Sẹo Lồi (Keloid - Chéloïde)

(Kỳ 3)

2. Điều Trị ngoại khoa

Được chỉ định khi sẹo lồi không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác

hoặc sang thương quá lớn. Các bác sĩ sẽ cắt bỏ sẹo và khâu kín, ghép da với mảnh

da ghép toàn phần hay ghép da mỏng để giảm lực căng trên toàn bộ da được khâu.

Trước khi cắt bỏ sẹo lồi, bác sĩ sẽ lưu ý đến những nguy cơ chính đi kèm với sự tái

phát của sẹo lồi:

a. Tiền sử gia đình về sẹo lồi;

b. Chỗ phẫu thuật bị nhiễm trùng;

c. Vị trí phẫu thuật trên cơ thể (nhất là giữa ngực và vai);

d. Loại chấn thương gây ra sẹo (bỏng do nhiệt hoặc hóa chất);

e. Căng da trong thời kỳ hậu phẫu;

f. Da sậm màu nhóm 4-6 theo phân loại Fitzpatrick.

Tỷ lệ tái phát cho thủ thuật cắt bỏ sẹo lồi đơn giản không kèm những biện

pháp phụ trợ hậu phẫu dao động từ 50 – 80%.

Phẫu thuật:

- Một trong những qui trình dễ nhất và thường được áp dụng nhất để khử bỏ

sẹo lồi là cắt bỏ rồi tiêm Corticosteroid. Hầu hết những sẹo lồi đã cắt đều cần phải

điều trị phụ trợ thêm như: Corticosteroid tiêm trong vết thương, băng ép, Silicon

gel, kem Imiquimod hoặc tiêm Interferon. Vết khâu phải để yên trong 10-14 ngày

vì hỗn hợp Lidocaine/Steroid để gây tê có thể làm chậm lành vết thương.

- Trong những trường hợp vết sẹo đã cắt không thể khép lại được , bác sĩ

có thể chèn vào bên dưới sẹo lồi chất bành trướng mô .Sự bành trướng mô dần dần

cho phép có thể cắt và đóng sẹo lại, và không làm căng da.

- Đối với những bệnh nhân bị sẹo lớn hoặc nhiều, không thể áp dụng thủ

thuật cắt bỏ thì việc bào mòn sẹo cho ngang bằng với da bình thường xung quanh

rồi bôi Imiquimod kéo dài trong tám tuần đôi khi cũng thành công nhưng thường

bị tăng sắc tố làm cho vết sẹo có màu không hợp với màu da xung quanh.

Phẫu thuật lạnh

- Thủ thuật làm đông lạnh sẹo lồi bằng Nitrogen lỏng (nhiệt độ -196oC)

hủy hoại tế bào và các mao mạch. Sự thiếu oxy sẽ làm mô sẹo bị họai tử , bị tróc

ra và xẹp xuống. Áp hoặc phun Nitrogen lỏng trực tiếp lên sẹo, mỗi lần cách nhau

2-3 tuần. Hơn 1/2 trường hợp sẹo lồi sẽ phẳng ra sau 8-10 lần điều trị.

- Phương pháp này đạt hiệu quả 50-70 %. Nếu kết hợp với chích steroid

trong khi phẫu thuật lạnh thì tỉ lệ bệnh nhân có đáp ứng với điều trị là 84%.

Nhiều bệnh nhân không trở lại tái khám sau phẫu thuật do đau sau mổ và vết

thương chậm lành. Hiện tượng mất sắc tố thường kéo dài nhiều năm.

3. Xạ Trị

- Tia phóng xạ được dùng như một đơn liệu pháp hoặc kết hợp với phẫu

thuật để dự phòng tái phát sẹo lồi sau khi cắt bỏ. Chiếu xạ sẽ hiệu quả hơn nếu

được áp dụng sau hai tuần đầu sau khi cắt bỏ sẹo(là thời gian mà các nguyên bào

sợi đang phát triển). Liều chiếu xạ thường dùng là 300 rads (5Gy) bốn lần/ngày *

bốn đến năm ngày hoặc 500 rads (5Gy) bốn lần/ngày * ba ngày bắt đầu từ ngày

phẫu thuật.

- Xạ trị từng đợt ngắn liều cao kết hợp với cắt bỏ sẹo dường như đem lại

sự an toàn và hiệu quả trong điều trị sẹo lồi và dự phòng tái phát. Tỷ lệ thành công

của phương pháp này khoảng 88%. Những tác dụng phụ là tăng sắc tố, có khả

năng gây ung thư.

4. Những Liệu Pháp vật lý khác

a. Băng ép

Băng ép Gradient (Jobst) là một phương tiện hỗ trợ điều trị sẹo lồi sau mổ

hay sau phỏng để phòng tránh tái phát . Phương pháp này còn được dùng để điều

trị sẹo lồi sau khi bôi một loại Steroid mạnh hoặc dùng băng keo Flurandrenolide.

Một số phương pháp băng ép thường được dùng trong điều trị sẹo lồi là băng Ace,

băng thun, băng nén (Coban), băng dán tai, băng có ống hỗ trợ.

b. Cột thắt

Cột thắt sẹo có thể được dùng cho những sẹo lồi có cuống ở những vị trí

không thể cắt được hoặc bệnh nhân không cho cắt. Một loại chỉ khâu không tan 4-

0 được cột chặt quanh đáy sẹo và được thay chỉ mỗi tuần. Những cọng chỉ này

ngày càng ăn sâu vào gốc sẹo, làm cho gốc sẹo bị rơi ra. Một số trường hợp cần

dùng thêm thuốc giảm đau (Acetominophen) vài ngày sau khi thắt.

c. Laser

- Việc sử dụng Laser để điều trị sẹo lồi có kết quả không nhất quán. Laser

Argon được dùng đầu tiên để điều trị sẹo lồi. Phương pháp này có vẻ thành công

đối với những sẹo lồi mới, đang sinh mạch. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây

không chứng minh bất kỳ sự cải thiện nào của sẹo lồi khi được điều trị bằng Laser

Argon ngoại trừ sự giảm ngứa và giảm các triệu chứng khác trong vài tháng.

- Laser CO2 , khi được dùng như đơn liệu pháp, có tỉ lệ tái phát 40-90%.

Ngay cả khi được kết hợp với Corticosteroids sau mổ , phương pháp này vẫn còn

có tỉ lệ tái phát khá cao. Công dụng chủ yếu của Laser CO2 là làm dẹp sẹo lồi lớn

để chúng có thể được điều trị bằng những biện pháp khác.

- Laser Neodymium; Nd:YAG “Neodimium Doped Yttrium Aluminum

Garnet” 1064nm, Laser Affirm công nghệ CAP “Combined Apex Pulse” dường

như có ảnh hưởng đến chuyển hóa collagen.

- Laser nhuộm màu tia dạng xung PDL (Pulsed Dye Laser) bước sóng 585-

595nm cũng đã được dùng để điều trị sẹo lồi với một số thành công bước đầu. Tia

Laser hủy mạch máu nuôi dưỡng sẹo, gây thiếu máu cục bộ vùng sẹo, làm mềm,

ngưng phát triển và giảm dần kích thước, độ dày của sẹo.

Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng đã cho thấy phương pháp này gây tốn

kém nhiều nhưng hiệu quả chưa cao, không ngăn được sẹo lồi tiến triển và sự tái

phát, cần được nghiên cứu thêm. Phối hợp tiêm Triamcinolone trong tổn thương

với Laser PDL có thể làm tăng hiệu quả điều trị sẹo lồi.

d. Thuốc dán gel Silicon

Thuốc dán gel Silicon là một miếng thuốc dán mềm, dạng gel dùng để điều

trị sẹo lồi. Sẹo lồi càng mới, bệnh nhân càng trẻ, sự đáp ứng càng tốt. Trẻ em

thích phương pháp này vì miếng dán dạng gel không gây đau. Cần phải điều trị

trong 6-12 tháng để đạt kết quả tốt nhất, nhưng sau vài tháng điều trị hầu hết các

bệnh nhân đều không tuân thủ vì thời gian kéo dài, vì sự bất tiện của việc cắt và

đặt miếng gel Silicon lên sẹo. Để dự phòng sự chảy nhão và nhiễm trùng thứ phát

chỗ da được dán, chỉ nên đắp 22-23 giờ một ngày, rồi tháo ra ,lau sạch vết sẹo mỗi

ngày và đảm bảo thông khí tốt.

Dùng băng Polyurethane (Curad) 20-22 giờ một ngày làm mềm sẹo lồi và

làm thoái triển sẹo sau 8 tuần điều trị. Tác dụng điều trị tốt hơn nếu Polyurethane

được dùng với lực nén.

NHỮNG LIỆU PHÁP TIỀM NĂNG MỚI

1. Tia UVA bước sóng dài – black light (340-400nm; UVAl) có thể giúp

dự phòng tái phát sẹo lồi do có khả năng làm giảm các tế bào bón (mast cell).

2. Quercetin, một flavonoid, có tác dụng ức chế sự phát triển và co thắt các

nguyên bào sợi quá thừa trong sẹo.

3. Prostaglandin E2 (Dinoprostone) phục hồi sự sửa chữa vết thương bình

thường.

4. Chất tẩy màu mạnh( vì sẹo lồi không có ở bệnh nhân bạch tạng và thoái

triển khi da trên sẹo lồi trở nên trắng ra).

5. Chất ức chế tế bào bón (mast cell) mạnh: những tế bào bón không những

tăng trong sẹo lồi mà còn có quan hệ gần với các nguyên bào sợi ở ngoài bìa bền

vững và bị viêm của sẹo lồi. Vùng thoái triển của sẹo lồi không có liên quan đến

nguyên bào sợi - tế bào bón.

6. Liệu pháp gene.

KẾT LUẬN:

Sẹo lồi, một bệnh ngoài da lành tính về mặt nội khoa, nhưng lại thường “ác

tính” về mặt tâm lý và xã hội, là những tổn thương thứ phát từ một đáp ứng mô

liên kết quá thừa ở những người có khuynh hướng tạo sẹo lồi . Điều trị sẹo lồi đa

số là để giải quyết vấn đề thẩm mỹ nhưng việc này cũng đặt ra một thách thức lớn

cho các bác sĩ vì tỉ lệ tái phát cao và thường không đáp ứng hoàn toàn với điều

trị. Mặc dù tiêu chuẩn vàng hiện nay là cắt bỏ sẹo rồi tiêm Steroid hoặc dùng

những liệu pháp phụ trợ khác nhưng, rất nhiều những chọn lựa điều trị đã chứng

minh cho thấy rằng không có một liệu pháp duy nhất nào đạt hiệu quả 100%. Vì

vậy y học còn cần phải nghiên cứu nhiều hơn về việc điều trị sẹo lồi.

BS. LÊ ĐỨC THỌ

Trưởng Khoa Da Liễu - BV Hoàn Mỹ Sài Gòn

(Tổng hợp)