intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự thay đổi phương thức quản lý trong nền kinh tế tri thức

Chia sẻ: Banh Long | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

159
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Con người là tài sản quan trọng nhất của chúng ta". Hành vi của các nhà lãnh đạo và quản lý nhân lực thời nay ở các tập đoàn kinh doanh thành đạt đã cho người ta một kết luận như vậy. Con người được đối xử giống như một phí tổn biến đổi (variable cost), bởi nó là thứ tài sản luôn luôn sinh lợi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự thay đổi phương thức quản lý trong nền kinh tế tri thức

  1. Sự thay đổi phương thức quản lý trong nền kinh tế tri thức thanhthuy Saga.vn "Con người là tài sản quan trọng nhất của chúng ta". Hành vi của các nhà lãnh đạo và quản lý nhân lực thời nay ở các tập đoàn kinh doanh thành đạt đã cho người ta một kết luận như vậy. Con người được đối xử giống như một phí tổn biến đổi (variable cost), bởi nó là thứ tài sản luôn luôn sinh lợi. Trong những năm sắp tới, người ta sẽ đánh giá tài sản chính của một Công ty không phải bằng quy mô của những nhà máy (máy móc, nhà xưởng, đất đai.. ), cũng như ngay cả nguồn vốn truyền thống là tài sản về tài chính. Trong một nền kinh tế dựa vào trí óc hơn là chân tay, có xu hướng chuyển đổi mạnh mẽ sang công việc cần đến tri thức. Sáng kiến thúc đẩy mọi hoạt động và các Công ty sẽ phải thường xuyên tìm đến phương thức mới để tạo giá trị. Các phương thức thương mại cũ như bán buôn, bán lẻ, môi giới kiểu cũ đang giảm dần vị trí trung gian mà thay vào đó là những "trung gian mới" chuyên cung cấp giá trị qua mạng. Trong nền kinh tế kiểu mới này, tài sản duy nhất được tính đến là tài sản trí tuệ, là tri thức chứa đựng trong bộ não của những công nhân tri thức (knowledge worker) và trong các dữ liệu và "tài liệu số" đã được hệ thống hóa. Trong trận chiến hình thành giữa các Công ty như kiểu Netscape Communications, Lotus, Microsoft, Oracle, Yahoo và một loạt các Công ty nổi tiếng về phần mềm khác, hầu như không còn thứ "lao động" theo ý nghĩa truyền thống. Tri thức và sức sáng tạo của những nhà chiến lược, những chuyên gia phụ trách phát triển và nghiên cứu thị trường chiếm giữ tất cả các vị trí mấu chốt. Điều quan trọng bậc nhất là khả năng của một Công ty thu hút và phát huy năng lực tối đa của những công nhân viên trí thức, cung cấp môi trường cho những sáng kiến và sáng tạo. Một tổ chức sẽ chiến thắng nếu hiểu được điều này nhanh hơn đối thủ của nó. Bởi lúc này, mọi Công ty đều có thể có công nghệ tương đương nhau, mọi sản phẩm đều có thể "bắt chước nhau” làm nhái. Trong cuộc đua tài mới, công việc đào tạo căn bản và lâu dài trở thành lợi thế cạnh tranh đặc biệt của các Công ty có tầm nhìn xa trông rộng.
  2. Một "thế hệ mạng” nảy sinh, phát triển Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, giới trẻ trong nhiều nước phát triển đã trở thành nguồn sáng tạo chính trong xã hội. Số lượng N-gen là thuật ngữ để chỉ thế hệ những người ở thời điểm năm 1999 trong độ tuổi 2 đến 22. Đặc điểm của thế hệ này là họ sẽ trở nên lớp người đầu tiên bước vào thời đại “kỹ thuật số” (digital) - cùng với trình độ về kỹ thuật số đang tạo ra một sức mạnh tràn qua mọi Công ty và mọi thực thể kinh tế. Không giống lớp người trước, họ đang tạo ra "bước nhảy thế hệ" vượt qua ông cha họ trong kỷ nguyên thông tin này. Thế hệ đó là những người ham hiểu biết, tự tin, nhanh nhẹn, tập trung, dễ thích nghi, có lòng tự trọng cao và mang xu hướng toàn cầu. N-gen có những quan niệm khác về công việc. Họ ham muốn hợp tác, chia sẻ thông tin và kiến thức, thích tìm ra những khái niệm mới mà đôi khi các ông chủ cho là lạ kỳ, và còn có khi "phê" là không tưởng! Chính vì vậy, điều quan trọng hơn cả đối với người lãnh đạo là hiểu được thế hệ mới này, hiểu tâm lý và giá trị văn hoá theo các quan niệm mới của họ, cũng như biết cái cách mà họ muốn "đổi mới thế giới này" để có định hướng đúng cho lớp người trẻ. Vốn, nhân lực liên quan đến doanh nghiệp Trong nền kinh tế mới, một mô hình đáng lưu ý là cộng đồng kinh doanh điện tử (E- business community- ECB). ECB có ảnh hưởng lớn tới cách nghĩ, cách quan niệm về vốn nhân lực. ECB là hệ thống nhữn nhà cung cấp, phân phối, cung cấp mại và khách hàng, những người tiến hành liên lạc và giao dịch kinh doanh qua Intemet và các phương tiện điện tử khác. Họ có thể sáng tạo và tiếp thị các giá trị mới cho khách hàng theo cách giảm thời gian, phân táan rủi ro và giảm chi phí. Nguồn nhân lực giờ đây trở thành nguồn nhân lực liên doanh nghiệp vượt ra ngoài cơ cấu quản lý truyền thông. Các Công ty không cần thuê công nhân viên cụ thể mà chuyển sang các loại nhân lực "đột xuất". Việc sử dụng lao động "không thường xuyên" đã tăng tới
  3. bốn lần (400%) kể từ 1982 tới nay. Và quan trọng nhất là đóng góp của từng người, được khích lệ bằng thù lao tương xứng bất kể họ ở quy chế lao động nào. Sẽ xuất hiện những loại hợp đồng mới. Dù là người làm ngoài giờ, lưu động hoặc di động, đột xuất hay vụ việc, các mối quan hệ chủ- thợ vẫn có thể được củng cố dựa trên sự ủng hộ, tin tưởng lẫn nhau. Đây có thể coi là nét mới nổi bật trong phương cách sử dụng sức lao động trong nền kinh tế tri thức. Quan hệ giữa vốn trí tuệ và lợi ích cá nhân Ở nền kinh tế mới, vốn tri thức dễ di chuyển hơn vốn truyền thống. Các CNVC tri thức, đặc biệt là N-gen, dễ dàng tìm nơi ưu đãi hơn. Cũng không có luật doanh nghiệp riêng mà trong một thế giới “kết nối mạng” sẽ tạo cho họ những Website, những lợi thế chuyển đổi công việc không khó nếu họ có đủ năng lực. Các Công ty phải tạo sự tin cậy, tăng độ thích thú với công việc, có cách trả lương mới. Như vậy cũng góp vào quá trình dân chủ hoá hơn trong các mối quan hệ ở Công ty và doanh nghiệp. Đánh giá hiện tượng này, một thành viên Ban biên tập Tạp chí Fortune rất nổi tiếng thế giới cho rằng, những người lao động trong tương lai phải được đối xử như những "nhà đầu tư vào vốn trí tuệ", vì những tư duy mới mẻ của họ giúp Công ty giữ được tài sản quý giá, duy trì sức sáng tạo, sự thịnh vượng và đóng góp thúc đẩy công bằng xã hội. Phát triển vốn con người trong thế kỷ XX Vốn nhân lực không chỉ được gìn giữ mà còn phải phát triển. Điều này có nghĩa là tạo ra một môi trường hợp tác hiệu quả, yêu cầu trình độ cao và đòi hỏi chất lượng khắt khe. Mỗi Công ty phải liên tục củng cố nền tảng tri thức của mình. Những Công ty khôn khéo còn đảm nhận thêm trách nhiệm đào tạo và nâng cấp tay nghề cho cả Công ty đối tác trong các ECB. Trong nền kinh tế tri thức xuất hiện sự thay đổi thế hệ của lực lượng lao động, nảy sinh khái niệm “về hưu sớm”. Năm 19147, Công ty Procter & Gamble đưa ra một chương trình, theo đó những lao động trẻ, phần đông là nữ giới, nhận trách nhiệm "phụ đạo" về kỹ năng kỹ thuật cho người lao động đúng tuổi. Chương trình này nhanh chóng nhân rộng sang nhiều Công ty khác. Tháng 3/1999 đã giành được một giải thưởng uy tín của Mỹ. Khái niệm về cách làm việc mới khi N-gen trở thành lực lượng lao động phổ biến được gọi là “knowledge deployment” (triển khai tri thức). Thuật ngữ này mang ý nghĩa là tạo ra, phát triển và chia sẻ tài sản tri thức. Để thành công trong nền kinh tế mới, các Công ty phải quản lý tri thức chứ không chỉ quản lý dữ liệu và thông tin. Việc triển khai tri thức là hoàn toàn khả thi vì giờ đây các công nhân tri thức có thể kết nôi với nhau qua mạng. Khi chiếc máy tính không được nối mạng, nó chỉ có thể trao đổi thông tin qua băng, CD, đĩa hình. Nhưng khi chúng được nối mạng, giá trị của chúng nâng lên rất nhiều. Tương tự như vậy, con người và những bí quyết trong lao động trí óc của họ khi chưa được nối mạng thì phải tổ chức hội thảo, báo cáo memo, bàn bạc qua điện thoại, qua các chuyến đi công tác... "Kết nối" con người tăng lên rất nhiều lần nhờ kết nối được tri thức. Vì vậy
  4. một số Công ty đã có chức danh mới : trưởng phòng thông tin chuyển thành trưởng phòng tri thức. Một nghiên cứu gần đây về giới lãnh đạo doanh nghiệp, cho thấy 96% trong số họ cho rằng "quản lý tri thức đóng vai trò quan trọng hơn "thiết lập" hoặc "đổi mới lại" doanh nghiệp - dù điều này đã từng là mô hình quản lý thành công của những năm 90. Khi được hỏi về "chia sẻ tri thức", một cậu bé 15 tuổi người Mỹ tên là Austin Locke trả lời : "Đây là một cái gì đó thúc đẩy văn hóa. Nếu bạn biết nhiêu kiến thức hơn, bản có thể nhân rộng kiến thức này, nó giống như tác động cấp số nhân. Bản thân chúng tôi đã nhìn thay sự hợp tác hiệu quả qua mạng giữa nhiều trường khác nhau trong một sồ được coi là dự án”. Có thể mạng "kết nối" sẽ giúp một "tổ chức" có được "ý thức” tương tự như hệ thống thần kinh trong não người tạo ra ý thức con người. Tổ chức - cũng như con người, nếu không có ý thức thì không thể "học tập" làm giàu thêm kiến thức cho mình và phát triển lên được. Chính vì vậy rất có thề ý thức của tổ chức là điều kiện tiên quyết cho việc thu lượm tri thức. Thời đại kỹ thuật số không chỉ là thời đại của máy móc thông minh mà là thời đại của con người, thông qua mạng họ có thể kết nối trí thông minh, tri thức, sức sáng tạo lại với nhau, kiến tạo và nhân lên khối lượng của cái nhằm phát triển xã hội. N- gen sẽ là thế hệ đầu tiên kết nối tri thức để giải quyết các vấn đề của sáng tạo, mở rộng ý thức từ cá nhân sang tổ chức. Đây chính là "bài học đầu tiên" và ‘quan trọng nhất" của các nhà quản lý trên con đường tiến vào nền kinh tế tri thức. Nguồn: Saga.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2