29
3. QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC CẤP ĐỊA PHƯƠNG
Một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi
của Việt Nam từ một nhà nước phân theo thứ
bậc với chế độ tập trung cao được thiết kế cho
một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một
hình thức tổ chức nhạy bén hơn phù hợp với nền
kinh tế thị trường chính quá trình phân cấp
một phần trách nhiệm thẩm quyền cho chính
quyền địa phương các cấp. thể nói rằng các
cấp chính quyền địa phương càng thấp thì càng
“gần gũi với người dân” hơn, khả năng
cung cấp các dịch vụ cần thiết cho người dân địa
phương tốt hơn. Đồng thời, một số chức năng
của nhà nước thuộc về chính quyền trung ương,
những do như để đảm bảo hiệu quả, công
bằng, hoặc khả thi, được thực hiện với sự hợp tác
của các cấp chính quyền địa phương khi được
trao nhiều quyền hơn. Trong một số trường hợp,
năng lực thực hiện một số chính sách nhất định
một cách hiệu quả minh bạch cấp chính
quyền địa phương có thể thấp hơn. Phân cấp cho
đúng, đi đôi với các can thiệp xây dựng năng lực
thích hợp là khía cạnh then chốt của cải cách thể
chế.
Mức độ phân cấp, cả về ngân sách lẫn quản
nhà nước từ trung ương xuống địa phương dù áp
dụng bất kỳ thước đo khách quan nào cũng đều
tương đối lớn. Cùng với việc chính quyền cấp
tỉnh địa phương được trao thêm thẩm quyền
trách nhiệm, nhiều biện pháp đã được tiến hành
để tăng cường phương thức và mức độ giám sát,
thông qua các quan dân cử địa phương
Hội đồng Nhân dân, do đó nâng cao tính minh
bạch và tăng cường sự tham gia. Tuy nhiên, hầu
hết các chế mới về trách nhiệm giải trình từ
trên xuống chỉ diễn ra cấp xã, trong khi phần
lớn thẩm quyền phân cấp được giao cho cấp tỉnh.
Do vậy, có một vấn đề thách thức là trách nhiệm
giải trình không ăn khớp với những sắp xếp tổ
chức mới.
Phân cấp trao quyền cho chính quyền địa phương là một phần quan trọng trong chương
trình cải cách của Việt Nam trong hai thập kỷ vừa qua. Cả quyền lực trách nhiệm
giải trình đều được tăng lên, nhưng không phải lúc nào cũng tương đương nhau. Mặc
nhiều quyền lực được phân cấp xuống tới các tỉnh, nhưng hầu hết các chế trách
nhiệm giải trình mới chỉ tập trung các xã, phường. Nghị định Dân chủ sở một
mốc quan trọng trong tăng cường trách nhiệm giải trình ở cấp địa phương, nhưng việc
thực hiện vẫn chưa đồng đều. Qui hoạch ở cấp địa phương đã có sự tham gia của người
dân hơn trước đây, nhưng là chiếu lệ. Mặc dù sự cạnh tranh giữa các tỉnh nhìn chung
tốt, nhưng việc tìm đến với các qui hoạch vùng tốt hơn cho thấy vẫn cần phải có vai trò
được định hướng lại của chính quyền trung ương.
Những tiến bộ của Việt Nam về quyền sở hữu đất mà chính quyền địa phương có quyền
tự chủ tương đối lớn là rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, các bất đồng liên quan đến đất đai
chủ yếu là về đền bù tái định cư ngày càng gia tăng. Cải thiện cơ chế xác định giá “ thị
trường” đối với đất bị thu hồi tái định như đang được làm thành phố Hồ Chí
Minh có thể giúp giảm bớt các vụ bất đồng về đền bù đất đai. Sẽ tốt hơn nếu ít lệ thuộc
vào việc tái định cư chủ định của các dự án tư nhân.
30
c thể chế hiện đại
Thách thức lớn thứ hai tất nhiên vấn đề triển
khai. Bổ sung cho những hình kiểm soát hành
chính từ trên xuống bằng trách nhiệm giải trình
của cấp trên với cấp dưới thông qua sự tham gia
và minh bạch đòi hỏi phải những thay đổi về
văn hóa, điều này không dễ sớm đạt được.
Khung pháp lý vững chắc cho phân cấp quản trị
nhà nước Nghị định về Dân chủ sở, văn
kiện này đã công nhận tầm quan trọng của việc
công khai thông tin sự tham gia tích cực
của người dân vào quá trình ra quyết định. Tuy
nhiên, mười năm sau khi Nghị định ra đời, kết
quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn. Mặc dù các
nguyên tắc tăng cường sự tham gia tiếp cận
thông tin đã được quy định rõ ràng, song cơ chế
lập kế hoạch sự tham gia cung cấp thông
tin lại không được rõ ràng như vậy.
Thách thức thứ ba các tỉnh mới được trao
quyền ít động phối hợp hoạt động hơn so
với trước đây, khi sự chỉ đạo từ trung ương. Ở
một chừng mực nào đó, cạnh tranh giữa các tỉnh
yếu tố tích cực, đặc biệt khi các tỉnh cạnh tranh
để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh nhất.
Song khi quyết định của tỉnh này ảnh hưởng đến
tỉnh khác, cho tích cực hay tiêu cực, thì
việc thiếu phối hợp trong vùng thể dẫn đến
hoạt động kém hiệu quả.
Chương này sẽ tìm hiểu tính chất hàm ý của
quá trình phân cấp theo địa lý ở Việt Nam xuống
cấp tỉnh, huyện xã. Quan hệ giữa các cấp
chính quyền được phân cấp công dân cũng
như doanh nghiệp, sự tham gia vào quá trình lập
kế hoạch ngân sách, cung cấp thông tin,
các công cụ mới để tăng cường trách nhiệm giải
trình từ trên xuống sẽ những chủ đề chính.
Trong phần kết luận chúng tôi sẽ bàn về một
trong những thẩm quyền rất quan trọng được
giao cho chính quyền địa phương trong quá trình
phân cấp, đó là quyền phân bổ đất đai.
Phân cấp Ngân sách và Hành chính
Một dấu ấn trong quá trình cải cách của Việt
Nam kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi Mới quá
trình phân cấp ngân sách. Về phía thu, ngày càng
có nhiều sắc thuế được giao cho chính quyền địa
phương. Năm 1996, cấp tỉnh được giao thu 100%
một số sắc thuế, như thuế đất, thuế nhà, thuế tài
nguyên và nhiều loại phí, lệ phí khác, đồng thời
cũng được chia sẻ với trung ương một phần các
loại thuế khác như thuế VAT, thuế doanh nghiệp
thuế thu nhập nhân cũng như thuế kiều hối.
Tương tự, cấp huyện cấp cũng được giao
một số loại thuế, mặc cấp độ nhỏ hơn như
thuế môn bài, thuế sát sinh, nhiều loại phí lệ
phí cũng như phần “nhân dân đóng góp”. Cấp
huyện cũng được nhận một phần nguồn
thu từ tỉnh theo quy định của pháp luật. Năm
2002, cùng với sự ra đời của Luật Ngân sách
Nhà nước, hệ thống cân đối bổ sung ngân sách
từ trung ương xuống địa phương được xúc tiến,
cấp tỉnh được phép vay đầu vào sở hạ
tầng. Quan trọng cấp tỉnh được quyền chủ
động đáng kể trong việc giao nhiệm vụ thu cho
các cấp địa phương bên dưới.
Về phía chi ngân sách, bắt đầu từ năm 1996 thẩm
quyền chi tiêu trong một loạt hoạt động đã được
giao cho chính quyền tỉnh, cũng như cấp huyện
và cấp xã nhưng ở mức độ thấp hơn. Năm 2002,
chính quyền tỉnh được trao thêm nhiều thẩm
quyền hơn trong việc ưu tiên nguồn lực, bao
gồm cả quyết định phân bổ ngân sách cho các
ngành khác nhau cho chính quyền địa phương
cấp thấp hơn. Cũng trong năm 2002, tỉ lệ chi tiêu
được quyết định các cấp địa phương lên đến
gần một phần hai lượng chi tiêu công. Theo một
nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam
nước phân cấp chi tiêu mạnh nhất ở Đông Á, sau
Trung Quốc Nhật Bản.15 Theo một thước đo
đơn giản là tỉ lệ chi ngân sách được quyết định
cấp địa phương, thì Việt Nam một nước phân
cấp rất mạnh.
Mặc ý định phân cấp xuống cho chính
quyền địa phương cấp thấp nhất, song nhiều
nguồn kinh phí vẫn nằm dưới sự quản của
chính quyền tỉnh chỉ một số chương trình (ví
dụ chương trình 135) cấp xã là cấp quản lý ngân
sách. Nguồn kinh phí được cân đối cho cấp tỉnh
để huyện và xã sử dụng trên thực tế được chuyển
xuống hai cấp này khác nhau rất nhiều, phụ
thuộc vào địa phương. Tình trạng này đang dần
dần được cải thiện, mặc năng lực của chính
31
quản trị nhà nước cấp địa phương
quyền địa phương cấp sở trong việc quản
ngân sách một cách hiệu quả vẫn còn một điều
quan ngại, như minh họa trong Hộp 3.1.
Quy trình phân cấp ngân sách Việt Nam dựa
trên nguyên tắc ưu tiên nghèo – những tỉnh có tỉ
lệ nghèo cao hơn được nhận cân đối ngân sách
trên đầu người nhiều hơn từ trung ương.16 Cân
đối bổ sung ngân sách được thực hiện cho tất cả
các tỉnh dựa trên các tiêu chí phân bổ ngân sách
bao gồm tiêu chí về dân số, tỉ lệ nghèo vị trí
địa của tỉnh nằm vùng khó khăn không,
nhiều tiêu chí khác. Từ năm 2006, bổ sung
vốn đầu xây dựng bản được phân bổ dựa
trên những tiêu chí này một số tiêu chí ưu
tiên nghèo khác như tỉ lệ người dân tộc thiểu số,
mức thu ngân sách của địa phương số huyện
được coi huyện khó khăn. Các Chương trình
Mục tiêu Quốc gia (NTP) cũng đóng góp vào
quá trình phân bổ ngân sách ưu tiên nghèo. Hoạt
động của các NTP bao gồm miễn học phí cho
các hộ nghèo, phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí
cho người có hoàn cảnh khó khăn, và hỗ trợ cho
các xã đặc biệt khó khăn. Cuối cùng, các tỉnh dự
kiến số thu ngân sách thấp hơn nhu cầu chi
tiêu tối thiểu sẽ không phải nộp về trung ương
tiền thuế thu được từ các loại thuế phải chia sẻ
theo quy định.
Cách tiếp cận bổ sung ngân sách ưu tiên nghèo
không phải được tất cả các tỉnh ủng hộ. Trên thực
tế, những tỉnh nộp ngân sách ròng cho ngân sách
nhà nước đều cho rằng phân cấp ngân sách quá
thiên theo nguyên tắc ưu tiên nghèo. Các cuộc
phỏng vấn sâu thực hiện trong năm 2007 với cán
bộ của chính quyền bảy tỉnh17 cho thấy các tỉnh
nộp ngân sách ròng cho trung ương đánh giá cao
quá trình phân cấp, song cho rằng hệ thống chia
sẻ thuế quá mang tính khai thác, để lại cho các
tỉnh giàu không đủ nguồn lực để họ duy trình tốc
độ tăng trưởng của mình. Họ cũng cho rằng phần
ngân sách chi thường xuyên do trung ương phân
bổ cho giáo dục y tế dựa trên dân số theo
số liệu chính thức, và do vậy họ phải dùng ngân
sách riêng của tỉnh cho những người dân nhập
không có đăng ký hộ khẩu.
Phân cấp quản lý nhà nước khá mạnh cũng diễn
ra trong lĩnh vực đầu công. Năm 1999, chính
quyền tỉnh được trao quyền quyết định các dự án
đầu tư quy mô nhỏ trung bình, và cấp huyện
được quyền quyết định các dự án loại
tương tự nếu được chính quyền tỉnh HĐND
cho phép. Sau đó, đến năm 2005, chính quyền
tỉnh được trao quyền quyết định các dự án đầu tư
công lớn hơn, theo danh mục do Thủ tướng quy
định. Chính quyền tỉnh cũng được trao quyền
quyết định đáng kể đối với đầu nhân
đầu tư nước ngoài. Năm 2005, chính quyền tỉnh
được phân cấp thẩm quyền cấp giấy phép cho
đầu nước ngoài, cùng với việc thẩm định
phê duyệt các dự án đầu xây dựng bản sử
dụng vốn ODA từ năm 2006.
Hộp 3.1. Trở ngại trong việc phân cấp cho địa phương — Trường hợp hai tỉnh Bắc Ninh và Hà Nam
Một nghiên cứu điển hình về hai tỉnh Bắc Ninh Nam cho thấy vẫn còn một số trở ngại trong việc phân
cấp cho cấp huyện và cấp xã, chủ yếu liên quan đến hệ thống quản lý tài chính công.
Mặc dù công tác đào tạo về quản lý tài chính công đã được tăng cường, song nhu cầu về năng lực ở cấp
huyện và xã cũng tăng lên. Hà Nam đã tổ chức các khóa học bán thời gian về tài chính và kế toán cho
cán bộ 116 xã, và các khóa đào tạo kế toán trưởng cho cán bộ tài chính cấp huyện và cấp tỉnh. Tuy nhiên,
nhu cầu nâng cao năng lực quản lý tài chính công vẫn còn rất lớn.
Các tỉnh hiện nay không thẩm quyền cân đối vốn từ thặng ngân sách xuống cho các bị thâm
hụt ngân sách.
Việc phân bổ dự toán ngân sách xuống cấp địa phương làm cho những quan sử dụng ngân sách
quá ít thời gian để phân bổ giao dự toán ngân sách cho các quan trực thuộc, đặc biệt đối với ngân
sách cấp xã. Điều này gây khó khăn cho việc hạch toán và quản lý việc thực hiện ngân sách.
Nguồn: CFAA (2008).
32
c thể chế hiện đại
Chính quyền cấp huyện được trao quyền
trong một chương trình đầu tư công cụ thể, đó
chương trình 135. Được xây dựng vào cuối thập
niên 1990 như một chương trình mục tiêu xóa
đói giảm nghèo, với nguồn vốn bổ sung cho các
xã nghèo, chương trình 135 đã được mở rộng ra
1.644 nghèo miền núi vào năm 2006. Năm
1998, khi chương trình bắt đầu triển khai, chính
quyền huyện được nhận kinh phí từ trung ương
để thực hiện các dự án đầu sở hạ tầng
các đặc biệt khó khăn. Năm 2006, khi chương
trình 135 đi vào giai đoạn 2, chính quyền cấp xã
đã được trao toàn bộ quyền quản các dự án
đầu tư thuộc chương trình 135.
Mặc những thành tích trên rất đáng kể, song
việc triển khai vẫn không đáp ứng được những
mục tiêu tham vọng hơn của chương trình 135,
ví dụ như mục tiêu 100% số xã làm “chủ đầu tư”
các dự án lựa chọn dự án. dụ, một nghiên
cứu cho biết đến 15 trong số 20 dự án sở
hạ tầng do huyện làm chủ đầu tư chứ không phải
xã.18 Thông thường, cấp huyện đưa ra một danh
sách các dự án có thể cấp vốn, và cấp xã tổ chức
việc thông qua danh sách. Trong trường hợp tốt
nhất, các đóng góp vào việc thiết kế dự
án, ví dụ như có tiếng nói về địa điểm đặt dự án,
tuy nhiên họ ít ảnh hưởng đến việc lựa chọn
dự án.
Công tác quản cán bộ cũng được phân cấp phần
nào. Chính quyền tỉnh được trao thẩm quyền quy
hoạch cán bộ19, tuyển dụng, bổ nhiệm, tổ chức
giao nhiệm vụ, đánh giá, thanh tra và kể cả nâng
bậc lương và phụ cấp cho cán bộ công chức làm
việc trong các quan ban ngành địa phương
trong phạm vi quản của mình. Kể từ năm
2009, chính quyền huyện cũng được đảm nhiệm
những việc này, với điều kiện được chính quyền
tỉnh giao. Người đứng đầu các đơn vị trong tất cả
các cấp chính quyền cũng được phân cấp đáng
kể, chịu trách nhiệm về tình hình thực hiện của
cán bộ trong cơ quan mình và đánh giá cán bộ.
Cuối cùng, quy trình lập kế hoạch và quyết định
sử dụng đất cũng được phân cấp. Tính chất phân
cấp và việc thực hiện các trách nhiệm được phân
cấp trong hai lĩnh vực này sẽ được tìm hiểu riêng
trong chương này.
Trách nhiệm giải trình ở cấp Tỉnh
Nhìn chung, chính quyền tỉnh đã được trao
quyền rất nhiều trong quá trình phân cấp, hơn rất
nhiều so với cấp huyện xã. Nhiều cơ chế trách
nhiệm giải trình hướng xuống dưới mạnh nhất –
đáp ứng nhu cầu của người dân thông qua quá
trình tham gia, tăng cường minh bạch giám
sát – diễn ra ở cấp xã, theo quy chế “dân chủ cơ
sở”, vấn đề này sẽ được phân tích sau trong phần
này. Song liệu những quan hệ trách nhiệm giải
trình có tương ứng để đảm bảo rằng chính quyền
tỉnh đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của địa
phương một cách tốt nhất hay không?
Ở cấp tỉnh, những hình thức quan trọng về trách
nhiệm giải trình hướng xuống dưới đã được xúc
tiến. Năm 2004, quy chế về minh bạch tài chính
công đòi hỏi chính quyền địa phương phải công
khai dự toán sử dụng ngân sách nhà nước
hàng năm, các khoản bổ sung từ ngân sách cấp
trên, việc thu chi phần “nhân dân đóng góp”,
một hình thức thuế tự nguyện. Ngoài ra còn
những chế khác được thực hiện cũng thể
tăng cường được sự minh bạch của chính quyền
cấp tỉnh, như bắt buộc khai thu nhập tài sản
đối với cán bộ cấp cao địa phương, nghĩa vụ
phản hồi yêu cầu cung cấp thông tin của người
dân trong vòng 10 ngày.
Một mốc quan trọng về trách nhiệm giải trình
của chính quyền tỉnh việc trao cho các quan
dân cử, tức Hội đồng Nhân dân Tỉnh quyền phê
duyệt phân bổ nguồn thu ngân sách địa phương
cho các cấp thấp, các tiêu chí và cơ chế phân bổ,
thu phí và lệ phí, đóng góp của người dân. Công
tác giám sát tài chính của chính quyền tỉnh cũng
được tăng cường thông qua việc thành lập Kiểm
toán Nhà nước Việt Nam với chức năng kiểm
toán độc lập tất cả các mục thu chi ngân sách nhà
nước, bao gồm cả ngân sách địa phương.
Ngược lại, sự tham gia trực tiếp của người dân
vào quá trình ra quyết định sử dụng ngân sách
tỉnh lại không mấy tiến bộ. Từ năm 2004, đã
yêu cầu dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế
hội của tỉnh phải được tham vấn rộng rãi với
người dân, song vẫn chưa những hướng dẫn
cụ thể ràng. Tuy nhiên, chương này cũng
33
quản trị nhà nước cấp địa phương
giải thích, kể cả khi được đưa ra tham vấn rộng
rãi, thì những kế hoạch này vẫn không gắn kết
chặt chẽ với phân bổ ngân sách.
Chính quyền cấp tỉnh cũng trách nhiệm giải
trình lên trên về những quyết định ngân sách của
mình. Các quan chức năng trung ương quy
định những hạn mức và tiêu chuẩn nhất định mà
chính quyền tỉnh phải áp dụng khi phân bổ ngân
sách để đảm bảo đạt được các mục tiêu phát triển
nhất định. Đối với những tỉnh nghèo như Quảng
Nam Tiền Giang, tỉ lệ chi tiêu được định trước
trong ngân sách địa phương thể lên đến 80-
90%. Kể cả một số tỉnh giàu hơn như Khánh
Hòa Vĩnh Phúc, phần chi tiêu được định trước
này cũng chiếm đến hơn một nửa tổng ngân
sách.20 Tình trạng này làm giảm khả năng linh
hoạt của ngân sách kế hoạch của tỉnh để đáp
ứng nhu cầu địa phương.
Một nghiên cứu đánh giá quản tài chính công
tỉnh Sóc Trăng năm 2008 khẳng định rằng quyết
định phân bổ ngân sách cho các ngành bổ
sung ngân sách cho chính quyền cấp dưới vẫn
phải tuân thủ theo nhiều chỉ đạo định mức
của trung ương, điều này rốt cuộc hạn chế quyền
tự chủ của tỉnh.21 Nghiên cứu cho biết điều này
càng đúng hơn đối với cấp huyện họ
được trao trách nhiệm quản lý và có trách nhiệm
giải trình lên trên, song lại ít ảnh hưởng đối
với ưu tiên phân bổ nguồn lực và mục tiêu cung
cấp dịch vụ. Một nghiên cứu gần đây cho thấy
“phạm vi ra quyết định” hạn chế của cán bộ địa
phương thể ảnh hưởng đến việc thu hút đầu
tư nước ngoài và thành công của các khu kinh tế
của tỉnh (Hộp 3.2). Nghiên cứu này cũng cho
thấy tinh thần sẵn sàng thử nghiệm quy
nhỏ, là hình ảnh thu nhỏ của phong cách cải cách
của Việt Nam.
Mặc các tỉnh vai trò trong quyết định về
nhân lực, song họ cũng bị giới hạn. Việc quản lý
cán bộ ở cấp tỉnh phải tuân thủ nhiều nguyên tắc
quy trình tiêu chuẩn đã quy định trong Luật
Cán bộ và Công chức Nhà nước, cũng như nhiều
biện pháp phòng chống tham nhũng quy định
trong Luật Phòng, Chống Tham nhũng. Quy
hoạch cán bộ phải được Hội đồng Nhân dân Tỉnh
phê duyệt, phải đảm bảo theo đúng biên chế
tiêu chí do trung ương quy định. Tiền lương
cán bộ cũng phải tuân theo hướng dẫn của chính
quyền trung ương.
Nhiều bằng chứng cho thấy trên thực tế quyền
tự chủ của các tỉnh trong việc bố trí “cán bộ chủ
chốt” bị hạn chế rất nhiều. Phỏng vấn sâu trong
năm 2007 bảy tỉnh22 cho thấy mức độ tự chủ
của chính quyền tỉnh trong việc lựa chọn, bổ
nhiệm đề bạt “cán bộ chủ chốt” là rất hạn chế,
cấp ủy đảng ở tỉnh cấp cao hơn đóng vai trò
quan trọng trong việc ra quyết định.
Trách nhiệm Giải trình ở cấp Xã
Mặc dù được trao quyền ít hơn so với cấp tỉnh và
cấp huyện, song cấp cũng nơi thử nghiệm
các hệ thống trách nhiệm giải trình từ trên xuống
mức độ đáng kể. Pháp lệnh về Dân chủ
sở, lần đầu được ban hành năm 1998 sửa đổi
năm 2003 và 2007 đã tập trung vào chính quyền
cấp xã và quy định bốn quyền cơ bản, theo châm
ngôn nổi tiếng của Hồ Chủ Tịch: dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra. Những quyền này
được áp dụng trong nhiều hoạt động cấp xã,
như việc sử dụng ngân sách xã và đóng góp của
người dân, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, dự
án và kế hoạch đầu tư công, quản lý sử dụng đất,
văn bản pháp lý, và các thủ tục hành chính, cùng
với nhiều hoạt động khác.
Đảm bảo thông tin, tham vấn tham gia trong
quá trình ra quyết định, giám sát đối với các
hoạt động cấp xã, các quyền này tạo nên một
khuôn khổ chắc chắn để tìm hiểu hệ thống giải
trình trách nhiệm từ trên xuống cấp xã. Trong
mười năm kể từ khi bắt đầu thử nghiệm chế
dân chủ sở, hai câu hỏi then chốt (i)
chế này được thực hiện sâu rộng đến đâu, và (ii)
hiệu quả của nó là gì. Câu hỏi thứ nhất dễ trả lời
hơn câu hỏi thứ hai.
Mục Quản trị nhà nước của Điều tra Mức sống
gia đình cho biết người dân đánh giá như thế nào
về mức độ được thông tin về các hoạt động ở cấp
xã, thực tế cho thấy lĩnh vực này còn cần được
cải thiện. Khoảng một nửa số hộ ở Việt Nam cho