Phong cách thơ Ngải Thanh và những ảnh hưởng từ phái
tượng trưng
ThS. Lê Quang Trường
Khoa Văn học và Ngôn ng- Đại học KHXH&NV TP.Hồ Chí Minh.
Ngải Thanh tên thậtng Hải Trừng (sinh ngày 27-3-1910, mt ngày 5-5-1996)
sinh ra trong mt gia đình địa ch h Tưởng, tại làng Kim Hoa, huyệnởng, tỉnh Chiết
Giang. Ông là mt trong những nhà t mi Trung Quốc có ảnh hưởng ln đến các nhà
thơ mi thời k sau.
Mc dù, Ngải Thanh ít được biết đến và kng có nh hưởng gì đi với Vit Nam, nhưng
t bài viết này (dẫu chưa thể đề cập đến những nhà thơ mới ở Việt Nam), cng ta vẫn
thấy thấp thoáng đâu đó, Ngi Thanh những nét gn giống với Chế Lan Viên. Nếu có
điều kin, cng i nghĩ, thử so nh phong cách của hai nhà thơ k đặc biệt ca hai
nưc này, tin chắc có nhiu điều thú v. Bài viết chyếu vẫn đi vào tìm hiểu phong
cách thơ Ngi Thanh trong mi quan hchu ảnh hưng phong cách từ pi tưng tng.
Nng n ông từng phát biểu, ông hoàn tn không phải là n thơ thuộc phái ợng
trưng, mà vẫn nhn mình n thơ hiện thực chnghĩa. Có điều, trong sáng tác của ông
vn mang đậm dấun ngh thuật của ch nghĩa tượng tng.
Các nhà nghn cu Trung Quc, khi so sánh Ngi Thanh vi Tang Khắc Gia, thường
ly sáng tác thơ trong tp Du n (Lc n của Tang Khắc Gia) và tập Đại Yển Hà – bảo
mu của tôi (Đại Yn Hà ngã đích bảo mẫu) m tiêu chí bởi đây là hai tp thơ đánh
du phong cách thơ ca hai ông. Nếu đứng trên hai tiêu chí này t Tang Khc Gia và
Ngi Thanh đều được xem là nhng nhà thơ mới trên thi đàn năm 1933.
Cùng xut hiện trên thi đàn vào nhữngm 30 của thế kỷ XX, mi tác giả mtnh
chất và ý nghĩa quan trọng rng, nhưng, nếu kho sát một cách tổng th tìnhnh thi đàn
trong giai đoạn trước và lúc bấy giờ, thì h có nhiều điểm giống nhau. Về điểm giống
nhau, trong ngh thut, h đều li thơ rõ ràng, trongng và tản mạn t nhiên. Li thơ
này bắt đu từ phong trào Ngũ t, nng khi dòng thơ mi tiếp tục phát triển, hiển nhiên
nó kng thtiếp tục chấp nhận khuynh hướng này, mà nó cần sbứt phá mc đ
ngh thuật cao hơn. Điểm kc nhau ca haic giảng cnh là phương thc và con
đưng biu hiện qua sự bứt phá này: Tang Khắc Gia thì theo sxuất qu (thoát khỏi
qu đạo) của phái Tân Nguyệt do lut sư Văn Nhất Đa dẫn đầu; còn Ngi Thanh thì lại
chịu ảnh ởng của các nhà thơ pi Tưng trưng và kết hợp được chất tượng tng vào
tràou tả thực. Từ s thay đổi mang tính bướt ngoặt trên, c hai ông đều hoàn thin và
to nên phong cách ngh thut thơ ca riêng mình, tr thành mt loại trái ngọt mi trong
vưn thơ mới thời k này.
Chu Tác Nhân cho rằng những n thơ theo ch nghĩa tưng tng trong thi k đầu n
nhóm ca Lý Kim Pt đã s kết hợp nhuần nhuyn gia thơ phái ấn tượng với thơ
mới Trung Quc. Thật ra thì ch nga tượng tng thật s có s dính kết nhuần nhuyn
trong thơ mi nên vào trường hợp các nhà thơ n Đới Vọng T và Ngi Thanh tr
v sau, đc bit là Ngi Thanh, s kết hợp này đã m ra một con đường phát triển mới
cho thơ mi Trung Quc. Có điu, s kết hợp này không phi là s hoà tan lẫn nhau giữa
tràou mi của nưc ngoài” và “th pháp của Trung Quốc” n Chu Tác Nn đã
nói, mà t của Ngi Thanh lấy chủ nghĩa hiện thc mới làm chủ thể, kết hợp chặt ch
với ch nghĩa ng tng.
Ngi Thanh ng có một đoạn trình bày v thơ mới Trung Quốc n sau: Thơ mới
Trung Quc, từ lúc những sáng tác còn u trĩ và thin bạc của thời Ngũ tứ, đã tiến đến s
mô phng thơ c Trung Quốc và thơ phương Tây, lại c thêm c na đến nhng
phỏng tác hừng hc của những bài thơ hiện đại Âu Mỹ, nay đã có th dần dần đi vào giai
đoạn ổn định và phát trin. Hiện nay ch lưu ca dòng thơ mi Trung Quốc là dùng ngôn
t chất phác, t do, cộng vi tiết tấu rõ ng và những vần chân làm nên hình thc thơ
mới(1). Phong cách thơ t do ca Ngải Thanh là đi biểu điển hình cho hình thc này.
Có th lý giải v phong ch thơ tự do của Ngải Thanh chịu nh ởng thơ của phái
tưng tng hay không, và sự kết hợpy đã tạon phong cách thơ Ngải Thanh như thế
nào, th xét từ những s kiện lch sử và pơng din sau:
1. Chất tưng trưng trong thơ ông thbắt nguồn từ những ngày ông theo học Kim
Phát Viện Mỹ thuật y Hồ (Hàng Châu) vào cui những năm 20. Đc biệt là ông rất
thích tranh ca tờng pi n ợng như Van Gogh, Gauguin. Ôngm thơ ng giống
n những hoạ sĩ phái n tượng chú trọng đến cảm giác và s cảm nhận. Ông thường
trong trng thái trầm đ làm sao nắm bắt được những n ợng mới mnảy ra trong
khonh khắc đó, cộng vi việc tô nền, đồng thời dùng những u thơ thích hợp để v
ra(2). Sau thi gian du học ti Pp, v nước vào giữa năm 1932, ông tham gia Liên
minh m thuật gia nh t, cùng với nhng nhà m thuật tr như Giang Phong, Lc
Dương đng thời thành lp Phòng nghn cu m thuật Xn Địa (tức Xuân Địa hoạ
hi). Chính nhữngnh hưởng y đã đi vào thơ ông bằng những hình ảnh, gam màu đậm
chất tượng tng (Xe cút kít) ngưi cho rằng, ôngnh hưởng thơ tượng trưng từ
Kim Pt nng n chính nhà thơ tâm s sau này rng:Lý Kim Phát là thầy tôi, nng
thơ của ông còn k hiểu hơn thơ ca Lý H. Phải chăng thơ khó hiểu mi hay? Tôi nghi
ng điều ấy.i đc thơ mà không hiểu thì lắc đầu(3). Có th thấy, thái độ c tuyt của
Ngi Thanh đối vi thơ của Lý Kim Phát.
nh hưởng thơ tưng trưng ca các nhà thơ ớc ngoài nhng nhà thơ trong c
đng thời với ông. Năm 1929, Ngải Thanh sang Pháp du học tại Paris, chính trong
khong thời gian gn ba m du học (1929-1932) ông mới thật sự tiếp xúc với thơ của
phái tượng tng. Trong thời gian này, ông đc rất nhiu c phẩm của các nhà thơ chủ
nghĩa tượng tng, n Rimboud, Appolinaire của Pháp, Verhaeren (Emile Verhaeren,
1855-1916) ca Bỉ, Blok, Esenin của Nga Đặc biệt là Rimboud và Verhaeren là hai
nhà thơ ông thích nhất, và cũng là nhng người ảnh ng lớn đến ông. Ông từng i:
Trong những n thơ Pp, tôi khá thích Rimboud(4) và sut cuộc đời thơ của i,
tôi chu nh ởng sâu sắc và thích nht thơ của Verhaeren(5). Chính vì vy, khi ông
cùng c bn ông b nhà cầm quyền Quốc dân đảng bắt, giam n Thượng Hải (t
ngày 12-7-1932 đến năm 1935), ông dịp đọc Tuyển tập thơ Rimboud và dịch thơ của
Verhaeren. Cũng chính trong thời gian này, ông sáng tác mt loạt tác phẩm như: Đêm
trong sut (Thu minh đích dạ), Đại Yển Hà bảo mu của tôi ại Yển hà ngã đích
bo mẫu), Tiếng sáo lau ( địch), Paris, Macxay Nhng tác phẩm này hn là chu
nh hưởng trực tiếp bởi Rimboud và Verhaeren.
Ngoài ra ông còn chu nh hưởng ca nhng nhà thơ Âu M khác n Witman,
Maiakovxky, Shakespeare, Pushkin, Nekrasov, Lorsca cho đến những nhà thơ Trung
Quốc đương thời Qch Mạt Nhược, Văn Nht Đa và nhất là Đi Vọng T Có ngưi
nói thơ ông là bin cả dung chứa tm sông thật cũng kng có gì quá đáng. Lê Ương
tng pt biu: Ngi Thanh viết vcon đường lớn, viết v đại ơng m ấy vô cùng
khng đt và bao la khiến chúng ta nh đến Witman; thnh thoảng vì dung nạp tình thơ
tuôn to ào ạt, ông cũng sử dụng những u thơ dài kiểu Witman. Ngi Thanh viết v
cánh đồng, phxá thì mênh mông và rối loạn, khiến chúng ta nh đến Verhaeren; đôi lúc
cũng có được những hình nh va c thể vừa sinh đng mang đến cho người đọc những
cảm giác ngt th, lại ờng n giống với nhà thơ B. Còn nhng câu thơ ngắn nhịp
điu gấp gáp, sức, tiết tấu mnh m, lại va tm trầm va hàm c ca Ngi Thanh
khiến ta nh đến n ợng của Maiakovxky, bài Ngọn đuc (Ho bả) thì mang nhng
đc điểm này. Còn s yên ắng và mềm mại của bài Thơ ng quê ơng (Hiến cấp
hương thôn đích thi) của ông lại như của Esenin(6).
Tt c những điềuy chứng tsáng tác của Ngi Thanh có quan hệ sâu xa với ch nga
tưng tng.
2. Mc dù ng tác rất nhiều thể loại, từ thể ch lut, đon thi mang tính dân ca, đến
trường canhưng ông là n thơ ni tiếng với thể tự do.
Th thơ t do của Ngải Thanh vẫn mang dấun của thơ tượng tng. Mặc dù các n thơ
phái ợng tng ít khi sáng tác vi th tdo. Ngay cngười khởi xưng ra thơ tự do n