
411
Chuyên đề 5
CÔNG TÁC THANH KIỂM TRA; XỬ LÝ, XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH; GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VỀ XÂY
DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG
Phần I
CÔNG TÁC KIỂM TRA, THANH TRA VỀ XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
I- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM TRA, THANH TRA
1- Khái niệm kiểm tra, thanh tra
Thanh tra, kiểm tra là những khái niệm được sử dụng rộng rãi trong công tác
quản lý. Tuy nhiên, có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về các khái
niệm này. Trên phương diện lý luận cũng như thực tế, hai khái niệm này thường
được nhắc đến thành một cặp với nhau kiểm tra, thanh tra hoặc thanh tra, kiểm
tra tuỳ theo mục đích của người sử dụng.
1.1. Khái niệm kiểm tra
Theo từ điển tiếng Việt thì "kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh
gía, nhận xét".
Dưới góc độ quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra hành chính còn được
định nghĩa như sau: “Kiểm tra hành chính là một chức năng của hoạt động quản
lý của các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền nhằm đánh giá
việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch của đối tượng kiểm tra, phát hiện những hành
vi vi phạm pháp luật, những thiếu sót trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân, qua đó áp dụng những biện pháp xử lý, khắc phục những thiếu sót
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước”.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm tra nhưng suy cho cùng
mục đích của kiểm tra là phát hiện hoặc phòng ngừa những vi phạm, góp phần
thúc đẩy và hoàn thành nhiệm vụ trong hoạt động quản lý nhà nước. Từ đó tạo
điều kiện cho hoạt động thực hiện đúng hướng.
1.2. Khái niệm thanh tra, thanh tra nhân dân
a. Khái niệm thanh tra

412
Cũng như khái niệm kiểm tra, hiện nay người ta có nhiều cách hiểu khác
nhau về hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, suy cho cùng, thanh tra hành chính là
hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ
chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc
quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.
b. Thanh tra nhân dân
Thanh tra nhân dân là hình thức giám sát của nhân dân thông qua Ban
thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước.
Trong phạm vi chuyên đề, chúng ta chỉ xem xét hoạt động thanh tra với
nghĩa là hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của cơ quan, tổ chức, cá nhân và giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền. Chuyên đề này
không đi sâu về nội dung thanh tra nhân dân.
2- Phân biệt kiểm tra và thanh tra
2.1 Sự giống nhau của kiểm tra, thanh tra.
Kiểm tra, thanh tra đều giống nhau ở tính mục đích. Thông qua kiểm tra,
thanh tra để nhằm phát huy những nhân tố tích cực, phát hiện hoặc phòng ngừa
những vi phạm, góp phần thúc đẩy và hoàn thành nhiệm vụ trong hoạt động
quản lý nhà nước. Từ đó tạo điều kiện để từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức và công
dân.
Thanh tra, kiểm tra đều giống nhau ở việc phát hiện, phân tích đánh giá
một cách chính xác, khách quan, trung thực, làm rõ đúng, sai, nguyên nhân dẫn
đến sai phạm, từ đó đề xuất biện pháp khắc phục và xử lý sai phạm.
2.2 Sự khác nhau giữa thanh tra, kiểm tra

413
- Khác nhau về nội dung:
Nội dung kiểm tra thường đơn giản và dễ dàng nhận thấy, ngược lại nội
dung thanh tra thường đa dạng, phức tạp hơn. Tuy nhiên, sự phân biệt này chỉ có
ý nghĩa tương đối vì trên thực tế có những vụ, việc kiểm tra không hoàn toàn
đơn giản. Bởi vậy, một vấn đề thuộc về kiểm tra hay thanh tra cần căn cứ vào
nội dung vụ, việc cụ thể để xác định.
- Khác nhau về chủ thể:
Chủ thể của hoạt động thanh tra, trước hết là tổ chức thanh tra" chuyên
nghiệp" của nhà nước. Ngoài ra, khi cần thiết, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước ra quyết định thành lập đoàn thanh tra.
Chủ thể của kiểm tra đa dạng hơn so với chủ thể của thanh tra. Chủ thể
tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là một chủ thể phi nhà
nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp: Kiểm
tra của Giám đốc đối với các phòng ban, kiểm tra của quản đốc đối với người
lao động. Vì vậy nội dung kiểm tra đa dạng và hoạt động thường xuyên rộng
khắp nên chủ thể của kiểm tra rất rộng và đa dạng.
- Khác nhau về phạm vi hoạt động:
Phạm vi hoạt động thanh tra thường hạn hẹp hơn hoạt động kiểm tra. Hoạt
động thanh tra thường có sự chọn lọc, đôi khi thông qua hoạt động kiểm tra có
thể thấy những dấu hiệu phức tạp mà nếu cứ tiến hành kiểm tra thì không làm rõ
được, bởi vậy, cần chọn ra những vấn đề để thanh tra.
- Khác nhau về trình tự, thủ tục, thẩm quyền:
Trình tự, thủ tục, thẩm quyền tiến hành thanh tra do luật định, ngược lại
đối với công tác kiểm tra luật không quy định.
2.3 Mối quan hệ qua lại giữa kiểm tra và thanh tra
Thanh tra và kiểm tra tuy có sự phân biệt nhưng chỉ là tương đối. Khi tiến
hành cuộc thanh tra, thường phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp vụ, thao tác
nghiệp vụ đó thực chất là kiểm tra. Ngược lại, đôi khi tiến hành kiểm tra để làm
rõ vụ, việc lại chọn lựa được nội dung thanh tra.

414
Kiểm tra và thanh tra là hai khái niệm khác nhau nhưng có liên hệ qua lại,
gắn bó. Do vậy, khi nói đến một khái niệm người ta thường nhắc đến cả cặp với
tên gọi kiểm tra, thanh tra hay thanh tra, kiểm tra.
3- Đối tượng kiểm tra, thanh tra
Kiểm tra, thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước. Vì vậy,
đối tượng của quản lý cũng đồng thời là đối tượng của kiểm tra, thanh tra. Nói
cách khác, đối tượng của kiểm tra, thanh tra không nằm ngoài đối tượng quản lý.
Trong hoạt động xây dựng, đối tượng của thanh tra và kiểm tra bao gồm:
- Tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản
lý nhà nước về xây dựng;
- Tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia hoạt động xây dựng trong và ngoài
nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia hoạt động xây dựng tại Việt Nam.
II. NỘI DUNG KIỂM TRA, THANH TRA HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA
BÀN XÃ
1. Kiểm tra các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND
xã (Nguồn vốn dự án, thực hiện dự án đầu tư xây dựng)
1.1. Các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND xã bao
gồm:
- Các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách do Hội đồng nhân dân cấp Tỉnh
phân cấp;
- Các dự án sử dụng nguồn vốn đóng góp của dân
1.2. Nội dung kiểm tra, thanh tra đối với các dự án đầu tư xây dựng tại
xã bao gồm:
1.2.1 Chủ trương đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng của xã.
- Chủ trương đầu tư xây dựng công trình cơ sở hạ tầng của xã do Hội
đồng nhân dân xã quyết định trên cơ sở đa số nhân dân trên địa bàn nhất trí, Uỷ
ban nhân dân xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện chủ trương đầu tư đó.
- Chủ trương đầu tư phải phù hợp với quy hoạch về xây dựng, giao thông,
thuỷ lợi, phải đáp ứng yêu cầu về cảnh quan, môi trường của địa phương và
được Uỷ ban nhân dân Huyện chấp thuận về mục tiêu đầu tư và quy hoạch.

415
1.2.2 Kiểm tra quy trình thực hiện đầu tư
Khi có nhu cầu đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp sửa chữa các công
trình cơ sở hạ tầng của xã, Ủy ban nhân dân xã lập dự toán, thiết kế công trình
và các hồ sơ có liên quan gửi Ủy ban nhân dân cấp huyện để thẩm định.
Hồ sơ dự án công trình gồm:
- Tổng nhu cầu vốn để xây dựng và hoàn thành công trình, phân bổ chi
tiết theo từng hạng mục công trình (nếu có);
- Thiết kế và báo cáo dự kiến tiến độ thực hiện công trình;
- Dự kiến và cân đối các nguồn vốn bố trí cho công trình, trong đó có
phần huy động nhân dân đóng góp;
- Mức đóng góp đối với từng hộ gia đình.
Việc lập dự toán công trình và mức huy động đóng góp của nhân dân phải
được Ủy ban nhân dân xã chủ trì phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu
chiến binh, Hội Nông dân và các tổ chức đoàn thể quần chúng nhân dân khác bàn
bạc, quyết định bằng một trong các hình thức sau:
- Họp nhân dân ở từng thôn, làng, ấp, bản thảo luận và biểu quyết công
khai hoặc phiếu kín, lập biên bản gửi Ủy ban nhân dân xã.
- Họp chủ hộ bàn, biểu quyết công khai hoặc phiếu kín, lập biên bản gửi
Ủy ban nhân dân xã.
Các cuộc họp nói trên được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba số người
(hoặc hộ) trong diện họp tham dự.
- Nếu không tổ chức họp được thì phát phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình.
1.2.3. Kiểm tra việc tổ chức thực hiện đầu tư
* Khi dự án đầu tư được phê duyệt, Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm
thành lập Ban quản lý công trình của xã. Ban quản lý công trình gồm có một
Trưởng ban, các Ủy viên là một số ủy viên Ủy ban nhân dân xã. Trưởng ban
quản lý công trình do Chủ tịch UBND xã chỉ định sau khi có sự bàn bạc, nhất trí
của Thường trực Hội đồng nhân dân xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
đoàn thể quần chúng cùng cấp khác. Ban quản lý công trình thực hiện các nhiệm
vụ :