intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số giải pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển vốn từ

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

35
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là giúp trẻ phát triển tốt vốn từ nói chung và đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi nói riêng là hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ vấn đề trên bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp đứng lớp chăm sóc giáo dục các cháu 5-6 tuổi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số giải pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển vốn từ

  1. Mã số                       ­ Tên sáng kiến:  "Một số giải pháp giúp trẻ 5­6 tuổi phát triển   vốn từ”.              ­ Lĩnh vực áp dụng: Trẻ mẫu giáo 5­6 tuổi.               ­ Họ tên tác giả: Trần Thị Dung                        ­ Đơn vị công tác: Trường Mầm Non Tiên Hường.                                                                                                           Bình Xuyên, năm 2019
  2.                                                                                                                                        Họ tên, chữ ký người chấm điểm Điểm Mã số Người số 1:………………………………………. Người số 2:………………………………………. I. Mô tả sáng kiến: Ở  tuổi mẫu giáo, trẻ  phải nắm được một vốn từ  cần thiết đủ  để  cho   chúng giao tiếp được với bạn bè, người lớn, tiếp thu các tri thức ban đầu trong   trường mầm non, chuẩn bị học tập  ở  trường phổ thông, xem các chương trình  truyền hình, truyền thanh, tham gia các sinh hoạt xã hội gần gũi với đời sống  của trẻ...Vì thế, giáo dục mẫu giáo coi việc hình thành vốn từ là nhiệm vụ quan   trọng trong nội dung giáo dục trẻ . Phát triển vốn từ  được hiểu như  một quá trình lâu dài của việc lĩnh hội   vốn từ  mà con người đã lĩnh hội được trong lịch sử. Nó bao gồm hai mặt: tích  lũy số lượng và nâng cao số lượng. Cô giáo phải giúp trẻ không những hiểu biết   từ  mà còn sử  dụng được chúng trong giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp dần  dần trẻ hiểu được ý nghĩa của từ, thậm chí có nhiều nghĩa khác nhau trong một   từ hay nhiều từ có chung một nghĩa. Vốn từ  của trẻ  mẫu giáo có khối lượng nhỏ  hơn rất nhiều so với số  lượng vốn từ của người lớn. Vì khối lượng tri thức của chúng còn quá hạn hẹp.   Vì thế mở rộng vốn từ phải dựa vào sự mở rộng nhận thức cho trẻ. Chính vì lẽ đó việc giúp trẻ phát triển tốt vốn từ  nói chung và đặc biệt là   trẻ mẫu giáo 5­6 tuổi nói riêng là hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ  vấn đề trên bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp đứng lớp chăm sóc giáo dục  các cháu 5­6 tuổi nên tôi mạnh dạn chọn đề tài "Một số giải pháp giúp trẻ 5­6   tuổi phát triển vốn từ” để nghiên cứu. 1. Về nội dung của sáng kiến:  Ngôn ngữ  là công cụ  giao tiếp. Bản chất của con người là tổng hòa các   mối quan hệ  xã hội. Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng.  Giao tiếp là một đặc trưng quan trọng của con người. Nhờ có ngôn ngữ mà con  người có thể  hiểu được nhau, cùng nhau hành động vì những mục đích chung:   lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển xã hội. Không có ngôn ngữ, không thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại   được, nhất là đứa trẻ, một sinh thể yếu ớt rất cần đến sự chăm sóc, bảo vệ của   người lớn. Ngôn ngữ làm cho đứa trẻ trở thành một thành viên của xã hội loài người.  Ngôn ngữ  là một công cụ  hữu hiệu để  trẻ  có thể  bày tỏ  những nguyện vọng  
  3. của mình từ khi còn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục  trẻ, là một điều kiện quan trọng để  trẻ  tham gia vào mọi hoạt động và trong   hoạt động hình thành nhân cách trẻ. Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy và nhận thức. Công cụ để  phát  triển tư  duy, trí tuệ  là ngôn ngữ. Ngôn ngữ  chính là hiện thực của tư  duy. Tư  duy và ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ thì  quá trình tư  duy của con người không thể  diễn ra được. Ngôn ngữ  còn là công  cụ để trẻ học tập, vui chơi, là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện. Để trẻ phát triển một cách toàn diện thì phát triển vốn từ là vô cùng quan  trọng, vốn từ là nền móng để phát triển ngôn ngữ.  Sự hình thành vốn từ cần kết  hợp chặt chẽ  với hoạt động nhận thức tích cực của trẻ. Vì thế  việc phát triển  gắn chặt với quá trình phát triển tư duy, kết quả của hoạt động nhận thức. Đứa   trẻ  phải   được  hoạt   động(chủ   thể  nhận  thức,  khám  phá)   và phát  triển  ngôn  ngữ(một chủ thể nói năng). Các nội dung phát triển vốn từ phải đưa vào tất cả  các hoạt động của trẻ( học tập, vui chơi, sinh hoạt). Nội dung phát triển vốn từ cần được phức tạp hóa dần cùng với sự  tăng   độ  tuổi của trẻ. Các nhà sư  phạm đã phân chia nội dung phát triển vốn từ  theo   đề tài: Những từ ngữ nói về cuộc sống riêng, những từ ngữ nói về cuộc sống xã   hội và những từ  ngữ  nói về  thế  giới tự nhiên.Các nội dung này được phức tạp  hóa theo độ tuổi. Trẻ 5­6 tuổi là lứa tuổi chuẩn bị bước sang trường tiểu học, đây là bước  ngoặt quan trọng trong cuộc sống của trẻ. Vì trẻ phải chuyển sang một lối sống  với sự thay thế của hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Hiện nay ở các  trường mầm non trẻ  5­6 tuổi còn nói ngọng rất nhiều, vốn từ  nghèo nàn, hạn  chế, không diễn đạt được bằng lời suy nghĩ của mình một cách mạch lạc. Đặc  biệt việc phát triển vốn từ cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. a.Thực trạng vấn đề nghiên cứu. ­ Được sự  quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường về  chuyên môn, tạo  điều kiện giúp tôi những vật liệu để  làm đồ  dùng dạy học và đồ  chơi cho các  cháu. ­ Được sự   ủng hộ  nhiệt tình của phụ  huynh cả  về  vật chất lẫn tinh thần   trong việc giảng dạy. ­ Bản thân đã đạt trình độ  giáo viên trên chuẩn, đạt giáo viên giỏi cấp   huyện, cấp tỉnh nhiều năm liền, luôn nhiệt tình, yên nghề, mến trẻ, được trải   nghiệm cọ sát với thực tế, được học tập và đào tạo qua trường lớp, luôn tìm tòi  học hỏi và rút kinh nghiệm cho bản thân, có nhiều sáng tạo, vốn từ phong phú. Bên cạnh những thuận lợi trên thì khi thực hiện đề  tài này tôi cũng gặp  không ít những khó khăn như:
  4. ­ Một số trẻ chưa học qua mẫu giáo nhỡ nên còn thiếu tự tin và bỡ ngỡ còn   chậm chạp, nhút nhát khi tham gia vào hoạt động học. ­ Khả năng nhận thức của học sinh không đồng đều. ­ Số học sinh đông, diện tích lớp chật hẹp,  ảnh hưởng đến khả  năng tiếp   thu của trẻ. ­ Nhiều trẻ còn nói ngọng, nói lắp.  *Qua kết quả điều tra lúc đầu khi chưa áp dụng các phương pháp trên thì vốn  từ của trẻ còn thấp.  Bảng khảo sát chất lượng trẻ đầu năm Sĩ  Các chỉ tiêu đánh giá Kết quả số Đạt Chưa đạt 31  Trẻ hứng thú tham gia các hoạt  35.5% 64.5% trẻ động Trẻ phát âm đúng 67.7% 32.3% Hiểu được nghĩa của từ 61,3% 39,7% Phát triển ngôn ngữ­ diễn đạt tốt 61,3% 39,7%  Muốn đạt được kết quả cao trong việc phát triển vốn từ cho trẻ thì trước   hết cô giáo cần phải giúp trẻ  nắm được ý nghĩa của từ  trên cơ  sở  đối chiếu   chính xác chúng với các đồ vật xung quanh. Giúp trẻ lĩnh hội được ý nghĩa khái  quát của từ  trên cơ  sở  phân biệt được những dấu hiệu đặc trưng của sự  vật,  hiện tượng. Cô giáo phải tích cực hóa vốn từ cho trẻ, giúp trẻ không những hiểu   biết từ mà còn sử dụng được chúng trong giao tiếp.        Từ kết quả trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm ra nhiều biện pháp để giúp  trẻ phát triển vốn từ hiệu quả cao hơn. Bởi vậy tôi đã mạnh dạn đưa ra " Một   số giải pháp giúp trẻ 5­6 tuổi phát triển vốn từ”. b. Đề xuất các giải pháp *Giải  pháp 1: Cho trẻ xem tranh Trẻ nhỏ rất thích xem tranh, những tranh đẹp có nội dung vừa phát triển   vốn từ, vừa giáo dục thẩm mĩ nghệ thuật cho cho trẻ. Khi miêu tả bức tranh, trẻ  tiếp thu thêm những từ mới, đồng thời huy động cả vốn từ cũ nữa. Để  thực hiện biện pháp này có hiệu quả  nhất thì tôi không chỉ  đơn giản   cho các cháu xem tranh copy trên mạng mà tôi cố  gắng với những tiết dạy có  thể cho trẻ đi tham quan thực tế được thì tôi sẽ tổ chức cho các cháu đi. Ví dụ: Khi học ở chủ điểm “Quê hương, Đất nước, Bác Hồ” tôi phối hợp  với nhà trường và phụ huynh cho các cháu đi tham quan viện bảo tàng, thăm lăng 
  5. Bác chọn ở đó một số bức tranh phù hợp để giới thiệu cho các cháu(phong cảnh  quê hương, Bác Hồ, các chú bộ đội bảo vệ Tổ Quốc...) Khi xem tranh, trẻ  thường chú ý một cách tản mạn, chúng tập trung vào  những gì mà chúng thích thú nhất. Bởi vậy tôi luôn  hướng dẫn sự quan sát của   trẻ theo trật tự. Đầu tiên là nhìn toàn bộ bức tranh để trẻ hiểu tranh vẽ về ai, cái   gì, sau đó mới đi vào chi tiết. Sau cùng, tôi lại miêu tả ngắn gọn về toàn bộ bức tranh. Để làm được như vậy   tôi đã tìm hiểu rất kĩ về bức tranh trước khi hướng dẫn trẻ. Khi cho trẻ xem tranh tôi thường đặt các câu hỏi gợi mở kích thích trẻ suy   nghĩ mở rộng vốn từ của bản thân: Ví dụ:  Chúng mình có thể  đặt tên cho bức tranh này là gì?( Bác Hồ  yêu   các cháu, các chú bộ đội hành quân...) câu hỏi làm sáng tỏ ý nghĩa chung của bức  tranh.          +Bức tranh vẽ cái gì? Họ làm gì?. Câu hỏi này làm sáng tỏ đối tượng  miêu tả.         + Các cháu thử kể một câu chuyện về  bức tranh nào?(cái gì xảy ra   trước đó, cái gì xảy ra sau đó?Câu hỏi này nhằm mở  rộng đề  tài, phát huy sáng  tạo  của  trẻ(   Bác  Hồ   đến  thăm  trường  mầm non,  Bác  ngồi  giữa tất cả   các  cháu....Tiễn Bác về  các cháu hát bài Ai yêu Bác Hồ  Chí Minh hơn các em nhi   đồng...) Những bức tranh mà đã cho trẻ xem có thể treo trong lớp một thời gian để  các cháu có điều kiện xem lại, trao đổi và củng cố vốn từ đã tiếp thu được. Tôi sử dụng các bức tranh vẽ, kết hợp cho trẻ quan sát và đàm thoại theo  nội dung bức tranh để cho trẻ hiểu được từ, đặc biệt là các từ khái niệm. Chẳng  hạn, để giúp trẻ hiểu nghĩa của từ tôi sử dụng một số tranh chủ đề: Cảnh sinh  hoạt gia đình, cảnh cánh đồng quê mùa gặt, cảnh vườn cây ăn quả, cảnh đường  phố. Bốn bức tranh này có các từ  khái niệm như: ở  giữa, bên phải, bên trái, kế  bên, ở dưới... Ví dụ: Tôi sử dụng bức tranh cảnh gia đình đang ăn cơm. Cho trẻ quan sát  và đàm thoại: Trong mấy người ngồi ăn cơm, ai ngồi ở giữa(bạn nhỏ)                            Bên phải bạn nhỏ là ai?(Người mẹ)                            Bên trái bạn nhỏ là ai(Người bố)                            Kế bên bạn nhỏ là ai(Con mèo) Có thể dùng biện pháp cho trẻ vẽ tranh để giúp trẻ hiểu nghĩa của từ sâu   sắc hơn. Có thể sử dụng một số bài tập vẽ sau:
  6. Bài 1: Các cháu vẽ  cho cô một hàng cây theo thứ  tự: Cây thứ  nhất cao  nhất, cây thứ hai thấp hơn, cây thứ  ba thấp nhất. Vẽ cho cô một con chim đậu  trên cây ở giữa. Bài 2: Các cháu vẽ cho cô một vườn hoa có nhiều hoa đẹp, sau đó vẽ hàng   rào ở xung quanh vườn. Ở trên của mỗi bông hoa vẽ một con bướm. Bài 3: Các cháu vẽ  cho cô một đàn cá đang bơi. Trong đó bơi đầu đàn là  con cá mẹ  to nhất, bơi tách rời đàn các con. Bơi đằng sau con cá mẹ  là những   con cá bằng nhau và con cá cuối cùng là con nhỏ nhất và bơi cách xa nhất. Như vậy khi trẻ tự vẽ tranh, với sự hướng dẫn và giải thích của cô giáo  chúng sẽ dần hiểu được nghĩa của các từ đó.  Tóm lại khi cho trẻ xem tranh kết hợp với hệ thống câu hỏi đàm thoại sẽ  giúp trẻ phát triển vốn từ một cách nhanh chóng, vốn từ của trẻ phong phú hơn   rất nhiều. *Giải pháp 2: Sử dụng các trò chơi học tập Ở trường mầm non trẻ được “ học bằng chơi, chơi mà học”.Vì vậy việc  sử  dụng các trò chơi vào các tiết học của trẻ là việc làm rất cần thiết. Nó giúp  trẻ  thấy thoải mái, vui vẻ, hứng thú và tích cực học tập hơn từ  đó sẽ  giúp trẻ  cảm thấy tự tin và mạnh dạn hơn trong giao tiếp cũng như vốn từ của trẻ phong  phú hơn, đa dạng hơn. Nhận thức dược điều này, tôi thường sử dụng một số trò chơi học tập để  phát triển vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Trò chơi “Cái gì đã thay đổi” Trước mặt các cháu tôi bày một số đồ  chơi. Yêu cầu các cháu nhắm mắt  lại, tôi thay đổi vị trí của đồ chơi hoặc cất đi và bổ sung đồ chơi khác vào vị trí  đó. Yêu cầu trẻ mở mắt ra, quan sát và nói xem cái gì đã thay đổi. Ví dụ: Trò chơi “Chiếc túi kì diệu”   Tôi cho một số đồ chơi vào túi. Trẻ phải thò tay vào, tóm được một số đồ  chơi nào đó và gọi tên chúng. Khi gọi đúng rồi mới được lôi chúng ra, nhận xét  và có thể sử dụng(tháo lắp, chơi...) Ví dụ: Trò chơi “Gặp gỡ bạn mới” Trẻ đóng vai chủ khách. Khách đến nhà, chủ mời khách vào nhà. Trò chơi   này củng cố thói quen giao tiếp ngôn ngữ, sử dụng các từ chào hỏi, mời mọc. Có thể sử dụng một số trò chơi để phát triển khả năng khái quát hóa, giúp   trẻ  hiểu nghĩa khái quát của từ, biết sử  dụng đúng bên cạnh các từ  cụ  thể  là  những từ khái quát. Chẳng hạn trò chơi “Hày kể đủ ba thứ”: Trẻ ngồi vòng tròn  hoặc hình chữ U và một trẻ ngồi hàng đầu và bắt đầu trò chơi. Khi người cầm   trò nêu tên một loại nào đó(hoa hoặc vật nuôi trong gia đình) thì các cháu khác  phải kể  được tên đủ  3 thứ  phù hợp(hoa hồng, hoa cúc, hoa lay  ơn hoặc chó,   mèo, gà...). Hay trò chơi “Ai giỏi hơn” cũng diễn ra tương tự. Có khác là sau khi  
  7. người cầm trò nêu tên một loại nào đó thì trẻ  phải thi đua kể  được càng nhiều   càng tốt các tên gọi phù hợp. Có nhiều trò chơi tùy theo sáng tạo của cô và mục đích cô đặt ra phát  triển, củng cố những từ nào đó. Thường là những từ trong một trường nghĩa(tập  chung vào một đề tài). *Giải pháp 3: Sử dụng một số biện pháp dùng lời a. Sử dụng lời kể của cô giáo. Lời kể của cô giáo dễ gây hứng thú cho trẻ khi quan sát và giúp trẻ tri giác  toàn bộ  đối tượng, thấy được các mối quan hệ  giữa các sự  vật, hiện tượng,   điều này làm cho trẻ  dần dần hiểu đầy đủ  hơn ý nghĩa của từ. Lời kể  của cô   giáo còn tạo ra mẫu mực ngôn ngữ  cho các cháu noi theo(giọng nói, ngữ  điệu,   điệu bộ...) Khi kể cho trẻ nghe, tôi luôn kể thật rõ ràng, đơn giản, dễ  hiểu đối  với trẻ, chủ yếu mô tả các đặc điểm, tính chất của đối tượng. Tôi luôn cố gắng   kể làm sao thật ngắn gọn nhưng vẫn có đầy đủ logic các phần: Mở đầu, mô tả,  kết thúc. Mở đầu của lời kể là giới thiệu về đối tượng cho trẻ làm quen và sau  đó mô tả các chi tiết,các đặc điểm, tính chất của đối tượng. Kết thúc lời kể  là   những nhận xét, đánh giá lời kể của trẻ. b. Cho trẻ quan sát trực quan kết hợp với lời giải thích. Đây là một biện pháp tích cực hóa vốn từ  của trẻ. Khi trẻ tự kể chuyện,  trẻ  sẽ  gọi tên, kể  ra các đặc điểm của các loại hoa quả, con vật...đó là điều   kiện để các từ ngữ ở trạng thái bị động chuyển thành chủ động, tích cực. Để giải thích cho trẻ hiểu từ trong tác phẩm văn học bằng biện pháp này thì  trước hết tôi chọn từ có nghĩa cụ thể. Có như vậy thì việc sử dụng đồ dùng trực   quan kết hợp với lời giải thích mới có hiệu quả. Ví dụ:Trong bài thơ  “ Giữa vòng gió thơm” tôi sẽ  lựa chọn một số  từ  có   nghĩa cụ thể sau để giải thích:                                   “Khép rủ” trong câu “Cái màn khép rủ” “Phe phẩy” trong câu “Phe phẩy quạt nan”   “Rung rinh” trong câu “Rung rinh góc màn” Để  giải thích được những từ  này thì tôi lựa chọn đồ  dùng trực quan phù   hợp với từ  đó, kết hợp với lời giải thích. Lời giảng giải luôn ngắn gọn, cô  đọng, dễ hiểu và hấp dẫn đối với trẻ. Ví dụ: Khi giải thích từ “phe phẩy” trong câu thơ “phe phẩy quạt nan” thì  tôi đọc cho trẻ nghe cả câu một đến hai lần hoặc cả một đoạn thì từ mới không  bị  tách rời khỏi ngữ  cảnh, và như  vậy trẻ  sẽ  cảm nhận tốt hơn. Tiếp theo tôi   dùng biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với lời giải thích để giúp trẻ  hiểu được nghĩa của từ  mà tác giả  dùng trong câu, trong bài thơ  hay trong câu  chuyện ấy. Ví dụ: Trong bài thơ “Giữa vòng gió thơm”
  8. Giải thích từ “khép rủ” trong câu “Cánh màn khép rủ” tôi cho trẻ quan sát  một bức tranh vẽ  một căn nhà nhỏ  có một chiếc giường, có người nằm bên   trong, màn thì vẫn buông xuống, hai cánh màn khép lại. Tôi vừa chỉ  vào bức  tranh và dùng lời giải thích cho trẻ  hiểu là bà bị   ốm nằm trên giường, màn thì   buông xuống, cánh màn khép lại, chỉ với từ “khép rủ” tác giả muốn nói tới cảnh   bà bị ốm, không gian ảm đạm và buồn bã. Việc lựa chọn những từ cần giải thích và đề ra cách giải thích làm rõ mục  đích yêu cầu của tiết học là hoàn toàn phụ  thuộc vào ý đồ  chủ  quan và nghệ  thuật sử dụng đồ dùng trực quan của cô giáo. Vì vậy, tôi luôn sử dụng đồ dùng   trực quan một cách linh hoạt, sáng tạo, kết hợp lời giảng giải diễn tả về nghĩa   của từ trong văn cảnh đó sẽ giúp trẻ hiểu và cảm nhận từ ngữ nghệ thuật một   cách sâu sắc, tạo cho trẻ niềm say mê hứng thú, tích cực suy nghĩ, tìm tòi khám  phá những bí ẩn của thế giới xung quanh. c. Đối chiếu so sánh với những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Để  thực hiện biện pháp này có hiệu quả  thì trước hết tôi lựa chọn từ  trong  tác phẩm, những từ  được lựa chọn để  giải thích bằng biện pháp này phải là  những từ có thể đem ra đối chiếu hoặc so sánh để làm nổi bật nghĩa của từ.Sau  đó quy những từ  cần giảng về  những từ  đồng nghĩa hay trái nghĩa mà trẻ  đã   biết, có như  vậy việc giúp trẻ  hiểu nghĩa từ  theo biện pháp này mới có hiệu  quả. Khi lựa chọn từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cần giải thích, tôi chọn  những từ ngữ mà trẻ đã biết phối hợp với khả năng lứa tuổi của trẻ. Nếu dùng  những từ trẻ chưa biết này để giải thích cho từ chưa biết khác thì trẻ vẫn không  thể nắm được nghĩa của từ cần giải thích. Ví   dụ:   Trong  câu chuyện  Cây  tre  trăm   đốt  có thể  lựa chọn  từ   “khỏe  mạnh” trong câu “lão thuê một anh nông dân nghèo, khỏe mạnh để  cày ruộng  cho lão”. Để giải thích từ này tôi đưa một từ trái nghĩa quen thuộc với trẻ như là   từ  “ốm yếu” cô giải thích để  trẻ  thấy khỏe mạnh là người có sức khỏe tốt và   làm được nhiều việc, còn người mà “ốm yếu” thì sức khỏe không tốt và không   làm được nhiều việc. Tôi đưa ra từ  trái nghĩa nhằm làm cho từ  cần giải thích  được nổi bật và tạo cho trẻ có ấn tượng. Có thể  dùng câu hỏi như: Người mà  ốm yếu có làm được công việc nặng nhọc không? Người khỏe mạnh làm được  những công việc gì? Với những câu hỏi này giúp trẻ có được những hình ảnh về  người khỏe mạnh và như vậy trẻ sẽ hiểu sâu xa hơn nghĩa của từ này. Từ  “chịu khó” trong câu “Anh chịu khó cày ruộng cho ta trong ba năm”.  Đây cũng là từ  mà không thể  dùng trực quan để  giải thích cho trẻ   hiểu được.  Để giải thích từ này cho có hiệu quả thì tôi giảng giải bằng cách đưa ra một từ  đồng nghĩa quen thuộc với trẻ là từ  “chăm chỉ”, “chịu khó” là “chăm chỉ” hoặc  đưa ra từ trái nghĩa là “ lười biếng” là không chăm chỉ, không chịu khó.
  9. Khỉ sử dụng biện pháp này tôi luôn theo dõi phản ứng chung của trẻ trong   lớp, nếu trẻ  tỏ  ra lúng túng thì tôi sẽ  chọn từ  đồng nghĩa hoặc trái nghĩa quen   thuộc hơn để giúp trẻ hiểu. Với biện pháp này trẻ sẽ dễ dàng hiểu được nghĩa   của từ một cách ngắn gọn, dễ nhớ, dễ gây ấn tượng đối với trẻ. Biện pháp này  còn  ảnh hưởng tích cực đến sự  phát triển khả  năng tư  duy, suy luận của trẻ.   Ngoài việc hiểu được nghĩa của từ  bằng các tác phẩm, trẻ  còn hiểu được từ  như  thế  nào là đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với nhau. Từ  đó trẻ  có thể  sử  dụng   chúng trong hoạt động lời nói của mình. Tôi luôn lựa chọn từ  đồng nghĩa hay  trái nghĩa phù hợp với trẻ, phù hợp với ngữ cảnh đó để giải thích cho trẻ hiểu. *Giải pháp 4: Mở rộng vốn từ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi. Để giúp trẻ phát triển vốn từ một cách tốt nhất tôi luôn dạy trẻ  mọi lúc,   mọi nơi, qua các giờ hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ hằng ngày. Ví dụ: Trong giờ đón, trả trẻ tôi luôn dạy trẻ chào hỏi lễ phép với ông bà,   cha mẹ, cô giáo. Trong giờ  hoạt động học, hoạt động vui chơi tôi cho trẻ  xem  tranh ảnh, vật thật được trang trí trên lớp, tường, các góc chơi theo chủ đề, kích  thích trẻ trả lời câu hỏi của cô, cho trẻ làm quen với các từ mới, từ khó, dần dần  vốn từ của trẻ được hình thành, ngôn ngữ của trẻ được hoàn thiện. Trong giờ ăn, tôi thường yêu cầu trẻ: Nói tên các món ăn mà trẻ được ăn,  lợi ích của các món ăn đó. Qua giờ dạo chơi tham quan, tôi cho trẻ quan sát các đồ vật, đồ chơi khác  nhau theo từng chủ đề. Tùy từng loại đồ vật, đồ  chơi mà tôi đặt ra các câu hỏi  cho phù hợp. Ví dụ: Chủ đề “Phương tiện và luật lệ giao thông”, cho trẻ đi đến nhà xe  và tôi hỏi:  Trong nhà xe có những loại xe gì đây? Đặc điểm của xe? tác dụng của xe? Ví dụ: Chủ đề “Thế giới thực vật”, tôi cho trẻ quan sát các loại cây xung  quanh sân trường. Hỏi trẻ: Đây là cây gì? Cây có đặc điểm gì? Cây có tác dụng   gì? Cây cần gì để sống được?.... Trong các giờ hoạt động khác, tôi thường xuyên lồng ghép, giúp trẻ nhận  biết các sự vật, hiện tượng một cách nhẹ  nhàng, phù hợp nhằm phát triển vốn   từ cho trẻ. Qua những việc làm trên tôi thấy trẻ rất hứng thú, tiếp thu kiến thức một   cách nhẹ nhàng, thoải  mái. Trong khi tổ chức hoạt động, tôi luôn quan tâm đến  từng trẻ, lắng nghe trẻ  nói. Nếu trẻ  nói sai tôi kịp thời sửa sai, uốn nắn trẻ.   Trong mọi sinh hoạt hằng ngày, tôi luôn cố gắng là tấm gương sáng cho trẻ noi  theo cả về lời nói, hành động, việc làm. *Giải pháp 5: Sử dụng đồ chơi để phát triển vốn từ. Ngay từ khi trẻ còn nằm trong nôi trẻ đã biết hứng thú hớn hở  khi   nghe tiếng súc xắc leng keng hay những quả bóng đỏ xanh, những con gấu, con  
  10. thỏ  búp bê….Đồ  chơi trong mắt trẻ  luôn là thế  giới thần tiên riêng biệt vì đồ  chơi thỏa mãn nhu cầu giải trí vui chơi của trẻ  vì vậy đồ  chơi cho trẻ  phải   phong phú, đẹp, hấp dẫn, an toàn thỏa mãn nhu cầu của trẻ.         Đồ  chơi giúp trẻ  học mà chơi, chơi mà học và đồ  chơi còn giúp trẻ  thỏa   mãn nhu cầu giao tiếp . Hàng ngày trẻ được trò chuyện cùng búp bê, gấu bông,  từ  đó ngôn ngữ  của trẻ  được phát triển và kích thích sự  hứng thú của trẻ  giúp  trẻ  dễ  nhớ, lâu quên và tạo không khí buổi học thoải mái, vui vẻ  đạt kết quả  cao nhưng với điều kiện cô giáo phải sử dụng đồ dùng đồ chơi đó sao cho đúng  lúc đúng chỗ phù hợp với nội dung bài dạy, lứa tuổi trẻ. Vì thế hàng ngày hàng  giờ  tôi cùng các chị  em trong trường, cùng phụ  huynh sưu tầm các nguyên vật  liệu   thiên   nhiên,   tận   dụng   những   nguyên   vật   liệu   sẵn   có   như   chai,   lọ,   vải   vụn….để làm ra những đồ chơi đẹp, hấp dẫn lôi cuốn trẻ vào bài học. Trong các giờ học, tôi luôn chú ý đến việc lựa chọn đồ chơi cho phù  hợp với   lứa  tuổi.  Trẻ   5­6  tuổi  tôi sử   dụng các   đồ  chơi lắp  ghép nhiều  bộ  phận(Đoàn tàu, ngôi nhà) Có thể  sử  dụng nhiều đồ  chơi khác nhau cùng một lúc. Ban đầu chúng được  giấu kín trong túi, sau được đưa ra lần lượt cho trẻ  xem, sử  dụng trao đổi về  nó...Trẻ phải gọi tên chính xác đồ chơi, màu sắc và các bộ phận của nó(tàu hỏa   màu xanh, có đầu tàu, các toa tàu nối đuôi nhau. Trong đầu tàu có chú lái tàu. Các  bánh xe bám vào đường ray. Trên các toa tàu có các hành khách và hàng hóa...) Tôi luôn chú ý cho trẻ được sử dụng đồ chơi(tháo lắp, cho trẻ hoạt động...) Sau khi thực hiện biện pháp này tôi thấy trẻ  rất hứng thú tham gia  vào hoạt động  học cũng hoạt động chơi, từ đó trẻ thường xuyên trao đổi, diễn  đạt nhừng gì trẻ biết với cô giáo và các bạn. Qua đây, vốn từ của trẻ ngày càng   phong phú, trẻ diễn đạt được bằng lời nói những suy nghĩ hay mong muốn của   bản thân mình với mọi người xung quanh. 2 .Về khả năng áp dụng của sáng kiến:  Sáng kiến có khả năng áp dụng  rỗng rãi cho trẻ 5­6 tuổi trong các trường mầm non. II. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được do áp   dụng giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:               Sau một thời gian nghiên cứu và thử nghiệm đề tài, tôi thấy việc phát  triển vốn từ cho trẻ là rất quan trọng. Nó quyết định đến sự thành công của giáo   viên trong quá trình giảng dạy. Tôi thấy rằng các biện pháp mà tôi đưa ra đã giúp  cho hiểu được: *Những từ ngữ về cuộc sống riêng: ­ Trẻ  hiểu và dùng từ  đúng về  cuộc sống gia đình, về  công việc của bố  mẹ, anh chị em: bố lái xe, mẹ bán hàng, chị đi học, bé đến trường mầm non…..
  11. ­ Nắm được từ ngữ về nội quy quy định ở  trường, lớp, nơi công cộng, đi   học đúng giờ… ­ Trẻ  hiểu biết chi tiết và gọi tên các sự  vật trong tầm nhìn của trẻ, nói  được đặc điểm, công dụng của đồ  vật, nắm vững được các đặc điểm của đối  tượng tạo điều kiện cho trẻ so sánh những điểm giống và khác nhau của ác sự  vật, hiện tượng. ­ Trẻ nắm được các khái niệm và dùng đúng các từ chỉ thời gian: hôm nay,   hôm qua, ngày mai….Biết sử  dụng đúng một số  từ  ghép, từ  nhiều nghĩa, thành   ngữ…. *Những từ ngữ về cuộc sống xã hội: ­ Mở rộng vốn từ về phương tiện giao thông và các đặc điểm hoạt động  của nó. ­ Khái niệm về Tổ quốc, quê hương, nhân dân. ­ Trẻ hiểu biết được vốn từ về địa phương, xã, phường, tỉnh các danh lam   thắng cảnh. ­ Mở rộng hiểu biết về các ngày lễ lớn. *Những từ ngữ về thế giới tự nhiên: ­ Trẻ  so sánh được những con vật, tìm được những điểm giống nhau để  phân loại, khái quát. ­ Nói được các mùa trong năm: mùa xuân ấm áp có mưa phùn, mùa hạ nắng   chói chang, mùa thu mát mẻ, nắng đẹp, mùa đông rét buốt, trời u ám…  ́ ̉ ững giai phap trên ch Co thê nh ̉ ́ ưa phai la giai phap co hiêu qua tuyêt đôi ̉ ̀ ̉ ́ ́ ̣ ̉ ̣ ́  nhưng đôi v́ ơi ban thân tôi no đa mang lai kêt qua tôt.Tre h ́ ̉ ́ ̃ ̣ ́ ̉ ́ ̉ ứng thu, hoat bat, ́ ̣ ́  ̣ ̣ nhanh nhen, giao tiêp manh dan h ́ ̣ ơn, sử dung vôn t ̣ ́ ừ co biêu cam, tinh tê h ́ ̉ ̉ ́ ơn.. Để thấy rõ kết quả này tôi đã lập biểu bảng so sánh để khảo sát 31 trẻ tại   các giai đoạn: Kết quả khảo sát trẻ trước khi áp dụng sáng kiến(9/2018) Sĩ  Các chỉ tiêu đánh giá Kết quả số Đạt Chưa đạt 31  Trẻ hứng thú tham gia các hoạt  35.5% 64.5% trẻ động Trẻ phát âm đúng 67.7% 32.3% Hiểu được nghĩa của từ 61,3% 39,7% Phát triển ngôn ngữ­ diễn đạt tốt 61,3% 39,7%                            Kết quả khảo sát trẻ sau khi áp dụng sáng kiến(1/2019)
  12. Sĩ  Các chỉ tiêu đánh giá Kết quả số Đạt Chưa đạt 31  Trẻ hứng thú tham gia các hoạt  3,2% 96.8% trẻ động Trẻ phát âm đúng 90,3% 9,7% Hiểu được nghĩa của từ 96,8% 3,2% Phát triển ngôn ngữ­ diễn đạt tốt 93,5% 6,5%                           BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN Khảo sát trước  Khảo sát sau khi  Nội dung So sánh S khi thực hiện thực hiện T Đạt Không  Đạt Không  Tỉ lệ  T đạt đạt đạt  Tăng 1 Trẻ hứng thú tham gia  35.5% 3,2% 32,3% 64,5% 96.8% các hoạt động 2 Trẻ phát âm đúng 67,7% 32.3% 90,3% 9,7% 22,6% 3 Hiểu được nghĩa của  61,3% 39,7% 96,8% 3,2% 35,3% từ 4 Phát triển ngôn ngữ­  61,3% 39,7% 93,5% 6,5% 32,2% diễn đạt tốt          Qua việc khảo sát trong hai lần, lần một vào tháng 9, lần hai vào tháng 1 đã  cho thấy tỉ  lệ  trẻ  đạt tăng lên rất cao. Trẻ  có kỹ  năng giao tiếp tốt, phát triển   ngôn ngữ mạch lạc có nhiều tiến bộ.   Nhiều phụ  huynh đã tích cực phối hợp với giáo viên trong việc tổ  chức  cho các cháu đi tham quan. * Đối với giáo viên: Qua việc thực hiện đề  tài này, kết quả  trên trẻ  cho   thấy hiệu quả của việc thay đổi, vận dụng một số  hình thức phát triển vốn từ  cho trẻ là rất cần thiết và không thể thiếu trong quá trình tổ chức hoạt động của   cô và trẻ. Tôi thấy việc thực hiện đề  tài này không chỉ  phù hợp với lớp tôi mà  còn có thể  triển khai  ở  các lớp mẫu giáo lớn khác nói riêng cũng như  các lứa  tuổi mẫu giáo nói chung và có thể tiếp tục thực hiện trong những năm sau. Tôi 
  13. cảm thấy bản thân mạnh dạn, tự  tin hơn khi dạy trẻ, nắm chắc các phương  pháp khi tổ chức các hoạt động cho trẻ. Ngoài ra , tôi còn được phụ huynh thêm  tin yêu và kính trọng hơn vì họ nhận thấy sự thay đổi trong lời nói của con mình.  Đó chính là động lực rất lớn giúp tôi thêm yêu nghề  và mong muốn được cống  hiến và đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp giáo dục. III. Các thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không. IV. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:   *Điều kiện về cơ sở vật chất: ­ Các trang thiết bị cần thiết: Máy tính, máy chiếu. ­ Các đồ dùng, đồ chơi sẵn có và tự tạo... ­ Lớp học đầy đủ trang thiết bị cần cho trẻ.   *Điều kiện về giáo viên:  Giáo viên mầm non, yêu nghề, nhiệt tình, ham học hỏi, sáng tạo, nhiều  năm kinh nghiệm.   *Điều kiện về trẻ: ­ Trẻ lớp 5 ­ 6 tuổi. V.   Về  khả  năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ  quan, tổ chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến  lần đầu (nếu có): Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi cho trẻ 5 ­ 6 tuổi tại  các trường mầm non. Tôi làm đơn nay trân trọng đề  nghị  Hội đồng sáng kiến xem xét và công nhận sáng  kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự  thật, không xâm  phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm về thông tin đã nêu  trong đơn. Bình Xuyên, ngày  tháng    năm 2019                NGƯỜI VIẾT ĐƠN.                                                                                                  Trần Thị Dung
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2