PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI NGÔN NGỮ DÂN TỘC CỦA

TRẦN NHÂN TÔNG

NCS. Hoàng Thị Tuyết Mai *,

Giảng viên Trường ĐH Khoa học,

Đại học Thái Nguyên

Tóm tắt:

Thế kỷ XIII được coi là mốc quan trọng của nền văn hoá Việt và cũng là mốc phát triển của riêng chữ

Nôm. Trong giai đoạn mới hình thành thứ chữ riêng có của dân tộc này, các chính thể hành chính quan phương có những nỗ lực khác nhau trong việc khích lệ sự hưng thịnh và hoàn thiện của chữ Nôm1. Đóng

vai trò quan trọng trong nền văn hóa đặc thù giai đoạn đầu độc lập, vua Trần Nhân Tông có cách ứng xử

hết sức đặc biệt với chữ Nôm. Đấng minh quân sáng suốt của nhà Trần đã đặc biệt hóa vị thế của chữ Nôm

như là cách để định vị mình giữa chúng sinh và thần dân.

Từ khóa: Phương thức ứng xử, chữ Nôm, Văn học Nôm, thơ Nôm Trần Nhân Tông, văn học Lý Trần

Summary:

KING TRAN NHAN TONG AND NOM SCRIPT: A FEUDAL ATTITUDE AND POLICIES TOWARDS THE NATIONAL LANGUAGE

Hoang Thi Tuyet Mai,

School of Sciences, Thainguyen University The thirteenth century is considered as the milestone of Vietnamese culture and of the Nom scripts as

well. In the early stage of this new-born national script, the feudal reigns made different efforts to

encourage and develop it. Playing an essential role in the cultural foundation in the early stage of

independence, KingTran Nhan Tong of Tran dynastyplaces an importance onNom script. He supports and

developsNom script as a significant way to self-actualize to his people.

Key words: Feudal attitudes and policies, Nom Script, Nom Literature, Nom Poetry of Tran Nhan Tong,

literature in the Ly Tran dynasties

1. Nơi “gác ngọc lầu vàng” dụng chữ Nôm để củng cố vƣơng quyền 1.1.Vinh danh ngƣời đuổi cá sấu bằng Văn Nôm Sách Đại Việt sử kí toàn thư quyển V, Kỉ nhà Trần viết: “Bấy giờ (năm 1282) Có cá sấu đến sông Lô.

Vua sai thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông, con cá sấu tự đi mất. Vua cho

việc này giống như việc của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm.

Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực bắt đầu từ đấy”. [3]. Và chú thích: Hàn Dũ – Danh sĩ đời

Đường ở Trung Quốc, làm quan ở Triều Châu, ở đấy có nhiều cá sấu, Hàn Dũ làm bài văn vứt xuông nước,

cá sấu bỏ đi.

*) Hoàng Thị Tuyết Mai, nghiên cứu sinh Khoa Văn, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. Hiện công tác tại Khoa Văn – xã hội, ĐH Khoa học, ĐH Thái Nguyên. ĐT: 0986222413, email: Tuyetmaidhkh@gmail.com 1 Xem luận văn thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai, Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý Trần, bảo vệ tại trường ĐH KHXH & NV Hà Nội, tháng 7 năm 2011

Đóng vai trò như một bề trên sáng suốt, Trần Nhân Tông có thái độ đặc biệt với sự kiện chính trị - xã

hội và văn hóa nêu trên. Sự kiện có màu sắc huyền thoại về thi sĩ họ Hàn được nhắc tới như những ý kiến

được đưa ra bởi một tầm hiểu biết hạn hẹp đã bị lấn át bởi tầm hiểu biết có phần rộng hơn là niềm tin vào

khả năng sáng tạo gần như vô hạn của trí tưởng tượng con người. Tám thế kỉ đã qua, sự kiện cũ chỉ được

ghi lại vài dòng lạnh lùng trên trang giấy, nhưng kí ức tiềm ẩn của các bậc thức giả vẫn thao thức, trở trăn

cho những gì thuộc về bản ngã văn hóa dân tộc. Câu chuyện về thi sĩ họ Hàn đuổi “ngặc ngư” bằng văn

Nôm được Trần Nhân Tông phủ màn sương huyền thoại có giá trị như những nỗ lực tạo dựng bản sắc văn

hóa và tinh thần quốc gia dân tộc bởi “Huyền thoại là một trong những thành tố chính yếu trong việc tạo dựng tinh thần quốc gia, nhất là tinh thần quốc gia tôn giáo (religions nationalism)”2. Các thế hệ sau luôn

nhắc tới sự kiện này với những lăng kính và cách lí giải khác nhau.

Vua Tự Đức từng làm thơ ca ngợi:

Quốc ngữ văn chương thùy nhiễm hàn

Bất vong đôn bán bị nham khan

Lư giang di ngạc hà thần tốc

Bác đắc quân vương tứ tính Hàn

Dịch:

Quốc ngữ văn chương mới nhúng tay

Chẳng quên tiếng mẹ khá khen thay

Sông Lư đuổi sấu in Hàn Dũ

Nên được nhà vua đổi họ ngay. [4]

Sử gia nước ngoài A.B Pôliacốp cũng ghi nhận: “Trên cơ sở chữ tượng hình Trung Quốc, hệ thống chữ

viết dân tộc – “chữ Nôm” được phổ biến rộng rãi. Một trong những nhà thơ chữ Nôm tiêu biểu nhất thời

gian này là Nguyễn Thuyên” [2]

Bàn luận về đoạn sử trên Nguyễn Khắc Thuần viết: “Về sự chuẩn xác của đoạn văn này thì chúng ta có

thể ngờ vực, nhưng, việc Nguyễn Thuyên được Trần Nhân Tông ban cho họ Hàn là điều có thật và thơ chữ

Nôm kể từ đó được gọi là thơ Hàn luật cũng là điều hoàn toàn có thật”. [5]

Trần Ngọc Vương cho rằng:“Bằng hàng loạt những hoạt động đối nội, hoàng đế Trần Nhân Tông rất

nhanh chóng chứng tỏ khả năng cố kết nhân tâm, kiên nhẫn “đãi cát tìm vàng” để tận dụng nhân tài, trước

hết phục vụ cho sự nghiệp chống ngoại xâm mà chỉ tiên liệu sơ sài cũng biết sẽ vô cùng gian nan ấy. Điển

hình cho loại hoạt động này là các sự kiện : sai Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chiêu dụ trịnh Giác Mật

thổ tù ở đạo Đà Giang (1280), bày tỏ “thần uy” bằng cách sai Nguyễn Thuyên làm “văn đuổi cá sấu” ở

sông Hồng (1282)…”[6]

Đóng vai trò như người định hướng sáng suốt, vua Trần Nhân Tông đã khuyến khích thứ ngôn ngữ dân

tộc bằng cách của người cai trị thiên hạ tinh tế và có tầm nhìn chiến lược. Đọc kĩ năm dòng sử ngắn ngủi

chúng ta thấy có hai lần xuất hiện bóng dáng của chính thể quan phương mà Trần Nhân Tông là người tạo

tác. Lần thứ nhất “Vua sai thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm văn ném xuống sông…”, nghĩa là

việc sáng tác thơ và làm thơ là do ý chí của đấng chí tôn, là chủ ý của chính thể hành chính. Việc sử dụng

chữ Nôm và sáng tác thơ Nôm lúc này hẳn là phổ biến lắm và có tác dụng lớn lắm đối với vương quyền và

2 Dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn, Văn học trung đại Việt Nam – Quan niệm con người và tiến trình phát triển, NXB Khoa học xã hội, 2005, tr.121

thần quyền nên những sự kiện lớn và gây lo lắng cho nhiều người phải viện đến thơ Nôm (chứ không phải

thơ chữ Hán). Hơn nữa, màu sắc huyền bí của sự kiện cùng với sự linh diệu của thứ văn “độc” này dường

như có sự trợ giúp của đấng siêu nhiên. Với mục đích chính trị, bản thân vua Trần Nhân Tông không chỉ

coi trọng và đề cao chữ Nôm mà còn “cấp” cho thứ chữ này những thuộc tính và quyền năng siêu phàm có

màu sắc tâm linh nhằm củng cố vương quyền và khẳng định vị thế của người dụng chữ Nôm sáng tác. Hơn

thế, chữ Nôm được ngầm định như là một phần linh diệu, bí hiểm của hình sông, dáng núi, của vang vọng

thẳm sâu tinh anh và thần thái núi sông. Tại thời điểm này, chữ Nôm là cái gì thiết thân, gần gũi nhưng

cũng đầy huyễn hoặc của phần sâu xa tiềm thức mà chỉ học giả Nguyễn Thuyên mới đủ tài để “đối thoại”

với các đấng bậc siêu nhiên linh ứng.

Khi cá sấu bỏ đi, lần thứ hai vua lại bày tỏ uy thế bằng cách ban cho thi nhân họ Hàn – họ của một

danh sĩ đời Đường ở Trung Quốc. Vinh danh người sáng tác bằng chữ Nôm là một cách khuyến khích thứ

chữ dân tộc một cách khéo léo và rõ ràng nhất. Đó cũng là cách ban thưởng của một nước có văn hiến, hiểu

Thi Thư, biết Lễ Nhạc giống như trong sử chính thống của thiên triều (Trung Quốc). Vả chăng, sự kiện này

có tính “công thức” giống như trong điển chế, nó rất phù hợp với tư duy hồi cổ của các nước nằm trong khu

vực đồng văn, luôn lấy quá khứ làm qui chuẩn cho mọi hành xử trong thiên hạ. Màu sắc cổ kính và chất

Đông phương của sự kiện có giá trị văn hóa khu vực rõ nét. Nó như một minh họa về cách tư duy kiểu

phương Đông: tất thảy các sao đều phải chầu về ngôi sao tử vi đế tọa - bậc chí tôn (Trung Quốc). Với sự

kiện này, sợi dây liên hệ giữa nước phiên thuộc và thiên triều truyền thống vẫn được kết nối bởi những qui

chuẩn văn hóa phổ quát, song nước Nam đã là nước Nam – một mảnh riêng biệt về lãnh thổ và văn hiến.

Khát vọng khẳng định dân tộc với những ưu thế của riêng mình như nguồn mạch xuyên suốt, thẩm thấu các

lĩnh vực của đời sống xã hội thời Lý - Trần. Với chữ Nôm, ông vua cai trị thời Trần đã khéo léo tạo nên

một “kênh” thông tin đặc biệt, tạo những dư âm có lợi cho nước Nam trong mối quan hệ với nước láng

giềng Trung Quốc.

Hơn nữa, cách hành xử này cũng rất hợp lý nếu soi chiếu dưới góc độ Nho giáo.Việc nhà vua sai bề tôi

đuổi “ngặc ngư” bằng thứ văn “độc” chứng tỏ quyền uy tối thượng của đấng chí tôn. Nó là cách khẳng định

ngầm rằng dưới bầu trời Nam lúc này ông vua đã có quyền tối cao. Sức mạnh của người cai trị ngai vàng là

phép cộng của cả vương quyền và thần quyền. Cho nên, sự kiện này có ý nghĩa như một phức thể văn hóa.

Với Trần Nhân Tông chữ Nôm không những được coi trọng mà nó vừa là sản phẩm sáng tạo riêng có

của nước Nam, là sản phẩm tuyệt vời của trí tuệ dân tộc nằm trong “mạch” chung của ngôn ngữ Đông

phương mà Trung Quốc luôn là cái nôi kiến tạo. Với nước ta ngày đầu độc lập, việc bảo vệ chính quyền tự

chủ là bất di bất dịch, song giữ mối quan hệ hòa hảo, uyển chuyển, linh hoạt, với Trung Quốc là vô cùng

cần thiết. Là người đứng đầu đất nước, một đất nước đã và đang và luôn phải tìm những bằng chứng rõ

ràng cho sự độc lập của mình bên cạnh Trung Quốc, Trần Nhân Tông đã vinh danh nền văn hóa của đất

nước mình bằng phương tiện rất đỗi dân tộc một cách khôn khéo.

1.2. Khuyến khích lệ “giảng cả âm nghĩa” chữ Hán nhƣ là một biện pháp thúc đẩy sự hƣng thịnh

của chữ Nôm

ĐVSKTT viết:

(Khoảng năm Mậu Tí, năm thứ 4, 1288)

“Vua bảo ty Hành khiển giao hảo với Viện Hàn lâm. Lệ cũ, phàm có tuyên ra lời nói của vua thì viện Hàn

lâm đưa trước bản thảo tờ chiếu cho ty Hành khiển để học tập trước, đến khi tuyên đọc thì giảng cả âm

nghĩa cho dân thường dễ hiểu, ….” [3]

Đời Trần chữ Hán tồn tại nơi triều chính nhưng nó vẫn thiếu cội rễ để tồn tại trong đời sống dân

chúng một cách thiết thân. Nhu cầu về một thứ chữ dân tộc đã và đang hiển hiện xung quanh một đất nước

nhỏ bé nhưng bắt đầu có vị thế và ngày càng khẳng định mãnh liệt sự tồn tại của mình. Đó đây, nơi đám

dân đen khắp nẻo kia, chữ Hán chẳng may may đụng chạm đến ngõ ngách của những rung cảm sâu thẳm

nhất và đời thường nhất. Trần Nhân Tông hiểu được những chống chếnh của ngôn ngữ chữ Hán và sự diệu

vợi của những qui tắc trong ngôn ngữ vay mượn nên duy trì việc diễn Nôm những văn bản mang tính chất

nhà nước. Lê Mạnh Thát cho rằng: “…việc đọc những chiếu chỉ triều đình không chỉ bằng tiếng Hán mà cả

bằng tiếng Việt, tiếng nói hàng ngày của người Đại Việt thời bấy giờ, nhằm cho mọi tầng lớp người dân

thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau có thể hiểu được nội dung những chính sách liên hệ đến số phận của họ”3. Hơn thế, chính nhà vua lúc ngâm vịnh nhàn tản cũng dùng chữ Nôm để giãi bày những rung cảm sâu kín của lòng mình4. Khía cạnh này khiến cho ông vua thiên tử này gần gũi với dân chúng hơn và cũng

thúc đẩy chữ Nôm phát triển phong phú hơn.

Cách ứng xử ấy (việc diễn Nôm những văn bản nhà nước) tồn tại chính thức như bao thứ nghi lễ cung đình khác chứng tỏ nó vô cùng cần thiết. Hơn nữa ứng xử bằng lệ 5nghĩa là thói quen đó đã có những kiểm

chứng lịch sử và kinh nghiệm đủ để kiêu hãnh cho sự tồn tại của mình. Nó là bằng chứng chính đáng cho

hiện tượng song ngữ trong đời sống và sáng tác văn chương của Việt Nam thời trung đại. Đây cũng là một

biểu hiện tất yếu của ý thức yêu chuộng quốc âm, ý thức dân chủ, nhu cầu dùng tiếng Việt để biểu hiện tình

cảm thực của mình “dù học tập văn từ của Trung Hoa, mà vẫn nói năng, ca vịnh không rời với tiếng nói của mình” (Phạm Đình Toái)6.

Có một mâu thuẫn tồn tại trong thời Lý Trần, đó là khát vọng độc lập và nỗ lực không mệt mỏi để

khẳng định nền tự chủ nhưng không dễ dàng thoát khỏi sự bủa vây của những yếu tố ngoại lai mà ngôn ngữ

là biểu hiện rõ ràng nhất. Bản thân vua Trần Nhân Tông cũng cùng lúc duy trì khoa cử (dùng chữ Hán) và

dùng lệ giảng âm nghĩa chữ Nôm như giải pháp tình thế để ngày một ngày hai chữ Nôm có cơ hội để

trưởng thành. Hơn ai hết Trần Nhân Tông đã khuyến khích chữ Nôm phát triển không chỉ ở chốn dân gian mà ngay tại nơi bệ rồng thăm thẳm. Triều đình của nhà Trần vốn gần gũi với rặng tre của dân chúng7 và

3 Xem http://triethoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=191:mt-s-vn-t-tng-trn-nhan- tong&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224 4 Trường hợp Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca đề cập bên dưới. 5 Xem Hoàng Thị Tuyết Mai, Phương thức ứng xử với ngôn ngữ và văn hóa thời Lý Trần, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 325 (2011) 20. 6 Phạm Đình Toái (1817 - 1901) quê Nghệ An, đỗ Cử nhân 1842, làm quan đến án sát Sơn Tây, bị thăng giáng nhiều lần. Ngoài “Quỳnh Lưu tiết phụ truyện” bằng chữ Hán, ông chủ yếu dùng thơ lục bát điêu luyện để diễn Nôm một số thiên trong Kinh truyện nho gia, nhiều thơ cổ điển Trung Quốc. Nổi tiếng vì có công nhuận sắc “Đại Nam quốc sử diễn ca”, đã uốn nắn, rút gọn từ 1.887 câu còn 1.027 câu lục bát, làm cho tác phẩm trở thành cô đọng, cổ kính mà lưu loát, hấp dẫn 7 Tinh thần khai phóng, khoan hòa của nhà Trần là một mạch chảy thông suốt. Chẳng hạn, sự kiện vua Trần Thánh Tông từng bảo người tôn thất rằng: “Thiên hạ là thiên hạ của Tổ tông, người nối nghiệp Tổ tông nên cùng với anh em trong họ cùng hưởng phú quý... ; sự kiện rước linh cữu Trần Nhân Tông năm Canh Tuất (1310) dân tình xem đông đến mức phải tể tướng dẹp người, hữu ty dùng kế mới đi được... ; sự kiện vua cảm tình sự hộ tùng của những người hầu hạ trong lúc loạn ly mà răn bảo các vệ sĩ không được la đuổi gia đồng của các vương hầu...

cách hành xử hào phóng, khai mở ấy chúng ta cũng tìm thấy ở lĩnh vực sử dụng ngôn ngữ. Với đời vua

Trần Nhân Tông, Chữ Nôm có vị thế và cơ hội để phát triển không kém thua chữ Hán.

3. Chốn “dật sĩ tiêu dao” dụng chữ Nôm để kí thác tâm tƣ. Chữ Nôm đã được chọn như điểm về của cảm hứng thẩm mĩ Phật giáo – thứ cảm hứng quan trọng bậc

nhất của văn học Lý Trần bởi ông vua – thi sĩ – phật hoàng Trần Nhân Tông. Với Cư trần lạc đạo phú và

Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca, Trần Nhân Tông đã tôn vinh chữ Nôm như phương tiện đắc dụng để kí

thác tư tưởng của mình.

Trần Nhân Tông có sáng tác chữ Hán, song ông chỉ ghi dấu ấn bản thể mình như một thi nhân lỗi lạc

bởi những sáng tác bằng chữ Nôm. Triết lí sâu xa của lẽ sống con người được kí thác bằng văn Nôm – thứ

văn chương ở góc độ nào đó là của riêng người Việt. Nó cũng là thứ ngôn ngữ khu biệt với chữ Hán bởi

những qui ước rất Việt Nam trên dòng chảy chung của nguyên tắc tạo chữ của người Hán. Trên cái nền

chung về văn hóa và ngôn ngữ của nền văn minh Trung Hoa, người Việt Nam sau khi có tiếng nói riêng về

chính trị đã kịp tạo cho mình tiếng nói riêng về văn hóa, văn học. Chính việc coi trọng chữ Nôm và dùng

nó diễn đạt khu vực riêng của cảm thức người Việt đã giúp cho người Trung Quốc hiểu rằng hơn nghìn

năm đồng hóa vẫn không thể biến đất nước bé nhỏ Việt Nam thành một phần lệ thuộc vào mình. Việt Nam

vẫn là Việt Nam, bất luận quá khứ đau thương và vết hằn lịch sử in đậm hàng ngàn năm lịch sử. Ý thức

quyết liệt ấy được minh chứng bằng ngôn ngữ văn chương và bằng cảm hứng “cư trần” vốn là sản phẩm

của thuyết lí Phật giáo từ Ấn Độ qua phương Bắc đưa vào nhưng màu sắc của nó đã biến đổi theo cương

vực và lãnh thổ của người Nam.

Trước đó dù thư tịch Phật giáo có một số văn bia: Vân Bản tự chung minh (chùa Vân Bản), Chúc thánh

Báo Ân tự bi (Chùa Báo Ân)….Nhưng chỉ đến Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca

chúng ta mới có những sáng tác bằng văn chương đúng nghĩa và tương đối qui mô bằng ngôn ngữ dân tộc.

Hai tác phẩm này có đề cập đến những vấn đề cốt lõi của Thiền Tông có ý nghĩa như đuốc tuệ soi đường

cho nhiều thế hệ người Việt giai đoạn Lý Trần. Con đường đạt đạo mà Cư trần lạc đạo phú chỉ ra có ý

nghĩa quan trọng và chi phối đời sống của hàng triệu người Việt trong những thế kỉ bản lề của dân tộc. Vị

trí của văn học Nôm trong sáng tác của Trần Nhân Tông có ý nghĩa như là mốc đầu tiên cho sự kết tinh của

ngôn ngữ và tinh thần dân tộc.

Với Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca chữ Nôm đã đủ sức chuyển tải những nội

dung tư tưởng khác nhau và mang vẻ đẹp của riêng nó. Chữ Nôm được lựa chọn để phát biểu những tư

tưởng trìu tượng và khó nắm bắt một cách giản dị và dễ hiểu. Chữ Nôm là ngôn ngữ sáng tác, tức là nó đã

được chuyên nghiệp hóa và đáp ứng được những đòi hỏi về kĩ xảo nhất định trong đời sống và nhất là trong

nghệ thuật. Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca xét trong lịch sử văn học dân tộc là những

tác phẩm khởi đầu cho dòng văn học Nôm. Giá trị của nó ngoài việc biểu đạt những vấn đề thuộc về tôn

giáo còn có ý nghĩa như là sự khẳng định tinh thần tự cường của một dân tộc và tầm nhìn xa trông rộng của

một ông vua đem chính ngôn ngữ dân tộc để truyền tải những vấn đề rất cao siêu.

Chính chữ Nôm được Trần Nhân Tông chọn để diễn đạt tư tưởng Cư trần lạc đạo chứ không phải chữ

Hán. Điều này vô cùng quan trọng đối với tác phẩm. Việc lựa chọn ngôn ngữ sáng tác là một cách bày tỏ

quan niệm sáng tác của tác giả và cấu thành nên đời sống nội tại của chính tác phẩm. Sự thống nhất về tư

tưởng cộng hưởng với sự thống nhất về phương tiện diễn đạt là cầu nối lí tưởng cho đa số nhân dân ít học

tiếp nhận. Phương thức truyền đạt của Cư trần lạc đạo phú tự bản thân nó có giá trị tôn vinh nét đẹp và sự

đắc dụng của Việt ngữ. Chữ Nôm với Trần Nhân Tông là phương tiện lí tưởng và hiệu quả, tiện dụng và

trong sáng, đẹp đẽ và giản dị, trang trọng và gần gũi trong việc bày tỏ vẻ đẹp nội tâm và sự sự chứng ngộ

chân lí Thiền Tông.

Sau cuộc sống nhập thế tích cực chốn gác tía lầu son Trần Nhân Tông đã dành khoảng lặng để chiêm

nghiệm trầm tư nơi cõi Phật. Nhà vua đã soi nhìn thế giới chân như bằng bằng cảm quan phấn chấn, tự tin.

Sự chứng ngộ viên mãn là đích soi chiếu cho những rung cảm thẩm mĩ và điểm tựa cho những trải nghiệm

sâu lắng của bậc chân tu, hơn thế, người khai sáng dòng thiền Trúc Lâm. Chữ Nôm trong Cư trần lạc đạo

phú, Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca dễ hiểu, dung dị, đời thường giúp người đọc cảm nhận một cõi tâm

linh trong trẻo, thuần thành đạt đến chỗ cứu cánh giác ngộ..

4. Trần Nhân Tông trong dòng nghiêng không thời gian Nhìn lại những thành tựu của đời Trần, dấu ấn của Trần Nhân Tông hiển hiện rõ nét ở nhiều lĩnh vực.

Điều gieo rắc vào trí nhớ của các thế hệ sau về ông hằn rõ nhất là phương thức ứng xử khéo léo. Xâu chuỗi

những sự kiện liên quan đến Trần Nhân Tông chúng ta thấy một “mạch” thông suốt trong tầm vóc và vị thế

của nhà văn hóa – chính trị - tôn giáo tiêu biểu. Hội nghị Diên Hồng được người đời ngợi ca không phải ở

giá trị của nội dung “hội nghị” mà ở tài cố kết nhân tâm. Các phụ lão trong dân gian được coi trọng, được

tham dự vào chính sự không bởi vì triều đình thiếu kế, mà bởi tài dụng mưu, tài huy động sức mạnh toàn

dân tộc của vị vua khoan giản an lạc. Với chữ Nôm, người đời sau cảm nhận tầm vị trí quan trọng của nó

bởi tài phù phép, tài trưng dụng nó như những biểu hiện đầu tiên của tinh thần quốc gia dân tộc. Hơn thế,

Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền hành đạo ca được coi là những tác phẩm “có địa vị quan trọng

bậc nhất trong văn học sử nước ta”[1] bởi ông vua tài năng và tâm huyết đời Trần biết đãi những hạt vàng

từ kho ngôn ngữ giàu có và tinh luyện của dân tộc. Vì vậy, với Trần Nhân Tông khoảng cách về thời gian

như ngưng đọng, chỉ có những giá trị được ông tạo dựng là luôn hiện hữu.

Bài đã đăng ở Tạp chí Khuông Việt, số 24, 2013

Tài liệu tham khảo:

[1].Đào Duy Anh, Chữ Nôm - Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, Nxb. KHXH, 1975, tr.116

[2].A.B Pôliacốp, Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỉ X – XIV, NXB Chính trị quốc gia, Viện lịch sử

quân sự Việt Nam, 1996, tr.204

[3].Nhiều tác giả, Đại Việt sử kí toàn thư trọn bộ, NXB Văn hóa – thông tin, 2009, tr.301 và tr.316

[4].Nguyễn Quyết Thắng - Nguyễn Bá Thể , Từ điển nhân vật lịch sử VN, NXB Văn hóa, 1993, tr.

[5].Nguyễn Khắc Thuần , Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỉ XIX, NXB Giáo dục, 2007,

tr. 451

[6].Trần Ngọc Vương, Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, NXB Tri thức, 2010, tr. 412

.