1
PHẦN I – ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình dạy - học một hoạt động phức tạp, trong đó chất lượng, hiệu
quả bản phụ thuộc vào chủ thể nhận thức - người học. Điều này lại phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, như: năng lực nhận thức, động học tập, sự quyết tâm... (các
yếu tố chủ quan); còn phụ thuộc vào: môi trường học tập, người tổ chức quá
trình dạy học, sự hứng thú trong học tập. Sự hứng thú học tập của học sinh
một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng dạy học. Nhìn chung
người họchứng thú học tập hay không là do mối quan hệ tương tác của người
dạy đối với người học.
Trong trường học hiện nay đa số các em học sinh ít quan tâm đến môn
Địavì các em nghĩ đây là môn học phụ, thuộc lĩnh vực khoa học hội nhưng
lại môn khó thăng tiến trong hội; nếu như quan tâm đến thì phần lớn
liên quan đến vấn đề thi cử vì môn học thuộc lòng nên dẫn đến học sinh ngại
học. Điều đó làm cho học sinh không hứng thú trong học tập, ngại trau dồi
kiến thức về địa lí. Việc học đối phó, miễn ỡng học sinh chỉ tiếp thu được
lượng kiến thức rất ít, không bản chất, thế dễ quên. Kết quả điểm kiểm tra
thấp, hiệu quả học tập chưa cao.
Khi hứng thú say trong học tập thì việc lĩnh hội tri thức trở nên dễ
dàng hơn; ngược lại khi nắm bắt vấn đề nghĩa hiểu được bài thì người học lại
có thêm hứng thú. Có nhiều cách để tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ
học địa lí, riêng đối với bản thân tôi đã áp dụng nhiều cách để tạo hứng thú học
tập cho học sinh nhưng trong điều kiện sở vật chất phục vụ dạy học còn hạn
chế thì một trong những biện pháp để tạo hứng thú học tập cho học sinh đó là:
sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca có liên quan đến nội dung bài học để giảng dạy.
Việc sử dụng những câu ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát lồng ghép trong
nội dung bài giảng bước đầu đã những biểu hiện tích cực trong thái độ học
tập của học sinh, tạo niềm thích thú, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả dạy
học địa trường THPT. Chính do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: Sử
dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát trong giảng dạy Địa Tự nhiên
trường trung học phổ thông. để ghi lại ý tưởngbản thân đã thực hiện trong
quá trình giảng dạy Địa trường THPT từ nhiều năm học nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cách sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát trong dạy học
Địa Tự nhiên bậc Trung học Phổ thông, ý nghĩa địa của thơ ca dao, tục
2
ngữ, thơ ca, câu hát có đề cập trong đề tài nhằm:
- Giúp giáo viên nhận thấy việc sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát
trong dạy học Địa lí là hợp lí có hiệu quả.
- Giúp học sinh khả năng lĩnh hội kiến thức thông qua ca dao, tục ngữ,
thơ ca, câu hát do giáo viên cung cấpgợi mở.
- Tạo hứng thú tính tích cực học tập nhằm nâng cao hiệu quả học tập
của học sinh đối với môn Địa lí.
- Rèn luyện năng tiếp cận, phát hiện, giải quyết vấn đề thực tiễn, duy
sáng tạo, tự học cho học sinh.
- Xây dng các d c th s dng thơ ca dao, tc ng, thơ ca, câu hát
vào tng phn, tng bài trong phn Địa lí T nhiên bc Trung hc Ph thông.
- Giúp giáo viên học sinh trau dồi thêm vốn ca dao, tục ngữ, thơ ca,
câu hát Việt Nam.
- Khắc phục những hạn chế về sở vật chất trong các trường phổ thông
vùng sâu, vùng xa trong việc đáp ừng với yêu cầu áp dụng phương pháp dạy
học hiện đại.
3. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình ĐịaTự nhiên bậc THPT
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu về việc ứng dụng, sử dụng một số câu ca
dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát trong dạy học những phần nội dung liên quan
trong chương trình Địa Tự nhiên bậc THPT tôi biết. Chỉ nghiên cứu
phương tiện duy nhất “sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát” . Ngoài ra
không đề cập đến các phương tiện học tập khác.
5. Thời gian nghiên cứu
Từ năm học 2018-2019 đến năm học 2020 - 2021
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Thu thập, tổng hợp các kiến thức về
sở luận của đề tài; sưu tầm xây dựng cách thức lồng ghép ca dao, tục
ngữ, thơ ca, câu hát vào từng tiết học cụ thể.
- Phương pháp thực nghiệm phạm: Ứng dụng sáng kiến vào từng tiết
học cụ thể trên lớp. Từ đó, đánh giá hiệu quả thực hiện qua không khí học tập
trên lớpkết quả học tập của học sinh.
- Phương pháp thu thập, xử số liệu: Lấy ý kiến học sinh theo các mẫu
phiếu đánh giá, tiến hành kiểm tra đánh giá định kết quả học tập của HS. Từ
đó, xửsố liệu đưa ra kết quả đánh giá tổng hợp, khách quan nhất.
- Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn học sinh qua phiếu điều tra, trao đổi
3
với đồng nghiệp về việc áp dụng phương pháp này.
-Thông qua kinh nghiệm thực hiện giảng dạy đối với Chương trình đổi
mới SGK Địa phần ĐịaTự nhiên.
7. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng các luận liên quan đến việc sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca
trong việc tạo hứng thú học tập môn Địa phần ĐịaTự nhiên cho học sinh .
- Sưu tầm giới thiệu các câu ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát thể sử
dụng để giảng dạy phần ĐịaTự nhiên trường Phổ thông.
- Thiết kế một giáo án mẫu sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát
trong quá trình giảng dạy.
- Khảo sát tính khả thi của đề tài từ đó những kết luận, kiến nghị
trong quá trình áp dụng đề tài
PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I. SỞLUẬNTHỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. sởluận
Định hướng đổi mới phương pháp dạyhọc đã được xác định trong nghị
quyết Trung Ương 4 khóa VII (1-1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII
(12-1996), được thể chế hóa trong luật Giáo dục (2005), được cụ thể hóa trong
các chỉ thị của Bộ Giáo dụcĐào tạo đặc biệt chỉ thị số 14 (4-1999).
Luật giáo dục, điều 28.2 đã ghi ‘‘Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho HS.’’
Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học nên GV cần vận dụng các
phương pháp soạn giảng cho phù hợp để đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
HS, từ đóthể phát huy tính tự giác tích cực của học sinh.
Việc dạy học Địa nói chung cần đảm bảo các nguyên tắc giáo dục, đây
các luận điểmtính chất chỉ đạo, những quy định, yêu cầu bản người
giáo viên cần phải tuân thủ để mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy
học. Việc sử dụng, áp dụng các câu ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát phù hợp với
từng phần nội dung kiến thức đã căn cứ vào các nguyên tắc giáo dục (môn Địa
lí).
Các nhà nghiên cứu tâm học cho rằng hứng thú thái độ đặc biệt của
nhân đối với đối tượng nào đó ý nghĩa đối với cuộc sống khả
4
năng mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động.
Sự hứng thú biểu hiện trước hết sự tập trung chú ý cao độ, sự say
của người học sinh. Trong bất cứ lúc nào nếu hứng thú học tập học sinh sẽ
cảm giác dễ chịu với hoạt động học của mình, làm nẩy sinh sự mong muốn hoạt
động một cách sáng tạo. Đối với hoạt động nhận thức sáng tạo, hoạt động học
tập khi không hứng thú thì sẽ không kết quả, thậm chí xuất hiện cảm xúc
tiêu cực (chán học, không muốn học, sợ học…)
Việc hình thành hứng thú học tập cho học sinh đặc biệt hứng thú học
tập môn Địa yêu cầu quan trọng của giáo viên Địa lí. Khi hỏi các em nhân
tố quan trọng chủ yếu tạo nên hứng thú học tập cho học sinh phụ thuộc vào
người dạy hay người học thì đa số các em cho rằng do nhân tố người dạy. Khi
các em nhận thức đúng thì các em những mong đợi đối với giáo viên thật
hợpđể bài học được phong phú, lôi cuốn.
nhiều phương tiện để giáo viên sử dụng nhằm gây hứng thú học tập
cho học sinh như: dùng đồ dùng trực quan, tổ chức thăm quan ngoại, tổ chức
chương trình ngoại khóa, tổ chức trò chơi địa lí,… tuy nhiên ngoài những cách
trên ra còn một cách cũng không kém phần hữu hiệu đó dùng thơ ca, ca dao,
tục ngữ sao cho phù hợp với bài học, nội dung học cũng tạo sự mới lạ thích
thú đối với học sinh.
Ca dao bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, vần điệu, theo thể thơ
lục bát, lục bát biến thức hay thơ bốn chữ, năm chữ. Ca dao thi ca truyền
miệngtả phong tục tập quán, thời tiết, khí hậu, những kinh nghiệm thiên văn
của người xưa.
Tục ngữ các “câu nói ý nghĩa, dễ nhớ vần điệu, lưu hành bằng
cách truyền miệng từ người này sang người khác, từ nơi này sang nơi khác”.
Tục ngữ những câu nói đúc kết kinh nghiệm của dân gian về mọi mặt trong
cuộc sống.
Thơ ca, câu hát một khái niệm chỉ các sáng tác văn học vần điệu,
đặc điểm ngắn gọn súc tích, nhiều ý đọng. Tính nhạc trong thơ một hình
thức làm cho bài thơ dễ được cảm nhận bởi người nghe hay người đọc.
Những câu ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát sử dụng trong bài học Địa
không chỉ giúp HS ôn lại kiến thức văn học còn giúp em các giải thích được
những kinh nghiệm ông cha ta đã đúc kết qua nhiều thế hệ dựa trên sở
khoa học.
Như vậy, bản thân của ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát có đặc điểm câu
nói ngắn, ý nghĩa, vần điệu nên khi nghe học sinh dễ nhớ. Khi dạy phần
nội dung kiến thức mà giáo viên lồng ghép, liên kết với kiến thức địa lí thì trong
5
quá trình duy học sinh sẽ sự gắn kết các kiến thức với ngôn ngữ của ca
dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát như vậy sẽ vừa dễ hiểu vừa dễ nhớ, tăng thêm
tính hấp dẫn cho bài học. Tùy từng bài, từng phần nội dung bài học tác giả
sử dụng những câu ca dao tục ngữ có liên quan cho phù hợp.
Qua thực tiễn giảng dạy tôi thấy rằng, việc sử dụng lồng ghép ca dao, tục
ngữ, thơ ca, câu hát để hình thành khái niệm, kiến thức địa đều đảm bảo tính
khoa học, tính vừa sức đối với học sinh bảo đảm tính tự lực phát triển
duy cho học sinh nhưng không kém phần thú vị, hấp dẫn thu hút học sinh với
phần kiến thức mới.
2. sở thực tiễn
2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong thc tế Địa đã trong nhng câu ca dao, tc ng, thơ ca các
câu hát - đó s kết tinh, lng đọng vn sng nhng kinh nghim quý báu
trong dân gian. Tri qua hàng nghìn năm nhng câu ca dao, tc ng đã được cha
ông ta đúc kết li t nhng kinh nghim thc tế: các mi quan h gia t nhiên
vi t nhiên, gia thiên nhiên - con người, các quy lut thi tiết khí hu, các quy
lut t nhiên... mc dù trình độ nhn thc chưa được sâu sc lm.
Chính ý nghĩa phong phú rộng rãi của ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát
trở thành một phần trong kho tàng kiến thức của khoa học địa lí. Tận
dụng điều này giáo viên thể làm mới bài giảng của mình giúp bài học trở nên
sáng tạo, mới lạ, phong phú hơn giảm bớt tính khô khan như nhiều người
thường nhận xét.
Để rèn luyện năng học đi đôi với hành thì việc khai thác ý nghĩa địa
của những câu ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát này giúp học sinh cảm thấy dễ
dàng liên hệ kiến thức sách vở với các hiện tượng tự nhiên của cuộc sống bên
ngoài.
Thực tế đãnhiều đề tài của các giáo viên trường THPT, các trường Đại
học đã đề cập đến vấn đề tạo hứng thú học tập môn Địa lí qua tranh ảnh, phim
liệu, bản đồ, mô hình… (hay còn gọi đồ dùng trực quan) tuy nhiên vẫn còn ít đề
tài khai thác vấn đề sử dụng câu ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát trong dạy học
Địa nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. do đặc thù, điều kiện cở sở
vật chất phục vụ cho việc dạy học các trường học khác nhau nên cách thức
nghiên cứu sử dụng ca dao, tục ngữ, thơ ca, câu hát vào dạy học Địa sẽ
sự khác nhau các trường cụ thể. Chính vì vậy, bản thân tôi mạnh dạn trình bày
một vài ý tưởng mà tôi sau khi áp dụng trường THPT Phạm Hồng Thái (Hưng
Nguyên- Nghệ An)- nơi tôi trực tiếp giảng dạy, bước đầu đã những biểu hiện
tích cực trong thái độ học tập của học sinh hiệu quả của giờ học địa được