intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Đổi mới cách kiểm tra miệng trong các tiết dạy Tiếng Anh

Chia sẻ: Lê Thị Diễm Hương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

801
lượt xem
117
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Để giúp các em chủ động hơn trong học tập, tích luỹ kiến thức, kỹ năng đồng thời tạo không khí sinh động trong các giờ học mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến “ Đổi mới cách kiểm tra miệng trong các tiết dạy Tiếng Anh”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Đổi mới cách kiểm tra miệng trong các tiết dạy Tiếng Anh

  1. SỞ GD&ĐT QUẢNG NAM TRƯỜNG THPT LÊ QUÝ ĐÔN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: ĐỔI MỚI KIỂM TRA MIỆNG TRONG CÁC TIẾT DẠY TIẾNG ANH Người thực hiện : Nguyễn Thị Kim Khánh Tổ : Ngoại ngữ Tháng 4- 2011
  2. I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa , đổi mới phương pháp giảng dạy thì vấn đề đổi mới kiểm tra đánh giá là khâu hết sức quan trọng trong quá trình giảng dạy và học tập. Đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá là hai hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau . Đổi mới kiểm tra đánh giá là động lực đổi mới phương pháp dạy học, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo. Đổi mới kiểm tra đánh giá bao gồm nhiều khâu, nhiều nội dung, nhiều công đoạn trong đó việc đổi mới kiểm tra miệng là khâu hết sức quan trọng vì đây là một hoạt động diễn ra thường xuyên liên tục. Kiểm tra miệng không chỉ là kiểm tra ở đầu giờ mỗi tiết học mà cũng có thể diễn ra xuyên suốt trong một tiết học. Nếu giáo viên lơ là không thực hiện tốt việc kiểm tra miệng thì quá trình tiếp thu kiến thức của học sinh sẽ bị gián đoạn , các em sẽ bị hổng các kiến thức kỹ năng cần có trong mỗi tiết học. Điều này sẽ ảnh hưởng đến kết quả của các bài kiểm tra định kỳ (1 tiết, học kỳ,...) . Trên thực tế việc kiểm tra miệng trong các tiết học Tiếng Anh hiện nay còn nhiều bất cập do áp lực của lượng kiến thức , kỹ năng cần phải tải trong mỗi tiết dạy nên thời gian dành cho việc kiểm tra miệng hầu như rất ít. Bên cạnh đó phần lớn học sinh rất thụ động, học vẹt để đối phó thậm chí một số em do mất căn bản nên lười nhác trong việc học bài cũ. Trước thực tế đó, tôi đã “ đổi mới cách kiểm tra miệng trong các tiết dạy Tiếng Anh” để giúp các em chủ động hơn trong học tập, tích luỹ kiến thức, kỹ năng đồng thời tạo không khí sinh động trong các giờ học. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Hoạt động dạy và học luôn cần có những thông tin phản hồi để điều chỉnh kịp thời nhằm tạo ra hiệu quả ở mức cao nhất thể hiện ở chất lượng học tập của học sinh. Kiểm tra thường xuyên giúp cho giáo viên điều chỉnh, bổ sung những kiến thức, kỹ năng, thái độ mà môn học đề ra đồng thời sẽ giúp cho học sinh hình thành được động cơ, thái độ học tập đúng đắn từ đó tích lũy được kiến thức, kỹ năng cần thiết. Việc đổi mới kiểm tra miệng ngay tại lớp không những giúp không khí học tập sinh động mà còn giúp học sinh tránh được lối học vẹt, học thụ động, học đối phó từ đó phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh và đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập
  3. III. CƠ SỞ THỰC TIỄN: Đa số học sinh trường tôi ở nông thôn, kiến thức về bộ môn bị hổng nhiều nên nhiều em chưa thật sự yêu thích bộ môn này. Điều này dẫn đến ý thức tự giác học tập của nhiều em chưa cao. Để đối phó với giáo viên các em thường dùng sách “Học tốt Tiếng Anh” mà không chịu khó học từ vựng hay thực hành các kỹ năng. Trong các đề thi kiểm tra học kỳ (do Sở giáo dục hoặc trường ra) hoặc đề thi tốt nghiệp ( do Bộ giáo dục ra) chỉ tập trung vào kiểm tra ngữ pháp và kỹ năng đọc hiểu, hơn nữa lại bằng hình thức trắc nghiệm 100% nên nhiều học sinh đã lơ là trong việc học bài cũ và thực hành các kỹ năng mà chỉ trông mong vào sự may rủi trong việc làm bài trắc nghiệm Việc kiểm tra bài cũ truyền thống thường là gọi 1 hoặc 2 học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Việc này vừa tốn nhiều thời gian, lại gây tâm lý căng thẳng cho học sinh hơn nữa lại không thể kiểm tra được nhiều em cùng một lúc. Vì vậy không thể đánh giá được khả năng của học sinh Tất cả những yếu tố trên làm cho học sinh lười nhác, thụ động trong học tập, chất lượng dạy và học không cao. Những cơ sở trên đã giúp tôi áp dụng những đổi mới cách kiểm tra miệng trong các tiết dạy Tiếng Anh IV. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Như trên đã nói việc kiểm tra để lấy điểm miệng không chỉ thực hiện vào đầu của mỗi tiết học mà tùy theo từng kỹ năng, kiến thức có thể thực hiện vào đầu, giữa hay cuối của tiết học. Muốn thực hiện được việc kiểm tra miệng đạt kết quả thì cần có những nội dung sau: 1. Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng: - Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác đinh thật chính xác cần kiểm tra những gì . Giáo viên cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kỹ năng mà học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho học sinh phải chính xác , rõ để học sinh không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề - Giáo viên phải thiết kế lại các yêu cầu , bài tập trong sách giáo khoa hay ra các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng các keys trong sách “ Hướng dẫn học tốt” nhằm đối phó với giáo viên - Cột điểm Miệng trong sổ điểm cá nhân được chia thành 2 cột : M1 và M2. Cột M1 sẽ ghi điểm cho học sinh trực tiếp lên bảng để trả lời hoặc làm bài tập. Cột M2 được ghi điểm cho học sinh ngồi dưới lớp để trả lời hoặc làm bài tập. Điểm miệng chính thức của học sinh là điểm trung bình cộng của M1 và M2 Lớp 11C3 ( HKII/ 2010 -2011)
  4. Số M Họ và tên học sinh TT M1 M2 1 Lê Thị Ba 9 2 NguyễnThịThuý Bông 10 3 Nguyễn Thị Kim Chung 6 8 4 Bùi Thị Cưng 5 9 5 Phan Thị Xuân Diễm 3 4 6 Trần Thị Phương Dung 5 7 Lê Thị Mỹ Duyên 9 8 Nguyễn Văn Dự 8 9 9 Bùi Thị Hà 7 7 10 Huỳnh Sơn Hải 3 ….. 2. Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng: - Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất những hiểu biết của các em - Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của học sinh mà phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kỹ năng của các em - Thái độ và cách đối xử của giáo viên với học sinh có ý nghĩa to lớn trong khi kiểm tra miệng. Giáo viên cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của học sinh và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của học sinh. Sự hiểu biết của giáo viên về cá tính học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức và kỹ năng của học sinh được kiểm tra. - Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng là một sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi học sinh trả lời xong. - Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều học sinh : trong lúc gọi một số học sinh lên bảng thì giáo viên ra cho các học sinh ở dưới lớp câu hỏi khác sau đó sẽ thu vở nháp của một số em để chấm. - Khi tổ chức kiểm tra thì giáo viên phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây: khi một hay vài học sinh được chỉ định lên bảng thì các học sinh khác trong lớp cần phải làm gì và làm như thế nào. Giáo viên gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu cầu khác nhau phù hợp với trình độ của mỗi học sinh sau đó đặt các câu hỏi cho cả lớp sau khi các học sinh này hoàn thành xong nhiệm vụ của mình như sau:
  5. “ Bạn trả lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn không?” “ Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?”… Ngoài những câu cơ bản, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà giáo viên có thể hình dung được chất lượng kiến thức của học sinh. 3. Các cách kiểm tra miệng: Như ta đã biết , kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp học sinh học tập có hiệu quả hơn. Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kỹ năng mà giáo viên có thể áp dụng các cách kiểm tra miệng như sau: a. Đối với việc kiểm tra từ vựng: Cách 1: Gọi một lượt 4 học sinh lên bảng. Giáo viên đưa ra câu hỏi chung cho tất cả, học sinh nào trả lời được trước thì giáo viên cho phép. Các học sinh còn lại sẽ trả lời các câu hỏi phụ hoặc bổ sung cho bạn trả lời trước Ví dụ: Kiểm tra từ vựng của tiết Reading Unit 11- English 11 Yêu cầu mà GV đưa ra: “ Write a word in English that means : vô tận” HS 1 : đưa từ (infinite) HS 2 : xác định từ loại (adjective) HS 3 : đưa ra từ đồng nghĩa (unlimited) Hs 4: đưa ra từ trái nghĩa ( limited) Với cách này học sinh sẽ bớt đi tâm lý lo sợ, e ngại khi kiểm tra miệng và có được nhiều sự lựa chọn hơn Cách 2: Gọi 8 học sinh lên ngồi các dãy bàn đầu, mỗi học sinh mang theo 1 tờ giấy có đánh số thứ tự từ 1 đến 10, những học sinh trong lớp còn lại sẽ dùng vở nháp để ghi các từ do giáo viên yêu cầu GV đọc các từ lần lượt từ 1 đến 10 bằng tiếng Việt và yêu cầu học sinh ghi các từ đó tương ứng bằng tiếng Anh Sau đó thu bài của 8 em này và 1 vài bài của các em ngồi bên dưới để chấm điểm. Mỗi từ đúng tương ứng với 1 điểm Cũng bằng cách này , GV cũng có thể kiểm tra phần Pronunciation của học sinh bằng cách phát các handouts có một số từ và yêu cầu học sinh chọn từ có phần gạch chân đọc khác với các từ còn lại hoặc chọn từ có trọng âm khác với các từ còn lại.
  6. b. Đối với tiết học Reading - Ngay trong các hoạt động While- Reading , giáo viên cũng có thể kiểm tra để lấy điểm miệng. Ví dụ 1: Reading - Unit 3 - English 12 Multiple choice: Choose the best option: 1. Some ways of non-verbal communication to attract someone ’s attention are by …………………. A. waving B. raising our hand C. both are correct 2. When you see your brother get off the plane and begin walking forward you, if you are excited, You might jump up and down and wave as ………….. as you can to attract his attention. A. hard B. slightly C. slowly 3. Pointing at S.O is usually considered rude. However, there are times when pointing is perfectly acceptable, such as when ……………. A. You want S.O to look at yourself. B. A teacher wants to get S.O’s attention in class. C. You want S.O to look at sth. 4. Decide which of the three options below is the best title for the passage. A. Attracting Attention: Non- verbal Cues B. Attracting Attention by Waving C. The Best Ways of Attracting Attention Ví dụ 2: Reading Unit 9 – English 11: T- F statements - give some statements ( handouts) and ask ss to read these carefully and reread the text to decide if each statement is true or false 1.You can’t send a parcel which is more than 31.5 kg 2. There are only two different ways of sending a letter 3. You cannot make a phone call at Thanh Ba Post Office on Sundays 4. The post office offers a special mail service which is particular fast 5. If you want to get your newspapers and magazines delivered to your house, you will have to subscribe to your favorite newspapers and magazines Cách thực hiện : Sau khi phát handouts, giáo viên yêu cầu học sinh làm theo cá nhân, đọc bài text rồi sau đó làm các bài tập này trong khoảng 8 phút. Trong khoảng thời gian này giáo viên đi vòng quanh lớp để hỗ trợ cho các em và quan sát không cho các em nhìn nhau. Sau khoảng thời gian qui định, giáo viên thu bài của một số em, sau đó yêu cầu cả lớp trả lời và chấm điểm ngay tại lớp. Và cột điểm này sẽ cho vào cột M2.
  7. c. Đối với tiết học Speaking Đây là một kỹ năng rất quan trọng, nếu thực hiện tốt thì việc kiểm tra miệng học sinh kỹ năng này sẽ có tác dụng rất lớn đối việc khuyến khích các em học môn Tiếng Anh. Tuy nhiên tùy theo trình độ của các em mà giáo viên nên có những yêu cầu phù hợp nhằm khuyến khích và động viên các em thực hành tiếng . Trong giờ Speaking tùy theo các task mà tôi sẽ yêu cầu các em thực hành theo cặp, nhóm hoặc cá nhân. Tôi cũng cho học sinh điểm thực hành của kỹ năng này. Đối với kỹ năng này tôi chỉ áp dụng những task vừa sức với các em. Hoặc có thể cho điểm cọng cho các em xung phong thực hành trước lớp theo cặp hoặc nhóm Ví dụ: Task 3- English 11- Unit 6 Competitions Works in pair. Talking about a competition or contest you have recently joined or seen. Use the suggestions below: 1. Where and when did you see or take part in? 2. What type of competition/ contest was it? 3. Who organized it? 4. Who participated in it? 5. Who won the competition / contest? 6. Did you enjoy it? Why/ why not? Sau khi hướng dẫn, gợi ý và làm mẫu với một học sinh khá trong lớp, tôi yêu cầu học sinh thực hành theo cặp, một em hỏi và một em trả lời. Trong thời gian các em đang thực hành, tôi có thể đi quanh để giúp đỡ các em nếu thấy cần thiết. Sau khoảng 8- 10 phút tôi gọi một số cặp đứng lên thực hành, sau đó nhận xét và cho điểm d. Đối với tiết học Listening: Đây là kỹ năng khó vì vốn từ của các em còn hạn chế và các em cũng không quen với giọng người bản xứ nên kiểm tra các em kỹ năng này ngay trong giờ bài mới là rất khó thực hiện. Thay vào đó, tôi sẽ kiểm tra miệng các em thông qua hình thức vấn đáp để vừa kiểm tra được kỹ năng nghe, nói vừa kiểm tra được kiến thức mà các em học được từ bài cũ. Việc kiểm tra này được thực hiện vào đầu của tiết học sau: Cách thực hiện: Gọi học sinh để trả lời một câu hỏi mà các em đã được học và củng cố rất kỹ trong tiết trước (5 điểm), câu thứ hai em chọn một bạn ( đang ngồi dưới lớp) hỏi em một câu trong bài rồi trả lời (2 điểm) , Câu thứ 3 do chính em học sinh này hỏi một bạn khác ( đang ngồi dưới lớp) (3 điểm). Số điểm mà em học sinh này đạt được sẽ được ghi vào cột M1, Số điểm mà 2 học sinh khác do đặt câu hỏi đúng hoặc trả lời đúng sẽ được ghi vào cột M2. Sau một thời gian quen dần cần nâng cao yêu cầu câu hỏi của học sinh đặt ra cho bạn mình.
  8. Ví dụ: Kiểm tra miệng tiết Listening Unit 15- English 11. Các câu hỏi được dùng để kiểm tra miệng( đã học trong tiết trước) 1. How many astronauts were there on board the spacecraft to the moon? 2. Who was the first astronaut to set foot on the moon? 3. How long did the astronauts stay on the moon’s surface? 4. What did they do while they were staying on the moon’s surface? 5. Did they return to the Earth safely? …… Rõ ràng cách kiểm tra trên đã theo hướng đổi mới kiểm tra đánh giá: phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện để kích thích tư duy, tính năng động về mọi hoạt động ở trên lớp, giảm “người thầy là trung tâm” mà tăng cường “lấy học sinh là trung tâm”. Tuy nhiên giáo viên phải linh hoạt gợi ý cho học sinh đặt câu hỏi cho phù hợp với nội dung cần kiểm tra, để không bị lạc đề và đỡ tốn thời gian vào bài mới. Cách kiểm tra để tự học sinh đặt câu hỏi này không chỉ áp dụng cho kiểm tra miệng tiết Listening mà còn có thể áp dụng với cả tiết Reading, Language Focus Để phát huy hơn nữa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên có thể ra bài tập về nhà cho các em như sau: Dựa vào phần bài học mỗi em sẽ ra cho cô 5 câu tương tự ( 2 câu trắc nghiệm khách quan, 3 câu tự luận vừa có vận dụng cả lý thuyết vừa có bài tập. Đến tiết học tiếp theo giáo viên sẽ thu toàn bộ các bài của cả lớp và chọn ngẫu nhiên bài của một số em sau đó giáo viên gọi học sinh cầm những câu hỏi đó để làm bài kiểm tra miệng của mình. e. Đối với tiết học Writing: Kỹ năng này ít được áp dụng vào các bài kiểm tra thường xuyên ở lớp vì chiếm thời gian lớn và không phù hợp với kiểu đề trắc nghiệm .Vì vậy để giúp các em tích cực hơn trong việc học kỹ năng Writing, giáo viên có thể thiết kế lại một số nội dung của bài viết để tránh tình trạng học sinh sử dụng sách tham khảo để đối phó hoặc đưa ra các dạng bài tập phù hợp hơn như sentence building, sentence transformation .... để các em làm rồi sau đó giáo viên sửa và cho điểm một số em, hoặc cho điểm theo nhóm. Ví dụ : Writing Unit 12- English 11: Guided sentence building Cách thực hiện: sau khi gợi ý giúp học sinh có được từ vựng và các ý tưởng cần thiết, tôi yêu cầu học sinh làm việc cá nhân, mỗi học sinh sẽ lựa chọn cho mình 3 câu để hoàn thành, và 3 câu này không được giống với người bên cạnh 1. We / have / a lot/ things/ do/ prepare/ coming Asian Games 2. We/ build/ one / National stadium/ sports building/ car park 3. We/ widen/ training areas/ roads / sports buildings
  9. 4. We/ equip/ hotels/ guest houses/ modern facilities 5. We/ promote/ advertise/ preparations / the Asian Games / the radio/ TV 6. We/ hold / competition / choose an offcial song 7. We/ recruit/ volunteers/ be/ good/ English/ serve the Games f. Đối với tiết học ngữ pháp ( Language Focus) + Đối với tiết học bài mới: Tôi thường thiết kế lại một số bài tập trong sách giáo khoa (để tránh tình trạng học sinh dùng sách hướng dẫn để trả lời ) đồng thời ra thêm một số bài tập trắc nghiệm trong phần production, sau đó gọi học sinh lên bảng làm để lấy điểm hoặc thu bài của một số em để chấm Ví dụ : ở Unit 16 trong phần Production tôi đưa vào bài tập trắc nghiệm để kiểm tra độ hiểu biết của học sinh đồng thời củng cố kiến thức cho các em: Exercise: Choose the best option: 1. We ……… our decision as soon as we come back a. will make b. make c. made d. would make 2. I haven’t met him since I ……………school a. has left b. left c. leave d. am leaving 3. Mary will come after she ………..her work a. finish b. will finish c. has finished d. is going to finish 4. After he ………….his homework, he went to bed a. had done b. did c. will do d. does 5. By the end of this year, we …………in this company for 3 years a. will work b. work c. will have worked d. have worked 6. By the time he got home, his wife ………out a. went c. have gone c. had gone d. has gone Choose the underlined part that needs correcting: 7. He said that he has done his homework since 7 o’clock A B C D 8. The statue was broken while it was moved to another room A B C D + Đối với tiết học bám sát ( củng cố và ôn tập) Áp lực thời gian trong tiết Language Focus là rất lớn vì vừa phải tải phần pronunciation vừa phải tải phần Grammar nên thời gian dành cho việc kiểm tra học sinh bị hạn chế. Vì vậy tiết học bám sát này là cứu cánh cho tiết học Language Focus và một số tiết học Writing.Với tiết này sẽ giúp cho học sinh có điều kiện ôn tập, củng cố và rèn luyện kỹ năng giải bài tập về ngữ âm và ngữ
  10. pháp cũng như phần biến đổi câu ( đây là phần được gặp rất nhiều trong các đề thi, kiểm tra định kỳ) Trong tiết này tôi sẽ phát bài tập gồm 10 câu trắc nghiệm khách quan cho cả lớp làm trong 10 phút, đồng thời gọi 2 học sinh lên bảng, mỗi em làm 3 câu tự luận ( thường là biến đổi câu hay viết lại câu dùng từ gợi ý cho sẵn …) Sau 10 phút tôi thu bài của 5 em học sinh bất kỳ và giao cho 5 em khác chấm, 2 em học sinh trên bảng vẫn tiếp tục giải trong khi giáo viên sửa 10 câu trắc nghiệm. Sau đó giáo viên thu lại bài của 5 em được chấm và kiểm tra lại, ghi điểm vào cột M2. Tiếp tục hướng dẫn cách làm bài tự luận trên bảng và yêu cầu 2 học sinh chấm chéo cho nhau, giáo viên vừa sửa cho cả lớp vừa quan sát để cho điểm. Như vậy đây là hình thức kiểm tra phát huy được tính chủ động, tích cực của học sinh, giảm bớt áp lục căng thẳng trong kiểm tra miệng vừa phát huy được việc đổi mới kiểm tra đánh giá cả 2 hình thức tự luận và trắc nghiệm, vừa kiểm tra miệng, vừa ôn tập. V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Để đánh giá hiệu quả của việc áp dụng đề tài này, tôi đã so sánh và thống kê kết quả như sau: 1. Các lớp không áp dụng đề tài: - Điểm kiểm tra miệng của các em không cao, có nhiều em bị điểm không (vì các em lười học bài cũ). - Điểm trung bình học kỳ môn của các em thấp hơn. Số liệu thống kê điểm kiểm tra miệng học kỳ I năm học 2010-2011 Lớp Tổng số 8-10 6-7 4-5 1-3 0 học sinh điểm điểm điểm điểm điểm 12A3 52 7 8 20 13 4 11C1 53 6 12 16 16 3 Số liệu thống kê điểm trung bình môn học kỳ I năm học 2010-2011: Lớp Tổng số 8.0 trở 6.5 -7.9 5.0-6.4 3.5-4.9 0-3.4 học sinh lên 12A3 52 2 3 15 26 7 11C1 53 3 7 16 23 4
  11. 2. Các lớp có áp dụng đề tài: - Sau một năm áp dụng phương pháp mới này, hầu hết học sinh của tôi có điểm kiểm tra miệng cao hơn năm trước, số em bị điểm kém rất thấp, không có em bị điểm 0 - Điểm trung bình môn học kỳ cũng được tăng lên rõ rệt. Số liệu thống kê điểm kiểm tra miệng học kỳ I năm học 2010-2011 Lớp Tổng số 8-10 6-7 4-5 1-3 0 học sinh điểm điểm điểm điểm điểm 12C3 52 13 16 16 7 0 11C3 54 19 19 12 4 0 Số liệu thống kê điểm trung bình môn học kỳ I năm học 2010-2011: Lớp Tổng số 8.0 trở 6.5 -7.9 5.0-6.4 3.5-4.9 0-3.4 học sinh lên 12C3 49 5 10 16 18 0 11C3 54 4 16 22 12 0 VI. KẾT LUẬN: Vấn đề đổi mới phương pháp giáo dục phải gắn liền với đổi mới kiểm tra đánh giá trong đó đổi mới kiểm tra miệng là một khâu vô cùng quan trọng và mang tính cấp bách mà giáo viên phải thực hiện thường xuyên để nâng cao chất lượng giáo dục và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Rõ ràng qua một năm áp dụng đề tài này, tôi nhận thấy không khí lớp học đã sinh động hẳn, thái độ học tập của các em mang tính tự giác cao, các em không còn tư tưởng học chỉ để đối phó. Hơn nữa kết quả học tập của học sinh cũng được cải thiện đáng kể. Chính điều đó cũng là động lực giúp giáo viên nhiệt tình, phấn chấn hơn trong các giờ dạy. Thông qua các hình thức kiểm tra miệng thường xuyên này , giáo viên sẽ phát hiện được khả năng của học sinh cũng như biết được em nào còn yếu kém để kịp thời giúp đỡ các em bổ sung kiến thức và kỹ năng. Ngoài ra còn giúp giáo viên điều chỉnh quá trình dạy học của mình cho phù hợp với trình độ hiểu biết, nhận thức của học sinh.
  12. * BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Tuy nhiên để áp dụng những cải tiến này một cách hiệu quả, đòi hỏi sự chuẩn bị rất chu đáo của giáo viên. Giáo viên phải thiết kế lại các Exercise, các Task trong sách giáo khoa và ra thêm các dạng bài tập sát với các đề kiểm tra, đề thi. Ngoài ra giáo viên phải đánh giá thật công bằng, khách quan, thái độ cư xử phải tế nhị, khuyến khích, động viên các em kịp thời. Trong khi kiểm tra bài của học sinh thì giáo viên phải có cách để thu hút được các học sinh khác cùng tham gia để giải quyết vấn đề, tránh tình trạng giáo viên hỏi đáp với một người. Giáo viên đặt hệ thống câu hỏi để cho cả lớp cùng suy nghĩ và huy động kiến thức, như thế thì có khả năng kiểm tra trình độ hiểu biết của các học sinh trong lớp. VII. KIẾN NGHỊ: Qua thực tế giảng dạy và thực hiện đề tài này tôi xin được kiến nghị một số việc như sau: - Chương trình sách giáo khoa nên được giảm tải để giáo viên có thời gian hơn trong việc kiểm tra miệng học sinh - Hình thức đánh giá và thi cử nên được cải tiến, các đề kiểm tra không nên 100% trắc nghiệm, vì như vậy sẽ không đánh giá được các kỹ năng Speaking, Writing.. của học sinh. Qua đó hạn chế tính ỷ lại, lười nhác của học sinh trong việc tích luỹ kiến thức, kỹ năng, từ vựng….đồng thời giúp học sinh thấy được kết quả phản ánh đúng với khả năng thực của các em. - Thư viện nhà trường nên bổ sung thêm nhiều sách tham khảo cho học sinh và giáo viên Trên đây là kinh nghiệm nhỏ bé của tôi trong việc đổi mới kiểm tra miệng nhằm góp phần đổi mới kiểm tra, đánh giá. Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Phương Hoa – Lý luận dạy học hiện đại. 2. Thái Duy Tuyên – Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới. NXB Giáo dục 2008. 3. Quy chế 40 đánh giá xếp loại học sinh THCS-THPT. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG Tên đề tài 1 I. Đặt vấn đề 2 II.Cơ sở lý luận 2 III Cơ sở thực tiễn 2-3 IV. Nội dung nghiên cứu 3-9 V. Kết quả nghiên cứu 9-10 VI. Kết luận 10 VII. Kiến nghị 10-11 Tài liệu tham khảo 12 Mục Lục 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0