
SPF & SPR - Thông tin hữu
ích cần biết
Cùng với việc phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng hiện nay, chúng ta
đang dần quen với hai cụm từ Tôm sạch bệnh - SPF và tôm kháng
bệnh - SPR. Vậy thì như thế nào gọi là SPF và SPR? Nhận định về
chúng như thế nào cho đúng? Có những điều gì cần biết để khắc
phục các yếu điểm của SPF & SPR?
1. Tôm sạch mầm bệnh (SPF = Specific Pathogen Free)
Tình trạng sạch mầm bệnh thể hiện rằng con tôm đó đã trải qua một quá
trình kiểm dịch và sàng lọc bệnh nghiêm ngặt khẳng định rằng chúng
không có những mầm bệnh nhất định mà người nuôi quan tâm. Đặc
điểm này cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia hoặc các khu vực vẫn
chưa có loài này có thể có cơ sở để chắc chắn rằng việc nhập khẩu các
con tôm sạch bệnh này sẽ không dẫn đến việc du nhập những mầm bệnh
nhất định mà những con tôm đó sẽ không bị nhiễm những mầm bệnh
chưa biết hoặc đã biết nhưng không được sàng lọc.
Liên quan đến nghĩa chính xác của SPF, ở Châu Á đang có sự lẫn lộn
nghiêm trọng. Chẳng hạn như, rất nhiều người tin rằng những con tôm
sạch mầm bệnh có khả năng kháng bệnh và không thể nhiễm những
mầm bệnh virus mà chúng gặp phải trong quá trình nuôi. Điều này rõ

ràng là không đúng. SPF có nghĩa là những con tôm này đã được đảm
bảo là không có một số mầm bệnh. Liệu một con tôm hoặc một giống
tôm có thể có khả năng di truyền chống chịu một mầm bệnh nào đó hay
không không liên quan đến tình trạng hiện nay của nó. SPF chỉ ám chỉ
đến tình trạng mầm bệnh hiện tại đối với một số mầm bệnh chứ không
đề cập đến khả năng kháng bệnh hay tình trạng mầm bệnh tương lai
(Lozt, 1997).
Những con tôm SPF đích thực là những con tôm được sản xuất tại
những cơ sở nuôi an toàn sinh học, được kiểm tra nhiều lần và được
nhận định là sạch mầm bệnh thông qua việc sử dụng rất nhiều các quy
tắc quan trắc và có nguồn gốc từ những con tôm bố mẹ được nuôi với
những quy tắc phát triển số lượng bố mẹ nghiêm ngặt. các con tôm bố
mẹ này được tạo ra thông qua những quy trình kiểm dịch rộng rãi.
Những quy trình đó đưa đến các thể hệ F1 sạch mầm bệnh có nguồn gốc
từ tôm bố mẹ đánh bắt tự nhiên (Lozt, 1997). Chỉ khi được nuôi và giữ
trong những điều kiện này ta mới có thể có được các giống SPF thực sự.
Hiện chưa có một quy tắc thống nhất trên phạm vi quốc tế đối với sự
phát triển của tôm SPF và dĩ nhiên là tồn tại sự khác biệt về chất lượng
của các giống SPF khác nhau. Một khi những con tôm này được đưa ra
khỏi các cơ sở sản xuất SPF, chúng không còn được coi là SPF mặc dù
chúng có thể vẫn sạch mầm bệnh. Một khi ra ngoài cơ sở SPF, những
con tôm đó sẽ được gọi là Siêu khỏe (Hight Health – HH) vì chúng dễ có
nguy cơ nhiễm bệnh lớn hơn (so với khi ở trong trại sản xuất), trong

trường hợp nếu chúng được đưa vào một cơ sở tốt, có truyền thống về
các quy đinh giám sát dịch bệnh và an toàn sinh học. Nếu được đưa vào
những nơi khác, chẳng hạn như vào một nơi nuôi vỗ không đạt an toàn
sinh học, một trại giống hay một đầm nuôi, chúng sẽ không còn được
gọi là SPF hay HH vì lúc này chúng ở trong môi trờng có nguy cơ lây
nhiễm cao.
Mục tiêu cơ bản của các cơ sở SPF là sản xuất các giống tôm sạch bệnh,
thuần hóa và cải thiện chúng về mặt di truyền cho quá trình nuôi trồng.
Đối với tôm chân trắng (P. vanamei) và tôm xanh Nam Mỹ (P.
stylirostris), những dòng tôm SPF là sẵn có nên sẽ là có lý nếu sử dụng
chúng để bắt đầu các chương trình gây giống ở những nước sắp đưa
những loài này vào đầu tiên. Điều này là có ý nghĩa nếu các dòng SPF
không kháng được những mầm bệnh cơ bản thì chúng cũng không bị
nhiễm các mầm bệnh đó. Ngoài ra, các loài tôm này cũng đã được thuần
hóa, có tốc độ lớn và các đặc điểm về tập tính khiến người nuôi ưa
chuộng chúng hơn là tôm bố mẹ có nguồn gốc tự nhiên. Điều quan trọng
cần lưu ý ở đây là sức khỏe nên được đề xuất là một phần trong việc
đánh giá nguy cơ đầy đủ cần cân nhắc trước khi đưa chúng vào nuôi.
Những khía cạnh quan trọng khác như liệu những loài sinh vật ngoại lai
nhập khẩu này có xâm lấn không và khi thoát ra môi trường tự nhiên
chúng có những tác động đối với những loài sống tự nhiên hay môi
trường không.

Những công trình nghiên cứu gần đây của một số quốc gia và công ty tư
nhân đã tập trung nỗ lực vào việc phát triển những giống SPF và cũng
kháng được một số mầm bệnh (SPF/SPR). Đây là quá trình lâu dài và
thường tập trung vào một mầm bệnh cùng một lúc. Nên mặc dù sự phát
triển những dòng kháng mầm bệnh là đích đến lâu dài của chương trình
giống SPF nhưng dường như chương trình này sẽ không bao giờ đưa
được đến những dòng không bị nhiễm bất cứ loại vi sinh gây bệnh nào
(Lozt, 1997).
Mặt trái tiềm tàng của những con tôm SPF là chúng chỉ sạch một số
bệnh nhất định đã được kiểm tra. Có nghĩa là sẽ bao hàm những mầm
bệnh đã được biết đến là gây những tổn thất lớn đối với ngành nuôi tôm
như đốm trắng (WSSV), đầu vàng (YHV), Taura (TSV), hoại tử cơ
(IHHNV), BPV và hoại tử gan tụy (HPV) cũng như các bào từ nhỏ, bào
tử đơn (haplosporidians), gregarine, giun tròn (nematodes) và censtodes.
Mặc dù đã trải qua sự sàng lọc như vậy nhưng đối với những loại virus
mới chưa bộc lộ hoặc “bí ẩn” có thể xuất hiện song do bởi chúng chưa
được nhận diện nên vẫn có thể thoát khỏi sự kiểm dịch. Ví dụ điển hình
trong tài liệu của Brock và ctv (1997) cho rằng tôm ở Brazin và
Colombia bị bệnh Taura (TSV) là do các con tôm SPF được đưa từ
Hawaii tới. Tại thời điểm lúc bấy giờ TSV chưa được biết đến là một
nguyên nhân gan nên bệnh virus và đã không được kiểm tra trong các
quy tắc SPF.

Thêm vào đó, những bệnh dịch mới có thể xuất hiện do những đột biến
của những vi sinh vật vốn trước kia không phải là mầm bệnh gây nên –
ví dụ như các loại virus ARN có khả năng đột biến cao – nên vẫn có khả
năng sự du nhập tôm SPF có thể không loại trừ sự du nhập của mầm
bệnh.
Một vấn đề nữa cần nói đến là nếu tôm SPF được nuôi trong các cơ sở
có lượng virus cao có thể dẫn tới tỷ lệ tôm chết cao vì những con tôm
sạch mầm bệnh không nhất thiết là những con tôm kháng bệnh tốt hơn
so với những con tôm không sạch mầm bệnh, ngược lại, trong một số
trường hợp chúng còn kháng bệnh kém hơn. Chính vì thế, tôm sạch
mầm bệnh thích hợp trong hệ thông nuôi an toàn sinh học hơn. Điều này
có thể giải thích lý do tại sao những trại nuôi không đảm bảo an toàn
sinh học hợp ở Châu Mỹ La Tinh lại dựa nhiều vào tôm SPR chứ không
phải là tôm SPF.
Cho dù là trường hợp nào đi chăng nữa, việc sử dụng các giống SPF chỉ
là một phần trong kế hoạch hoàn chỉnh về giảm thiểu rủi ro dịch bệnh
trong nuôi tôm. Sự phát triển của các dòng SPF được thiết kế nhằm giúp
đảm bảo rằng tôm giống được thả vào trong các ao nuôi thương phẩm
không có bệnh. Đây là một trong những nguồn lây nhiễm bệnh nếu
không muốn nói là nguồn lây nhiễm bệnh nghiêm trọng nhất. Những
khía cạnh khác trong chiến lược này cần phải thực hiện bao gồm: các
chiến lược để đảm bảo tôm bố mẹ, trứng ấu trùng naupli, ấu trùng larvae
và tôm nhỏ lấy từ dòng SPF vẫn là SPF, ví dụ như an toàn sinh học