
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 4 * 2020
63
RỐI LOẠN TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN MẮC BỆNH KHÔNG LÂY NHIỄM
TẠI PHÒNG KHÁM Y HỌC GIA ĐÌNH
Lê Thanh Toàn*, Nguyễn Thị Mỹ Dung*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn trầm cảm là một trong những bệnh lý tâm thần rất phổ biến, đặc biệt ở những bệnh
nhân mắc bệnh không lây nhiễm. Theo dự báo của Tổ chức Y tế thế giới đến năm 2020 có hơn 264 triệu người bị
rối loạn trầm cảm trên toàn thế giới. Mặc dù, hiệu quả điều trị các rối loạn tầm thần cao nhưng khoảng 76% đến
85% người dân ở các nước có thu nhập thấp và trung bình không điều trị. Rào cản trong việc điều trị hiệu quả đó
là dễ bị bỏ sót trên lâm sàng, triệu chứng của bệnh rất đa dạng, thường dễ bị nhầm lẫn vào triệu chứng của
những bệnh thực thể khác.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân mắc bệnh không lây
nhiễm đến khám tại phòng khám y học gia đình, nơi bệnh nhân đến khám và tái khám bệnh ngoại trú thường
xuyên theo lịch.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 319 bệnh nhân
mắc bệnh không lây nhiễm đến khám tại phòng khám bác sĩ gia đình Bệnh viện quận 2 và Bệnh viện Đại học Y
Dược thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 04/2019 đến tháng 06/2019. Những người đồng ý tham gia được phỏng
vấn trực tiếp thông qua bảng câu hỏi về sức khoẻ bệnh nhân, thang đo rối loạn trầm cảm PHQ-9. Phân tích dữ
liệu được thực hiện bằng Stata/IC phiên bản 13.0.
Kết quả: Trong số 319 người tham gia nghiên cứu, rối loạn trầm cảm (n=73, 22,9%). Phân tích hai chiều
cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê (P <0,05) giữa rối loạn trầm cảm và các yếu tố như tình trạng kinh tế
khó khăn (PR=1,88; KTC 95% 1,22 – 2,91; p = 0,008), sống một mình (PR=2,29; KTC 95% 1,25 – 4,19; p =
0,023), có tập thể dục (PR=0,60; KTC 95% 0,4 – 0,9; p = 0,013), thời gian mắc bệnh (PR=1,51; KTC 95% 1,01 –
2,25; p = 0,048), số bệnh không lây nhiễm hiện mắc (PR=2,54; KTC 95%; p = 0,007).
Kết luận: Tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở bệnh nhân mắc bệnh không lây nhiễm đến khám tại phòng khám Y học
gia đình tại Bệnh viện quận 2 và Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 là 22,9%. Trong
đó, rối loạn trầm cảm mức độ nhẹ chiếm 20,7%, rối loạn trầm cảm mức độ vừa chiếm 1,9% và mức độ nặng
chiếm 0,3%.
Từ khóa: rối loạn trầm cảm, bệnh không lây nhiễm, bác sĩ gia đình
ABSTRACT
DEPRESSION DISORDER AND RELATIVE FACTORS IN PATIENTS WITH NON-COMMUNICABLE
DISEASES IN FAMILY OUTPATIENT SETTING
Le Thanh Toan, Nguyen Thi My Dung
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 4 - 2020: 63 - 69
Background: Depression is a common mental illness worldwide, especially, in patients with non-
communicable diseases. By WHO estimation up to 2020, the number of people with depressive disorder is above
264 million worldwide. Although there are known, effective treatments for mental disorders, between 76% and
*Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lê Thanh Toàn ĐT: 0906638689 Email: letoanmd@yahoo.com

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 4 * 2020
Nghiên cứu Y học
64
85% of people in low- and middle-income countries receive no treatment for their disorder. Barriers to effective
care include a lack of resources, lack of trained health-care providers and social stigma associated with mental
disorders. Another barrier to effective care is an inaccurate assessment. In countries of all income levels, people
who are depressed are often not correctly diagnosed, and others who do not have the disorder are too often
misdiagnosed.
Objectives: Estimate depressive rate and relative factors in patients with non-communicable diseases having
a regular treatment in family doctor rooms.
Methods: We conducted cross-study and analyzed 319 patients with non-communicable disease visiting
family doctors from April 2019 to June 2019 in district hospital 2 and University Medical Center at HCMC. All
the participants were interviewed by questionnaire and PHQ-9 scale scoring. The statistical data were analyzed
by Stata/IC 13.0.
Results: Of the 319 who participated in the study, depression (n=73, 22.9%). Bivariate analysis displayed
significant negative association (p <0.05) between depression and factors such as poor family situation (PR=1.88;
KTC 95% 1.22 – 2.91; p = 0.008), living alone (PR=2.29; KTC 95% 1.25 – 4.19; p = 0.023), doing regular
excercise (PR=0.60; KTC 95% 0.4 – 0.9; p = 0.013), duaration of disease (PR=1.51; KTC 95% 1.01 – 2.25;
p = 0.048), numbers of current non-communicable diseases (PR=2.54; KTC 95%; p = 0.007).
Conclusion: The rate of depression is 22.9% found in patients with non-communicable diseases, visiting
family outpatient setting in district hospital 2 and University Medical Center at HCMC. In it, mild form –
20.7%, moderate – 1,9% and severe forms were 0.3%.
Keywords: depression disorder, non-communicable disease, family doctor
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn trầm cảm (RLTC) là một trong
những bệnh lý tâm thần rất phổ biến, đặc biệt là
ở những bệnh nhân mắc bệnh không lây nhiễm.
Theo dự báo của Tổ chức Y tế Thế giới đến năm
2020 có hơn 264 triệu người bị rối loạn trầm cảm,
xếp thứ 2 trong những bệnh thường gặp trên
toàn thế giới(1). Mặc dù, hiệu quả điều trị các rối
loạn tầm thần cao nhưng khoảng 76% đến 85%
người dân ở các nước có thu nhập thấp và trung
bình không điều trị(2). Rối loạn tâm thần là một
yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm,
chúng làm tăng nguy cơ khởi phát bệnh lý mạn
tính(3).
Tại Việt Nam, số liệu về mô hình tử vong
trong giai đoạn 2011 – 2015 cho thấy gánh nặng
bệnh tật do các bệnh không lây nhiễm (BKLN)
gây ra ngày càng tăng: tỷ lệ tử vong do các bệnh
này chiếm 67,3% trong năm 2011, tăng lên đến
73,4% vào năm 2015(4).
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về tỉ lệ
rối loạn trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh
nhân mắc bệnh không lây nhiễm đến khám tại
phòng khám bác sĩ gia đình (BSGĐ), bệnh viện
(BV) Quận 2, và BV Đại học Y Dược Thành phố
Hồ Chí Minh (ĐHYD TP.HCM) năm 2019.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên mắc ít
nhất một trong các bệnh: bệnh tim mạch, đái
tháo đường (ĐTĐ), bệnh phổi mạn tính (COPD)
tại phòng khám BSGĐ BV quận 2 và BV ĐHYD
TP. Hồ Chí Minh từ tháng 04 năm 2019 đến
tháng 06 năm 2019, tự nguyện và đồng ý tham
gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.
Phương pháp thực hiện
Những đối tượng tham gia được phỏng vấn
trực tiếp bằng bảng câu hỏi về sức khoẻ gồm 4
phần: bản thân, gia đình, thói quen, tình trạng
sức khỏe hiện tại và thang đo rối loạn trầm cảm
PHQ-9. Thang đo PHQ-9 với điểm cắt chẩn đoán

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 4 * 2020
65
RLTC là ≥10 điểm, độ nhạy 92% và độ đặc hiệu
80%(5). Trong nghiên cứu này, chúng tôi tham
khảo bản dịch của tập đoàn Pfizer, bản dịch của
Viện sức khỏe tâm thần Quốc gia và phiên bản
đã điều chỉnh của Lý Thị Phương Hoa(6) gồm 9
đề mục, mỗi đề mục có 4 trạng thái cảm xúc
(được đánh số từ 0 đến 3). Tổng thang điểm là 27
điểm (Bảng 1).
Bảng 1: Phân loại mức độ rối loạn trầm cảm (The
PHQ–9 Validity of a Brief Depression Severity
Measure(5))
Số điểm
Phân loại
≤ 4
Không có biểu hiện RLTC
5 – 9
Có nguy cơ RLTC
10 – 14
RLTC nhẹ
15 – 19
RLTC vừa
20 – 27
RLTC nặng
Biến số nghiên cứu
BKLN hiện mắc
Được xác định là BKLN mà đối tượng
nghiên cứu đã được chẩn đoán hoặc đang được
điều trị bất kỳ một BKLN nào, biến số danh
định, gồm 4 giá trị: bệnh tim mạch (bao gồm
huyết áp (THA), sau đột quỵ, suy tim, bệnh
mạch vành …), đái tháo đường (ĐTĐ) chủ yếu là
tuýp 2), COPD, khác.
RLTC
Được xác định dựa trên số điểm theo thang
điểm PHQ–9, là biến số nhị giá, gồm có và
không. Từ 10 điểm trở lên xác định là có RLTC.
Phân tích và xử lý dữ liệu
Dữ liệu được thực hiện bằng Stata/IC phiên
bản 13.0.
Số thống kê mô tả: mô tả trung bình và độ
lệch chuẩn với biến tuổi và biến điểm thang đo
PHQ-9. Mô tả tần số và tỉ lệ phần trăm (%) đối
với: các biến số nền, các biến số về mối quan hệ
trong gia đình, các biến về tình trạng sức khỏe
bản thân, biến số về RLTC.
Số thống kê phân tích: mối liên quan giữa
RLTC và các đặc điểm của dân số mẫu, các yếu
tố liên quan đến gia đình, các yếu tố liên quan
đến tình trạng sức khỏe bằng phép kiểm định
chi bình phương hay phép kiểm định Fisher (khi
có ≥20% giá trị vọng trị <5 hay có ít nhất 1 giá trị
vọng trị <1) với ngưỡng ý nghĩa khi p <0,05. Mức
độ liên quan được xác định bằng tỉ số tỉ lệ hiện
mắc (PR) và KTC 95%.
Y đức
Nghiên cứu đã được thông qua Hội đồng
Đạo đức về Nghiên cứu Y sinh học ĐHYD TP.
HCM số 172/ĐHYD-HĐĐĐ ngày 10/4/2019.
KẾT QUẢ
Bảng 2: Đặc điểm nền về dân số, kinh tế - xã hội của
mẫu nghiên cứu (n=319)
Đặc tính mẫu
Tần số
Tỉ lệ (%)
Giới
Nam
Nữ
114
205
35,7
64,3
Nhóm tuổi
18 - ≤ 44
45 - ≤ 59
≥ 60
18
89
131
5,0
31,4
63,6
Tình trạng hôn nhân
Độc thân
Đã kết hôn
Ly dị/ly thân
Góa chồng/vợ
13
236
7
63
4,1
74,0
2,2
19,7
Có nguồn thu nhập
Bản thân
Người thân chu cấp
Xã hội trợ cấp
158
135
26
49,5
42,3
8,2
Tự đánh giá kinh tế
Khá giả
Đủ ăn
Nghèo
21
256
42
6,6
80,2
13,2
Bảo hiểm y tế
Có
Không
187
132
58,6
41,4
Bảng 3: Tỷ lệ và mức độ rối loạn trầm cảm trên bệnh
nhân mắc bệnh không lây nhiễm
Đặc tính mẫu
Tần số
Tỉ lệ (%)
Rối loạn trầm cảm
73
22,9
Mức độ trầm cảm (n=319)
Nhẹ
Vừa
Nặng
66
6
1
20,7
1,9
0,3
Trong số 319 người tham gia nghiên cứu, rối
loạn trầm cảm (n=73, 22,9%). Phân tích hai chiều
cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê
(p <0,05) giữa rối loạn trầm cảm và các yếu tố
như tình trạng kinh tế khó khăn (PR=1,88; KTC

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 4 * 2020
Nghiên cứu Y học
66
95% 1,22–2,91; p=0,008), sống một mình
(PR=2,29; KTC 95% 1,25–4,19; p=0,023), có tập thể
dục (PR=0,60; KTC 95% 0,4–0,9; p=0,013), thời
gian mắc bệnh (PR=1,51; KTC 95% 1,01–2,25;
p=0,048), số bệnh không lây nhiễm hiện mắc
(PR=2,54; KTC 95% và p=0,007) (Bảng 2, 3).
Bảng 4. Mối liên quan giữa RLTC và các đặc điểm dân số
Đặc điểm mẫu
Rối loạn trầm cảm
Giá trị p
PR (KTC 95%)
Có Tần số (%) N=73
Không Tần số(%) N=246
Giới tính
Nữ
53 (72,6)
152 (61,7)
0,090
1,47 (0,93 – 2,34)
Nam
20 (27,4)
94 (38,3)
Nhóm tuổi
18 – 44
3 (4,1)
13 (5,2)
0,766*
0,75 (0,26 – 2,13)
45 – 59
19 (26,0)
81 (33,0)
0,237
0,76 (0,47 – 1,21)
≥ 60
51 (69,9)
152 (61,8)
1
Bảng 5. Mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm với tình trạng hôn nhân và các yếu tố kinh
Đặc điểm mẫu
Rối loạn trầm cảm
Giá trị p
PR (KTC 95%)
Có Tần số (%) N=73
Không Tần số(%) N=246
Tình trạng hôn
nhân
Đã kết hôn
47 (64,4)
189 (76,8)
1
Độc thân
5 (6,8)
8 (3,2)
0,109
1,93 (0,93-4,02)
Ly dị/ly thân
2 (2,7)
5 (2,0)
0,631*
1,43 (0,43-4,76)
Góa chồng/vợ
19 (26,1)
44 (18,0)
0,080
1,51 (0,96-2,39)
Nguồn thu nhập
Bản thân
32 (43,8)
126 (51,2)
1
Gia đình chu cấp
37 (50,7)
98 (40,0)
0,154
1,35 (0,89-2,05)
Trợ cấp xã hội
4 (5,5)
22 (8,8)
0,790*
0,76 (0,29-1,97)
Tự đánh giá kinh tế
Đủ ăn
55 (75,4)
201 (81,7)
1
Khá giả
1 (1,4)
20 (8,1)
0,088*
0,22 (0,03-1,52)
Nghèo
17 (23,2)
25 (10,2)
0,008
1,88 (1,22-2,91)
Bảng 6. Mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm và đặc điểm gia đình
Đặc điểm mẫu
Rối loạn trầm cảm
Giá trị p
PR (KTC 95%)
Có Tần số (%) N=73
Không Tần số(%) N=246
Người sống chung
Có
67 (91,8)
240 (97,6)
0023
Không
6 (8,2)
6 (2,4)
2,29 (1,25-4,19)
Người thân đưa đi khám
Có
40 (54,8)
126 (51,2)
0,591
1,12 (0,75-1,68)
Không
33 (45,2)
120 (48,8)
Người chăm sóc
Có
45 (61,6)
175 (71,1)
0,124
0,72 (0,48-1,09)
Không
28 (38,4)
71 (28,9)
Bảng 7. Mối liên quan giữa rối loạn trầm cảm và thói quen bản thân, tình trạng sức khỏe
Đặc điểm mẫu
Rối loạn trầm cảm
Giá trị p
PR (KTC 95%)
Có Tần số (%)
N=73
Không Tần số(%)
N=246
Tập thể dục
Có
32 (43,9)
148 (60,1)
0,013
0,60 (0,40-0,90)
Không
41 (56,1)
98 (39,9)
Hút thuốc lá
Có
7 (9,6)
30 (12,2)
0,541
0,81 (0,40-1,63)
Không
66 (90,4)
216 (87,8)
Thời gian mắc bệnh
< 10 năm
43 (58,9)
175 (71,1)
0,048
≥ 10 năm
30 (41,1)
71 (28,9)
1,51 (1,01 – 2,25)
Bệnh tim mạch
Có
65 (88,0)
207 (84,1)
0,300
1,40 (0,72 – 2,73)
Không
8 (11,0)
39 (15,9)
Đái tháo đường
Có
31 (42,5)
94 (38,2)
0,513
1,15 (0,76 – 1,72)
Không
42 (57,5)
152 (61,8)
COPD
Có
1 (1,4)
6 (2,4)
0,584
0,62 (0,10 – 3,84)
Không
72 (98,6)
240 (97,6)

Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 4 * 2020
67
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu khi sử dụng thang điểm
PHQ-9 với điểm cắt 10, chúng tôi chẩn đoán
sàng lọc được tỷ lệ bệnh nhân rối loạn trầm cảm
là 22,9% (73/319). Con số này cao hơn so với
nghiên cứu của Đặng Hoàng Hải (2008)(7) khảo
sát rối loạn trầm cảm ở người trưởng thành tại
TP. Hồ Chí Minh (6,6%), nhưng không có sự
khác biệt với kết quả của Hoàng Khánh Chi
(2016)(8). Giải thích điều này có thể là do sự giống
nhau về địa điểm nghiên cứu, độ tuổi (của tác
giả là 64,9 ± 9,7 tuổi so với 62,8 ± 10,9 tuổi trong
của chúng tôi), và sử dụng cùng thang đo PHQ-
9. Tuy nhiên, so với kết quả của Đỗ Minh Quang
(2010)(9), tỷ lệ rối loạn trầm cảm của chúng tôi
thấp hơn (22,9% và 48,5%). Điều này có thể được
lý giải bởi đối tượng nghiên cứu của tác giả là
những bệnh nhân suy tim mạn đang điều trị nội
trú tại bệnh viện, tình trạng bệnh lý nền nặng, và
thang đo Beck.
Bảng 8. Các nghiên cứu về tỷ lệ rối loạn trầm cảm
trên bệnh nhân mắc bệnh không lây nhiễm tại Việt
Nam
Tác giả
Dân số
Cỡ mẫu
Thang
điểm
Tỷ lệ
Chúng tôi
Bệnh tim mạch,
ĐTĐ, COPD
319
PHQ-9
22,9%
Hoàng Khánh
Chi(3)
ĐTĐ tuýp 2
500
PHQ-9
23,6%
Võ Thị Thu
Hà(4)
Hội chứng
chuyển hóa
261
Thang
Beck
21,5%
Đỗ Minh
Quang(8)
Suy tim mạn
97
Thang
Beck
48,5%
Trên thế giới, theo Lim GY (2018)(10), phân
tích gộp 90 nghiên cứu từ 30 quốc gia khác nhau
trong giai đoạn 1994 – 2014 cho thấy tỷ lệ rối
loạn trầm cảm trong dân số chung là 12,9% và tại
vực Châu Á là 16,7%. Một phân tích gộp 11
nghiên cứu với gần 5000 bệnh nhân đái tháo
đường tuýp 2 không có rối loạn trầm cảm trước
đó, các tác giả cũng cho thấy tỷ lệ rối loạn trầm
cảm ở những bệnh nhân đái tháo đường cao hơn
(24%)(11). Theo một nghiên cứu tiến cứu gần đây
được tiến hành bởi Schneider C trên 35.000 bệnh
nhân COPD với thời gian theo dõi trong 10 năm,
tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm bệnh nhân COPD là
16,2/1000 so với nhóm chứng không mắc COPD
là 9,4/1000(12).
Đối chiếu với những nghiên cứu ở các nước,
số liệu của chúng tôi thấp hơn các nghiên cứu
của Ganasegera K (2014)(13), Sun N (2016)(14) và
Himani G (2018)(15) nhưng cao hơn nghiên cứu
của Wong TS (2014)(16). Sự chênh lệch này có thể
do sự khác nhau về dân số nghiên cứu. Đa phần
các tác giả chỉ tiến hành khảo sát rối loạn trầm
cảm trên 1 loại bệnh không lây nhiễm, trong khi
nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 3 bệnh
lý: tim mạch, đái tháo đường và COPD. Ngoài ra
sự không tương đồng về tình trạng kinh tế, xã
hội, học vấn và việc lựa chọn thang đo khác
nhau cho mục đích sàng lọc cũng là những yếu
tố quan trọng có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ rối loạn
trầm cảm.
Nghiên cứu có thiết kế tương tự chúng tôi
của tác giả Kulkarni V(17) thực hiện tại Ấn Độ
năm 2014 báo cáo tỷ lệ rối loạn trầm cảm là
29,1%, cao hơn kết quả của chúng tôi (22,9%).
Theo chúng tôi, lý do nằm ở độ tuổi trung bình
của các đối tượng trong nghiên cứu này thấp
hơn so với dân số trong nghiên cứu của chúng
tôi (53,2 ± 7,2 tuổi so với 62,8 ± 10,9 tuổi).
Nhìn chung, thống kê của chúng tôi phù hợp
với báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG)
về tỷ lệ hiện mắc của rối loạn trầm cảm ở những
nước đang phát triển như Việt Nam là 10-44%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ bệnh
nhân nữ cao hơn so với bệnh nhân nam (64,3%
so với 35,7%). Kết quả này tương tự nghiên cứu
của tác giả Võ Thị Thu Hà trên 261 bệnh nhân có
hội chứng chuyển hóa tại phòng khám Tim
mạch – Nội tiết bệnh viện Nhân Dân 115 với
64,8% bệnh nhân là nữ(18). Trên thế giới, nghiên
cứu của Viện Sức khỏe Tâm thần Singapore
cũng ghi nhận tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở nữ
(7,2%) cao hơn nam (4,3%)(19).
Tuổi trung vị của các đối tượng tham gia
nghiên cứu là 62,8 ± 10,9 tuổi, trong đó hơn 60%
bệnh nhân trên 60 tuổi, tương đối đồng nhất với
các nghiên cứu của các tác giả trong nước.
Hoàng Khánh Chi (2016) khảo sát 500 bệnh nhân