intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư

Chia sẻ: Pham Quang Hai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:10

211
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư của C.Mác vạch rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, cơ sở kinh tế của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Từ đó chỉ ra tính tất yếu và con đường của giai cấp vô sản là phải tiến hành cách mạng vô sản; đồng thời là cơ sở để phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản ngày nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư

  1. SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA LÀ SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ Trên cơ sở phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C.Mác  đã hoàn thiện lý luận giá trị  và khám phá thực chất nền sản xuất tư bản chủ  nghĩa là  sản xuất ra giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị thặng dư là “viên đã tảng" trong toàn bộ  học thuyết kinh tế  của C.Mác, nó vạch trần bản chất bóc lột của chủ  nghĩa t ư  bản;  luận giải cơ sở kinh tế – xã hội cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại  giai cấp tư sản. Đồng thời khẳng định quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là  quy luật giá trị thặng dư­ quy luật chi phối sự phát sinh, phát triển và diệt vong của xã   hội tư sản. I. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN 1. Công thức chung của tư bản Tiền là hình thái giá trị cuối cùng của sản xuất và lưu thông hàng hóa giản đơn,  đồng thời là hình thức xuất hiện đầu tiên của mọi tư bản. Bản thân của tiền chưa phải  là tư  bản, nó chỉ  là một loại hàng hóa đặc biệt làm vật ngang giá chung trong trao đổi  hàng hóa. Tiền chỉ trở thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột  người khác, mang lai thu nhập không lao động cho chủ tiền tệ.  Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức H­T­ H’. Còn tiền  trong nền sản xuất tư bản vận động theo công thức        T – H – T’ ( T’ > T). C.Mác gọi   đây là công thức chung của tư  bản. Vì, mọi tư  bản, dù là tư  bản công nghiệp, tư  bản  thương nghiệp, tư  bản cho vay hay tư  bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng vận  động dưới dạng khái quát đó.  So sánh công thức chung của tư bản với công thức của lưu thông hàng hoá giản  đơn chúng ta thấy giữa chúng có những điểm giống và khác nhau: Hai công thức đều   phản ánh sự vận động của sản xuất hàng hoá; đều bao gồm hai yếu tố vật chất giống   nhau là H và T; đều bao gồm hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; và đều biểu hiện  mối quan hệ giữa người mua với người bán. Tuy nhiên, hai công thức trên phản ánh hai trình độ khác nhau của sản xuất hàng  hoá nên giữa chúng có những điểm khác nhau: ­ Về trình tự của sự vận động: Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, bắt đầu bằng hành vi bán (H­T), kết thúc  bằng hành vi mua (T­ H).  Ở đây, H vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, còn T   chỉ là môi giới. Còn trong lưu thông tư bản, bắt đầu bằng hành vi mua (T­ H), kết thúc  bằng hành vi bán (H­T), ở đây T vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, còn H chỉ  là môi giới. ­ Về mục đích của sự vận động: Mục đích cuối cùng của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng. Ngược   lại, mục đích vận động của tư  bản không phải là giá trị  sử  dụng mà là giá trị  lớn hơn   (T’= T + t). “t” chính là số tiền trội ra so với số tiền ứng ra ban đầu, C.Mác gọi nó là giá   trị thặng dư (ký hiệu là m), còn số tiền ứng ra ban đầu “T” là tư bản.  Như vậy, tư bản   là giá trị mang lại giá trị thặng dư. ­ Về giới hạn của sự  vận động: Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, lưu thông  chỉ là phương tiện để đạt mục đích tiêu dùng. Do đó, nó sẽ kết thúc ở giai đoạn thứ hai 
  2. (T­H), sau khi người trao đổi có được giá trị  sử  dụng mà anh ta cần. Ngược lại, mục   đích vận động của tư bản là sự lớn lên không ngừng của giá trị, thu giá trị thặng dư, vì   vậy sự vận động là không có giới hạn: T­ H ­ T’­ H­ T”­ H­ T n’  2. Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản Nhìn vào công thức chung của tư bản ta thấy dừng như có sự mâu thuẫn với lý  luận giá trị, vì ở đây giá trị không chỉ được tạo ra trong sản xuất mà còn được tạo ra cả  trong lưu thông.  C.Mác đã chỉ  rõ: “Tư  bản không thể  xuất hiện từ  lưu thông và cũng   không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng  thời không phải trong lưu thông”1. Đúng là, nếu nhà tư bản không bỏ tiền vào lưu thông  thì cũng không thể  thu được giá trị  thặng dư, nhưng bản thân lưu thông dù ngang giá   hay không ngang giá cũng không tạo ra giá trị thặng dư. Nếu trao đổi ngang giá thì lưu   thông không tạo ra giá trị mà chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị (từ tiền thành hàng,   từ hàng thành tiền). Còn tổng giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn  không thay đổi. Trong trường hợp trao đổi không ngang giá thì lưu thông cũng không  tạo ra giá trị. Trong thực tế đời sống có hiện tượng bán hàng hóa cao hơn giá trị và mua  hàng hóa thấp hơn giá trị. Ở trường hợp này, giá trị cũng không tăng thêm. Vì trong nền   sản xuất hàng hóa, mỗi người đều là người bán nhưng đồng thời cũng là người mua.   Do đó, khi là người bán họ  được lời bao nhiêu thì khi là người mua họ  bị  thiệt bấy   nhiêu, còn tổng giá trị hàng hóa của xã hội không đổi. Lại giả sử trong xã hội có những   kẻ  chuyên mua rẻ, bán đắt kiếm lãi. Trường hợp này giá trị  cũng không tăng lên, nhờ  mua rẻ  bán đắt, họ  có thể  thu thêm một số  giá trị, nhưng đó chỉ  là sự  tước đoạt lẫn  nhau giữa những người trao đổi hàng hóa. Cái mà người này thu được thêm cũng chính  là cái mà người khác mất đi. Tổng giá trị trong xã hội không thay đổi. Từ  sự  phân tích trên đây cho thấy, lưu thông không tạo ra giá trị  thặng dư,   nhưng nếu không có lưu thông (tức nhà tư bản để T trong két sắt) thì nó cũng không thể  có được giá trị  thặng dư. Điều này dẫn đến mâu thuẫn là lưu thông vừa tạo ra giá trị  thặng dư, vừa không tạo ra giá trị  thặng dư. Đây chính là mâu thuẫn trong công thức  chung của tư bản. C. Mác đã giải quyết triệt để  mâu thuẫn công thức chung của tư bản bằng việc  tìm ra một loại hàng hóa đặc biệt đó là hàng hóa sức lao động. 3. Hàng hoá sức lao động Sức lao động là khả  năng lao động, nó chính là tổng hợp thể lực và trí lực của   con người dùng để sản xuất của cải vật chất. Mọi người bình thường không ốm đau,   bệnh tật đều có sức lao động, có khả năng lao động. Còn lao động là sự kết hợp sức lao  động với tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Trong bất cứ chế độ  xã hội nào,  sức lao động luôn là điều kiện cơ bản trước tiên của sản xuất. Song, sức lao động chỉ  trở thành hàng hóa (đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường) trong những điều kiện lịch   sử nhất định. a) Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ hai điều kiện sau: Một là, người lao động phải được tự do về thân thể, do đó được tự do sử dụng  sức lao động của mình, kể cả tự do bán sức lao động. 1  C.Mác, Tư bản, Mác­ Anghen toàn tập, tập 23, Nxb CT QG, Hà Nội 1993. Tr 249
  3. Hai là, người lao động không còn tư liệu sản xuất cần thiết để thực hiện năng  lực lao động của mình. Do đó, họ  không có tư  liệu tiêu dùng, muốn duy trì sự  sống  buộc họ phải đem bán sức lao động của mình cho người khác. Quá trình ra đời, chủ nghĩa tư bản đã đồng thời tạo ra đầy đủ hai điều kiện cho   sức lao động trở thành hàng hóa. Một mặt, nhà nước tư sản ban hành các đạo luật giải   phóng nô lệ, nông nô khỏi sự lệ thuộc về thân thể đối với chủ nô, chúa đất phong kiến,  nhưng mặt khác tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản đã tước đoạt hết ruộng đất,  tư  liệu sản xuất của người lao động, biến họ  thành những người tay trắng. Cùng với  tác nhân trên, trong nền sản xuất hàng hóa giản đơn, quy luật giá trị  đã làm phân hóa   giàu nghèo hai đầu những người sản xuất hàng hóa nhỏ, những người làm ăn thua lỗ  cũng dần mất hết tư liệu sản xuất phải bán sức lao dộng cho người khác. Như các hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính. b) Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Giá trị của hàng hoá sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản  xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Song để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động   phải thông qua tiêu dùng của người công nhân, cùng gia đình họ. Do đó, giá trị sử dụng  của hàng hóa sức lao động được tính bằng giá trị các tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi  sống công nhân, gia đình họ, cũng như những phí tổn đào tạo người công nhân có một   trình độ tay nghề nhất định phù hợp với yêu cầu sản xuất TBCN.  Trên thị trường, giá trị của hàng hóa sức lao động được biểu hiện thành tiền công  (hay tiền lương) mà nhà tư  bản trả  cho công nhân. Tiền công là biểu hiện bằng tiền  của giá trị hàng hóa sức lao động. Dưới chủ nghĩa tư bản, tiền công mà người lao động   nhận được chính là tiền bán sức lao động cho nhà tư bản. Nhà tư bản trả công cho công   nhân theo thời gian hoặc theo sản phẩm, tùy thuộc vào tính chất công việc. Tiền công  theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó nhiều hay ít tùy thuộc vào thời   gian lao động của công nhân dài hay ngắn. Tiền công tính theo sản phẩm là tiền công  mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm đã làm ra, hoặc số lượng công  việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định. Mỗi sản phẩm được trả  công bằng  một lượng tiền nhất định, gọi là đơn giá sản phẩm. Để  xác định đơn giá sản phẩm,  người ta lấy tiền công trung bình một ngày của công nhân chia cho số lượng sản phẩm   của một công nhân sản xuất ra trong một ngày lao động bình thường. Như  vậy, tiền   công theo sản phẩm chỉ là một hình thức chuyển hóa của tiền công theo thời gian. Tuy   nhiên, trả công theo sản phẩm, một mặt giúp cho nhà tư bản quản lý, giám sát quá trình  lao động của công nhân dễ dàng hơn, mặt khác kích thích công nhân lao động tích cực,   khẩn trương để tạo ra nhiều sản phẩm từ đó nhận được tiền công nhiều hơn.  Phạm trù tiền công còn được thể hiện hiện ở tiền công danh nghĩa và tiền công  thực tế. Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được do bán sức lao  động cho nhà tư  bản. Tiền công thực tế  là tiền công được biểu hiện bằng số  lượng,  chất lượng tư  liệu tiêu dùng và dịch vụ  mà công nhân mua được từ  tiền công danh   nghĩa của mình. Cái mà người lao động quan tâm nhiều hơn là tiền công thực tế  chứ  không phải tiền công danh nghĩa. Bởi vì, trong nhiều trường hợp tiền công danh nghĩa  có thể tăng, nhưng mức tăng chậm hơn mức tăng của giá cả các tư liệu   sinh hoạt, do   đó tiền công thực tế  giảm, cuộc sống trở  nên khó khăn hơn trước.  Tiền công là một  phạm trù có tính lịch sử  và xã hội, nó tùy thuộc vào điều kiện cụ  thể  của từng nước,  
  4. từng thời kỳ. Do đó, giá trị của hàng hóa sức lao động cũng là một phạm trù mang tính   lịch sử­ xã hội cụ thể. ­ Giá trị  sử dụng của hàng hoá sức lao động là công dụng của hàng hóa sức lao  động, thỏa mãn một nhu cầu sử dụng nào đó của nhà tư bản. Quá trình nhà tư bản tiêu  dùng giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là quá trình công nhân phải làm việc cho nhà   tư bản. Đó là quá trình công nhân kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất (lao động)   để sản xuất ra hàng hoá cho nhà tư bản. Khác với các hàng hóa thông thường, giá trị sử  dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt. Tính đặc biệt của nó được thể  hiện  ở  chỗ  khi nhà tư  bản tiêu dùng nó, nó không những không mất đi mà còn tạo ra  một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, phần giá trị lớn hơn đó chính là giá trị  thặng dư (m).  Việc tìm ra hàng hóa sức lao động đã giúp C.Mác giải quyết triệt để  mâu thuẫn   công thức chung của tư bản và khẳng định: giá trị  thặng dư  chỉ được tạo ra trong quá   trình sản xuất, còn lưu thông(1) (T­H) là giai đoạn chuẩn bị cho quá trình sản xuất, lưu   thông(2) (H­T) là để thực hiện sự  chuyển hóa giá trị  hàng hóa thành tiền tệ. Như  vậy,   công thức đầyđủ biểu thị lưu thông của tư bản phải là:                    SLĐ T­ H                       ..SX.. .H – T’                    TLSX II.   SẢN XUẤT GIÁ TRỊ    THẶNG DƯ­ QUY LUẬT TUYỆT  ĐỐI CỦA CHỦ  NGHĨA TƯ BẢN  1. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư Trong nền sản xuất tư  bản chủ  nghĩa, nhà tư  bản chiếm hữu tư  liệu sản xuất,   còn công nhân là người trực tiếp lao động nhưng không có tư  liệu sản xuất, nên quá  trình sản xuất trong các xí nghiệp tư bản có đặc điểm: ­ Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản. ­ Sản phẩm do công nhân làm ra thuộc nhà tư bản.  Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản xuất hàng hóa phát triển cao. Đó  là   quá trình kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để sản xuất ra hàng hóa. Tuy nhiên,   nhà tư bản ứng tiền ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động không phải để thu về một  số tiền như đã ứng ra ban đầu, mà phải là số tiền lớn hơn. Vì vậy, sản xuất tư bản chủ  nghĩa là sự thống nhất giữa sản xuất ra giá trị sử dụng và giá trị thặng dư. Để  thấy được quá trình sản xuất giá trị  thặng dư, lấy việc sản xuất sợi trong  một xí nghiệp tư bản để minh hoạ Giả định, nhà tư bản mua sức lao động của công nhân theo đúng giá trị là 3$ dùng  trong 10 giờ; giá trị tư liệu sản xuất (máy móc và nguyên, nhiên liệu...) chuyển hết vào   sản phẩm mới sau một chu trình sản xuất; hao phí lao động sống và lao động quá khứ  bằng hao phí lao động xã hội cần thiết; năng suất lao động đạt đến trình độ: chỉ mất 5   giờ người công nhân biến 1kg bông thành 1kg sợi và tạo ra lượng giá trị mới là 3$ Như vậy, 5 giờ sản xuất đầu, người công nhân sản xuất được 1 kg sợi và giá trị  của 1kg sợi sẽ là:         +     Giá trị của 1 kg bông                  = 5 $                               +     Khấu hao máy móc                    = 2 $                              +     Giá trị mới do công nhân tạo ra  = 3 $                                                                                                = 10 $ 
  5. Nếu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa dừng lại ở đây thì nhà tư bản sẽ chẳng   thu được gì và người công nhân cũng không bị bóc lột. Nhưng nhà tư bản mua sức lao động của người công nhân là để  làm việc trong  10 giờ chứ không phải trong 5 giờ, do đó công nhân phải lao động tiếp 5 giờ nữa. Trong 5 giờ  lao động tiếp theo, người công nhân cũng sản xuất được 1 kg sợi  như  5 giờ  đầu và giá trị  của 1 kg sợi đó cũng là 10$. Nhưng  ở  1kg sợi thứ  hai nhà tư  bản chỉ  phải chi: 1kg bông 5$; khấu hao máy móc 2$ (không phải trả  giá trị  cho hàng  hoá sức lao động). Tổng cộng 10 giờ lao động, công nhân sản xuất ra 2 kg sợi, trong đó  nhà tư bản chi phí 17$. Bán 2kg sợi đúng giá trị được 20 $. So sánh thu chi, nhà tư bản   được lời 3 $. Số tiền lời(3$) đó chính làgiá trị thặng dư; là phần giá trị mới dôi ra ngoài   giá trị hàng hoá sức lao động, bị nhà tư bản chiếm đoạt  Tóm lại, trong 10 giờ  lao động, người công nhân chỉ  mất 5 giờ  để  tạo ra lượng   giá trị mới ngang bằng giá trị sức lao động; 5 giờ tiếp theo là lao động không công cho   nhà tư bản.   Như vậy, giá trị thặng dư là lượ ng giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao độ ng   do công nhân làm thuê tạo ra trong sản xuất b ị nhà tư  bản chiếm đoạt và tư  bản là   giá trị  mang lại giá trị  thặng dư  chonhà tư  bản bằng cách bóc lột công nhân lao   động làm thuê. Sự  phân tích trên đây cho chúng ta rút ra kết luận chính xác về  tư  bản: tư  bản   không phải là một số tiền mà cũng không phải là tư liệu sản xuất,  mà là một quan hệ   xã hội, quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử. Nó thể hiện quan hệ bóc lột giữa nhà  tư bản đối với công nhân lao động làm thuê.  Những phân tích trên đã chứng minh phạm trù hàng hoá sức lao động là chìa khoá  để  giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư  bản, tức lao động của mgười  công nhân làm thuê là nguồn gốc tạo ra giá trị  thặng dư. Nhưng quá trình sản xuất tư  bản chủ nghĩa không thể thiếu máy móc, đặc biệt trong điều kiện cách mạng khoa học  công nghệ  đang phát triển mạnh mẽ và cạnh tranh tư bản đang diễn ra rất quyết liệt.  Vậy máy móc có vai trò gì trong việc tạo ra giá trị  thặng dư? Để  làm rõ vấn đề  này  C.Mác đưa ra hai khái niệm tư bản bất biến và tư bản khả biến  2. Tư bản bất biến và tư bản khả biến  Tư bản bất biến  Tư bản bất biến là bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất như máy móc,   nhà xưởng, nguyên nhiên liệu phục vụ  cho sản xuất (ký hiệu là C).Tư  bản bất biến  tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất.Trong quá trình đó, giá trị  các bộ  phận tư  liệu   sản xuất khác nhau được lao động cụ  thể  của công nhân chuyển vào sản phẩm mới   theo cách thức khác nhau. Trong đó, giá trị  của nguyên, nhiên liệu được chuyển hết  ngay sau một chu kỳ sản xuất; giá trị  của máy móc, nhà xưởng được chuyển dần dần  sau nhiều chu kỳ  sản xuất. Tuy nhiên, chúng có một đặc điểm chung là giá trị  của  chúng không mất đi, cũng không tăng lên mà được bảo tồn nguyên vẹn. Trong quá trình  sản xuất, TLSX nói chung, máy móc nói riêng có vai trò quan trọng, không thể thiếu đối   với việc sản xuất ra hàng hóa, đặc biệt là việc tăng năng suất lao động. Song nó không  phải là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. 
  6. Tư bản khả biến Tư  bản khả  biến là bộ  phận tư  bản dùng để  mua hàng hoá sức lao động (ký   hiệu là v). Khác với tư  bản bất biến, trong quá trình sản xuất, bằng lao động trừu   tượng của mình người công nhân tạo ra một lượng giá trị mới (v + m) không những bù  đắp lại giá trị sức lao động (v) của công nhân, mà còn tạo ra một lượng giá trị lớn hơn  (m) cho nhà tư bản. Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động của công nhân  đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Đây mới chính là nguồn gốc tạo ra  giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Sự  phân chia tư bản thành tư  bản bất biến và tư  bản khả  biến vạch rõ nguồn  gốc của giá trị thặng dư. Nó chứng minh rằng: không phải máy móc mà chỉ  có sức lao   động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.  C. Mác đã dùng hình tượng: tư bản là lao động chết, nó giống như con quỉ hút máu chỉ   sống nhờ hút được lao động sống, và nó càng hút được nhiều lao động sống bao nhiêu   thì nó lại càng sống được nhiều bấy nhiêu.  Hiện nay, sự  phát triển mạnh mẽ  của khoa học­công nghệ  làm cho lực lượng   sản xuất có sự phát triển vượt bậc. Nhiều ngành, lĩnh vực đã đạt đến trình độ tự động  hóa cao với những “rô bốt thông minh”, “ nhà máy không người”.  Ở các nước tư  bản,  công nhân dần tách khỏi dây chuyền sản xuất trực tiếp, mà chủ  yếu làm việc  ở  bộ  phận điều khiển, lập trình, kiểm tra, bảo dưỡng… Tình hình đó đã xuất hiện nhiều ý  kiến cho rằng “máy móc tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản”. Tuy nhiên, theo nguyên   lý lao động tạo ra giá trị thì máy móc không tạo ra giá trị và như vậy cũng không thể tạo   ra giá trị thăng dư cho nhà tư bản Sau khi vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. C.Mác còn chỉ ra trình  độ  và qui mô bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê thông qua các phạm trù tỷ  suất và khối lượng giá trị thặng dư. 3. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư   Tỷ suất giá trị thặng dư, là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả  biến. C.Mác ký hiệu là m’ và xác định công thức tính là:                                                                                                      m                                  m’ =                   X 100                                                        v                 Theo ví dụ sản xuất sợi nêu ở phần trên thì :                                                                                                            3 (m)                      m’ =                   X  100  = 100%                                   3 (v) Điều đó có nghĩa là cứ   ứng ra 100$ thuê công nhân thì nhà tư  bản sẽ  thu được   100$ giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản   với công nhân lao động làm thuê.  Sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển, tiến bộ khoa học kỹ thuật càng được   ứng dụng thì tỷ suất giá trị thặng dư càng cao. Số liệu thống kê Tỷ suất giá trị thặng dư  ở Mỹ dưới đây đã chứng minh điều đó.
  7.   Tỷ suất giá trị thặng dư ở Mỹ từ năm1899­1988 (%) Năm 1899 1929 1939 1955 1963 1970 1988   m” 111 158 205 249 351 400 430 Về  thực chất, tỷ suất giá trị  thặng dư là tỷ lệ  phân chia ngày lao động của công  nhân thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư. Thời gian lao  động tất yếu là thời gian mà người lao động tạo ra một lượng giá trị  ngang bằng với   giá trị sức lao động của họ. Còn thời gian lao động thặng dư là thời gian mà người lao  động làm việc không công cho nhà tư bản. Việc phân chia thời gian ngày lao động thành  thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư là một trong những phát kiến   quan trọng để phân tích tính chất và quy mô bóc lột của tư bản đối với công nhân làm  thuê. Khối lượng giá trị  thặng dư là số  lượng tuyệt đối về  giá trị thặng dư mà nhà tư  bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định. Nó bằng tích số giữa tỷ suất giá   trị thặng dư với tổng tư bản khả biến đã sử  dụng. C.Mác ký hiệu M và được tính theo   công thức:                                                                                                                            V M =  m’ x  V (V là tổng TBKB);    ­­­­­­­­­­ = số công nhân làm thuê                                                               v      Khối lượng giá trị thặng dư vạch rõ quy mô của sự bóc lột. Để thu nhiều giá trị  thặng dư, nhà tư  bản chẳng những chú ý nâng cao tỷ  suất giá trị  thặng dư mà còn tìm   cách nâng cao khối lượng giá trị thặng dư. Việc cải tiến kỹ thuật, mở rộng quy mô sản   xuất, thuê thêm công nhân của nhà tư bản là nhằm mục đích ấy. Chủ nghĩa tư bản càng  phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư mà các nhà tư bản thu được càng tăng, vì trình  độ bóc lột ngày càng nặng và số lượng người bị bóc lột ngày càng tăng. 4. Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối và siêu ngạch Để có khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn nhà tư bản dùng nhiều phương   pháp khác nhau tuỳ theo điều kiện kinh tế ­ kỹ thuật trong từng giai đoạn phát triển cụ  thể của chủ nghĩa tư bản. Có hai phương pháp cơ bản mà nhà tư bản thường sử dụng  để nâng cao trình độ  bóc lột là: sản xuất giá trị  thặng dư  tuyệt đối và sản xuất giá trị  thặng dư tương đối.  ­ Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian ngày  lao động, trong khi năng suất lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi, do đó   thời gian lao động thặng dư tăng thêm. Ví dụ: Lúc đầu ngày lao động bình thường là 8 giờ, trong đó thời gian lao động   tất yếu là 4 giờ và thời gian lao động thặng dư là 4 giờ.                               4  Như vậy, m’ =           (%) = 100%.                               4 Sau đó, ngày lao động được kéo dài thành 10 giờ, trong đó thời gian lao động tất  yếu vẫn là 4 giờ, còn thời gian lao động thặng dư tăng lên thành 6 giờ.                             6  Khi đó,  m’ =            (%) = 150%
  8.                            4 Với lòng tham vô hạn, nhà tư bản luôn tìm cách kéo dài ngày lao động. Tuy nhiên,  việc kéo dài ngày lao động của nhà tư bản đối với công nhân gặp phải những giới hạn  sau:  Thứ nhất, ngày lao động bị giới hạn bởi ngày tự nhiên (24giờ)  Thứ hai, việc kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn tâm sinh lý của công nhân.   Vì ngoài thời gian lao động người công nhân còn phải có thời gian ăn, uống, nghỉ ngơi,   giải trí để phục hồi sức khỏe;  Thứ  ba,  việc kéo dài thời gian lao động gặp phải sự  phản kháng của giai cấp   công nhân. Giai cấp tư  sản muốn kéo dài thời gian ngày lao động, còn giai cấp công  nhân lại muốn rút ngắn thời gian ngày lao động. Do đó, độ  dài ngày lao động là đại   lượng thời gian không cố  định. Việc xác định độ  dài  ấy tùy thuộc vào cuộc đấu tranh   của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.  Khi độ  dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư  bản tìm cách tăng cường độ  lao động của công nhân. Việc tăng cường độ lao động cũng không khác gì việc kéo dài  thời gian lao động, vì tăng cường độ lao động có nghĩa là công nhân phải làm việc khẩn  trương hơn, căng thẳng hơn, hao phí nhiều sức lực hơn trong một khoảng thời gian   nhất định, nhờ đó tạo ra được nhiều giá trị thặng dư hơn. Việc tăng cường độ lao động   cũng gặp phải giới hạn, vì sức lực của mỗi công nhân là có hạn  Sự phân tích trên cho thấy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động   là hai biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. ­ Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao   động tất yếu trong điều kiện ngày lao động không đổi, do đó thời gian lao động thặng  dư tăng lên một cách tương ứng. Ví dụ: ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ  lao động tất yếu và 4 giờ lao động   thặng dư. Nếu thời gian lao động tất yếu giảm đi 2 giờ, trong khi thời gian lao động  trong ngày vẫn là 8 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ  là 6 giờ. Khi đó giá trị thặng  dư sẽ là:                                                                              6        m’ =                    (%) = 300%                   2                 Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu của người công nhân phải hạ thấp giá  trị hàng hoá sức lao động. Mà giá trị sức lao động được quyết định bởi giá trị các tư liệu  tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, nên muốn hạ thấp giá   trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết của công  nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành   sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để  sản xuất tư  liệu  tiêu dùng. Nghĩa là phải tăng năng suất lao động xã hội  Muốn tăng năng suất lao động thì không có cách nào khác là phải cải tiến công   cụ, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất. Trong thực tế, điều này trước tiên được   diễn ra  ở một số xí nghiệp riêng lẻ, làm cho giá trị  cá biệt của sản phẩm sản xuất ra   thấp hơn giá trị xã hội. Qua đó nhà tư bản thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. ­ Giá trị  thặng dư  siêu ngạch là phần giá trị  thặng dư thu được do áp dụng tiến   bộ  khoa học­kỹ  thuật làm cho giá trị  cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị  thị  trường  
  9. của nó. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng   dư tương đối. Vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên  cơ  sở  tăng năng suất lao động, chỉ  khác  ở  chỗ, một bên là tăng năng suất lao động cá  biệt, còn một bên là tăng năng suất lao động xã hội. Tuy giá trị  thăng dư  tuyệt đối và giá trị  thặng dư  tương đối có sự  khác nhau,  nhưng cả hai loại đó đều là một bộ  phận giá trị  mới do công nhân sáng tạo ra, đều có  nguồn gốc là lao động không được trả công. III. QUY  LUẬT  KINH TẾ   CƠ   BẢN CỦA   CHỦ  NGHĨA  TƯ   BẢN  LÀ  QUY   LUẬT GIÁ TRỊ  THẶNG DƯ    Mỗi phương thức sản xuất đều vận động dưới sự  tác động của  một hệ  thống   các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật kinh tế cơ bản. Quy luật kinh tế cơ bản là quy  luật có vai trò quyết định sự  vận động, phát sinh, phát triển và tiêu vong của một   phương thức sản xuất nhất định. Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy  luật giá trị thặng dư. 1. Nội dung quy luật Bảo đảm sản xuất ngày càng nhiều giá trị  thặng dư  cho nhà tư  bản, trên cơ  sở   tăng cường bóc lột lao động làm thuê, dựa vào việc mở  rộng sản xuất và  ứng dụng   tiến bộ khoa học ­ công nghệ Nội dung quy luật chỉ  rõ mục đích và thủ  đoạn để  đạt mục đích của nền sản  xuất tư bản. Mục đích của nền sản xuất TBCN là sản xuất ngày càng nhiều giá trị  thặng dư  cho nhà tư bản chứ không phải giá trị sử dụng, không phải vì mục đích tiêu dùng của xã  hội. Mục đích đó là khách quan, bởi vì, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là nền sản xuất   dựa trên chế  độ  tư  nhân tư  bản chiếm hữu về  tư  liệu sản xuất và sức lao động trở  thành hàng hóa. Trong điều kiện đó, nhà tư bản ứng tư bản của mình ra mua tư liệu sản   xuất và sức lao động của công nhân để  sản xuất hàng hóa, nhưng không phải vì mục  đích tạo ra giá trị tiêu dùng cho xã hội, cũng không phải để thu về một số tiền như ban   đầu mà là số tiền lớn hơn, giá trị thặng dư. Tuy nhiên, để đạt được mục đích có nhiều  giá trị thặng dư, giai cấp tư sản vẫn phải quan tâm đến giá trị sử dụng. Bởi vì, nền sản  xuất TBCN là nền sản xuất hàng hóa, là sự thống nhất của hai quá trình sản xuất ra giá  trị  sử  dụng và sản xuất ra giá trị  thặng dư. Như  vậy, việc quan tâm đến chất lượng,  mẫu mã hàng hóa chỉ nhằm bán được hàng hoá, thực hiện được giá trị của hàng hoá để  có giá trị  thặng dư  mà thôi. Mục đích của nền sản xuất TBCN là giá trị  thặng dư, nó  không có giới hạn. Tức là sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị  thặng dư  luôn luôn là  động lực của mọi nhà tư bản. Vì vậy công thức vận động chung của tư bản là không có  giới hạn.    T – H – T’ – H – T”– H – T”’ – H – …T…n’ Thủ  đoạn để  đạt mục đích là tăng cường bóc lột công nhân lao động làm thuê,  dựa vào việc mở rộng sản xuất và ứng dụng các tiến bộ khoa học ­ công nghệ. Để  thu nhiều giá trị  thặng dư, nhà tư  bản sử  dụng tổng hợp các thủ  đoạn, biện  pháp. Trong đó mở rộng quy mô sản xuất, thuê thêm công nhân, tăng số lượng người bị  bóc lột, tăng khối lượng giá trị thặng dư. Đồng thời, tìm cách nâng cao trình độ  bóc lột giá trị  thặng dư, trong đó kết hợp   sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng 
  10. dư  tuyệt đối, dựa vào việc  ứng dụng các tiến bộ  khoa học­ công nghệ, hợp lý hóa tổ  chức quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động, tiết kiệm các yếu tố đầu vào của sản   xuất. Hiện nay, ngoài các thủ đoạn trên, các nhà tư bản còn sử dụng các biện pháp kinh  tế, tâm lý, xã hội nhằm khai thác tối đa yếu tố tích cực của người lao động như: ngoài  lương ra còn có tiền thưởng cho công nhân; bán một phần cổ  phiếu cho người lao  động; thăm hỏi công nhân lúc  ốm đau, bệnh tật; giao cho công nhân trực tiếp quản lý  điều hành sản xuất kinh doanh, mở rộng hình thức tự quản… Giữa mục đích và phương tiện có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mục đích là   động lực thúc đẩy phương tiện, phương tiện là điều kiện để  thực hiện mục đích. Khi  mục  đích  đạt   được  càng nhiều thì  nhà tư  bản lại có thêm  điều kiện sử  dụng các  phương tiện mới 2. Vị trí vai trò của quy luật Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Quy luật này   phản ánh mối quan hệ bản chất giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội tư bản đó là giai  cấp tư sản và giai cấp vô sản. Quy luật giá trị thặng dư tác động, chi phối đến sự hoạt  động của các quy luật kinh tế khác trong xã hội tư  bản như quy luật cạnh tranh, cung   cầu, tích lũy… Đồng thời quy luật giá trị  thặng dư  còn quyết định đến quá trình phát  sinh, phát triển và diệt vong của chủ  nghĩa tư  bản.   Bởi vì, để  thu được ngày càng  nhiều giá trị  thặng dư  thì các nhà tư  bản phải không ngừng cải tiến kỹ  thuật, hợp lý  hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Quá trình đó đã làm cho   lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư  bản phát triển nhanh chóng và tạo ra năng suất   lao động ngày càng cao, khối lượng hàng hoá và dịch vụ tạo ra là vô cùng lớn. Sự phát  triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất đến trình độ  xã hội hóa cao, nhưng quan hệ  sản xuất dưới chủ  nghĩa tư  bản vẫn dựa trên chế  độ  tư  nhân về  tư  liệu sản xuất đã  dẫn đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất ngày một gay gắt.   Theo yêu cầu của quy luật quan hệ  sản xuất phải phù hợp với tínhh chất và trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất thì phải thay thế quan hệ sản xuất tư bản bằng một   quan hệ sản xuất tiến bộ hơn, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc thay  thế quan hệ sản xuất dựa trên chế độ  chiếm hữu tư nhân tư  bản chủ nghĩa về  tư  liệu   sản xuất bằng quan hệ  sản xuất cộng sản chủ  nghĩa được thực hiện thông qua cách   mạng xã hội, trong đó sứ mệnh lịch sử thuộc về giai cấp công nhân. Tóm lại, lý luận giá trị thặng dư của C.Mác đã vạch rõ bản chất bóc lột của chủ  nghĩa tư bản; cơ sở kinh tế của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp giữa giai cấp   vô sản với giai cấp tư sản. Từ đó chỉ ra tính tất yếu và con đường của giai cấp vô sản   là phải tiến hành cách mạng vô sản; đồng thời là cơ sở để phân tích bản chất của chủ  nghĩa tư bản ngày nay.     
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2