intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)

Chia sẻ: Ngaynangmoi | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:40

23
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài này còn để thay đổi phương pháp dạy học cũ, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới, để đồng hành cùng mục tiêu chung của đổi mới giáo dục hiện nay: dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực, biết vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn để chuẩn bị chu đáo cho HS năng lực giải quyết các tình huống trong cuộc sống và nghề nghiệp sau khi ra trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)

  1. MỤC LỤC Trang
  2. Phần I. Đặt vấn đề 1.1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, công tác giảng dạy của giáo viên ở các nhà trường  đã có nhiều chuyển biến tích cực theo yêu cầu của công tác đổi mới chương   trình giáo dục phổ thông 2018. Trong đó, xu hướng dạy học phát triển năng lực  học sinh (HS) đang thực sự  được quan tâm. Nghị  quyết số  29/NQ­TWcủa Ban   Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện GD­ĐT đã xác định mục  tiêu trọng tâm của giáo dục, dạy học là chuyển từ  tiếp cận tri thức sang tiếp  cận năng lực người học để có thể đào tạo được những công dân đáp ứng được  xu thế  toàn cầu hóa. Yêu cầu của thực tế  hiện nay là cần dạy cho người học   phương pháp chiếm lĩnh tri thức, chứ không phải cung cấp tri thức. Vì thế, phát   triển tư  duy phản biện và năng lực phản biện biện chứng được xem là một  trong những bước đi cần thiết nhằm thúc đẩy sự  phát triển của nền giáo dục   Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới tư duy phản biện, năng lực phản biện biện chứng  đã trở  thành một trong những tiêu chí cần đạt trong giáo dục  ở nhiều quốc gia,   được đưa vào chương trình đào tạo của nhiều trường  đại học.  Có thể  nói,  những nước có nền giáo dục tiên tiến đều coi trọng việc thực hiện các hoạt  động hướng đến rèn luyện và phát triển năng lực phản biện biện chứng trong  dạy học. Trong khi đó, nền giáo dục Việt Nam vẫn chưa thực sự chú trọng đến  việc phát triển tư  duy và năng lực HS bằng con đường phản biện. Thậm chí  nhiều GV còn tỏ  ra khó chịu khi HS đưa ra những ý kiến trái chiều, nhiều GV  không thích khi HS tranh luận, nhiều GV còn áp đặt kiến thức... Việc kiểm tra   đánh giá chưa linh hoạt, đề  thi chủ  yếu vẫn  đóng khung trong tư  duy đồng   thuận, tư duy xuôi chiều. Vì vậy, chú trọng hình thành và phát triển năng lực tư  duy phản biện biện chứng cần phải trở  thành một mục tiêu đào tạo hướng tới  của nhà trường các cấp nhằm hoàn thiện hơn phẩm chất và tư  duy của học   sinh. Ngữ  văn là bộ  môn bắt buộc trong hệ  thống giáo dục phổ  thông. Với  những đặc thù riêng của mình, môn Ngữ  văn có những lợi thế  để  phát triển tư  duy phản biện và năng lực phản biện biện chứng cho HS. Việc tìm tòi, nghiên  cứu đề xuất các biện pháp dạy học mới trong dạy học đọc hiểu văn bản được   xem là yêu cầu quan trọng của việc đổi mới dạy học Ngữ văn hiện hành. Trong   số  những văn bản được đưa vào chương trình Ngữ  văn THPT thì văn bản Hồn  Trương Ba, da hàng thịt, trích trong vở  kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ là văn   bản có nhiều cách tiếp nhận khác nhau thậm chí cả những tiếp nhận trái chiều,   những tiếp nhận đi ngược với tư  duy truyền thống  gây nhiều tranh cãi. Có thể  nói, trích đoạn  ấy trở  thành mảnh đất màu mỡ  để  GV gieo hạt giống năng lực   phản biện biện chứng để  chúng nhanh chóng nảy nở, đâm chồi, đơm hoa kết   trái trên con đường tiếp cận tri thức khoa học cho HS. 2
  3. Vì vậy, từ nghiên cứu và thực tiễn công tác dạy học, nhóm tác giả đã xây  dựng đề  tài sáng kiến kinh nghiệm “Phát triển năng lực phản biện cho học  sinh THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang  Vũ)”. Đề  tài này đã được áp dụng thành công  ở  trường THPT Lê Hồng Phong,  huyện Hưng Nguyên và trường THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ  An. 1.2. Mục tiêu, tính mới của đề tài 1.2.1. Mục tiêu Với đề tài “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học   văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)”, chúng tôi hướng đến  mục tiêu giúp học sinh THPT có thể  phát triển năng lực phản biện thông qua   hoạt động dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.  Từ đó, giúp HS hình thành thói quen và năng lực phản biện trong học tập, trong  đời   sống  thường ngày,  trong nghiên  cứu khoa  học…,  giúp HS  rút  ngắn con  đường đến với thành công. Mục tiêu của đề  tài này còn để  thay đổi phương pháp dạy học cũ, vận   dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới, để  đồng hành cùng mục tiêu chung   của đổi mới giáo dục hiện nay: dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm   phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực, biết vận dụng   tri thức trong những tình huống thực tiễn để chuẩn bị chu đáo cho HS năng lực  giải quyết các tình huống trong cuộc sống và nghề nghiệp sau khi ra trường. 1.2.2. Tính mới Những năm gần đây, việc dạy học theo hướng phát triển năng lực phản  biện đã được nhiều GV dạy môn Ngữ  văn quan tâm, nghiên cứu. Đã có một số  công trình khoa học, sáng kiến sinh nghiệm, bài tham luận… về  dạy học môn   Ngữ  văn theo hướng phát triển tư  duy phản biện cho HS. Nhưng các đề  tài đó  đều đề cập một cách chung chung, chủ yếu tập trung vào việc vận dụng tư duy  phản biện để viết bài văn nghị luận mà chưa quan tâm đến việc phát triển năng  lực phản biện biện chứng cho HS thông qua hoạt động dạy học một bài học cụ  thể, một văn bản cụ thể. Có thể  khẳng định đề  tài “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh   THPT qua dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” là  đề  tài mới  mẻ,  được nghiên cứu lần  đầu  ở  các trường THPT huyện Hưng  Nguyên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ  An. Trước đây, trong quá trình thiết kế  giáo án dạy học môn Ngữ văn, GV thường hướng HS đến một số năng lực như:   tự  học, giải quyết vấn đề, sử  dụng tiếng Việt, giao tiếp, tự  quản bản thân...  Với đề tài này, lần đầu tiên phát triển năng lực phản biện được xem như là một  năng lực thiết yếu cần phải chú trọng hình thành cho HS để  HS có thể  tự  chủ,  độc lập, sáng tạo, mạnh dạn hơn trong tư duy, dám dấn thân, dám đi ngược với  3
  4. đám đông, dám lựa chọn con đường riêng cho bản thân. Một khi HS có được   năng lực phản biện tốt thì HS dễ  dàng hình thành, phát triển các năng lực cần  thiết khác. Với đề tài này, chúng tôi cũng đã giải quyết được vấn đề cấp thiết trong   thực tiễn dạy học văn bản  Hồn Trương Ba, da hàng thịt  của Lưu Quang Vũ,  một văn bản đa thanh, giàu chất triết lí nhưng không dễ tiếp nhận. Đề tài đã mở  ra một hướng tiếp cận khác, một cách khai thác khác giúp cho GV có thêm cơ  hội để  lựa chọn, để  vận dụng linh hoạt, hiệu quả  nhằm nâng cao chất lượng  dạy học văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ nói riêng và  dạy học văn bản nói chung. 1.3. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Nhiệm vụ Đề tài nghiên cứu nhằm hướng đến làm sáng tỏ những vấn đề sau: ­ Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc phát triển năng lực phản biện cho học  sinh. ­ Thông qua bài học  Hồn Trương Ba, da hàng thịt  nhằm nâng cao chất  lượng và giúp HS hình thành thói quen, năng lực phản biện trong học tập, trong   đời sống thường ngày, trong nghiên cứu khoa học. ­ Thiết kế  dạy học Hồn Trương Ba, da hàng thịt nhằm thay đổi phương  pháp dạy học cũ, vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học mới, để đồng hành  cùng mục tiêu chung của đổi mới giáo dục hiện nay. ­ Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở các lớp khối 12 trong các nhà trường. ­ Khảo sát kết quả thử nghiệm đề tài thông qua lấy ý kiến của học sinh. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu ­ Nghiên cứu áp dụng cho học sinh  lớp  12 tại trường  THPT Lê Hồng  Phong huyện Hưng Nguyên, trường THPT Đô Lương 2  trong năm học 2018­ 2019, 2019­2020. ­ Nội dung nghiên cứu cơ bản thông qua bài học Hồn Trương Ba, da hàng   thịt  để  mở  rộng  thói quen, năng lực phản biện trong học tập, trong đời sống  thường ngày cho học sinh. ­ Phạm vi và khả năng nhân rộng cho tất cả các đối tượng học sinh khối  12 và áp dụng cho dạy học đại trà  ở  tất cả  học sinh khối 12 của các trường   THPT, góp phần nâng cao năng lực phản biện cho học sinh trên nhiều phương   diện. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng các phương pháp sau: 4
  5. Phương pháp tổng hợp lý luận: phân tích, tổng hợp và hệ  thống hóa các  vấn đề lý luận có liên quan đến năng lực phản biện. Phương pháp quan sát: sử dụng phương pháp này nhằm giúp GV quan sát  thái độ  học tập, tinh thần hợp tác, kĩ năng tranh luận, phản biện của HS trong   giờ dạy học môn Ngữ văn. Phương pháp so sánh và phân tích thống kê: các dữ liệu thu thập được từ  khảo sát sẽ được phân loại, sắp xếp, xử lý phục vụ cho phân tích và đưa ra các   nhận định, đánh giá về  thực trạng dạy học phát triển năng lực phản biện cho  HS THPT trong các trường học hiện nay. Phương pháp thực nghiệm sư  phạm:  khảo sát kết quả  học tập của học  sinh   các   lớp   thực   nghiệm   và   đối   chứng   để   kiểm   chứng   hiệu   quả   của   các  phương pháp được đề xuất. 1.5. Quá trình hoàn thành sáng kiến 1.5.1. Hình thành ý tưởng Đề  tài:  “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT qua dạy học   văn bản  Hồn Trương Ba, da hàng thịt  (Lưu Quang Vũ)”  được hình thành ý  tưởng từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm 2020. 1.5.2. Điều tra khảo sát Các số  liệu điều tra khảo sát trong đề  tài được tôi điều tra vào tháng 9  năm 2020 tại trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Hưng Nguyên và trường  THPT Đô Lương 2, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An 1.5.3. Đúc rút kinh nghiệm và áp dụng ­ Đề  tài sáng kiến được đúc rút từ  tháng 9 năm 2018 đến tháng 9 năm  2020. ­ Áp dụng  ở  lớp 12A2, 12B3, 12B8 trường THPT  Đô Lương 2  và lớp  12A2, 12A5 trường THPT Lê Hồng Phong, huyện Hưng Nguyên. 1.5.4. Báo cáo hội đồng khoa học trường Đề  tài được báo cáo trước hội đồng khoa học trường THPT Lê Hồng  Phong Hưng Nguyên ngày 8 tháng 3 năm 2021 và trường THPT Đô Lương 2  ngày 20 tháng 3 năm 2021 1.6. Cấu trúc của đề tài Gồm 3 phần: Phần I. Đặt vấn đề Phần II. Nội dung Phần III. Kết luận 5
  6. Phần II. Nội dung 1. Cơ sở khoa học của đề tài 1. Một số  vấn đề  lí thuyết về  phản biện và năng lực phản biện   trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông Phản biện là việc đưa ra những suy nghĩ, quan điểm và lý lẽ về một điều   gì đó để chứng minh sự đúng đắn hay sai lầm của điều đó (sự vật, hiện tượng,   chủ trương, quan điểm, công thức...). Phản biện đồng thời cũng được xem là tư  duy về tư duy. Trong lĩnh vực chính trị xã hội, phản biện được xem là việc đưa  ra các quan điểm, lý lẽ để tìm kiếm hoặc lựa chọn những giải pháp tốt nhất cho   các chính sách của Nhà nước hay đảng phái nắm quyền trong quản lí xã hội.   Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có thể  nhận thấy phản biện là một hoạt   động diễn ra thường xuyên và hầu khắp mọi lĩnh vực, bởi đó không chỉ  là cách  thức và biểu hiện tiến bộ  để  tìm ra sự  đúng đắn nhất mà còn là một nhu cầu  của cuộc sống. Trong khoa học, phản biện cũng là một cách thức để  các nhà  khoa học tiệm cận đến gần hơn với chân lý, loại bỏ  những cái sai hay điều  chưa hợp lý. Đối với một xã hội dân chủ, phản biện và tự do ngôn luận là biểu  hiện của một xã hội tiến bộ và là thước đo cho dân chủ thực sự. Có thể thấy ở  quốc gia nào, môi trường nào mà có không khí dân chủ  thực sự  thì phản biện  cũng vì vậy mà được phát triển và tác động rõ rệt đến sự phát triển của xã hội,   góp phần kiến tạo nên một xã hội tốt đẹp, văn minh. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng phản biện không phải lúc nào cũng  đúng nếu không có sự  chuẩn bị  và đặc biệt là không có kiến thức. C ần phải  thấy rằng phản biện không có nghĩa là phản đối, là cách thức để chống lại các  quan điểm hay chủ trương chính sách của một tổ chức hay cá nhân. Phản biện là  biểu hiện của sự tiến bộ, vì vậy nó cần có đội ngũ trí thức để hình thành tư duy   phản biện và bộc lộ nó bằng kĩ năng. Cho nên phản biện cần được hiều là cách  thức để đưa ra và nhằm tìm cách giải quyết mọi vấn đề của cuộc sống để  làm  cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong hoạt động dạy học, phản biện hình thành cho người học khả năng  hiểu sâu các vấn đề với những câu hỏi vì sao, như  thế nào. Bên cạnh đó, phản   biện cũng giúp hoạt động dạy và học trở nên dân chủ và có không khí giao tiếp,  tác động nhiều chiều hơn là không khí dạy học kiểu một chiều như  lâu nay.   Phát triển được phản biện và khuyến khích người học phản biện là một cách   thức để  đổi mới phương pháp dạy học trong xu hướng dạy học tiếp cận năng  lực. Năng lực phản biện là năng lực tiếp nhận và xử  lý thông tin, phát hiện,   xem xét và đánh giá tình huống có vấn đề; chứng minh giả  thuyết khoa học   hoặc phản khoa học; hình thành tri thức mới để từ đó lựa chọn phương án và có   6
  7. quyết định đúng đắn cho hành động. Cấu thành năng lực phản biện có các khả  năng: tiếp nhận, xử lý, phản bác, phát hiện vấn đề mới trong thông tin. Tuy nhiên,  năng lực  phản biện cũng là một năng lực  rất  cần  sự  định  hướng. Nó là năng lực có thể  tự  khởi phát và tự  có ở  người học, nhưng không  thể  phát triển mà thiếu sự  định hướng. Trong đời sống hiện đại ngày nay, có   quá nhiều luồng thông tin được đưa đến thông qua internet, việc tiếp nhận thông   tin, tri thức không chỉ còn đến từ người dạy mà còn thông qua nhiều con đường   khác. Vì thế, nếu người học không vận dụng  năng lực  phản biện một cách  chính xác, có định hướng hợp lý sẽ dẫn đến tính chủ quan, thiên kiến cũng như  bị  tác động cực đoan từ  các thông tin khác, mà không xác định được trọng tâm  của việc tư duy, dẫn đến khó khăn và những cản trở trong quá trình học tập. Môn Ngữ văn là môn học đặc thù, có những đặc trưng riêng biệt và cũng  vì thế  mở  ra những khả  năng riêng biệt mà người học có thể  tiếp nhận thông  qua việc học môn học này. Ngữ  văn vừa là môn học có tính khoa học, vừa là   môn học  hướng đến một loại hình nghệ  thuật đặc biệt: văn chương.  Các tác  phẩm văn học và việc cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi   theo thời gian và phụ  thuộc vào thị  hiếu thẩm mỹ  của mỗi cá nhân, mỗi thời  đại. Ngay cả  ngôn ngữ  tưởng rằng là một phạm trù bất biến, nhưng chính nó  cũng   linh   hoạt   trong   thực   hành   giao   tiếp,   vì   thế   nhiều   nguyên   tắc   về   từ,   câu...trong tiếng Việt đã thay đổi và có nhiều hiện tượng ngôn ngữ mới. Vì thế, khác với các bộ môn khác, môn Ngữ văn đưa đến cái nhìn rộng rãi,  đa chiều về mọi đối tượng, từ văn học thuần tuý cho tới đời sống xã hội, nhưng  bề sâu của nó là điều cần được người học hình thành. Để khơi sâu vấn đề, tìm  hiểu được bản chất của mọi sự  vật, hiện tượng trong quá trình học môn Ngữ  văn, người học không thể  không có thói quen tư  duy đặt câu hỏi bản chất, tư  duy phân tích và xa hơn là đạt đến trình độ  tư duy phản biện trước các tri thức   mình được tiếp nhận. Có như vậy, môn Ngữ văn mới có thể phát huy được tính  đặc thù của bộ môn, giúp người học có được vốn tri thức về văn hoá, văn học  và rộng hơn, là biết nhìn đời sống một cách cởi mở, sâu sắc, hiểu con người và   hiểu cuộc sống hơn. 2. Thực trạng dạy học phát triển năng lực phản biện cho học sinh   trong dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay Ngữ  văn là môn học bắt buộc trong hệ  thống giáo dục phổ  thông. Với  những đặc thù riêng, môn Ngữ  văn có những lợi thế  để  phát triển tư  duy phản   biện, năng lực phản biện cho HS. Tuy nhiên, chương trình và sách giáo khoa   hiện hành của môn Ngữ văn vẫn còn nhiều bất cập, dung lượng kiến thức, thời   gian dành cho rèn luyện kĩ năng còn ít. Dù năm học 2020­2021, Bộ  Giáo dục và  Đào tạo đã có công văn 3280 hướng dẫn việc giảm tải một số  nội dung trong  chương trình, giao cho nhà trường, tổ chuyên môn tự chủ về thời lượng dạy học   ở mỗi chủ đề, ở mỗi bài học, nhưng nhìn chung chương trình vẫn còn nặng về  kiến thức, về lí thuyết. Hệ thống văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn THPT đã có   7
  8. nhiều đổi mới so với trước năm 2005, mạnh dạn đưa một số  sáng tác sau năm  1975 vào chương trình. Song về cơ bản, hệ thống văn bản đó thường nằm trong  vùng an toàn, các vấn đề  đặt ra khá đơn giản, xuôi chiều, chủ  yếu là ngợi ca,   thiếu tính tranh luận, phản biện... Hệ  thống câu hỏi hướng dẫn học bài cũng   chủ  yếu là nhận biết, tái hiện kiến thức, rất ít câu hỏi phản đề, kích thích tính  độc lập sáng tạo trong tiếp nhận của mỗi HS. Trong những năm gần đây, đội ngũ GV dạy học bộ  môn Ngữ  văn đã có   nhiều cố gắng trong đổi mới PPDH theo hướng tích cực, chủ động chuyển giao  nhiệm vụ học tập cho HS, giúp HS hình thành, phát triển các năng lực theo yêu  cầu của mục tiêu giáo dục. Có điều, trong quá trình dạy học đó, nhiều GV vẫn  chưa thực sự quan tâm đến việc phát triển năng lực phản biện cho HS. Ngay cả  thiết kế dạy học của số đông GV khi xác định năng lực cần hình thành cho HS ở  mỗi bài học vẫn không đề  cập đến năng lực phản biện. Thậm chí một số  GV   còn không vui vẻ gì khi HS có những ý kiến khác mình, những ý kiến trái chiều.  Nhiều GV vẫn còn áp đặt kiến thức cho HS, truyền đạt kiến thức một chiều,   chưa coi trọng việc hình thành lối nghĩ khác, vượt ra ngoài tư duy thông thường  cho HS. Chúng tôi đã dự  giờ  rất nhiều các đồng nghiệp  ở  nhiều ngôi trường   khác nhau. Với những giờ dạy học đó, chúng tôi nhận thấy: nhiều đồng nghiệp   đã vận dụng công nghệ  vào dạy học, chú trọng cho HS làm việc theo nhóm,   khuyến khích HS trình bày kết quả  học tập nhưng chúng tôi vẫn nhận thấy,  không khí lớp học chưa thực sự cởi mở, những câu hỏi đưa ra cho HS thảo luận   làm việc vẫn chủ yếu là tái hiện kiến thức, là dạng câu hỏi như thế  nào, dạng   câu hỏi vì sao chưa được khai thác; chưa đặt HS vào tình huống có vấn đề  để  kích thích tư duy HS, để HS có cơ hội bày tỏ ý kiến riêng của bản thân... Thực   tế  vẫn có nhiều GV có ý thức giúp HS hình thành và phát triển năng lực phản   biện trong dạy học nhưng chính bản thân họ cũng chưa có đủ kinh nghiệm, kiến  thức và kỹ năng để giải đáp mọi thắc mắc của HS. Ngoài ra, thời lượng lên lớp  hạn chế cũng là một nguyên nhân khiến các GV ngại sử dụng phương pháp dạy  học hướng đến năng lực phản biện cho HS. HS Việt Nam ngay từ  những ngày đầu tiên đến trường, các em đã được  thầy cô chỉ bảo, dặn dò: ở  lớp luôn luôn vâng lời thầy cô, về  nhà nghe lời ông  bà, bố  mẹ... Nhiều phụ  huynh, nhiều thầy cô cũng chỉ  muốn con mình ngoan,   học trò mình ngoan là được. Ngoan trong tư duy của phụ huynh, của thầy cô là   “gọi dạ, bảo vâng”. Ở nhà, con cái có ý kiến, có tranh luận thì bố mẹ bảo là “Cá   không ăn muối cá  ươn­  Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư”, là “Trứng khôn  hơn vịt”. Ở trường các em được giáo dục: “Một chứ cũng là thầy, nửa chữ cũng  là thầy”. Môi trường sống cũng như môi trường giáo dục ấy khiến phần lớn HS   trở  nên thụ  động trong tư  duy, lười biếng trong suy nghĩ, trong tìm kiếm dẫn  chứng hay các căn cứ  xác đáng để  phản biện những điều GV truyền dạy. Các   em dễ  dàng chấp nhận kết quả, chấp nhận bài học mà GV đã hướng dẫn, đã   cung cấp. Trong thực tế đi dạy bao nhiêu năm, chúng tôi nhận thấy HS rất ít khi   chủ  động hỏi GV, chủ  động đưa ra những băn khoăn, thắc mắc, trăn trở... về  8
  9. một vấn đề nào đó của bài học. Ngay cả đối với những HS khá, giỏi mà chúng   tôi tham gia bồi dưỡng để dự thi các kì thi HS giỏi cũng không biết nên hỏi thầy   cô vấn đề gì, cũng không bao giờ đề xuất bọn em cần học cái này, cần đọc kia  mà GV dạy nội dung gì thì các em tiếp nhận nội dung ấy. Vì thế, có thể thấy kĩ  năng phản biện của HS còn nhiều hạn chế. Nhiều em có ý thức bày tỏ  chính   kiến, tranh luận với GV nhưng lại thiếu hệ thống lí lẽ, dẫn chứng thuyết phục   để bảo vệ chính kiến, quan điểm của mình. Như vậy từ thực trạng chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ GV đến HS  đã khiến cho việc dạy học theo hướng phát triển năng lực phản biện cho HS   THPT gặp không ít khó khăn, trở ngại trong quá trình thực hiện. Vì vậy, ở đề tài  này chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với hi vọng trên cơ  sở  đó, HS  sẽ  hình thành và phát triển được năng lực phản biện, để  có thể  mỗi giờ  học   nhất là giờ  học môn Ngữ  văn trở  nên hứng thú hơn, để  HS có thể  có được   không khí học tập như  Đỗ  Nhật Nam đã chia sẻ  về  một giờ  học Văn  ở  Mĩ :  Trong quá trình học, có sự hỗ trợ của giáo viên. Học sinh có thể đặt bất cứ câu   hỏi nào cho giáo viên hoặc hỏi lẫn nhau. Sau mỗi chương sẽ có những giờ trao   đổi chung của cả  lớp. Khi  ấy, cả  lớp biến thành một “diễn đàn” và ai cũng   được quyền nói lên ý kiến của mình về  chương mà mình đọc. Thông thường,   các ý kiến rất khác nhau, người đồng tình, người phản đối và giáo viên sẽ phải   làm nhiệm vụ... lắng nghe. Không có đúng, sai, miễn là bạn phải tìm cách bảo   vệ được quan điểm của mình. 2. Một số giải pháp tổ chức dạy học phát triển năng lực phản biện   trong văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ) 1. Tạo không khí dân chủ trong giờ học Tâm lí lứa tuổi 17, 18 thường rất phức tạp. Các em vừa khao khát khẳng  định mình, mong muốn được bày tỏ  chính kiến, mong muốn được công nhận;  vừa nhạy cảm, tâm hồn dễ bị  tổn thương. Vì thế, để  các em mạnh dạn, tự  tin   thể  hiện những suy nghĩ chân thực, những ý kiến riêng của bản thân trong các  giờ học, GV phải tạo được một không khí dân chủ, phải có những đối thoại sôi   nổi. Có vậy, HS mới tích cực, chủ  động tranh luận, phản biện với bạn bè, với  thầy cô về các nội dung, các vấn đề được đề cập trong bài học. Để có thể tạo được không khí dân chủ, đối thoại tự do cho HS được phát  triển năng lực phản biện trong mỗi giờ  học, trước hết GV phải thay đổi quan  niệm về  vai trò của người thầy. Người thầy không phải là thượng đế, không  phải là chủ  thể  trung tâm của một giờ  học. Người thầy chỉ  là người dẫn dắt,   hướng dẫn, người tổ chức các hoạt động giúp HS tiếp nhận, chiếm lĩnh tri thức.  Người thầy hiện đại tuyệt đối không áp đặt kiến thức, tuyệt đối không cho   rằng mình luôn luôn đúng, lời thầy là chân lí. Người thầy hiện đại phải luôn  biết cách động viên, khích lệ  HS nhìn nhận vấn đề  một cách  ở  nhiều góc độ,  nhiều phương diện; khuyến khích HS phát hiện lại vấn đề; tôn trọng, chấp  9
  10. nhận những cách tiếp cận, lí giải khác nhau, thậm chí đi ngược với ý kiến của  thầy giáo. Người thầy còn phải chủ  động rút ngắn khoảng cách thầy ­ trò để  quan  hệ thầy ­ trò trở nên thân thiện hơn bao giờ hết. Trong một môi trường học tập   như  thế, HS hoàn toàn có đầy đủ  tự  tin để  đưa ra những phản biện để  tranh   luận với bạn bè, thầy cô về  một nội dung nào đó. Và các em sẽ  coi đó như  là  những hoạt động học tập tích cực, sáng tạo. Trong thực tế  dạy học, bản thân chúng tôi luôn chú ý tạo không khí học  tập, kích thích tính tò mò, khả  năng khám phá của học sinh. Nhất là trong các   tiết đọc hiểu văn bản văn học. Mỗi một tác phẩm văn học thường  ẩn chứa   nhiều ý nghĩa, nhiều tầng bậc, nhiều thông điệp, tư  tưởng của nhà văn thường  được  ẩn đi sau hệ  thống ngôn từ  giàu tính biểu tượng,  ẩn dụ... nên việc tiếp   nhận chưa bao giờ  là đơn giản, đồng thuận, xuôi chiều. Vì thế, để  hướng HS   vào cuộc đối thoại, tranh luận, chúng tôi luôn đặt ra cho HS những câu hỏi tạo  điều kiện cho các em được nói lên tiếng nói riêng của bản thân như là: Nhân vật  nói như vậy, em có đồng ý với ý kiến của nhân vật không? Lí giải hoặc Về vấn  đề này, bạn đã có ý kiến như vậy, còn ý kiến của em thì thế nào? Hay Em nào  có những phát hiện khác về  vấn đề  này?... Dạy  Hồn Trương Ba, da hàng thịt   của Lưu Quang Vũ trong chương trình Ngữ  văn 12, chúng tôi thường đặt câu   hỏi: Trong cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt, Trương Ba   đã nói: Không! ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng   thắn... Vậy em có đồng tình khi Trương Ba nói vậy về  phần hồn trong khi thể   xác đã có sự thay đổi không? Lí giải?, hay ở một tình huống khác, khi Đế Thích  nói với Trương Ba rằng: Thế ông ngỡ tất cả mọi ngươi đều được là mình toàn   vẹn cả ư ? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều   tôi nghĩ bên trong. Mà cả  Ngọc Hoàng nựa, lắm khi chính người cũng phải   khuôn ép mình cho xứng đáng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều   thế cả, nữa là ông, chúng tôi đưa ra câu hỏi: em có đồng ý với ý kiến của đó của   Đế Thích không? Vì sao? Với những câu hỏi đó, chúng tôi cho HS tự do bày tỏ ý kiến, sau đó chúng   tôi tiến hành phân loại những ý kiến của các em, chú ý tập hợp thành những  luồng ý kiến đối lập nhau. Trên cơ  sở  đó, chúng tôi tổ  chức cho HS một diễn   đàn để  HS được bảo vệ, tranh luận, phản biện ý kiến của mình. Cách tổ  chức   diễn đàn đó được chúng tôi trình bày ở mục sau. Khi HS tham gia ý kiến, tham gia phản biện, chúng tôi luôn trân trọng lắng  nghe, để các em trình bày trọn vẹn ý kiến của mình, tuyệt đối không phủ nhận ý   kiến của các em, không đánh giá kiểu: em nhìn nhận vấn đề  như  vậy là sai, là   lệch lạc... Khi HS có nhiều ý kiến trái chiều, chúng tôi khéo léo gợi mở, định   hướng để các em có cái nhìn so sánh, giúp các em đưa ra lí lẽ và dẫn chứng cần  thiết để bảo vệ ý kiến của mình. 10
  11. Với cách tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở  như  vậy, chúng tôi nhận  thấy HS trở  nên hứng thú hơn với văn bản, không khí giờ  học trở  nên sôi nổi,  HS nhập cuộc tích cực, chủ động. Trên tinh thần đó, năng lực phản biện được  phát huy tối đa. 2. Tạo tình huống phản biện Nhiều học sinh có tư  duy phản biện, có kỹ  năng phản biện tốt cùng với  kiến thức chuyên sâu rất tốt nhưng do hoàn cảnh, tính cách nhút nhát … mà HS  không dám hay e ngại phản biện. Lúc này vai trò của người  GV sẽ là người biết  cách phát hiện và tạo ra tình huống có vấn đề  để  làm sao các em mạnh dạn,  phấn khích hơn, tự tin nhập cuộc. Tình huống có vấn đề là một khái niệm của lí   luận dạy học hiện đại. Tình huống có vấn đề  sẽ  buộc HS phải hình thành tư  duy. Vì thế việc sử  dụng các tình huống có vấn đề  trong dạy học đã trở  thành  PPDH mới: phương pháp nêu vấn đề. Dạy học nêu vấn đề  (hay còn được gọi là dạy học giải quyết vấn đề)   được đánh giá là một kiểu dạy học hiện đại, tích cực, có khả  năng khơi gợi  hứng thú và sự sáng tạo của người học. Hình thức dạy học này có vai trò rất lớn   trong việc góp phần hình thành và phát triển năng lực người học, trong đó có cả  năng lực phản biện. Cụ  thể, vai trò của phương pháp dạy học này thể  hiện  ở  các phương diện như: phát huy tính tích cực, tự  giác, độc lập, sáng tạo của   người học; rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy logic; rèn cho học sinh năng   lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực tự nghiên cứu khoa học. Có ba đặc điểm quan trọng của hình thức dạy học này là: chứa đựng tình   huống có vấn đề  liên quan đến nội dung học tập; quá trình thực hiện dạy học  giải quyết vấn đề  được chia thành những giai đoạn, những bước có tính mục  đích chuyên biệt; gồm nhiều hình thức tổ  chức đa dạng, lôi cuốn người học   tham gia một cách tích cực, chủ  động, sáng tạo dưới sự  dẫn dắt, gợi mở  của   giáo viên. Hạt nhân của dạy học nêu vấn đề  là hệ  thống các tình huống có vấn đề.  Tình huống có vấn đề đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu sau: luôn phải chứa   đựng những gì chưa biết, bao hàm một hoặc những cái đã biết, có tính mới lạ.   Thông qua việc giải quyết các vấn đề mà học sinh thu nhận được kiến thức, kĩ  năng, lĩnh hội được tri thức, phương pháp giải quyết mới. Có thể  nói, bản thân   các vấn đề được nêu ra qua hình thức dạy học này đích thực là nguồn kích thích  tư  duy, khơi gợi hứng thú, tìm tòi, phát kiến của cả  giáo viên và học sinh. Do  vậy, có thể  xem đây là một hình thức dạy học phù hợp để  qua đó hình thành   năng lực phản biện cho học sinh. Khi dạy văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ trong  chương trình môn Ngữ  văn 12, chúng tôi luôn chú ý đặt HS vào những tình  huống có vấn đề để buộc HS phải tư duy, phải “động não”, phải nhìn nhận vấn   đề  ở  nhiều góc độ ngay từ phần tiểu dẫn. Cụ thể, trong phần tiểu dẫn có nội   11
  12. dung khái quát về vở kịch, SGK chỉ nêu một số tri thức như: năm Lưu Quang Vũ   sáng tác, nguồn gốc vở kịch, giá trị  vở  kịch và tóm tắt cốt truyện. Vì thế, trong  thực tế  dạy học, rất nhiều GV chỉ dừng lại  ở việc cung cấp cho HS những tri   thức đã nêu trong SGK khiến HS hoàn toàn thụ động trong tiếp nhận kiến thức.   Do đó, để tạo tâm thế nhập cuộc, giúp HS tò mò, hứng thú khám phá tác phẩm  ngay những phút đầu tiên của tiết họ, chúng tôi đã đặt HS vào tình huống có   chứa mâu thuẫn khiến HS khao khát “giải mã”, đó là chúng tôi tiến hành cho HS  so sánh cốt truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt trong văn học dân gian và cốt  truyện của vở kịch Lưu Quang Vũ, sau đó yêu cầu HS phát hiện điểm khác biệt   và lí giải sự khác biệt đó. HS phát hiện ra trong vở kịch của dân gian thì Trương   Ba chết theo lẽ tự nhiên, nhưng vì Đế  Thích tiếc cái kì tài đánh cờ  của ông mà   cho ông sống lại trong thân xác và mọi người vẫn chấp nhận xem đó là Trương  Ba, nên Trương Ba trong xác anh hàng thịt, vẫn  ở  lại và sống yên  ổn cùng gia  đình của mình, còn vợ anh hàng thịt thì buộc phải chấp nhận điều đó. Còn trong   vở kịch Lưu Quang Vũ thì mọi chuyện lại không đơn giản như vậy: Trương Ba   chết vì sự  tác trách của Nam Tào, Bắc Đẩu; hồn Trương Ba sau khi nhập vào   xác anh hàng thịt thì mỗi ngày một thay đổi, những người yêu thương ông dần   dần xa lánh ông khiến ông đau khổ, dằn vặt bản thân. Cuối cùng, hồn Trương  Ba đi đến quyết định: trả  lại xác cho anh hàng thịt, cầu xin cho cu Tỵ  được  sống, bản thân mình chấp nhận cái chết. HS cũng lí giải được sự khác biệt trong  cách giải quyết sau khi hồn Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt suy   cho cùng chính là sự  thay đổi trong tư  tưởng, trong quan niệm về mối quan hệ  giữa linh hồn và thế  xác. Cách kết thúc vở  kịch của Lưu Quang Vũ gợi lên rất  nhiều vấn đề phải suy nghĩ, phải giải quyết trong cuộc sống. Rõ ràng khi chúng tôi đặt ra tình huống đó, HS phải đọc kĩ, phải tìm tòi,  phát hiện điểm khác biệt và lí giải. Khi HS tiến hành lí giải là đồng thời HS   phải vận dụng lí lẽ, sự  hiểu biết của mình về  tác phẩm để  đưa ra ý kiến của  minh, quá trình đó đã giúp HS từng bước chạm đến tư  tưởng sáng tác của tác   giả, từng bước phát triển năng lực phản biện. Hoặc sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba   và xác anh hàng thịt, thay vì đặt câu hỏi:  nêu ý nghĩa của đoạn đối thoại  thì  chúng tôi nêu tình huống: trong vai nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, anh (chị) hãy   phát biểu với người đọc ý tứ  sâu xa mà tác giả  muốn gửi gắm qua màn đối   thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt? Với tình huống giả định này, HS đã  được bày bỏ  những điều tự  bản thân suy ngẫm, tự  bản thân rút ra có thể  sẽ  khác với suy nghĩ, của HS khác thậm chí là định hướng của chính GV. Hay với phần kết thúc của vở  kịch nếu GV nêu câu hỏi: trước tình cảnh   phần hồn, của bản thân bị phần xác anh hàng thịt lấn át, trước nỗi đau khổ của   những người trong gia đình và của cả bản thân mình, Trương Ba đã quyết định   như thế nào? Qua quyết định đó, em có nhận xét gì về nhân vật Trương Ba? Với  những câu hỏi như thế HS sẽ dễ dàng trả lời, dễ dàng tìm được đáp án trong sự  12
  13. đồng thuận của những HS khác trong lớp. Với những câu hỏi đó, GV không kích   hoạt được tinh thần khao khát sự khám phá, sự tìm tòi của HS. Nhưng khi chúng  tôi nêu lên vấn đề: giả  sử  em là Trương Ba thì em sẽ  có sự  lựa chọn như  thế   nào cho mình? Lí giải về sự lựa chọn đó thì HS rất hào hứng bày tỏ sự lựa chọn   của bản thân. Mỗi em có một sự  lựa chọn khác nhau, em nào cũng muốn GV  lắng nghe sự lựa chọn của mình. Các em đặt mình vào nhân vật Trương Ba, suy   tư, trăn trở  về  mỗi tình huống lựa chọn, cũng là một cách các em đối diện với  những vấn đề  của cuộc sống để  buộc các em phải có sự  lựa chọn đúng đắn  nhất. Với tình huống giả  định đó, HS buộc phải hóa thân vào nhân vật nên sẽ  hiểu sâu hơn về  nhân vật, từ  đó tiếp cận thấu đáo hơn vào thế  giới tác phẩm  văn học có thể  lắng nghe được tiếng nói bên trong của nhà văn, những thông  điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Với tình huống giả định đó, GV đã tạo cho HS   một cơ hội được tranh luận với HS khác về cách mà mình lựa chọn, nhờ vậy mà  năng lực phản biện của HS cũng được tôi luyện, được phát triển. Dạy học “nêu vấn đề” là một phương pháp dạy học hiệu quả  để  qua đó  vừa hình thành kiến thức cho học sinh, vừa có thể  rèn luyện và phát huy năng   lực phản biện cho người học. Tuy nhiên, để đem lại hiệu quả tối ưu ở phương  pháp này giáo viên phải có sự đầu tư nhất định để tìm ra các tình huống có vấn   đề, hướng dẫn học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề. 3. Tổ chức tranh luận, phản biện Đây là khâu quan trọng nhất của giờ  học theo hướng phát triển năng lực  phản biện. Lúc này HS sẽ trình bày quan điểm của mình trước tập thể và quan  trọng hơn là các em trực tiếp đối thoại với các bạn khác để bảo vệ quan điểm   của mình. HS sẽ đưa ra hàng loạt những lí lẽ, dẫn chứng và sắp xếp chúng theo   một trật tự  hợp lí để  thuyết phục những người khác tán đồng quan điểm với  mình. Cũng trong hoạt động này, HS có thể sẽ phải trả lời những câu hỏi do các   bạn khác đặt ra. Điều này đòi hỏi các em phải có một thói quen tư  duy biện   chứng rõ ràng, khả năng ứng biến mau lẹ trước các tình huống phát sinh, và tất   nhiên là phải hiểu về tác phẩm văn học một cách tường tận. Hơn thế học sinh   còn cần phải biết cách quan sát, đánh giá thái độ  của những người nghe xung  quanh mình để điều chỉnh ngữ  điệu, thái độ, lời văn... cho phù hợp. Thiết nghĩ   con đường này sẽ  cho HS nhiều bài học để  trưởng thành hơn cả  về  trong tri   thức lẫn cuộc sống. Khi dạy Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, trước câu hỏi:  trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, trước lí lẽ  của anh ta, Hồn Trương   Ba đã khẳng định: “Không! ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong   sạch, thẳng thắn...”,  em có đồng tình với ý kiến đó của nhân vật Trương Ba?  HS đã tích cực bày tỏ quan niệm của mình. Tuy nhiên, tổng hợp các ý kiến của  HS, chúng tôi nhận thấy về cơ bản có 3 luồng ý kiến khác nhau: 1. Đồng tình; 2.  Không đồng tình; 3. Vừa đồng tình, vừa phản đối. Vì thế, chúng tôi tiến hành tổ  chức cho HS tranh luận, phản biện.   Tổ  chức tranh luận phản biện sẽ  diễn ra   13
  14. theo   các   bước:   Bước 1: Tổ  chức cho các em làm việc theo từng nhóm. Nhóm này bao gồm  những em có cùng quan điểm. GV tuyệt đối không lựa chọn mà để  các em tự  quyết định mình sẽ thuộc nhóm nào. Bước 2: Tổ chức cho các em thảo luận, làm việc cùng nhau để tìm ra các  ý phản biện và sắp xếp chúng theo một trật tự lôgic. Ở bước này các em không  chỉ học tập kiến thức, ghi nhớ bài học mà còn học tập được phương pháp làm   việc theo nhóm sao cho hiệu quả nhất. Tất nhiên, GV sẽ phải quan sát tổng thể  quá trình làm việc của từng em, nếu không sẽ  xảy ra tình trạng chỉ  có một vài  học sinh khá trong nhóm làm việc, số còn lại thì “ngồi chơi xơi nước”. Bước 3: Các nhóm cử đại diện trình bày vấn đề mà mình đã chọn. Sau khi  trình bày, các bạn trong nhóm khác có thể nêu câu hỏi yêu cầu được giải đáp. Bước 4: Giáo viên và học sinh cùng chốt lại vấn đề trọng tâm. Trong quá trình tổ  chức học sinh phản biện, GV phải làm tốt vai trò là  người tham dự ­ chia sẻ hoặc có khi phải làm trọng tài nếu cuộc “khẩu chiến”   vượt ra khỏi khuôn khổ  quy định. Trên thực tế  đây là lúc GV thu nhận được  nhiều thông tin phản hồi nhất. GV vừa có thể  nắm bắt được mức độ  hiểu bài   của học sinh để  xem xét các biểu hiện lệch lạc nhằm kịp thời uốn nắn, vừa   quan sát được thái độ, hứng thú học tập của các em. Việc tổ chức tranh luận này không nhất thiết là hình thức tranh luận theo  nhóm. Có thể sử dụng cách tranh luận giữa các cá nhân học sinh với nhau, hoặc   tranh luận giữa GV và HS. Chẳng hạn trong quá trình học tập, lĩnh hội tri thức   của bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt khi hướng dẫn HS cảm nhận được giá  trị  của việc hồn Trương Ba chọn cái chết, GV đưa ra một ý kiến khác: Ngay   bản thân cô vẫn luôn quan niệm chết là hết, cát bụi lại trở về cát bụi nhưng ở  phần kết thúc của vở kịch, tác giả để Hồn Trương Ba hiện về, chập chờn giữa   màu xanh cây lá và nói với vợ: Tôi đây bà  ạ. Tôi vẫn  ở  liền ngay bên bà đây,   ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái   cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy cỏ…, Vậy em có suy nghĩ như thế nào về vấn  đề  đó? Bản thân em quan niệm như  thế  nào về  cái chết?  Trong tình huống đó  HS sẽ tranh luận cùng với chính GV của mình, điều đó khiến HS thích thú, kích  thích được tư  duy độc lập, tự  chủ  của HS, khơi dậy niềm khao khát được  khẳng định mình, được chính GV công nhận. Việc đó, GV lôi kéo được HS phát   hiện vấn đề. Khi HS phản biện đúng, có sức thuyết phục thì công nhận, bổ  sung vào bài học, coi đó như  là công lao, phát hiện mới mẻ, sáng tạo của học   sinh. Trong quá trình tổ  chức phản biện sẽ  có nhiều tình huống nảy sinh, vì  vậy trong quá trình thiết kế bài dạy, GV nên có sự  dự  kiến tình huống và cách   xử lí, tránh để rơi vào tình trạng bị động. GV cũng cần phải có kiến thức vững  vàng để lí giải những khúc mắc cho HS một cách thấu đáo. Nhất là phải có quan   14
  15. điểm rõ ràng: đồng tình hay phản đối, đúng hay sai...Sau mỗi lần phản biện nên   chốt lại ý trọng tâm để học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến thức. 4. Đổi mới kiểm tra ­  đánh giá theo hướng phát triển năng lực   phản biện Trong dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy học văn bản Hồn Trương   Ba, da hàng thịt nói riêng, kiểm tra đánh giá là khâu quan trọng, chủ yếu để xác   định năng lực nhận thức của người học, từ đó có cơ  sở để  điều chỉnh quá trình   dạy và học; là động lực để  đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao  chất lượng học sinh trong nhà trường. Với mục đích thông qua dạy học văn bản  Hồn Trương Ba, da hàng thịt GV hướng đến phát triển năng lực phản biện cho  học sinh, khâu kiểm tra đánh giá lại càng phải được chú trọng. Nói như  vậy là   bởi lẽ, thông qua việc ra đề kiểm tra, giáo viên có cơ hội tạo điều kiện cho học   sinh thể  hiện năng lực phản biện của mình. Hay nói cách khác, nếu như  trong  các giờ học các em đã được trang bị năng lực phản biện thì đến bài kiểm tra làm   văn, năng lực đó của các em được hiện thực hóa một cách trọn vẹn trong thực tế  dưới hình thức một bài làm văn hoàn chỉnh. Hiện nay, mặc dù Bộ  GD và ĐT đã có những hướng dẫn đổi mới trong   khâu kiểm tra, đánh giá nhưng việc ra đề  nhất là đề  thi trong các kì thi như  thi   HS giỏi ở các tỉnh hoặc đề thì THPT quốc gia, đề thi vẫn chưa thực sự đổi mới.  Cơ  bản vẫn là đề  đóng khung trong tư  duy đồng thuận, xuôi chiều kiểu phân   tích một đoạn trích để  làm rõ một vấn đề  nào đó của tác phẩm, hay cho một   nhận định, một ý kiến bàn về văn học, yêu cầu HS làm rõ nhận định đó, ý kiến   đó qua một tác phẩm nào đó... Với những dạng đề như vậy, HS mặc nhiên công  nhận tính đúng đắn của vấn đề, nhiệm vụ  của HS là thông qua việc phân tích  dẫn chứng văn học để khẳng định lại vấn đề mà thôi. Cách ra đề như  vậy gần  như đã triết tiêu tư duy phản biện của HS, HS bị đóng khung trong định hướng   của đề. Để có thể  khuyến khích học sinh tham gia phản biện và biến đó thành  một thói quen trong tư duy cũng như trong đời sống của các em, GV phải mạnh  dạn thay đổi, mạnh dạn ra đề theo hướng mở, chấp nhận nhiều kiến giải khác  nhau. Có như vậy mới tạo cơ hội cho học sinh tham gia đối thoại, tham gia thể  hiện quan điểm riêng của mình. Từ  đó, các em hình thành nhu cầu và động cơ  phản biện. Theo chúng tôi, khi xây dựng một đề làm văn hướng đến hình thành năng   lực phản biện cho học sinh phải tuân thủ những yêu cầu sau: Về  nội dung: Đề  văn cần gắn với thực tế  xã hội, mang tính thời sự  sâu  sắc, tạo ra những tình huống giao tiếp về vấn đề xã hội lôi cuốn, hấp dẫn. Đặc  biệt, để tạo ra nhu cầu tranh luận, phản biện, đề văn nên chọn những vấn đề có  nhiều hướng giải quyết khác nhau để  khuyến khích học sinh thể  hiện quan   điểm riêng của các em. Về hình thức: Cấu trúc đề linh hoạt, lời văn của đề bài chuẩn mực, trong  15
  16. sáng, giản dị, dễ hiểu. Sau khi dạy học xong văn bản  Hồn Trương Ba, da hàng thịt  của Lưu  Quang Vũ, chúng tôi đã ra một số  đề  và yêu cầu HS viết bài để  kiểm tra việc   tiếp nhận kiến thức và việc vận dụng kiến thức bài học giải quyết yêu cầu của  đề. Cụ thể, đề ra như sau: Đề  1: Nếu anh/ chị  là Trương Ba trong đoạn trích  Hồn Trương Ba, da   hàng thịt của Lưu Quang Vũ thì anh/ chị sẽ lựa chọn như thế nào? Viết bài văn nghị  luận trình bày những suy nghĩ của anh/ chị  về  sự  lựa   chọn đó. Đề  2: Suy nghĩ của anh/ chị  về  triết lý nhân sinh mà Lưu Quang Vũ gửi   gắm qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt trong trích  đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Với dạng đề đó, HS có cơ hội để được phát huy tinh thần phản biện cũng  như  năng lực phản biện của chính mình. Các em tự  do bày tỏ  quan niệm, cách  nhìn của mình về  vấn đề  nghị  luận. Đúng­ sai, đồng tình hay phản đối không  quan trọng, quan trọng là các em được nói lên tiếng nói của chính mình, sự cảm   nhận riêng của chính mình, quan trọng là các em đưa ra được lí lẽ, dẫn chứng  xác đáng, cách giải quyết vấn đề  khoa học, lô gic để  bảo vệ  được quan điểm   của mình. Kết quả có nhiều bài đã thể  hiện được suy nghĩ riêng của bản thân,  có sự nhìn nhận vấn đề thấu đáo, biết đặt vấn đề trong các tình huống để  giải  quyết. Một số bài viết, chúng tôi in ở phần phụ lục để đồng nghiệp có thể tham  khảo. Tất nhiên đổi mới hướng ra đề theo hướng phát triển năng lực phản biện  cần   phải đi liền với đổi mới ở cách đánh giá, cách xây dựng đáp án, biểu điểm  và cách chấm bài. Ở đây cũng vậy, đề văn được xây dựng theo định hướng hình  thành năng lực phản biện cho người học nên đòi hỏi khâu xây dựng đáp án, biểu  điểm cũng cần có sự thay đổi sao cho phù hợp. Trước hết, vì đề  bài văn hướng đến việc tạo cho học sinh cơ hội để  các   em có thể thể hiện kĩ năng lập luận, kĩ năng trình bày vấn đề cũng như thể hiện   quan điểm riêng của mình nên đáp án cũng cần được xây dựng theo hướng mở.  Người ra đề  không nhất thiết phải xây dựng đáp án quá tỉ  mỉ, chi tiết, cũng  không nên quá sơ  sài. Đáp án cần nêu ra định hướng yêu cầu về  kiến thức, kĩ  năng cần có ở bài viết nhưng cũng cần có những khoảng mở để học sinh tự do  thể hiện quan điểm của mình. Cụ thể, trong đáp án, có một số yêu cầu cơ bản về nội dung học sinh cần  đạt được đó là: các em xác định chính xác vấn đề  cần trình bày, nêu được một   cách rõ ràng quan điểm của mình về vấn đề đó cũng như sử dụng một cách hợp   lí các lí lẽ và dẫn chứng từ nhiều nguồn khác nhau để làm căn cứ cho quan điểm   của mình. Giáo viên khi xây dựng đáp án có thể dự đoán một số phương hướng   mở trong bài làm của học sinh. Còn về hình thức trình bày, các em cần thể hiện  16
  17. vốn ngôn ngữ  phong phú, trong sáng, mạch lạc, chặt chẽ  trong bài viết của   mình. Trong quá trình đánh giá bài làm văn của HS, GV không chỉ cần chú trọng   việc cho điểm sao cho chính xác mà còn phải quan tâm đến việc ghi lời phê như  thế nào cho phù hợp. Nói như vậy là bởi, nếu điểm số là cái cụ thể hóa sự đánh  giá kết quả bài làm của HS thì lời phê lại mang ý nghĩa khuyến khích, uốn nắn   việc rèn luyện của các em. Ngoài những yêu cầu chung đối với một lời phê,  trong khi chấm bài, nhằm hướng đến khuyến khích học sinh thể  hiện sự phản   biện của mình, GV nên có sự  khen ngợi riêng dành cho những học sinh có lập   luận phản biện tốt trong khi làm bài. Dù GV luôn tôn trọng sự khác biệt của mỗi  HS, tôn trọng sự lựa chọn của các em, nhưng GV vẫn phải định hướng, dẫn dắt   các em biết cách lựa chọn để  cuộc sống tốt đẹp hơn, những giá trị  chân, thiện   mỹ vẫn luôn là kim chỉ nam cho hành động, suy nghĩ của mỗi người. 3. Thực nghiệm sư phạm 1. Mục đích của thực nghiệm sư phạm Qua thực nghiệm để kiểm tra hiệu quả và khả năng thực thi của việc dạy   học “Phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT thông qua dạy học văn  bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ)” trong chương trình Ngữ văn  12, tập 2. 2. Nội dung của thực nghiệm sư phạm Thực nghiệm dạy học phát triển năng lực phản biện cho học sinh THPT   qua   văn bản  Hồn Trương Ba, da hàng thịt  ( Lưu Quang Vũ), tại một số  lớp  trong trường THPT Đô Lương 2 và trường THPT Lê Hồng Phong Hưng Nguyên. 3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm Trước hết chúng tôi tiến hành chọn mẫu thực nghiệm: ở trường THPT Đô   Lương 2, huyện Đô Lương, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 3 lớp để thực nghiệm đề  tài 12A1, 12B3, 12B8 và lớp đối chứng 12A2; 12B4; còn  ở  trường THPT Lê  Hồng Phong, Hưng Nguyên chúng tôi cũng chọn ngẫu nhiên lớp 12A2, 12A5 để  thực nghiệm đề tài và lớp đối chứng là 12A6, 12A7. 4. Giáo án thực nghiệm HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Trích) Lưu Quang Vũ I. Mức độ cần đạt 1. Kiến thức a. Nhận biết 17
  18. ̣ HS nhân biêt, nh ́ ớ được tên tac gia va hoan canh ra đ ́ ̉ ̀ ̀ ̉ ời cua cac ̉ ́ ̉ ,  ́  tac phâm cốt truyện, hệ thống nhân vật, mối quan hệ giữa các nhân vật… b. Thông hiểu ̉ ̀ ́ ̉ ược hoan canh sang tac co tac đông va chi phôi nh HS hiêu va li giai đ ̀ ̉ ́ ́ ́ ́ ̣ ̀ ́ ư thế  ̀ ơi nôi dung t nao t ́ ̣ ư tưởng cua tac phâm. ̉ ́ ̉ c. Vận dụng thấp Viết đoạn văn phân tích nghĩa hàm ý của một số  lời thoại hay trong vở  kịch. d. Vận dụng cao ̣ ̣ ̉ ̉ ̀ ̉ Vân dung hiêu biêt vê tac gia, hoan canh ra đ ́ ̀ ́ ơi cua tac phâm đê  ̀ ̉ ́ ̉ ̉ lĩnh hội giá  ̣ ̣ ̣ ̣ ̉ ở kịch. tri nôi dung, nghê thuât cua v 2. Kĩ năng ­ Đọc hiểu văn bản kịch theo đặc trưng thể loại. ­ Kĩ năng vận dụng những tri thức của bài học để  làm bài nghị  luận văn   học về văn bản, để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. 3. Thái độ ­ Hình thành thói quen: đọc hiểu văn bản kịch hiện đại. ­ Biết tránh xa lối sống dung tục, sống theo bản năng, chiều theo ý muốn  của thể xác. ­ Biết giữ gìn nhân cách, có tình yêu thương mọi người. ­ Biết trân quý sự sống. 4. Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển ­ Năng lực thu thập thông tin liên quan đến kịch hiện đại của Lưu Quang  Vũ. ­ Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm kịch hiện đại Việt Nam. ­ Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kịch văn học. ­ Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về  giá trị  tư  tưởng và nghệ  thuật của đoạn trích vở kịch. ­ Năng lực phân tích, so sánh quan niệm sống của 2 nhân vật Hồn Trương  Ba và Đế Thích trong đoạn trích vở kịch. ­ Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học. ­ Năng lực phản biện. ­ Năng lực chuyên biệt: đọc kịch, sân khấu hoá. II. Trọng tâm kiến thức 18
  19. ­ Hiểu được bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh : phải sống   nhờ, sống vay mượn , sống tạm bợ  và trái với tự  nhiên khiến tâm hồn nhân  hậu ,thanh cao bị  nhiễm độc và tha hóa bởi sự  lấn át của thể  xác thô lỗ, phàm  tục. ­ Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc   đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực   cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách. ­ Thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc trên nhiều phương diện : sự  hấp dẫn của kịch bản văn học và nghệ  thuật sân khấu; sự  kết hợp giữa tính   hiện đại với các giá trị  truyền thống; sự  phê phán mạnh mẽ  quyết liệt và chất   trữ tình đằm thắm, bay bổng. III. Chuẩn bị 1. Giáo viên ­ Kế hoạch bài dạy. ́ ̀ ̣ ̉ ơi câu hoi ­ Phiêu bai tâp, tra l ̀ ̉ ­  Tranh  ảnh về  nhà văn, hình  ảnh, trích đoạn vở  kịch do Nhà hát kịch  Trung ương dàn dựng; ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ­ Bang phân công nhiêm vu cho hoc sinh hoat đông trên lơṕ ̉ ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ­ Bang giao nhiêm vu hoc tâp cho hoc sinh ở nhà 2. Học sinh ̣ ươc ng ­ Đoc tr ́ ữ liệu trong SGK đê tra l ̉ ̉ ơi câu hoi tim hiêu bai ̀ ̉ ̀ ̉ ̀ ́ ̉ ̉ ­ Cac san phâm thực hiên nhiêm vu hoc tâp  ̣ ̣ ̣ ̣ ̣ ở nha (do giao viên giao t ̀ ́ ừ tiêt́  trươc) ́ ̣ ̣ ­ Đô dung hoc tâp ̀ ̀ IV. Tổ chức dạy và học 1. Ổn định tổ chức lớp 2. Kiểm tra bài cũ Kết hợp với hoạt động khởi động 3. Tổ chức dạy và học bài mới 3. 1. Khởi động Kiến thức kĩ năng cần  Hoạt động của GV và HS đạt, năng lực cần phát  triển GV cho HS xem một đoạn video khoảng 3 phút công  ­ Nhận thức được  chiếu trích đoạn vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu  nhiệm vụ cần giải  19
  20. Kiến thức kĩ năng cần  Hoạt động của GV và HS đạt, năng lực cần phát  triển Quang Vũ, phần HS đã được học ở trong chương  quyết của bài học. trình môn Ngữ văn lớp 9 Sau đó GV yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ: ­ Tập trung cao và hợp  ­ Trích đoạn trên được thuộc vở kịch nào? Của tác  tác tốt để giải quyết  giả nào? nhiệm vụ. ­ Giới thiệu khái quát về vở kịch và tác giả ­ HS thực hiện nhiệm vụ ­ HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ ­ Có thái độ tích cực,  + Vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ hứng thú. + Vở kịch phản ánh mâu thuẫn giữa một bên là  những con người với tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, trì  trệ, vị kỉ với những người tiến bộ, khao khát đổi  mới, khao khát cải cách lề lối làm việc, khao khát  đưa ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất để  tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vở  kịch đã góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, hướng  tới những giá trị sống đích thực. + Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch nổi tiếng trong văn  học Việt Nam hiện đại. Những vở kịch của ông  thường hướng đến những vấn đề xã hội, có ý nghĩa  tư tưởng, triết lí nhân sinh sâu sắc, hướng con người  đến những lí tưởng sống cao đẹp, vượt lên cái tầm  thường, vị kỉ ... ­ Rèn luyện kĩ năng  thuyết trình dẫn dắt  Trên cơ sở đó, GV yêu cầu HS thực hiện nhiệm vụ  trước tập thể, góp phần  dẫn vào bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhiệm  rèn luyện năng lực phản  vụ này GV đã yêu cầu HS chuẩn bị ở nhà biện 3.2. Hình thành kiến thức Hoạt động của GV ­ HS Kiến thức cần đạt Năng lực  cần hình  thành Họat động 1: TÌM HIỂU PHẦN TIỂU DẪN 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0