Phát triển spin-off trong trường đại học: Lý thuyết, thực tiễn quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phạm Đức Anh1, Nguyễn Nhật Minh2, Lê Thị Hương Trà3 Học viện Ngân hàng, Việt Nam
Ngày nhận: 12/04/2024 Ngày nhận bản sửa: 13/08/2024 Ngày duyệt đăng: 19/08/2024
Tóm tắt: Nhu cầu tạo lập công ty spin-off từ trường đại học trên cơ sở hợp tác chặt chẽ, có hiệu quả với đối tác quốc tế là hết sức cấp thiết trong bối cảnh đổi mới sứ mệnh trường đại học từ việc đào tạo nhân lực trình độ cao đến nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Dựa trên các phương pháp phân tích tài liệu, nghiên cứu trường hợp, khảo sát và tổng hợp, bài viết nhằm mục tiêu tổng quan lý thuyết và thực tiễn phát triển quốc tế, từ đó đưa ra bài học kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam nhằm tăng cường kết nối giữa trường đại học và doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy công ty spin-off tại các trường đại học trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ trong những năm gần
Development of university spin-offs: Theoretical background, International practices and
lessons for Vietnam
Abstract: The demand for establishing university spin-off companies through effective and robust international partnerships has become increasingly urgent in the context of redefining the mission of universities from solely providing high-level education to also encompassing scientific research and technology transfer. Employing methods such as document analysis, case studies, surveys, and synthesis, this paper provides an overview of both theoretical and practical aspects of international spin-off development, and derives valuable lessons for Vietnam to enhance the partnerships between universities and businesses. The research results indicate that university spin-off companies have been flourishing globally in recent years, highlighting the importance of bilateral cooperation between universities and enterprises in developing spin-offs with global competitive capabilities. Hence, to enhance autonomy in the spin-off development process towards the goal of sustainable national development, Vietnamese universities should focus on deepening their cooperation with businesses, addressing foundational legal issues, and facilitating the transfer of knowledge and technology from universities to enterprises.
Keywords: University spin-off, Creative startups, Theoretical background, International practices, Industrial revolution 4.0. Doi: 10.59276/JELB.2024.11.2718
Pham, Duc Anh1, Nguyen, Nhat Minh2, Le, Thi Huong Tra3 Email: anhpd@hvnh.edu.vn1, minhnn@hvnh.edu.vn2, tralth@hvnh.edu.vn3 Organization of all: Banking Academy of Vietnam
1
đây, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác song phương giữa trường đại học và doanh nghiệp trong việc phát triển spin-off có năng lực cạnh tranh toàn cầu. Theo đó, để nâng cao sự tự chủ trong quá trình phát triển spin- off hướng tới mục tiêu phát triển bền vững quốc gia, các trường đại học tại Việt Nam cần tập trung tăng cường chiều sâu hợp tác với doanh nghiệp dựa trên giải quyết các vấn đề pháp lý tiền đề và tạo thuận lợi cho hoạt động chuyển giao tri thức-công nghệ từ trường đại học vào doanh nghiệp.
Từ khóa: Spin-off trong trường đại học, Khởi nghiệp sáng tạo, Cơ sở lý thuyết, Thực tiễn quốc tế, Cách mạng công nghiệp 4.0
1. Giới thiệu
Phát triển nhân lực trình độ cao, nghiên cứu khoa học và chuyển giao kết quả nghiên cứu được xem là trọng trách hàng đầu của các cơ sở giáo dục đại học. Trong đó, việc kiến tạo, mở rộng các đơn vị kinh doanh mới và khuyến khích hoạt động khởi nghiệp và thương mại hóa nhận được sự quan tâm ngày càng lớn của cộng đồng học thuật và được xem là một nhiệm vụ mới có tính tiên quyết của trường đại học (Boffo & Cocorullo, 2019; Kretz & Sá, 2013). Các trường đại học thường thiết lập liên kết giữa các doanh nhân, nhà khoa học và cộng đồng thông qua một số phương thức. Những phương thức này bao gồm chuyển giao tri thức và công nghệ, đồng thời thương mại hóa các kết quả nghiên cứu thông qua các công ty được phát triển trên nền tảng khoa học và công nghệ (KH&CN) do nhà trường và giới khoa học tạo nên. Loại hình công ty (trung tâm của mối liên kết) nói trên được gọi là "công ty học thuật spin-off" hay "công ty spin-off". Đây là một đặc trưng của mô hình trường đại học hiện đại- đại học khởi nghiệp (Dinh, 2020). Chính phủ các nước thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) xem xét việc tạo ra các công ty con (spin- off) là một giải pháp để thúc đẩy phát triển khu vực, dựa trên khuyến khích sự liên kết
giữa các phòng thí nghiệm, tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và tạo ra một môi trường năng động hỗ trợ các doanh nhân. Spin-off cũng được coi là mắt xích quan trọng trong việc kết nối cộng đồng nghiên cứu, liên kết giữa các trường đại học, ngành công nghiệp và xã hội. Tại Hoa Kỳ, thung lũng Silicon được xem là một trường hợp thành công về mô hình chuyển giao kết quả nghiên cứu từ đại học ra thị trường, khởi xướng bởi Đại học Stanford. Tại Trung Quốc, Chính phủ đã quan tâm và khuyến khích mô hình chuyển giao kết quả nghiên cứu thông qua việc thành lập các công ty. Công viên khoa học Zhongguancun (Z-Park) ở Bắc Kinh là một ví dụ điển hình, được thiết lập như một không gian thí nghiệm cao cấp về KH&CN. Z-Park thu hút sự tham gia của 68 trường đại học lớn và 213 cơ sở đào tạo, với nhiều công ty spin-off có các hợp đồng nghiên cứu hoặc tư vấn, duy trì mối quan hệ mật thiết với tổ chức chủ quản của họ (Callan, 2001). Đặc biệt, các công ty spin-off không chỉ tạo ra doanh thu, mà còn được ví như một “cơ chế năng động nhất” trong việc thúc đẩy thương mại hóa KH&CN của trường đại học. Do đó, việc nghiên cứu chuyên sâu về spin-off có tầm quan trọng chiến lược trong bối cảnh chuyển đổi mô hình trường đại học truyền thống sang mô hình trường đại học khởi nghiệp, vốn đang
2
được ưa chuộng tại các nền giáo dục hàng đầu thế giới. Tại Việt Nam, một số trường đại học đã phát triển mô hình spin-off, song ở dạng thức còn rất sơ khai và chưa đạt được hiệu quả như mong đợi do những rào cản về mặt pháp lý và sự thận trọng của các trường đại học khi áp dụng (Đinh Văn Toàn, 2021). Bên cạnh đó, hợp tác giữa trường đại học với các tổ chức quốc tế hay doanh nghiệp FDI trong khởi nghiệp và phát triển KH&CN vẫn còn rất hạn chế, dù triển vọng mở ra trong bối cảnh đương đại là rất lớn (Đinh Văn Toàn, 2019). Bài viết này dựa trên tổng quan tài liệu nhằm mục tiêu tổng quan cơ sở lý thuyết và thực tiễn quốc tế trong việc phát triển spin-off từ các trường đại học, trên cơ sở đó rút ra bài học kinh nghiệm tiền đề cho Việt Nam nhằm phát triển hiệu quả mô hình này trong tương lai, góp phần thúc đẩy tự chủ đại học, hướng tới phát triển bền vững dựa trên tiềm lực về tri thức và công nghệ.
2. Lý thuyết và tổng quan nghiên cứu
2.1. Lý thuyết về spin-off trong trường đại học
Cho đến nay, nhiều nghiên cứu trên thế giới đã tìm hiểu về quá trình hình thành và các mô hình phát triển spin-off. Theo đó, spin-off là một loại hình công ty phát triển từ công nghệ của các tổ chức “công lập”. Hiện tượng này, được gọi là "spin-off", bắt đầu xuất hiện từ đầu thập niên 1980 ở nhiều nước trên thế giới. Tới nay, trên thế giới vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất về "spin-off". Thuật ngữ này, theo Djokovic và Souitaris (2008), thường được sử dụng để chỉ các công ty khởi nghiệp nhỏ, ứng dụng công nghệ tiên tiến hoặc kiến thức chuyên sâu, được phát triển từ vốn trí tuệ có nguồn gốc từ trường đại học hoặc các tổ chức nghiên cứu công. Các
nghiên cứu học thuật cũng thống nhất coi spin-off là một dạng tiêu biểu của các công ty mới được tạo lập để thương mại hóa tài sản trí tuệ có nguồn gốc từ cơ sở nghiên cứu và trường đại học, nơi mà nhân viên có thể được biệt phái sang công ty spin-off này (Isabelle, 2014). Nhằm tạo ra một định nghĩa có tính khái quát, OECD đã tiến hành một cuộc khảo sát xem các quốc gia thành viên có các quan điểm khác biệt như thế nào về công ty spin-off. Theo đó, spin-off có thể được hiểu là bất kỳ công ty mới nào có các đặc điểm sau: (1) được thành lập bởi công chức, viên chức làm việc trong lĩnh vực công hoặc trường đại học; (2) xuất phát từ việc cấp phép công nghệ từ một trường đại học hoặc tổ chức nghiên cứu công; (3) người sáng lập là sinh viên hoặc cựu sinh viên của trường; (4) bắt đầu từ một vườn ươm hoặc công viên công nghệ kết nối với lĩnh vực công hoặc trường đại học; (5) nhận được đầu tư vốn từ trường đại học hoặc phòng thí nghiệm quốc gia (Đinh Văn Toàn, 2021). Tổng thể, các quan điểm này cho thấy sự đồng nhất về khái niệm spin- off, đồng thời cũng thể hiện sự linh hoạt và đa dạng trong các loại hình công ty này. Nhiều tài liệu (ví dụ: Erden & Yurtseven, 2012; Isabelle, 2014; Ndonzuau và cộng sự, 2002; Satre và cộng sự, 2009) đã nghiên cứu về quá trình hình thành spin-off, cũng như các chính sách hỗ trợ của chính phủ và trường đại học ở nhiều quốc gia khác nhau. Ndonzuau và cộng sự (2002) chỉ ra rằng quá trình hình thành spin-off từ các trường đại học liên quan đến bốn giai đoạn, từ quy trình định giá công nghệ cũng như từ các ý tưởng ban đầu và chất lượng của các dự án kinh doanh cho đến việc hình thành và phát triển của spin-off. Trong khi đó, Borges và Jacques Filion (2013) xác nhận có ba tác nhân đảm bảo sự thành công của quy trình "spin-off", đó là trường đại học, doanh
3
nhân và công nghệ. Tương tự, khi tìm hiểu các spin-off trường đại học tại Ý, Boffo và Cocorullo (2019) đã nhận thấy rõ sự phát triển vượt trội của loại hình công ty này.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển spin-off trong trường đại học
Để đánh giá các yếu tố tác động đến sự phát triển của các công ty spin-off, Saetre và cộng sự (2009) đã nghiên cứu sự giống và sự khác nhau của các công ty spin-off từ Hoa Kỳ, Thụy Điển và Na Uy. Kết quả chứng minh rằng có bốn yếu tố quan trọng bao gồm: “mối quan hệ trong trường đại học, chính sách và cơ chế hỗ trợ từ chính phủ, mối quan hệ với các ngành công nghiệp, và mối quan hệ với các nhà đầu tư mạo hiểm và các nguồn tài trợ khác”, là những vấn đề trung tâm quan trọng. Trong khi đó, ở Việt Nam, theo Đinh Văn Toàn (2021), ngoài phân tích kết quả về việc hình thành công ty, nghiên cứu cũng tập trung vào hai vấn đề chính, đó là chính sách của Nhà nước và vai trò của trường đại học và doanh nhân học thuật trong quá trình tạo lập, phát triển spin-off từ các trường đại học. Các yếu tố giải thích sự phát triển của spin- off trong trường đại học có thể được phân loại thành ba cấp độ theo lý thuyết dựa trên nguồn lực (Djokovic & Souitaris, 2008). Ở cấp độ vi mô, các nghiên cứu thực nghiệm xem xét đặc điểm của từng giảng viên về kỹ năng nghiên cứu, kinh nghiệm nghề nghiệp và xu hướng thành lập các công ty mới. Ở cấp độ trung bình, các nghiên cứu tập trung tìm hiểu sự khác biệt về nguồn lực và chương trình khuyến khích của các trường đại học và văn phòng chuyển giao công nghệ (TTO). Ở cấp độ vĩ mô, các nghiên cứu hướng trọng tâm tới môi trường kinh tế chung, điều kiện phát triển KH&CN và các chính sách của chính phủ nhằm hỗ trợ spin- off từ trường đại học (Jung & Kim, 2018).
Các nghiên cứu thực nghiệm tập trung vào các yếu tố đại học và TTO ảnh hưởng đến các công ty spin-off được chia thành bốn nhóm: khả năng nghiên cứu, đặc điểm của trường đại học, năng lực TTO và môi trường khu vực. Nhóm đầu tiên liên quan đến tác động của nghiên cứu ở trường đại học (Landry và cộng sự 2006; Powers & McDougall 2005; Shane 2001). Landry và cộng sự (2006) và Shane (2001) chỉ ra rằng việc bảo hộ sở hữu trí tuệ và mức độ hiệu quả của bằng sáng chế làm tăng khả năng hình thành công ty mới. Ngoài ra, Lockett và Wright (2005) chứng minh chi tiêu cho quyền sở hữu trí tuệ có khả năng làm gia tăng công ty spin-off của trường đại học. Nhóm thứ hai đề cập đến các đặc điểm của trường đại học như số lượng giảng viên và nhà nghiên cứu, quy mô ngân sách hoặc quỹ nghiên cứu và văn hóa tổ chức thúc đẩy thương mại hóa (Algieri và cộng sự, 2013; Landry và cộng sự, 2006; Powers & McDougall, 2005; Van Looy và cộng sự, 2011). Một số nghiên cứu cũng cho thấy số lượng các nhà nghiên cứu hàn lâm và nhân viên có ảnh hưởng tích cực đến các spin-off trường đại học (Van Looy và cộng sự, 2011). Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến việc thương mại hóa nghiên cứu của trường đại học liên hệ mật thiết đến TTO (Lockett & Wright, 2005; O'Shea và cộng sự, 2005). Quyết định liệu công nghệ mới được tạo ra từ nghiên cứu của trường đại học có được khai thác hay không phụ thuộc rất nhiều vào TTO (Siegel và cộng sự, 2007). Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cố gắng đo lường khả năng của TTO trong việc thương mại hóa công nghệ đại học về độ tuổi, số lượng nhân viên và nhân viên có chuyên môn (Algieri và cộng sự, 2013; Lockett & Wright, 2005; O'Shea và cộng sự, 2005; Van Looy và cộng sự, 2011). Những nghiên cứu này cho thấy rằng các spin-off trường đại học phần lớn được quyết định bởi kho kiến thức mà các trường đại học có
4
cũng như năng lực của TTO. Nhóm yếu tố cuối cùng ảnh hưởng đến thương mại hóa trường đại học có liên quan đến môi trường địa phương hoặc khu vực. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng vị trí cụ thể và môi trường khu vực của các trường đại học là những yếu tố dự báo tốt về các spin-off trường đại học (Algieri và cộng sự 2013; Van Looy và cộng sự 2011). Ví dụ, Zhang (2009) khi phân tích vị trí của các trường đại học và các spin-off đã kết luận rằng 2/3 số doanh nhân hàn lâm trong ngành công nghệ sinh học vẫn ở cùng khu vực sau khi họ thành lập công ty. Tác giả lập luận thêm rằng số lượng các spin-off trường đại học ở mỗi bang được phân bổ không đồng đều trên khắp Hoa Kỳ. Lý do cho điều này này là bởi môi trường khu vực được trang bị một cấu trúc dành cho công ty, mạng xã hội và sự hỗ trợ của thể chế cho đổi mới (Cooper & Folta 2000). Vì vậy, có thể khẳng định rằng vị trí quan trọng của trường đại học đối với việc thúc đẩy các dự án spin-off.
2.3. Vai trò của spin-off trong trường đại học
Vượt qua phạm vi của trường đại học, các công ty spin-off đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. Đầu tiên, chúng là nguồn hút vốn đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ và biến các kết quả nghiên cứu từ các trường đại học thành sản phẩm thị trường. Các spin-off được coi là rất quan trọng trong việc chuyển giao kiến thức vì mục tiêu chính của chúng bao hàm tiềm năng đổi mới cao, tạo ra sự cạnh tranh và góp phần tạo ra các công ty và phát triển khu vực (M'chirgui và cộng sự, 2018). Trên thực tế, trước khi thành lập spin-off, nhiều dự án nghiên cứu có thể triển khai thông qua hợp đồng nghiên cứu hoặc tư vấn, với mối liên hệ mật thiết với tổ chức mẹ là trường đại học. Spin-off trong trường
hợp này hoạt động như cầu nối nhanh nhất để chuyển đổi các ý tưởng và công nghệ từ các nhà khoa học trong trường đại học thành sản phẩm thương mại trên thị trường (Callan, 2001). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng “việc thương mại hóa các ý tưởng từ trường đại học đòi hỏi sự tham gia liên tục của các nhà phát minh học thuật, và vì thế, các công ty spin-off được coi là phương tiện hiệu quả nhất để thực hiện việc thương mại hóa trong các trường đại học” (Goldfarb & Henrekson, 2003). Trong cấu trúc tổ chức của các trường đại học ngày nay, các công ty spin-off đã trở thành một phần không thể thiếu trong mô hình trường đại học khởi nghiệp (Dinh, 2020). Theo Saetre và cộng sự (2009), ảnh hưởng gián tiếp của các công ty spin-off từ các trường đại học có thể có mức độ cao hơn so với những hiệu ứng trực tiếp được nêu ở trên. Ví dụ về những tác động gián tiếp này có thể kể đến như: “sự phát triển của khu vực, thu hút và duy trì các giảng viên hàng đầu, thu hút tài trợ cho việc thương mại hóa (đặc biệt là các dự án có rủi ro cao), tăng cường năng lực nghiên cứu của giảng viên, đào tạo sinh viên, và tác động tích cực đến việc đa dạng hóa và phát triển kinh tế khu vực” (Saetre và cộng sự, 2009). Bên cạnh vai trò thúc đẩy sự đổi mới tại các trường đại học, việc phát triển spin-off cũng là một mục tiêu then chốt của chiến lược chính sách vĩ mô của các chính phủ nhằm “thúc đẩy một môi trường kinh doanh khởi nghiệp sáng tạo và giàu tính liên kết giữa các trường đại học, các ngành công nghiệp và khu vực công” (Callan, 2001). Trong quá trình đó, công ty spin-off có thể thu hẹp khoảng cách giữa các hoạt động nghiên cứu khoa học tại các cơ sở giáo dục đại học, khu vực công, tư nhân và các công ty. Chính phủ cũng thông qua các spin-off để thúc đẩy sự phối hợp giữa các phòng thí nghiệm và công ty, từ đó khuyến khích sự
5
tăng trưởng của các ngành công nghệ tiên tiến và tạo ra một môi trường kinh doanh năng động.
3. Thực tiễn quốc tế về phát triển spin- off trong trường đại học
Thứ nhất, về xu hướng phát triển spin-off trên thế giới, mặc dù dữ liệu thống kê hiện nay về spin-off chưa thể đầy đủ và có tính cập nhật qua từng năm, thực tiễn cho thấy loại hình công ty này đang phát triển rất nhanh trên phạm vi toàn cầu. Hình 1 và 2 lần lượt thể hiện số lượng spin-off đang hoạt động và được đăng ký thành lập mới tại Vương quốc Anh giai đoạn 2015-2023. Theo đó, số lượng spin- off tại Vương quốc Anh liên tục tăng qua từng năm, từ 1.116 công ty vào năm 2015
lên đến 1.603 công ty vào năm 2023 (tăng 40%). Bên cạnh đó, hàng năm cũng có hơn 120 spin-off thành lập mới trên toàn Vương quốc (cụ thể: Anh là khu vực có nhiều spin- off nhất, chiếm tới hơn 70%). Điều này khá dễ hiểu khi đây là khu vực tập trung hầu hết các trường đại học lớn của quốc gia này. Ở các quốc gia Châu Âu khác, ví dụ như Hà Lan, tính riêng trong năm 2006 đã có 499 spin-off được thành lập (Bekkers và cộng sự, 2006). Trong khi đó, Bofflo và Cocorullo (2019) thống kê tại Ý trong giai đoạn từ 2000-2007, thấy rằng mỗi năm có khoảng 100 spin-off ra đời. Tính tới năm 2015, đã có 1254 spin-off được thành lập từ các trường đại học và các tổ chức nghiên cứu tại Ý, trong đó gần 90% ra đời trong giai đoạn 2011- 2014. Tại Châu Mỹ, Hoa Kỳ là quốc gia dẫn
Nguồn: Higher Education Statistics Agency (2024)
Hình 1. Số lượng spin-off đang hoạt động tại Vương quốc Anh, 2015- 2023
Nguồn: Higher Education Statistics Agency (2024)
Hình 2. Số lượng spin-off đăng ký thành lập mới tại Vương quốc Anh, 2015-2023
6
đầu về phát triển spin-off khi Erden và Yurtseven (2012) chỉ ra trong vòng 20 năm (1980- 1999) kể từ khi Đạo luật Bayh-Dole được phê chuẩn, các công ty spin-off tại Hoa Kỳ đã đóng góp lên tới 33,5 tỷ USD cho nền kinh tế và tạo ra hơn 280.000 việc làm. Đáng chú ý, trung bình mỗi năm có hơn 200 công ty spin-off được đăng ký thành lập từ 132 trường đại học trên toàn quốc. Đối với Canada, quốc gia này có khoảng 150 công ty spin-off từ các phòng thí nghiệm quốc gia, trong đó có 110 công ty do Hội đồng Nghiên cứu quốc gia gây dựng; 800 công ty spin-off từ các trường đại học. Doanh thu hằng năm khoảng 250 tỉ USD và tạo 12.000 việc làm. Trong khi đó, tại Châu Á, Singapore là một trong những quốc gia dẫn đầu trong việc phát triển mô hình spin-off. Ngô Đức Thế (2014) chỉ ra rằng trong 05 năm từ 1998-2003, với cơ chế và thủ tục hành chính thuận lợi, kết hợp với nguồn đầu tư dồi dào từ ngân sách, đã có hơn 70 công ty spin-off được thành lập từ Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và Đại học Công nghệ Nanyang (NTU). Thứ hai, các chính sách và cơ chế hỗ trợ của chính phủ đóng vai trò quyết định trong việc khuyến khích sự thành lập và phát triển đối với các spin-off. Tại Vương quốc Anh, Chính phủ Anh đã thành lập các chương trình và quỹ hỗ trợ tài chính như Enterprise Investment Scheme (EIS) và Seed Enterprise Investment Scheme (SEIS) để hỗ trợ công ty khởi nghiệp và spin-off. Các chương trình này cung cấp các khoản đầu tư rủi ro và các lợi ích thuế cho các cá nhân và tổ chức đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ. Bên cạnh đó, Chính phủ Anh đã đưa ra nhiều chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như các chương trình để hỗ trợ đào tạo và phát triển nhân lực cho công ty, bao gồm cả spin-off để khuyến khích tạo lập, mở rộng các loại hình này và áp dụng các công nghệ
mới trong sản xuất, vận hành. Theo đó, các chương trình như Innovate UK cung cấp vốn đầu tư và hỗ trợ tư vấn cho các spin- off và dự án nghiên cứu, trong khi một số chương trình như Apprenticeship Levy và Skills Funding Agency cung cấp hỗ trợ tài chính cho việc đào tạo và phát triển nhân lực trong các spin-off. Mặt khác Chính phủ Anh cũng cung cấp hỗ trợ và tư vấn cho các spin-off để tiếp cận thị trường và mở rộng quốc tế thông qua việc thành lập các tổ chức như Department for International Trade (DIT) và UK Export Finance (UKEF) nhằm cung cấp thông tin, tư vấn và hỗ trợ tài chính cho các công ty muốn mở rộng quốc tế. Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Bayh-Dole được đánh giá là một trong những đạo luật có tác động mạnh mẽ tới việc hỗ trợ các công ty spin-off và khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các tổ chức nghiên cứu đến thị trường kinh doanh. Theo đó, Đạo luật Bayh-Dole cho phép các tổ chức nghiên cứu như các trường đại học, viện nghiên cứu và bệnh viện giữ quyền sở hữu trí tuệ đối với kết quả nghiên cứu do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ. Trước khi Đạo luật này được thông qua, Chính phủ thường giữ quyền sở hữu và kiểm soát kết quả nghiên cứu. Quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức nghiên cứu cho phép họ chủ động trong việc chuyển giao công nghệ và thành lập spin-off dựa trên kết quả nghiên cứu của mình. Bên cạnh đó, Đạo luật Bayh-Dole còn khuyến khích các tổ chức nghiên cứu chuyển giao công nghệ và kết quả nghiên cứu cho các công ty. Các tổ chức nghiên cứu có quyền thương mại hóa và cấp phép quyền sử dụng trí tuệ cho các công ty spin-off. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để các spin-off tiếp cận công nghệ mới và sử dụng nó để phát triển sản phẩm và dịch vụ. Bên cạnh đó, Chính phủ Hoa Kỳ cũng có các chương trình như Small Business Innovation Research (SBIR) và Small
7
Business Technology Transfer (STTR) nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và công ty spin-off trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển công nghệ. Các chương trình này cung cấp tài trợ cho các dự án nghiên cứu và phát triển có rủi ro cao nhưng tiềm năng thương mại lớn, giúp các nhà sáng lập học thuật vượt qua những rào cản tài chính. Theo thống kê, vào năm 2004 chương trình này đã giải ngân trên 2 tỷ USD để hỗ trợ thành lập các công ty spin-off, và đến năm 2009 đã tài trợ cho tổng cộng 112.500 công ty với tổng kinh phí lên tới gần 27 tỷ USD (Đinh Văn Toàn, 2019).
4. Bài học về phát triển công ty spin-off trong các trường đại học Việt Nam
Tại Việt Nam, mô hình spin-off dù chưa phổ biến, song trong những năm qua đã bắt đầu thu hút được sự quan tâm, triển khai của một số trường đại học, điển hình là Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm 2008, Đại học Bách khoa Hà Nội đã thành lập Công ty TNHH MTV Đầu tư và Phát triển công nghệ Bách khoa Hà Nội (BK-Holdings), hoạt động như một công ty đầu tư tài chính, thực hiện các chức năng như huy động và quản lý vốn để phục vụ quá trình ươm tạo và thương mại hóa sản phẩm KH&CN của đại học chủ quản. Tiếp nối thành công, năm 2018, Công ty cổ phần KH&CN Bách khoa (BKTechs) tiếp tục ra đời, trong đó Đại học Bách khoa là cổ đông sáng lập (Nguyễn Thị Tuyết Mai, 2022). Tại Đại học Quốc gia Hà Nội, có 02 spin-off được thành lập vào các năm 2015 và 2017, gồm Công ty TNHH Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên và Công ty công nghệ vi sinh IMBT thuộc Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học. Các công ty này đã hoạt động trong các lĩnh vực tư vấn chuyển giao công nghệ vi sinh vật và công nghệ sinh học, với kỳ
vọng thúc đẩy việc phát triển sản phẩm và thương mại hóa trong các lĩnh vực này. Song, tới cuối năm 2018, cả hai công ty này đều đã dừng hoạt động. Nguyên nhân chủ yếu là do xung đột về cơ chế sử dụng tài sản vốn và vướng mắc trong quản lý các công ty có nguồn lực từ nhà nước trong khi chưa có các hướng dẫn pháp lý phù hợp (Đinh Văn Toàn, 2021). Về phía cơ quan quản lý, một số văn bản pháp lý mang tính hỗ trợ, kiến tạo phát triển spin-off trong trường đại học cũng đã được ban hành. Ví dụ, tại Điều 6 Nghị định số 109/2022/NĐ-CP quy định hoạt động KH&CN trong cơ sở giáo dục đại học, quyền thành lập doanh nghiệp KH&CN trong cơ sở giáo dục đại học đã được làm rõ... Tuy nhiên, việc phát triển spin-off trong các trường đại học Việt Nam đến nay vẫn gặp phải nhiều rào cản pháp lý (cơ sở pháp lý còn hạn chế, chưa có quy định riêng...), rào cản từ đại học chủ quản (sự dè dặt của lãnh đạo trường đại học trong việc thành lập, quản lý spin-off), và rào cản từ giới khoa học (chưa có tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ, chưa tích cực thương mại hoá kết quả nghiên cứu), khiến cho việc thành lập và duy trì hoạt động của các công ty này còn rất hạn chế, chưa phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và tiềm năng KH&CN của các trường đại học. Vì thế, những trở ngại về cơ chế quản lý, tư duy lãnh đạo, định hướng nghiên cứu, mô hình kinh doanh cần được xem xét một cách thấu đáo khi quyết định thành lập và vận hành một spin-off trong trường đại học. Dựa trên phân tích thực tiễn trong nước và quốc tế, bài viết rút ra một số bài học kinh nghiệm hướng tới phát triển công ty spin-off trong các trường đại học Việt Nam. Cụ thể: Thứ nhất, Việt Nam cần đồng bộ về thể chế và cơ chế thuận lợi để thúc đẩy chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ các cơ sở giáo dục đại học.
8
Thực tế cho thấy mặc dù nhận được nhiều sự quan tâm của các cơ quan quản lý cũng như các trường đại học, tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam vẫn thiếu vắng các khung khổ pháp lý và các quy định cụ thể đối với loại hình spin-off. Trong khi đó, thực tiễn quốc tế chỉ ra rằng các chính sách và thể chế đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển của công ty spin-off. Theo đó, Chính phủ cần xây dựng và hoàn thiện các chính sách và pháp luật liên quan đến chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Điều này bao gồm việc xem xét và cải tiến quy định về quyền sở hữu trí tuệ, quyền thương mại hóa, bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và quy trình chuyển giao công nghệ. Chính sách và pháp luật nên tạo điều kiện thuận lợi, đồng nhất và rõ ràng để các cơ sở giáo dục đại học có thể chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu một cách hiệu quả. Thứ hai, cần tạo ra một môi trường hỗ trợ cho chuyển giao công nghệ và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Điều này bao gồm việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ, và các cơ chế tài trợ và hỗ trợ tài chính để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp tạo ra các spin-off. Ngoài ra, cần thúc đẩy hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp và cơ quan chính phủ để tạo ra một môi trường đa phương và hỗ trợ cho chuyển giao công nghệ. Không chỉ vậy, cần xây dựng một hệ thống quản lý tri thức mạnh mẽ để thu thập, tổ chức và chia sẻ thông tin về kết quả nghiên cứu và công nghệ. Hệ thống này có thể bao gồm cơ sở dữ liệu, các cơ chế bảo vệ và chia sẻ tri thức, và các hoạt động đào tạo và tư vấn để nâng cao năng lực quản lý tri thức cho các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp. Điều này giúp tăng khả năng tìm kiếm, áp dụng và phát triển công nghệ từ các trường đại học
và tạo ra các cơ hội cho các spin-off. Thứ ba, Chính phủ và các cơ quan quản lý có thẩm quyền cân nhắc cung cấp các chương trình tài trợ và hỗ trợ tài chính cũng như các chương trình đào tạo và tư vấn chuyên sâu để nâng cao kỹ năng quản lý, quản lý dự án, quản lý tài chính và khởi nghiệp cho công ty spin-off. Chính phủ có thể xem xét việc cung cấp vốn rủi ro và vốn đầu tư cho các spin-off, hoặc thiết lập quỹ hỗ trợ đặc biệt để tài trợ các hoạt động nghiên cứu và phát triển, thử nghiệm thương mại và mở rộng sản xuất của các công ty spin-off. Điều này đảm bảo các công ty spin-off có được nguồn vốn khởi nghiệp ban đầu cũng như được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để phát triển thành công trong bối cảnh toàn cầu hóa giàu tính cạnh tranh hiện nay. Thứ tư, cần khuyến khích hợp tác và liên kết giữa công ty spin-off và tổ chức nghiên cứu, cơ quan chính phủ và các doanh nghiệp khác. Điều này có thể được triển khai thông qua việc thiết lập các chương trình đối tác công nghiệp, cung cấp quyền truy cập vào cơ sở hạ tầng và thiết bị nghiên cứu, và tạo ra các cơ chế chia sẻ tri thức và tài nguyên giữa các bên. Bên cạnh đó, cần tạo ra một mạng lưới và cộng đồng hỗ trợ cho công ty spin-off. Các spin-off cần có cơ hội giao lưu, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Có thể tổ chức các sự kiện, hội thảo và chương trình mentoring để xây dựng một môi trường tương tác tích cực và tạo ra những cơ hội hợp tác và phát triển cho các công ty spin-off. Ngoài ra cần có cơ chế hỗ trợ các công ty spin-off trong việc tiếp cận thị trường, quảng bá sản phẩm và dịch vụ của họ. Chính phủ có thể cung cấp hỗ trợ về tiếp thị và quảng cáo, tham gia các triển lãm và hội chợ thương mại, và tạo ra các chương trình quảng bá và xúc tiến thương mại để giúp các spin-off tiếp cận khách hàng và mở rộng quy mô kinh doanh.
9
5. Kết luận
Trong những năm qua, các công ty spin-off không ngừng tăng lên về số lượng, quy mô hoạt động, và đang giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc định hình phát triển và nâng tầm trường đại học. Một số trường hợp điển hình như tại Châu Âu, số lượng spin-off hoạt động và thành lập mới tăng đáng kể từ năm 2015; tại Hoa Kỳ- quốc gia dẫn đầu xu thế phát triển spin-off, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của loại hình công ty này đóng góp hàng chục tỷ USD cho kinh tế quốc gia; tại Châu Á, Singapore được xem là quốc gia đi đầu về xây dựng và triển khai mô hình spin- off. Cùng với đó, chính phủ các nước cũng ban hành nhiều chính sách và cơ chế hỗ trợ để thúc đẩy sự phát triển công ty spin-off như thành lập các chương trình và quỹ hỗ trợ tài chính, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, ban hành đạo luật hỗ trợ công ty spin-off. Dựa trên thực tiễn quốc tế, bài viết đã đề xuất một số khuyến nghị dành cho Chính phủ và cơ quan quản lý chuyên trách nhằm khuyến khích và thúc đẩy mô hình spin-off phát triển và mở rộng trong trường đại học Việt Nam. Do spin-off là một chủ đề nghiên cứu khá mới mẻ, bài viết không tránh khỏi những
hạn chế cần được cải thiện trong các nghiên cứu tiếp theo. Thứ nhất, bài viết chỉ đề cập đến thực tiễn triển khai spin-off trên thế giới, chưa đánh giá thực trạng áp dụng mô hình này tại Việt Nam. Do đó, các nghiên cứu tương lai có thể phân tích sâu hơn thực trạng triển khai mô hình công ty spin-off tại Việt Nam để thấy được những kết quả đạt được, tồn tại, nguyên nhân để đề xuất các giải pháp thiết thực hơn cho Việt Nam. Thứ hai, bài viết mới chỉ tiếp cận theo hướng định tính, tập trung vào khảo lược tài liệu và phân tích thực trạng. Vì vậy, các nghiên cứu tiếp theo có thể đánh giá theo hướng định lượng, ví dụ như phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng mô hình spin- off tại các trường đại học ở Việt Nam, để có được bằng chứng rõ ràng, khoa học hơn về quá trình hình thành, phát triển spin-off. Thứ ba, các nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng tìm hiểu sự hợp tác của trường đại học trong việc phát triển spin-off theo các cách tiếp cận mới mẻ (ví dụ: hợp tác quốc tế), tập trung ở một số lĩnh vực chuyên sâu, hoặc đặt trong phạm vi rộng lớn hơn (cấp độ khu vực, toàn cầu hoặc phân theo trình độ phát triển) để có được các bằng chứng mới có tính khái quát và toàn diện. ■
Tài liệu tham khảo
Algieri, B., Aquino, A., & Succurro, M. (2013). Technology transfer offices and academic spin-off creation: The case of Italy. The Journal of Technology Transfer, 38(4), 382–400. DOI: 10.1007/s10961-011-9241-8
Bekkers, R., Gilsing, V., & Van der Steen, M. (2006). Determining Factors of the Effectiveness of IP-based Spin-offs: Comparing the Netherlands and the US. The Journal of Technology Transfer, 31, 545-546. DOI: 10.1007/s10961- 006-9058-z
Boffo, S., & Cocorullo, A. (2019). University Fourth Mission, Spin-offs and Academic Entrepreneurship: Connecting Public Policies with New Missions and Management Issues of Universities. Higher Education Forum (Vol. 16, pp. 125-142). Research Institute for Higher Education, Hiroshima University. 1-2-2 Kagamiyama, Higashi-hiroshima, Hiroshima City, Japan 739-8512. Borges, C., & Jacques Filion, L. (2013). Spin-off process and the development of academic entrepreneur’s social capital. Journal of technology management & innovation, 8(1), 21-34. DOI: 10.4067/S0718-27242013000100003 Callan, B. (2001). Generating Spin-offs: Evidence From Across The OECD, Special Issue on Fostering High-tech Spin- offs: A Public Strategy for Innovation. OECD, Science Techonology Industry Review, 26, 13-55. Cooper, A., & Folta, T. (2000). Entrepreneurship and high-technology clusters. In D. L. Sexton & H. Landstrom (Eds.), The Blackwell handbook of entrepreneurship (pp. 348–367). Malden, MA: Blackwell Business. Đinh Văn Toàn (2019). Phát triển doanh nghiệp trong các cơ sở giáo dục đại học: Từ kinh nghiệm quốc tế đến thực tiễn Việt Nam. Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 133-261.
10
Đinh Văn Toàn (2021). Nghiên cứu doanh nghiệp học thuật Spin-offs từ các trường đại học trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học Việt Nam. Tạp chí Khoa học thương mại, 149 + 150, 167-176. Dinh, V. T. (2020). Entrepreneurial Universities and the Development Model for Public Universities in Vietnam. International Journal of Entrepreneurship, 24(1), 1-16. Djokovic, D., & Souitaris, V. (2008). Spinouts from academic institutions: a literature review with suggestions for further research. The journal of technology transfer, 33, 225-247. DOI: 10.1007/s10961-006-9000-4 Erden, Y., & Yurtseven, A. E. (2010). Establishment and development of academic spin-off firms: Evidence from Turkey. In DRUID-DIME Academy Winter 2010 PhD Conference (pp. 21-23).
Erden, Y., & Yurtseven, A.E. (2012), Establishment and Development of Academic Spin-Off Firms: Evidence from Turkey. Retrieved from: https://www.researchgate.net/publication/25442900_Establishment_and_Development_ of_Academic_Spin_Off Firms_by_Evidence_from_Turkey_and_Some_Policy_ Recommendations Goldfarb, B., & Henrekson, M. (2003). Bottom-up versus top-down policies towards the commercialization of university intellectual property. Research policy, 32(4), 639-658. DOI: 10.1016/S0048-7333(02)00034-3
Higher Education Statistics Agency (2024). Spin-offs and start-up companies by type of activity, metric, country of HE provider and academic year. Available from: https://www.hesa.ac.uk/data-and-analysis/providers/business- community/chart-1
Isabelle, D. A. (2014). Capitalization of science and technology knowledge: Practices, trends and impacts on techno- entrepreneurship. In Handbook of Research on Techno-Entrepreneurship, Second Edition (pp. 60-90). Edward Elgar Publishing. Jung, H., & Kim, B. K. (2018). Determinant factors of university spin-off: the case of Korea. The Journal of Technology Transfer, 43(6), 1631-1646. DOI: 10.1007/s10961-017-9571-2 Kretz, A., & Sá, C. (2013). Third stream, fourth mission: Perspectives on university engagement with economic relevance. Higher Education Policy, 26, 497-506. DOI: 10.1057/hep.2013.32
Landry, R., Amara, N., & Rherrad, I. (2006). Why are some university researchers more likely to create spin-offs than others? Evidence from Canadian Universities. Research Policy, 35, 1599–1615. DOI: 10.1016/j.respol.2006.09.020 Lockett, A., & Wright, M. (2005). Resources, capabilities, risk capital and the creation of university spin-out companies. Research Policy, 34(7), 1043–1057. DOI: 10.1016/j.respol.2005.05.006
M’chirgui, Z., Lamine, W., Mian, S., & Fayolle, A. (2018). University technology commercialization through new venture projects: An assessment of the French regional incubator program. The Journal of Technology Transfer, 43(5), 1142–1160. DOI: 10.1007/s10961-016-9535-y Ndonzuau, F. N., Pirnay, F., & Surlemont, B. (2002). A stage model of academic spin-off creation. Technovation, 22(5), 281-289. DOI: 10.1016/S0166-4972(01)00019-0
Nguyễn Thị Tuyết Mai (2022). Chính sách phát triển các tổ chức vệ tinh (Spin-off) thành doanh nghiệp khởi nghiệp trong trường đại học ở Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
O’Shea, R. P., Allen, T. J., Chevalier, A., & Roche, F. (2005). Entrepreneurial orientation, technology transfer and spinoff performance of U.S. universities. Research Policy, 34, 994–1009. DOI: 10.1016/j.respol.2005.05.011 Powers, J. B., & McDougall, P. P. (2005). University start-up formation and technology licensing with firms that go public: A resource-based view of academic entrepreneurship. Journal of Business Venturing, 20(3), 291–311. DOI: 10.1016/j.jbusvent.2003.12.008
Saetre, A. S., Wiggins, J., Atkinson, O. T., Atkinson, B.K.E. (2009). University Spin-Offs as Technology Transfer: A Comparative Study among Norway, the United States, and Sweden, Comparative Technology Transfer and Society, 7(2), 115-145. Johns Hopkins University Press. DOI: 10.1353/ctt.0.0036 Shane, S. (2001). Technological opportunities and new firm creation. Management Science, 47(2), 205–220. DOI: 10.1287/mnsc.47.2.205.9837
Siegel, D. S., Veugelers, R., & Wright, M. (2007). Technology transfer offices and commercialization of university intellectual property: Performance and policy implications. Oxford Review of Economic Policy, 23(4), 640–660. DOI: 10.1093/oxrep/grm036
Van Looy, B., Landoni, P., Callaert, J., Van Pottelsberghe, B., Sapsalis, E., & Debackere, K. (2011). Entrepreneurial effectiveness of European universities: An empirical assessment of antecedents and trade-offs. Research Policy, 40(4), 553–564. DOI: 10.1016/j.respol.2011.02.001 Zhang, J. (2009). The performance of university spin-offs: An exploratory analysis using venture capital data. The Journal of Technology Transfer, 34(3), 255–285. DOI: 10.1007/s10961-008-9088-9