
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Con người - với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát
triển khi có những cơ sở vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã
hội loài người, ý thức về xã hội, về cộng đồng người còn hạn chế nhưng
người nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ hao quả tự nhiên, chim thú săn bắt được,
những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Hay nói
cách khác, con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển con người
phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thoả mãn nhu cầu nhất định. Sở
hữu được hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao
động (Ngày nay còn bao gồm cả tư liệu sản xuất) của xã hội loài người. Sở
hữu là phạm trù cơ bản, phức tạp và hàm xúc của kinh tế - chính trị học,
thường được bàn nhiều và cũng đang tồn tại không ít ý kiến khác nhau và đối
lập nhau nhưng tựu trung đều dựa trên nguyên tắc phương pháp luận coi sở
hữu như quá trình chiếm hữu và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giải thích nội
dung kinh tế của sở hữu khao học kinh tế tư sản chỉ thấy trong sở hữu các
quyền tài sản và sự phân biệt đang tăng lên của các quyền này; còn kinh tế -
chính trị học truyền thống của CNXH coi sở hữu như quan hệ "Chủ - khách
thể bị chiếm hữu bởi chủ thể" hay "Quan hệ giữa con người về việc chiếm
hữu các yếu tố và kết quả sản xuất" do đó thường các quan niệm trên quy sở
hữu tư bản chủ nghĩa thành sự chiếm hữu tư nhân(chế độ tư hữu) và sở hữu
XHCN thành sự chiếm hữu toàn dân về các điều kiện và kết quả sản xuất (chế
độ công hữu). Những quan niệm này bộc lộ chỗ yếu là đồng nhất các quan hệ
pháp lý của kiến trúc thượng tầng với các cơ sở kinh tế của xã hội. Lẫn lộn
các hiện tượng kinh tế với các quan hệ bên trong, ổn định, đang quy định tính
chất và xu thế vận động của các hiện tượng và quá trình này xoá nhoà ranh
giới khác nhau giữa các chế độ kinh tế và các hình thức sở hữu, do đó đã hiển
nhiên hạ thấp vai trò lịch sử, đặc biệt của sở hữu trong hệ thống sở hữu xã

2
hội. Cách tiếp cận trên về sở hữu đã tỏ ra không để để giải thích sở hữu tư
sản hiện đại hơn nữa "Nó trở thành công cụ biện hộ cho việc Nhà nước hoá
toàn bộ nền kinh tế và nảy sinh hệ thống hành chính chỉ huy của kinh doanh
trong CNXH Nhà nước". Do vậy, việc tìm hiểu nội dung kinh tế của sở hữu là
cần thiết chẳng những đối với lý luận kinh tế học nói chung mà còn để có thể
đánh giá được các đổi mới và thực chất của sở hữu tư sản hiện đại, về thực
chất của mô hình XHCN kiểu cũ dựa trên chế độ công hữu thuần nhất, và về
con đường tất yếu chuyển đổi nó sang thị trường.
Đương nhiên sở hữu như một phạm trù kinh tế, khác sở hữu như một
phạm trù của luật học và các khoa học xã hội khác, không phải là quan hệ chủ
thể - khách thể, tuy rằng quan hệ chủ thể - khách thể "Vật liệu xây dựng" cho
sở hữu kinh tế và là xuất phát điểm cho mọi quá trình kinh tế. Hơn nữa, đã có
sự chuyển hoá sở hữu thực tế thành sở hữu kinh tế được gây ra bởi quá trình
phản ứng kinh tế - xã hội, trong điều kiện phân công lao động xã hội và có sự
trao đổi sản phẩm lao động (Mà điều kiện trao đổi là: chiếm hữu tư nhân về
các sản phẩm khác nhau và sự trao đổi là tương đương).
Vậy các quan hệ kinh tế trong những điều kiện lịch sử nhất định đã bắt
buộc sự chiếm hữu riêng rẽ của những người khác nhau về các điều kiện và
kết quả sản xuất khác nhau, nói cách khác, bắt buộc xuất hiện hình thái đối
kháng của sự thống nhất xã hội, xuất hiện mâu thuẫn kinh tế giữa những đại
diện các yếu tố sản xuất tức là các quan hệ sở hữu. Từ đây, có thể rút ra các
kết luận chính về vấn đề sở hữu, trước khi chúng ta đi phân tích cụ thể sự tồn
tại, vận hành của nó trong "Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở
Việt Nam":
Thứ nhất, Bản chất sở hữu như một phạm trù kinh tế bộc lộ ra ở chỗ nó
chứa đựng các chất lượng xã hội đặc biệt, gây ra bởi sự phân cực kinh tế giữa
các vật khác nhau và những người khác đại diện cho vật, do đó bắt buộc phải
cần đến nhau.

3
Thứ hai, sở hữu luôn giả định (bắt buộc) các cơ sở tư nhân của mình, nó
đảm bảo sự quan tâm kinh tế của người sản xuất hàng hoá - động lực thực sự
của sản xuất, đảm bảo hoạt động bình thường và hiệu quả của phân công lao
động xã hội. D. Ricado nói đại ý: Sở hữu tư nhân như là kết quả của phân
công lao động xã hội.
Thứ ba, nhưng sở hữu tư nhân như là hình thái lịch sử chung, là điều
kiện xã hội chung của sản xuất, luôn tồn tại dưới những hình thái cụ thể, đặc
thù của sở hữu.
Thứ tư, quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trìu tượng, chỉ bộc lộ khi ta
phân tích các chất lượng kinh tế.
Thứ năm, bộc lộc các cơ sở chung thống nhất giữa sở hữu và giá trị. Đó
là nhờ giá trị phát triển trên cơ sở quan hệ sở hữu; Nói cách khác sở hữu là
quan hệ định tính của quan hệ kinh tế, còn giá trị là quan hệ định lượng của
các quan hệ này.
Với lý luận trên, nhiều công trình khoa học nghiên cứu lịch sử, xã hội,
triết học... đều thống nhất rằng: sở hữu - một phạm trù kinh tế mang yếu tố
khách quan - xuất hiện, phát triển song sung trung với sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Mặt khác, quan hệ sở hữu và chế độ sở hữu
còn mang bản chất giai cấp. Chúng ta đứng trên lập trường tư tưởng là chủ
nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề sở hữu qua các hình thái kinh tế - xã
hội và đặc biệt quan trọng là "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay".
Hơn thế nữa, ngày nay "Vấn đề sở hữu" còn là đối tượng nghiên cứu của
nhiều môn khoa học xã hội khác với các góc độ tiếp cận khác nhau, như: Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật; Luật dân sự; Luật hôn nhân và gia đình;
Luật doanh nghiệp; Luật đất đai; Kinh tế môi trường vv...
Đây còn là vấn đề quan tâm có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi
tổ chức và cá nhân: Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết

4
định địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm quyền; Sở hữu là cơ sở kinh tế và
là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền năng pháp lý trên đó.
Đối với nước ta hiện nay, thực hiện việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển TBCN là một mô thức không có tiền lệ thì việc
đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén,
trong đó có lý luận về vấn đề sở hữu" là tất yếu khách quan. Nó không chỉ là
kim chỉ nam cho hành động kinh tế của đất nước, mà còn góp phần giải quyết,
tháo gỡ vướng mắc, khắc phục sai lầm lệch lạc của thực tiễn quản lý điều
hành phát sinh vì sự hoàn thiện của chế độ sở hữu XHCN, từ đây tạo ra cái
nền vật chất pháp lý cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Trong tất cả sự hiểu biết còn hạn chế của mình em xin được trình bày
vấn đề đặt ra của đề án với lòng mong muốn được học hỏi hiểu biết dưới sự
chỉ bảo và hướng dẫn của thầy giáo Lê Việt. Để bài viết sau của em được
hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!

5
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về
phạm trù sở hữu
1. Một số khái niệm liên quan
a. Chiếm hữu là gì?
Để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu là
phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện trước tiên của hoạt động
lao động sản xuất. Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể và xã hội. Đối tượng
của chiếm hữu từ buổi ban đầu của loài người là cái có sẵn trong tự nhiên
cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các chủ thể chiếm hữu không
chỉ chiếm hữu tự nhiên mà cả xã hội, tư duy, thân thể, cả các vô hình và cái
hữu hình. Trong kinh tế, chiếm hữu cả sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng.
b. Sở hữu là gì?
Theo quan điểm của Mác xít khái niệm gốc của sở hữu là "Sự chiếm
hữu". Theo đó: Sở hữu là hình thức xã hội - lịch sử nhất định của sự chiếm
hữu, cho nên có thể nói: Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính chất
lịch sử cụ thể của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất và
phi sản xuất. Sở hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng - đối tượng của sự chiếm
hữu. Đồng thời sở hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ
giữa con người với nhau về vật dụng.
Quan hệ sở hữu có thể là những quan hệ về kinh tế và pháp lý. Nói cách
khác, quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ mặt pháp lý, theo nghĩa