỉ cần khoảng 50 tấn, phần còn lại xuất

khẩu sang Trung Quốc. Thế kỷ thứ XVIII, ở Thăng Long (Hà Nội) đã có

phường Nam Ngư chuyên làm hàng sơn mài. Ban đầu sơn mài chỉ có 3 màu,

màu đen gọi là sơn then, màu nâu gọi là sơn cánh gián, màu đỏ gọi là sơn son.

Dần dần, khoa học phát triển, các loại màu sơn phát triển phong phú, tạo cho

sản phẩm sơn mài đẹp lộng lẫy và đa dạng. Ngày nay, những mặt hàng sơn

mài như tranh treo tường, lọ hoa, hộp nữ trang, khay, bàn, bình phong đã trở

nên phổ biến trong gia đình Việt Nam và nhiều nước trên thế giới.

85

Số lượng làng nghề và doanh nghiệp làng nghề sơn mài không nhiều.

Cả nước có 31 làng nghề sơn mài với khoảng 11 ngàn thợ. Những địa phương

làm nghề sơn mài nhiều như Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định, Bình Dương,

trong đó nổi tiếng là làng Bình Vọng (Thường Tín) và Đình Bảng (Từ Sơn).

Nghề sơn mài đòi hỏi tay nghề cao, đồng thời, phải có khả năng thẩm mỹ.

Sơn Việt Nam, gọi là sơn ta chất lượng tốt, mềm, dẻo nên dễ trang trí và có

thể đùng để sơn đồ vật có nhiều chi tiết hoặc không phẳng.

Sơn mài truyền thống và sơn mài xuất khẩu thường có các công đoạn

sản xuất khác nhau. Thợ thủ công có tay nghề cao chế tạo sản phẩm thường

độc lập, có xưởng sản xuất riêng và tự quản lý quá trình sản xuất. Có 2 loại

sơn mài xuất khẩu.

- Một là loại sản phẩm có phẩm cấp thấp, sử dụng sơn hạt điều, sản xuất

tại các doanh nghiệp quy mô nhỏ hoặc các hộ gia đình. Các doanh nghiệp quy

mô nhỏ thành lập tại các làng nghề và thường thuê khoảng 30- 40 công nhân

tham gia vào các công đoạn khác nhau. Hộ sản xuất thực hiện gia công sản

phẩm theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trong các

công đoạn sản xuất nhất định.

- Loại thứ hai là sản phẩm có mẫu mã đẹp, được sử dụng như những đồ

nội thất chất lượng cao. Ngày nay, các doanh nghiệp đang sử dụng nhiều loại

máy móc vào quá trình sản xuất, nên năng suất và chất lượng cao hơn nhiều.

Sản phẩm sơn mài rất đa dạng, gồm các loại khay, hộp, lọ, đĩa, đồ dùng

nội thất, tranh,... Khu vực xung quanh Hà Nội thường sản xuất hộp, khay, đĩa

và tranh. Các tỉnh phía Nam, khu vực xung quanh T.P Hồ Chí Minh thường

sản xuất các sản phẩm đồ nội thất và đồ dùng hàng ngày. Gần đây, do áp dụng

một số kỹ thuật mới, đã tạo ra nhiều mẫu mã trang trí và nội thất đẹp, đáp ứng

nhu cầu thị trường nước ngoài. Những sản phẩm sơn mài sản xuất theo

phương pháp và kỹ thuật truyền thống có bề mặt bóng sâu, hoạ tiết vẽ trầm và

nhiều lớp. Trong khi các sản phẩm sản xuất theo kỹ thuật mới hoặc sử dụng

86

nguyên liệu mới nhằm giảm thời gian và chi phí sản xuất, thường có bề mặt

bóng, màu sắc sặc sỡ hơn. Có một số sản phẩm được sản xuất bằng cách kết

hợp gỗ với sơn mài, phát huy tối đa đặc tính mềm và bóng của sơn mài Việt

Nam. Tranh sơn mài Việt Nam mang nét độc đáo riêng và khá phổ biến đối

với khách du lịch nước ngoài. Tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và

một số thành phố lớn, các doanh nghiệp thường xây dựng nên nhiều gallery

để trưng bày và bán tranh sơn mài của các họa sĩ nổi tiếng với giá khá cao.

Khách mua thường là người nước ngoài đến du lịch hoặc công tác tại Việt

Nam.

Các sản phẩm sơn mài được sản xuất không chỉ đáp ứng nhu cầu của

khách tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mà còn được tiêu thụ tại một số

địa phương khác. Có thể nói, nhu cầu về các sản phẩm truyền thống chính là

Huế - thành phố được công nhận là di sản thế giới và Hội An, để sử dụng

trong các ngôi nhà cổ và làm hàng lưu niệm cho du khách. Thị trường trong

nước gần đây nhu cầu cũng tăng lên, bởi vì cuộc sống của nguời dân được cải

thiện nhiều. Người Việt Nam sử dụng sản phẩm sơn mài trong cuộc sống

hàng ngày và trang trí nội thất ngày càng nhiều. Những sản phẩm có tính hữu

ích thường bán chạy hơn sản phẩm để trưng bày. Bên cạnh việc nghiên cứu

giới thiệu sản phẩm để mở rộng thị trường mới, cần nghiên cứu sâu hơn nhu

cầu và thị hiếu của thị trường truyền thống để phát triển thêm các mặt hàng

mới, các mẫu sản phẩm mới, tăng nhanh số lượng xuất khẩu.

Trong tổng số 31 làng nghề sơn mài, thì có 9 làng nghề đã có sản phẩm

bán ra thị trường thế giới. Trực tiếp kinh doanh mặt hàng này chủ yếu là các

doanh nghiệp. Thị trường chính là Hàn Quốc, Đài Loan, châu Âu. Tuy nhiên,

các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là những mặt hàng sản xuất theo phương

pháp và kỹ thuật mới, nguyên liệu mới. Sản phẩm sơn mài truyền thống hiện

nay khá hiếm trên thị trường. Đa số các sản phẩm ở các cửa hàng bán đồ lưu

niệm trong nước là các sản phẩm sử dụng sơn hoá học hoặc sơn hạt điều. Các

87

sản phẩm này được xuất khẩu sang một số nước châu Âu nhiều hơn là xuất

khẩu sang Nhật Bản, nơi có nhu cầu rất lớn về hàng sơn mài cao cấp.

Bảng 2.5. Kim ngạch xuất khẩu hàng sơn mài mỹ nghệ

Đơn vị tính: Triệu USD

Kim ngạch xuất khẩu

Tăng %

Năm

2000 36,2

2003 59,6 64,6

2004 90,5 51,8

2005 89,9 - 0,1

2006 119,5 32,9

2007 125,1 4,6

2008 132,6 5,8

Nguồn: Tổng cục Hải quan, năm 2000- 2008

Sơn là một loại nguyên liệu đặc biệt chỉ có ở một số nước Châu Á như

Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam.

Mỗi nước có một loại sơn nguyên liệu khác nhau, tạo nên tính đa dạng của sản

phẩm sơn mài. Sơn mài Nhật Bản được coi là có chất lượng cao nhất và đắt

nhất.

Có thể nói sơn mài là một mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, có đẳng cấp

nghệ thuật và mang đậm nét văn hóa dân tộc. Điều kiện về nguyên liệu, lao

động đều ưu đãi cho khả năng phát triển của mặt hàng. Trong khi nhu cầu của

thị trường thế giới vẫn cao. Trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu tăng lên

4 lần từ năm 2000 đến năm 2008. Đây là mặt hàng mang lại lợi ích kinh tế lớn

cho người cung cấp nguyên liệu, người sản xuất, doanh nghiệp và xã hội. Mặt

hàng sơn mài thường được dùng hoặc trưng bày ở những nơi sang trọng, có giá

trị quảng bá về hình ảnh đất nước, con người và nghệ thuật dân tộc Việt Nam.

88

Vì vậy, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước nhằm giải quyết vấn đề sử dụng nguyên

liệu, tránh cong vênh, xúc tiến thị trường, giúp các doanh nghiệp có nhiều cơ

hội quảng bá sản phẩm sơn mài Việt Nam sang các nước khu vực và thị trường

thế giới.

2.3.4. Hàng thêu ren

Nghề thêu ren ở Việt Nam có lịch sử phát triển cách đây khoảng 700

năm. Kết quả điều tra cho thấy, số làng nghề thêu ren hiện có 341 làng, 2/3

trong số đó nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng và 20% là làng của

người dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc.

Số lượng thợ trong nghề thêu ren khoảng 130 ngàn người. Trước đây,

mặt hàng này chỉ phục vụ người giàu sang, quyền quý. Người thợ thêu rất

khéo tay, họ biết hoà sắc hàng chục loại chỉ màu cho những bức thêu tuyệt

mỹ. Các sản phẩm thêu rất phong phú, đa dạng. Những hình ảnh hoa, lá, cây,

con, cuộc sống, lịch sử, chân dung đều được những người thợ tài ba thể hiện

trên các chất liệu vải, lụa để sản xuất quần áo, gối, đệm, kimônô, khăn bàn,

khăn trải giường, tranh tường. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nghề thêu bắt

nguồn từ làng Quất Động (Hà Nội). Trong danh mục khu phố cổ Hà Nội có

phố Hàng Thêu chuyên bán đồ thêu. Vùng Xuân Nẻo (Hải Dương) sản xuất

các loại tranh thêu mang tính đơn giản, bình dị được bán với giá phổ thông.

Làng thêu Văn Lâm (Ninh Bình) cũng đã có thời nổi tiếng. Còn nghề ren

chính thức sau này mới xuất hiện do du nhập từ Pháp sang cách đây chỉ

khoảng 100 năm. Huế xưa và nay vẫn là một thành phố cố đô, nơi quy tụ nghề

thêu và nhiều nghề thủ công truyền thống khác. Nghề thêu ở Huế mang tính

chuyên nghiệp và tồn tại độc lập từ lâu, nhất là thế kỷ thứ XIX, dưới triều đại

nhà Nguyễn. Tại đây đã có những bức tranh tuyệt mỹ, đặc sắc do các hoạ sĩ

tài hoa phác thảo . Trường phái này đang được phục hồi và phát triển mạnh tại

một số cơ sở ở Đà Lạt được tổ chức với quy mô lớn. Làng thêu tranh XQ có

89

những gian hàng chi nhánh tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, cố đô Huế.

Một số sản phẩm mang tính nghệ thuật cao, được thể hiện trong thời gian dài

với nhiều nghệ nhân, có giá trị lớn lên đến vài chục ngàn USD. Trước đây,

nghề thêu ren có kỹ thuật đơn giản, dùng chỉ sợi gồm 5 màu, đến nay dùng tới

50 - 60 loại chỉ khác nhau.

Cũng như nhiều ngành nghề khác, hộ gia đình là đơn vị sản xuất cơ bản

trong ngành thêu ren. Các công ty kinh doanh, sản xuất thường chỉ thực hiện

giai đoạn hoàn thiện sản phẩm như làm sạch, in bao bì, đóng gói,... Một số

nơi tổ chức thành cụm sản xuất, nhưng quy mô nhỏ. Theo điều tra, tiêu thụ tại

thị trường nội địa, chủ yếu là Hà Nội (42%) và Thành phố Hồ Chí Minh

(18%).

Về xuất khẩu, trong những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, mặt hàng thêu

ren được xuất khẩu nhiều sang Liên Xô và Đông Âu. Từ năm 2000 đến năm

2008, kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ nhanh. Mặc dù xuất khẩu được coi

là chính, nhưng các hộ gia đình và doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ gặp khó

khăn về đánh giá thị trường.

Bảng 2.6. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thêu ren

Đơn vị tính: Triệu USD

Kim ngạch xuất khẩu

Tăng %

Năm

2000 - 50,5

2003 20 60,6

2004 51,1 91,6

2005 -16,8 78,4

2006 25,1 98,1

2007 11,4 109,3

2008 8,5 118,6

Nguồn: Tổng cục Hải Quan, năm 2000- 2008

90

Nghề thêu ren Việt Nam có ảnh hưởng kỹ thuật của Pháp, có những kỹ

thuật rất độc đáo mà sản phẩm của Trung Quốc không có. Vấn đề cần chú ý

để phát triển trong tương lai là thợ thêu trong nước cần tránh sao chép các

mẫu mã nhập vào và tập trung thiết kế theo truyền thống dân tộc. Các sản

phẩm thêu ren Trung Quốc, Ấn Độ, Băng-la-đét cũng phổ biến trên thị trường

thế giới. Theo các chuyên gia về thêu ren, kỹ thuật thêu của thợ thủ công Việt

Nam rất cao. Nếu mẫu mã, chất lượng sản phẩm được cải thiện thì sản phẩm

thêu ren Việt Nam có khả năng cạnh tranh với hàng hóa của nước khác.

So sánh kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng thêu ren với kim ngạch xuất

khẩu của nước ta nói chung và ngành hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng thì tỷ

trọng của mặt hàng này không lớn. Song đây là một ngành hàng có tỷ trọng

gia công lao động trong hàng hóa khá cao, là nơi thể hiện bàn tay khéo léo,

đức tính cần cù thanh lịch của người phụ nữ Việt Nam; được kết tinh trong

những sản phẩm có giá trị cao, thể hiện tinh hoa nghệ thuật đặc sắc dân tộc.

Sản phẩm chủ yếu của mặt hàng thêu là ga trải giường, gối, khăn trải

bàn, rèm các loại, quần áo, các loại thời trang cao cấp,... xu hướng của mặt

hàng này đang giảm dần nét nghệ thuật sắc sảo cổ truyền, thay vào đó là

những đề tài đơn giản hơn, thời gian sử dụng ngắn hơn, thậm chí còn kết hợp

giữa thêu thủ công và thêu máy. Đây là một mặt hàng cần duy trì và phát triển

hơn nữa phù hợp với tiềm năng của đất nước, bởi đã hội tụ đủ hai yếu tố là

tiềm năng và hiệu quả kinh tế của mặt hàng.

Nhà nước cần có các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia để

quảng bá nghệ thuật thêu ren truyền thống của Việt Nam và quảng bá hình

ảnh những đôi bàn tay khéo léo của các nữ nghệ nhân tài hoa tới người tiêu

dùng quốc tế để có thế phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thêu ren

Việt Nam đạt con số 200 triệu USD vào năm 2015.

91

2.3.5. Đồ gỗ mỹ nghệ

Nghề gỗ mỹ nghệ có từ lâu đời, nhưng đến thế kỷ thứ VI mới phát

triển. Trong giai đoạn từ thế kỷ thứ X - XIV, vào thời hưng thịnh của các triều

đại phong kiến, cùng với nhu cầu xây dựng và tu sửa đền, chùa, nhiều làng

nghề gỗ đã ra đời.

Chạm khắc gỗ là nghề thủ công mỹ nghệ lâu đời và nổi tiếng ở Việt

Nam. Không ít sản phẩm do các thế hệ thợ mộc chạm thủ công tạo ra không

chỉ lừng danh một thời, mà còn trở thành những cổ vật được coi là tài sản vô

giá của quốc gia. Dù công trình kiến trúc văn hoá, đồ thờ, tượng gỗ hay vật

dụng hàng ngày, các loại hình sản phẩm gỗ chạm khắc dù đơn giản hay phức

tạp, dù khoáng đạt hay tinh vi lộng lẫy, rực rỡ, tất cả đều chỉ nhằm thoả mãn

tối đa nhu cầu sinh hoạt trong đời sống vật chất cũng như tinh thần tâm linh

của con người. Sản phẩm gỗ được chạm trổ nhiều loại, đa phần phục vụ các

nhu cầu tín ngưỡng, thờ phụng như hoành phi, câu đối, sập gụ, tủ thờ, tủ chè,

kiệu, bàn ghế. Nhiều sản phẩm được chạm Long, Lân, Quy, Phượng tinh xảo.

Ngày nay, các sản phẩm gỗ chạm không những được thấy ở mọi nơi trong

nước, mà còn được xuất khẩu tới nhiều quốc gia trên thế giới. Nơi nổi tiếng

và có nhiều gia đình chuyên nghề chạm khắc gia truyền từ bao đời nay là làng

La Xuyên (Nam Định), Lỗ Khê (Hà Nội), Nội Duệ, Đồng Kỵ (Bắc Ninh),

Kim Bồng (Quảng Nam).

Nghề gỗ mỹ nghệ phát triển khá mạnh ở các đô thị cổ như Hà Nội, Huế

đặc biệt những nơi có nhiều di tích lịch sử văn hoá. Có nhiều làng nghề gỗ

nằm rải rác trong khu vực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu

Long nhưng không được phân bố đều trên toàn quốc. Đa số làng nghề chỉ làm

một vài mặt hàng cho thị trường trong nước và xuất khẩu: tượng phật, đồ thờ

hay quà lưu niệm. Sản phẩm gỗ mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam có khả

năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về chất lượng và giá cả.

92

Hiện nay, cả nước có 342 làng nghề gỗ mỹ nghệ với khoảng 100 ngàn

thợ. Các địa phương có nhiều làng nghề gỗ nhất là Bắc Ninh, Hà Tây, Thái

Bình, Ninh Bình, Nam Định, Cần Thơ.

Kỹ thuật làm nghề gỗ theo mô hình học việc. Trong xưởng thường có

người có tay nghề cao làm việc cùng với hàng chục thợ học việc. Người học

việc vừa học vừa làm 2 - 3 năm. Một số làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

phát triển mạnh, thuê thợ thủ công tay nghề cao, quản lý tất cả các công đoạn

sản xuất, có hệ thống phân phối và tiếp cận thị trường ổn định. Tuy nhiên, đa

số các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề chỉ có cơ sở sản xuất quy mô nhỏ

hoặc hộ gia đình làm gia công. Một số cơ sở hợp thành hợp tác xã và thực

hiện kinh doanh tập thể. Tuy nhiên, do nhiều khiếm khuyết trong quản lý,

năng lực của các đơn vị này còn hạn chế, nên hợp tác xã không phát triển

mạnh. Thực chất hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng

này có điều kiện phát triển và mở rộng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thành

phố vừa tham gia sản xuất, vừa thực hiện quản lý và tiếp thị một mảng lưới cơ

sở gia công (gồm các cơ sở sản xuất và hộ gia đình) tại các làng nghề. Các sản

phẩm gỗ cơ bản được chia thành các loại sản phẩm như phục vụ xây dựng, đồ

gỗ nội thất thông thường, đồ gỗ nội thất cao cấp, đồ gỗ chạm khắc thông

thường, đồ thờ cúng và các mặt hàng khác.

Theo báo cáo của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, nguyên liệu gỗ

để sản xuất mặt hàng này phải nhập khẩu lên đến 90%. Điều này chứng tỏ

nghề gỗ đang đứng trước thách thức lớn về nguyên liệu. Khối lượng tiêu thụ

sản phẩm gỗ trong nước là rất lớn. Các mặt hàng như bàn ghế, giường, tủ,

Salông,... là mặt hàng cao cấp đắt tiền. Ngày nay, việc sở hữu các sản phẩm

gỗ trong gia đình đôi khi cũng là một thước đo sự sung túc của gia đình.

Nhiều hoa văn chạm, khắc có nguồn gốc từ Trung Quốc. Người Việt Nam

thích chạm khắc, chạm càng nhiều giá càng đắt. Các bộ bàn ghế, tủ được

93

chạm trổ và khảm trai thường bán chạy hơn. Nhu cầu sử dụng lớn trong đó có

cả cá nhân và các cơ quan công sở.

Trước những năm 90 của thế kỷ trước, sản phẩm gỗ chủ yếu được xuất

sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ năm 1996, sản phẩm gỗ bắt đầu được

xuất sang Nhật Bản, Đài Loan, EU và Mỹ. Gần đây, thị trường Mỹ đã nhập

khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam với số lượng ngày càng lớn (xem bảng 2.7 ).

Bảng 2.7. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gỗ

Đơn vị tính: Triệu USD

Năm

Kim ngạch xuất khẩu

Tăng %

2000 311,4

2003 608,9 95,5

2004 1.101,7 80,9

2005 1561,4 41,7

2006 1943,1 24,4

2007 2.404,1 23,7

2008 2.829,3 17,6

Nguồn: Tổng Cục thống kế - Tổng Cục Hải quan, năm 2000- 2008

Trên đây là số liệu kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ. Thống kê không

tách đồ gỗ mỹ nghệ và đồ gỗ gia dụng. Tuy nhiên, theo thống kê mới, một số

loại sản phẩm gỗ không tính vào hàng thủ công mỹ nghệ. Vì vậy số liệu kim

ngạch xuất khẩu đồ gỗ mỹ nghệ sẽ thấp hơn nhiều con số vừa nêu.

Trung Quốc và nhiều nước ASEAN, APEC cũng đang tăng trưởng rất

nhanh về sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ nội thất. Chẳng hạn, sản phẩm làm bằng

gỗ trắc, gụ tếch của Trung Quốc, làm bằng gỗ cao su của Malayxia và Thái

Lan. Mỗi nước đều tập trung vào những nét độc đáo và đặc điểm nguyên liệu

riêng của họ. Để có thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới, cần phát huy

tối đa nét độc đáo của đồ nội thất Việt Nam.

94

Thiết kế mẫu mã và hoa văn truyền thống thường dùng trong các chùa

hay chạm khắc tượng phật thường được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ

khác. Các sản phẩm cao cấp thường chịu ảnh hưởng của mẫu mã Trung Quốc.

Tuy nhiên, phong cách hiện đại của phương Tây do khách hàng đặt dựa trên

catalogue cũng được áp dụng trên các sản phẩm gia dụng và mỹ nghệ xuất

khẩu sang châu Âu, Mỹ. Nói cách khác, mẫu mã truyền thống chỉ dùng trong

chùa chiền. Cần nâng cao chất lượng nguyên liệu gỗ bằng cách sử dụng các

kỹ thuật xử lý tiên tiến, vừa tăng độ bền, vừa tăng vẻ đẹp của gỗ. Cải tiến

cách kết cấu, lắp ghép các bộ phận của sản phẩm làm cho sản phẩm chắc chắn

hơn. Cần sáng tạo thêm mẫu mã, hoa văn trong các sản phẩm chạm khắc,

giảm sự cầu kỳ, rắc rối và nặng nề, giảm chi phí nguyên liệu vừa tăng vẻ đẹp

của sản phẩm.

Hiện nay, đồ gỗ là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực, cần phải phát triển

nhanh, cần nghiên cứu và phát triển mẫu mã đáp ứng tốt nhu cầu thị trường,

phù hợp với sinh hoạt hiện đại của các nước. Do nguyên liệu hạn chế, cần

nghiên cứu:

- Đơn giản hoá các chi tiết chạm khắc, tạo phong cách trang nhã, sang

trọng;

- Cải tạo phương pháp xử lý nguyên liệu gỗ, bề mặt sản phẩm gỗ;

- Đa dạng hoá nguyên liệu gỗ.

Một vấn đề thách thức lớn nhất của nước ta hiện nay trong sản xuất và

xuất khẩu đồ gỗ là thiếu nguyên liệu trầm trọng. Với khoảng 90% nguyên liệu

gỗ phải nhập khẩu, trong khi đó, giá gỗ trên thế giới hiện nay rất cao. Theo

tính toán của các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ, năm 2008 các làng nghề và

doanh nghiệp làng nghề gỗ phải bỏ ra khoảng 1,2 - 1,4 tỷ USD để nhập khẩu

trên 6 triệu mét khối gỗ chưa kể các nguyên phụ liệu khác. Chi phí nguyên

liệu thường chiếm khoảng hơn 50% giá thành. Với tình trạng này, cần tìm

mọi giải pháp để từng bước khắc phục tình trạng thiếu gỗ hiện nay.

95

Giải pháp quan trọng nhất là phải trồng rừng. Thực tế chứng minh,

trồng rừng sau khoảng 10 năm mới có thể thu hoạch. Một số nước ASEAN

như Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia rất chú trọng trồng rừng. Việt Nam cũng

đã có kế hoạch trồng rừng, nhưng kết quả còn hạn chế. Theo chiến lược Lâm

nghiệp quốc gia, giai đoạn 2006 - 2020, đặt mục tiêu phát triển 825 ngàn ha

rừng nguyên liệu, với sự kết hợp các loại cây có chu kỳ khai thác từ 7 - 10

năm và loại từ 10 - 15 năm. Tuy nhiên, Nhà nước cần có chương trình hỗ trợ.

Nếu không giải quyết đựợc vấn đề nguyên liệu thì ngành sản xuất đồ gỗ

không mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

2.4. Cơ cấu thị trường hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam

2.4.1. Những yếu tố tác động tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu thị

trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam: Có bốn yếu tố cơ bản

- Thứ nhất: Thị trường hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam bị tác động

mạnh mẽ bởi yếu tố chính trị của nước sở tại mà hàng Việt Nam xuất khẩu

tới. Đó là sự ổn định chính trị hay bất ổn; đó là mối quan hệ ngoại giao, kinh

tế, thương mại ở các cấp độ khác giữa nước ta với nước nhập khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ của nước ta.

Một minh chứng là thời kỳ chiến tranh lạnh, hàng xuất khẩu thủ công

mỹ nghệ của Việt Nam xuất khẩu sang các xã hội chủ nghĩa chiếm tới 90% do

có mối quan hệ chính trị - kinh tế - thương mại mật thiết và chiến lược giữa

nước ta với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Còn thị trường các nước Tư

bản chủ nghĩa thì ngược lại.

Ngày nay, với các nước, Việt Nam có mối quan hệ mật thiết về ngoại

giao, kinh tế, thương mại thì các mặt hàng xuất khẩu nói chung và hàng thủ

công mỹ nghệ nói riêng vào các thị trường này có điều kiện phát triển. Ví dụ:

thị trường Mỹ; khi quan hệ ngoại giao giữa Mỹ với Việt Nam được thiết lập ở

cấp đại sứ, đặc biệt khi 2 nước ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,

96

đến nay, sau gần 10 năm, hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta xuất vào Mỹ

tăng gần 100 lần.

Điều đó khẳng định, tình hình chính trị của nước sở tại và mối quan hệ

ngoại giao, thương mại với nước ta là một yếu tố quan trọng đặc biệt để mở

đường hình thành cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu nói

chung và với hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ nói riêng.

- Thứ hai: Bản sắc văn hóa dân tộc của một đất nước có tác động tới cơ

cấu thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước ta. Bản sắc văn hóa gắn

liền với thị hiếu tiêu dùng, tới tập quán, gam màu sắc trong sử dụng đồ dùng

sinh hoạt. Điều này được thể hiện rõ nét bởi nhu cầu nhập khẩu khác nhau

giữa nền văn hóa đạo Hồi và nước có nền văn hóa Thiên chúa giáo; giữa các

nước Bắc và Nam Âu; giữa Châu Âu và Châu Á; giữa đất nước có đa số

người da đen và da trắng,…

Cụ thể nhu cầu tiêu dùng hàng thủ công mỹ nghệ của các nước Châu

Âu cao hơn nhiều so với các nước Châu Á, Châu Phi.

Mặt hàng thêu nghệ thuật chỉ có thể được tiêu thụ với số lượng lớn tại

thị trường Châu Âu.

Điều này cho chúng ta thấy, trong quá trình xây dựng thị trường xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cần đặc biệt quan tâm đến nền văn hóa của nước

đang nghiên cứu. Để xác định được nhu cầu, thị hiếu và quy mô thị trường, cơ

cấu mặt hàng khác với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cùng loại; hàng thủ công

mỹ nghệ mang đậm nét văn hóa dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa Á Đông.

Vì vậy, mỗi loại hàng hóa chỉ có thể vào được thị trường của một nước khi

phù hợp cơ bản với yêu cầu của nền văn hóa nước đó.

Với những đòi hỏi về yếu tố văn hóa riêng, cho mỗi quốc gia, mỗi dân

tộc đó có tác động trở lại, làm cho hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của nước

ta ngày càng đa dạng, phong phú và mang đậm nét văn hóa của nhiều dân tộc

trên thế giới.

97

- Thứ ba: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ phụ

thuộc nhiều vào yếu tố kinh tế gồm: chính sách thuế quan, các sắc thuế liên

quan đến hàng hóa, hàng rào bảo hộ và sức mua của cộng đồng xã hội.

Yếu tố kinh tế ngày nay đang từng bước được cởi mở, nới rộng với

ngành hàng thủ công mỹ nghệ trong điều kiện hội nhập toàn cầu. Các rào cản

về thuế quan dần dần được dỡ bỏ, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng giảm dần,

còn lại là sức mua, mối quan hệ giá cả và các lợi ích có liên quan.

Ví dụ: với thị trường Nhật Bản, hàng hóa được chào bán với giá cao

hơn, nhưng yêu cầu về các chỉ tiêu chất lượng và các điều kiện khác khó khăn

hơn nhiều so với các nước và khu vực khác.

Những nước có nhu cầu tiêu thụ lớn nhưng do nền kinh tế không phát

triển mạnh nên thường chỉ chấp nhận giá rẻ như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,

Nam Âu,…

- Thứ tư: Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên là một yếu tố tác động tới

cơ cấu hàng hóa, quy mô thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nước

ta.

Hàng thủ công mỹ nghệ nói chung cồng kềnh, chi phí vận chuyển cao.

Vì vậy, khoảng cách giữa nước ta và nước cần xây dựng thị trường là một yếu

tố cần quan tâm vì nó tác động trực tiếp tới giá thành nhập khẩu của khách

hàng.

Ví dụ: Một container 20’ chỉ chứa được trị giá hàng thủ công mỹ nghệ

trung bình là 5.000 USD; song chi phí vận chuyển đường biển tới Brazin,

Argentina, Hoa Kỳ,… từ 3.000 đến 4.000 USD trong khi cước phí lô hàng

tương tự đi các cảng chính Châu Âu chỉ có 1.500 đến 2.000 USD. Đây là một

trong những lý do hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu vào Châu Âu

tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn nhất hiện nay. Đối với hàng thủ công mỹ

nghệ, giá xuất khẩu theo giá CIF có tỷ trọng chi phí vận tải, bao bì rất cao, có

trường hợp chiếm tới 50 đến 70%. Vì vậy, việc cải tiến mẫu mã, tăng số

98

lượng hàng hóa trong một đơn vị bao bì, giảm cước phí vận tải biển bằng

nhiều phương thức khác nhau là một điều kiện quan trọng để thiết lập cơ cấu

thị trường cho từng khu vực trên thế giới với hàng thủ công mỹ nghệ xuất

khẩu của nước ta.

Bên cạnh đó, điều kiện khí hậu, độ ẩm,… cũng tác động mạnh mẽ tới

khả năng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Ví dụ: những nước có khí hậu

khô hanh thì hàng sơn mài có giá nhập khẩu khá cao, do phải xử lý nguyên

liệu, nâng cao chất lượng,… để tránh cong vênh. Những nước có khi hậu ẩm

thì hàng mây tre lá khó tiêu thụ hơn vì cần công nghệ xử lý nguyên liệu cao

hơn bình thường.

2.4.2. Quá trình hình thành, chuyển dịch và cơ cấu thị trường xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta

Là một nước nông nghiệp, khí hậu nóng ẩm tạo cho đất nước một

nguồn nguyên liệu dồi dào cung cấp cho ngành hàng thủ công mỹ nghệ. Vì

vậy, mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là mây tre và gốm sứ được ông cha

ta sản xuất từ lâu đời và được xuất khẩu sang các nước rất sớm.

Cho đến nay thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt

Nam đã thay đổi và mở rộng nhiều so với thời kỳ bao cấp. Thời kỳ trước năm

1990 của thế kỷ XX, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu

sang Liên Xô, các nước Đông Âu và sang các nước láng giềng như Thái Lan,

Trung Quốc, thì những năm gần đây thị trường xuất khẩu mặt hàng này đã

được mở rộng (xem bảng 2.8). Hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ của làng

nghề Việt Nam đã có mặt tại hơn 130 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới

(năm 1996 là 50 nước và vùng lãnh thổ). Hiện nay, có 3 khu vực thị trường

lớn cho hàng thủ công mỹ nghệ là EU, các nước Đông Á, Đông Nam Á và

Hoa Kỳ.

99

Liên minh châu Âu EU đang là thị trường có tầm quan trọng nhất. Năm

2005, trong số 15 thị trường xuất khẩu chủ yếu hàng thủ công mỹ nghệ, thì 7

nước thuộc EU chiếm tới 42% (khoảng 241 triệu USD) và gấp 4 lần xuất khẩu

sang Nhật Bản hay Hoa Kỳ. Trước đây, thị trường Nhật Bản được xếp thứ nhất

trong số những thị trường xuất khẩu mục tiêu lớn, nhưng hiện nay dẫn đầu là

Mỹ và Pháp. Mỹ vẫn được xem là thị trường có mức tăng trưởng ấn tượng từ

thời kỳ 1999 đến nay và thị trường này cũng có nhiều tiềm năng tăng trưởng

trong tương lai. Trong gần 10 năm, từ khi 2 nước ký Hiệp định Thương mại

Việt Nam - Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam

sang Mỹ đã tăng gần 100 lần. Trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á, thì Nhật

Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông cũng là những thị trường có triển vọng

lớn. Thời gian gần đây, hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và doanh nghiệp

làng nghề Việt Nam đã có mặt tại thị trường Trung Đông và Mỹ la tinh, nhưng

số lượng chưa nhiều. Nếu có chính sách và giải pháp hợp lý về công tác xúc

tiến thương mại, thì thời gian tới hàng thủ công mỹ nghệ sẽ có chỗ đứng quan

trọng tại những thị trường đầy tiềm năng này. Ngoài những thị trường kể trên,

thị trường Đông Âu, trong đó có thị trường Nga cũng đã nhập khẩu trở lại hàng

thủ công mỹ nghệ.

100

Bảng 2.8. Thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của doanh

nghiệp làng nghề

Đơn vị tính: triệu USD

TT Nước, khu vực

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Năm 2004

Năm 2005

Năm 2006

Năm 1999

14,9

1 Pháp

30,4

30

37,4

35,4

59,5

69,3

81,9

31,7

2 Nhật

49,7

51,3

52,1

52,3

48,9

60,6

70,14

0,7

3 Mỹ

1,7

3,2

10,7

28

53,2

60

76,4

5,8

4 Đức

7,2

8,2

10,5

18,2

45,2

50,3

62,58

1

5 Bỉ

2,7

3,5

3,3

4,9

10,8

38,3

36,0

TT Nước, khu vực

Năm 1999

Năm 2004

Năm 2005

Năm 2000

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

Năm 2006

12,2

6 Hồng Kông

16,9

16,2

21,6

25,3

25,5

14,96

27

5

7 Hàn Quốc

6,3

9,2

11,7

18,7

23,5

22,3

1,2

8 Anh

2,7

3,7

5,8

8,1

23,1

21,4

22,6

0,8

9 Úc

2

3,5

5,5

8,5

24,2

25,0

27,6

3

10 Tây Ban Nha

4,3

5,2

5,5

6,6

13,2

18,8

17,9

21

15,3

62,2

60,2

11 Đài Loan

20,4

23,4

17,3

15,8

2

12 Hà Lan

1,4

2,2

3,5

6,1

16,6

18,78

16,3

3,2

13 Italia

2,3

4,5

5,7

6,3

10,3

16,12

10,1

0,7

14 Thụy Điển

1,4

1,6

2

2,6

6,4

5,9

7,56

1,2

15 Thái Lan

2,7

1,4

1,8

2,1

2,3

8,5

7,2

16 Các nước khác

Tổng giá trị

200,4

287,5

308,9

340,4

397,3

515,8

569

630,4

Nguồn: Thống kê của cục Công nghệ Thông tin - Tổng cục Hải quan, năm 1999 - 20007

2.4.3. Vai trò Nhà nước và doanh nghiệp với cơ cấu thị trường xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ

Như tác giả đã phân tích ở phần 2.4.1 cơ cấu thị trường xuất khẩu phụ

thuộc bởi bốn yếu tố cơ bản trong đó có yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá.

101

Vì vậy, để thúc đẩy thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt

Nam, trước hết cần xác định rõ khả năng cung cấp hàng hoá và nhu cầu của từng

khu vực thị trường làm cơ sở để các cấp, các ngành hỗ trợ phát triển thị trường.

+ Ở cấp Nhà nước: cần có tập trung đầu tư hơn nữa cho chương trình

xây dựng thương hiệu Quốc gia nhằm nâng cao hình ảnh đất nước, con người

Việt Nam, với tiềm năng thế mạnh sản xuất hàng hoá đa dạng, thân thiện với

môi trường bằng các hoạt động đối ngoại, xúc tiến thương mại quốc gia, cần

đầu tư hơn nữa cho hoạt động của các cơ quan thương vụ Việt Nam tại nước

ngoài, tập trung trọng điểm một số khu vực có tiềm năng lớn như Hoa Kỳ,

Nhật Bản, EU, Nga và SNG tạo đà cho các doanh nghiệp xâm nhập vào các

thị trường tiềm năng.

Một minh chứng cho vai trò của Nhà nước tác động tới những thị

trường trọng điểm. Năm 1995, Mỹ thực hiện bình thường quan hệ với Việt

Nam; Năm 2001 Hiệp định song phương được ký kết. Nhận thấy Mỹ là một

thị trường nhập khẩu dệt may và thuỷ sản rất lớn, Nhà nước đó tập trung hỗ

trợ doanh nghiệp xúc tiến xâm nhập thị trường này. Nhiều tổ chức xúc tiến

thương mại, Hiệp hội dệt may Việt Nam, Hiệp hội xuất khẩu Thủy sản Việt

Nam,… Hỗ trợ doanh nghiệp khảo sát thị trường, tham gia nhiều Hội chợ

quốc tế về hàng may mặc, thuỷ sản tại nhiều thành phố lớn trên đất nước Hoa

Kỳ. Vì vậy, hàng dệt may và thuỷ sản tăng lên với tốc độ nhanh. Từ chỗ kim

ngạch xuất khẩu không đáng kể, năm 2008, hàng may mặc nước ta đó xuất

khẩu vào Hoa Kỳ trên 5 tỷ USD, bằng gần 60% kim ngạch xuất khẩu may

mặc cả nước. Mặt hàng thủy hải sản từ trị giá rất nhỏ, đó đạt gần 800 triệu

USD trong năm 2008.

Ở đây, vai trò của Nhà nước đó có tác dụng thiết thực đẩy mạnh kim

ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam vào Hoa Kỳ trong 10 năm qua. Cần hỗ trợ

các doanh nghiệp vươn lên làm chủ mẫu mã, công nghệ mới kết hợp với thủ

công truyền thống, giúp doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm.

102

+ Đối với các doanh nghiệp và người sản xuất: cần hiểu nhu cầu, thị

hiếu của từng khu vực thị trường để chủ động xâm nhập, chào bán, cải tiến

mẫu mã, nâng tầm quy mô sản xuất để tạo ra nhiều hàng hoá có giá trị thương

mại cao. Cần chủ động tận dụng mọi cơ hội để tiếp cận thị trường.

Với doanh nghiệp, chủ động tìm kiếm thị trường là một yêu cầu quan

trọng cần phải đặt ra.

Vào cuối những năm 90, ngành hàng thủ công mỹ nghệ dần dần được

phục hồi, các cơ sở sản xuất trong nước bắt đầu có đầu ra, một số làng nghề

hoạt động trở lại. Một số doanh nghiệp đã chủ động ra nước ngoài, tham gia

trưng bày hàng hoá tại những hội chợ quốc tế lớn về hàng thủ công mỹ nghệ

như Frankfurk/M tại Cộng hoà Liên bang Đức bước đầu chỉ có 3 - 4 doanh

nghiệp tham gia, với sự thành công của một số doanh nghiệp đi đầu, ngày

càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia và tiếp tục tìm kiếm được

nhiều cơ hội kinh doanh, đến năm 2008 tại Hội chợ này đó có tới trên 50 công

ty Việt Nam có gian hàng, với nhiều mẫu mã phong phú đó gúp phần tăng

nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào thị trường

Châu Âu và các Châu lục khác.

Vì vậy, với quan điểm của tác giả từ thực tiễn cho thấy: trong điều kiện

nền kinh tế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vai trò của Nhà nước với

quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu trong đó có

thị trường thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là rất quan trọng, có tác dụng tạo ra

“cú hích” thị trường, góp phần mở đường cho các Doanh nghiệp Việt Nam

xâm nhập thị trường nhanh hơn hiệu quả hơn.

Ngược lại, doanh nghiệp cần phát huy tinh thần chủ động không chờ

đợi sự hỗ trợ của Nhà nước để vào thị trường thế giới bằng thời cơ và nguồn

lực của chính mình. Đó là điều kiện tiên quyết đưa doanh nghiệp đến thành

công.

103

2.5. Đánh giá kết quả xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh

nghệp làng nghề

2.5.1 Kết quả đạt được

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề Việt

Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Trước hết,

đó là tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, trong

vòng 10 năm trở lại đây trung bình khoảng 15 - 20%. Cơ cấu hàng thủ công

mỹ nghệ xuất khẩu cũng có sự thay đổi. Thị trường xuất khẩu không ngừng

được mở rộng. Đến nay hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại hơn

130 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một ngành kinh tế có hiệu quả cao

so với nhiều ngành nghề khác, bởi tận dụng được nguồn lực nội địa sẵn có

trong nước; đầu tư ít nhưng mang lại lợi ích nhiều mặt; là một ngành tương

đối thân thiện với môi trường. Quá trình hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ

nghệ ở nước ta, đặc biệt từ năm 2000 đến nay đã chứng minh điều đó.

- Hiệu quả kinh tế

Phát huy nguồn từ nội lực trong nước biến thành nguồn thu ngoại tệ to

lớn về cho đất nước. Theo số liệu thống kê, năm 2008, cả nước xuất khẩu

được 62,8 tỷ USD, trong đó có 820 triệu USD là hàng thủ công mỹ nghệ,

bằng 1,3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đây là nguồn ngoại tệ đáng kể,

góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ góp phần tăng doanh thu cho hoạt

động kinh tế tại các vùng nông thôn, vùng phụ cận các tỉnh thành phố lớn.

Đặc biệt là thu nhập cho người lao động.

Người lao động bình thường có thu nhập từ 400.000 đồng đến

1.200.000 đồng/người/tháng, cao hơn làm nông nghiệp thuần túy từ 4 đến 6

lần.

104

Hàng năm hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đó mang lại

nguồn thu cho các vùng nông thôn trong cả nước trên chục ngàn tỷ đồng, đây

là một nguồn thu không nhỏ, góp phần xây dựng kinh tế nông thôn Việt Nam.

Phát huy lợi thế và nội lực của nước ta, một nước đi lên từ nông nghiệp,

lao động ở nông thôn chiếm 75%; có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm, cây

cối xanh tốt, tạo ra một nguồn nguyên liệu dồi dào cho ngành thủ công mỹ

nghệ.

Từ thực tiễn và khảo sát tại các vùng nông thôn cho thấy, hầu hết

nguyên liệu cho ngành hàng thủ công mỹ nghệ là nguyên liệu tự nhiên rẻ tiền

(trừ một số loại có giá trị cao như song mây, gỗ,…) còn lại là cỏ cây, rơm rạ,

phế liệu của ngành nông nghiệp,… những loại nguyên liệu này nhiều vùng

chưa có làng nghề phải vứt bỏ hoặc mang đun thay củi,… cả nước hiện nay

còn rất nhiều tiềm năng chưa được tận thu hết.

Từ những loại nguyên liệu rẻ tiền, với sự tác động của bàn tay khéo léo

đó trở thành hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao.

Ví dụ:

+ 2kg rơm khô cộng với 2 ngày công lao động có thể làm ra một con

thú cảnh có giá trị từ 2 - 3 USD theo giá FOB Việt Nam.

+ 2 kg bèo tây khô và 2 - 3 kg tre, nứa với 2 ngày công lao động có thể

tạo ra một sản phẩm “giá báo lục bình”, trị giá xuất khẩu 3 - 5 USD theo giá

FOB Việt Nam.

Có thể nói, phát triển xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chính là tận

dụng tiềm năng, thế mạnh của đất nước, đó là tiềm năng về nguồn nguyên liệu

và tiềm năng con người. Đây là nguồn nội lực thực thụ của đất nước - phát

triển tốt ngành thủ công mỹ nghệ sẽ góp phần to lớn cho chương trình phát

triển kinh tế nông thôn do Đảng ta lãnh đạo.

105

Tổ chức sản xuất để xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là một ngành

kinh tế có tính đặc thù bởi lý do “Đầu tư ít, mang lại lợi nhuận cao”

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước có chủ trương rất rõ ràng,

nhất quán phải đầu tư phát triển làng nghề, phát triển xuất khẩu hàng thủ công

mỹ nghệ. Song thực tế đầu tư nguồn tài chính cho lĩnh vực này vẫn chưa cao.

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vẫn chủ yếu dựa vào nguồn hàng phát triển

có tính tự phát theo truyền thống và yêu cầu của thị trường, được điều tiết bởi

quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Hỗ trợ của Nhà nước, chính quyền địa

phương các cấp chủ yếu là thủ tục hành chính, xúc tiến thị trường ở mức

khiêm tốn và còn nặng tính phong trào.

Từ thực tiễn tác giả đi đến nhận định:

- Sản xuất, kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tính an

toàn rất cao; rủi ro thấp do vốn đầu tư ít, ít bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ quốc

tế, giá cả thị trường ổn định trong một thời gian dài.

- Tất cả các khâu đều có mức lợi nhuận cao; từ khâu khai thác nguyên

liệu, sơ chế và cung cấp nguyên liệu, vận chuyển bảo quản đến sản xuất và

xuất khẩu hàng hóa. Giá thành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ qua một chu

trình như vậy cơ cấu chủ yếu là công lao động, chi phí vận chuyển, bao bì, chi

phí quản lý hoạt động và lợi nhuận. Phần này chiếm từ 80 – 90% giá xuất

khẩu, còn lại chỉ có 10 – 20% là chi phí nguyên liệu. Từ đó ta thấy thu nhập

ngoại tệ từ ngành xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mang lại số ngoại tệ

“thực thu”. Đây là một yếu tố đặc thù, khác với nhiều ngành xuất khẩu của

nước ta hiện nay. Nếu làm một phép so sánh hiệu quả đầu tư giữa xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ với các ngành khác: Dệt may, cao su, than đá, cà phê,

gạo, điện tử,… Bức tranh hiệu quả của hoạt động này sẽ chứng minh đầy đủ;

theo cách tính riêng của tác giả khảo sát từ thực tiễn:

106

Năm 2008, cả nước xuất khẩu 820 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ

xấp xỉ bằng 9% kim ngạch hàng dệt may (9 tỷ USD) tương đương với trị giá

ngoại tệ thu về của 4 tỷ USD hàng may mặc, để có 4 tỷ USD hàng may mặc

phải đầu tư 400 nhà máy may với quy mô 800 lao động mỗi nhà máy, mức

vốn 10.000 tỷ Việt Nam đồng, trên diện tích 400 đến 600 ha đất; trong khi để

có 820 triệu USD xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, tương đương 15.000 tỷ

Việt Nam đồng; theo tính toán riêng của tác giả từ thực tiễn - tổng đầu tư xã

hội cho thiết bị, tài sản cố định chỉ ở mức 500 tỷ Việt Nam đồng.

Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ bằng 60% kim

ngạch xuất khẩu than (1,4 tỷ USD), bằng 58% kim ngạch xuất khẩu cao su

(1,5 tỷ USD), bằng 41% kim ngạch xuất khẩu cà phê (2 tỷ USD), bằng 27%

kim ngạch xuất khẩu gạo (2,9 tỷ USD) và bằng 30% kim ngạch xuất khẩu

điện tử ( 2,7 tỷ USD).

Song để đạt được mức kim ngạch tương đương 820 triệu USD, các

ngành hàng như: Than đá, cao su, cà phê, gạo,… phải dùng một nguồn tài

nguyên thiên nhiên, khoáng sản, đất khổng lồ, đồng thời tổng mức đầu tư xã

hội cho tài sản cố định, vốn lưu động phải gấp hàng chục lần đầu tư cho

ngành thủ công mỹ nghệ. Trong số nguồn vốn đầu tư khổng lồ cho một số

ngành như vậy, kể cả nguyên liệu phục vụ cho sản xuất cũng chiếm một tỷ

trọng rất lớn là hàng ngoại nhập. Như vậy, ngoại tệ thực thu về cho đất nước

ở một số ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn hiện nay là một bài toán đang

được quan tâm, nhằm tối ưu hóa trong lĩnh vực đầu tư cho các lĩnh vực phát

triển kinh tế xã hội.

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn có hiệu quả tích cực tác động trở

lại quá trình sản xuất, tới sự phát triển của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

và kinh tế nông thôn.

107

Trước hết xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tác động mạnh mẽ tới quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp, dịch

vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp thuần túy.

Theo yêu cầu của thị trường xuất khẩu, quy mô sản xuất phải mở rộng,

thêm chủng loại hàng mới,… Cần đầu tư thêm, cần đào tạo mới nguồn lao

động,… Tác động tới việc giảm lao động nông nghiệp; các dịch vụ khác liên

quan đến nhu cầu tổ chức sản xuất cũng thay đổi làm cho cơ cấu lao động, cơ

cấu sản phẩm nông thôn, ngành nghề thay đổi theo hướng hiệu quả hơn, văn

minh hơn.

Thực tế khảo sát tại hàng trăm làng nghề, doanh nghiệp làng nghề tác

giả đi tới đánh giá: hầu hết các khu vực nông thôn có làng nghề, tỷ trọng sản

phẩm nông nghiệp so với hàng hóa, dịch vụ trên địa bàn đó giảm, song số giá

trị tuyệt đối của sản phẩm nông nghiệp không giảm; bởi vì, tại các khu vực

này, sản xuất nông nghiệp cũng được đầu tư hiện đại, năng suất lao động cao,

sử dụng lao động ít và hiệu quả hơn.

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là yếu tố quan trọng nhất tác động

tới quy mô, trình độ tay nghề, áp dụng công nghệ,… của các làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề.

Tác động của thị trường xuất khẩu, đòi hỏi mặt hàng ngày càng đơn

giản, có giá trị nghệ thuật cao, đồng đều và đảm bảo an toàn cho người sử

dụng. Với đòi hỏi này đặt ra khó khăn và vất vả cho các làng nghề; người sản

xuất sau thời kỳ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, tâm lý đại khái,

thiếu quan tâm tới chất lượng, thiếu tính đồng nhất trong các sản phẩm đã dần

dần được thay đổi vì sự tồn tại; tác phong sản xuất công nghiệp được hình

thành từng bước theo xu thế của thị trường.

Với tác động và yêu cầu của thị trường ngành hàng thủ công mỹ nghệ,

các làng nghề phải tự phấn đấu đáp ứng như: Môi trường làm việc của công

108

nhân, vệ sinh nơi sản xuất, sử dụng chất phụ gia phụ liệu phải theo quy định.

Vì vậy, cùng với sự tăng trưởng của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, bộ

mặt nông thôn có làng nghề thay đổi nhanh chóng. Nhiều vùng quê thay đổi

từ nhà ở, đường sá, hạ tầng, đời sống vật chất và tinh thần một cách rõ rệt;

tình trạng ô nhiễm môi trường được giảm thiểu so với trước đây.

Cùng với sự phát triển của làng nghề, mật độ doanh nghiệp ra đời thể

hiện một bước tiến trong tiến trình phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn.

Doanh nghiệp làng nghề là một mô hình tổ chức cao hơn các mô hình như tổ

chức nhóm, hợp tác xã,… để đáp ứng nhu cầu tập trung quy mô, tích tụ nguồn

lực sản xuất để phát triển đầu ra. Doanh nghiệp làng nghề là nơi có đủ một số

điều kiện nắm bắt thông tin thị trường, là cầu nối quan trọng không thể thiếu

giữa thị trường xuất khẩu và người sản xuất hàng hóa. Việc ra đời của doanh

nghiệp làng nghề góp phần thúc đẩy quy mô sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu. Và

ngược lại, thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ phát triển cùng tác

động ngược trở lại một cách mạnh mẽ sự hoàn thiện, đổi mới, và vươn lên của

doanh nghiệp làng nghề. Đòi hỏi doanh nghiệp làng nghề phải am hiểu sản

xuất để hướng dẫn sản xuất, tổ chức quy mô sản xuất tạo ra nhiều chủng loại

mặt hàng và số lượng lớn. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải có điều kiện và

khả năng tiếp cận thông tin thị trường xuất khẩu nhằm chào bán, hướng dẫn

tiêu dùng, biến những sản phẩm từ sự sáng tạo của người sản xuất kinh doanh

trở thành mặt hàng được thị trường chấp nhận.

- Hiệu quả xã hội

Ngoài hiệu quả kinh tế, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ mang lại

hiệu quả xã hội sâu sắc.

Thực tiễn cứ xuất khẩu 1 triệu USD hàng thủ công mỹ nghệ phải sử

dụng 3.000 – 4.000 lao động trong năm. Vì vậy, với kim ngạch xuất khẩu 820

triệu USD năm 2008 tương đương với 2.460.000 lao động.

109

Trong điều kiện nước ta là một nước nông nghiệp, 75% dân số sống ở

nông thôn, vì vậy vấn đề giải quyết việc làm là một yêu cầu chiến lược mà

Đảng và Nhà nước đó đặt ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển

kinh tế nông thôn, tạo việc làm. Việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ, thu hút nhiều lao động là thực hiện hiệu quả chủ trương xóa đói giảm

nghèo, giảm tệ nạn xã hội, ổn định xã hội, giảm lao động nông nghiệp.

Hiện nay, hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có làng nghề.

Song, do điều kiện cụ thể của địa phương nên có sự phát triển khác nhau

Qua khảo sát thực tế tại hơn 100 làng nghề cho thấy bất kể ở đâu làng

nghề phát triển, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng ở đó tăng nhanh, đều

đặn, ở đó an sinh xã hội tốt, đời sống văn hóa tinh thần phát triển, nội bộ dân

cư đoàn kết, việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương pháp luật của Đảng và

Nhà nước thuận lợi, người dân sẵn sàng tham gia các hoạt động xã hội, góp

phần xây dựng đất nước.

Vì vậy, chương trình đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn

có hiệu quả to lớn là góp phần tạo nên sự đồng thuận xã hội, cho người dân

cuộc sống đầy đủ, có việc làm, bộ mặt nông thôn được đổi mới. Đây chính là

thể hiện tính ưu việt của chế độ, là nơi vận dụng đầy đủ chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển nông thôn đất nước.

- Phát triển mối quan hệ đối ngoại

Hàng thủ công mỹ nghệ nước ta mang đậm nét văn hóa dân tộc, hiện đó

có mặt tại 130 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Vì vậy, đẩy mạnh xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng chính là thúc đẩy mối quan hệ kinh tế

thương mại hai chiều, góp phần phát triển mối quan hệ toàn diện giữa Việt

Nam và các nước trên thế giới.

Mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đến với hệ thống tiêu thụ, đến

tay người tiêu dùng quốc tế, góp phần quan trọng trong việc quảng bá, xây

110

dựng hình ảnh đất nước, tiềm năng sản xuất hàng hóa, giá trị văn hóa và con

người Việt Nam. Vì vậy, việc thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ là

một bộ phận quan trọng cần phải quan tâm trong chương trình xây dựng

thương hiệu quốc gia gắn với xuất khẩu.

2.5.2. Hạn chế

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề Việt

Nam trong những năm qua tuy đã đạt được những kết quả rất quan trọng,

nhưng nhìn chung vẫn còn những mặt hạn chế sau đây:

- Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt

Nam chậm hơn nhiều mặt hàng khác.

Cho đến nay xét trên nhiều góc độ, Việt Nam vẫn có nhiều tiềm năng

và thế mạnh để phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Tuy nhiên, thời

gian gần đây tốc độ tăng trưởng kim ngạch mặt hàng này đã chậm lại. Nếu

như thời kỳ bao cấp, có những năm mặt hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tới

khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, thậm chí có năm chiếm trên

50%, thì dần dần tỷ lệ này đã giảm một cách đáng kể. Chẳng hạn, năm 2006,

kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt khoảng 630 triệu USD,

nhưng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước năm đó đã đạt gần 40 tỷ

USD, như vậy tỷ lệ này là khoảng 1,57%, một con số quá thấp so với tiềm

năng của mặt hàng này.

- Cơ cấu, chủng loại, mẫu mã mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ít

thay đổi.

So với thời kỳ xuất khẩu mặt hàng này sang các nước xã hội chủ nghĩa

từ những năm 70 - 80 của thế kỷ trước thì cơ cấu, chủng loại, mẫu mã mặt

hàng xuất khẩu thời gian gần đây đã tăng lên nhiều nhưng chỉ đáp ứng được

phần nào nhu cầu thị trường thế giới. Nhìn vào mẫu mã, chủng loại, hoa văn

ta thấy nhiều mặt hàng chẳng khác trước đây vài chục năm. Nhiều doanh

111

nghiệp xuất khẩu không quan tâm đến việc nghiên cứu ứng dụng các mẫu mã,

chủng loại, màu sắc mới, mà chủ yếu thực hiện theo yêu cầu của thị trường

nước ngoài.

- Chất lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đang là vấn đề cần

cảnh báo, nhiều khách hàng nước ngoài giảm lòng tin.

Trước đây khi xuất khẩu sang các nước xã hội chủ nghĩa, chất lượng

hàng hoá nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng ít được đề cập đến.

Nói chung, thuật ngữ kinh doanh xuất khẩu không thật đúng với nghĩa của nó.

Từ khi chuyển đổi thị trường, vấn đề chất lượng được đặt lên hàng đầu.

Nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp làng nghề đều nhận thức hết điều

đó. Hàng mây, tre, cói, lá mốc mọt, cong vênh; hàng gốm sứ méo, nứt; hàng

gỗ gia dụng và mỹ nghệ kích thước không chuẩn, mọt, cong, vênh,... là những

hiện tượng thường xuyên trong các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu.

Một số lượng lớn hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, EU,

nhưng khi sản xuất tại Việt Nam các doanh nghiệp chưa tính hết điều kiện khí

hậu khác nhau nhiều, nên nhiều mặt hàng khi vận chuyển đến nơi hoặc chỉ sử

dụng được một thời gian ngắn.

- Giá cả hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn cao

so với so với hàng hóa các nước trong khu vực

Yếu tố này đó làm giảm sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ

Việt Nam. Nguyên nhận chủ yếu là:

+ Sản xuất ở Việt Nam quy mô còn nhỏ, manh mún, chi phí sản xuất

cao. Tính liên kết, hợp tác trong sản xuất chưa chặt chẽ, dẫn đến lãng phí,

nâng giá thành sản phẩm.

+ Nguyên liệu của nước ta khá nhiều, nhưng không tập trung tại một

vùng miền mà rải rác ở nhiều tỉnh thành, thiếu quy hoạch của Nhà nước. Việc

112

thu mua, chế biến có tính tự phát, nhỏ lẻ dẫn đến chi phí đầu vào cao - giá

thành sản phẩm cao.

+ Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi

mới, ngành thủ công mỹ nghệ mới phát triển mạnh được khoảng 10 năm. Vì

vậy, hệ thống tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh chưa bài bản, yếu tố thời

vụ, cạnh tranh không lành mạnh đó tác động không nhỏ đến yếu tố giá,…

Với những yếu tố cấu thành giá nêu trên, dẫn đến hàng thủ công mỹ

nghệ xuất khẩu của nước ta thường cao hơn một số nước khác.

Một số ví dụ từ thực tiễn: Mây tre lá: cao hơn Trung Quốc khoảng 5 –

10% (tuy nhiên chỉ tương tự về loại nguyên liệu); Hàng gốm sứ: cao hơn Thái

Lan 5 – 10% (gốm sứ 2 nước có khác nhau về gam màu và kiểu dáng); Thảm

thêu của Việt Nam cao hơn của Trung Quốc và Bangladesh khoảng 10 – 15%

(tuy nhiên có sự khác nhau về màu sắc, nguyên liệu,…)

- Tình trạng không giữ chữ tín vẫn thường diễn ra tại các làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề nên việc xuất khẩu tại chỗ đang có xu hướng chậm lại.

Trong kinh doanh, chữ “tín” luôn có tầm quan trọng đặc biệt. Nhưng

thực tế, không ít làng nghề, doanh nghiệp vẫn xem nhẹ chữ “tín”. Điều đó thể

hiện qua phương thức “xuất khẩu tại chỗ”. Hàng năm khách du lịch nước

ngoài đến Việt Nam ngày càng tăng nhanh. Họ đến Việt Nam tham quan, du

lịch hoặc làm việc và họ luôn mong muốn mua được những sản phẩm đặc

trưng làm quà lưu niệm. Tuy nhiên, không ít khách du lịch mua phải những

món quà không đảm bảo chất lượng, do một số nhà sản xuất không thực hiện

đúng cam kết.

Tình trạng gia hạn hợp đồng, hủy hợp đồng, đơn phương không giao hàng

hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng thường xuyên xảy ra.

Hiện tượng phổ biến dẫn đến tình trạng không giữ cam kết với khách

hàng là:

113

+ Khi có hợp đồng xuất khẩu, gặp phải thời vụ nông nghiệp hoặc lễ tết

kéo dài nên lao động không tập trung cho sản xuất, doanh nghiệp không

thường xuyên đôn đốc dẫn đến không kịp thời hạn giao hàng;

+ Không thực hiện cam kết do giá nội địa tăng hoặc có khách hàng

nước ngoài đến mua hàng trả giá cao hơn khách hàng trước đó;

+ Do không đủ năng lực sản xuất, ký hợp đồng quá khản năng.

- Thị phần xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào

EU còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, đặc biệt so với Trung Quốc.

Bảng 2.9. Nhà cung cấp đồ dùng trong nhà và quà tặng sang EU

% nhập khẩu

Nhóm sản phẩm

từ các nước đang phát

Các nhà cung cấp hàng đầu ở các nước đang phát triển vào EU năm 2004

triển 54,4%

Đồ gỗ

Trung Quốc 34,9%; Inđônêxia 5,3%; Thái Lan 5,0%, Ấn Độ 3,7%; Việt Nam 1,2%; Nam Phi 0,3%; Brazin 0,2%

80,5%

Sản phẩm làm từ mây, tre, lá

Trung Quốc 54,85; Việt Nam 11,0%; Inđônêxia 7,1%; Philipin 2,7%; Mađagasca 1,1%; Maroc 0,8%; Myanma 0,6%; Ấn Độ 0,5%; Thái Lan 0,5%; Bănglađesh 0,4%

Gốm 50,7%

Trung Quốc 30,6%; Việt Nam 11,0%; Malaixia 2,1%; Thái Lan 2,1%; Mexico 0,6%; Tuynidi 0,5%; Philippin 0,5%; Ấn Độ 0,4%; Maroc 0,3%

54,4%

Sản phẩm kim loại

Trung Quốc 35,3%; Ấn Độ 10%; Thái lan 2,7%; Việt Nam 2,6%; Inđônêxia o,6%; Philippin 0,6%; Malaixia 0,3% Maroc 0,3%; Nam Phi 0,1%

Nguồn: Nghiên cứu Quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, tháng 2 năm 2004

114

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu của

Việt Nam sang EU, là thị trường quan trọng của nước ta chiếm thị phần

khiêm tốn so với nhiều nước trong khu vực, đặc biệt so với hàng thủ công mỹ

nghệ Trung Quốc. Điều đó được thể hiện rất rõ trong bảng 2.9.

2.5.3 Nguyên nhân

a. Nguyên nhân đạt được kết quả

Sở dĩ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng

nghề trong thời gian qua đạt được những kết quả như trên là do những nguyên

nhân sau đây:

- Nhờ chính sách đổi mới do Đảng ta đề xướng, nên đã nhanh chóng

chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường.

Trong những năm bao cấp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu để

trả nợ hàng hoá cho các nước xã hội chủ nghĩa. Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa

tan rã, mặt hàng này lâm vào một tình trạng giảm sút mạnh. Thời kỳ này,

không ít làng nghề sản xuất ngừng trệ, nhiều thợ thủ công không có việc làm.

Nhờ chính sách đổi mới, nhiều DN đã trở nên năng động, sáng tạo trong sản

xuất, kinh doanh. Do vậy từ những năm 90 trở đi nhiều mặt hàng thủ công mỹ

nghệ dần dần hồi sinh và phát triển. Cơ chế thị trường đã tạo cho làng nghề

phải có một hướng đi mới phù hợp với điều kiện thực tế đang diễn ra. Nhiều

chính sách, cơ chế mới đã thực sự kích thích sản xuất phát triển. Đặc biệt vấn

đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân đã từ lâu được Đảng và Nhà nước ta rất

chú trọng, quan tâm. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

nông thôn kéo theo làng nghề phát triển.

- Các doanh nghiệp đã năng động trong việc chuyển đổi, tìm kiếm thị

trường xuất khẩu mới.

Khi thị trường xã hội chủ nghĩa không còn, các doanh nghiệp muốn tồn

tại và phát triển, không còn con đường nào khác là phải tìm kiếm thị trường

115

mới. Chính vào thời điểm khó khăn đó, nhiều thị trường mới đã được mở ra,

thời kỳ đó gọi là thị trường khu vực II (thị trường các nước tư bản). Từ thị

trường thuộc các nước xã hội chủ nghĩa, đến nay hàng thủ công mỹ nghệ xuất

khẩu Việt Nam đã sang tới hơn 130 nước trên khắp các châu lục. Thị trường

rộng mở là nguyên nhân quan trọng dẫn đến hàng thủ công mỹ nghệ xuất

khẩu của ta phát triển nhanh.

- Các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ngày càng năng động,

sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh.

Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề là những chủ thể tạo ra hàng hoá

và thực hiện việc kinh doanh (tất nhiên, nhiều khi làng nghề và doanh nghiệp

làng nghề xuất khẩu hàng hoá của họ theo phương thức uỷ thác, nhưng dù sao

họ vẫn là chủ thể). Trong cơ chế thị trường, các làng nghề, đặc biệt là doanh

nghiệp làng nghề luôn có ý thức sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu

của khách, có như vậy mới xuất khẩu được. Chính vì thế, họ đã tập trung đầu

tư máy móc, công nghệ để đổi mới sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá

thành, tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cho nên, hàng hoá của họ

xuất khẩu hiệu quả hơn.

- Nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới ngày càng tăng.

Đây là nguyên nhân mang tính khách quan nhưng rất quan trọng. Bởi vì

hàng hoá sản xuất ra tuy chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hạ nhưng

người tiêu dùng không có nhu cầu thì cũng không thể xuất khẩu được. Thực

tế hiện nay nhu cầu hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới đang ngày càng tăng,

nhất là tại các nước công nghiệp phát triển. Khu vực thị trường này có mức

sống cao, khả năng thanh toán dễ dàng. Đây có thể nói là tiềm năng và cũng

là nguyên nhân để hàng thủ công mỹ nghệ của các nước sản xuất, trong đó có

Việt Nam có điều kiện xuất khẩu.

116

b. Nguyên nhân của những hạn chế

Tuy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các doanh nghiệp làng nghề

thời gian qua có những bước phát triển mới và ngày càng có vai trò, vị trí

quan trọng trong đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt ở nông thôn.

Nhưng so với tiềm năng, thế mạnh của một đất nước đông lao động, tương

đối dồi dào về một số loại nguyên liệu, nhiều người thợ có bàn tay, khối óc tài

ba, khéo léo thì những kết quả đạt được trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ thời gian qua chưa tương xứng và còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là

do:

- Cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa thực sự kích thích và khuyến

khích đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Thời gian qua, Nhà nước đã chú trọng phát triển làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên,

nhiều cơ chế, chính sách của Nhà nước vẫn chưa phát huy tác dụng hoặc chưa

được thực hiện nghiêm túc tại các địa phương, cơ sở. Ví dụ việc giải quyết đất

đai để xây dựng nhà xưởng, kho tàng cho doanh nghiệp, hộ gia đình tuy có

chủ trương của Nhà nước nhưng việc thực hiện tại các làng nghề vẫn hết sức

khó khăn. Cũng giống như vậy việc vay vốn cho hoạt động của làng nghề và

làng nghề vẫn chưa thuận lợi. Ngoài ra, nhiều cơ chế khác cũng trong tình

trạng như vậy, dẫn đến tình trạng khó khăn, ách tắc cho hoạt động xuất khẩu.

- Sức cạnh tranh hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam chưa cao.

Sức cạnh tranh hàng hoá phụ thuộc nhiều đến chất lượng và giá cả.

Nhưng cả hai yếu tố này đều không có ưu thế đối với hàng thủ công mỹ nghệ

Việt Nam. Tuy giá nhân công Việt Nam có phần rẻ hơn nhiều nước trong khu

vực nhưng giá bán không rẻ hơn, vì nhiều chi phí phát sinh bất hợp lý. Chẳng

hạn, chi phí vận chuyển cao, chi phí tiêu cực trên đường vận chuyển, ra vào

cảng, kiểm tra, kiểm soát hàng hoá, thủ tục hành chính,...

117

- Các doanh nghiệp làng nghề chưa chú trọng đến việc quảng bá, giới thiệu

sản phẩm.

Quảng bá, giới thiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp có vai trò

quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nhưng không ít doanh nghiệp làng

nghề vẫn giữ phương châm như thời bao cấp. Họ thường nghĩ rằng mình có

hàng là bán được. Vì vậy họ chưa chú trọng đến công tác thông tin, quảng

cáo, chưa dành một nguồn chi phí hợp lý cho hoạt động này. Điều này dẫn

đến khách hàng nước ngoài không biết đến hàng hoá và thương hiệu của các

doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt

Nam sản xuất theo nhu cầu với thị trường nước ngoài, nhưng phải bán qua

trung gian, nên khách hàng không biết đến xuất xứ đích thực.

- Công tác mở rộng thị trường của các doanh nghiệp còn yếu.

Hiện nay, tuy hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại hơn 130

quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới nhưng thực sự nhiều nơi chưa biết đến

hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, mà họ chỉ biết đến hàng hoá Trung Quốc

hoặc hàng hoá các nước khác nhiều hơn. Do có nhiều khó khăn về tài chính,

nên các doanh nghiệp làng nghề không có điều kiện nghiên cứu thị trường,

nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ở nước ngoài. Do vậy sản

xuất không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Hơn nữa, công

tác quảng bá, giới thiệu thương hiệu sản phẩm hàng hoá cũng chưa được các

doanh nghiệp quan tâm. Nhiều doanh nghiệp chưa thấy hết vai trò và hiệu quả

của hoạt động xúc tiến thương mại, nên đầu tư cho lĩnh vực này cả tài chính

và lao động chưa tương xứng với nhu cầu mở rộng hoạt động của doanh

nghiệp.

118

CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ, DOANH NGHIỆP LÀNG NGHỀ ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

3.1. Quan điểm, đường lối và những vấn đề đặt ra trong qúa trình hội

nhập kinh tế quốc tế của nước ta.

3.1.1. Quan điểm và đường lối của Đảng ta về hội nhập kinh tế quốc tế.

Đứng trước những thay đổi lớn lao về về kinh tế, thương mại toàn cầu,

cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sinh học diễn ra như vũ bão; sự tan rã

của hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu,... từ Đại hội VII Đảng ta đã chủ

trương “ Độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” với

phương châm “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng

quốc tế, phấn đấu vì vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Theo tinh thần đó,

năm 1992, chúng ta đã nối lại được quan hệ với IMF, WB, ADB,... Tháng 7

năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN);

năm 1996 tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3 năm

1996 tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu với tư cách là thành viên sáng lập;

tháng 11 năm 1996, Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức APEC

đây là diễn đàn hợp tác gồm 21 nền kinh tế thuộc Châu Á, Châu Mỹ, Châu

Đại dương ở 2 bên bờ Thái Bình Dương; năm 2001 Hiệp định Thương mại

Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết; tháng 12 năm 1994, chúng ta đã nộp đơn

xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO và đến ngày 7 tháng 11 năm

2006 Việt Nam chính thức trở thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại

thế giới; tháng 10 năm 2009 Hiệp định Đối tác kinh tế Nhật Bản chính thức

có hiệu lực cùng nhiều mối quan hệ mới khác được thiết lập với nhiều nước

và khu vực trên thế giới đã đưa Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế

thế giới.

119

3.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình lâu dài, phức tạp. Vì vậy, đối với

các cơ quan quản lý các cấp cần nhận thức sâu sắc những nội dung hội nhập

để kịp thời có những thay đổi trong chính sách, cơ chế phù hợp.

Cần tập trung đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần tăng

trưởng ổn định của nền kinh tế, nhất là thời kỳ hậu khủng hoảng hiện nay.

Định hướng điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất và đầu tư, nâng cao năng lực

cạnh tranh của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao năng lực

cạnh tranh của các ngành hàng hóa, dịch vụ và của các doanh nghiệp.

Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở lựa

chọn các sản phẩm có lợi thế, có thị trường và có khả năng cạnh tranh, tiến

hành điều chỉnh, bổ sung chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, nghề, vùng,

lãnh thổ, địa phương, có cơ chế, chính sách thích hợp tạo điều kiện cho doanh

nghiệp thuộc tất cả mọi thành phần kinh tế.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật chính sách quản lý kinh tế. Khi tham gia

hội nhập kinh tế quốc tế, điều không tránh khỏi là sẽ phát sinh nhiều điểm

khác nhau giữa hệ thống luật pháp hiện tại với hệ thống luật quốc tế chúng ta

tham gia .

Đối với các doanh nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi

lớn. Nó sẽ tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp mở rộng quan

hệ, tiếp cận với các phương thức quản lý tiên tiến, tiếp thu những thành tựu

khoa học, công nghệ mới của thế giới và tham gia vào cuộc cạnh tranh đang

diễn ra ngày càng gay gắt giữa các quốc gia trên thế giới.

Bên cạnh đó, thì thách thức hàng đầu chính là tính cạnh tranh ngày

càng khốc liệt trên cả thị trường trong nước và xuất khẩu do các hàng rào bảo

hộ, cả thuế quan và phi thuế quan cũng như các chính sách ưu đãi đang dần bị

loại bỏ. Vì thế, đòi hỏi đầu tiên đối với các doanh nghiệp trong hội nhập kinh

tế quốc tế chính là phải không ngừng tiến lên. Cụ thể là không ngừng đầu tư

120

tăng vốn, công nghệ mới, chất lượng lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất,

kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh.

Một thách thức nữa của hội nhập kinh tế quốc tế đối với các doanh

nghiệp và hàng hóa, dịch vụ là sẽ ngày càng phải đương đầu với những rào

cản thương mại quốc tế. Muốn tránh được tình trạng này, bên cạnh nhận

thông tin do các cơ quan Nhà nước cung cấp, các doanh nghiệp cần chủ động

cùng cơ quan chức năng về pháp lý và xúc tiến thương mại nắm bắt các thông

tin liên quan tới các nội dung, lộ trình hội nhập, các vấn đề nóng bỏng phát

sinh trong quá trình này. Các doanh nghiệp cần trang bị cho mình những kiến

thức về thị trường ngoài nước, nắm bắt tập quán, thị hiếu, nhất là luật lệ kinh

doanh của các thị trường của mình. Việc trang bị cho mình những kiến thức

luật pháp vững chắc cũng rất cần thiết để có thể chủ động cũng như có thể tự

bảo vệ mình trong hội nhập.

Doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chiến lược sản xuất, kinh doanh

trung và dài hạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 và ngay bây giờ đã

phải có chương trình sản phẩm cho từng loại thị trường, không phải chỉ sản

phẩm cho thị trường Việt Nam.

Đối với làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, ngoài những cơ hội, thuận

lợi và thách thức chung còn có những mặt riêng biệt trong quá trình hội nhập

của đất nước. Một là, mặt hàng thủ công mỹ nghệ không phải chịu sự cạnh

tranh mạnh mẽ như nhiều mặt hàng khác trên thị trường nội địa. Hiện nay,

trên thị trường nội địa chỉ có một ít hàng gốm sứ của Trung Quốc bày bán,

các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác không nhiều. Hai là, quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế chắc chắn lượng khách du lịch và khách đến quan hệ làm ăn sẽ

tăng nhanh, điều đó tạo thêm cơ hội cho các làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại chỗ và có điều kiện tiếp xúc trực tiếp

với người tiêu dùng để nắm bắt thông tin, nhu cầu, thị hiếu của họ một cách

chính xác hơn. Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn

121

cho hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam thâm nhập vào những thị trường ít hoặc

không sản xuất những mặt hàng thủ công như Châu Âu, Hoa Kỳ, Trung

Đông. Tuy nhiên, vì làng nghề, doanh nghiệp làng nghề quy mô, năng lực,

kinh nghiệm còn nhỏ bé và yếu kém, nên khi bước vào “sân chơi” mới sẽ gặp

nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và phải trả giá.

3.2. Dự báo sản xuất, tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ thế giới giai đoạn

2010 đến 2020

3.2.1. Dự báo về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ

trên thế giới và khu vực

Trong thời gian tới, sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của

các làng nghề trên thế giới và khu vực sẽ biến động theo chiều hướng sau đây:

- Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thế giới và khu vực sẽ tăng, nhưng

mức tăng không nhiều.

Nhận định trên căn cứ vào những yếu tố sau đây: thứ nhất, nguồn sản

xuất hàng thủ công mỹ nghệ trên thế giới không nhiều, phần lớn chỉ tập trung

vào một số nước châu Á như Trung Quốc, Thái lan, Inđônêxia, Philippin, Việt

Nam, còn các châu lục khác, đặc biệt là châu Âu, châu Mỹ thì sản xuất không

đáng bao nhiêu, ngay cả châu Phi thì cũng chỉ có một số ít nước sản xuất hàng

thủ công mỹ nghệ; hai là, tại các nước sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, thì

vấn đề phát triển làng nghề, tuy vẫn được quan tâm, nhưng thực tế họ vẫn chú

trọng hơn việc phát triển các ngành công nghiệp tiên tiến, hiện đại; ba là,

nguồn nguyên liệu để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng khan hiếm.

Hiện nay nhiều vùng đất đai có nguyên liệu sản xuất gốm sứ của nhiều nước

sản xuất mặt hàng này đã bị thu hẹp nhiều do phát triển các khu công nghiệp

và dân cư; những loại nguyên liệu có thể tái sản xuất được như gỗ, mây, tre,

lá cũng bị thu hẹp do sự tàn phá rừng bừa bãi. Vì vậy, dự báo tốc độ tăng sản

xuất sẽ không nhiều, khoảng 10%/ năm.

122

- Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ bằng hoặc thấp hơn mức tăng

sản xuất

Dự báo kinh tế của những nước sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ chủ

yếu trên thế giới và khu vực sẽ phát triển nhanh trong thời gian tới (tất nhiên

sau cuộc khủng hoảng hiện nay), và như vậy, cuộc sống của người dân tại

những nước này sẽ tăng lên. Do đó, nhu cầu sử dụng, thưởng thức hàng thủ

công mỹ nghệ của họ cũng tăng theo. Điều này dẫn đến khả năng tăng đột

biến hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu thời gian tới là không thể xảy ra. Vì

một số lượng lớn sẽ được tiêu dùng nội địa tại các nước sản xuất mặt hàng

này. Tác giả dự báo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ

trên thế giới chỉ bằng hoặc thấp hơn tốc độ tăng trưởng sản xuất mặt hàng này

tại các nước. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này ở từng nước khác nhau, tùy

theo những điều kiện thực tế về nguồn lao đông, nguồn nguyên liệu, cơ chế,

chính sách và giải pháp của từng nước về thúc đẩy phát triển làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

3.2.2. Dự báo về nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên thế

giới và khu vực

Cuộc sống ngày càng được nâng cao, thì nhu cầu ngày càng tăng lên.

Một số lượng lớn nguời tiêu dùng có thu nhập cao trên thế giới đang hướng

đến những sản phẩm mang tính dân tộc, tính cổ truyền, nghệ thuật dân gian.

Đó là những sản phẩm không phải sản xuất hàng loạt, tràn lan, mà là những

sản phẩm sản xuất chủ yếu bằng tay, bằng phương pháp thủ công truyền

thống và từ những chất liệu thiên nhiên. Nói cách khác, nhu cầu về hàng thủ

công mỹ nghệ truyền thống đang có xu hướng tăng nhanh.

Dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ, trên thế giới, và nhất là

tại các nước công nghiệp phát triển, đang diễn ra những biến đổi mang tính

cách mạng về thiết kế và thị hiếu tiêu dùng. Công nghệ mới, chất liệu mới

123

đang làm phong phú thêm nhiều loại hàng hoá với giá rẻ hơn, chất lượng cao

hơn. Nhưng những mặt hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất theo phương pháp cổ

truyền thì ngày càng giá trị. Và như vậy dự báo nhu cầu tiêu thụ mặt hàng thủ

công mỹ nghệ sẽ cao hơn khả năng sản xuất và xuất khẩu. Do vậy, giá cả

những mặt hàng này cũng sẽ tăng nhanh, nhất là những mặt hàng đang khan

hiếm nguồn nguyên liệu như đồ gỗ. Đây là cơ hội cho những nước sản xuất

hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, trong đó có Việt Nam.

3.3. Quan điểm, định hướng phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề của Việt Nam và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

3.3.1. Quan điểm phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề của Việt

Nam

Trong đường lối phát triển kinh tế xã hội của nước ta từ trước đến nay,

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

Đây là những đối tượng được đề cập nhiều nhất và có nhiều ưu đãi nhất. Với

hơn 75% dân số hiện nay vẫn là nông dân, nhưng tỷ lệ hộ nghèo, khó khăn

cũng cao nhất. Đây là vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với Đảng và Nhà nước

ta. Để góp phần xoá đói, giảm nghèo, vấn đề cơ bản nhất là đẩy mạnh sản

xuất, trước hết là sản xuất nông nghiệp, để đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm

cho cuộc sống hàng ngày của hơn 85 triệu dân và một phần cho xuất khẩu.

Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Bất kỳ trong giai đoạn nào, đối với nước

ta, nông nghiệp cũng cần được ưu tiên số một. Trong Báo cáo của Ban chấp

hành Trung ương Đảng khoá X về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế

- xã hội 5 năm 2006 - 2010, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của

Đảng, đã nêu rõ: “Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông

dân và nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn coi trọng

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, hướng tới

124

xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đa dạng, phát triển nhanh và

bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao” [111]

Tuy nhiên, muốn đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá đất nước, muốn

nhanh chóng xoá đói, giảm nghèo thì không thể chỉ nhìn vào sản xuất nông

nghiệp. Sản xuất nông nghiệp là nền tảng để bảo đảm an ninh lương thực, đủ

thực phẩm cho cuộc sống hàng ngày cho xã hội. Muốn giàu lên, để sánh kịp

với các nước trong khu vực và trên thế giới, thì phải thực hiện quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Muốn tăng thêm thu nhập cho người nông

dân, để họ giàu lên thì phải phát triển thêm nhiều ngành nghề phi nông nghiệp

và tăng cường xuất khẩu. Ngay từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ VI với tư tưởng chỉ đạo là “Giải phóng năng lực sản

xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước”. Đến Đại hội đảng

lần thứ VII, quan điểm phát triển làng nghề đã được Báo cáo nêu lên trực tiếp và

cụ thể: “Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và ngành nghề mới

bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất

khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp,

các loại hình dịch vụ sản xuất và phục vụ nhân dân” [115]

Gần đây, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, trong phần “Đường lối

phát triển nông thôn những năm tới”, Báo cáo nêu rõ “Đẩy mạnh phát triển

công nghiệp và dịch vụ nông thôn, nhất là những ngành nghề sử dụng nhiều

lao động, coi đây là hướng chính tạo ra việc làm mới, góp phần tăng nhanh

thu nhập cho nông dân”, và “tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển

sang làm ngành nghề ngoài nông nghiệp. Khuyến khích để các doanh nghiệp

và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; phát triển

mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển

bền vững các loại nghề” [112]

Như vậy quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đối với việc phát triển nông

thôn từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay đã rõ ràng. Đó là việc thúc đẩy

125

phát triển nông nghiệp, trên cơ sở mở mang thêm ngành nghề để thu hút lao

động và tăng thêm thu nhập cho nông dân. Đây vừa là giải pháp xoá đói, giảm

nghèo, vừa là con đường hợp lý tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông

nghiệp, nông thôn. Trong việc mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất hàng

thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là một hướng đi hợp lý .

3.3.2. Phương hướng, mục tiêu phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

của Việt Nam

Trong khi chúng ta chưa có nhiều mặt hàng chủ lực xuất khẩu với khối

lượng lớn, giá trị cao để tăng đột biến kim ngạch xuất khẩu thì việc tìm thêm

những mặt hàng có thể xuất khẩu, mang lại lợi ích cho đất nước là điều cần

thiết và hợp lý. Trong phương châm đó, phát triển hàng thủ công mỹ nghệ

đang tạo ra nhiều nguồn lợi cho nông dân. Báo cáo tại Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VIII nêu rõ “Tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng để tăng nhanh

kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su,

hàng thuỷ sản, dệt may, da giày, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện

điện tử, phần mềm máy tính” [116]

Qua Báo cáo này, chúng ta thấy Đảng ta rất chú trọng đến việc thúc đẩy

phát triển hàng thủ công mỹ nghệ, coi hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng

xuất khẩu chủ lực. Sở dĩ mặt hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào loại hàng

xuất khẩu chủ lực, được đánh giá cao là vì ngoài yếu tố tạo ra hiệu quả kinh tế

cho đất nước, mà trực tiếp là người nông dân, còn có ý nghĩa lớn trong việc

giải quyết việc làm cho người lao động.

Trong phần “Các chỉ tiêu, định hướng về phát triển kinh tế xã hội chủ

yếu” của Báo cáo tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “Cơ cấu

ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng 15 - 16%, công

nghiệp và xây dựng 43 - 44%, dịch vụ 40 - 41%; lao động nông nghiệp đến

năm 2010 chiếm dưới 50% lao động xã hội; trong 5 năm tạo việc làm cho 8

126

triệu lao động; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11% vào

năm 2010” [ 113]

Để thực hiện đúng phương hướng đó, thì việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ chính là động lực thực hiện 2 nhiệm vụ cơ bản là xoá đói,

giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu lao động.

Theo nghiên cứu của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực thủ công mỹ

nghệ, nếu xuất khẩu mặt hàng này đạt 1 triệu USD, thì sẽ giải quyết việc làm

cho 3.500 - 4.000 lao động. Theo tính toán đó, năm 2008 Việt Nam xuất khẩu

được trên 820 triệu USD về mặt hàng này, thì đã thu hút được khoảng 2,4

triệu lao động trong cả nước.

Thể chế hoá chủ trương, đường lối, phương hướng của Đảng, thời gian

qua Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách, cơ chế, biện pháp ưu tiên, khuyến

khích phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, đẩy mạnh xuất khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ.

Tại Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ, đã

cụ thể hoá và Hướng dẫn thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa

đổi), đã quy định ngành nghề truyền thống trong danh mục A, là “ngành nghề

thuộc lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư”.

Ngày 24/11/2000, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số

132/2000/QĐ- TTg về “Một số chính sách khuyến khích phát triển làng nghề

nông thôn”, đã nêu rõ:

- Nhà nước có quy hoạch và định hướng phát triển các cơ sở ngành

nghề theo cơ chế thị trường, bảo đảm phát triển bền vững, giữ gìn tốt vệ sinh

môi trường nông thôn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp

và nông thôn, đồng thời có quy hoạch phát triển ngành nghề truyền thống phải

gắn với ngành du lịch, văn hoá.

- Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện và sử dụng các

sản phẩm ngành nghề nông thôn, nhất là các sản phẩm sử dụng nguồn nguyên

127

liệu tự nhiên trong nước (mây, tre, nứa,...), nhằm hạn chế một phần tác hại

đến môi trường của các sản phẩm chất thải hoá chất, nhựa công nghiệp.

- Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện và có chính sách bảo hộ hợp

pháp các cơ sở sản xuất, kinh doanh ngành nghề nông thôn, nhất là các ngành

nghề truyền thống, nhằm đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, thu hút

nhiều lao động, góp phần giải quyết việc làm ở nông thôn, xoá đói, giảm

nghèo, giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc.

Ngày 7/7/2006, Chính phủ ra Nghị định số 06/2006/NĐ-CP về “Phát

triển ngành nghề nông thôn”. Nghị định này quy định chi tiết về phạm vi áp

dụng; đối tượng áp dụng các hoạt động ngành nghề nông thôn; công nhận

nghề, làng nghề; quản lý chất lượng sản phẩm làng nghề; quy hoạch phát triển

làng nghề nông thôn. Đặc biệt Nghị định dành hẳn một chương quy định các

chính sách khuyến khích phát triển làng nghề. Trong chương này ghi cụ thể

về: Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề; mặt bằng sản xuất; về đầu tư,

tín dụng; xúc tiến thương mại; khoa học công nghệ; đào tạo nhân lực. Có thể

nói, Quyết định 132/1999/QĐ-TTg và Nghị định 66/2006/NĐ-CP là “xương

sống” cho việc thực hiện chủ trương, định hướng và giải pháp phát triển làng

nghề Việt Nam hiện nay và thời gian tới. Ngoài những văn bản có tính định

hướng này, các bộ, ngành liên quan cũng đã có những thông tư, chỉ thị hướng

dẫn thực hiện các nghị định, quyết định trên với nội dung đề cập phạm vi cụ

thể hơn trong việc đẩy mạnh phát triển làng nghề. Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn có Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006, Bộ

Công thương có Chỉ thị 02/2007/CT-BCT ngày 14/11/2007 về việc triển khai

Quyết định 136/2007/QĐ-TTg ngày 20/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ về

việc phê duyệt Chương trình khuyến công quốc gia đến năm 2012.

Qua các Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị trên, chúng ta thấy

những định hướng, chính sách, cơ chế của Nhà nước đã đưa ra một cách toàn

128

diện, cụ thể và chi tiết về việc khuyến khích phát triển làng nghề, đẩy mạnh

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

Phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn chặt với với sản xuất nông

nghiệp. Đây là 2 lĩnh vực kinh tế có chung nguồn gốc, có mối quan hệ chặt

chẽ về lao động, đất đai, nguyên liệu, môi trường, thị trường,... Đây là mối

quan hệ tương hỗ cùng phát triển. Nếu giải quyết tốt nhu cầu và điều kiện cho

nhau thì sẽ cùng nhau phát triển.

Phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn phải đặt trong mối quan hệ

chặt chẽ với công nghiệp thành phố và thị trường, kết hợp hài hoà nhiều quy

mô, loại hình tổ chức và sở hữu (Hộ, Hợp tác xã, Doanh nghiệp tư nhân,

Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn,...), phải lựa chọn công nghệ,

thiết bị thích hợp, kết hợp thủ công truyền thống với công nghệ hiện đại, cơ

khí nhỏ trong sản xuất.

Phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn phải tính đến những đặc

điểm, điều kiện tự nhiên, điều kiện phát triển kinh tế xã hội và cơ sở hạ tầng

của địa phương. Vì vậy phải coi việc phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề nằm trong tổng thể phát triển chung của địa phương, làng, xã, khu vực.

3.3.3. Phương hướng, mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ

Như trên đã phân tích, thủ công mỹ nghệ là ngành hàng có nhiều điều

kiện thuận lợi để phát triển và ngược lại cũng cần nhanh chóng phát triển

ngành hàng này trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn ở mức thấp và số lao

động dư thừa ngày càng nhiều.

Trong Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2010 đã được Chính phủ

thông qua và Đề án xuất khẩu 2005 - 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt ngày 30/6/2006, nêu rõ mặt hàng thủ công mỹ nghệ phải có bước phát

triển nhanh hơn, phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu mặt hàng này ở mức 20 -

22%/năm và kim ngạch xuất khẩu 1,5 tỷ USD vào năm 2010, hàng năm tạo ra

129

thêm 300 ngàn việc làm ở khu vực nông thôn, phấn đấu tăng thu nhập từ hàng

thủ công mỹ nghệ cao hơn 3 - 4 lần so với sản xuất nông nghiệp. Kế hoạch

năm 2015 đạt kim ngạch xuất khẩu 2,56 tỷ USD. Dự báo đến năm 2020 kim

ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cả nước sẽ đạt hơn 6,3 tỷ USD.

Bảng 3.1. Chỉ tiêu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đến năm 2020

Đơn vị tính: triệu USD

TT Nhóm hàng 2010 2015 2020

1 Hàng gốm, sứ 600 1.000 2.480

2 Hàng mây, tre, cói, lá 400 700 1.740

3 Hàng sơn mài mỹ nghệ 150 260 647

4 Hàng thêu ren thổ cẩm 140 250 620

5 Thảm các loại 80 130 323

6 Hàng chạm bạc khắc đá 80 140 348

7 Hàng khác 50 80 200

Tổng cộng 1.500 2.570 6.358

Nguồn: Đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ (Bộ Thương mại- nay là Bộ

Công Thương, năm 2007)

Ghi chú: Trong bảng trên, không xếp gỗ và sản phẩm gỗ vào nhóm

hàng thủ công mỹ nghệ. Vì hiện nay Tổng cục Thống kê đã tách nhóm gỗ và

sản phẩm gỗ thành một nhóm riêng. Nếu đưa mặt hàng gỗ mỹ nghệ vào nhóm

hàng thủ công mỹ nghệ, thì tổng kim ngạch nhóm mặt hàng này sẽ tăng lên

nhiều. Chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2008 đã đạt

gần 2,9 tỷ USD. Mục tiêu đến năm 2020 mặt hàng gỗ đạt 7 tỷ USD.

130

3.3.4. Phương hướng, mục tiêu xuất khẩu một số mặt hàng thủ công mỹ

nghệ chủ yếu của Việt Nam

- Nhóm hàng gốm, sứ

Đây là nhóm hàng có nhiều tiềm năng phát triển và xuất khẩu, do

nguồn nguyên liệu vẫn còn khá, mặc dù không gần nơi sản xuất như trước.

Thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước của mặt hàng này vẫn còn nhu cầu

lớn, đặc biệt thị trường nước ngoài.

Mục tiêu năm 2010 kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 600 triệu USD

đến năm 2015 tăng lên 1 tỷ USD và đến năm 2020 đạt khoảng 2,48 tỷ USD.

Để đẩy nhanh xuất khẩu mặt hàng này cần chú trọng tới khâu tạo dáng,

hoa văn, màu men. Ngoài những địa danh nổi tiếng như Bát Tràng, Chu Đậu,

Phù Lãng, Biên Hoà, Lái Thiêu cần được bảo tồn, phát huy phải nhanh chóng

nghiên cứu, tìm kiếm những vùng có nguyên liệu và lao động để có thể sản

xuất hàng gốm, sứ. Nhưng cơ bản phải giữ được uy tín về chất lượng.

Cần lưu ý rằng nghề gốm tiêu thụ rất nhiều nguyên liệu, mà đất sét chỉ

có giảm đi chứ không tái tạo được. Sự khai thác nguyên liệu một cách tuỳ tiện

sẽ làm cạn kiệt nguồn đất sét, dẫn đến sự đình đốn. Do vậy tuy vẫn còn nhưng

phải có kế hoạch khai thác đất sét ở từng vùng một. Phải có ý thức tiết kiệm,

giảm tỷ lệ hư hỏng, giảm sản xuất những mặt hàng có khối lượng lớn.

Sản xuất gốm, sứ có thể sử dụng máy móc, thiết bị vào một số công

đoạn. Chẳng hạn trong việc chế biến đất và men có thể áp dụng quy mô nhỏ.

Vì vậy, trước tiên cần nghiên cứu, hoàn thiện kỹ thuật nghiền đất, chế biến

men theo tiêu chuẩn hoá với các mức độ khác nhau, phù hợp với từng loại sản

phẩm. Điều đó, vừa tiết kiệm nguyên liệu, vừa nâng cao chất lượng sản phẩm,

lại vừa góp phần giải quyết vấn đề môi trường trong làng nghề. Khâu tạo

hình, kỹ thuật trang trí, tráng men nên tăng cường hơn các kỹ thuật thủ công

điêu luyện. Cần hoàn thiện các lò nung dùng điện và than. Trang bị các dụng

cụ đo nhiệt, thành phần khí trong lò để chủ động chế độ nung.

131

Cần đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật, tay nghề cho thợ gốm, sứ theo

từng công đoạn chuyên môn. Tại các khâu sử dụng máy, thiết bị cần phải đào

tạo kỹ thuật vận hành theo các quy chuẩn nghiêm ngặt, vừa để khai thác tốt

máy móc, thiết bị mới, vừa tránh tai nạn, rủi ro; ở các khâu vẽ, tạo hình và

tráng men, cần tăng cường đào tạo về thẩm mỹ và kỹ thuật tinh xảo. Với khả

năng phong phú của nghề gốm, sứ cần coi trọng đào tạo năng lực thiết kế và

sáng tạo mẫu mã cho thợ thủ công.

Cần bảo tồn giá trị truyền thống về hình dáng truyền thống của đồ gốm

Việt Nam. Đó là những đường nét thanh thoát, có đường cong uyển chuyển,

không có những thay đổi đột ngột. Về trang trí, có thể đắp nổi như chạm gỗ,

nhưng các quai thường rất đơn giản, kỹ thuật vẽ phóng khoáng, có tính cách

điệu cao; men màu nhẹ hoặc trầm. Cần phải duy trì kỹ thuật vuốt, nặn bằng

tay trên bàn xoay, dùng các hoa văn truyền thống.

Cần cải thiện điều kiện làm việc. Nghề gốm hiện nay sản xuất với khối

lượng lớn, nên không thể duy trì mãi trong không gian chật hẹp tại các gia

đình được nữa. Bụi, khói, khí độc, nước thải, hơi nóng, phế thải,... làm cho

làng nghề ô nhiễm trầm trọng. Cần có quy hoạch lại nơi sản xuất cho phù hợp

với quy mô sản lượng cần thiết. Tập trung chính vào hoàn thiện kỹ thuật

nghiền đất và lò nung, là hai khâu gây ô nhiễm nhiều nhất, đồng thời trang bị

vận hành các máy móc, thiết bị cho quá trình sản xuất khác.

- Nhóm hàng mây, tre, cói, lá

Đối với nhóm mặt hàng này, cần phát triển theo hướng đa dạng hoá

kiểu dáng, mẫu mã theo yêu cầu khách hàng, khai thác triệt để những lợi thế

về nguyên liệu, lao động. Hiện nay và thời gian tới, hàng mây tre Việt Nam

phải cạnh tranh gay gắt với hàng của Philippin, Inđônêxia, vì các nước này

cũng có tiềm năng về loại nguyên liệu này và cũng chú trọng sản xuất hàng

mây, tre, cói, lá.

132

Mục tiêu năm 2010, mặt hàng này đạt kim ngạch 400 triệu USD, đến

năm 2015 sẽ tăng lên 700 triệu USD, năm 2020 đạt 1,74 tỷ USD.

Đối với việc phát triển hàng mây, tre, cói, lá, cần chú trọng đảm bảo

nguồn nguyên liệu. Cần có ngay biện pháp bảo vệ rừng để mây, tre, nứa, lá

thiên nhiên tái sinh trở lại, đồng thời quy hoạch trồng mây, cói, lá buông ở các

địa phương, vừa tạo nguồn nguyên liệu, vừa tạo môi trường sinh thái cho

nông thôn. Cần nghiên cứu cải tạo giống và du nhập giống mây, tre có chất

lượng cao, cải tiến kỹ thuật trồng và khai thác có kế hoạch, đảm bảo cho sự

tái sinh thuận lợi. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu, khai thác các loại thực vật sẵn

có như cỏ, rơm, bèo tây, bẹ chuối,... làm nguyên liệu cho nhóm mặt hàng này

thêm phong phú, đa dạng.

Hàng mây tre, cói, lá Việt Nam hiện nay còn hai nhược điểm chính cần

khắc phục, đó là, hay bị mốc, mọt và kết cấu không chắc chắn. Cần nghiên cứu,

hoàn thiện các giải pháp chống mốc, mọt đồng thời, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật

giáp nối các bộ phận cho chắc chắn hơn. Sản phẩm phải có độ cứng, dày vừa

phải. Nên phát triển thêm những sản phẩm nội thất và trang trí phong phú. Tăng

cường các loại máy chẻ mây, tre để vừa tránh lãng phí, vừa nâng cao chất lượng

sợi mây và nan tre. Các kỹ thuật đan thủ công Việt Nam rất phong phú và tinh

xảo, nhưng kỹ thuật hoàn thiện còn thô sơ, làm giảm giá trị sản phẩm. Cần tập

trung nhiều hơn đến việc nâng cao kỹ thuật hoàn thiện sản phẩm.

Nhìn chung trình độ tay nghề của người thợ mây, tre, cói, lá Việt Nam

khá tốt, song kiến thức thẩm mỹ chưa cao. Cần tổ chức đào tạo về thẩm mỹ,

khả năng sáng tạo mẫu mã của người thợ. Đồng thời, nâng cao nhận thức và

kiến thức của người thợ đối với việc hoàn thiện sản phẩm, tránh sự sơ sài và

những lỗi nhỏ rất phổ biến. Ngoài ra, cần hướng dẫn cho người thợ tìm tòi các

giải pháp kết hợp chất liệu mây, tre, cói, lá với gỗ, gốm, sơn mài, kim loại để

tạo nên sự phong phú, đa dạng và tăng giá trị của hàng hoá xuất khẩu.

133

Trong các nghề thủ công, thì ngành mây, tre, cói, lá hiện đang bảo tồn

được truyền thống khá tốt. Nét đặc trưng truyền thống trong loại sản phẩm

này là hình dáng đơn giản, mộc mạc, nhưng kỹ thuật đan rất tinh xảo. Vì vậy,

cần tránh những xu hướng cầu kỳ, phức tạp cho sản phẩm.

Những năm gần đây, người Việt Nam dùng đồ mây, tre, cói, lá nhiều

hơn trước, nhưng phần lớn vẫn là những sản phẩm trang trí, quà tặng. Cần

phát triển các mặt hàng sử dụng hàng ngày, đồ nội thất, các đồ phụ trợ cho

các loại đồ dùng khác. Mở thêm thị trường xuất khẩu bằng việc nâng cao chất

lượng, đa dạng hoá mẫu mã, chủng loại.

Mây, tre, cói, lá là những mặt hàng phù hợp với sản xuất gia đình và ít

ô nhiễm môi trường hơn các nhóm hàng hoá khác. Cần nghiên cứu giải pháp

chống mốc, mọt thay cho việc sấy lưu huỳnh để khỏi ảnh hưởng đến sức khoẻ

của người sản xuất và người sử dụng mặt hàng này. Đối với đồ mây, tre nội

thất, nên tổ chức sản xuất thành xưởng, tách biệt với nơi ở để tránh bụi, tiếng

ồn và rác thải.

- Nhóm hàng sơn mài, mỹ nghệ

Nước ta có nguồn nguyên liệu sơn rất nổi tiếng ở Phú Thọ và Yên Bái

với chất lượng cao, nhiều thợ sơn mài có tay nghề tinh xảo. Nhóm hàng này

chủ yếu được sản xuất bằng phương pháp thủ công. Sản phẩm sản xuất bằng

máy móc không nhiều. Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ mặt hàng này ngày càng

tăng lên, cả khách hàng trong và ngoài nước đều rất ưa chuộng mặt hàng sản

xuất theo phương pháp truyền thống.

Mục tiêu năm 2010 kim ngạch xuất mặt hàng này đạt 160 triệu USD,

đến năm 2015 tăng lên 260 triệu USD đến năm 2020 đạt 647 triệu USD.

Vì làm mặt hàng sơn mài đòi hỏi phải có tay nghề chuyên môn và chỉ

có một số ít người có thể học được kỹ thuật và trở thành người thợ có tay

nghề cao, nên việc mở rộng sản xuất mặt hàng này là điều không dễ. Để bảo

tồn và khôi phục truyền thống của nghề sơn mài thành nghề thủ công mỹ nghệ

134

của Việt Nam, công tác nghiên cứu và phát triển nghề trên nhiều mặt như lịch

sử, khoa học, nghệ thuật,... là việc làm cần thiết. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu

mặt hàng này điều quan trọng là phải làm nổi bật các đặc điểm của Việt Nam.

Muốn phát triển nghề sơn mài lâu dài, cần chú ý mở rộng nguồn

nguyên liệu. Cần có kế hoạch khôi phục lại vùng trồng cây sơn Phú Thọ, Yên

Bái, nơi có điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại sơn có chất lượng cao.

Đồng thời, cần nghiên cứu giống sơn mới có chất lượng tốt ở các vùng thích

hợp. Ngoài ra, cần quan tâm đến việc sản xuất các nguyên liệu phụ như dầu

pha sơn, bột màu, các phụ gia khác.

Hiện nay, trình độ hiểu biết về sơn mài chưa đầy đủ, chỉ làm theo thói

quen và kinh nghiệm, chưa kiểm soát được điều kiện kỹ thuật. Trước tiên, cần

nghiên cứu cải tiến kỹ thuật chế biến nhựa sơn, vừa tránh lãng phí như hiện nay,

vừa tiêu chuẩn hoá chất lượng nhựa sơn trước khi sử dụng. Bên cạnh đó, cần

khôi phục lại kỹ thuật truyền thống theo hướng nâng cao độ tinh xảo, cần đánh

giá, chọn lựa lại kỹ thuật mới phát triển thời gian qua. Nghiên cứu, hoàn thiện

việc chế tạo và sử dụng máy móc vào chế biến sơn và làm cốt cho sơn mài. Khôi

phục lại các trang trí truyền thống theo lối vẽ nhiều lớp rồi mài cho lộ dần ra.

Bên cạnh kỹ thuật sơn mài truyền thống để làm ra các sản phẩm cao cấp, cần

nghiên cứu và hoàn thiện kỹ thuật làm sơn mài phục vụ tiêu dùng bình dân.

Để nâng cao tay nghề cho người thợ, trước hết, cần làm cho người thợ

hiểu rõ về nghề sơn mài, về nét đẹp truyền thống của nó, lý giải quy trình và

hiệu quả của từng công đoạn kỹ thuật để xoá bỏ ngay lối làm ăn dối trá, tuỳ

tiện hiện nay. Nghề sơn mài cần kỹ thuật tinh xảo và sự sáng tạo thẩm mỹ.

Cần phải đầu tư đào tạo nghề một cách cơ bản cả về kỹ năng, kỹ xảo và cả

kiến thức thẩm mỹ.

Để bảo tồn giá trị truyền thống độc đáo của sơn mài Việt Nam, trước

tiên phải khôi phục lại các kỹ thuật sử dụng thuần tuý nhựa sơn tự nhiên và

hết sức thận trọng khi dùng những loại sơn mới. Cần duy trì và tiêu chuẩn hoá

135

kỹ thuật truyền thống theo cách sơn nhiều lớp mỏng (11 - 13 lớp), từ hạt to

nhất, đến hạt nhỏ dần, cho đến hạt cực mịn. Trong kỹ thuật trang trí, cần khôi

phục kỹ thuật bả nhiều lớp rồi mài cho lộ dần ra, đồng thời, nên khôi phục lại

kỹ thuật vẽ nét bạc trong tất cả các sản phẩm sơn quang dầu. Cần phát triển

song song 2 loại sản phẩm sơn mài, loại sơn mài truyền thống có giá trị nghệ

thuật cao và sơn mài mới phục vụ cuộc sống hiện đại. Người làm hàng mỹ

nghệ cần phát triển rộng hơn các sản phẩm tiêu dùng bằng sơn mài như bát,

đĩa, bàn ghế, tủ, hộp, khay,... theo hướng mỹ nghệ hoá tiêu dùng. Các loại sản

phẩm tiêu dùng sơn mài có thể sử dụng các kỹ thuật mới. Cần chú ý nhiều

hơn đến việc kết hợp chất liệu trong sản phẩm sơn mài như tre, kim loại, gốm,

gỗ, đá,... Để nâng cao chất lượng sơn mài, trước hết phải tiêu chuẩn hoá kỹ

thuật làm cốt, tạo sự ổn định và vững chắc cho sản phẩm, sau đó mới đến tiêu

chuẩn hoá kỹ thuật sơn và trang trí. Cần chế tạo những dụng cụ đo độ dầu

trong nhựa sơn, đo độ ẩm và nhiệt độ trong buồng ủ sơn, đo sức căng bề mặt

lớp sơn,... Thực hiện kiểm tra kỹ thuật từng công đoạn làm sơn mài.

Sơn mài là nghề có tính chuyên môn hoá cao, rất thích hợp với việc tổ

chức sản xuất theo xưởng tập trung. Các công đoạn sản xuất tốn nhiều diện

tích, nhiều bụi, rác, nước thải. Không nên sản xuất phân tán trong các gia đình

như hiện nay. Cần có quy hoạch giúp cho dân trong làng nghề và các doanh

nghiệp làng nghề có đủ diện tích đất để xây dựng xưởng, vừa đảm bảo không

gian đủ thoáng, sáng, rộng, vừa tránh ô nhiễm môi trường do nhựa sơn, bụi,

rác, nước thải. Riêng công đoạn trang trí có thể làm tại xưởng hoặc gia đình.

- Nhóm hàng thêu ren, thổ cẩm

Sản phẩm thêu ren được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày, rất

phổ biến ở châu Âu và Nhật Bản. Mẫu mã của châu Âu kết hợp với kỹ thuật

khéo léo của Việt Nam và chi phí nhân công thấp có thể làm tăng sức cạnh

tranh. Bên cạnh đó, các sản phẩm thêu truyền thống của dân tộc thiểu số với

136

mẫu mã độc đáo, có giá trị cao trên thị trường và có thể áp dụng vào trang trí

trang phục quần áo,...

Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vào năm 2010 đạt 140

triệu USD và đến năm 2015 tăng lên 250 triệu USD và năm 2020 đạt 620

triệu USD.

Do chất lượng nguyên liệu của Việt Nam chưa tốt, nên hầu như toàn bộ

nguyên liệu ngành thêu đều phải nhập khẩu, thợ thêu chỉ gia công. Theo kết

quả điều tra của tác giả, phần lớn vải thêu đều nhập từ Trung Quốc. Thông

thường, người sản xuất không thể trực tiếp mua nguyên liệu từ Trung Quốc

mà phải thông qua trung gian. Người sản xuất phải chịu chi phí cao. Điều này

phổ biến trong các làng nghề thêu ren. Do đó, cần nghiên cứu và tìm ra chính

sách, cơ chế, giải pháp hỗ trợ cho người sản xuất và xuất khẩu. Trước mắt,

cần duy trì các hợp đồng gia công như hiện nay để đảm bảo việc làm, đồng

thời, phải tìm cách để cải tiến chất lượng nguyên liệu trong nước để thay thế

dần nguyên liệu nhập khẩu, tạo nên sự chủ động và hiệu quả trong sản xuất và

xuất khẩu.

Đến nay quy trình thao tác kỹ thuật nghề thêu ren hầu như đã ổn định,

chỉ cần cải tiến những chi tiết nhỏ theo từng chủng loại sản phẩm. Nhưng để

phát triển nhanh hơn nữa cần chủ động sử dụng cả thêu tay và thêu máy. Các

sản phẩm thêu máy đang ngày càng phổ biến trên thế giới và so với sản phẩm

thêu tay thì thêu máy nhanh hơn và rẻ tiền hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trên thực

tế người tiêu dùng rất khó phân biệt sản phẩm làm bằng tay và bằng máy. Vì

vậy cần đa dạng hoá và nhanh chóng áp dụng các mẫu mã mới cũng như xu

hướng sản xuất mới đối với làng nghề để tăng sức cạnh tranh so với các sản

phẩm công nghiệp đang ngày càng phát triển trên thị trường thế giới.

Cần chú ý nâng cao tay nghề cho người thợ. Tay nghề của người thợ

thêu ren hầu như quyết định tới chất lượng của sản phẩm. Nguời thợ thêu phải

sáng tạo để sử dụng các kỹ thuật thêu phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. Vì

137

thế, phải đào tạo cho người thợ thêu không những thành thạo về kỹ thuật cơ

bản, mà còn biết cách vận dụng linh hoạt các kỹ thuật đó. Đồng thời, phải đào

tạo kiến thức thẩm mỹ cho họ, để họ tự tin, tự biết cách xử lý phù hợp với mỗi

họa tiết.

Kỹ thuật thêu truyền thống chủ yếu là thêu nổi, thêu kim tuyến trên các

tấm màn che, lọng ở nơi thờ cúng hoặc trên trang phục của người dân tộc. Kỹ

thuật này bây giờ ít sử dụng đến. Hầu hết các kỹ thuật thêu trên hàng hoá là

kỹ thuật mới. Giá trị truyền thống thể hiện chủ yếu ở sự tinh tế, cách bố trí

những đường chỉ xen nhau.

Sản phẩm thêu ren hiện nay rất phong phú, từ các loại khăn nhỏ, đệm,

gối, túi đến các loại màn, tấm trải lớn. Có thể các sản phẩm thêu thành 3 loại:

thêu tranh, thêu hàng kỹ (áo kimônô) và thêu hàng tiêu dùng hàng ngày. Đối

với tranh thêu và hàng thêu kỹ, chất lượng rất cao. Nhưng với những mặt

hàng tiêu dùng hàng ngày thì chất lượng còn thấp. Rõ rệt nhất là họa tiết

không đẹp, nhiều khi qua sơ sài, màu sắc tối, mũi kim dài, vừa vụng về, vừa

đơn điệu. Nhược điểm đó, chủ yếu do người thợ thiếu tính thẩm mỹ.

Phần lớn các sản phẩm thêu ren được xuất khẩu sang thị trường Nhật

Bản, thị trường này khá ổn định. Nếu mẫu mã và chất lượng được cải thiện sẽ

có cơ hội mở rộng thị trường hơn. Trong nước, hàng thêu ren cũng được tiêu

thụ nhiều hơn, chủ yếu là các loại khăn, quần áo, túi xách. Các sản phẩm thêu

ren còn có thể mở rộng ra các loại sản phẩm trang trí.

- Nhóm hàng đồ gỗ mỹ nghệ

Đồ gỗ là một mặt hàng quan trọng trong số các mặt hàng thủ công mỹ

nghệ xuất khẩu của Việt Nam. Có thể nói đồ gỗ là mặt hàng xuất khẩu có tốc

độ tăng trưởng nhanh nhất. Trong những năm gần đây sản xuất, kinh doanh

đồ gỗ có bước phát triển mạnh. Hiện đồ gỗ Việt Nam đã xuất khẩu sang 120

nước và vùng lãnh thổ. Trước đây không lâu, không ai dám nghĩ mặt hàng gỗ

Việt Nam sẽ có mặt tại các thị trường lớn. Và cách đây không lâu, các doanh

138

nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu đều phải thông qua nước khác, thậm chí

mất cả thương hiệu. Song đến nay, đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam đã tạo được uy

tín và thế đứng vững chắc, kể cả những thị trường khó tính nhất. Sản phẩm gỗ

Việt Nam đã được đưa vào tiêu thụ nhiều hệ thống siêu thị trên thế giới, đáp

ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng và kiểu dáng, mẫu mã ngày càng

phong phú hơn. Bên cạnh những sản phẩm mang tính truyền thống, chúng ta

còn có những sản phẩm mới, gồm cả đồ gỗ nội thất và đồ gỗ ngoài trời. Có

được điều này là do thời gian qua, cùng với sự đầu tư của Nhà nước, nhiều

doanh nghiệp cũng đã mở rộng sản xuất, đầu tư trang thiết bị. Trên thực tế, có

những doanh nghiệp đã phải từ chối những hợp đồng lớn do không làm kịp.

Còn kim ngạch xuất khẩu, Việt Nam trước đây chủ yếu tính cho các sản phẩm

nội thất, chủ yếu là gỗ, trong khi nhiều nước tính giá trị sản phẩm gỗ bao gồm

cả các nguyên liệu khác kết hợp với gỗ như sắt, nỉ, thuỷ tinh,... đó là nguyên

nhân vì sao giá trị xuất khẩu gỗ của ta nhiều, nhưng giá trị không cao.

Kim ngạch xuất khẩu tăng, thị trường tiêu thụ sản phẩm gỗ Việt Nam

cũng tăng. Nhưng đến nay sản phẩm gỗ Việt Nam chủ yếu xuất sang các thị

trường trọng điểm như Mỹ, EU và Nhật Bản. Cụ thể năm 2006 ta xuất sang

Mỹ đạt 774 triệu USD; vào EU đạt khoảng 500 triệu USD; vào Nhật Bản

khoảng 280 triệu USD. Nếu so với trước năm 2000 thì đây là thành tích đáng

kể, nhưng so với nhu cầu thực tế thế giới và tiềm năng của nước thì còn thấp.

Hiện sản phẩm gỗ nước ta mới chiếm khoảng 0,7% thị phần thế giới.

Một thực tế là nguồn nguyên liệu gỗ tự nhiên của nước ta thiếu.

Nguyên liệu gỗ hàng năm phải nhập tới 80 - 90%. Điều đáng lo ngại ở chỗ,

gần đây nguồn nguyên liệu nhập khẩu khó khăn, giá cả tiếp tục bị đẩy lên

nhanh, làm ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp. Mặt khác, trong khoảng 2000

các doanh nghiệp gỗ, chỉ có khoảng 10% áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất

lượng sản phẩm và số trường đào tạo nghề chế biến gỗ còn quá ít so với nhu

cầu.

139

Bên cạnh đó, mỗi năm nước ta xuất khẩu hàng triệu tấn gỗ dăm được khai

thác từ nguồn rừng trồng trong nước, nguyên liệu chính để sản xuất ván nhân

tạo, nhưng lại đang phải nhập gần 0,5 triệu mét khối ván nhân tạo. Nguyên nhân

chính của vấn đề này là do doanh nghiệp trong nước vẫn chưa đầu tư nhiều vào

công nghệ nguồn nguyên liệu và hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ, lẻ.

Tuy nhiên, các cấp, các ngành cũng đã có nhiều cố gắng và giải pháp

để sớm khắc phục những hạn chế và khó khăn này. Về phần mình, các doanh

nghiệp cũng đã chủ động trong việc đầu tư về mọi mặt nên ngành sản xuất,

kinh doanh gỗ đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.

Theo thống kê của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cả nước có 2000

doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó có 300 doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và sản

phẩm gỗ trực tiếp, sử dụng xấp xỉ 200.000 lao động trực tiếp cùng gần 1 triệu

lao động thời vụ. Năng lực chế biến gỗ của các doanh nghiệp tăng rất nhanh,

trong 5 năm, từ 2003 đến năm 2008, khả năng sản xuất tăng 5 lần.

Theo số liệu của Hội đồng quản lý rừng thế giới (FSC), mặc dù là nước

đi sau, nhưng hiện nay Việt Nam đang đứng đầu các nước trong khu vực, có

đến 151 nhà máy được cấp giấy chứng nhận quản lý rừng bền vững, so với 66

nhà máy của Malaixia, 59 nhà máy của Inđônêxia, 8 nhà máy của Thái Lan.

Điều đó cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam có ý thức rất rõ ràng trong việc

tuân thủ quy tắc phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường của

thị trường các nhà nhập khẩu. Còn theo đánh giá của Hội đồng xuất khẩu gỗ

cứng Hoa Kỳ, Việt Nam dẫn đầu các nước ASEAN về uy tín và mặt hàng, sản

lượng sản phẩm gỗ xuất khẩu.

Tại các trung tâm xuất khẩu đồ gỗ là Bình Định, thành phố Hồ Chí

Minh, Đồng Nai, Bình Dương (chiếm hơn 80% kim ngạch xuất khẩu gỗ và

sản phẩm gỗ), các nhà máy đều được trang bị các dây chuyền phun sơn hiện

đại, thay cho sơn bằng tay, bảo đảm đúng yêu cầu của Mỹ và EU. Nhiều

doanh nghiệp lớn như Khải Vy, Tiến Đạt, Trường Thành, Đại Thành,... đã bắt

140

đầu chuyển sang bán sản phẩm tự thiết kế thay vì sản xuất theo mẫu của nhà

nhập khẩu. Một số doanh nghiệp đã mở văn phòng đại diện, công ty thương

mại tại hai thị trường lớn là Mỹ và EU (chủ yếu ở Anh) để chào hàng trực tiếp

và không ít doanh nghiệp thuê chuyên gia nước ngoài trong các khâu thiết kế

và marketing. Nhìn chung, những doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu nằm

trong top 10 của nước ta cạnh tranh rất tốt với các doanh nghiệp có thâm niên

hơn về xuất khẩu đồ gỗ ở Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan,...

Theo Chiến lược phát triển Lâm nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt,

đến năm 2020, xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam đạt 7 tỷ USD. Mục tiêu này là có

cơ sở thực hiện vì tiềm năng, thế mạnh và uy tín đồ gỗ Việt Nam đã khẳng

định được trên thị trường thế giới.

3.3.5. Định hướng một số thị trường chủ yếu xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ

- Thị trường Liên minh Châu Âu EU

Lâu nay, Liên minh châu Âu EU là thị trường có nhiều tiềm năng và

đóng vai trò quan trọng đối với nhiều loại hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.

EU ngày nay có 27 thành viên hợp lại thành một nền kinh tế hùng mạnh với

số dân khoảng 493 triệu người, tổng sản phẩm quốc dân xấp xỉ 15.700 tỷ

USD ( tương đương với Mỹ).

Đây là khu vực thị trường rộng lớn, bao gồm cả Tây Âu, một phần Bắc

Âu và một phần Đông Âu. Khu vực thị trường này có sức mua cao, là thị

trường truyền thống của nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam.

Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào

EU chiếm khoảng 16- 17% tổng kim ngạch. Năm 2007, Việt Nam xuất khẩu

vào EU đạt khoảng 8,3 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2006, trong đó, các mặt

hàng dệt may, thuỷ sản, giày dép, đồ gỗ, cà phê, thủ công mỹ nghệ, điện tử,

sản phẩm nhựa,... tăng khá cao. Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu vào EU

141

năm 2006 đạt hơn 182 triệu USD, năm 2007 tăng lên 192 triệu USD. Trong

đó Pháp, Đức, Bỉ , Hà Lan, Tây Ban Nha là những nước đứng đầu trong EU

về nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam. Thị trường EU rất ưa chuộng

sản phẩm gỗ Việt Nam. Ngoài ra, nhóm hàng gốm, sứ cũng được tiêu thụ

mạnh tại khu vực thị trường này. Thông qua các hội chợ, triển lãm tại Frank

Furt (Đức), Paris (Pháp),... một số doanh nghiệp đã thành đạt trong việc nắm

bắt nhu cầu thị trường, thị hiếu của khách hàng, ký được nhiều hợp đồng xuất

khẩu có giá trị cao. Các sản phẩm gốm, sứ Bát Tràng, Chu Đậu, Biên Hoà,

Lái Thiêu, Vĩnh Long,... dần dần trở nên quen thuộc với người tiêu dùng EU.

Các mặt hàng mây, tre đan, thêu ren cũng được xuất khẩu sang thị trường này.

Với một khu vực rộng lớn, giàu có, trình độ phát triển cao, nhu cầu mặt

hàng thủ công mỹ nghệ của EU rất phong phú, đa dạng, tạo cơ hội cho hàng

thủ công mỹ nghệ, trong đó có Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi xuất

khẩu vào khu vực thị trường này. Đặc biệt tại khu vực này hiện nay có

khoảng 500 ngàn Việt kiều đang sinh sống, làm ăn, là nguồn dân cư có nhu

cầu cao về hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.

Dự báo tốc độ tăng trưởng mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

sang thị trường EU sẽ khoảng 18 - 20 % trong thời gian tới. Thực tế chứng

minh rằng, hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vẫn đang chiếm thị phần rất

nhỏ tại EU, mà Trung Quốc mới chiếm thị phần chủ yếu. Nếu các doanh

nghiệp nhanh chóng thay đổi chủng loại, mẫu mã, quảng bá sản phẩm thương

hiệu thì khả năng tăng nhanh xuất khẩu vào EU là điều có thể.

- Thị trường Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là thị trường rất rộng lớn, với dân số khoảng 310 triệu người,

trong đó có 1,5 triệu Việt kiều, GDP năm 2008 của Hoa Kỳ xấp xỉ 15.000 tỷ

USD. Thị trường Hoa Kỳ tiêu thụ nhiều loại hàng hoá khác nhau của nhiều

nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hàng năm kim ngạch nhập khẩu

của Hoa Kỳ lên đến khoảng 1.000 tỷ USD. Cơ cấu nhập khẩu chủ yếu của

142

Hoa Kỳ là nguyên, nhiên vật liệu, hàng tiêu dùng, trong đó hàng thủ công mỹ

nghệ đồ chơi trẻ em và quà tặng xấp xỉ 10 tỷ USD mỗi năm.

Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ, nhất là khi Hiệp định

Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực, quan hệ thương mại hai nước

tăng lên nhanh chóng. Nếu như năm 2000 xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa

Kỳ mới đạt khoảng 733 triệu USD thì đến năm 2008 con số đó đã tăng lên

khoảng 13 tỷ USD.

Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta sang Hoa Kỳ là dệt may, giày

dép, đồ gỗ, thuỷ sản, dầu khí, nông sản,... Mặt hàng thủ công mỹ nghệ tuy chiếm

tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu hàng xuất khẩu, nhưng giá trị tuyệt đối lại cao và tốc

độ tăng nhanh so các thị trường khác. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ đạt 1,7 triệu USD, con số đó đã tăng

lên 76,4 triệu USD năm 2006 vượt qua Nhật Bản (70,14 triệu USD) và Đức

(62,58 triệu USD), chỉ đứng đằng sau Pháp (81,8 triệu USD) và hơn 80 triệu

USD năm 2008.

Dự báo, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

vào Hoa Kỳ sẽ tăng từ 18 - 25%/năm trong thời gian đến năm 2020.

Thị trường Hoa Kỳ ngoài những thuận lợi cơ bản là sức mua, nhu cầu

lớn về hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, hàng thủ công Việt Nam đang gặp

khó khăn lớn trên thị trường này, đó là sự cạnh tranh quyết liệt của hàng thủ

công mỹ nghệ Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc là nguồn cung cấp chính

cho thị trường Hoa Kỳ nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Ví dụ, kim ngạch

mặt hàng mây, tre, lá mã HS 4602 của Trung Quốc chiếm hơn 75% tổng kim

ngạch nhập khẩu mã hàng này của Hoa Kỳ.

Cũng như đối với các nhóm mặt hàng khác, các đơn vị nhập khẩu hàng

thủ công mỹ nghệ của Hoa Kỳ thường là những đơn vị lớn, trong khi đó các

cơ sở sản xuất, kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta thường là

Hộ gia đình, Hợp tác xã, Công ty tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công

143

ty cổ phần là loại nhỏ, thiếu kinh nghiệm kinh doanh, chi phí vận chuyển lớn,

do vậy gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng các đơn hàng có số lượng lớn

và đòi hỏi giao hàng nhanh. Ngoài ra, sự hợp tác rất yếu kém vốn dĩ tồn tại

giữa các doanh nghiệp Việt Nam cũng là trở ngại đáng kể đối với các đơn vị

xuất khẩu.

Do đặc điểm của sản xuất nhỏ, cộng với việc vi phạm bản quyền tràn

lan nên các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam không đủ nguồn lực và ít

quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường, nhất lại là thị trường quá lớn như

Hoa Kỳ. Các nhà sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nên nghiên cứu

những giá trị nghệ thuật và đặc tính văn hoá của các dân tộc sống ở Hoa Kỳ,

để đưa nó vào sản phẩm bán sang thị trường này.

Để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ, cái gốc vẫn là sản xuất trong nước

nhưng cần chú trọng những xu hướng sau:

+ Đối với những mặt hàng gốm, sứ, mặc dù đang có khả năng cạnh

tranh tốt, song vẫn chú ý đến cải tiến khâu đóng gói và vận tải để giảm chi phí

từ Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng như trong nội địa Hoa Kỳ, mặt khác cũng cần

cải tiến mẫu mã, màu sắc phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Hoa Kỳ.

+ Đối với mặt hàng làm bằng mây, tre, cói, lá, hàng thêu máy và quà

tặng các doanh nghiệp Việt Nam khó khăn trong cạnh tranh trừ khi tạo ra

những mặt hàng độc đáo, tinh xảo, được tiêu thụ qua kênh phân phối riêng.

Mấy năm gần đây, Thái Lan cạnh tranh bằng giá với Trung Quốc trong ngành

hàng này bằng cách chuyển sang sản xuất những mặt hàng tinh xảo hơn. Việt

Nam khó có thể cạnh tranh với mặt hàng thêu máy, nhưng có thể cạnh tranh

được mặt hàng thêu tay chất lượng cao. Việt Nam có thể thâm nhập mặt hàng

sơn mài, nhưng phải có mẫu mã phù hợp với thị trường.

Do đặc điểm sản xuất của Việt Nam, hướng thâm nhập chủ yếu vào thị

trường này của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian tới là chuyên sản xuất

những mặt hàng tinh xảo, có mẫu mã độc đáo và với số lượng nhỏ để dễ đi

144

vào thị trường ngách của Hoa Kỳ. Tuy các thiết kế truyền thống kiểu châu Á

và Trung Quốc vẫn có thể bán được ở Hoa Kỳ, nhưng nhìn chung không phải

là xu hướng tiêu dùng mạnh hiện nay.

Thiết kế và mẫu mã tạo ra giá trị lớn cho hàng hoá. Đã có trường hợp

một chiếc lọ độc bình có kích thước vừa phải, được đan bằng chất liệu lá do

Việt Nam sản xuất theo mẫu của nước ngoài, được trưng bày trong gian hàng

tại Hội chợ High Point - Hoa Kỳ được bán với giá 250 USD. Một ví dụ khác,

thay cho việc dùng thép để làm chân bàn ăn mặt kính người ta đã dùng các cây

trúc bó lại thành một bộ chân bàn, chi phí nguyên liệu và nhân công làm bộ

chân bàn đó ở Việt Nam tối đa cũng chỉ 20 - 30 USD, nhưng bộ chân bàn đó,

với mặt kính rộng cho 8 người ăn đã được bày bán tại Hoa Kỳ với giá 500

USD.

Do không đủ nguồn lực để nghiên cứu sâu thị trường và tạo ra các sản

phẩm phù hợp, nên các doanh nghiệp Việt Nam cần thiết lập mối quan hệ

kinh doanh chiến lược với các đối tác Hoa Kỳ có khả năng thiết kế và tiêu thụ

sản phẩm và đang tìm đối tác sản xuất ở nước ngoài.

- Thị trường Nhật Bản

Nhật Bản là một thị trường rộng lớn, với 130 triệu dân, GDP đứng thứ

hai trên thế giới. Nhật Bản là thị trường gần Việt Nam, có nhu cầu lớn về

hàng thủ công mỹ nghệ và khả năng thanh toán cao. Quan hệ kinh tế, thương

mại giữa 2 nước Việt Nam- Nhật Bản đã có từ lâu đời và ngày càng được

củng cố và phát triển. Nhất là gần đây, khi 2 nước ký kết nhiều văn bản mới.

Những năm trước đây, Nhật Bản thường là thị trường tiêu thụ hàng thủ công

mỹ nghệ lớn nhất của Việt Nam, nhưng vài năm trở lại đây vị trí đó đã

nhường lại cho thị trường khác (năm 2000 Nhật Bản chiếm gần 20% tổng kim

ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, đến năm 2006 vị trí

của Nhật Bản xuống hàng thứ hai sau Pháp). Nhật Bản là thị trường rộng lớn

về đồ gỗ của Việt Nam. Thời gian qua, Việt Nam thường xuất khẩu sang Nhật

145

Bản đồ gốm, sứ, mây tre, thảm len. Tuy nhiên, thị phần của Việt Nam chiếm

một phần nhỏ chủ yếu vẫn là hàng hoá của Trung Quốc. Nhiều chuyên gia

tính rằng, hiện nay tại Nhật Bản giá hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam cao

hơn của Trung Quốc tới 15% mặt hàng cùng loại. Bên cạnh đó, cách thức

thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đa dạng. Cần phải

nghiên cứu sâu thị trường Nhật Bản. Thị hiếu của họ bắt nguồn từ truyền

thống văn hoá và điều kiện kinh tế. Nhìn chung, người Nhật Bản có trình độ

thẩm mỹ cao, tinh tế do có cơ hội tiếp xúc nhiều loại hàng hoá, dịch vụ trong

và ngoài nước.

Thị hiếu của người Nhật rất đa dạng, nhưng cũng khá độc đáo. Người

tiêu dùng Nhật rất để ý đến chất lượng hàng hoá. Sống trong môi trường có

thu nhập cao, nên người Nhật thường đòi hỏi khắt khe về chất lượng, bao

gồm cả vấn đề vệ sinh, hình thức và dịch vụ hậu mãi. Những vết xước nhỏ

trong quá trình vận chuyển cũng gây hậu quả lớn đến quá trình tiêu thụ cả lô

hàng và ảnh hưởng đến uy tín. Người Nhật sẵn sàng trả giá cao hơn cho

những sản phẩm có chất lượng tốt. Yêu cầu này còn bao gồm cả dịch vụ hậu

mãi như sửa chữa kịp thời của nhà sản xuất khi một sản phẩm bị trục trặc,

khả năng và thời gian sửa chữa sản phẩm đó. Bởi vậy cần có sự quan tâm

đúng mức đến khâu hoàn thiện, vệ sinh sản phẩm, bao gói và vận chuyển

hàng. Nguời Nhật cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày. Sau cuộc

khủng hoảng kinh tế những năm 90 của thế kỷ trước, nguời Nhật không chỉ

quan tâm đến chất lượng, mà còn rất chú ý đến sự thay đổi giá cả. Đối tượng

chủ yếu là những phụ nữ nội trợ đi mua hàng ngày, có nhiều thời gian. Tuy

vậy, tâm lý thích dùng hàng xịn, hàng đồ hiệu, cho dù với giá rất cao vẫn

không thay đổi nhiều so với trước đây. Bên cạnh đó, họ cũng quan tâm đến

vấn đề thời trang và màu sắc hàng hoá phù hợp theo từng mùa xuân, hạ, thu,

đông. Mặt khác, tính đa dạng của sản phẩm là yếu tố vô cùng quan trọng cho

việc thâm nhập thị trường. Trên thực tế, trong các siêu thị Nhật Bản có vô số

146

những kiểu dáng của cùng một loại hàng tiêu dùng. Tiêu dùng của người

Nhật mang tính mùa vụ rõ rệt. Không ít mặt hàng, người Nhật chỉ dùng mùa

này, dịp này, mà không bao giờ dùng cho mùa kia và ngược lại. Người Nhật

cũng đặc biệt ưa thích những mặt hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo và thực

sự được làm bằng phương pháp thủ công. Đây là điểm Việt Nam có thể khai

thác triệt để, tận dụng được trong xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang

Nhật Bản. Tuy nhiên, chất lượng đồng đều cũng rất quan trọng. Nhiều hàng

thủ công mỹ nghệ của Việt Nam bị trả về do sản phẩm không đồng đều.

Ngày nay, tại Nhật Bản, các giới tiêu thụ thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau

ngày càng tỏ ra ưa chuộng các loại quà tặng và sản phẩm trang trí nội thất

được sản xuất bằng thủ công với các nguyên liệu tự nhiên, phản ánh truyền

thống và đặc thù châu Á.

Dự báo kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam sang Nhật

Bản sẽ tăng khoảng từ 15-17%/ năm trong khoảng thời gian đến năm 2020.

- Thị trường Nga và Đông Âu

Đây là khu vực thị trường rộng lớn, trong một thời gian dài là thị

trường chủ yếu của hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Việt Nam trước

những năm 90 của thế kỷ XX. Sau đó, do biến động chính trị, kinh tế các

nước này gặp khó khăn, nên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

sang khu vực thị trường này bị thu hẹp. Tuy nhiên, đây là khu vực thị trường

đông dân, có nhu cầu lớn về nhiều chủng loại hàng thủ công mỹ nghệ mà ta

có thể đáp ứng được. Trong ký ức người tiêu dùng ở đây, vẫn còn ít nhiều dấu

ấn của hàng hoá Việt Nam. Vì lẽ đó, ta có thể coi đây là thị trường tiềm năng.

Hiện nay, tại khu vực thị trường này có khoảng 240 ngàn người Việt Nam

đang sinh sống, đây là cơ hội lớn cho hàng thủ công mỹ nghệ nước ta vào khu

vực này, nhất là thị trường Nga nền kinh tế đang hồi phục và phát triển nhanh.

Dự báo trong khoảng 5 - 7 năm tới, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

sang thị trường này sẽ tăng khoảng 15 - 18%/năm.

147

Từ nhận định trên, Việt Nam cần quan tâm đên thị trường này, nhưng

không thể với cách thức và bước đi như trước đây, mà khai thác thị trường

này bằng chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng phong phú và giá cả hợp lý hơn. Thị

trường Nga và Đông Âu rất ưa chuộng những mặt hàng song, mây giá trị cao

và bàn, ghế, giường, tủ, giỏ hoa, đồ gốm, sứ. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt

Nam cần thay đổi cách nghĩ, cách làm với thị trường này.

- Thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông

Đây là ba thị trường xuất khẩu quan trọng của hàng hoá Việt Nam,

Năm 2007 Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc trị giá hơn 1,25 tỷ USD, sang

Đài Loan gần 1,4 tỷ USD và sang Hồng Kông gần 590 triệu USD. Đây cũng

là những thị trường nhập khẩu khá nhiều hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam.

Năm 2006, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc trị

giá gần 24 triệu USD, sang Đài Loan hơn 62 triệu USD, sang Hồng Kông gần

15 triệu USD.

Dự báo trong thời gian tới, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt

Nam vào ba thị trường này sẽ tăng khoảng 13%/năm.

Đài Loan là thị trường nhập khẩu nhiều đồ gỗ Việt Nam (bao gồm gỗ

gia dụng và gỗ mỹ nghệ), kim ngạch nhập khẩu đồ gỗ của thị trường này có

năm lên tới 60-70 triệu USD (phần này không tính vào kim ngạch hàng thủ

công mỹ nghệ), chiếm tới 20% kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Đài

Loan. Đây còn là thị trường nhập khẩu nhiều loại hàng mây, tre, gốm, sứ,...

Hàn Quốc, Hồng Kông gần đây đã tăng cường nhập khẩu nhiều loại thủ công

mỹ nghệ của Việt Nam từ các donh nghiệp như Hapro, các doanh nghiệp làng

nghề ở Thái Bình, Bình Dương, Vĩnh Long,...

- Thị trường Trung Đông

Là thị trường có nhiều tiềm năng nhưng các doanh nghiệp chưa khai

thác được nhiều. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một số chủng loại hàng thủ

148

công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt tại đây, như hàng mây, tre đan, cói, lá

buông,...

Dự báo khu vực thị trường này sẽ nhập khẩu khá nhiều hàng thủ công

mỹ nghệ Việt Nam thời gian tới. Nhưng các doanh nghiệp cần chú ý tới

chủng loại mặt hàng vì chi phí vận chuyển cao và đặc thù tiêu dùng của người

Hồi giáo.

3.4. Giải pháp phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề và đẩy mạnh

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

3.4.1. Giải pháp phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

3.4.1.1. Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

Hầu hết làng nghề Việt Nam đã hình thành từ lâu đời, nhưng chủ yếu

phát triển một cách tự phát, dựa vào kinh nghiệm thực tiễn, điều kiện kinh tế

xã hội, nguồn nguyên liệu, truyền thống văn hoá,... Lâu nay, Nhà nước chưa

có một quy hoạch tổng thể nào cho sự phát triển của làng nghề. Mới chỉ là

những văn bản còn chung chung của một vài Bộ, ngành trên một số lĩnh vực

nhất định. Tất nhiên, Chính phủ cũng đã có những nghị định, quyết định về

phát triển làng nghề Việt Nam. Nhưng vấn đề quy hoạch tổng thể phát triển

làng nghề vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần bàn.

Khi xây dựng quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng

nghề thì quy hoạch phải được xây dựng theo từng thời kỳ, phù hợp với quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương và cả nước. Việc

xây dựng phát triển ngành nghề nông thôn thực hiện theo Nghị định số

92/2006/NĐ-CP ngày 7 tháng 9 năm 2006 của chính phủ về lập, phê duyệt và

quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội.

Nội dung chủ yếu của quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tại

Nghị định 92/2006/NĐ-CP là:

149

- Phân tích, đánh giá hiện trạng phát triển ngành nghề nông thôn trên

các vùng lãnh thổ, đi sâu phân tích cơ cấu sản phẩm chủ yếu, vùng nguyên

liệu, công nghệ, lao động, tổ chức sản xuất, cơ sở hạ tầng và môi trường;

- Phân tích, dự báo các yếu tố phát triển ngành nghề nông thôn, trong

đó, có phân tích, dự báo đầy đủ yếu tố tác động đến sự phát triển làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề, nhất là về thị trường, yêu cầu năng lực cạnh tranh

của sản phẩm và dịch vụ;

- Xác định vị trí, vai trò của ngành nghề nông thôn đối với kinh tế địa

phương và các mục tiêu phát triển ngành nghề nông thôn;

- Luận chứng các phương án phát triển ngành nghề nông thôn, các sản

phẩm chủ yếu và các điều kiện đảm bảo mục tiêu quy hoạch được thực hiện

như: nguồn nguyên liệu, lao động, công nghệ,...;

- Xây dựng chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề với nội dung:

bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, phát triển làng nghề gắn với du

lịch, phát triển làng nghề mới;

- Xác định các giải pháp về cơ chế, chính sách và đề xuất các phương

án tổ chức thực hiện;

- Thể hiện các phương án quy hoạch phát triển làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề trên những bản đồ quy hoạch;

Để thực hiện việc xây dựng quy hoạch này, Chính phủ đã giao cho Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng quy hoạch tổng thể trong toàn quốc, ủy

ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn trong

tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tại địa phương.

Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam

nhằm thiết lập một khung chính sách hiệu quả cho công tác xoá đói, giảm

nghèo và phát triển nông thôn, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn thông

qua phát triển ngành nghề thủ công và kinh doanh mặt hàng này. Quy hoạch

phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề sẽ được vận dụng trong quá

150

trình xây dựng và triển khai các chính sách, do phát triển ngành nghề thủ công

đã được định hướng là một trong những công cụ chủ yếu của chiến lược quốc

gia về xoá đói, giảm nghèo và tăng trưởng toàn diện.

Quy hoạch phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề đảm

bảo sự phát triển nông thôn thông qua phát triển ngành nghề thủ công, có sự

tham gia của nhiều tổ chức và cá nhân liên quan. Quy hoạch sẽ xác định cơ

chế hợp tác cho nhiều hoạt động khác nhau trong lĩnh vực ngành nghề thủ

công. Cần có sự phối hợp giữa cơ quan Nhà nước và khu vực tư nhân để triển

khai các hoạt động một cách hiệu quả. Các đơn vị tư nhân - chủ thể chính

trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, cần chủ động nỗ lực tăng cường hiệu quả và

sức mạnh của mình. Mặt khác, cơ quan quản lý Nhà nước cần xác định rõ vai

trò và trách nhiệm và xây dựng các chính sách nhằm đảm bảo hỗ trợ các hoạt

động của khu vực tư nhân một cách hiệu quả trong khi vẫn đảm bảo được

mục tiêu trước mắt và lâu dài trong kế hoạch phát triển của Nhà nước. Chính

sách phát triển ngành nghề thủ công ở Việt Nam được dựa trên Quyết định

132/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, Quyết định này

không phải là một quy hoạch tổng thể. Các chính sách của Nhà nước chưa tạo

điều kiện rõ ràng cho các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) xây

dựng quy hoạch của mình, chưa vạch ra được cách thức để các cấp chính

quyền đó tiếp cận với chính quyền cấp trên hoặc của Chính phủ nhằm tìm

kiếm sự hỗ trợ tài chính.

Làng nghề và doanh nghiệp làng nghề Việt Nam phải được quy hoạch

dựa trên điều kiện tự nhiên sẵn có của địa phương, phong tục tập quán, truyền

thống, bản sắc văn hoá của làng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa

phương đó. Không thể tách rời các yếu tố này. Chẳng hạn, phát triển mặt hàng

gốm, sứ ở Bát Tràng phải dựa trên điều kiện tự nhiên, những nét văn hoá đặc

trưng của vùng này và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Bát Tràng. Một

thực tế hiện nay là quy hoạch phát triển làng nghề không theo một quy chuẩn

151

nào. Tính tự phát sẵn có từ hàng trăm năm nay, mạnh ai nấy làm cho nên

nhiều làng đã phá vỡ tính truyền thống và những tiềm năng, thế mạnh sẵn có.

Thực tế những năm gần đây cho thấy ở những vùng chú trọng quy

hoạch phát triển doanh nghiệp làng nghề một cách khoa học, bài bản và thực

chất thì những làng đó có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ ổn định và nhanh hơn. Ví dụ tại làng Bát Tràng, ngoài những hộ kinh tế

gia đình, các doanh nghiệp đang được thành lập với quy mô và tốc độ một

cách tương đối hợp lý nên các hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển một

cách chủ động. Hiện tại trong làng có 65 doanh nghiệp, trong đó 64% là

doanh nghiệp sản xuất, 17% doanh nghiệp cung ứng vật tư, 19% doanh

nghiệp marketing. Theo đánh giá của tác giả, cơ cấu như vậy khá hợp lý. Và

thực tế sản xuất và xuất khẩu đồ gốm, sứ ở Bát Tràng đã có bước phát triển

tốt, mang lại nhiều giá trị kinh tế xã hội cho địa phương.

3.4.1.2. Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

Phát triển bền vững là vấn đề được đặt ra nhiều trong thời gian gần đây,

như là một tất yếu đối với nhiều quốc gia. Nó không chỉ là mục tiêu cấp thiết trước

mắt, mà còn là chiến lược lâu dài. Phát triển bền vững không chỉ ở lĩnh vực kinh

tế, mà còn đặt ra với nhiều lĩnh vực khác như văn hoá, nhân văn cộng đồng,...

Trong quá trình tồn tại, đổi mới và phát triển, làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề không thể không tính đến tính bền vững, coi đó như là một mục

tiêu bao trùm để có bước đi và hướng đi thích hợp. Vì vậy, khi xây dựng

chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề cần chú trọng

những yếu tố sâu đây:

- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

phải đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội của từng phạm vi

nhất định, tuỳ thuộc vào quy mô (xã, huyện, tỉnh và trên phạm vi toàn quốc).

Đây là yếu tố cần được khẳng định từ nhận thức đến hành động. Thực tiễn

cho thấy, không ít nơi còn lúng túng trong vấn đề này. Lý do, có thể ở nơi đó

152

còn coi nhẹ vị trí, vai trò của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, hoặc họ chỉ

nhìn phiến diện, chỉ thấy giá trị kinh tế, chưa nhìn thấy đầy đủ giá trị xã hội,

giá trị văn hoá, giá trị nhân văn, hoặc cũng có thể vì những lý do khác;

- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

phải tính đến điều kiện tự nhiên của khu vực đó. Điều kiện tự nhiên thể hiện

rất rõ nét trong từng sản phẩm của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề. Cũng

là một loại sản phẩm, chẳng hạn như mặt hàng gốm, sứ, nhưng sản xuất ở Bát

Tràng khác sản xuất tại Chu Đậu hoặc sản xuất tại Lái Thiêu (Bình Dương);

- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

không tách rời những vấn đề xã hội, đó là nhân tố con người, kỹ năng, sự

sáng tạo, sự đoàn kết, đồng thuận, thu nhập, chính sách đãi ngộ nghệ nhân,

đào tạo, bồi dưỡng, truyền nghề, nối nghiệp, các tổ chức xã hội, nghề

nghiệp,...;

- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề hiện nay càng không thể bỏ

qua vấn đề môi trường. Môi trường đang là vấn đề được cả thế giới quan tâm.

Sự ô nhiễm môi trường trong các làng nghề đang là một tiếng chuông cảnh

tỉnh những người khi xây dựng chiến lược phát triển làng nghề. Trước đây, do

làng nghề phát triển một cách tự phát, không có quy hoạch, không có chiến

lược lâu dài, cộng với khó khăn về tài chính, nên làng nghề bị ảnh hưởng

nặng nề vì môi trường ô nhiễm;

- Xây dựng chiến lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã gia nhập

WTO thì phải tính toán với sự tổng hòa của văn hoá truyền thống của địa

phương. Ngoài nền văn hoá chung của cả nước, mỗi làng, mỗi địa phương lại

có phong tục, tập quán, nét văn hoá riêng biệt, điều đó thường được thể hiện

qua các sản phẩm của làng nghề. Bỏ qua yếu tố này, các sản phẩm thủ công

mỹ nghệ dễ bị mất đi vẻ đẹp truyền thống vốn có của địa phương. Đã đến lúc

phải nâng cao nhận thức mới về những giá trị vô hình, phi vật thể, như cách

153

nói phổ biến hiện nay trong từng sản phẩm, trong từng nét đặc trưng của mỗi

làng nghề, doanh nghiệp làng nghề. Nó là sự kết tinh của văn hoá bản địa có

chiều dài lịch sử hàng trăm năm;

- Trong thời đại ngày nay, nhất là khi Việt Nam đã mở rộng cửa với thị

trường thế giới, thì sự giao lưu giữa các dân tộc, giữa các nước càng phát triển

mạnh mẽ. Các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề là nơi thu hút đông đảo du

khách nước ngoài đến thăm quan và mua sắm. Vì vậy, xây dựng chiến lược

phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề phải tính đến phát triển các loại

hình du lịch;

Đó là những yếu tố chủ yếu không thể bỏ qua, ngoài ra việc xây dựng chiến

lược phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề cũng cần tính đến những yếu

tố khác như tác động của khoa học, công nghệ đối với quá trình sản xuất, kinh

doanh, sự biến động của thị trường thế giới về nhu cầu, thị hiếu, phương thức mua

sắm, điều kiện tự nhiên, khí hậu những vùng có quan hệ nhập khẩu hàng hoá của

ta và phong tục tập quán, luật lệ của những nước nhập khẩu,...

3.4.1.3. Xây dựng mô hình và cơ chế quản lý phát triển làng nghề và doanh

nghiệp làng nghề

Khi xem xét, xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế quản lý phát triển làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề, cần xác định những tiêu chí mà làng nghề đáp

ứng và những điều khoản mà doanh nghiệp đảm bảo trong Luật Doanh nghiệp.

Thứ nhất, đối với làng nghề: i/ có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn

tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn; ii/ Hoạt động sản xuất kinh doanh

ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; iii/ chấp hành

tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai, đối với doanh nghiệp làng nghề thì dễ dàng xác định hơn vì đã

có những điều khoản ghi rõ trong Luật Doanh nghiệp.

Cơ chế quản lý làng nghề và doanh nghiệp làng nghề cần phải tuân thủ

các quy luật của kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và của Luật

154

Doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/ 2005. Việc xây dựng,

điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế quản lý làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Việc này đòi hỏi phải

nắm bắt đúng quy luật kinh tế, như quy luật cung cầu, quy luật giá trị cũng

như các tác động của quy luật đó trong điều kiện nhất định. Sự tác động của

các quy luật kinh tế tại các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề mang tính trực

tiếp. Đó là làng nghề, doanh nghiệp làng nghề giúp cho kinh tế địa phương trở

nên năng động, kích thích, tạo ra những động lực mới cho địa phương. Tuy

nhiên, cũng cần tính đến những mặt trái của những tác động đó như chạy theo

lợi nhuận, làm hàng kém phẩm chất, không chú trọng đến việc bảo vệ môi

trường, bỏ qua việc xử lý nước thải,... Chính vì vậy chính quyền địa phương

cần phải can thiệp để điều chỉnh, nhằm hướng tới đạt được những tác động

tích cực.

Mô hình quản lý làng nghề, doanh nghiệp làng nghề phải phát huy tối

đa các yêu cầu xuất khẩu hàng hoá. Các cấp chính quyền từ Trung ương đến

địa phương, các doanh nghiệp sản xuất hộ gia đình, hợp tác xã, người dân tại

địa phương đều tham gia việc quản lý này. Để các bên tham gia vào mô hình

phát huy chủ động vai trò của mình, cũng như có sự kết hợp chặt chẽ hiệu quả

với các chủ thể khác, cơ chế quản lý làng nghề, doanh nghiệp làng nghề có sự

phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp của các bên tham gia

nhằm phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.

Ngoài ra vai trò các hiệp hội làng nghề cũng cần được phát huy trong quá

trình xây dụng và phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.

Thực tế hiện nay, việc quản lý làng nghề có nhiều bất cập. Nhiều hộ

kinh tế gia đình, tổ sản xuất và ngay cả doanh nghiệp khi có vấn đề cần giải

quyết, ý kiến tham khảo, đề đạt, chứng nhận,... không biết tìm đến cơ quan

nào, bộ phận nào. Các hộ kinh tế gia đình và tổ hợp sản xuất tại các làng nghề

chủ yếu do chính quyền địa phương thôn xã quản lý hành chính, nhưng cũng

155

chỉ có vai trò khi xin cấp đất đai, mở rộng nhà xưởng, còn những vấn đề khác

như quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý lao động và nhiều mặt khác thì

không rõ vai trò của ai. Các hợp tác xã làng nghề, về danh nghĩa, thực hiện

theo Luật Hợp tác xã, nhưng Luật này hiện nay tại nông thôn còn yếu, do vậy

cơ chế quản lý cũng hầu như tập trung vào chính quyền địa phương. Doanh

nghiệp làng nghề chủ yếu hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đã được Quốc

hội thông qua ngày 29/11/2000, nhưng cũng chịu sự quản lý khá chặt chẽ của

chính quyền địa phương thôn xã. Muốn có cơ chế quản lý tốt tại các làng

nghề và doanh nghiệp làng nghề, cần có sự tách bạch quản lý hành chính và

quản lý theo luật định. Các cấp chính quyền không can thiệp sâu vào hoạt

động của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề. Có chăng chỉ tạo điều kiện

thuận lợi những khâu như cấp đất đai, mở rộng nhà xưởng, phát triển nguồn

nguyên liệu, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,... Cần tăng thêm vai trò của các

cơ quan hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu như xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu

Luật

Luật

tư, khuyến nông vào hoạt động làng nghề và doanh nghiệp làng nghề.

Chính

Hợp tác Doanh quyền

xã nghiệp

Doanh nghiệp làng nghề

Hiệp hội làng nghề và sản phẩm làng ghề Trung ương

Hộ gia đình và tổ hợp sản xuất Hợp tác xã làng nghề

Hình 3.1. Mô hình quản lý làng nghề và doanh nghiệp Làng nghề

156

3.4.1.4. Tạo chuỗi liên kết chặt chẽ từ khâu sản xuất đến xuất khẩu

Để có một sản phẩm thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu được sản phẩm đó

là một quá trình, bao gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn có mối liên hệ mật

thiết với nhau cùng hỗ trợ nhau phát triển. Quá trình đó bao gồm từ khâu

nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, markting, xuất khẩu.

Tuy nhiên, trong từng khâu đó lại có những công đoạn khác nhau, hỗ

trợ nhau thực hiện những chức năng riêng trong công đoạn đó.

Hình 3.2. Liên kết chuỗi giá trị hoạt động của làng nghề và doanh nghiệp

làng nghề

Sản Xuất Thiết R&D Cung ứng Mar- keting xuất khẩu kế

- R&D: là giai đoạn đầu tiên cho sản xuất và xuất khẩu. Trước hết phải

nghiên cứu khả năng sản xuất mặt hàng, bao gồm đất đai, nguyên liệu, điện,

nước, lao động, giao thông vận tải,... phục cho việc sản xuất mặt hàng đó.

Trong quá trình nghiên cứu, cũng cần xem xét khả năng tiêu thụ của mặt hàng

này tại thị trường nước ngoài, nếu chỉ chú trọng nghiên cứu sản xuất mà

không nghiên cứu nhu cầu thị trường thì sản xuất không thể tồn tại.

- Thiết kế mẫu mã: Đối với hàng thủ công mỹ nghệ, mẫu mã, chủng

loại, hình dáng, màu sắc có ý nghĩa quan trọng. Chiếm phần quan trọng tạo

nên giá trị sản phẩm. Trong những năm qua, khâu thiết kế mẫu mã, chủng

loại, hình dáng hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề và doanh nghiệp làng

nghề còn yếu. Phần lớn mẫu mã dựa vào ý tưởng của người đặt hàng hoặc sản

xuất lại từ nhiều năm trước. Vì vậy giá trị hàng hoá không cao. Muốn sản xuất

và xuất khẩu có hiệu quả, làng nghề và doanh nghiệp làng nghề phải tăng

157

thêm chi phí cho việc thiết kế mẫu mã và đào tạo lớp người thợ có chuyên

môn cao về lĩnh vực này.

- Cung ứng nguyên liệu: đối với hàng xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của

các làng nghề là rất quan trọng. Nếu làm tốt mắt xích này sẽ đảm bảo cho sản

xuất ổn định, mặt khác nếu khâu cung ứng đảm bảo đúng quy trình, đúng kỹ

thuật sẽ đảm bảo nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, giữ vững thị trường

tạo công ăn việc làm và thu nhập cho các làng nghề.

- Sản xuất: là quá trình tổng hợp bao gồm nhiều công đoạn và yếu tố

kết hợp với nhau, từ việc cung ứng nguyên liệu, xử lý nguyên liệu, vận hành

(chế tác) đến việc hoàn thiện sản phẩm,... với việc thực hiện lao động bằng

thủ công kết hợp với nhiều loại công nghệ, máy móc khác nhau. Có thể nói,

sản xuất là quá trình quyết định tạo nên giá trị sản phẩm. Vì vậy, mọi chi phí,

trí tuệ, thời gian chiếm phần nhiều vào quá trình sản xuất.

- Markting: Thuật ngữ marketing xuất hiện chủ yếu từ khi có nền kinh

tế thị trường nhưng thực tế trong các nước phát triển đã có từ lâu. Hiện nay,

công tác marketing cũng có vai trò quan trọng khi việc tiêu thụ đã mang tính

quyết định đối với sản xuất hàng hoá.

- Xuất khẩu: là một khâu cuối cùng của cả quá trình hoạt động của làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề, là khâu thực hiện thu về giá trị của sản phẩm

hàng hoá. Tất nhiên, xuất khẩu cũng bao gồm nhiều công đoạn và yếu tố khác

nhau, liên kết với nhau, như chào hàng, ký kết hợp đồng, giao hàng, thanh

toán,... mỗi công đoạn này lại bao gồm nhiều công việc phức tạp. Hiện nay,

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chủ yếu do các doanh nghiệp làng nghề

thực hiện. Nhưng phần lớn những doanh nghiệp này lại thiếu kinh nghiệm,

thiếu vốn, thiếu cán bộ có năng lực, cho nên nhiều vấn đề nảy sinh trong xuất

khẩu, làm giảm hiệu quả thực tế của hàng hoá. Đây là một trong những điểm

yếu hiện nay cần khắc phục trong hoạt động doanh nghiệp làng nghề.

158

Như vậy, hoạt động của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề bao gồm

các khâu, các công đoạn như trên. Quá trình này liên kết thành chuỗi, từ khâu

đầu tiên là nghiên cứu đến khâu cuối cùng là xuất khẩu. Muốn xuất khẩu có

hiệu quả, thì phải phát triển công tác marketing, sản xuất phải đạt chất lượng,

năng suất. Muốn sản xuất tốt, thì quá trình nghiên cứu, thiết kế mẫu mã,

chủng loại phải đáp ứng nhu cầu thị trường, phải có nguồn nguyên liệu đảm

bảo. Tức là các khâu, các công đoạn này liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ

nhau phát triển. Trong chuỗi liên kết này, nếu khâu nào yếu hoặc chậm trễ thì

sẽ kéo theo cả quá trình hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy hoạt động trong các

khâu, các công đoạn của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề phải có mối liên

hệ thật sự chặt chẽ và gắn bó với nhau, không thể coi thường yếu tố nào.

3.4.1.5. Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của các Hiệp hội làng nghề và

Hiệp hội ngành hàng

Hiện nay khi mà Việt Nam đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế

giới, các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề không thể đóng cửa tự mình

sản xuất, kinh doanh mà không có mối quan hệ với các đối tượng khác. Mở

rộng các mối quan hệ, tạo nên mối liên kết, các làng nghề và doanh nghiệp

làng nghề bổ sung cho nhau những điều kiện cần thiết mà tự mình còn hạn

chế.

Sự liên kết giữa các làng nghề cùng sản xuất hoặc kinh doanh những

mặt hàng hoặc chủng loại mặt hàng giống nhau, có thể trên cùng một địa bàn

hoặc tại những địa phương khác nhau. Chẳng hạn, làng gốm Bát Tràng liên

kết với gốm Chu Đậu hoặc gốm Biên Hoà, gốm Lái Thiêu. Mối liên kết này

sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

trong sản xuất, kinh doanh. Các mối liên kết đó chỉ đạt được hiệu quả cao khi

có sự tham gia của các hiệp hội làng nghề, như Hiệp hội làng nghề Việt Nam

và hiệp hội ngành nghề như Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng

như các hiệp hội có liên quan như Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ,....

159

Khi các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề tạo mối quan hệ chặt chẽ

với nhau thông qua các hiệp hội, thì những kiến nghị với Nhà nước về hỗ trợ

tài chính và các yêu cầu khác chắc chắn sẽ được đáp ứng dễ dàng hơn, vì đây

mang tiếng nói chung của cả một cộng đồng. Các làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề có thể hợp lực với nhau thông qua các tổ chức nghề nghiệp như

Hiệp hội gốm, sứ, Hiệp hội mây tre đan, Hiệp hội sơn mài, Hiệp hội Gỗ và

Lâm sản Việt Nam,...

Tạo nên mối liên kết làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thông qua các

hiệp hội, cũng sẽ dễ dàng thu nhận thông tin từ các cơ quan chức năng của các

bộ, ngành, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài do việc cung cấp

thông tin tập trung hơn, chủ động hơn và cũng rẻ hơn khi phải cung cấp cho

từng làng nghề, từng doanh nghiệp. Việc thu nhận thông tin đa dạng, nhiều

chiều sẽ giúp làng nghề, doanh nghiệp làng nghề xác định được mục tiêu và

hình thức sản xuất, kinh doanh hợp lý hơn, hiệu quả hơn.

Việc liên kết các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề cũng sẽ tạo điều

kiện cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề cho người thợ được tập

trung hơn, hiệu quả hơn. Hiện tại việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề

cho người thợ rất khó khăn, do tự các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề

không đủ chi phí, năng lực và kiến thức. Sự liên kết sẽ bù đắp được những

nhược điểm này. Chẳng hạn, các làng nghề gốm liên kết với nhau để mở các

lớp học về sản xuất gốm. Như vậy sẽ dễ dàng và ít tốn kém hơn nhiều.

Việc liên kết sẽ tạo ra thế mạnh cho các làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề trong xuất khẩu sản phẩm của mình, tránh được sự ép cấp, ép giá của

khách hàng nhất là tư thương và chi phí giao dịch, vận tải, các thủ tục cần

thiết cũng được giảm nhiều.

Các hiệp hội không những là đầu mối tạo nên các mối liên kết, mà còn

là nơi tập hợp những kiến nghị, đề xuất của làng nghề và doanh nghiệp làng

nghề với các cơ quan hữu quan, cũng là nơi có thể hỗ trợ đắc lực trong việc

160

kết nối và thông tin về bạn hàng, tìm kiếm thị trường, nghiệp vụ chuyên môn

và giới thiệu sản phẩm,... Vì vậy các hiệp hội cần nhanh chóng kiện toàn cơ

cấu tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động để giúp làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

3.4.2. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam

3.4.2.1. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển sản xuất và xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Để phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, Nhà nước

đã ban hành một số cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng

mắc trong sản xuất, kinh doanh mặt hàng này. Các cơ chế, chính sách này

được thể hiện qua các Nghị định, Quyết định, Thông tư, Chỉ thị của Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ban, ngành hữu quan. Đến nay đã có

nhưng văn bản chủ yếu, đó là:

- Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 về một số chính

sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn. Cơ quan chịu trách

nhiệm thực hiện là Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Nội dung chủ yếu

là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và áp dụng những chính sách nhằm

đảm bảo quyền lợi cho các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn, đặc biệt là

các nghề truyền thống, nhằm thoả mãn yêu cầu thị trường tiêu thụ trong nước

và xuất khẩu, thu hút lao động và góp phần tạo ra công ăn việc làm ở nông

thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo.

- Quyết định 138/2000/QĐ-TTg ngày 29/11/2000 về phối hợp giữa các

dự án trong vùng, dự án hỗ trợ các dân tộc thiểu số gặp khó khăn. Trong

quyết định này có chương trình hỗ trợ cho các xã miền núi, vùng sâu, vùng

xa, bao gồm việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trung tâm cụm xã.

- Quyết định 132/2001/QĐ-TTg ngày 7/9/2001 về cơ chế tài chính,

thực hiện các chương trình phát triển đường nông thôn và cơ sở hạ tầng phục

161

vụ nông, ngư nghiệp và làng nghề. Cơ quan chịu trách nhiệm là Bộ Tài chính.

Nội dung chủ yếu là khuyến khích các địa phương huy động mọi nguồn lực

và tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển đường và cơ sở

hạ tầng nông thôn phục vụ nông, ngư nghiệp và làng nghề. Quyết định cũng

nêu rõ, các tỉnh có thể vay tín dụng ưu đãi 0% cho những dự án này.

Ngoài những văn bản pháp quy của chính phủ, nhiều bộ, ban, ngành,

như: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hoá

- Thể thao - Du lịch, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội,... cũng có những

thông tư, chỉ thị, quyết định thể chế hoá những văn bản của Chính phủ. Nội

dung tập trung vào những lĩnh vực sau:

- Đất đai cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh;

- Phát triển nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất;

- Các chính sách về đầu tư tín dụng;

- Chính sách, biện pháp về thông tin thị trường;

- Chính sách, biện pháp về hỗ trợ xúc tiến thương mại;

- Các quy định về khoa học, công nghệ, môi trường;

- Chính sách về chất lượng sản phẩm, hỗ trợ tiêu thụ;

- Chính sách về lao động và đào tạo;

- Chính sách khuyến công;

- Chính sách đối với các nghệ nhân;

- Các quy định về trách nhiệm của các Bộ, ngành, ban, địa phương

trong lĩnh vực này.

Nhìn chung, các văn bản của Chính phủ và các Bộ, ngành đã thể hiện ý

chí của Nhà nước trong việc mở rộng, phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề, đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, thể hiện một cách khá

toàn diện trên các lĩnh vực liên quan. Tuy nhiên, trong thực tế, đến nay việc

sản xuất, kinh doanh của làng nghề, doanh nghiệp làng nghề vẫn gặp nhiều

khó khăn, vướng mắc do chính sách, cơ chế chậm được đổi mới, không theo

162

kịp sự biến đổi của thực tế cuộc sống và việc thực thi những chính sách này

còn còn nhiều bất cập.

Điển hình trong những khó khăn nhất của làng nghề và doanh nghiệp

làng nghề hiện nay là vốn. Tuy Nhà nước đã có những văn bản hỗ trợ làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề về vốn, nhưng đi vay vốn ngân hàng không dễ

chút nào. Cụ thể, các điều kiện để được vay vốn rất khắt khe, từ việc đánh giá

tài sản thế chấp, cầm cố thường quá thấp so với thực tế, việc xem xét phương

án kinh doanh và khả năng hoàn trả rất chặt chẽ, chưa kể một số tiêu cực của

nhân viên ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp làng nghề phải tìm đến tín dụng

“đen” với mức lãi suất cao hơn để đảo nợ. Với kinh tế hộ gia đình là chủ yếu

trong các làng nghề hoặc các doanh nghiệp mới thành lập thì tài sản thế chấp

là vấn đề khó thực hiện.

Ngoài khó khăn về vốn, mặt bằng cho sản xuất cũng đang là vấn đề nan

giải. Các văn bản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, khi thể chế hoá

chính sách của Nhà nước đều nêu rõ sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có đủ

mặt bằng để sản xuất. Tuy nhiên thực tế lại không hoàn toàn như vậy. Theo

khảo sát của Hiệp hội làng nghề Việt Nam “đến nay, phần lớn diện tích đất đai

ở vị trí thuận lợi đã được giao cho các dự án, lập các khu, cụm công nghiệp.

Giá đất đã cao, chi phí san lấp, xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn, cho nên các

doanh nghiệp làng nghề, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể thuê

lại mặt bằng ở các khu, cụm công nghiệp được. Song việc cấp đất cho doanh

nghiệp ở những vùng lẫn với dân cư cũng không được, nhất là doanh nghiệp

làng nghề, vì gây ra ô nhiễm môi trường. Vì vậy, để giải quyết mặt bằng cho

các doanh nghiệp hiện nay, cần có chính sách trợ giúp về sử dụng kết cấu hạ

tầng và giải quyết môi trường cho doanh nghiệp để có thể thuê mặt bằng ở các

khu, cụm công nghiệp đã có; hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng các khu, cụm

công nghiệp cho làng nghề, chịu chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng, trợ giúp và

giảm nhẹ giá thuê để doanh nghiệp có thể thuê đất với giá thấp nhất” [109]

163

Trong chính sách về phát triển, khai thác và sử dụng nguyên liệu cho

sản xuất làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, cần chú trọng hơn nữa khâu

trồng rừng và nghiên cứu sử dụng những loại gỗ tiềm năng. Đồng thời phải cụ

thể hoá chính sách tiết kiệm những loại nguyên liệu không tái sinh được.

Xúc tiến thương mại là một yếu tố quan trọng để tăng cường xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ. Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh

nghiệp nói chung và doanh nghiệp làng nghề nói riêng về hoạt động xúc tiến

thương mại. Trong đó chủ yếu là hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khi tham

gia triển lãm, hội chợ; hỗ trợ thông tin thị trường hàng hoá thế giới. Nhưng

thực tế nhiều doanh nghiệp làng nghề chưa được hưởng hoặc chỉ được hưởng

rất ít chế độ, chính sách này. Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ

đạo đổi mới chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại theo hình thức hỗ trợ trực

tiếp cho những hợp đồng đã được ký kết và thực hiện.

Mặc dù chính sách đào tạo nhân lực cho làng nghề và doanh nghiệp

làng nghề cũng đã được đề ra trong nhiều văn bản. Nhưng hiện nay công tác

đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho làng nghề đang có nhiều bất cập.

Trong doanh nghiệp, nhân lực được coi là tài sản quý giá nhất, là nguồn

vốn đặc biệt, yếu tố đảm bảo cho năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền

vững của doanh nghiệp. Chúng ta đã có hàng trăm trường dạy nghề, nhưng

học sinh, sinh viên ra trường không đủ kỹ năng cần thiết để tham gia thị

trường lao động, các nhà đầu tư phải đào tạo lại, đào tạo bổ sung rất tốn kém.

Hơn nữa, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp của lao động nước

ta còn thiếu, thể lực cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Sự thiếu hụt lao động đang

dẫn đến tình trạng di chuyển lao động qua đào tạo giữa các vùng, các ngành,

nghề, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường lao động.

Đến nay, chưa thấy có một trường đại học, cao đẳng nào đào tạo riêng

cho làng nghề, mà chủ yếu những nguời thợ trong làng nghề được đào tạo tại

164

chỗ, kèm cặp là chính. Vì vậy, sắp tới, Nhà nước cần có chính sách cụ thể về

vấn đề này.

Ngoài việc hoàn thiện, đổi mới những cơ chế, chính sách chủ yếu trên,

Nhà nước cũng cần nhanh chóng đưa ra những chính sách hợp lý hơn về đầu

tư, đổi mới công nghệ, chính sách nghệ nhân, chính sách khuyến công,... để

tạo điều kiện cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề phát triển bền vững.

Một trong những khâu cần cải tiến là quy trình cung ứng từ khâu đầu

vào đến xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề cần nhanh, tập

trung và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tác giả xin đề xuất mô hình về hoạt

Hộ gia đình

Đại lý 1

Đại lý 2

Doanh nghiệp xuất khẩu

Thị trường thế giới

Doanh nghiệp sản xuất chế biến

Doanh nghiệp thu mua nguyên liệu

Đại lý 3

Hợp tác xã

động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của các làng nghề,

Hình 3.3. Mô hình hoạt động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề

Giải thích mô hình hoạt động như sau: Trước hết phải hình thành các

đại lý, doanh nghiệp khai thác và cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ

công mỹ nghệ theo từng chủng loại khác nhau, như đại lý cung ứng đất sét để

sản xuất hàng gốm sứ, đại lý cung ứng mây, nứa, tre để sản xuất hàng mây

tre,... Các đại lý này cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chuyên thu

165

mua nguyên liệu. Sau đó nguồn nguyên liệu này được chế biến (có thể là sơ

chế hoặc tinh chế) rồi được cung ứng cho các hộ gia đình, doanh nghiệp sản

xuất, tổ hợp hoặc hợp tác xã trong làng nghề. Các hộ gia, hợp tác xã thực hiện

quá trình sản xuất, tạo ra các thành phẩm, chuyển giao cho các doanh nghiệp

kinh doanh để các doanh nghiệp này thực hiện công đoạn cuối cùng là xuất

khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới.

3.4.2.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, vốn, thị trường cho làng nghề và

doanh nghiệp làng nghề

Một trong những vấn đề nan giải nhất của làng nghề Việt Nam hiện nay

là cơ sở hạ tầng quá yếu kém. Sự yếu kém đó được thể hiện rõ nét nhất trong

hệ thống giao thông vận tải, năng lượng và kho tàng, cơ sở sản xuất. Vận tải

đường sông tăng trưởng kém nhất, mặc dù nước ta có hệ thống sông, ngòi dày

đặc. Vận tải biển cũng còn xa mới đáp ứng được yêu cầu. Hơn 70% tổng

lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phải thuê tàu biển nước ngoài. Trong

mùa mưa bão, khi có thiên tai, lũ lụt, tình trạng giao thông bị chia cắt, đi lại

khó khăn. Doanh nghiệp thêm thời gian và tốn kém thêm về chi phí và thời

gian.

Cơ sở hạ tầng của ngay các hộ gia đình và doanh nghiệp làng nghề

cũng còn thấp kém. Cho đến nay, các hộ gia đình vẫn chủ yếu sản xuất ngay

tại khuôn viên gia đình sinh sống, kho tàng, xưởng sản xuất rất chật hẹp, máy

móc thiếu, lạc hậu. Tình trạng này tại các doanh nghiệp cũng chẳng hơn gì

mấy. Các doanh nghiệp vẫn thiếu mặt bằng sản xuất, thiếu điện, thiếu nước,

thiếu hệ thống xử lý chất thải. Do vậy, tình trạng ô nhiễm môi trường trong

các làng nghề hầu như không được cải thiện, ngược lại có nguy cơ xấu hơn.

Vì vậy việc tập trung đầu tư xây dựng, cải tạo kết cấu hạ tầng đang là một yêu

cầu rất lớn và cấp bách.

Ngoài đầu tư cải tạo hạ tầng cơ sở tại các làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề, đầu tư vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng đang là đòi hỏi lớn

166

của các hộ sản xuất, tổ hợp, hợp tác xã và đặc biệt là các doanh nghiệp làng

nghề. Hạn chế về vốn đã cản trở việc mở rộng sản xuất và tiếp cận thị trường,

đồng thời cũng là nguyên nhân tạo nên sự yếu kém trong cạnh tranh hàng hoá

với các nước xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, vì các nước đó ứng dụng công

nghệ máy móc phổ biến, nên năng suất lao động tăng nhanh. Nhà nước cần có

chế độ ưu đãi đặc biệt về điều kiện vay vốn và lãi suất cho các hộ sản xuất, tổ

hợp, hợp tác xã và doanh nghiệp làng nghề, vì đây là doanh nghiệp thuộc loại

nhỏ và vừa.

3.4.2.3. Đổi mới và ứng dụng công nghệ hiện đại kết hợp với công nghệ truyền

thống

Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão và

đang ngày càng tác động trực tiếp, to lớn đến mọi mặt sản xuất, đời sống xã

hội. Trong hoạt động của các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề cũng đang

ứng dụng ngày càng nhiều thành tựu khoa học, công nghệ, và hàm lượng khoa

học, công nghệ trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cũng đang ngày càng

tăng lên.

Phương pháp và kỹ thuật sản xuất truyền thống vừa tạo ra sản phẩm

độc đáo, tinh xảo, mang bản sắc của từng làng nghề, vừa mang tính thương

mại. Tuy nhiên, trong thời đại khoa học, công nghệ hiện nay các làng nghề,

doanh nghiệp làng nghề phải biết tận dụng những thành tựu đó và phải tăng

cường áp dụng máy móc, thiết bị vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Tuỳ

thuộc vào những loại ngành nghề, sản phẩm mà có sự kết hợp giữa thủ công

và máy móc ở những mức độ khác nhau. Đối với một số sản phẩm, chỉ cần

lựa chọn những khâu, những công đoạn thích hợp giữ lại những nét điển hình

của phong cách truyền thống, còn các khâu, các công đoạn khác như cắt, gọt,

tiện, nung,... thì có thể sử dụng và tăng cường máy móc, công nghệ mới để có

thể sản xuất hàng loạt. Xu hướng là sử dụng các máy móc, công nghệ tiên

tiến, hiện đại, nhưng trong những điều kiện nhất định vẫn có thể tận dụng loại

167

bình thường để vừa tiết kiệm chi phí, vừa sử dụng được nguồn lao động đang

dư thừa. Đối với một số ngành nghề truyền thống lâu đời đang có xu hướng bị

mai một, cần nghiên cứu kỹ, nếu sản phẩm thực sự tiêu biểu cho nền văn hoá

truyền thống cần phải lưu giữ, thì nhà nước cần có chính sách kịp thời để

phục hồi lại làng nghề đó, nhằm phục vụ công tác bảo tồn, bảo tàng, thu hút

khách du lịch.

3.4.2.4. Phát triển nguồn nhân lực cho làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

Trong bất kỳ lĩnh vực nào, con người bao giờ cũng là trung tâm, là yếu

tố quyết định sự thành, bại của mọi công việc. Thực tế hiện nay tuy ngành

nghề thủ công đang phải đối mặt với vô vàn khó khăn, song các làng nghề

không gặp khó khăn lớn về lực lượng lao động phổ thông tham gia sản xuất.

Điều đó cho thấy, nghề thủ công đóng vai trò rất lớn trong việc tạo việc làm ở

địa phương. Những năm gần đây, lớp lao động trẻ ở nông thôn đã có trình độ

văn hoá cao hơn lớp thợ tuổi trung niên trở lên, vì hầu hết lớp thợ này đã tốt

nghiệp phổ thông trung học. Chỉ có một số lao động ở vùng sâu, vùng xa,

vùng dân tộc thiểu số thì còn trình độ thấp.

Tuy nhiên, lao động có trình độ kỹ thuật sản xuất cao đang thiếu trầm

trọng. Có thể thấy rằng, mặc dù có lực lượng dồi dào, nhưng các làng nghề lại

thiếu thợ có tay nghề cao. Đây chính là yếu tố dẫn đến sự cạnh tranh yếu của

các sản phẩm thủ công mỹ nghệ trên thị trường.

Chính phủ cũng đã quan tâm đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực và

hỗ trợ các hoạt động đào tạo. Tuy nhiên, ưu tiên vẫn chỉ tập trung vào ngành

công nghiệp. Do đó, cần phải có một cơ chế phát triển nguồn nhân lực hiệu

quả cho ngành thủ công mỹ nghệ.

Vì vậy, cần nghiên cứu sâu hơn về công tác đào tạo đội ngũ kỹ thuật và

nhân sự tham gia vào phát triển sản phẩm để khắc phục những nhược điểm

như hạn chế kỹ thuật và thiếu thông tin của các làng nghề.

168

Bồi dưỡng đội ngũ thợ kỹ thuật: Mặc dù Bộ Lao động thương binh &

xã hội quản lý các trường dạy nghề, nhưng trên thực tế nhiều ban, ngành hoặc

ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Lao động thương binh & xã hội cũng tham gia

quản lý. Hầu như chưa có khoá đào tạo ngành nghề thủ công mỹ nghệ cụ thể

nào. Kết quả điều tra khảo sát của các địa phương cho thấy, chỉ có rất ít

trường có các khoá đào tạo về nghề thủ công mỹ nghệ. Kỹ thuật sản xuất chủ

yếu được dạy trong các khoá học chính thức ở các trường dạy nghề. Tuy

nhiên, qua quá trình thực hiện dự án thí điểm có thể thấy rằng các khoá học về

kỹ thuật thường không phù hợp với học viên học nghề thủ công. Nguyên nhân

là do các hoạt động đào tạo tay nghề kỹ thuật cho thợ thủ công tại các trường

dạy nghề và một số tổ chức khác bố trí không thuận lợi về mặt thời gian vì cả

người hướng dẫn và học viên đều bận tham gia các hoạt động nông nghiệp,

nên khó có thể dành thời gian tham dự các khoá học ở thị xã hoặc trung tâm

thành phố. Hơn nữa, kỹ thuật tay nghề thủ công thường có tính huyết thống

hay được thừa hưởng từ gia đình, do đó thường được truyền cho người nhà. Hầu

hết chương trình giảng dạy về tăng cường kỹ năng giao dịch trên thị trường, đàm

phán và năng lực quản lý cho cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa đều

do các tổ chức cung cấp dịch vụ phát triển kinh doanh cung cấp. Tại các làng

nghề, thợ thủ công thường đồng thời là người quản lý các cơ sở sản xuất nhỏ, do

đó, nâng cao kiến thức cho thợ thủ công không nên chỉ giới hạn ở kỹ thuật sản

xuất, mà còn phải nâng cao cả kiến thức quản lý kinh doanh theo các chương

trình bồi dưỡng nguồn nhân lực cho làng nghề.

Triển khai chiến lược tiếp cận thị trường là việc làm cần thiết để phát

triển sản phẩm. Cũng cần phải có năng lực điều phối để kết nối việc phát triển

sản phẩm với thị trường, đồng thời bồi dưỡng những cá nhân có năng lực thực

hiện. Hiện nay các cơ sở đào tạo thiết kế tập trung bồi dưỡng các nhà thiết kế,

phát huy hết khả năng sáng tạo của họ. Tuy nhiên, do lĩnh vực thiết kế mở

rộng, nên công tác thiết kế mẫu mã có vai trò ngày càng tăng. Do đó, các tổ

169

chức giáo dục và đào tạo cần điều chỉnh giáo trình giảng dạy sao cho phù hợp

với xu thế mới này.

Để có thể vừa phát triển sản phẩm và nguồn nhân lực, ngành nghề thủ

công mỹ nghệ cần có sự liên kết chặt chẽ với cơ sở đào tạo để đào tạo thế hệ

trẻ về phát triển sản phẩm. Việc xây dựng một hệ thống và cơ chế hỗ trợ như

hỗ trợ về tài chính của Chính phủ cho hoạt động phát triển nguồn nhân lực

cũng rất quan trọng. Cán bộ chịu trách nhiệm về phát triển sản phẩm và phát

triển thị trường cần phải có những điều kiện dưới đây:

- Có khả năng nắm bắt và phân tích được đối tượng khách hàng mục

tiêu;

- Có thể đánh giá sản phẩm và xu hướng thị trường;

- Có khả năng nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng, lối sống và xu hướng

tiêu dùng;

- Có khả năng điều chỉnh cạnh tranh về giá như thiết lập quy cách kỹ

thuật về mẫu mã, xác định những biện pháp khắc phục điều kiện sản xuất,

điều phối,...;

- Nắm được những kênh phân phối phù hợp và có thể phát triển các

phương pháp và chiến lược thúc đẩy bạn hàng.

Mới đây, Chính phủ đã dự kiến xây dựng đề án phát triển nguồn nhân

lực cho nông thôn đến năm 2020 với tổng chi phí lên đến 32 ngàn tỷ đồng.

Đây là sự thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc phát triển ngành nghề

nông thôn, đẩy nhanh quá trình công nghệp hoá nông nghiệp, nông thôn.

3.4.2.5. Gắn phát triển làng nghề với phát triển văn hoá du lịch ®Ó t¨ng c­êng

ho¹t ®éng xuÊt khÈu t¹i chç

Ngày nay, du lịch đang trở thành một ngành dịch vụ rất quan trọng đối

với nhiều quốc gia trên thế giới. Có những nước doanh thu từ du lịch chiếm tỷ

trọng chủ yếu trong GDP.

170

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa thị trường, Việt Nam đang

ngày càng thu hút được nhiều khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Trong

đó du lịch làng nghề thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.

Làng nghề được xác định là một tiềm năng, lợi thế to lớn và rất quan

trọng trong chiến lược phát triển bền vững của du lịch Việt Nam. Làng nghề

du lịch là sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển làng nghề và du lịch. Điều đó

hoàn toàn phù hợp với phương châm du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế

hoạch, bảo đảm hài hoà giữa lợi ích kinh tế xã hội và môi trường; phát triển

có trọng tâm theo hướng du lịch văn hoá lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn

tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch. Phát triển du lịch làng nghề sẽ thu

hút được sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong

phát triển du lịch, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để

quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Làng nghề du lịch là một

trong những tài nguyên du lịch nhân văn cần khai thác. Đó là truyền thống

văn hoá, yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích cách mạng, lịch sử, khảo

cổ, kiến trúc, các công trình sáng tạo của con người và di sản văn hoá vật thể,

phi vật thể.

Làng nghề truyền thống phát triển trên cơ sở kết hợp với du lịch văn

hoá, đảm bảo những gắn kết đặc điểm, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển

kinh tế xã hội và cơ sở hạ tầng của từng địa phương với việc bảo tồn văn hoá.

Phát triển du lịch làng nghề là cách thức quảng bá thương hiệu sản

phẩm làng nghề, là một hình thức xuất khẩu tại chỗ có hiệu quả.

Tuy nhiên, hiện nay làng nghề truyền thống trở thành làng nghề du lịch

còn quá ít. Cơ sở hạ tầng yếu kém, môi trường ô nhiễm nặng là trở ngại lớn

cho việc xây dựng làng nghề trở thành làng nghề du lịch. Hơn nữa, bản thân

các làng nghề truyền thống không có điều kiện tiếp cận và khảo sát nhu cầu

của khách, trong khi đó, cấp chính quyền cơ sở, các hội, hiệp hội và doanh

171

nghiệp chưa khẳng định rõ vai trò của mình và trách nhiệm, định hướng cho

việc bảo tồn, phát huy và khai thác của loại hình du lịch này.

Để làm tốt hơn nữa việc kết hợp phát triển làng nghề với phát triển du

lịch làng nghề, cần xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển làng nghề trên

toàn quốc. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các làng nghề, cần mở rộng

công tác tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế trong làng nghề để du lịch

làng nghề phát triển đúng hướng và hiệu quả, cần có chính sách đồng bộ về

phát triển cơ sở hạ tầng trong làng nghề, nhanh chóng phân cấp quản lý từ

Trung ương đến địa phương và cuối cùng là cần phát triển đồng bộ các thị

trường du lịch.

Tóm lại, phát triển triển làng nghề là động lực cho phát triển du lịch và

ngược lại, nếu du lịch phát triển sẽ tạo điều kiện cho làng nghề phát triển

nhanh hơn.

3.5. Một số kiến nghị phát triển làng nghề và doanh nghiệp làng nghề

nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

3.5.1. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước

- Đối với Chính phủ: cần 3 định hướng hỗ trợ:

+ Hỗ trợ để có nguồn hàng có quy mô phù hợp với thị trường;

+ Hỗ trợ để giới thiệu sản phẩm tại chỗ;

+ Hỗ trợ để phát triển thị trường xuất khẩu.

* Tạo hành lang cơ chế chính sách để phát triển sản xuất tại các làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề nhằm nâng quy mô sản xuất hàng hóa.

+ Quy hoạch trong phạm vi cả nước các vùng nguyên liệu tập trung và

nguyên liệu phân tán. Đặc biệt là 1 số loại nguyên liệu chính như tre nứa, cói,

song mây, gỗ, lá buông, đất sét. Chỉ đạo các địa phương thực hiện nghiêm túc

theo quy hoạch.

172

+ Quy hoạch tổng thể hệ thống làng nghề trong cả nước theo hai hệ

thống:

Khu vực đã có làng nghề đang hoạt động hặc đã bị mai một thất truyền;

Khu vực chưa có làng nghề nhưng hội tụ đủ các yếu tố cáo thể phát

triển làng nghề.

+ Tạo nguồn vốn từ chính quy hoạch tạo quỹ đất để tập trung đầu tư hạ

tầng tới các vùng nguyên liệu, tới làng nghề.

+ Mở các trường đào tạo nghề, đào tạo người quản lý tại các vùng nông

thôn thuộc vùng quy hoạch nhiều làng nghề.

Mỗi tỉnh cần có 1 trường đào tạo người quản lý trình độ sơ cấp, trung

cấp, thời gian học từ 1 - 3 năm.

Mỗi huyện từ 1 - 2 trường đào tạo nghề, thời gian học 1 - 6 tháng.

Việc mở trường hoàn toàn có thể thực hiện được nếu chính phủ và địa

phương tạo cơ chế tốt về đất đai, thủ tục hành chính mở trường.

+ Khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ tối đa để hình thành nhiều doanh

nghiệp làng nghề, mà nòng cốt là hình thành và phát triển từ những cơ sở sản

xuất, có những chủ cơ sở có năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh tại làng

nghề. Đây là 1 hướng đi quan trọng nhằm nâng cao quy mô phát triển sản

xuất thông qua con đường tích tụ và tập trung nguồn lực sản xuất tại địa

phương, tại làng nghề.

* Hỗ trợ để sản phẩm sản xuất ra từ các làng nghề, doanh nghiệp làng

nghề có cơ hội tiếp cận với thị trường.

+ Mỗi làng nghề, khu vực làng nghề cần hình thành nơi trưng bày hàng

hóa tập trung nhằm giao dịch, trưng bày, bán buôn, bán lẻ với đầy đủ chủng

loại hàng hóa của làng nghề như 1 mô hình chợ làng nghề.

Đây là con đường nhanh nhất để sản phẩm sản xuất ra có thể tiếp cận

nhanh với khách du lịch, với các nhà kinh doanh trong nước và nước ngoài.

173

Kinh nghiệm thực tiễn thành công là làng gốm cổ Bát Tràng đã hình

thành chợ gốm, hàng năm thu hút hàng trăm ngàn khách từ trong nước và

nước ngoài tới tiếp cận với sản phẩm gốm Bát Tràng.

Ở Miền Bắc có thể hình thành: Chợ tơ tụa Hà Đông; chợ mây tre đan

Chương Mỹ - Hà Nội; chợ cói Nga Sơn – Thanh Hóa; chợ hàng thổ cẩm Lai

Châu,…

Ở Miền Nam có thể hình thành chợ gốm Bình Dương; chợ mây tre lá

Biên Hòa,...

+ Cần hình thành 2 khu vực Miền Bắc và Miền Nam mội năm 2 kỳ hội

chợ quốc tế lớn chuyên hàng thủ công mỹ nghệ theo đúng nghĩa là hội chợ

quốc tế - Tạo cơ chế mời gọi khách quốc tế tới Việt Nam tham quan, tìm cơ

hội mua bán, kinh doanh.

* Đầu tư thích đáng cho chương trình xúc tiến thương mại quốc gia cho

ngành hàng thủ công mỹ nghệ nhằm:

+ Mở rộng mạng thương mại điện tử, sàn giao dịch hàng thủ công mỹ

nghệ ở cấp quốc gia.

+ Tạo cơ hội về kinh phí, tiếp cận với các thị trường nước ngoài của

các thương nhân, doanh nghiệp. Đặc biệt là tham gia các hội chợ quốc tế lớn

tại Châu Âu, Châu Mỹ, Nhật Bản, Trung Đông.

+ Đầu tư xây dựng thương hiệu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam gắn

liền với thương hiệu quốc gia mà các mặt hàng gốm, mây tre, gỗ mỹ nghệ,

thêu ren,… là các nhãn hiệu dẫn đường. Trong những năm qua chương trình

này đã thực hiện những chưa được đầu tư chính đáng nên hiệu quả chưa cao.

Cần quảng bá bằng nhiều kênh khách nhau như: Thông qua hoạt động kinh tế

thương mại cấp Nhà nước; sử dụng hữu hiệu công nghệ truyền thông, phim

ảnh và giới thiệu tuyên truyền qua cộng đồng người Việt Nam tại hơn 100

Quốc gia trên thế giới,...

174

Để thực hiện tốt chương trình hộ trợ của cấp Nhà nước cần thể chế hóa

bằng pháp luật và văn bản dưới luật, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các

ngành, các địa phương thực hiện theo thẩm quyền.

Trong thời gian qua Nhà nước đã có một số văn bản chính sách phát

triển làng nghề, chẳng hạn, Quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000

về “Một số chính sách khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn” và Nghị

định 06/2006/NĐ-CP về “Phát triển ngành nghề nông thôn”,... Tuy nhiên vẫn

còn thiếu những hướng dẫn cụ thể như đầu tư tín dụng; thông tin thị trường;

hỗ trợ xúc tiến thương mại; chất lượng sản phẩm; hỗ trợ tiêu thụ; lao động,

đào tạo; khuyến công; chính sách đối với nghệ nhân,... cần phải điều chỉnh

kịp thời.

- Đối với các Bộ, ngành

Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy nhanh xuất khẩu

hàng thủ công mỹ nghệ có liên quan đến nhiều Bộ, ngành. Nhưng vai trò

chính vẫn là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ

Văn hoá - Thể thao- Du lịch, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội. Những

kiến nghị sau đây:

+ Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn: Vấn đề thúc đẩy phát triển

ngành nghề thủ công truyền thống cần được xem xét một cách toàn diện trên

quan điểm phát triển nông thôn nói chung có cân nhắc tới vấn đề nghề thủ

công mỹ nghệ được bắt nguồn từ các làng nghề và trên 80% dân số sống tại

khu vực nông thôn. Vì vậy kiến nghị với Bộ Nông nghiệp & phát triển nông

thôn:

a. Hỗ trợ phát triển bền vững làng nghề, đặc biệt là các làng tham gia sản xuất

các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống.

b. Nâng cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn, giảm tỷ lệ nghèo, đói.

Để thực hiện 2 vấn đề cơ bản này, cần có các chính sách, hoạt động cơ

bản:

175

* Xây dựng hệ thống sản xuất bền vững và cạnh tranh;

* Cải thiện hệ thống phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ;

* Tăng cường hệ thống hỗ trợ cho người dân tộc thiểu số;

* Tăng cường năng lực của làng nghề;

* Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hỗ trợ;

- Bộ Công Thương:

* Hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp để tăng cường tính cạnh tranh cho hàng

thủ công mỹ nghệ.

* Tăng cường hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp làng nghề bằng

các cơ chế, chính sách quy định của Nhà nước về xúc tiến thương mại. Đặc

biệt tạo điều kiện thuận lợi về tài chính, thông tin cho làng nghề, doanh

nghiệp làng nghề nghiên cứu thị trường nước ngoài, tham gia triển lãm, hội

chợ trong nước và nước ngoài.

- Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội: Hỗ trợ tăng cường đào tạo dạy

nghề và cải tiến điều kiện làm việc, bảo tồn và phát triển các kỹ thuật sản xuất

thủ công truyền thống để những nguời lao động có năng lực tham gia vào sản

xuất hàng thủ công mỹ nghệ có môi trường và điều kiện làm việc tốt hơn và

có ý thức hơn về yêu cầu phát triển các sản phẩm thủ công mỹ nghệ.

- Bộ Kế hoạch - Đầu tư: Tăng cường hỗ trợ làng nghề phục hồi các dự

án phát triển các ngành nghề thủ công ở từng vùng, đồng thời đảm bảo nội

dung hoạt động của dự án đáp ứng nhu cầu các đối tượng hưởng lợi. Kết hợp

các vấn đề phát triển ngành thủ công vào các đề án hiện có.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo: Hỗ trợ đào tạo nghề bằng việc mở các

trường cao đẳng và đại học có nhiều ngành học liên quan đến sản xuất và kinh

doanh các sản phẩm làng nghề; đồng thời, xây dựng tài liệu giảng dạy để phát

triển nguồn nhân lực cần thiết cho ngành nghề thủ công.

- Bộ Khoa học và Công nghệ: Hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng suất,

cải tiến kỹ thuật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

176

- Bộ Tài nguyên và Môi trường: Cần phát triển hệ thống đánh giá

hiện trạng môi trường tại các cơ sở, làng nghề; đề xuất các giải pháp cụ thể

để các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sản xuất và kinh doanh đúng

hướng để cải thiện và bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ cho người lao

động và dân cư trong vùng sản xuất.

- Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch: Tổng cục Du lịch cần tăng cường

mối liện hệ với các làng nghề để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

Đối với các làng nghề dân tộc thiểu số, nên cân nhắc kỹ công tác bảo tồn lối

sống và văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc.

3.5.2. Kiến nghị với các địa phương

Ngành nghề thủ công mỹ nghệ góp phần phát triển kinh tế địa phương

và bảo tồn các giá trị truyền thống. Vì vậy, chính quyền địa phương cần đặc

biệt quan tâm phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ ở cấp tỉnh bám sát

chủ trương cơ chế hỗ trợ của Nhà nước để triển khai phù hợp và đúng yêu

cầu. Ngành nghề thủ công được quản lý thông qua các văn bản hướng dẫn

của ủy ban nhân dân tỉnh, đồng thời được sự hỗ trợ của các Bộ, ngành. Ở

nhiều nơi trong tỉnh, các ban, ngành tổ chức, huyện, xã cùng tham gia các

hoạt động hỗ trợ làng nghề. Các tổ chức này hiểu rõ tình hình địa phương,

tình hình các khu vực sản xuất, nên chính quyền địa phương giao nhiệm vụ

cho các tổ chức này là các đối tác chủ chốt tại cấp cơ sở để thúc đẩy phát

triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề.

Chính quyền địa phương đóng vai trò nòng cốt trong việc phối hợp với

các thành phần kinh tế địa phương có liên quan trong hoạt động phát triển

ngành nghề thủ công mỹ nghệ. Nói cách khác, chính quyền địa phương phải

trực tiếp hỗ trợ các khu vực sản xuất như là cầu nối giữa vùng sản xuất và

chính quyền trung ương. Đề nghị chính quyền địa phương:

177

* Giám sát, quản lý các biện pháp, chương trình liên quan đến ngành

nghề thủ công mỹ nghệ để khuyến khích phát triển ngành nghề này;

* Triển khai các biện pháp của Chính phủ sao cho phù hợp với đặc

điểm của mỗi vùng sản xuất;

* Khuyến khích, hướng dẫn và hỗ trợ các giải pháp phù hợp với từng

vùng sản xuất bằng cách tập hợp ý kiến và xác định nhu cầu ở cấp cơ sở về

các vấn đề liên quan đến ngành nghề thủ công mỹ nghệ;

3.5.3. Kiến nghị với các hiệp hội

Hiệp hội là một tổ chức phi chính phủ, được thành lập theo ý chí

nguyện vọng, yêu cầu của một nhóm các cá nhân hoặc doanh nghiệp.

Hiệp hội có nhiệm vụ hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp, đơn vị về

những yêu cầu nghiệp vụ, chuyên môn, thông tin hay kiến nghị với cơ quan

chức năng về các yêu cầu của các cá nhân, doanh nghiệp, đơn vị thuộc hiệp

hội.

Trong cơ chế thị trường và trong quá trình hội nhập, hiệp hội có vai trò

rất quan trọng với một yêu cầu đặt ra theo tác giả “vai trò của Hiệp hội là tạo

sự liên kết, kết nối, hỗ trợ lẫn nhau giữa những người sản xuất, doanh nghiệp

nhằm phát huy sức mạnh liên kết, tạo lợi thế quy mô, giảm chi phí sản xuất

kinh doanh, đồng thời là nơi tuyên truyền thực hiện chủ trương chính sách của

Đảng và Nhà nước tới cơ sở và ngược lại. Kịp thời phản ánh nhu cầu của cơ

sở tới Nhà nước nhằm thay đổi cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn”. Đến

nay, nước ta đã thành lập nhiều hiệp hội ngành nghề, làng nghề liên quan đến

sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Chẳng hạn, ở Trung ương có

hiệp hội Làng nghề Việt Nam, Hiệp hội Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ

Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Lâm

sản Việt Nam; ở nhiều địa phương có làng nghề, doanh nghiệp làng nghề như

Bát Tràng có Hiệp hội Gốm, sứ Bát Tràng,...

178

Tuy phương châm hành động, mục tiêu thực hiện rất thiết thực, nhưng

vì đa số mới được thành lập, cơ sở vật chất có hạn, đội ngũ cán bộ còn chắp

vá, khả năng tài chính phụ thuộc vào hội viên, nên thực chất đến nay vai trò

của hiệp hội ngành nghề và làng nghề còn hạn chế. Để phát huy tốt chức

năng, nhiệm vụ, mục tiêu của hiệp hội, cần có nhận thức mới về tổ chức này.

Bản thân các hiệp hội cũng cần có sự đổi mới, năng động, sáng tạo hơn để

hiệp hội thực sự là cầu nối giữa làng nghề, doanh nghiệp làng nghề với Chính

phủ, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố; là nơi cung cấp

thông tin quan trọng về tình hình sản xuất, thị trường, khách hàng trong và

ngoài nước, là động lực thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

179

KẾT LUẬN

Với đường lối cải cách mở cửa, đổi mới do Đảng ta đề xướng và lãnh

đạo, trong hơn 20 năm qua, đến nay đã thu được những thành tựu quan trọng.

Bộ mặt đất nước đã có nhiều thay đổi nhanh chóng, vị thế Việt Nam trên

trường quốc tế đã được nâng lên một tầm cao mới. Tuy nhiên, so với nhiều

quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam vẫn là một nước nghèo,

lạc hậu. Vì vậy, đẩy nhanh phát triển kinh tế là một nhiệm vụ, mục tiêu quan

trọng của đất nước trong những năm tiếp theo. Để đạt được những mục tiêu,

định hướng phát triển kinh tế xã hội thì phải phát triển một cách toàn diện tất

cả mọi lĩnh vực ở mọi ngành, mọi cấp. Trong đó xuất khẩu là một lĩnh vực có

tầm quan trọng đặc biệt. Những năm gần đây, lĩnh vực xuất khẩu đã có những

bước tiến nhanh. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng trưởng với tốc độ

khoảng trên 20%/năm. Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đã đạt gần 63 tỷ USD,

tăng 29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu được mở rộng. Ngày nay

Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên

thế giới. Cơ cấu mặt hàng cũng đã có sự thay đổi nhanh chóng. Năm 2009 có

trên 10 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Tuy nhiên, hiện tại, một số

mặt hàng xuất khẩu chủ lực đang gặp khó khăn do phải đối mặt với những rào

cản thương mại mới ngày càng nhiều với những hành vi bảo hộ tinh vi tại các

thị trường lớn. Việc tăng giá trị xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào giá cả thế giới

và những thị trường xuất khẩu lớn. Trong khi thị trường xuất khẩu gặp khó

khăn, thì chi phí đầu vào không giảm, thậm chí còn tăng cao như lương công

nhân, lãi suất ngân hàng, chi phí tiêu cực, khiến nhiều doanh nghiệp đang

đứng trước nguy cơ giảm sút mạnh. Hơn nữa, xuất khẩu vẫn phụ thuộc nhiều

vào các mặt hàng khoáng sản, nông, lâm, thuỷ sản; các mặt hàng công nghiệp

chế biến chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công; các mặt hàng xuất khẩu

chưa đa dạng, phong phú; số lượng mặt hàng xuất khẩu mới có kim ngạch

180

lớn, tốc độ tăng trưởng nhanh chưa nhiều. Xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai

thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông

qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để

hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Cho đến nay, chúng ta vẫn

chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại

song phương và khu vực đã được ký kết giữa Việt Nam và các đối tác để khai

thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc.

Đồng thời, việc tiếp cận nguồn vốn vay cho sản xuất, kinh doanh vẫn bất cập,

mặc dù lãi suất đã giảm nhiều, nhất là đối với các mặt hàng nông, lâm, thuỷ

sản, hàng thủ công mỹ nghệ và đối với với các doanh nghiệp dịch vụ, điều

này cũng làm chi phí tăng cao, ảnh hưởng tới khả năng của hàng hoá xuất

khẩu.

Trước thực trạng đó, cần đa dạng hoá chủng loại hoá và thị trường xuất

khẩu để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và đối phó với những bất cập, rủi ro

có thể xảy ra. Trong xu hướng đó, thì đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ là một hướng đi đúng đắn và thích hợp.

Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không những mang lại giá trị về

kinh tế, mà còn có ý nghĩa lớn về vấn đề xã hội. Đó là việc giải quyết công ăn

việc làm cho người lao động với số lượng lớn; là công cụ đắc lực để thực hiện

mục tiêu xoá đói, giảm nghèo; là yếu tố quan trọng để chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, cơ cấu lao động trong xã hội. Đồng thời cũng là giải pháp cơ bản thực

hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.

Làng nghề, doanh nghiệp làng nghề là nơi sản xuất và kinh doanh chủ

yếu mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Hiện nay, trong cả nước có hơn 2000 làng

nghề và hàng chục ngàn doanh nghiệp làng nghề đang hoạt động trên nhiều

lĩnh vực, chủ yếu là sản xuất và kinh doanh hàng thủ công, trong đó phần

quan trọng là hàng thủ công mỹ nghệ.

181

Tuy các làng nghề, doanh nghiệp làng nghề sản xuất và kinh doanh

hàng thủ công mỹ nghệ, mang lại nhiều lợi ích thiết thực về kinh tế và xã hội,

nhưng hiện tại, làng nghề và doanh nghiệp làng nghề vẫn còn nhiều điều bất

cập. Đó là kết cấu cơ sở hạ tầng của làng nghề và doanh nghiệp làng nghề còn

yếu kém; môi trường ô nhiễm nặng; kỹ thuật, công nghệ sản xuất lạc hậu; đề

tài, mẫu mã sản phẩm chậm được cải tiến; thiếu vốn sản xuất, kinh doanh;

nguồn nguyên liệu đang cạn dần. Đặc biệt việc triển khai những những chủ

trương, đường lối, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa thực hiện

tốt và đồng bộ; vai trò làng nghề chưa được chú trọng và nâng cao.

Hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc. Do cơ cấu và chủng loại mặt hàng thủ công mỹ nghệ còn manh

mún, phân tán, đơn điệu; đề tài, mẫu mã chậm được cải tiến; chất lượng hàng

hoá không cao. Kết quả là sức cạnh tranh của hàng thủ công mỹ nghệ Việt

Nam trên thị trường thế giới thấp. Điều này làm hạn chế khả năng tiếp cận thị

trường mới, duy trì và mở rộng thị trường truyền thống.

Nguyên nhân của sự hạn chế trên là do nội lực làng nghề, doanh nghiệp

làng nghề và cả phía các cơ quan quản lý Nhà nước.

Nhà nước, tuy đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách phát triển làng

nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ, nhưng nhiều cơ quan thực hiện, chủ yếu là các bộ, ngành triển khai còn

chậm và không đồng bộ. Nhiều chính sách đưa ra, nhưng chính quyền địa

phương không thực hiện nghiêm túc làm cho làng nghề và doanh nghiệp làng

nghề gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Chẳng hạn như việc giải quyết đất đai

để mở rộng mặt bằng sản xuất, việc vay vốn ngân hàng, đầu tư cải tạo nâng

cấp hạ tầng cơ sở, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ hoạt động xúc tiến

thương mại,....

Về phía làng nghề, doanh nghiệp làng nghề, chưa theo kịp cơ chế thị

trường, tư tưởng ỷ lại Nhà nước còn phổ biến, thiếu tính chủ động, sáng tạo

182

trong tổ chức sản xuất và kinh doanh, thiếu sự liên kết, thiếu sự cạnh tranh

lành mạnh; không ít làng nghề, doanh nghiệp làng nghề còn có tư tưởng làm

ăn chụp giật, không giữ chữ “tín” với khách hàng

Từ thực trạng trên, rút ra một một nhận định có tính tổng quát là, phát

triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để mở rộng xuất khẩu hàng thủ công

mỹ nghệ trong thời kỳ hội nhập là một hướng đi đúng đắn và cấp bách đối với

tình hình đất nước hiện nay và trong nhiều năm tới.

Muốn phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề để đẩy mạnh xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì phải giải quyết những khó khăn, vướng mắc

đang xảy ra. Điều đó trước hết phụ thuộc vào sự cố gắng, sự năng động, sáng

tạo của chính các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề, đồng thời, không thể

tách rời những cơ chế, chính sách của Nhà nước và việc vận dụng thực hiện

của các bộ, ngành, địa phương.

Tuy đã có những cố gắng nhưng với những khó khăn khách quan, những

giới hạn về năng lực cá nhân của người thực hiện, luận án không thể tránh khỏi

còn những hạn chế nhất định. Trong quá trình thực hiện luận án, bên cạnh sự cố

gắng của bản thân, tác giả còn nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ một cách hiệu quả

của nhiều cá nhân và tổ chức. Tác giả cũng bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất

đến các thầy giáo hướng dẫn khoa học, các giáo viên, cán bộ lãnh đạo Trường

Đại học Ngoại thương, lãnh đạo và các nhà quản trị doanh nghiệp, các chuyên

gia, các nhà nghiên cứu chuyên ngành, các doanh nghiệp, các cá nhân đã tạo

điều kiện, cung cấp các thông tin tư liệu thực tế, góp ý chân thành cho nội dung

luận án và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận án này.

Hà Nội, tháng 07 năm 2009

183

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lan Anh (2002), “Đổi thay phố nghề Hà Nội”, Báo Thương mại. (số

52).

2. Nguyễn Phương Bắc (2000), “Hoàn thiện các chính sách nhằm thúc

đẩy phát triển bền vững khu vực kinh tế làng nghề”, Tạp chí Kinh tế

và Dự báo. (số 327). tr. 23.

3. Báo cáo Tổng hợp Bảo tồn & Phát triển làng nghề ĐBSH trong quá

trình CNH-HĐH (1999), Trung tâm KHXH&NV- Viện Kinh tế học,

tr.31

4. Quang Bình (2001), “Tự hào thương hiệu Barotex”, Tạp chí Thương

mại. (số 3). tr. 41.

5. Bộ Công thương (2007-2008), Báo cáo tổng kết 2 năm (2007-2008),

Hà Nội.

6. Bộ Thương mại (2000-2006), Báo cáo tổng kết 7 năm (2000 - 2006),

Hà Nội.

7. Bộ Thương mại (2002), Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ

2001 – 2010, Hà Nội.

8. Bộ Thương mại (2007), Đề án xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thời

kỳ 2006 – 2010, Hà Nội.

9. Bộ NN&PTNT (2002), Báo cáo đánh giá thực trạng và định hướng

phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2010, Hà Nội.

10. Hoàng Văn Châu và tập thể tác giả (2006), Xây dựng và Phát triển mô

hình làng nghề du lịch của một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, Đề tài

nghiên cứu cấp Bộ, Mã số B2005-40-51-TĐ.

11. Hoàng Văn Châu, Phạm Thị Hồng Yến, Lê Thị Thu Hà (2007), Làng

nghề du lịch Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

12. Trần Đình Chính ( 2001), “Giải pháp nào cho lao động dôi dư ?”, Báo

Nhân Dân (số 11722).

184

13. Trung Chính và Thanh Châu (2001), “Tản mạn về một làng nghề”,

Báo Nhân Dân (số 16745).

14. Cao Cương (2000), “Doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu: chưa được Nhà

nước hỗ trợ thực sự”, Thời báo kinh tế Sài Gòn (số 24/2000), trang

16.

15. Nguyễn Tiến Cường (2001), “Làng gốm Bát Tràng”, Báo Nhân Dân

(số 16921),

16. Nguyễn Sinh Cúc (2001), “Làng nghề và việc làm ở nông thôn”. Báo

Nhân Dân (số 16620).

17. Phạm Thành Dân (2001), “Doanh nghiệp- nhà tiên phong bảo vệ môi

trường”. Tạp chí Thương mại. (số 13/ 2001). tr 3.

18. Nguyễn Dũng (2008), “Làng lụa “chạy” cầm chừng”, Thời báo doanh

nhân. (số 39).

19. Trần Lê Dũng (2000), “Để ngành gốm, sứ Việt Nam phát triển nhanh

trong tương lai”, Tạp chí Thương mại. (số 4/2000). tr 26.

20. Trọng Duy (2001), “Vất vả nghề đan lát Phúc Long”, Báo Nhân Dân.

(số 16893).

21. Nguyễn Văn Điểm (2001), “ Sáu giải pháp cho khôi phục và phát

triển làng nghề ở Bắc Ninh”, Tạp chí Thương mại. (số 6/2001). tr 12.

22. Vũ Bá Định (2001), “Các doanh nghiệp Việt Nam làm gì đề cạnh

tranh”, Thời báo Ngân hàng. (số 27).

23. Vũ Bá Định (2001), “Từ kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ cho các

doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Tạp chí Thương mại. (số 1/2001). tr 3. 24. Đào Đức (2001), “Làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu”, Tạp chí

Thương mại. (số11/2001). tr 23.

25. Đào Đức (2000), “Hàng thủ công mỹ nghệ trở lại vũ đài xuất khẩu”,

Tạp chí Thương mại. (số 16/2000). tr 21.

26. Trần xuân Giá (2001), “Để doanh nghiệp tại Việt Nam hoạt động có

hiệu quả”, Tạp chí Thương mại. (số1/2001). tr 5.

185

27. Hà Thanh Giang (2001), “Sứ Thanh Trì sang thị trường nhiều nước”;

Báo Nhân Dân. (số 16730).

28. Nguyễn Hà (2000), “Thị trường Canada - còn chỗ cho da giày, thủ

công mỹ nghệ”, Thời báo kinh tế Sài Gòn. (số 23/2000). tr 38.

29. Lê Văn Hải (2008), “Giải pháp tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề ở

các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ”, Tạp chí Thương mại. (số 9/2008). 30. Tiền Hải (2001), “Nhật Bản- đối tác tiềm năng của Việt Nam”, Báo

Thương mại. (số 13).

31. Hữu Hạnh (2001), “Lợi thế xuất khẩu các doanh nghiệp thương mại”,

Báo Nhân Dân. (số 16853).

32. Mỹ Hạnh (2000), “Chợ gốm trên sông”, Báo Thương mại. (số 101). 33. Song Hành (2000), “Đường đi cho cói Kim Sơn”, Tạp chí thương

mại. (số17/2000). tr 12

34. Nguyễn Thế Hào (2000), “Bắc Ninh - Tiềm năng và phát triển”, Báo

Diễn đàn doanh nghiệp. (số 27).

35. H.D (2001), “Hàng thủ công mỹ nghệ sang Canada”, Báo Nhân Dân.

(số 16658).

36. Lê Phương Hiên (2001), “Thoát nghèo từ chiếu cói và đồng vốn nhỏ”,

Báo Nhân Dân. (số 16659).

37. Hoàng Hiền và Hoàng Hùng (2008), “Giải pháp tháo gỡ khó khăn cho

các làng nghề”, Báo Nhân Dân. (số 19477).

38. Lê Thị Kim Hoa (2008), “Các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho

sản phẩm làng nghề của tỉnh Thái Bình”,Tạp chí Thương mại.(số

21/2008). tr 3.

39. Đặng Công Hoà (2001), “Vì sao người dân ít được vay vốn ngân

hàng”, Báo Nhân Dân. (số 16765).

40. Lê Thị Kim Hoa (2008), “Giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề

của tỉnh Thái Bình”, Tạp chí Thương mại. (số 19/2008), tr 11.

186

41. Phan Hùng (2001), “Tiềm năng vùng đất trăm nghề”, Báo Nhân Dân.

(số 16860).

42. Đức Huy (2001), “Quyết tâm giữ nghề”, Báo Đầu tư, (số 38).

43. Trần Hưng (2001), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Từ Sơn”, Báo

Nhân Dân. (số 16931).

44. Đắc Hữu (2001), “Hà Tây - đất trăm nghề”, Báo Nhân Dân. (số

16693).

45. Trần Công Huyền (2001), “Làng nghề và nghệ nhân thời đổi mới”,

Báo Hà Nội mới. (số 11670).

46. P.K (2000), “Mừng, lo một làng nghề”, Tạp chí Thương mại. (số

6/2000). tr 13.

47. Dương Công Khả (2000), “Người đánh thức nghề gốm Vĩnh Long”,

Thời báo kinh tế Sài Gòn. (số 25/2000). tr 28.

48. Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến, Vũ Thị Hiền (2007): Chuyển dịch

cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam; NXB Thống kê, Hà Nội.

49. Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến (2006): Thương hiệu hàng thủ

công mỹ nghệ truyền thống. NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội.

50. Vũ Khoan (2001), “Xuất khẩu những mạt hàng thị trường cần và

được giá”, Báo Nhân Dân. (số16707).

51. Nguyễn Khôi (2001), “Cái mới ở Nga Sơn”, Báo Nhân Dân. (số

16691).

52. Phạm Khu (2001), “Thổ cẩm - một sản phẩm độc đáo từ làng nghề

truyền thống Cao Bằng”; Tạp chí thương mại. (số27/2001).

53. Vũ Kiểm (2001), “Ba làng nghề, một nỗi lo”, Báo Nhân dân. (số

16762).

54. Nguyễn Xuân Lan (2001), “Gốm Vĩnh Long - hạ giá và ngắc ngoải”,

Báo Diễn đàn doanh nghiệp. (số 62).

55. Trần Lâm (1999), “Nguyên nhân tăng trưởng ở sứ Thanh Trì”; Tạp

chí Thương mại. (số 17/1999). trang 20.

187

56. Đắc Lê (2004), Làng nghề Bắc Ninh: Tiềm năng và Hội nhập. NXB

Thế giới, Hà Nội.

57. Minh Lễ (2001), “Hà Tây - cái nôi của mây tre xuất khẩu”, Tạp chí

Thương mại. (số 11/2001). tr 9.

58. Y Linh (2001), “Bát Tràng - bảo tồn làng nghề”, Báo Hà Nội mới. (số

11619).

59. Nguyễn Thảo Linh (2008), “Hàng thủ công mỹ nghệ 2008: Bí đầu

ra”, Thời báo Doanh nhân. (số 39).

60. Hà Linh (2001), “Chợ xa cho sứ Thanh Trì” Báo Diễn đàn doanh

nghiệp. (số 24).

61. Hồ Hải Long (2007), “Ngành đồ gỗ Việt Nam: Hội nhập và phát

triển”, Thời báo Kinh tế Việt Nam.

62. Hoàng Lộc (2001), “Lá buông lại đẹp cho đời”, Thời báo Kinh tế Việt

Nam. (số 38).

63. Ngọc Lý (2001), “Làng nghề tìm đến công nghệ thông tin; Thời báo

Kinh tế Việt Nam. (số 137).

64. Xã luận (2001), “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn”; Báo Nhân

dân. (số 16836).

65. Thiếu Mai (2001), “Khôi phục làng nghề cần một chính sách đồng

bộ”, Báo Hà Nội mới. (số 11722).

66. Nguyễn Hà Minh (2008), “Làng gốm Hương Canh: Hết đất, mất

nghề” Thời báo Doanh nhân. (số 39).

67. Nguyễn Hà Minh (2008), “Trước cơn bão suy thoái kinh tế toàn cầu:

làng nghề lao đao”, Thời báo Doanh nhân. (số 39).

68. Dương Nguyệt Minh (2001), “Tỷ phú đi lên từ dùi đục”, Báo Diễn

dàn doanh nghiệp. (số 24).

69. Nguyễn Văn Minh (2001): “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt

Nam sang Canada”, Tạp chí Thương mại. (số 29/2001), tr 27.

188

70. Nguyễn Quang Minh (2008), “Làng nghề phá sản: Thợ mất việc”,

Thời báo Doanh nhân. (số 39).

71. N.T.N (2000), “Maketing thảm xuất khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số

7/2000). tr 3.

72. Thuý Nga (2001), “Cơ chế nào cho hoạt động làng nghề”, Báo Đầu

tư. (số 67).

73. Việt Nga (2001, “Tơ lụa Vạn Phúc”, Báo Hà Nội mới. (số 11558). 74. Thế Nghĩa (2001), “Cói mỹ nghệ”, Báo Nhân Dân. (số 16834). 75. Kiên Nghĩa (2001), “Khi người dân làng Thổ Hà tự cứu mình”, Báo

Tiền Phong. (số 73).

76. Phạm Hùng Nghị (2000), “Gốm, sứ chưa đủ nội lực”, Thời báo Kinh

tế Việt Nam. (số 17).

77. Vũ Bá Nghiêm (2001), “Quan điểm và bước đi của quá trình CNH -

HĐH nông nghiệp và nông thôn”, Tạp chí Thương mại. (số 28/2001).

tr 3.

78. Hà Tuấn Ngọc (2001), “Công ty sứ Việt Trì hồi sinh và lớn mạnh từ

đầu tư và xúc tiến thương mại), Tạp chí Thương mại. (số 26/2001). tr

25.

79. Bích Ngọc (2001), “Doanh nghiệp nói về xuất khẩu hàng thủ công mỹ

nghệ”, Báo Thương mại. (số 101).

80. Cao Ngọc (2001), “Đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ -

những kiến nghị từ cơ sở”, Báo Thương mại. (số 68).

81. Vũ Hữu Ngoạn (2001), “Đi lên từ nghề truyền thống”, Báo Nhân

Dân. (số 16754).

82. Trần Nguyên (2001), “Làng nghề nông thôn”, Báo Nhân Dân. (số

16680).

83. Hoài Nhân (2001), “Di dời các cơ sở gốm ở Bình Dương”, Báo Nhân

Dân. (số 16794).

84. Nguyễn Thị Nhiễu (2001), “Vấn đề xúc tiến xuất khẩu của doanh

nghiệp nhỏ và vừa,... Tạp chí Thương mại. (số 17/2001). tr 8.

189

85. Nguyễn Kiến Phước (2001), “Rạng danh gốm sứ Minh Long”, Báo

Nhân dân. (số 16843).

86. Huỳnh Kim Phượng (1999), “Hợp tác - một hướng phát triển quan

trọng của ngành gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu Vĩnh Long”, Tạp chí

Thương mại. (số 14/1999), tr 19.

87. Minh Quang (1999), “Vì sao Haprosimex Sài Gòn đạt mức tăng

trưởng nhanh?”, Tạp chí Thương mại. (số 23/1999), tr 21.

88. Trọng Quang (2001), “Làng nghề Bát Tràng: sự lựa chọn cho tương

lai” Báo Hà Nội mới. (số 11520).

89. Đình Quân (2001), “Nỗi niềm nghề sứ”, Báo Đầu tư. (số 77).

90. Nguyễn Thái Sơn (2000), “Nghịch lý ở làng nghề Đa Sỹ”, Tạp chí

Thương mại. (số 14/2000). tr 21.

91. Phạm Côn Sơn (2007), Làng nghề truyền thống Việt Nam, NXB Văn

hoá dân tộc, Hà Nội.

92. Minh Tâm (2001), “Đẩy mạnh đầu tư cho làng nghề”, Tạp chí

Thương nghiệp thị trường Việt Nam. (số 9/2001). tr 4.

93. Hà Tâm (2001), “Doanh nghiệp ở làng quê”, Báo Đầu tư. (số 110). 94. Nghiêm Thanh (2001), “Vùng đất trăm nghề”, Báo Nhân Dân. (số

16935).

95. Phạm Thanh (2001), “Xuất khẩu với sự phát triển của làng nghề”,

Báo Hà Nội mới. (số 11787).

96. Nguyễn Thành (2008), “ Giải pháp phát triển làng nghề Thái Bình”,

Báo Nhân Dân số 19294, ngày 17/6/2008

97. Nguyễn Hữu Thắng (2000), “Để tăng nhanh hơn nữa hàng thủ công

mỹ nghệ xuất khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số 23/2000). tr 4.

98. Nguyễn Hữu Thắng ( 2009), “ Dự báo sản xuất và xuất khẩu hàng thủ

công mỹ nghệ thế giới thời gian tới”, Tạp chí Thương mại. ( số

17/2009), tr 26

190

99. Nguyễn Hữu Thắng ( 2009), “ Đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ

chế phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ”, Tạp chí

Thương mại. ( số 18/2009), tr 11

100. Quang Thư (2000), “Làng gốm Bát Tràng - tương lai sẽ là một bảo

tàng sống”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn. (số 9/2000), tr 21.

101. Anh Thư (2001), “Gốm, sứ Nam Việt, đầu tư để phát triển xuất

khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số 28/2001), tr 18.

102. Nguyễn Bá Thư (1999), “Làng nghề tạo động lực cho sản xuất hàng

hoá và đẩy mạnh xuất khẩu”, Tạp chí Thương mại. (số1/1999). tr 10.

103. Vũ Hồng Thuý (2001), “Cái khó ở làng nghề Ninh Bình”, Báo Nhân

dân. (số 16680).

104. Yên Thy (2001), “Hàng mây tre xuất khẩu”, Báo Nhân Dân.

(số16714).

105. Nguyên Trung (2001), “Sức sống một làng nghề”, Báo Nhân Dân. (số

16840).

106. Phạm Tư (2001), “Xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ- trăn trở từ

doanh nghiệp”, Tạp chí Thương mại. (số 22/2001), tr 15.

107. Tổng cục Hải quan (2000-2007), Báo cáo 7 năm Tổng cục Hải quan

(2000-2007).

108. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2000), Báo cáo khảo sát, nghiên

cứu làng nghề.

109. Vũ Quốc Tuấn ( 2008), “ Phát triển nghề, làng nghề trong điều kiện

mới”, Tham luận tại Hội thảo “ Cơ hội đầu tư vào nông nghiệp, nông

thôn trong bối cảnh mới”, Hà Nội, ngày 19/8/2008

110. Từ điển tiếng Việt ( 2005), Viện ngôn ngữ học, tr 524

111. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X (2006), NXB

Chính trị Quốc gia - Hà Nội, tr 191

112. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X ( 2006), NXB

Chúnh trị Quốc gia - Hà Nội, tr 192

191

113. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X ( 2006), NXB

Chính trị Quốc gia - Hà Nội, tr 188

114. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX và lần thứ X

(năm 1998- 2002 và 2006). NXB Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

115. Website Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hộ Đại biểu Đảng

toàn quốc lần thứ VII ( 24-27/6/1991)

116. Website Đảng Cộng sản Việt Nam- Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng

toàn quốc lần thứ VIII ( 28/6-1/7-1996)

117. Bùi Văn Vượng (2000): Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam; NXB

Thanh Niên.

118. Hải Yến (2001), “Khuyến khích phát triển ngành nghề thủ công mỹ

nghệ ở nông thôn”, Báo Đầu tư. (số 55).

192

PHỤ LỤC

MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA

“Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thủ công nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”

Nhằm thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu của Việt Nam đến 2015 và 2020. Nghiên cứu do Nghiên cứu sinh Nguyễn Hữu Thắng (Tổng công ty thương mại Hà Nội) tiến hành điều tra ý kiến của các làng nghề và doanh nghiệp làng nghề nhằm có cơ sở khoa học thực hiện đề tài luận án Tiến sỹ về Phát triển làng nghề, doanh nghiệp làng nghề thủ công nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”

Rất mong quý ông, bà dành thời gian trả lời khách quan, chính xác các nội dung của phiếu điều tra. Tôi cam đoan sẽ chỉ công bố các kết quả điều tra sau khi đã xử lý thống kê. Các thông tin riêng của Công ty sẽ được giữ bí mật.

Xin chân thành cảm ơn.

Tên Doanh nghiệp : ............................................................................................

Địa chỉ.................................................................................................................

thoại: ................................Fax:

Điện .................................Website................................

Họ và tên người trả lời:.............................. Chức vụ:.. ......... .............................

Xin vui lòng khoanh tròn vào ô thích hợp hoặc điền vào chỗ trống

1

Loại hình làng nghề mỹ nghệ?

Mỹ nghệ kim loại

1

Mỹ nghệ gỗ

2

Mỹ gốm

3

Mỹ nghệ mây tre đan

4

Mỹ nghệ khác

5

I. Thông tin chung về làng nghề.

193

2

Dưới 5 DN

1

Số lượng doanh nghiệp trong làng nghề (SX hoặc KD mỹ nghệ)

Từ 5 đến 10 DN Từ 10 đến 15 DN Trên 15 DN

2 3 4

Dưới 1 năm

1

3 Kinh nghiệm Sản xuất và xuất khẩu của làng nghề ? Nêu chỉ sản xuất hoặc chỉ kinh doanh cũng ghi rõ

2

Từ 1 đến 3 năm

3

Từ 3 đến 5 năm

4

Từ 5 đến 10 năm

5

Trên 10 năm

4

Làng Xã

tỉnh

TW

Huy ện

Làng nghề của ông/ bà đã thành lập hiệp hội chưa/ tham gia ở cấp độ nào

1

2

3

4

5

5

-Tỉnh / thành phố

Vai trò của các cơ quan xúc tiến thương mại đối với các làng nghề

- Bộ/ ngành

-Trưng ương

1

2

3

4

5

6

Vai trò của các hiệp hội ngành hàng đối với hoạt động của làng nghề

Vai trò của hiệp hội và các cơ quan xúc tiến

Thấp

Cao

194

-Vốn

1

2

3

4

5

7

- Nguyên liệu

Để phát triển làng nghề theo ông/ bà yếu tố nào là cần thiết nhất

- Lao động/ tay nghề

-Thị trường

Tầm quan trọng của các yếu tố sản xuất

1

2

3

4

5

8

Tốc độ tăng trưởng của doanh thu/ Kim ngạch xuất khẩu

Giải quyết việc làm

1

2

3

4

5

9

10 Môi trường sinh thái

1

2

3

4

5

Sự quan tấm của các làng nghề mỹ nghệ đến phát triển bền vững

Thấp

Cao

11 Loại hình sở hữu của DN ?

DN Nhà nước

1

Công ty cổ phần, công ty TNHH

2

DN tư nhân

3

Hợp tác xã, Tổ hợp tác

4

DN có vốn đầu tư nước ngoài

5

12 Quy mô vốn của DN ?

Dưới 1 tỷ đồng Việt Nam (VND)

1

Từ 1 tỷ đến 5 tỷ VND

2

Từ 5 đến 10 tỷ VND

3

Từ 10 đến 20 tỷ VND

4

Trên 20 tỷ VND

5

B. Thông tin chung về DN.

195

13 Quy mô lao động của DN

Dưới 50 người

1

Từ 50 đến 100 người

2

Từ 100 đến 300 người

3

Từ 300 đến 500 người

4

Trên 5.00 người

5

14 Kinh nghiệm xuất khẩu của DN ?

Dưới 1 năm

1

Từ 1 đến 3 năm

2

Từ 3 đến 5 năm

3

Từ 5 đến 10 năm

4

Trên 10 năm

5

15 Về giá trị sản xuất hoặc tổng doanh thu

.......................%

Tỷ trọng SX, kinh doanh của doanh n ghiệp trong tổng giá trị sản xuất hoặc tổng doanh thu của làng nghề ( Đang quản lý DN)?

....................%/năm

Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng giá trị sản xuất hoặc doanh thu của DN trong 5 năm qua

.....................%/năm

Tốc độ tăng trưởng bình quân của giá trị sản xuất hoặc doanh thu của Mỹ nghệ trong 5 năm qua

16 Về kim ngạch xuất khẩu

Tổng kim ngạch xuất khẩu của DN 5 năm qua?

....................%

..................%/năm

Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm qua

.................%/năm

Tốc độ tăng trưởng bình quân của kim ngạch xuất khẩu Ngành Mỹ nghệ trong 5 năm qua

196

17 Mức đầu tư của DN vào nghiên cứu và phát triển R&D trong

...................%

tổng doanh thu, bình quân trong 5 năm qua?

.....................%

Mức đầu tư của DN vào đào tạo người lao động, bình quân trong 5 năm qua?

Mức đầu tư của DN vào bảo vệ môi trường

.....................%

Kém Tốt

Nguồn lực tự nhiên

1

2

3

4

5

Lao động giản đơn

1

2

3

4

5

17 Chất lượng và khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào cần thiết cho hoạt động của DN

Lao động kỹ thuật

1

2

3

4

5

Vốn cố định

1

2

3

4

5

Vốn lưu động

1

2

3

4

5

Công nghệ sản xuất

1

2

3

4

5

Cơ sở hạ tầng

1

2

3

4

5

C. Đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DN.

Thấp Cao

18

1

2

3

4

5

Mức độ cạnh tranh về sản phẩm giữa các DN

Sự cạnh tranh và chia sẻ giữa các làng nghề Thủ công mỹ nghệ

1

2

3

4

5

Khả năng chia sẻ thông tin giữa các DN trong ngành

1

2

3

4

5

Khả năng di chuyển của người lao động giữa các DN trong ngành

Sự liên kết giữa các làng nghề

197

Bất lợi Thuận lợi

1

2

3

4

5

19

Tác động của các ngành hỗ trợ đến Xuất khẩu TC mỹ nghệ của DN

Các ngành hỗ trợ được hiểu là các ngành cung cấp các đầu vào

1

2

3

4

5

20

Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến ngành TCMN

1

2

3

4

5

21

Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động của DN

Xây dựng môi trường pháp lý

1

2

3

4

5

Có các chính sách hỗ trợ DN

Hiếm khi

Thường xuyên

22 Mức độ

Phân phát ấn phẩm ca-ta-lô

2

3

4

5

1

Tham gia hội chợ quốc tế

2

3

4

5

1

thường xuyên sử dụng các hình thức xúc tiến xuất khẩu

thăm khách hàng nước

1

2

3

4

5

Đi ngoài

2

3

4

5

1

Cập nhật trang web với những thông tin mới

Các chương trình quảng cáo

2

3

4

5

1

2

3

4

5

1

Thông qua các hiệp hội, tổ chức thương mại

Các chương trình khuyến mãi

2

3

4

5

1

Hình thức khác, Xin ghi rõ

2

3

4

5

1

.........................................

198

Dễ dàng Khó khăn

23 Những khó khăn của DN

Tìm kiếm nhà cung cấp

1

2

3

4

5

khi mở rộng xuất khẩu

Tiếp cận với các nguồn vốn

1

2

3

4

5

Thuê đất đai, nhà xưởng

1

2

3

4

5

Tuyển dụng lao động

1

2

3

4

5

Nghiên cứu thị trường

1

2

3

4

5

Thủ tục hành chính

1

2

3

4

5

Tìm kiếm khách hàng

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

Vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm

Thủ tục hải quan

1

2

3

4

5

Khó khăn khác, Xin ghi rõ

1

2

3

4

5

...........................................

Không Có

24

Mở rộng quy mô sản xuất, tăng xuất khẩu

1

0

Mở rộng thị trường trong nước

1

0

Chiến lược của DN trong đoạn giai 2006-2015

Mở rộng thị trường xuất khẩu

1

0

Mở rộng sang các ngành cung cấp đầu vào

1

0

Mở rộng sang các ngành có liên quan

1

0

1

0

Mở rộng sang các ngành khác, không có liên quan

Phát triển hệ thống kênh phân phối

1

0

D. Dự báo khả năng phát triển trong tương lai.

199

Giai đoạn 2006- 2010

..............%/năm

25 Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của toàn ngành

Giai đoạn 2010- 2015

................%/năm

Giai đoạn 2006- 2010

Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng giá trị sản xuất của DN

................%/năm

Giai đoạn 2010- 2015

...............%/năm

Giai đoạn 2006- 2010

..............%/năm

26 Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành

Giai đoạn 2010- 2015

................%/năm

Giai đoạn 2006- 2010

................%/năm

Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng kim ngạch xuất khẩu của DN

Giai đoạn 2010- 2015

...............%/năm

27. Các ý kiến đóng góp khác của làng nghề vàDN làng nghề liên quan đến đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ 2010 đên 2015 và 2020 :

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

200

Xin chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp của Quý DN !

Xin vui lòng đóng dấu giáp lai các trang để đảm bảo tính xác thực (nếu có thể).

Mọi thông tin có liên quan xin gửi về:

NCS Nguyễn Hữu Thắng

Tổng công ty Thương mại Hà Nội

Địa chỉ: 38 - 40 Lê Thái Tổ - Quận Hoàn Kiếm- Hà Nội

Tel: 0903909724- 04.38267984

Fax: 04.38267983

Email: hapro@haprogoup.vn

201

DANH SÁCH ĐƠN VỊ ĐƯỢC ĐIỀU TRA

1) Công ty TNHH Thương mại Bảo Phương: xã Duyên Thái - Thường Tín - HN

2) Công ty TNHH Quang Minh: Ninh Sơn- Thường Tín- Hà Nội

3) Doanh nghiệp tư nhân mây tre đan xuất khẩu Dũng Nga : Hoàng Đông-

Duy Tiên- Hà Nam

4) Công ty TNHH Minh Cẩm: 73 Mạc Đĩnh Chi- TP Hải Dương- Hải Dương

5) Công ty CP Mây tre đan XK Ngọc Anh: Ninh Sở- Thường Tín- Hà Nội

6) Công ty CP Khánh Sơn: Yên Đồng, Nam Định

7) Công ty CP Sơn mài Thái Phú Cường: Duyên Thái- Thường Tín- Hà Nội

8) Doanh nghiệp tư nhân Nam Tuyến: Cát Đằng- Nam Định

9) Công ty TNHH Trung Trang: Cát Đằng- Nam Định

10) Công ty TM và SX Tân Châu: Lô33-B1-26 Phan Đăng Lưu- Đà Nẵng

11) Công ty gỗ mỹ nghệ Quang Trung: 280/2A- Cách mạnh Tháng Tám- P10-

Q3- TP.HCM

12) Công ty TNHH Thành Thuý: Cát Đằng- Nam Định

13) Công ty TNHH Bình Phú: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

14) Công ty TNHH Đăng Long: F6 Khu chế biến gỗ- P Tân Hòa- Biên Hòa.

15) Cơ sở gốm Nguyễn Thị Thu Hà: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

16) Công ty CP Đầu tư và Phát triển Việt Bắc: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

17) Công ty CP gốm Nhung: Phù Lãng- Quế Võ- Bắc Ninh

18) Công ty TNHH Hồng Lý Trường Giang 23/15 Nguyễn Hữu Tiếu- P Tây

Thạnh-Q Tân Phú- TP.HCM

19) Công ty TNHH Hà Quy: Bát Tràng- Gia lâm- Hà Nội

20) Công ty Thành Hưng: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

21) Công ty TNHH một thành viên T.T.H Việt Nam: Bát Tràng - Gia Lâm - HN

22) Công ty TNHH Bảo An- Bát Tràng: Bát Tràng- Gia lâm- Hà Nội

23) Công ty TNHH SX - DVTM Bảo Long: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

202

24) Công ty Mỹ nghệ chiến Thắng: Đồng Quang- Từ Sơn- Bắc Ninh

25) Công ty TNHH Mỹ nghệ Thăng Long: Thiết Bình, Vân Hà-Đông Anh - HN

26) Công ty CP Long Sơn: Lô3 -23A-Đường 19/5- Khu CN Tân Bình-

TP.HCM

27) Công ty TM và SX Xưởng Phát: 9B Kha Vạng Cân- P Linh Động- Thủ

Đức- TP.HCM

28) Doanh nghiệp tư nhân Tiến Huynh: Yên Lộc- Kim Sơn- Ninh Bình

29) Doanh nghiệp tư nhân chiếu cói Quang Minh: Thượng Kiệm - Kim Sơn -

Ninh Bình

30) Công ty TNHH TCMN Nhật Linh: Ngõ 4 Yecxanh- Hai Bà Trưng- Hà Nội

31) Doanh nghiệp tư nhân Thanh Tuấn: Phương Yên- Chương Mỹ- Hà Nội

32) Doanh nghiệp tư nhân Thành Đạt: Phương Yên- Chương Mỹ- Hà Nội

33) Tổ hợp tác Mây tre Yên Kiên: Phương Yên- Chương Mỹ- Hà Tây

34) Công TNHH Thủ công mỹ nghệ và Nội thất Ngọc Sơn: Chúc Sơn-

Chương Mỹ- Hà Nội

35) Công ty CP Kim Sơn: Kim Sơn - Ninh Bình

36) Xí nghiếp chiếu cói xuất khẩu Đại Đồng: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình

37) HTX Thêu Quang Trung: Thanh Liêm- Hà Nam

38) Công ty TNHH Á Châu Thăng Long: 236 Chu Văn An- P26- Q Bình

Thạnh- TP.HCM

39) Công ty mỹ thuật Hồng Quảng: số 5- Ngõ 6- Hà Trí- Hà Cầu- Hà Đông-

Hà Nội

40) Doanh nghiệp tư nhân Liệp Tuyết: Quốc Oai- Hà Nội

41) Doanh nghiệp Mây tre đan Thái Toàn: Chương Mỹ- Hà Nội

42) Doanh nghiệp Hiệp Hoà: 34 Nguyễn Thái Học- Thái Bình

43) Công ty Thương mại Hoàng Thành: Thanh Liêm- Hà Nam

44) Xí nghiệp mây tre đan Hưng Thịnh: Văn Giang- Hưng Yên

45) Công ty CP Khánh Sơn: Ý Yên- Nam Định

203

46) Cơ sở Mây tre Hữu nghị: Sài Sơn- Quốc Oai- Hà Nội

47) Doanh nghiệp gốm Phát Thành: Tân Vạn- Biên Hoà- Đồng Nai

48) Doanh nghiệp tư nhân gốm mỹ nghệ xuất khẩu An Hoà: Phước Khánh,

Tân Uyên- Bình Bương

49) Công ty TNHH Thành Phát: Đông Hoà- Dĩ An - Bình Bương

50) Cơ sở mộc Vũ Hoàng: Trường Thọ- Thủ Đức- TP. HCM

51) Công ty TNHH SX và KDTM Thịnh Thành: P13-Q Tân Bình-TP.HCM

52) Công ty TNHH Tứ Cường: P Tân Phú- Q 9- Tp.HCM

53) Cơ sở Phú Long Tân: Hoà Long- Lái Thiêu- Bình Bương

54) Công ty TNHH Minh Tuấn: P Chánh Nghĩa- Thủ Dầu Một- Bình Bương

55) Công ty TNHH SX-TM Thành Hoàng Trung: Xuân Quy- Q7- TP. HCM

56) Cơ sở Mây tre đan XK Phúc Lộc: Bình Đa- Biên Hoà- Đồng Nai

57) Doanh nghiệp tư nhân Mây tre lá Kim Nguyệt: Thị trấn Hóc Môn-

TP.HCM

58) Doanh nghiệp tư nhân Sơn Thảo: Thống Nhất- Gò Vấp-TP.HCM

59) Doanh nghiệp tư nhân SX-TM-DV- Cô Bi: P2-Q4-TP.HCM

60) Công ty TNHH Minh Huyên: Đức Mỹ- Càng Long- Trà Vinh

61) Cơ sở SX gốm MN Minh Hưng: Thuận An- Thuận Giao- Bình Dương

62) Cơ sở bán buôn mây tre lá tạp phẩm XK Bình Đa: Trảng Dài- Biên Hoà-

Đồng Nai

63) Công ty TNHH Nam Hải Dương: Khu phố 2 - Trảng Dài- Biên Hoà - ĐNai

64) HTX Thủ công mỹ nghệ XK Vĩnh Phước: TT.Ninh Hoà- Khánh Hoà

65) Công tyTNHH Mỹ nghệ Đức Thị: An Dương Vương- P9-Q5-TP.HCM

66) Tổ hợp SX-KD Phước Thành: Long An- Châu Thành -Tiền Giang

67) Cơ sở Dạ Lý Hương: 7/2 Lương Định Của- Q2- TP.HCM

68) Công ty SX-TM Khánh Lộc: Tổ 10-KP2-Q9-TP.HCM

69) Công ty TNHH Tấn Khoa: 156 nguyễn Phi Khanh- Q1- TP.HCM

70) Công ty TNHH Thanh Bình: An Hiệp- Châu Thành- Bến Tre

204

71) HTX Mành trúc Bình Minh: 184/3 Lê Văn Sỹ- Q Phú Nhuận- TP. HCM

72) Doanh nghiệp tư nhân gốm Đại Hồng Phát: Thuận An- Bình Bương

73) Doanh nghiệp tư nhân gốm XK Nguyên Ký: Tân Uyên- Bình Dương

74) Cơ sở sản xuất đồ giá gỗ Nguyễn Thị Sang : P2-Q5-TP.HCM

75) Cơ sở gốm Xuân Hiếu: Long Bình- Q9-TP.HCM

76) Công ty CP gốm Việt Thành: Hoà An- Biên Hoà- Đồng Nai

77) Doanh nghiệp tư nhân gốm Hồng Lam: Phước Khánh, Tân Uyên- BD

78) Doanh nghiệp tư nhân Năm Hạnh: Bửu Hoà- Biên Hoà- Đồng Nai

79) Công ty TNHH Tam Thanh: Bình Chuẩn- Thuận An- Bình Dương

80) Doanh nghiệp tư nhân gốm sứ Minh Đúc: Hoà Yên- Thuận An- Bình Dương

81) Cơ sở gốm MNXK Nguyễn Thành Phát: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

82) Công ty TNHH Đại Hiếu: 7/19 KP3- P Hố Nai- Biên Hoà- Đồng Nai

83) Công ty TNHH Sanh Hoà Hưng: Hoà Liên- Thuận An- Bình Dương

84) Công ty TNHH Tân Ngọc Phát: Chánh Nghĩa- TX Thủ Dầu Một- B Dương

85) Công ty TNHH Cường Phát: Thuận An- Bình Dương

86) Doanh nghiệp tư nhân Trí Tâm Đức: Bửu Hoà- Biên Hoà- Đồng Nai

87) Công ty TNHH Nam Sơn :51-53 Phổ Quang- P2-Q Tân Bình- TP.HCM

88) Công ty TNHH Lê Mai Lan: Phước Tân- Long Thành- Đồng Nai

89) Doanh nghiệp tư nhân gốm mỹ nghệ Thanh Nhã: Vĩnh Hiệp- Tân Uyên –

Bình Dương

90) Doanh nghiệp tư nhân sản xuất thương mại Hưng Hoà: Tân Vĩnh Hiệp-

Tân Uyên- Bình Dương

91) Doanh nghiệp tư nhân gốm Vĩnh Phát:160/1A- Thuận An- Bình Dương

92) HTX Phước Hưng: Phước Khánh- Tân Uyên- Bình Dương

93) Doanh nghiệp tư nhân gốm sứ Vân Kiều: Tân Khánh- Tân Uyên- Bình Dương

94) Doanh nghiệp tư nhân gốm XK Vạn Phúc: Phước Khánh- Tân Uyên-Bình Dương

95) Doanh nghiệp tư nhân Định Dân: Hoà Lan- Thuận An- Bình Dương

96) Doanh nghiệp tư nhân Bình Mỹ: Bình Mỹ- Củ Chi- TP.HCM

205

97) Công ty Trí Tuệ: Dân Hoá- Thanh Oai - Hà Nội

98) DNTN Văn Chất: Hưng Mỹ- Châu Thành- Trà Vinh

99) Công ty TNHH TCMN Bình Thuận: Hàm Tân- Bình Thuận

100) DNTN Phong Sơn: P. Tân Vạn- Biên Hoà- Đồng Nai.

101) Công ty TNHH Tiến Thanh: Xóm 4- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

102) Hợp tác xã Hợp Lực: Xóm 2- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

103) Công ty TNHH gốm sứ Quang Vinh: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

104) Công ty TNHH gốm sứ Bát Tràng: Bát Tràng- Giá Lâm- Hà Nội

105) Công ty cổ phần gốm sứ 51: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

106) Công ty TNHH Thiên Phước: Bát Tràng- Gia Lâm-Hà Nội

107) Công ty TNHH Vỹnh Thắng: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

108) Công ty TNHH Hưng Thanh: Xóm 5- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-Hà Nội

109) Công ty TNHH Bát Tràng và gốm Gia Bảo: Xóm 2- Bát Tràng- Gia Lâm-

Hà Nội

110) Công ty TNHH Bình Phú: Xóm 2- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

111) Cơ sở gốm sứ Việt : Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

112) Công ty TNHH Giang Long: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

113) Công ty TNHH gốm sứ Hoàng Long: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

114) Cơ sở gốm sứ Phương Hoa: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

115) Cơ sở gốm Học Hà: Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

116) Công ty gốm mỹ nghệ Linh Trang: số 6- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-

Hà Nội

117) Cơ sở gốm sứ Hải Nhung: số 55- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

118) Cơ sở gốm sứ Duy Long: Xóm 3- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

119) Công ty XNK gốm sứ Hưng Hà: số 82- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-

Hà Nội

120) DN gốm sứ mỹ nghệ Hương Sơn: Số 84- Giang Cao- Bát Tràng- Gia Lâm-

Hà Nội

206

121) Cơ sở gốm sứ Trần Đức Tân: Xóm 5- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

122) Cơ sở gốm sứ Quang Huy: Xóm 3- Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

123) Xí nghiệp tư doanh TCMN Đổi mới: Đồng Hướng- Kim Sơn- Ninh Bình

124) Xí nghiệp tư doanh chiếu cói Quang Minh: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình

125) DN tư nhân SX cói XK Thành Hóa: Khánh Nhạc- Yên Khánh- Ninh Bình

126) DN tư nhân Quỳnh Văn:Ân Hòa- Kim Sơn- Ninh Bình

127) DN tư nhân Ngọc Sơn: Hùng Tiến- Kim Sơn- Ninh Bình

128) Xí nghiệp tư doanh chiếu cói XK Quang Phong: Phát Diệm- Kim Sơn-

Ninh Bình

129) Xí nghiệp chiếu cói XK Đại Đồng: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình

130) DN tư nhân TCMN Minh Hoàng: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình

131) Xí nghiệp tư nhân cói Năng Động: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình

132) Công ty TNHH Thanh Mai: Yên Phú- Yên Mô- Ninh Bình.

133) Công ty SX thảm cói Thành Sơn: Yên Nhân- Yên Mô- Ninh Bình

134) Công ty CP chế biến cói XK Kim Sơn: Phát Diệm- Kim Sơn- Ninh Bình

135) DN tư nhân Xuân Tình: Yên Mô- Ninh Bình

136) DN Hà Trung: Phú Lộc- Nho Quan- Ninh Bình

137) HTX Hải Mỹ: Kim Mỹ- Kim Sơn- Ninh Bình

138) HTX NN Kim Tân: Kim Tân- Kim Sơn- Ninh Bình

139) HTX NN Bắc Thành: Lai Thành- Kim Sơn- Ninh Bình

140) HTX Tân Khẩn Kim Mỹ: Kim Mỹ- Kim Sơn- Ninh Bình

141) HTX NN Đông Hải: Vân Hải- Kim Sơn- Ninh Bình

142) HTX Nam Thành: Lai Thành- Kim Sơn- Ninh Bình

143) HTX NN Định Hóa: Định Hóa- Kim Sơn- Ninh Bình

144) XN cói Tiến Huynh: Yên Lộc- Kim Sơn- Ninh Bình

145) Công ty CP lâm sản XK tổng hợp Bình Dương: 612 Đại lộ BD- Hiệp

Thành- Thủ Dầu Một- Bình Dương

207

146) Cơ sở mỹ nghệ Cao Văn Ninh: 206 Giáo xứ Ngô Xá- Hố Nai 3- Trảng

Bom- Đồng Nai

147) Có sở TCMN Trường Ngân: 664 Nguyễn Thái Học- Quy Nhơn- Bình Định

148) Công ty TNHH Trung Việt: Yên Nghĩa- Hà Đông- Hà Nội

149) Cơ sở TCMN Truyền Thống: Chương Mỹ Hà Nội

150) Công ty TCMN Hà Tây: Thụy Ứng - Thường Tín- Hà Nội

151) Công ty CP chế biến lâm sản Tuyên Quang: Đường Tân Hà- Minh Xuân-

Tuyên Quang

152) Công ty TNHH Minh Phú: Liên Bảo- Vụ Bản- Nam Định

153) XN đồ gỗ mỹ nghệ Đức Thắng: 41-A1 Khu CN Đồng Kỵ- Từ Sơn- Hà Nội

154) Tổ hợp song mây tre XK Huyền Thu: Trường Yên- Chương Mỹ- HN

155) HTX tre trúc Thu Hằng: Xuân Thu- Sóc Sơn- Hà Nội

156) Công ty TNHH Kim Việt:154 Nguyễn Chí Thanh- Đống Đa- Hà Nội

157) Cơ sở mây tre đan XK Lệ Tùng: Quốc lộ 6ê- Chương Mỹ- Hà Nội

158) Doanh nghiệp Thái Toàn: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội

159) Cơ sở Bùi Cao Thạnh: Ninh Sở- thường Tín- Hà Nội

160) Công ty TNHH SX-XNK hàng TCMN và Thương mại Thu Nguyệt: Ninh

Sở- Thường Tín- Hà Nội

161) Cơ sở mũ Đội Cấn : 38/279 Đội Cấn- Ba Đình- Hà Nội

162) HTX mây tre lá Hồng Kỳ: Phú Túc- phú Xuyên- Hà Nội

163) DN mây tre đan Liệp Tuyến: Thạch Thất- Hà Nội

164) Cơ sở Tiến Tới: Thành phố Thái Bình

165) DN Hiệp Hòa: 34 Nguyễn Thái Học- TP. Thái Bình

166) XN mây tre đan Hưng Thịnh: Thôn Công Luận1- Văn Giang- Hưng Yên

167) HTX mây tre đan XK Liên Khê: Liên Khê- Khoái Châu- Hưng Yên

168) Công ty TNHH mây tre XK Chúc Sơn:Khu CN Phú Nghĩa- Chương Mỹ-

Hà Nội

169) Cơ sở mây tre Hữu Nghị: Sài Sơn- Quốc Oai- Hà Nội

208

170) Công ty TNHH mây tre XK và nội thất Ngọc Sơn: Ngọc Sơn- Chương

Mỹ- Hà Nội

171) DN mỹ nghệ Hùng Quang: Liên Minh- Vụ Bản- Nam Định

172) Công ty TNHH Hùng Anh:Yên Tién- Ý Yên- Nam Định

173) Công ty CP TCMN Việt Hà: Yên Tiến, Ý Yên- Nam Định

174) Công ty CP mây tre mỹ nghệ Trường Giang: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

175) Công ty TNHH Hải Nguyệt: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

176) Công ty TNHH Hoàng Hưng: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

177) Công ty TNHH Nam Hải: Yên Tiến - Ý Yên- Nam Định

178) Công ty TNHH Thành Lợi: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

179) Công ty TNHH Trang Lan: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

180) Công ty TNHH Vũ Việt Anh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

181) DN Thái Anh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

182) DN Thanh Hoàn: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

183) DN tư nhân Anh Quyền: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

184) DN tư nhân Anh Tấn: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

185) DN tư nhân Chiến Quyên: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

186) DN tư nhân Đức Huy: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

187) XN SX hàng TCMN Thông Lai: Phú Lâm- Hà Đông- Hà Nội

188) Cơ sở SX mây tre đan TCMN: Lưu Thượng- Phú Xuyên- Hà Nội

189) Công ty TCMN Đoàn Kết II: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

190) Công ty mây tre XK Nhật Anh: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội

191) Công ty TNHH TCMN XK Phú Nghĩa: 28/131 Thái Hà- Đống Đa- Hà Nội

192) Công ty TNHH mây tre XK Tuấn Quang: Trường Yên- Chương Mỹ-HN

193) Công ty TNHH mây tre XK Hiền Luơng: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội

194) Công ty TNHH SX và XNK Đoàn Kết 1: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội

195) Công ty TNHH mây tre đan Tốt Động: Tốt Động- chương Mỹ- Hà Nội

196) Cơ sở XK đồ mỹ nghệ: Xuân Lai- Gia Bình- Bắc Ninh

209

197) DN tư nhân Đức Mạnh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

198) DN tư nhân Đức Tịnh: Yên Tién- Ý Yên- Nam Định

199) DN tư nhân Đức Tùng: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

200) DN tư nhân Hà Thảo: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

201) DN tư nhân Mỹ Thái: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

202) DN tư nhân Tiến Liễu: Yên Tiến, Ý Yên, Nam Định

203) DN tư nhân Văn Minh: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

204) DN XK TCMN Yên Tiến: Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

205) DN mây tre đan Đình Triều: Nghi Phong- Nghi Lộc- Nghệ An

206) DN tư nhân mây tre đan XK Dũng Nga: Hoàng Đông- Duy Tiên- Hà Nam

207) Công ty TNHH mây tre Xuân Lạng: Viên Sơn- Sơn Tây- Hà Nội

208) DN SX mây tre XK Khánh Linh: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội

209) Công ty mây tre đan Phú Đô: Phú Nghĩa- Chương Mỹ- Hà Nội

210) Công ty TNHH XNK TCMN Đông Thành: Đường Quyết Thắng- Đông

Thành- Ninh Bình

211) Cơ sở mây tre Thành Phát: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Tây- Hà Nội

212) Cơ sở sơn mài Hương Giang: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

213) Cơ sở sơn mài Huỳnh Thái Hiệp: Phường Chánh Nghĩa- Thủ Dầu Một-

Bình Dương

214) Cơ sở sơn mài Kim Ngân: Bình Thâm- Bình An- Bình Dương

215) Cơ sở sơn mài Lê Nghiêm: Tương Hiệp Bình- Thủ Dầu Một- Bình Dương

216) Cơ sở sơn mài Văn cờ: Tân An- Thủ Dầu Một- Bình Dương

217) Cơ sở sơn mài Minh Hải: Chánh Mỹ- Thủ Dầu Một- Bình Dương

218) Cơ sở sơn mài Nguyễn Văn Hạnh: Phường Chánh Nghĩa- Thủ Dầu Một-

Bình Dương

219) Cơ sở sơn mài Phù Điêu: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

220) Cơ sở sơn mài Phú Hòa: Phường Phú Hòa- Thủ Dầu Một- Bình Dương

210

221) Cơ sở gia công SX sơn mài mỹ nghệ Kim Phúc: Phường Phú Lợi- Thủ

Dầu Một- Bình Dương

222) Cơ sở sơn mài Thái Hiếu: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

223) Cơ sở sơn mài Anh Công : Hiệp An- Thủ Dầu Một- Bình Dương

224) Cơ sở sơn mài Anh Đào: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

225) Cơ sở sơn mài Chí Hiên: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

226) Cơ sở sơn mài Công Tín: Phú Cường- Thủ Dầu Một- Bình Dương

227) Cơ sở sơn mài Hiệp Công: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

228) Cơ sở sơn mài Hoàng Khánh: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

229) Cơ sở sơn mài Hoàng Lâm: Tương Bình Hiệp- Thủ Dầu Một- Bình Dương

230) Cơ sở sơn mài Hoàng Kim: Chánh Mỹ- Thủ Dầu Một- Bình Dương

231) Cơ sở sơn mài Hoàng Phú: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

232) Cơ sở sơn mài Hồng Đức: Tân An- Thủ Dầu Một- Bình Dương

233) Xí nghiệp gốm Chu Đậu: Thái Tân- Nam Sách- Hải Dương

234) HTX gốm Đông Thành: Đông Triều- Quảng Ninh

235) DN Tre Làng: Tân Trung Phú- Củ Chi- TP.HCM

236) DN tư nhân gốm An Hòa: Phước Khánh- An Uyên- Bình Dương

237) DN tư nhân Nam Hạnh: Hóa An- Biên Hòa- Đồng Nai

238) Công ty TNHH Sanh Hòa Hưng: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

239) DN tư nhân gốm Vạn Phú: Phước Khánh- Tân Uyên- Bình Dương

240) Công ty CP gốm Việt Thành: Hóa An- Biên Hòa- Đồng Nai

241) DN tư nhân Van Kiều: Bình Chuẩn- Thuận An- Bình Dương

242) DN tư nhân Minh Đức: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

243) Công ty TNHH Cường Phát: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương

244) Cơ sở mây tre lá Nguyễn Hiệp: Tam Hiệp- Biên Hòa- Đồng Nai

245) HTX mây tre lá XK Hòa Hiệp:189/4 Tôn Thất Thuyết- Q4,TP.HCM

246) Cơ sở mây tre lá Thành Phát: Tân Mai- Biên Hòa- Đồng Nai

247) Cơ sở gốm Minh Hưng:Hưng Định- Thuận An- Bình Dương

211

248) Cơ sở gốm sứ Phục Nguyên: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương

249) Cơ sở gốm sứ Minh Cường: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương

250) Cơ sở gốm sứ 1/5: Lái Thiêu- Thuận An- Bình Dương

251) Công ty TNHH gốm sứ Tân Trường Sanh: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương

252) Cơ sở gốm sứ Liên Thêm: Bình Hòa- Thuận An- Bình Dương

253) Cơ sở gốm sứ Tân Xuân Long: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

254) Cơ sở gốm sứ Ngọc Thành Phong: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

255) Cơ sở gốm sứ Như Ngọc: Hưng Định- Thuận An- Bình Dương

256) Cơ sở mây tre lá Lan vinh: Tân Phong- Biên Hòa- Đồng Nai

257) Cơ sở gốm sứ Phùng Châu Liên: An Thạnh- Thuận An- Bình Dương

258) DN gốm sứ Vĩnh Phát: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

259) Cơ sở gốm sứ Vương Thành: Thái Hòa- Tân Uyên- Bình Dương

260) Cơ sở gốm sứ Minh Phương: An Phú- Thuận An- Bình Dương

261) Cơ sở gốm sứ Phước Sinh: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

262) THX dệt lụa Vạn Phúc: số 1 Vạn Phúc- Hà Đông- Hà Nội

263) HTX mây tre Tăng Tiến: Phúc Tăng- Việt Yên- Bắc Giang

264) Công ty mỹ nghệ Khải Hoàn: 231/7Lê Văn Sỹ-P14-Q Phú Nhuận-TP.HCM

265) DN tư nhân TCMN-May XK Hòa Thành: Thị trấn Bến Lúc- Long An

266) DN mây tre Thanh Bình: Thái Xuyên- Thái Thụy- Thái Bình

267) Công ty TNHH VNC: Đông Bắc- Nha Trang- Khánh Hòa

268) DN tư nhân SD : Cụm CN Trung An- TP. Mỹ Tho- Tiền Giang

269) Công ty đồ gỗ nội thất Hoa Phương: 45 Đò Quan- Nam Định

270) Công ty CP mỹ thuật Gia Long: 63 Lý Chính Thắng-Q3-TP.HCM

212

BÁO CÁO KẾT QUẢ ĐIỀU TRA

Tháng 5/2008, tác giả đã tiến hành điều tra 350 DN làng nghề để xem

xét những vấn đề liên quan đến hoạt động và kiến nghị của các DN làng nghề

và làng nghề. Kết quả tác giả đã nhận được hơn 270 phiếu gửi về. Trong

phiếu điều tra gửi cho DN làng nghề, tác giả định hướng 4 vấn đề lớn với 28

tiêu chí.

Tác giả gửi phiếu hoặc phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi thiết kế sẵn

đối với những cá nhân đại diện cho doanh nghiệp của các DN làng nghề.

Theo D.J Luck, R.S Rubin (1998), Nghiên cứu Marketing, NXB Thống

kê thì số lượng đối tượng cần cho nghiên cứu tính theo công thức sau:

n = pq (Z2 / e2)

 P là tần số xuất hiện ( p = 0,5 ) và q = 1- p = 0,5

 Z là hệ số tin cậy, ấn định độ tin cậy 95% nên Z = 1,96

 E là sai số cho phép:

+ Với cỡ mẫu DN làng nghề: ấn định E = 0.065 (tức 6,5%)

Theo công thức trên số DN làng nghề điều tra sẽ khoảng 200-220.

Việc xử lý toàn bộ các phiếu điều tra đã được thực hiện bằng phần mềm

SPSS. Đây là chương trình xử lý dữ liệu khá phổ biến, áp dụng cho các cuộc

nghiên cứu marketing. Kết quả tổng hợp sau xử lý như sau (Số liệu đã được

làm tròn số):

213

A. Thông tin chung về làng nghề

1. Loại hình làng thủ công mỹ nghệ

- Mây tre: 25%

- Thêu ren: 12%

- Gỗ: 12%

- Dệt 12%

- Cói:10%

- Gốm sứ:2%

- Loại khác: 27%

2. Số lượng DN trong làng nghề (SX hoặc KD hàng thủ công mỹ nghệ)

- Dưới 5 DN : 11%

- Từ 5-10 DN : 24%

- Từ 10-15 DN : 46%

- Trên 15 DN : 29%

3. Kinh nghiệm SX và XK của làng nghề

- Dưới 1 năm : ( KN SX: 0%; KN XK 0%)

- Từ 1-3 năm: ( KN SX: 0%; KN XK 8%)

- Từ 3-5 năm: ( KN SX: 0%; KN XK 29%)

- Từ 5-10 năm: ( KN SX 5%; KN XK 47%)

- Trên 10 năm: ( KN SX: 95%; KN XK: 16%)

4. Làng nghề đã thành lập Hiệp hội chưa/tham gia ở cấp nào?

- Đã thành lập : 14%

- Chưa thành lập : 86%

- Tham gia ở cấp làng: 14%

- Tham gia cấp xã: 10%

- Tham gia cấp huyện: 7%

- Tham gia cấp tỉnh : 5%

214

- Tham gia cấp TW: 2%

5. Vai trò của các cơ quan XTTM đối với làng nghề (theo thứ tự từ ít đến

nhiều - 5 bậc từ 1-5)

- Cấp tỉnh/thành:

+ Bậc 1: 13%; + Bậc2: 16%; Bậc 3: 24%; Bậc 4: 32%; Bậc 5: 15%

- Cấp Bộ/ngành:

+ Bậc 1: 41%; Bậc 2: 27% ; Bậc 3: 19%; Bậc 4: 8%; Bậc 5: 6%

6. Vai trò của Hiệp hội ngành hàng đối với hoạt động của làng (theo thứ tự

từ thấp đến cao- 5 bậc từ 1-5)

- Bậc 1: 19%; Bậc 2: 28%; Bậc 3: 41%; Bậc 4: 7%; Bậc 5: 5%

Tầm quan trọng của các yếu tố sản xuất

7. Để phát triển làng nghề yếu tố nào là cần thiết (theo thứ tự từ thấp đến cao

- 5 bậc từ 1-5):

- Vốn:

+ Bậc 1: 6%; Bậc2: 8%; Bậc 3: 15%; Bậc 4: 25%; Bậc 5: 46%

- Nguyên liệu:

+ Bậc1: 15%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 32%; Bậc 4: 19%; Bậc 5: 13%

- Lao động/tay nghề:

+ Bậc1: 17%; Bậc2: 19%; Bậc 3: 34%; Bậc 4: 14%; Bậc 5: 16%

- Thị trường:

+ Bậc1: 6%; Bậc2: 9%; Bậc3: 11%; Bậc4:29 %; Bậc 5: 45%

Sự quan tâm của làng nghề đến phát triển bền vững

8. Tốc độ tăng trưởng của doanh thu/kim ngạch XK (theo thứ tự từ thấp đến

cao - 5 bậc từ 1-5)

- Bậc1: 5%; Bậc2: 8%; Bậc 3: 17%; Bậc 4: 43%; Bậc 5: 27%

9. Giải quyết việc làm

- Bậc1: 4%; Bậc2:11%; Bậc3: 24%; Bậc 4: 41; Bậc5: 20%

215

10. Môi trường sinh thái

- Bậc1: 17%; Bậc2: 21%; Bậc3: 34%; Bậc 4: 17%; Bậc5: 11%

B. Thông tin chung về DN

11. Loại hình sở hữu của DN

- DN Nhà nước: 0%

- Công ty cổ phần:19%

- Công ty TNHH: 31%

- Công ty tư nhân: 42%

- HTX, Tổ hợp tác: 8%

- DN có vốn đầu tư nước ngoài: 0%

12. Quy mô vốn của DN

- Dưới 1 tỷ đồng: 32%

- Từ 1-5 tỷ đồng: 36%

- Từ 5-10 tỷ đồng: 24%

- Từ 10-20 tỷ đồng: 6%

- Trên 20 tỷ đồng: 2%

13. Quy mô lao động của DN

- Dưới 50 người: 88%

- Từ 50-100 người: 9%

- Trên 100 người: 2%

14. Kinh nghiệm XK của DN

- Dưới 1 năm: 3%

- Từ 1-3 năm: 16%

- Từ 3-5 năm: 36%

- Từ 5-10 năm: 38%

- Trên 10 năm: 7%

216

15. Về giá trị sản xuất hoặc tổng doanh thu

- Tỷ trọng SX, kinh doanh của DN trong tổng giá trị SX hoặc tổng

doanh thu của làng nghề ( đang quản lý DN): 3%);

- Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng giá trị SX hoặc doanh thu của

DN trong 5 năm qua: 12%/năm;

-Tốc độ tăng trưởng bình quân của giá trị SX hoặc doanh thu của mỹ

nghệ trong 5 năm qua: 13%/năm;

16. Về kim ngạch XK

- Tổng kim ngạch XK của DN 5 năm qua: 1,9 triệu USD;

- Tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng kim ngạch XK trong 5 năm

qua: 16%/năm;

- Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch XK ngành mỹ nghệ trong 5

năm qua: 17%/năm

17. Mức đầu tư của DN vào nghiên cứu và phát triển trong tổng doanh thu,

bình quân trong 5 năm qua: 7%

- Mức đầu tư của DN vào đào tạo người lao động bình quân trong 5

năm qua: 8%

- Mức đầu tư của DN vào bảo về môi trường

C. Đánh giá về yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DN

18. Chất lượng và khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào cần thiết cho hoạt

động của DN (theo thứ tự từ kém đến tốt - 5 bậc từ 1-5).

- Nguồn lực tự nhiên:

+ Bậc 1: 3%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 28%; Bậc 4: 37%; Bậc 5: 23%

- Lao động giản đơn:

+ Bậc 1: 1%; Bậc 2: 3%; Bậc 3: 14%; Bậc 4: 51%; Bậc 5: 31%

- Lao động kỹ thuật:

+ Bậc 1: 7%; Bậc 2: 52%; Bậc3: 26%; Bậc 4: 14%; Bậc 5: 8 %

- Vốn cố định:

217

+ Bậc 1: 25%; Bậc 2: 28%; Bậc 3: 21%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 13%

- Vốn lưu động:

+ Bậc 1: 36%; Bậc 2: 27%; Bậc 3: 19%; Bậc 4: 10%; Bậc 5: 8%

- Công nghệ SX:

+ Bậc 1: 15%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 35%; Bậc 4: 18%; Bậc 5:11%

- Cơ sở hạ tầng:

+ Bậc 1: 32%; Bậc 2: 29 %; Bậc 3: 21%; Bậc 4: 10%; Bậc 5: 8%

19. Sự cạnh tranh và chia sẻ giữa các làng nghề (theo thứ tự từ thấp đến cao-

5 bậc từ 1-5)

- Mức độ cạnh tranh về sản phẩm giữa các DN:

+ Bậc 1: 2%; Bậc 2: 4%; Bậc 3: 8 %; Bậc 4: 37%; Bậc 5: 49%

- Khả năng chia sẻ thông tin giữa các DN trong ngành:

+ Bậc 1: 34%; Bậc 2: 28%; Bậc 3: 17%; Bậc 4: 14%; Bậc 5: 7%

- Khả năng di chuyển của các DN ngành:

+ Bậc 1: 7%; Bậc 2:12%; Bậc 3: 18%; Bậc 4: 31%; Bậc 5: 32%

20. Tác động của các ngành hỗ trợ đến XK hàng TCMN của DN (theo thứ tự

từ bất lợi đến thuận lợi- 5 bậc từ 1-5)

- Bậc 1: 17%; Bậc 2:21%; Bậc 3:32%; Bậc 4: 18%; Bậc 5: 12%

21. Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến ngành TCMN

- Bậc 1: 16%; Bậc 2:18 %; Bậc 3: 41%; Bậc 4: 15%; Bậc 5: 10%

22. Vai trò của Nhà nước đến hoạt động của DN

- Xây dựng môi trường pháp lý:

+Bậc 1: 7%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 42%; Bậc 4: 22%; Bậc 5: 20%

- Có chính sách hỗ trợ DN:

+ Bậc 1: 6%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 54%; Bậc 4: 16%; Bậc 5: 15%

23. Mức độ thường xuyên sử dụng các hình thức XTTM (theo thứ tự từ hiếm

khi đến thường xuyên- 5 bậc từ 1-5)

- Phân phát ấn phẩm ca-ta- lô:

218

+Bậc 1: 25%; Bậc 2: 32%; Bậc 3: 23%; Bậc 4: 11%; Bậc 5: 9%

- Tham gia hội chợ quốc tế:

+ Bậc 1: 48%; Bậc 2: 34%; Bậc 3: 10%; Bậc 4: 6%; Bậc 5: 2 %

- Đi thăm khách hàng nước ngoài:

+ Bậc 1: 51%; Bậc 2: 36%; Bậc 3: 9%; Bậc 4: 3%; Bậc 5: 1%

- Cập nhật trang web với những thông tin mới:

+ Bậc 1: 17%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 34%; Bậc 4: 15%; Bậc 5: 13%

- Các chương trình quảng cáo:

+ Bậc1: 22%; Bậc2: 39%; Bậc3: 29%; Bậc4: 6%; Bậc5: 4%

- Thông qua các hiệp hội, tổ chức thương mại

+ Bậc 1: 16%; Bậc 2: 18%; Bậc 3: 38%; Bậc 4: 16%; Bậc5: 12%

- Chương trình khuyến mãi:

+ Bậc 1: 15%; Bậc 2: 19%; Bậc 3: 37%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 12%

24. Những khó khăn của DN khi mở rộng XK (theo thứ tự từ dễ dàng đến khó

khăn- 5 bậc từ 1-5)

- Tìm kiếm nhà cung cấp:

+ Bậc 1: 4%; Bậc 2: 7%; Bậc 3: 11%; Bậc 4: 37%; Bậc 5: 41%

- Tiếp cận với các nguồn vốn:

+ Bậc 1: 6%; Bậc 2: 9%; Bậc 3: 14%; Bậc 4: 33%; Bậc 5: 38%

- Thuê đất đai, nhà xưởng:

+ Bậc 1: 8%; Bậc 2: 11%; Bậc 3: 13%; Bậc 4: 30%; Bậc 5: 38%

- Tuyển dụng lao động:

+ Bậc1: 28%; Bậc 2: 26%; Bậc 3: 29%; Bậc 4: 15; Bậc 5:12%

- Nghiên cứu thị trường

+ Bậc1: 8%; Bậc 2: 11%; Bậc 4: 20%; Bậc 3: 28%; Bậc 4: 33%

- Thủ tục hành chính:

+ Bậc 1: 8%; Bậc 2: 11%; Bậc 3: 17%; Bậc 4: 26%; Bậc 5: 38%

- Tìm kiếm khách hàng:

219

+ Bậc 1: 4%; Bậc 2: 7%; Bậc 3: 13%; Bậc 4: 32%; Bậc 5: 44%

- Vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm:

+ Bậc 1: 27%; Bậc 2: 26%; Bậc 3: 19%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 11%

- Thủ tục hải quan:

+ Bậc 1: 18%; Bậc 2: 21%; Bậc 3: 25%; Bậc 4: 17%; Bậc 5: 19%

D. Dự báo khả năng phát triển trong tương lai

25. Chiến lược của DN trong giai đoạn 2006 - 2015 (gồm hai câu trả lời: có

hoặc không)

- Mở rộng quy mô sản xuất, tăng XK:

+ Có: 100%

+ Không: 0%

- Mở rộng thị trường trong nước:

+ Có: 100%

+ Không: 0%

- Mở rộng thị trường XK:

+ Có: 100%

+ Không :0%

- Mở rộng sang các ngành cung cấp đầu vào:

+ Có: 99%

+ Không: 1%

- Mở rộng sang các ngành có liên quan:

+ Có: 98%

+ Không: 2%

- Mở rộng sang các ngành khác, không có liên quan

+ Có: 3%

+ Không: 97%

- Phát triển hệ thống kênh phân phối:

220

+ Có: 97%

+ Không: 3%

26. Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng giá trị SX của toàn ngành

+ Giai đoạn 2006-2010: Các ý kiến đánh giá tập trung nhiều nhất vào 3

mức độ: tăng trưởng 10%-14% (có khoảng 58% số ý kiến); tăng trưởng 15%-

17% (có khoảng 25% ý kiến ); tăng trưởng 18%- 20% (có khoảng 8% ý kiến);

số còn lại đánh giá tăng dưới 10% (có khoảng 4% ý kiến) và trên 20% (có

khoảng 3% ý kiến); khoảng 2% không có ý kiến gì.

+ Giai đoạn 2010-2015: Các ý kiến cũng tập trung vào 3 mức độ: tăng

trưởng 10%-14% ( có khoảng 56% ý kiến ); tăng trưởng 15%-17% (có

khoảng 23% ý kiến) ; tăng trưởng 18%-20% (có khoảng 10% ý kiến); số còn

lại đánh giá tăng dưới 10% (có khoảng 4% ý kiến) và trên 20% (có khoảng

5% ý kiến); khoảng 2% không có ý kiến gì.

- Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng giá trị sản xuất của DN:

+ Giai đoạn 2006-2010: Tăng trưởng 10%-14% (có khoảng 63% ý

kiến); tăng trưởng 15%-17% ( có khoảng 21% ý kiến); tăng trưởng 18%-20%

(có khoảng 7 ý kiến); tăng trưởng dưới 10% (có khoảng 5% ý kiến) và tăng

trưởng trên 20% (có khoảng 4% ý kiến)

+ Giai đoạn 2010-2015: Tăng trưởng 10%-14% (có khoảng 59% ý

kiến); tăng trưởng 15%-17% ( có khoảng 23% ý kiến); tăng trưởng 18%-20%

( có khoảng 9 ý kiến); tăng trưởng dưới 10% (có khoảng 2 ý kiến); tăng

trưởng trên 20% (có khoảng 7 ý kiến).

27. Đánh giá của DN về tốc độ tăng trưởng tổng KN XK toàn ngành

+ Giai đoạn 2006-2010: Tăng trưởng 10%-15% (có khoảng 69% ý

kiến); tăng trưởng 16%-20% (có khoảng 21% ý kiến); tăng trưởng dưới 10%

(có khoảng 4% ý kiến); tăng trưởng trên 20% (có khoảng 6% ý kiến).

221

+ Giai đoạn 2010- 2015: tăng trưởng 10%-15% (có khoảng 64% ý kiến

); tăng trưởng 16%-10% (có khoảng 26% ý kiến ); tăng trưởng dưới 10% (có

3 % ý kiến); tăng trưởng trên 20% (có 7% ý kiến).

- Chỉ tiêu tăng trưởng bình quân tổng KN XK của DN:

+ Giai đoạn 2006- 2010: Tăng trưởng 10%-15% có khoảng 67% ý

kiến); tăng trưởng 16%-20% (có khoảng 23% ý kiến); tăng trưởng dưới 10%

(có khoảng 5% ý kiến); tăng trưởng trên 5% có khoảng 5% ý kiến).

+ Giai đoạn 2010-2015: 10%-15% (có khoảng 64% ý kiến); tăng

trưởng 16%-20% (có khoảng 25% ý kiến); tăng trưởng dưới 10% (có khoảng

3 ý kiến); tăng trưởng trên 20% (có khoảng 7% ý kiến).

28. Các ý kiến đóng góp khác của làng nghề và DN làng nghề liên quan đến

đẩy mạnh XK hàng TCMN 2010 đến 2015 và 2020:

Các ý kiến tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây:

- Các làng nghề, DN làng nghề cần được ưu đãi về thuế, lãi suất vay

vốn, điều kiện vay vốn và điều kiện thuê đất đai, nhà xưởng

- Nhà nước cần nhanh chóng quy hoạch phát triển lâu dài nguồn

nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ

- Nhà nước cần đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao

cho làng nghề và DN làng nghề.

- Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho làng nghề và doanh

nghiệp làng nghề tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật cao để nâng cao hiệu

quả sản xuất, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới

- Nhà nước cần hỗ trợ hơn nữa cho làng nghề và DN làng nghề trong

việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường.

- Các hiệp hội cần được kiện toàn và phát triển hơn nữa để đóng vai trò

quan trọng hơn đối với việc phát triển làng nghề, DN làng nghề, đẩy mạnh

xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ.

222

DANH SÁCH MỘT SỐ DN THAM KHẢO TRÊN TRANG WEBSITE VCIC.ORG.VN CỦA HIỆP HỘI XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM

1. Công ty TNHH XK hàng TCMN Duy Thành: 54 Pasteur- Đà Nẵng

2. Công ty TNHH SX & XNK Tre Làng : 54- Phùng Văn Cung - Q Phú

Nhuận- TP.HCM

3. Công ty TNHH Mây Tre Lá Á Đông: Km 28- QL6A- Trường Yên-

Chương Mỹ - Hà Nội

4. Công ty TNHH Tiến Động: Biêng Giang- Hà Đông- Hà Nội

5. Công ty cổ phần XNK Thủ công mỹ nghệ Nam Định: 45A- Đường Giải

Phóng- TP. Nam Định

6. Công ty TNHH Thủ công mỹ nghệ Nhiệt đới: Phường Long Biên- Q.

Long Biên- Hà Nội

7. Công ty cổ phần Việt C & C: Số 2- ngách 32/15- An Dương - Yên Phụ-

Hà Nội

8. Lan Innovation Co.,Ltd: 128 Nguyễn Minh Hoàng- Tân Bình- TP.HCM

9. DN Mây tre Thanh Bình: Xã Thái Xuyên- Thái Thuỵ- Thái Bình

10. Xí nghiệp Phú Thượng: Lưu Thượng- Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội

11. Công ty TNHH VNC: Đông Bắc- Vĩnh Hoà- Nha Trang- Khánh Hoà

12. Công ty Thương mại và Sản xuất Tân Châu: Lô32- B1- 26 Phan Đăng

Lưu- TP. Đà Nẵng

13. Công ty TNHH Xuân Lâm: Mai Hiên- Mai Lâm- Đông Anh- Hà Nội

14. Xí nghiệp Mây Tre Lá XK Âu Cơ: Cụm công nghiệp Tràng Tôn K7-TT

Núi Thành- Quảng Nam

15. Công ty Thương mại và Sản xuất Mỹ Khánh: 98/16 Thích Quảng Đức-

P. Phú Nhuận-Q. 5- TP.HCM

16. DNTN Sản xuất & Kinh doanh Dương Trí: 132/50 Ấp Đồn- Trung Lập

Hạ- Củ Chi- TP.HCM

223

17. Công ty XNK Indochine: 152- Điện Biên Phủ-P.6-Q.3-TP.HCM

18. Công cổ phần XNK Mỹ nghệ Thái Bình: 12 Hai Bà Trưng- TP. Thái Bình

19. Công ty TNHH Hiệp Hoà: 11 Nguyễn Thái Học- TP. Thái Bình

20. Công ty TNHH XNK Mây tre và mỹ nghệ Trung Hoà: Trung Hoà -

Chương Mỹ - Hà Nội

21. Công ty TNHH Mây tre đan 38: 80B- Pháo Đài Láng

22. DN Thanh Nhã: 442 Thống Nhất- P. Tân An- TX Lagi- Bình Thuận

23. Công ty Sao Mai: 163- QL 30- P.Phú Mỹ- Cao Lãnh- Đồng Tháp

24. Công ty Mỹ nghệ Cát Linh: 441/Phan Văn Trị- P.5- Q. Gò Vấp-

TP.HCM

25. Công ty Mây tre XK Ngọc Động Hà Nam: 94 Phạm Ngọc Nhị- Đồng

Văn- Duy Tiên- Hà Nam

26. DN Á Đông: 86/43A Phố Quang-P.2- Q.Tân Bình- TP.HCM

27. Công ty TNHH SX & XNK Đoàn Kết 1: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội

28. Công ty TNHH Trang Lan: Cát Đằng- Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

29. Công ty TNHH Mây tre đan XK Phú Ngọc: Phú Túc- Phú Xuyên- Hà Nội

30. Công ty TNHH Mây tre Hoa Nam: Trường Yên- Chương Mỹ- Hà Nội

31. Công ty SX&KD mỹ nghệ XK: 198B Tôn Đức Thắng- Hà Nội

32. Công ty cổ phần Dệt May mỹ nghệ XK Nam Định: 10A, ô 20 Hạ Long-

TP. Nam Định

33. DNTN TCMN- May XK Hoà Thành L.A ( HALOTEX): 365B/3 Phạm

Văn Màng- TT Bến Lức- Long An

34. Xí nghiệp SX hàng TCMN Quỳnh Văn: Ân Hoà- Kim Sơn- Ninh Bình

35. Công ty TNHH SX&TM DomaVina: 107 Trần Minh Quyên- P.10-Q.10-

TP.HCM

36. Xí nghiệp TCMN XK Vân Anh: Km 52- QL5- P. Cẩm Phượng- Hải Dương

37. Xí nghiệp tư doanh TCMN Xuân Hoà : 176 Kiến Thái-TT Phát Diệm-

Kim Sơn- Ninh Bình.

224

38. DNTN XK hàng TCMN Vinh Thịnh: 231 Tết Mậu Thân- P.4-TP.ỹ Tho-

Tiền Giang

39. Công ty cổ phần SX & XNK Vĩnh Long: Lô A1- Khu C- Khu CN Hoà

Phú- Long Hồ - Vĩnh Long

40. Công ty cổ phần gốm Việt Thành: số 99 QL 1K- Hoà An- Biên Hoà- ĐN.

41. Công ty TNHH Vườn Hồ: 179/15 Hoà Bình- Q.Tân Bình-TP.HCM

42. Công ty TNHH Quang Vinh: 14 Thôn Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

43. Xí nghiệp SX & XNK Việt Nam: 1110 Tân Phước Khánh - Tân Uyên -

Bình Dương.

44. Công ty TNHH Gốm sứ La Thành : 235/1 TT An Thạnh - Thuận An - BD.

45. Công ty TNHH Bình Phú: Bát Tràng- Gia Lâm- Hà Nội

46. Công ty TNHH Linh Nhật: 65 Tô Ngọc Vân- P.Quảng An- Q. Tây Hồ-

Hà Nội

47. Công ty TNHH Thương mại và Giao nhận Á châu: R 910- Toà nhà CT9

- Khu Định Công- Hà Nội

48. DNTN Đại Huy Hoàng: Hoà Lân- Thuận Giao- Thuận Ấp- Bình Dương

49. Công ty TNHH Chấn Hồng: Ấp 38- Khánh Hồng- Tân Uyên- Bình Dương

50. Công ty cổ phần sơn mài và đầu tư công nghệ Việt: Cụm 5- Duyên Thái-

Thường Tín- Hà nội

51. Công ty cổ phần Viễn Đông: Số 9- Trung tâm viện KHCN & MT – Hà Nội

52. Công ty Tiên Sơn Thanh Hoá: Số 9- Khu CN Bỉm Sơn- P.Bắc Sơn- TX

Bỉm Sơn- Thanh Hoá.

53. Công ty Thế giới Mỹ nghệ: 144 Nguyễn Đình Chiểu- P.6- Q.3-TP.

HCM

54. Công ty XNK TCMN: 80 Hàng Gai- Hà Nội

55. Công ty TNHH Sơn mài mỹ nghệ Hướng Đăng: 204C7A- Phố Quỳnh

Mai- P.Quỳnh Mai- Hà Nội

225

56. Công ty TNHH SX & TM Khai Tâm: 34 Nguyễn Đình chiểu- P.3-

Q.Phú Nhuận -TP.HCM

57. Công ty TNHH Cửa Đỏ: 20 Nhà Chung- Hoàn Kiếm- Hà Nội.

58. KIMA lacquer Art: số 11 Thi Sách- Hai Bà Trưng- Hà Nội

59. Công ty Mỹ nghệ Khải Hoàn: 231/7-9 Lê Văn Sỹ- P.14-Q. Phú Nhuận-

TP.HCM

60. Công ty TNHH Lạc Phương Nam: 95/25 Lê Văn Sỹ - P.13 - Q.Phú

Nhuận - TP. HCM

61. Công ty XNK khu vực Mê Kông: Số 6- Ngõ 1- Âu Cơ- Tây Hồ - Hà Nội

62. Công ty CP Đầu tư và TM Âu Lạc: số 6 Hàng Trống- Hoàn Kiếm - HN

63. DNTN Thanh Hoàn: Cát Đằng- Yên Tiến- Ý Yên- Nam Định

64. Công ty TNHH TCMN và Nội thất Châu Á: Số 1Tổ 46 - Đê La Thành -

Đống Đa - Hà Nội

65. Công ty Lam Hồng- Quân khu 4: số 29 Phan Đăng Lưu- TP. Vinh- Nghệ

An

66. Công ty TNHH Quốc tế Phúc Sơn Việt: 27 Hậu Giang- P.4- Tân Bình-

TP.HCM

67. Công ty CP SX-XNK Lâm sản và hàng thủ công mỹ nghệ: 4 - 6 Hồ

Tùng Mậu- Q.1- TP.HCM

68. Công ty cổ phần Tân Vĩnh Cửu: Khu phố 9- P. Tân Biên- Biên Hoà -

Đồng Nai

69. Công ty TNHH Minh Hùng: 172/1 Trần Phú- Q. Ninh Kiều- Cần Thơ

70. DNTN SD: Cụm công nghiệp Trung An- Mỹ Tho- Tiền Giang

71. Công ty cổ phần đồ gỗ nội thất Hoa Phương: 45 Đò Quan- Nam Định

72. Công ty TNHH SX & TM DPH: 298/20 Tân Hoà Đông- P.Bình Trị

Đông- Q.Tân Bình- TP.HCM

73. Công ty gỗ mỹ nghệ Quang Trung: 280/2A Cách mạng tháng Tám-

P.10- Q.3- TP.HCM

226

74. Công ty Thương mại và sản xuất Đại Hùng:371/15/11A Cách mạng

tháng Tám - P10 - Q.3 - TPHCM

75. Công ty TNHH Đăng Long: F 6 Khu chế biến gỗ- P.Tân Hoà- Biên

Hoà- Đồng Nai

76. Công ty chế biến gỗ Khánh Phát: Ấp 6- xã Định Hoà-TX Thủ Dầu Một- BD.

77. Công ty TNHH Liên Thanh:Thôn Ngọc Anh-xã Phú Thượng- huyện

Phú Vang- Thừa Thiên- Huế.

78. Công ty Phát triển sản xuất Thương mại Sài Gòn (SADACO): 200 bis

Lý Chính Thắng - Q.3-TP.HCM

79. DNTN Đại Hưng Phát: L04-25-2962 Khu phố mới Hùng Vương-

Đường Hùng Vương- P.9- TP.Tuy Hoà- Phú Yên

80. Công ty cổ phần gỗ mỹ nghệ Thiên ấn: số 45 đường 5 - P. Hiệp Bình

Chánh - TX Thủ Dầu Một - Bình Dương.

81. Công ty Lâm sản Trần Đức: Thuận Giao- Thuận An- Bình Dương

82. Công ty chế biến gỗ An An: 10/22 Phạm Ngọc Thạch - TX. Thủ Dầu

Một - Bình Dương.

83. Công ty TNHH DOME: số 10 Yên Thế- Ba Đình- Hà Nội

84. Công ty TNHH Long Biên Việt Nam: Khu công nghiệp Nhơn Trạch1- ĐN

85. Công ty TNHH Bắc Á: 307-C22A- Bắc Linh Đàm - Hoàng Mai- Hà Nội

86. DNTN Trần Văn Bích: 769 C Nguyễn Thị Minh Khai- K10F7- TX Trà

Vinh- Tỉnh Trà Vinh

87. DNTN Huệ Trang: Ấp Rạch Vôn- Hưng Mỹ- Châu Thành- Trà Vinh

88. Công ty Lâm nghiệp Sông Trem: Ấp 18 - Biến Bạch- Thới Bình- Cà

Mau

89. Công ty TNHH - SXKD Việt Lâm: 351/56 Lê Văn Sỹ- P.13-Q.3- TP. HCM

90. Công ty TNHH Thiên Phú: 12 Trần Não- Q.2- TP.HCM

91. Công ty TNHH SX-TM & Dịch vụ Tường Thuận: 14K 300 Cộng Hoà-

P.12-Q.Tân Bình-TP.HCM

227

92. Công ty TNHH sản xuất TM AQ: Lô A9 - KCN Toà Đa - Pleiku - Gia Lai

93. Công ty Thiên Ấn Furniture: 90A Nguyễn Đình Chiểu- P.Đa Kao- Q.1-

TP.HCM

94. Công ty TNHH SX-TM-DV Văn Chương: 45/2Z - ấp Mỹ Hoà - xã

Trung Chánh- huyện Hóc Môn - TP.HCM

95. Công ty TNHH Cổ Kim Mỹ nghệ: 35-37 Lê Văn Sỹ - P13 - Q.Phú

Nhuận -TP.HCM

96. Công ty TNHH Minh Phát II: P. Bình Chuẩn- huyện Thuận An - Bình Dương

97. Công ty TNHH Hố Nai: KP8 - Long Bình- Biên Hoà - Đồng Nai

98. Công ty TNNH Mỹ nghệ gỗ Gia Huy: 12/11 Man Thiên - Nhơn Phú A -

Q.9 -TP.HCM

99. Công ty TNHH SX & TM Vùng Quê: Đường 10 KCN Sóng Thần 1- Dĩ

An- Bình Dương

100. Công ty TNHH SX & TM Vinh : 124 Nguyễn Trãi - Bến Thành - TP. HCM