Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)
lượt xem 6
download
Mục tiêu của đề tài này còn để thay đổi phương pháp dạy học cũ, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới, để đồng hành cùng mục tiêu chung của đổi mới giáo dục hiện nay: dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực, biết vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn để chuẩn bị chu đáo cho HS năng lực giải quyết các tình huống trong cuộc sống và nghề nghiệp sau khi ra trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)
- MỤC LỤC Trang
- Phần I. Đặt vấn đề 1.1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, công tác giảng dạy của giáo viên ở các nhà trường đã có nhiều chuyển biến tích cực theo yêu cầu của công tác đổi mới chương trình giáo dục phổ thông 2018. Trong đó, xu hướng dạy học phát triển năng lực học sinh (HS) đang thực sự được quan tâm. Nghị quyết số 29/NQTWcủa Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện GDĐT đã xác định mục tiêu trọng tâm của giáo dục, dạy học là chuyển từ tiếp cận tri thức sang tiếp cận năng lực người học để có thể đào tạo được những công dân đáp ứng được xu thế toàn cầu hóa. Yêu cầu của thực tế hiện nay là cần dạy cho người học phương pháp chiếm lĩnh tri thức, chứ không phải cung cấp tri thức. Vì thế, phát triển tư duy phản biện và năng lực phản biện biện chứng được xem là một trong những bước đi cần thiết nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới tư duy phản biện, năng lực phản biện biện chứng đã trở thành một trong những tiêu chí cần đạt trong giáo dục ở nhiều quốc gia, được đưa vào chương trình đào tạo của nhiều trường đại học. Có thể nói, những nước có nền giáo dục tiên tiến đều coi trọng việc thực hiện các hoạt động hướng đến rèn luyện và phát triển năng lực phản biện biện chứng trong dạy học. Trong khi đó, nền giáo dục Việt Nam vẫn chưa thực sự chú trọng đến việc phát triển tư duy và năng lực HS bằng con đường phản biện. Thậm chí nhiều GV còn tỏ ra khó chịu khi HS đưa ra những ý kiến trái chiều, nhiều GV không thích khi HS tranh luận, nhiều GV còn áp đặt kiến thức... Việc kiểm tra đánh giá chưa linh hoạt, đề thi chủ yếu vẫn đóng khung trong tư duy đồng thuận, tư duy xuôi chiều. Vì vậy, chú trọng hình thành và phát triển năng lực tư duy phản biện biện chứng cần phải trở thành một mục tiêu đào tạo hướng tới của nhà trường các cấp nhằm hoàn thiện hơn phẩm chất và tư duy của học sinh. Ngữ văn là bộ môn bắt buộc trong hệ thống giáo dục phổ thông. Với những đặc thù riêng của mình, môn Ngữ văn có những lợi thế để phát triển tư duy phản biện và năng lực phản biện biện chứng cho HS. Việc tìm tòi, nghiên cứu đề xuất các biện pháp dạy học mới trong dạy học đọc hiểu văn bản được xem là yêu cầu quan trọng của việc đổi mới dạy học Ngữ văn hiện hành. Trong số những văn bản được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT thì văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt, trích trong vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ là văn bản có nhiều cách tiếp nhận khác nhau thậm chí cả những tiếp nhận trái chiều, những tiếp nhận đi ngược với tư duy truyền thống gây nhiều tranh cãi. Có thể nói, trích đoạn ấy trở thành mảnh đất màu mỡ để GV gieo hạt giống năng lực phản biện biện chứng để chúng nhanh chóng nảy nở, đâm chồi, đơm hoa kết trái trên con đường tiếp cận tri thức khoa học cho HS. 2
- Vì vậy, từ nghiên cứu và thực tiễn công tác dạy học, nhóm tác giả đã xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)”. Đề tài này đã được áp dụng thành công ở trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Hưng Nguyên và trường THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. 1.2. Mục tiêu, tính mới của đề tài 1.2.1. Mục tiêu Với đề tài “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)”, chúng tôi hướng đến mục tiêu giúp học sinh THPT có thể phát triển năng lực phản biện thông qua hoạt động dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ. Từ đó, giúp HS hình thành thói quen và năng lực phản biện trong học tập, trong đời sống thường ngày, trong nghiên cứu khoa học…, giúp HS rút ngắn con đường đến với thành công. Mục tiêu của đề tài này còn để thay đổi phương pháp dạy học cũ, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới, để đồng hành cùng mục tiêu chung của đổi mới giáo dục hiện nay: dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực, biết vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn để chuẩn bị chu đáo cho HS năng lực giải quyết các tình huống trong cuộc sống và nghề nghiệp sau khi ra trường. 1.2.2. Tính mới Những năm gần đây, việc dạy học theo hướng phát triển năng lực phản biện đã được nhiều GV dạy môn Ngữ văn quan tâm, nghiên cứu. Đã có một số công trình khoa học, sáng kiến sinh nghiệm, bài tham luận… về dạy học môn Ngữ văn theo hướng phát triển tư duy phản biện cho HS. Nhưng các đề tài đó đều đề cập một cách chung chung, chủ yếu tập trung vào việc vận dụng tư duy phản biện để viết bài văn nghị luận mà chưa quan tâm đến việc phát triển năng lực phản biện biện chứng cho HS thông qua hoạt động dạy học một bài học cụ thể, một văn bản cụ thể. Có thể khẳng định đề tài “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” là đề tài mới mẻ, được nghiên cứu lần đầu ở các trường THPT huyện Hưng Nguyên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Trước đây, trong quá trình thiết kế giáo án dạy học môn Ngữ văn, GV thường hướng HS đến một số năng lực như: tự học, giải quyết vấn đề, sử dụng tiếng Việt, giao tiếp, tự quản bản thân... Với đề tài này, lần đầu tiên phát triển năng lực phản biện được xem như là một năng lực thiết yếu cần phải chú trọng hình thành cho HS để HS có thể tự chủ, độc lập, sáng tạo, mạnh dạn hơn trong tư duy, dám dấn thân, dám đi ngược với 3
- đám đông, dám lựa chọn con đường riêng cho bản thân. Một khi HS có được năng lực phản biện tốt thì HS dễ dàng hình thành, phát triển các năng lực cần thiết khác. Với đề tài này, chúng tôi cũng đã giải quyết được vấn đề cấp thiết trong thực tiễn dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, một văn bản đa thanh, giàu chất triết lí nhưng không dễ tiếp nhận. Đề tài đã mở ra một hướng tiếp cận khác, một cách khai thác khác giúp cho GV có thêm cơ hội để lựa chọn, để vận dụng linh hoạt, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ nói riêng và dạy học văn bản nói chung. 1.3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Nhiệm vụ Đề tài nghiên cứu nhằm hướng đến làm sáng tỏ những vấn đề sau: Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc phát triển năng lực phản biện cho học sinh. Thông qua bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt nhằm nâng cao chất lượng và giúp HS hình thành thói quen, năng lực phản biện trong học tập, trong đời sống thường ngày, trong nghiên cứu khoa học. Thiết kế dạy học Hồn Trương Ba, da hàng thịt nhằm thay đổi phương pháp dạy học cũ, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới, để đồng hành cùng mục tiêu chung của đổi mới giáo dục hiện nay. Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở các lớp khối 12 trong các nhà trường. Khảo sát kết quả thử nghiệm đề tài thông qua lấy ý kiến của học sinh. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu áp dụng cho học sinh lớp 12 tại trường THPT Lê Hồng Phong huyện Hưng Nguyên, trường THPT Đô Lương 2 trong năm học 2018 2019, 20192020. Nội dung nghiên cứu cơ bản thông qua bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt để mở rộng thói quen, năng lực phản biện trong học tập, trong đời sống thường ngày cho học sinh. Phạm vi và khả năng nhân rộng cho tất cả các đối tượng học sinh khối 12 và áp dụng cho dạy học đại trà ở tất cả học sinh khối 12 của các trường THPT, góp phần nâng cao năng lực phản biện cho học sinh trên nhiều phương diện. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: 4
- Phương pháp tổng hợp lý luận: phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan đến năng lực phản biện. Phương pháp quan sát: sử dụng phương pháp này nhằm giúp GV quan sát thái độ học tập, tinh thần hợp tác, kĩ năng tranh luận, phản biện của HS trong giờ dạy học môn Ngữ văn. Phương pháp so sánh và phân tích thống kê: các dữ liệu thu thập được từ khảo sát sẽ được phân loại, sắp xếp, xử lý phục vụ cho phân tích và đưa ra các nhận định, đánh giá về thực trạng dạy học phát triển năng lực phản biện cho HS THPT trong các trường học hiện nay. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: khảo sát kết quả học tập của học sinh các lớp thực nghiệm và đối chứng để kiểm chứng hiệu quả của các phương pháp được đề xuất. 1.5. Quá trình hoàn thành sáng kiến 1.5.1. Hình thành ý tưởng Đề tài: “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” được hình thành ý tưởng từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm 2020. 1.5.2. Điều tra khảo sát Các số liệu điều tra khảo sát trong đề tài được tôi điều tra vào tháng 9 năm 2020 tại trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Hưng Nguyên và trường THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An 1.5.3. Đúc rút kinh nghiệm và áp dụng Đề tài sáng kiến được đúc rút từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm 2020. Áp dụng ở lớp 12A2, 12B3, 12B8 trường THPT Đô Lương 2 và lớp 12A2, 12A5 trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Hưng Nguyên. 1.5.4. Báo cáo hội đồng khoa học trường Đề tài được báo cáo trước hội đồng khoa học trường THPT Lê Hồng Phong Hưng Nguyên ngày 8 tháng 3 năm 2021 và trường THPT Đô Lương 2 ngày 20 tháng 3 năm 2021 1.6. Cấu trúc của đề tài Gồm 3 phần: Phần I. Đặt vấn đề Phần II. Nội dung Phần III. Kết luận 5
- Phần II. Nội dung 1. Cơ sở khoa học của đề tài 1. Một số vấn đề lí thuyết về phản biện và năng lực phản biện trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông Phản biện là việc đưa ra những suy nghĩ, quan điểm và lý lẽ về một điều gì đó để chứng minh sự đúng đắn hay sai lầm của điều đó (sự vật, hiện tượng, chủ trương, quan điểm, công thức...). Phản biện đồng thời cũng được xem là tư duy về tư duy. Trong lĩnh vực chính trị xã hội, phản biện được xem là việc đưa ra các quan điểm, lý lẽ để tìm kiếm hoặc lựa chọn những giải pháp tốt nhất cho các chính sách của Nhà nước hay đảng phái nắm quyền trong quản lí xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể nhận thấy phản biện là một hoạt động diễn ra thường xuyên và hầu khắp mọi lĩnh vực, bởi đó không chỉ là cách thức và biểu hiện tiến bộ để tìm ra sự đúng đắn nhất mà còn là một nhu cầu của cuộc sống. Trong khoa học, phản biện cũng là một cách thức để các nhà khoa học tiệm cận đến gần hơn với chân lý, loại bỏ những cái sai hay điều chưa hợp lý. Đối với một xã hội dân chủ, phản biện và tự do ngôn luận là biểu hiện của một xã hội tiến bộ và là thước đo cho dân chủ thực sự. Có thể thấy ở quốc gia nào, môi trường nào mà có không khí dân chủ thực sự thì phản biện cũng vì vậy mà được phát triển và tác động rõ rệt đến sự phát triển của xã hội, góp phần kiến tạo nên một xã hội tốt đẹp, văn minh. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng phản biện không phải lúc nào cũng đúng nếu không có sự chuẩn bị và đặc biệt là không có kiến thức. C ần phải thấy rằng phản biện không có nghĩa là phản đối, là cách thức để chống lại các quan điểm hay chủ trương chính sách của một tổ chức hay cá nhân. Phản biện là biểu hiện của sự tiến bộ, vì vậy nó cần có đội ngũ trí thức để hình thành tư duy phản biện và bộc lộ nó bằng kĩ năng. Cho nên phản biện cần được hiều là cách thức để đưa ra và nhằm tìm cách giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống để làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong hoạt động dạy học, phản biện hình thành cho người học khả năng hiểu sâu các vấn đề với những câu hỏi vì sao, như thế nào. Bên cạnh đó, phản biện cũng giúp hoạt động dạy và học trở nên dân chủ và có không khí giao tiếp, tác động nhiều chiều hơn là không khí dạy học kiểu một chiều như lâu nay. Phát triển được phản biện và khuyến khích người học phản biện là một cách thức để đổi mới phương pháp dạy học trong xu hướng dạy học tiếp cận năng lực. Năng lực phản biện là năng lực tiếp nhận và xử lý thông tin, phát hiện, xem xét và đánh giá tình huống có vấn đề; chứng minh giả thuyết khoa học hoặc phản khoa học; hình thành tri thức mới để từ đó lựa chọn phương án và có 6
- quyết định đúng đắn cho hành động. Cấu thành năng lực phản biện có các khả năng: tiếp nhận, xử lý, phản bác, phát hiện vấn đề mới trong thông tin. Tuy nhiên, năng lực phản biện cũng là một năng lực rất cần sự định hướng. Nó là năng lực có thể tự khởi phát và tự có ở người học, nhưng không thể phát triển mà thiếu sự định hướng. Trong đời sống hiện đại ngày nay, có quá nhiều luồng thông tin được đưa đến thông qua internet, việc tiếp nhận thông tin, tri thức không chỉ còn đến từ người dạy mà còn thông qua nhiều con đường khác. Vì thế, nếu người học không vận dụng năng lực phản biện một cách chính xác, có định hướng hợp lý sẽ dẫn đến tính chủ quan, thiên kiến cũng như bị tác động cực đoan từ các thông tin khác, mà không xác định được trọng tâm của việc tư duy, dẫn đến khó khăn và những cản trở trong quá trình học tập. Môn Ngữ văn là môn học đặc thù, có những đặc trưng riêng biệt và cũng vì thế mở ra những khả năng riêng biệt mà người học có thể tiếp nhận thông qua việc học môn học này. Ngữ văn vừa là môn học có tính khoa học, vừa là môn học hướng đến một loại hình nghệ thuật đặc biệt: văn chương. Các tác phẩm văn học và việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào thị hiếu thẩm mỹ của mỗi cá nhân, mỗi thời đại. Ngay cả ngôn ngữ tưởng rằng là một phạm trù bất biến, nhưng chính nó cũng linh hoạt trong thực hành giao tiếp, vì thế nhiều nguyên tắc về từ, câu...trong tiếng Việt đã thay đổi và có nhiều hiện tượng ngôn ngữ mới. Vì thế, khác với các bộ môn khác, môn Ngữ văn đưa đến cái nhìn rộng rãi, đa chiều về mọi đối tượng, từ văn học thuần tuý cho tới đời sống xã hội, nhưng bề sâu của nó là điều cần được người học hình thành. Để khơi sâu vấn đề, tìm hiểu được bản chất của mọi sự vật, hiện tượng trong quá trình học môn Ngữ văn, người học không thể không có thói quen tư duy đặt câu hỏi bản chất, tư duy phân tích và xa hơn là đạt đến trình độ tư duy phản biện trước các tri thức mình được tiếp nhận. Có như vậy, môn Ngữ văn mới có thể phát huy được tính đặc thù của bộ môn, giúp người học có được vốn tri thức về văn hoá, văn học và rộng hơn, là biết nhìn đời sống một cách cởi mở, sâu sắc, hiểu con người và hiểu cuộc sống hơn. 2. Thực trạng dạy học phát triển năng lực phản biện cho học sinh trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay Ngữ văn là môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục phổ thông. Với những đặc thù riêng, môn Ngữ văn có những lợi thế để phát triển tư duy phản biện, năng lực phản biện cho HS. Tuy nhiên, chương trình và sách giáo khoa hiện hành của môn Ngữ văn vẫn còn nhiều bất cập, dung lượng kiến thức, thời gian dành cho rèn luyện kĩ năng còn ít. Dù năm học 20202021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn 3280 hướng dẫn việc giảm tải một số nội dung trong chương trình, giao cho nhà trường, tổ chuyên môn tự chủ về thời lượng dạy học ở mỗi chủ đề, ở mỗi bài học, nhưng nhìn chung chương trình vẫn còn nặng về kiến thức, về lí thuyết. Hệ thống văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn THPT đã có 7
- nhiều đổi mới so với trước năm 2005, mạnh dạn đưa một số sáng tác sau năm 1975 vào chương trình. Song về cơ bản, hệ thống văn bản đó thường nằm trong vùng an toàn, các vấn đề đặt ra khá đơn giản, xuôi chiều, chủ yếu là ngợi ca, thiếu tính tranh luận, phản biện... Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài cũng chủ yếu là nhận biết, tái hiện kiến thức, rất ít câu hỏi phản đề, kích thích tính độc lập sáng tạo trong tiếp nhận của mỗi HS. Trong những năm gần đây, đội ngũ GV dạy học bộ môn Ngữ văn đã có nhiều cố gắng trong đổi mới PPDH theo hướng tích cực, chủ động chuyển giao nhiệm vụ học tập cho HS, giúp HS hình thành, phát triển các năng lực theo yêu cầu của mục tiêu giáo dục. Có điều, trong quá trình dạy học đó, nhiều GV vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc phát triển năng lực phản biện cho HS. Ngay cả thiết kế dạy học của số đông GV khi xác định năng lực cần hình thành cho HS ở mỗi bài học vẫn không đề cập đến năng lực phản biện. Thậm chí một số GV còn không vui vẻ gì khi HS có những ý kiến khác mình, những ý kiến trái chiều. Nhiều GV vẫn còn áp đặt kiến thức cho HS, truyền đạt kiến thức một chiều, chưa coi trọng việc hình thành lối nghĩ khác, vượt ra ngoài tư duy thông thường cho HS. Chúng tôi đã dự giờ rất nhiều các đồng nghiệp ở nhiều ngôi trường khác nhau. Với những giờ dạy học đó, chúng tôi nhận thấy: nhiều đồng nghiệp đã vận dụng công nghệ vào dạy học, chú trọng cho HS làm việc theo nhóm, khuyến khích HS trình bày kết quả học tập nhưng chúng tôi vẫn nhận thấy, không khí lớp học chưa thực sự cởi mở, những câu hỏi đưa ra cho HS thảo luận làm việc vẫn chủ yếu là tái hiện kiến thức, là dạng câu hỏi như thế nào, dạng câu hỏi vì sao chưa được khai thác; chưa đặt HS vào tình huống có vấn đề để kích thích tư duy HS, để HS có cơ hội bày tỏ ý kiến riêng của bản thân... Thực tế vẫn có nhiều GV có ý thức giúp HS hình thành và phát triển năng lực phản biện trong dạy học nhưng chính bản thân họ cũng chưa có đủ kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng để giải đáp mọi thắc mắc của HS. Ngoài ra, thời lượng lên lớp hạn chế cũng là một nguyên nhân khiến các GV ngại sử dụng phương pháp dạy học hướng đến năng lực phản biện cho HS. HS Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên đến trường, các em đã được thầy cô chỉ bảo, dặn dò: ở lớp luôn luôn vâng lời thầy cô, về nhà nghe lời ông bà, bố mẹ... Nhiều phụ huynh, nhiều thầy cô cũng chỉ muốn con mình ngoan, học trò mình ngoan là được. Ngoan trong tư duy của phụ huynh, của thầy cô là “gọi dạ, bảo vâng”. Ở nhà, con cái có ý kiến, có tranh luận thì bố mẹ bảo là “Cá không ăn muối cá ươn Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư”, là “Trứng khôn hơn vịt”. Ở trường các em được giáo dục: “Một chứ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”. Môi trường sống cũng như môi trường giáo dục ấy khiến phần lớn HS trở nên thụ động trong tư duy, lười biếng trong suy nghĩ, trong tìm kiếm dẫn chứng hay các căn cứ xác đáng để phản biện những điều GV truyền dạy. Các em dễ dàng chấp nhận kết quả, chấp nhận bài học mà GV đã hướng dẫn, đã cung cấp. Trong thực tế đi dạy bao nhiêu năm, chúng tôi nhận thấy HS rất ít khi chủ động hỏi GV, chủ động đưa ra những băn khoăn, thắc mắc, trăn trở... về 8
- một vấn đề nào đó của bài học. Ngay cả đối với những HS khá, giỏi mà chúng tôi tham gia bồi dưỡng để dự thi các kì thi HS giỏi cũng không biết nên hỏi thầy cô vấn đề gì, cũng không bao giờ đề xuất bọn em cần học cái này, cần đọc kia mà GV dạy nội dung gì thì các em tiếp nhận nội dung ấy. Vì thế, có thể thấy kĩ năng phản biện của HS còn nhiều hạn chế. Nhiều em có ý thức bày tỏ chính kiến, tranh luận với GV nhưng lại thiếu hệ thống lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục để bảo vệ chính kiến, quan điểm của mình. Như vậy từ thực trạng chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ GV đến HS đã khiến cho việc dạy học theo hướng phát triển năng lực phản biện cho HS THPT gặp không ít khó khăn, trở ngại trong quá trình thực hiện. Vì vậy, ở đề tài này chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với hi vọng trên cơ sở đó, HS sẽ hình thành và phát triển được năng lực phản biện, để có thể mỗi giờ học nhất là giờ học môn Ngữ văn trở nên hứng thú hơn, để HS có thể có được không khí học tập như Đỗ Nhật Nam đã chia sẻ về một giờ học Văn ở Mĩ : Trong quá trình học, có sự hỗ trợ của giáo viên. Học sinh có thể đặt bất cứ câu hỏi nào cho giáo viên hoặc hỏi lẫn nhau. Sau mỗi chương sẽ có những giờ trao đổi chung của cả lớp. Khi ấy, cả lớp biến thành một “diễn đàn” và ai cũng được quyền nói lên ý kiến của mình về chương mà mình đọc. Thông thường, các ý kiến rất khác nhau, người đồng tình, người phản đối và giáo viên sẽ phải làm nhiệm vụ... lắng nghe. Không có đúng, sai, miễn là bạn phải tìm cách bảo vệ được quan điểm của mình. 2. Một số giải pháp tổ chức dạy học phát triển năng lực phản biện trong văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) 1. Tạo không khí dân chủ trong giờ học Tâm lí lứa tuổi 17, 18 thường rất phức tạp. Các em vừa khao khát khẳng định mình, mong muốn được bày tỏ chính kiến, mong muốn được công nhận; vừa nhạy cảm, tâm hồn dễ bị tổn thương. Vì thế, để các em mạnh dạn, tự tin thể hiện những suy nghĩ chân thực, những ý kiến riêng của bản thân trong các giờ học, GV phải tạo được một không khí dân chủ, phải có những đối thoại sôi nổi. Có vậy, HS mới tích cực, chủ động tranh luận, phản biện với bạn bè, với thầy cô về các nội dung, các vấn đề được đề cập trong bài học. Để có thể tạo được không khí dân chủ, đối thoại tự do cho HS được phát triển năng lực phản biện trong mỗi giờ học, trước hết GV phải thay đổi quan niệm về vai trò của người thầy. Người thầy không phải là thượng đế, không phải là chủ thể trung tâm của một giờ học. Người thầy chỉ là người dẫn dắt, hướng dẫn, người tổ chức các hoạt động giúp HS tiếp nhận, chiếm lĩnh tri thức. Người thầy hiện đại tuyệt đối không áp đặt kiến thức, tuyệt đối không cho rằng mình luôn luôn đúng, lời thầy là chân lí. Người thầy hiện đại phải luôn biết cách động viên, khích lệ HS nhìn nhận vấn đề một cách ở nhiều góc độ, nhiều phương diện; khuyến khích HS phát hiện lại vấn đề; tôn trọng, chấp 9
- nhận những cách tiếp cận, lí giải khác nhau, thậm chí đi ngược với ý kiến của thầy giáo. Người thầy còn phải chủ động rút ngắn khoảng cách thầy trò để quan hệ thầy trò trở nên thân thiện hơn bao giờ hết. Trong một môi trường học tập như thế, HS hoàn toàn có đầy đủ tự tin để đưa ra những phản biện để tranh luận với bạn bè, thầy cô về một nội dung nào đó. Và các em sẽ coi đó như là những hoạt động học tập tích cực, sáng tạo. Trong thực tế dạy học, bản thân chúng tôi luôn chú ý tạo không khí học tập, kích thích tính tò mò, khả năng khám phá của học sinh. Nhất là trong các tiết đọc hiểu văn bản văn học. Mỗi một tác phẩm văn học thường ẩn chứa nhiều ý nghĩa, nhiều tầng bậc, nhiều thông điệp, tư tưởng của nhà văn thường được ẩn đi sau hệ thống ngôn từ giàu tính biểu tượng, ẩn dụ... nên việc tiếp nhận chưa bao giờ là đơn giản, đồng thuận, xuôi chiều. Vì thế, để hướng HS vào cuộc đối thoại, tranh luận, chúng tôi luôn đặt ra cho HS những câu hỏi tạo điều kiện cho các em được nói lên tiếng nói riêng của bản thân như là: Nhân vật nói như vậy, em có đồng ý với ý kiến của nhân vật không? Lí giải hoặc Về vấn đề này, bạn đã có ý kiến như vậy, còn ý kiến của em thì thế nào? Hay Em nào có những phát hiện khác về vấn đề này?... Dạy Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ trong chương trình Ngữ văn 12, chúng tôi thường đặt câu hỏi: Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt, Trương Ba đã nói: Không! ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn... Vậy em có đồng tình khi Trương Ba nói vậy về phần hồn trong khi thể xác đã có sự thay đổi không? Lí giải?, hay ở một tình huống khác, khi Đế Thích nói với Trương Ba rằng: Thế ông ngỡ tất cả mọi ngươi đều được là mình toàn vẹn cả ư ? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nựa, lắm khi chính người cũng phải khuôn ép mình cho xứng đáng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông, chúng tôi đưa ra câu hỏi: em có đồng ý với ý kiến của đó của Đế Thích không? Vì sao? Với những câu hỏi đó, chúng tôi cho HS tự do bày tỏ ý kiến, sau đó chúng tôi tiến hành phân loại những ý kiến của các em, chú ý tập hợp thành những luồng ý kiến đối lập nhau. Trên cơ sở đó, chúng tôi tổ chức cho HS một diễn đàn để HS được bảo vệ, tranh luận, phản biện ý kiến của mình. Cách tổ chức diễn đàn đó được chúng tôi trình bày ở mục sau. Khi HS tham gia ý kiến, tham gia phản biện, chúng tôi luôn trân trọng lắng nghe, để các em trình bày trọn vẹn ý kiến của mình, tuyệt đối không phủ nhận ý kiến của các em, không đánh giá kiểu: em nhìn nhận vấn đề như vậy là sai, là lệch lạc... Khi HS có nhiều ý kiến trái chiều, chúng tôi khéo léo gợi mở, định hướng để các em có cái nhìn so sánh, giúp các em đưa ra lí lẽ và dẫn chứng cần thiết để bảo vệ ý kiến của mình. 10
- Với cách tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở như vậy, chúng tôi nhận thấy HS trở nên hứng thú hơn với văn bản, không khí giờ học trở nên sôi nổi, HS nhập cuộc tích cực, chủ động. Trên tinh thần đó, năng lực phản biện được phát huy tối đa. 2. Tạo tình huống phản biện Nhiều học sinh có tư duy phản biện, có kỹ năng phản biện tốt cùng với kiến thức chuyên sâu rất tốt nhưng do hoàn cảnh, tính cách nhút nhát … mà HS không dám hay e ngại phản biện. Lúc này vai trò của người GV sẽ là người biết cách phát hiện và tạo ra tình huống có vấn đề để làm sao các em mạnh dạn, phấn khích hơn, tự tin nhập cuộc. Tình huống có vấn đề là một khái niệm của lí luận dạy học hiện đại. Tình huống có vấn đề sẽ buộc HS phải hình thành tư duy. Vì thế việc sử dụng các tình huống có vấn đề trong dạy học đã trở thành PPDH mới: phương pháp nêu vấn đề. Dạy học nêu vấn đề (hay còn được gọi là dạy học giải quyết vấn đề) được đánh giá là một kiểu dạy học hiện đại, tích cực, có khả năng khơi gợi hứng thú và sự sáng tạo của người học. Hình thức dạy học này có vai trò rất lớn trong việc góp phần hình thành và phát triển năng lực người học, trong đó có cả năng lực phản biện. Cụ thể, vai trò của phương pháp dạy học này thể hiện ở các phương diện như: phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập, sáng tạo của người học; rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy logic; rèn cho học sinh năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực tự nghiên cứu khoa học. Có ba đặc điểm quan trọng của hình thức dạy học này là: chứa đựng tình huống có vấn đề liên quan đến nội dung học tập; quá trình thực hiện dạy học giải quyết vấn đề được chia thành những giai đoạn, những bước có tính mục đích chuyên biệt; gồm nhiều hình thức tổ chức đa dạng, lôi cuốn người học tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo dưới sự dẫn dắt, gợi mở của giáo viên. Hạt nhân của dạy học nêu vấn đề là hệ thống các tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu sau: luôn phải chứa đựng những gì chưa biết, bao hàm một hoặc những cái đã biết, có tính mới lạ. Thông qua việc giải quyết các vấn đề mà học sinh thu nhận được kiến thức, kĩ năng, lĩnh hội được tri thức, phương pháp giải quyết mới. Có thể nói, bản thân các vấn đề được nêu ra qua hình thức dạy học này đích thực là nguồn kích thích tư duy, khơi gợi hứng thú, tìm tòi, phát kiến của cả giáo viên và học sinh. Do vậy, có thể xem đây là một hình thức dạy học phù hợp để qua đó hình thành năng lực phản biện cho học sinh. Khi dạy văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ trong chương trình môn Ngữ văn 12, chúng tôi luôn chú ý đặt HS vào những tình huống có vấn đề để buộc HS phải tư duy, phải “động não”, phải nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc độ ngay từ phần tiểu dẫn. Cụ thể, trong phần tiểu dẫn có nội 11
- dung khái quát về vở kịch, SGK chỉ nêu một số tri thức như: năm Lưu Quang Vũ sáng tác, nguồn gốc vở kịch, giá trị vở kịch và tóm tắt cốt truyện. Vì thế, trong thực tế dạy học, rất nhiều GV chỉ dừng lại ở việc cung cấp cho HS những tri thức đã nêu trong SGK khiến HS hoàn toàn thụ động trong tiếp nhận kiến thức. Do đó, để tạo tâm thế nhập cuộc, giúp HS tò mò, hứng thú khám phá tác phẩm ngay những phút đầu tiên của tiết họ, chúng tôi đã đặt HS vào tình huống có chứa mâu thuẫn khiến HS khao khát “giải mã”, đó là chúng tôi tiến hành cho HS so sánh cốt truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt trong văn học dân gian và cốt truyện của vở kịch Lưu Quang Vũ, sau đó yêu cầu HS phát hiện điểm khác biệt và lí giải sự khác biệt đó. HS phát hiện ra trong vở kịch của dân gian thì Trương Ba chết theo lẽ tự nhiên, nhưng vì Đế Thích tiếc cái kì tài đánh cờ của ông mà cho ông sống lại trong thân xác và mọi người vẫn chấp nhận xem đó là Trương Ba, nên Trương Ba trong xác anh hàng thịt, vẫn ở lại và sống yên ổn cùng gia đình của mình, còn vợ anh hàng thịt thì buộc phải chấp nhận điều đó. Còn trong vở kịch Lưu Quang Vũ thì mọi chuyện lại không đơn giản như vậy: Trương Ba chết vì sự tác trách của Nam Tào, Bắc Đẩu; hồn Trương Ba sau khi nhập vào xác anh hàng thịt thì mỗi ngày một thay đổi, những người yêu thương ông dần dần xa lánh ông khiến ông đau khổ, dằn vặt bản thân. Cuối cùng, hồn Trương Ba đi đến quyết định: trả lại xác cho anh hàng thịt, cầu xin cho cu Tỵ được sống, bản thân mình chấp nhận cái chết. HS cũng lí giải được sự khác biệt trong cách giải quyết sau khi hồn Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt suy cho cùng chính là sự thay đổi trong tư tưởng, trong quan niệm về mối quan hệ giữa linh hồn và thế xác. Cách kết thúc vở kịch của Lưu Quang Vũ gợi lên rất nhiều vấn đề phải suy nghĩ, phải giải quyết trong cuộc sống. Rõ ràng khi chúng tôi đặt ra tình huống đó, HS phải đọc kĩ, phải tìm tòi, phát hiện điểm khác biệt và lí giải. Khi HS tiến hành lí giải là đồng thời HS phải vận dụng lí lẽ, sự hiểu biết của mình về tác phẩm để đưa ra ý kiến của minh, quá trình đó đã giúp HS từng bước chạm đến tư tưởng sáng tác của tác giả, từng bước phát triển năng lực phản biện. Hoặc sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt, thay vì đặt câu hỏi: nêu ý nghĩa của đoạn đối thoại thì chúng tôi nêu tình huống: trong vai nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, anh (chị) hãy phát biểu với người đọc ý tứ sâu xa mà tác giả muốn gửi gắm qua màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt? Với tình huống giả định này, HS đã được bày bỏ những điều tự bản thân suy ngẫm, tự bản thân rút ra có thể sẽ khác với suy nghĩ, của HS khác thậm chí là định hướng của chính GV. Hay với phần kết thúc của vở kịch nếu GV nêu câu hỏi: trước tình cảnh phần hồn, của bản thân bị phần xác anh hàng thịt lấn át, trước nỗi đau khổ của những người trong gia đình và của cả bản thân mình, Trương Ba đã quyết định như thế nào? Qua quyết định đó, em có nhận xét gì về nhân vật Trương Ba? Với những câu hỏi như thế HS sẽ dễ dàng trả lời, dễ dàng tìm được đáp án trong sự 12
- đồng thuận của những HS khác trong lớp. Với những câu hỏi đó, GV không kích hoạt được tinh thần khao khát sự khám phá, sự tìm tòi của HS. Nhưng khi chúng tôi nêu lên vấn đề: giả sử em là Trương Ba thì em sẽ có sự lựa chọn như thế nào cho mình? Lí giải về sự lựa chọn đó thì HS rất hào hứng bày tỏ sự lựa chọn của bản thân. Mỗi em có một sự lựa chọn khác nhau, em nào cũng muốn GV lắng nghe sự lựa chọn của mình. Các em đặt mình vào nhân vật Trương Ba, suy tư, trăn trở về mỗi tình huống lựa chọn, cũng là một cách các em đối diện với những vấn đề của cuộc sống để buộc các em phải có sự lựa chọn đúng đắn nhất. Với tình huống giả định đó, HS buộc phải hóa thân vào nhân vật nên sẽ hiểu sâu hơn về nhân vật, từ đó tiếp cận thấu đáo hơn vào thế giới tác phẩm văn học có thể lắng nghe được tiếng nói bên trong của nhà văn, những thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Với tình huống giả định đó, GV đã tạo cho HS một cơ hội được tranh luận với HS khác về cách mà mình lựa chọn, nhờ vậy mà năng lực phản biện của HS cũng được tôi luyện, được phát triển. Dạy học “nêu vấn đề” là một phương pháp dạy học hiệu quả để qua đó vừa hình thành kiến thức cho học sinh, vừa có thể rèn luyện và phát huy năng lực phản biện cho người học. Tuy nhiên, để đem lại hiệu quả tối ưu ở phương pháp này giáo viên phải có sự đầu tư nhất định để tìm ra các tình huống có vấn đề, hướng dẫn học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề. 3. Tổ chức tranh luận, phản biện Đây là khâu quan trọng nhất của giờ học theo hướng phát triển năng lực phản biện. Lúc này HS sẽ trình bày quan điểm của mình trước tập thể và quan trọng hơn là các em trực tiếp đối thoại với các bạn khác để bảo vệ quan điểm của mình. HS sẽ đưa ra hàng loạt những lí lẽ, dẫn chứng và sắp xếp chúng theo một trật tự hợp lí để thuyết phục những người khác tán đồng quan điểm với mình. Cũng trong hoạt động này, HS có thể sẽ phải trả lời những câu hỏi do các bạn khác đặt ra. Điều này đòi hỏi các em phải có một thói quen tư duy biện chứng rõ ràng, khả năng ứng biến mau lẹ trước các tình huống phát sinh, và tất nhiên là phải hiểu về tác phẩm văn học một cách tường tận. Hơn thế học sinh còn cần phải biết cách quan sát, đánh giá thái độ của những người nghe xung quanh mình để điều chỉnh ngữ điệu, thái độ, lời văn... cho phù hợp. Thiết nghĩ con đường này sẽ cho HS nhiều bài học để trưởng thành hơn cả về trong tri thức lẫn cuộc sống. Khi dạy Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, trước câu hỏi: trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, trước lí lẽ của anh ta, Hồn Trương Ba đã khẳng định: “Không! ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn...”, em có đồng tình với ý kiến đó của nhân vật Trương Ba? HS đã tích cực bày tỏ quan niệm của mình. Tuy nhiên, tổng hợp các ý kiến của HS, chúng tôi nhận thấy về cơ bản có 3 luồng ý kiến khác nhau: 1. Đồng tình; 2. Không đồng tình; 3. Vừa đồng tình, vừa phản đối. Vì thế, chúng tôi tiến hành tổ chức cho HS tranh luận, phản biện. Tổ chức tranh luận phản biện sẽ diễn ra 13
- theo các bước: Bước 1: Tổ chức cho các em làm việc theo từng nhóm. Nhóm này bao gồm những em có cùng quan điểm. GV tuyệt đối không lựa chọn mà để các em tự quyết định mình sẽ thuộc nhóm nào. Bước 2: Tổ chức cho các em thảo luận, làm việc cùng nhau để tìm ra các ý phản biện và sắp xếp chúng theo một trật tự lôgic. Ở bước này các em không chỉ học tập kiến thức, ghi nhớ bài học mà còn học tập được phương pháp làm việc theo nhóm sao cho hiệu quả nhất. Tất nhiên, GV sẽ phải quan sát tổng thể quá trình làm việc của từng em, nếu không sẽ xảy ra tình trạng chỉ có một vài học sinh khá trong nhóm làm việc, số còn lại thì “ngồi chơi xơi nước”. Bước 3: Các nhóm cử đại diện trình bày vấn đề mà mình đã chọn. Sau khi trình bày, các bạn trong nhóm khác có thể nêu câu hỏi yêu cầu được giải đáp. Bước 4: Giáo viên và học sinh cùng chốt lại vấn đề trọng tâm. Trong quá trình tổ chức học sinh phản biện, GV phải làm tốt vai trò là người tham dự chia sẻ hoặc có khi phải làm trọng tài nếu cuộc “khẩu chiến” vượt ra khỏi khuôn khổ quy định. Trên thực tế đây là lúc GV thu nhận được nhiều thông tin phản hồi nhất. GV vừa có thể nắm bắt được mức độ hiểu bài của học sinh để xem xét các biểu hiện lệch lạc nhằm kịp thời uốn nắn, vừa quan sát được thái độ, hứng thú học tập của các em. Việc tổ chức tranh luận này không nhất thiết là hình thức tranh luận theo nhóm. Có thể sử dụng cách tranh luận giữa các cá nhân học sinh với nhau, hoặc tranh luận giữa GV và HS. Chẳng hạn trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức của bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt khi hướng dẫn HS cảm nhận được giá trị của việc hồn Trương Ba chọn cái chết, GV đưa ra một ý kiến khác: Ngay bản thân cô vẫn luôn quan niệm chết là hết, cát bụi lại trở về cát bụi nhưng ở phần kết thúc của vở kịch, tác giả để Hồn Trương Ba hiện về, chập chờn giữa màu xanh cây lá và nói với vợ: Tôi đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ…, Vậy em có suy nghĩ như thế nào về vấn đề đó? Bản thân em quan niệm như thế nào về cái chết? Trong tình huống đó HS sẽ tranh luận cùng với chính GV của mình, điều đó khiến HS thích thú, kích thích được tư duy độc lập, tự chủ của HS, khơi dậy niềm khao khát được khẳng định mình, được chính GV công nhận. Việc đó, GV lôi kéo được HS phát hiện vấn đề. Khi HS phản biện đúng, có sức thuyết phục thì công nhận, bổ sung vào bài học, coi đó như là công lao, phát hiện mới mẻ, sáng tạo của học sinh. Trong quá trình tổ chức phản biện sẽ có nhiều tình huống nảy sinh, vì vậy trong quá trình thiết kế bài dạy, GV nên có sự dự kiến tình huống và cách xử lí, tránh để rơi vào tình trạng bị động. GV cũng cần phải có kiến thức vững vàng để lí giải những khúc mắc cho HS một cách thấu đáo. Nhất là phải có quan 14
- điểm rõ ràng: đồng tình hay phản đối, đúng hay sai...Sau mỗi lần phản biện nên chốt lại ý trọng tâm để học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến thức. 4. Đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực phản biện Trong dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt nói riêng, kiểm tra đánh giá là khâu quan trọng, chủ yếu để xác định năng lực nhận thức của người học, từ đó có cơ sở để điều chỉnh quá trình dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng học sinh trong nhà trường. Với mục đích thông qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt GV hướng đến phát triển năng lực phản biện cho học sinh, khâu kiểm tra đánh giá lại càng phải được chú trọng. Nói như vậy là bởi lẽ, thông qua việc ra đề kiểm tra, giáo viên có cơ hội tạo điều kiện cho học sinh thể hiện năng lực phản biện của mình. Hay nói cách khác, nếu như trong các giờ học các em đã được trang bị năng lực phản biện thì đến bài kiểm tra làm văn, năng lực đó của các em được hiện thực hóa một cách trọn vẹn trong thực tế dưới hình thức một bài làm văn hoàn chỉnh. Hiện nay, mặc dù Bộ GD và ĐT đã có những hướng dẫn đổi mới trong khâu kiểm tra, đánh giá nhưng việc ra đề nhất là đề thi trong các kì thi như thi HS giỏi ở các tỉnh hoặc đề thì THPT quốc gia, đề thi vẫn chưa thực sự đổi mới. Cơ bản vẫn là đề đóng khung trong tư duy đồng thuận, xuôi chiều kiểu phân tích một đoạn trích để làm rõ một vấn đề nào đó của tác phẩm, hay cho một nhận định, một ý kiến bàn về văn học, yêu cầu HS làm rõ nhận định đó, ý kiến đó qua một tác phẩm nào đó... Với những dạng đề như vậy, HS mặc nhiên công nhận tính đúng đắn của vấn đề, nhiệm vụ của HS là thông qua việc phân tích dẫn chứng văn học để khẳng định lại vấn đề mà thôi. Cách ra đề như vậy gần như đã triết tiêu tư duy phản biện của HS, HS bị đóng khung trong định hướng của đề. Để có thể khuyến khích học sinh tham gia phản biện và biến đó thành một thói quen trong tư duy cũng như trong đời sống của các em, GV phải mạnh dạn thay đổi, mạnh dạn ra đề theo hướng mở, chấp nhận nhiều kiến giải khác nhau. Có như vậy mới tạo cơ hội cho học sinh tham gia đối thoại, tham gia thể hiện quan điểm riêng của mình. Từ đó, các em hình thành nhu cầu và động cơ phản biện. Theo chúng tôi, khi xây dựng một đề làm văn hướng đến hình thành năng lực phản biện cho học sinh phải tuân thủ những yêu cầu sau: Về nội dung: Đề văn cần gắn với thực tế xã hội, mang tính thời sự sâu sắc, tạo ra những tình huống giao tiếp về vấn đề xã hội lôi cuốn, hấp dẫn. Đặc biệt, để tạo ra nhu cầu tranh luận, phản biện, đề văn nên chọn những vấn đề có nhiều hướng giải quyết khác nhau để khuyến khích học sinh thể hiện quan điểm riêng của các em. Về hình thức: Cấu trúc đề linh hoạt, lời văn của đề bài chuẩn mực, trong 15
- sáng, giản dị, dễ hiểu. Sau khi dạy học xong văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, chúng tôi đã ra một số đề và yêu cầu HS viết bài để kiểm tra việc tiếp nhận kiến thức và việc vận dụng kiến thức bài học giải quyết yêu cầu của đề. Cụ thể, đề ra như sau: Đề 1: Nếu anh/ chị là Trương Ba trong đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ thì anh/ chị sẽ lựa chọn như thế nào? Viết bài văn nghị luận trình bày những suy nghĩ của anh/ chị về sự lựa chọn đó. Đề 2: Suy nghĩ của anh/ chị về triết lý nhân sinh mà Lưu Quang Vũ gửi gắm qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt trong trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Với dạng đề đó, HS có cơ hội để được phát huy tinh thần phản biện cũng như năng lực phản biện của chính mình. Các em tự do bày tỏ quan niệm, cách nhìn của mình về vấn đề nghị luận. Đúng sai, đồng tình hay phản đối không quan trọng, quan trọng là các em được nói lên tiếng nói của chính mình, sự cảm nhận riêng của chính mình, quan trọng là các em đưa ra được lí lẽ, dẫn chứng xác đáng, cách giải quyết vấn đề khoa học, lô gic để bảo vệ được quan điểm của mình. Kết quả có nhiều bài đã thể hiện được suy nghĩ riêng của bản thân, có sự nhìn nhận vấn đề thấu đáo, biết đặt vấn đề trong các tình huống để giải quyết. Một số bài viết, chúng tôi in ở phần phụ lục để đồng nghiệp có thể tham khảo. Tất nhiên đổi mới hướng ra đề theo hướng phát triển năng lực phản biện cần phải đi liền với đổi mới ở cách đánh giá, cách xây dựng đáp án, biểu điểm và cách chấm bài. Ở đây cũng vậy, đề văn được xây dựng theo định hướng hình thành năng lực phản biện cho người học nên đòi hỏi khâu xây dựng đáp án, biểu điểm cũng cần có sự thay đổi sao cho phù hợp. Trước hết, vì đề bài văn hướng đến việc tạo cho học sinh cơ hội để các em có thể thể hiện kĩ năng lập luận, kĩ năng trình bày vấn đề cũng như thể hiện quan điểm riêng của mình nên đáp án cũng cần được xây dựng theo hướng mở. Người ra đề không nhất thiết phải xây dựng đáp án quá tỉ mỉ, chi tiết, cũng không nên quá sơ sài. Đáp án cần nêu ra định hướng yêu cầu về kiến thức, kĩ năng cần có ở bài viết nhưng cũng cần có những khoảng mở để học sinh tự do thể hiện quan điểm của mình. Cụ thể, trong đáp án, có một số yêu cầu cơ bản về nội dung học sinh cần đạt được đó là: các em xác định chính xác vấn đề cần trình bày, nêu được một cách rõ ràng quan điểm của mình về vấn đề đó cũng như sử dụng một cách hợp lí các lí lẽ và dẫn chứng từ nhiều nguồn khác nhau để làm căn cứ cho quan điểm của mình. Giáo viên khi xây dựng đáp án có thể dự đoán một số phương hướng mở trong bài làm của học sinh. Còn về hình thức trình bày, các em cần thể hiện 16
- vốn ngôn ngữ phong phú, trong sáng, mạch lạc, chặt chẽ trong bài viết của mình. Trong quá trình đánh giá bài làm văn của HS, GV không chỉ cần chú trọng việc cho điểm sao cho chính xác mà còn phải quan tâm đến việc ghi lời phê như thế nào cho phù hợp. Nói như vậy là bởi, nếu điểm số là cái cụ thể hóa sự đánh giá kết quả bài làm của HS thì lời phê lại mang ý nghĩa khuyến khích, uốn nắn việc rèn luyện của các em. Ngoài những yêu cầu chung đối với một lời phê, trong khi chấm bài, nhằm hướng đến khuyến khích học sinh thể hiện sự phản biện của mình, GV nên có sự khen ngợi riêng dành cho những học sinh có lập luận phản biện tốt trong khi làm bài. Dù GV luôn tôn trọng sự khác biệt của mỗi HS, tôn trọng sự lựa chọn của các em, nhưng GV vẫn phải định hướng, dẫn dắt các em biết cách lựa chọn để cuộc sống tốt đẹp hơn, những giá trị chân, thiện mỹ vẫn luôn là kim chỉ nam cho hành động, suy nghĩ của mỗi người. 3. Thực nghiệm sư phạm 1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm Qua thực nghiệm để kiểm tra hiệu quả và khả năng thực thi của việc dạy học “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT thông qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” trong chương trình Ngữ văn 12, tập 2. 2. Nội dung của thực nghiệm sư phạm Thực nghiệm dạy học phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt ( Lưu Quang Vũ), tại một số lớp trong trường THPT Đô Lương 2 và trường THPT Lê Hồng Phong Hưng Nguyên. 3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Trước hết chúng tôi tiến hành chọn mẫu thực nghiệm: ở trường THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 3 lớp để thực nghiệm đề tài 12A1, 12B3, 12B8 và lớp đối chứng 12A2; 12B4; còn ở trường THPT Lê Hồng Phong, Hưng Nguyên chúng tôi cũng chọn ngẫu nhiên lớp 12A2, 12A5 để thực nghiệm đề tài và lớp đối chứng là 12A6, 12A7. 4. Giáo án thực nghiệm HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Trích) Lưu Quang Vũ I. Mức độ cần đạt 1. Kiến thức a. Nhận biết 17
- ̣ HS nhân biêt, nh ́ ớ được tên tac gia va hoan canh ra đ ́ ̉ ̀ ̀ ̉ ời cua cac ̉ ́ ̉ , ́ tac phâm cốt truyện, hệ thống nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật… b. Thông hiểu ̉ ̀ ́ ̉ ược hoan canh sang tac co tac đông va chi phôi nh HS hiêu va li giai đ ̀ ̉ ́ ́ ́ ́ ̣ ̀ ́ ư thế ̀ ơi nôi dung t nao t ́ ̣ ư tưởng cua tac phâm. ̉ ́ ̉ c. Vận dụng thấp Viết đoạn văn phân tích nghĩa hàm ý của một số lời thoại hay trong vở kịch. d. Vận dụng cao ̣ ̣ ̉ ̉ ̀ ̉ Vân dung hiêu biêt vê tac gia, hoan canh ra đ ́ ̀ ́ ơi cua tac phâm đê ̀ ̉ ́ ̉ ̉ lĩnh hội giá ̣ ̣ ̣ ̣ ̉ ở kịch. tri nôi dung, nghê thuât cua v 2. Kĩ năng Đọc hiểu văn bản kịch theo đặc trưng thể loại. Kĩ năng vận dụng những tri thức của bài học để làm bài nghị luận văn học về văn bản, để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. 3. Thái độ Hình thành thói quen: đọc hiểu văn bản kịch hiện đại. Biết tránh xa lối sống dung tục, sống theo bản năng, chiều theo ý muốn của thể xác. Biết giữ gìn nhân cách, có tình yêu thương mọi người. Biết trân quý sự sống. 4. Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển Năng lực thu thập thông tin liên quan đến kịch hiện đại của Lưu Quang Vũ. Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm kịch hiện đại Việt Nam. Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kịch văn học. Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn trích vở kịch. Năng lực phân tích, so sánh quan niệm sống của 2 nhân vật Hồn Trương Ba và Đế Thích trong đoạn trích vở kịch. Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học. Năng lực phản biện. Năng lực chuyên biệt: đọc kịch, sân khấu hoá. II. Trọng tâm kiến thức 18
- Hiểu được bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh : phải sống nhờ, sống vay mượn , sống tạm bợ và trái với tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu ,thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa bởi sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục. Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách. Thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc trên nhiều phương diện : sự hấp dẫn của kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu; sự kết hợp giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống; sự phê phán mạnh mẽ quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng. III. Chuẩn bị 1. Giáo viên Kế hoạch bài dạy. ́ ̀ ̣ ̉ ơi câu hoi Phiêu bai tâp, tra l ̀ ̉ Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh, trích đoạn vở kịch do Nhà hát kịch Trung ương dàn dựng; ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ Bang phân công nhiêm vu cho hoc sinh hoat đông trên lơṕ ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ Bang giao nhiêm vu hoc tâp cho hoc sinh ở nhà 2. Học sinh ̣ ươc ng Đoc tr ́ ữ liệu trong SGK đê tra l ̉ ̉ ơi câu hoi tim hiêu bai ̀ ̉ ̀ ̉ ̀ ́ ̉ ̉ Cac san phâm thực hiên nhiêm vu hoc tâp ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ở nha (do giao viên giao t ̀ ́ ừ tiêt́ trươc) ́ ̣ ̣ Đô dung hoc tâp ̀ ̀ IV. Tổ chức dạy và học 1. Ổn định tổ chức lớp 2. Kiểm tra bài cũ Kết hợp với hoạt động khởi động 3. Tổ chức dạy và học bài mới 3. 1. Khởi động Kiến thức kĩ năng cần Hoạt động của GV và HS đạt, năng lực cần phát triển GV cho HS xem một đoạn video khoảng 3 phút công Nhận thức được chiếu trích đoạn vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu nhiệm vụ cần giải 19
- Kiến thức kĩ năng cần Hoạt động của GV và HS đạt, năng lực cần phát triển Quang Vũ, phần HS đã được học ở trong chương quyết của bài học. trình môn Ngữ văn lớp 9 Sau đó GV yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ: Tập trung cao và hợp Trích đoạn trên được thuộc vở kịch nào? Của tác tác tốt để giải quyết giả nào? nhiệm vụ. Giới thiệu khái quát về vở kịch và tác giả HS thực hiện nhiệm vụ HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ Có thái độ tích cực, + Vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ hứng thú. + Vở kịch phản ánh mâu thuẫn giữa một bên là những con người với tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, vị kỉ với những người tiến bộ, khao khát đổi mới, khao khát cải cách lề lối làm việc, khao khát đưa ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vở kịch đã góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, hướng tới những giá trị sống đích thực. + Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch nổi tiếng trong văn học Việt Nam hiện đại. Những vở kịch của ông thường hướng đến những vấn đề xã hội, có ý nghĩa tư tưởng, triết lí nhân sinh sâu sắc, hướng con người đến những lí tưởng sống cao đẹp, vượt lên cái tầm thường, vị kỉ ... Rèn luyện kĩ năng thuyết trình dẫn dắt Trên cơ sở đó, GV yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ trước tập thể, góp phần dẫn vào bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhiệm rèn luyện năng lực phản vụ này GV đã yêu cầu HS chuẩn bị ở nhà biện 3.2. Hình thành kiến thức Hoạt động của GV HS Kiến thức cần đạt Năng lực cần hình thành Họat động 1: TÌM HIỂU PHẦN TIỂU DẪN 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào giảng dạy môn Toán THPT
37 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập chương Liên kết hóa học - Hóa học 10 - Nâng cao nhằm phát triển năng lực học sinh
24 p | 70 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Soạn dạy bài Clo hóa học 10 ban cơ bản theo hướng phát triển năng lực học sinh
23 p | 55 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao kỹ năng giao tiếp bằng tiếng Anh
28 p | 36 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực và chủ động trong học tập cho học sinh khi áp dụng phương pháp dạy học theo góc bài Axit sunfuric - muối sunfat (Hóa học 10 cơ bản)
26 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển tư duy lập trình và khắc phục sai lầm cho học sinh lớp 11 thông qua sử dụng cấu trúc rẽ nhánh
24 p | 31 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh vào dạy học truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
33 p | 73 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực học tập của học sinh thông qua dạy học dự án môn hóa học
54 p | 48 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng dạy học STEM phần hóa học phi kim lớp 11 nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
71 p | 16 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Giải pháp thực hiện một số công cụ đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong dạy học môn Địa lí ở trườngTHPT Lạng Giang số 2
57 p | 20 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực học văn cho học sinh THPT thông qua kiểu bài làm văn thuyết minh
48 p | 24 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp phát huy tính tự chủ của học sinh lớp chủ nhiệm trường THPT Vĩnh Linh
12 p | 13 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lựa chọn một số bài tập phát triển sức mạnh tốc độ nhằm nâng cao thành tích chạy cự ly ngắn 100m cho nam đội tuyển Điền kinh trường THPT Tiên Du số 1- Tiên Du- Bắc Ninh
39 p | 15 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua bài tập thí nghiệm Vật lí
38 p | 19 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực tư duy cho học sinh thông qua dạy học Bài tập hóa học chương Ancol - Phenol lớp 11 trung học phổ thông
74 p | 8 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Tích hợp kiến thức các môn học dạy bài: Cacbohiđrat và lipit
67 p | 30 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn