
1
Chuyên đề 3
THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ NÂNG CAO
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
Nội dung chuyên đề bao gồm kiến thức chung về thuế và các sắc thuế chủ
yếu trong hệ thống thuế Việt Nam. Nội dung kiến thức của chuyên đề đòi hỏi
người dự thi chứng chỉ kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề phải hiểu sâu
sắc nội dung những sắc thuế chủ yếu trong hệ thống thuế Việt Nam (được liệt kê
cụ thể trong tài liệu này). Những sắc thuế khác trong hệ thống thuế Việt Nam
không liệt kê trong tài liệu này thì không nằm trong giới hạn kỳ thi. Chuyên đề
có các nội dung sau:
1. Những vấn đề chung về thuế
2. Thuế giá trị gia tăng
3. Thuế tiêu thụ đặc biệt
4. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
5. Thuế thu nhập doanh nghiệp
6. Thuế thu nhập cá nhân
7. Quản lý thuế
8. Kế hoạch thuế
9. Quy định về dịch vụ hành nghề làm thủ tục về thuế và tư vấn thuế.
GIỚI HẠN VĂN BẢN PHÁP LÝ
Nội dung thi để cấp chứng chỉ kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề
đối với chuyên đề Thuế và quản lý thuế nâng cao áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật về thuế và quản lý thuế đã ban hành và có hiệu lực thi hành tính đến
ngày 31/3/2023.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THUẾ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thuế
Ra đời và tồn tại cùng với nhà nước, từ đó đến nay, thuế đã trải qua một
quá trình phát triển lâu dài và khái niệm thuế cũng không ngừng được hoàn
thiện.
Theo Lê Nin, “Thuế là cái mà nhà nước thu của dân nhưng không bù lại”
và “Thuế cấu thành nên nguồn thu của chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm

2
của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản
hay thu nhập của người chịu thuế
1
”.
Nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công
2
” đã đưa ra một
khái niệm cổ điển nhất và cũng nổi tiếng nhất về thuế. Theo Gaston Jeze, “Thuế
là một khoản đóng góp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp
do các công dân đóng góp cho nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm
bù đắp các khoản chi tiêu của nhà nước”. Theo thời gian, khái niệm cổ điển này
đến nay đã được bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện như sau: “Thuế là một khoản
đóng góp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp do các công
dân đóng góp cho nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm đáp ứng cầu
chi tiêu của nhà nước để thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của nhà nước”.
Trên góc độ phân phối thu nhập, khái niệm thuế được hiểu như sau: Thuế
là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc
dân nhằm hình thành nên quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước (quỹ ngân
sách nhà nước) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế thì thuế được định nghĩa như sau: Thuế là
khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp
cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Trên góc độ kinh tế học, thuế được định nghĩa như sau: Thuế là biện pháp
đặc biệt, theo đó, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần
nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh
tế - xã hội của nhà nước.
Luật Quản lý thuế (sửa đổi) số 38/2019/QH13 của Việt Nam quy định:
Thuế là một khoản nộp ngân sách nhà nước bắt buộc của các tổ chức, hộ gia
đình, hộ kinh doanh, cá nhân theo quy định của các luật thuế.
Như vậy, đã có nhiều khái niệm khác nhau về thuế. Tuy nhiên, để hiểu rõ
bản chất của thuế, khi nghiên cứu khái niệm thuế cần chú ý các đặc điểm sau:
Thứ nhất, trong xã hội hiện đại thuế là khoản đóng góp bằng tiền. Về
nguyên tắc, thuế là một khoản đóng góp dưới hình thức tiền tệ, điều này trái
ngược với các hình thức thanh toán bằng hiện vật đã tồn tại trước đây. Sự phát
triển của quan hệ hàng hoá - tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
thuế, đổi lại, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế được thực hiện bằng tiền lại góp
phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường.
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp bắt buộc được thực hiện thông qua con
đường quyền lực chính trị. Dù được thực hiện dưới hình thức nào, thuế vẫn thể
hiện tính chất bắt buộc, được thực hiện thông qua con đường quyền lực nhà
nước (qua hệ thống pháp luật thuế). Do đó, đối tượng nộp thuế bắt buộc phải
1
Lê-Nin toàn tập, tập 15.
2
Gaston Jeze, “Finances Publiques”, 1934.

3
tuân thủ các quy định pháp luật về kê khai, nộp thuế. Đối tượng nộp thuế không
thể tự mình ấn định hay thoả thuận mức thuế mà phải chấp thuận mức thuế và
thời hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật. Những đối tượng nộp thuế vi
phạm luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hoặc cưỡng chế
thi hành theo quy định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế.
Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính chất tự
nguyện.
Thứ ba, thuế là một khoản thu không có đối khoản cụ thể, không hoàn trả
trực tiếp nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước trong việc thực hiện các
chức năng quản lý xã hội, chức năng kinh tế - xã hội của nhà nước.
Khác với khoản vay, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế
(tuy nhiên, một phần thuế được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua
các khoản phúc lợi xã hội và các dịch vụ công). Sự không hoàn trả trực tiếp
được thể hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu thuế, nhà nước
không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi thu
thuế, nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế.
Cũng như vậy, người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế
với lý do họ sử dụng ít các dịch vụ công cộng; không có quyền đòi hỏi được
hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với số thuế họ phải trả vì lý do này hay
lý do khác; không thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải chi trả phí, lệ phí
cho một số dịch vụ mà họ được cung cấp.
Thuế được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của nhà nước, thuế
không có đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu từ mỗi loại
thuế không được quy định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào cả mà đều được
sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung của nhà nước trong quá trình thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Khái niệm “chi tiêu của nhà nước” ngày nay không thể hiểu theo nghĩa
hẹp là chỉ bao gồm các chi phí liên quan đến chức năng duy trì bộ máy của nhà
nước để thực hiện các chức năng của nhà nước, mà còn gồm các chi phí cho việc
thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội. Chính vì thế, khi xem xét khái niệm
thuế cũng phải hiểu thuế trên hai góc độ: thuế vừa là công cụ huy động nguồn
thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước và thuế vừa là công cụ giúp nhà
nước thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội hay công cụ quản lý vĩ mô nền kinh
tế.
1.2. Chức năng của thuế
Lịch sử phát triển của thuế đã chứng minh rằng, thuế có 3 chức năng cơ
bản, đó là: chức năng bảo đảm nguồn thu cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước; chức năng phân phối lại thu nhập và tài sản nhằm đảm bảo
công bằng xã hội và chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

4
1.2.1. Chức năng đảm bảo nguồn thu cho NSNN
Mức độ động viên các nguồn thu từ thuế vào ngân sách phần lớn, gắn liền
với tổng số chi tiêu của của nhà nước vì các khoản thu này là nguồn bù đắp chủ
yếu cho các khoản chi ngân sách. Nhưng các khoản thu này cũng không phải là
nguồn bù đắp duy nhất mà bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách còn được bù đắp
bằng nguồn vay hoặc phát hành tiền tệ. Mức độ động viên thu ngân sách với tỷ
lệ giữa thâm hụt ngân sách trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của mỗi nước
cho thấy mức độ huy động của nhà nước để bù đắp cho các khoản chi này (tất
nhiên kể cả khoản lãi phải trả khi hoàn trả nợ).
1.2.2. Chức năng phân phối lại nhằm đảm bảo công bằng xã hội
Về nguyên tắc, gánh nặng về thuế phải được phân chia một cách công
bằng; thuế phải có vai trò sửa chữa những khiếm khuyết của sự phân phối lần
đầu để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng. Tuy nhiên, sự công bằng chỉ mang
tính chất tương đối và tuỳ thuộc vào quan niệm cho rằng sự phân phối phải công
bằng hay không trong việc phân chia quyền sở hữu diễn ra trên thị trường.
1.2.3. Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế hay khắc phục những bất cân
bằng của thị trường
Thuế là một công cụ của chính sách kinh tế có thể đóng vai trò khuyến
khích, hạn chế hoặc ổn định kinh tế. Thuế có thể được sử dụng để khắc phục
những bất cân bằng của thị trường. Chẳng hạn như, dựa trên cơ sở các phân tích
kinh tế vi mô để quốc tế hoá những tác động nội tại của nền kinh tế. Thuế cũng
có thể góp phần thực hiện các cân bằng tổng thể trong khuôn khổ chính sách
ngân sách dựa trên cơ sở các phân tích kinh tế vĩ mô.
Cách tiếp cận kinh tế vi mô phù hợp với cách nhìn tự do về sự can thiệp
của nhà nước mà với chức năng trợ cấp ngân sách, nhà nước có thể xoá bỏ được
những vật cản nảy sinh trong kinh tế thị trường. Cách tiếp cận này đôi khi cũng
là trung tâm của các cuộc tranh luận.
Cách tiếp cận kinh tế vĩ mô thuộc quan niệm của J. M. Keynes về chính
sách kinh tế, thuế là một công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm ổn định tình huống
(chính sách tác động trên tổng cầu) hoặc cơ cấu (chính sách thuế nhằm tạo thuận
lợi cho sự tăng trưởng kinh tế). Khả năng của thuế trong việc thực hiện các mục
tiêu hiệu quả kinh tế này đã bị tranh luận khá gay gắt. Tuỳ theo quan điểm mà
chức năng này được đánh giá cao hay thấp.
Tóm lại, để phát huy được vai trò của thuế trong nền kinh tế, phải sử dụng
thuế đúng với chức năng của nó. Tuy nhiên, vai trò của thuế đối với nền kinh tế
ở mỗi quốc gia không giống nhau mà tuỳ thuộc vào “nghệ thuật sử dụng” công
cụ thuế của mỗi quốc gia đó. Vấn đề có tính nguyên tắc là thuế phải luôn luôn
phù hợp với mục tiêu, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và là công cụ đắc lực
cho việc thực hiện đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia trong từng thời kỳ nhất định. Đó cũng là lý do mà các quốc gia phải thường

5
xuyên rà soát mức độ phù hợp của hệ thống thuế với chiến lược phát triển kinh
tế xã hội cuả mình, thực hiện các cải cách thuế kịp thời nếu thấy cần thiết.
1.3. Phân loại thuế
Căn cứ theo đặc điểm, công dụng, chức năng và vai trò của từng loại thuế
đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội và tuỳ theo mục tiêu, yêu cầu của
quản lý mà người ta có thể đưa ra các cách phân loại thuế khác nhau, từ đó nhằm
sử dụng phát huy vai trò tích cực của từng công cụ thuế trong quản lý, điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu.
1.3.1. Phân loại theo thẩm quyền đánh thuế
Căn cứ vào thẩm quyền đánh thuế, thuế được phân loại thành thuế trung
ương (Federal taxes) và thuế địa phương (Local taxes). Cách phân loại này chỉ
tồn tại ở các quốc gia có phân quyền tự chủ về ngân sách và thuế cho các địa
phương, phổ biến là các quốc gia có thể chế liên bang.
Thuế trung ương là loại thuế do chính quyền trung ương (liên bang) ban
hành và được thu nộp vào ngân sách trung ương.
Thuế địa phương là loại thuế do chính quyền địa phương ban hành và
được thu nộp vào ngân sách địa phương. Tùy theo cách thức tổ chức chính
quyền của một quốc gia có thể có nhiều cấp độ thuế địa phương, chẳng hạn như:
thuế bang, thuế vùng, thuế tỉnh...
Ở Việt Nam, Nhà nước được xây dựng theo nguyên tắc tập trung - dân
chủ: Trung ương thống nhất ban hành pháp luật, chính sách; các cấp chính
quyền địa phương không được phép ban hành và quản lý thu các loại thuế riêng.
Tất cả các nguồn thu thuế do Nhà nước thống nhất quản lý và việc phân bổ
nguồn lực cho các địa phương, phân chia các nguồn thu từ thuế trên địa bàn
được thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, hiện nay ở
Việt Nam không tồn tại thuế trung ương và thuế địa phương.
1.3.2. Phân loại theo cơ sở thuế
Theo cách phân loại này, thuế được chia thành thuế thu nhập, thuế tiêu
dùng và thuế tài sản.
Thuế thu nhập là loại thuế đánh vào phần thu nhập kiếm được của các tổ
chức và cá nhân. Cơ sở thuế thu nhập là phần thu nhập kiếm được trong một
thời kỳ nhất định của người nộp thuế.
Thuế tài sản là loại thuế đánh vào phần thu nhập tích trữ dưới dạng tài sản.
Cơ sở thuế tài sản là giá trị của tài sản mà người nộp thuế có quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng. Tất nhiên, không phải mọi tài sản đều bị đánh thuế. Nhà nước
thường chỉ đánh thuế vào những tài sản có giá trị lớn và có thể kiểm soát được.
Tuy cơ sở thuế là giá trị của tài sản nhưng bản chất của cơ sở thuế chính là phần
thu nhập đã được tạo ra trong quá khứ của người nộp thuế.