intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng sinh học và hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam, giai đoạn 1971- 2022. Phương pháp tự hồi quy phân phối trễ tuyến tính ARDL, và phương pháp tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến NARDL đồng thời được áp dụng để trả lời cho câu hỏi tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam là đối xứng hay bất đối xứng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam

  1. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam Bùi Hoàng Ngọc Nhóm nghiên cứu FEMRG, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam Ngày nhận: 26/07/2024 Ngày nhận bản sửa: 05/12/2024 Ngày duyệt đăng: 06/12/2024 Tóm tắt: Ô nhiễm môi trường là thách thức đối với nhân loại nói chung và các quốc gia đang phát triển nói riêng. Sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng được kỳ vọng là giải pháp để giảm bớt gánh nặng cho chất lượng môi trường. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng sinh học và hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam, giai đoạn 1971- 2022. Phương pháp tự hồi quy phân phối trễ tuyến tính ARDL, và phương pháp tự hồi quy phân phối trễ phi tuyến NARDL đồng thời được áp dụng để trả lời cho câu hỏi tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam là đối xứng hay bất đối xứng. Kết quả thực nghiệm cung cấp bằng chứng tác động của hiệu quả sử dụng là tác động bất đối xứng trong dài hạn. Việc tăng hiệu quả sử dụng năng lượng làm giảm lượng khí thải CO2, tuy nhiên tác động này lại yếu hơn việc sử dụng nhiều năng lượng. Dựa trên kết quả thực nghiệm, những cơ quan The impact of energy efficiency on CO2 emissions in Vietnam Abstract: Pollution is a challenge for humanity in general and for developing countries in particular. Effective use of energy sources is expected to be the solution to reduce the burden on environmental quality. This study aims to assess the impact of economic growth, biomass consumption, and energy efficiency on CO2 emissions in Vietnam during 1971- 2022. Linear autoregressive distributed lag (ARDL) and nonlinear autoregressive distributed lag (NARDL) approaches are applied simultaneously to answer the question of whether the influence of energy efficiency on CO2 emissions in Vietnam is symmetric or asymmetric. The empirical results show that the influence of energy efficiency on CO2 emissions is asymmetrical in the long term. Increasing energy efficiency will reduce CO2 emissions, but negative changes are smaller than positive changes. The new findings enrich the literature, but more importantly, they help policymakers have more empirical evidence for designing energy development policies while exploring the possibility of making energy efficiency requirements mandatory for organizations and residents. Keywords: Energy efficiency, Economic growth, Carbon dioxide, Environmental pollution, Vietnam Doi: 10.59276/JELB.2025.1.2.2794 Bui, Hoang Ngoc Email: ngoc.bh@ou.edu.vn Organization: The FEMRG research group, Ho Chi Minh City Open University, Vietnam © Học viện Ngân hàng Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng ISSN 3030 - 4199 65 Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
  2. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam ban hành chính sách về năng lượng và môi trường ở Việt Nam có thêm bằng chứng thực nghiệm để hoạch định chính sách phát triển năng lượng, đồng thời cân nhắc khả năng đưa yêu cầu sử dụng hiệu quả năng lượng trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các tổ chức và người dân. Từ khóa: Hiệu quả sử dụng năng lượng, Tăng trưởng kinh tế, Lượng khí thải CO2, Ô nhiễm môi trường, Việt Nam 1. Giới thiệu kiếm, và nhận được sự đồng tình của người dân trên toàn thế giới (Adebayo và cộng sự, Tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là các loại 2021; Adil, 2018). năng lượng không tái tạo như than đá, xăng Có một thực tế ở các nước đang phát triển thì dầu sẽ gây các hệ lụy tiêu cực cho chất lượng nhận thức về những hệ lụy tiêu cực đến môi môi trường, và điều này đã được khẳng định trường sẽ ít được chú ý hơn so với việc cải bởi nhiều nghiên cứu trước (Abbasi và cộng thiện thu nhập. Ở Việt Nam, gần đây đã xảy sự, 2020; Acheampong, 2018; Agbede và ra một số sự cố môi trường lớn, cộng với đó cộng sự, 2021; Bùi Hoàng Ngọc, 2020). Mặt là tình trạng ngập lụt, biến đổi khí hậu diễn ra khác, năng lượng là một loại tài nguyên, do trên diện rộng, khó kiểm soát và ngày càng vậy sử dụng có hiệu quả các nguồn năng trầm trọng. Ở các đô thị lớn thì vẫn chưa có lượng không chỉ là sự lựa chọn, mà còn là lời giải cho những vấn đề như ô nhiễm tiếng trách nhiệm với thế hệ tương lai (Chen và ồn, ô nhiễm rác thải, thiếu nước sinh hoạt, cộng sự, 2023). Trong thực tế, hầu hết các chất lượng không khí thấp, diện tích cây loại máy móc thiết bị đều cần ít nhất một xanh suy giảm. Theo Tổng cục Thống kê loại năng lượng để vận hành, do đó tiêu thụ (2021), ước tính riêng tổng lượng phát thải năng lượng gây ra nhiều tác động tiêu cực do hoạt động tiêu thụ năng lượng gây ra là tới chất lượng môi trường, và sức khỏe của khoảng 289,9 triệu tấn CO2. Còn theo báo người dân dường như không thể tránh khỏi cáo chất lượng không khí toàn cầu do Swiss (Zhang và cộng sự, 2020). Việc tiêu dùng organisation IQAir công bố năm 2023, Việt các loại năng lượng hóa thạch phục vụ cho Nam có chất lượng không khí tồi tệ thứ hai nhu cầu sản xuất, nấu ăn, hay sưởi ấm đều trong các nước ASEAN (sau Indonesia), và làm tăng các loại khí thải độc hại cho môi đứng thứ 22 thế giới về những quốc gia có trường như CO2, SO2. Hay đơn cử là sử chất lượng môi trường thấp. Tất cả những dụng xăng dầu phục vụ nhu cầu vận chuyển điều này đã minh chứng cho tính nghiêm hàng hóa, đi lại của người dân sẽ làm gia trọng về sự suy giảm chất lượng môi trường tăng khói bụi, tiếng ồn, bụi mịn. Về lâu dài, mà Việt Nam đã và đang phải đối mặt. ô nhiễm môi trường sẽ làm gia tăng chi phí Hiệu quả sử dụng năng lượng được đo cho vấn đề sức khỏe (Bui & Nguyen, 2024), lường bằng số lượng điện năng (đơn vị nguy cơ tử vong của trẻ em (Bayat và cộng là kWh) phải tiêu hao để tạo ra một đô la sự, 2019), biến đổi khí hậu (Saint Akadiri Mỹ cho tổng sản lượng quốc gia (gross và cộng sự, 2020). Thực tế này làm cho các domestic product, GDP). Hiệu quả sử dụng chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh năng lượng của Việt Nam còn là “gam màu tế mà không gây ô nhiễm môi trường, hay tối” bởi vì trong khi hầu như các nước đều giảm lượng ô nhiễm được khuyến khích tìm trong xu hướng giảm thì Việt Nam lại có 66 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
  3. BÙI HOÀNG NGỌC Nguồn: U.S. Energy Information Administration (2023) Hình 1. Hiệu quả sử dụng năng lượng sơ cấp của một số quốc gia trên thế giới. xu hướng tăng. Năm 1971 Việt Nam cần et al. (2023) cũng kết luận rằng hiệu quả sử 1,54 kWh để tạo ra 1 đô la Mỹ, thì năm dụng năng lượng làm tăng lượng khí thải 2022 vẫn là 1,53 kWh (xem Hình 1). Đức CO2 trong ngắn hạn, nhưng lại giảm trong và Nhật Bản được xem là những quốc gia dài hạn ở 27 quốc gia thuộc liên minh Châu có nỗ lực cao nhất để tăng hiệu quả sử dụng Âu. Trước đó, Yang và cộng sự (2022) sử năng lượng. Năm 2022, Đức cần 0,87 kWh dụng phương pháp tự hồi quy phân phối trễ và Nhật Bản cần 1,03 kWh để tạo ra 1 đô để điều tra tác động của tăng trưởng kinh la Mỹ. Trung Quốc là quốc gia đông dân tế, xu hướng công nghiệp hóa, và hiệu quả nhất trên thế giới cũng chỉ cần 1,64 kWh, sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 và đang trong xu hướng giảm. So với mức ở Trung Quốc. Kết quả của họ chỉ ra rằng trung bình của thế giới năm 2022 là 1,29 hiệu quả sử dụng năng lượng vẫn làm tăng kWh thì Việt Nam có hiệu quả sử dụng lượng khí thải CO2, cụ thể là khi cường độ năng lượng còn thấp hơn. Aydin và cộng sử dụng năng lượng tăng 1% thì lượng khí sự (2022) đã khuyến cáo rằng, việc giảm thải có xu hướng tăng trung bình 1,77% lãng phí trong sử dụng năng lượng đòi hỏi trong dài hạn. Sự không thống nhất trong nỗ lực của cả Chính phủ, doanh nghiệp và kết luận của các nghiên cứu trước là minh người dân trong một thời gian dài. chứng cho thấy cần phải có thêm những Về kết quả thực nghiệm, Bildirici và Kayikçi nghiên cứu thực nghiệm chuyên sâu hơn (2024) tìm thấy tác động ngược chiều giữa cho bối cảnh kinh tế Việt Nam. hiệu quả sử dụng năng lượng với ô nhiễm Ngoài ra, những nghiên cứu này đều dựa môi trường (đo lường bằng chỉ số bụi mịn trên khung phân tích tuyến tính, hàm ý tác PM2.5) cho sáu nước gồm Trung Quốc, Ấn động của hiệu quả sử dụng năng lượng Độ, Đức, Canada, Mỹ và Anh trong giai đến chất lượng môi trường là tác động đối đoạn 1995- 2019. Cụ thể, nếu hiệu quả sử xứng. Tức là việc tăng hiệu quả sử dụng dụng năng lượng tăng 1% thì lượng bụi năng lượng và việc giảm hiệu quả sử dụng mịn PM2.5 giảm 0,55%. Tương tự, Mester năng lượng tác động đến ô nhiễm môi Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 67
  4. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam trường một mức như nhau. Điều này có kinh tế bắt đầu bị ô nhiễm ở giai đoạn tiền thể chưa thực sự hợp lý bởi vì hiệu quả công nghiệp, ô nhiễm nặng ở giai đoạn sử dụng năng lượng phụ thuộc vào nhiều công nghiệp, và có xu hướng đảo chiều tốt biến số như trình độ công nghệ, nhận thức lên ở giai đoạn hậu công nghiệp. Tác động của người dân, quy mô của nền kinh tế và của năng lượng và hiệu quả sử dụng năng sự nghiêm ngặt trong các chính sách năng lượng không được đề cập trực tiếp trong lượng. Việc tăng quy mô sản xuất có thể các lý thuyết về kinh tế, tuy nhiên theo dẫn đến sử dụng nhiều năng lượng, hoặc lý thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh do gây lãng phí, nhưng việc áp dụng các công Romer (1989) giới thiệu thì tác động này nghệ mới, quy trình mới có thể giúp cải có thể được phân tích gián tiếp thông qua thiện hiệu quả năng lượng. Hơn nữa, trình sự ảnh hưởng của yếu tố công nghệ lên độ sản xuất thập niên 70 thế kỉ trước có tăng trưởng kinh tế. Bởi vì hầu hết các loại thể khác hoàn toàn với giai đoạn hiện nay. máy móc và dây chuyền sản xuất đều cần Tựu chung lại, với dữ liệu được thu thập từ ít nhất một loại năng lượng để có thể vận cơ quan năng lượng quốc tế, và ngân hàng hành được. Thiếu các loại năng lượng này, thế giới, nghiên cứu này sử dụng phương máy móc sẽ trở thành vô dụng (Nguyen pháp ước lượng tự hồi quy phân phối trễ & Bui, 2020). Phân tích sâu hơn tác động tuyến tính, và phi tuyến tính để khám phá của tăng trưởng kinh tế và công nghệ đến tác động bất đối xứng của hiệu quả sử dụng môi trường, Grossman và Krueger (1991) năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt chỉ ra ba kênh tác động gồm: (1) Hiệu ứng Nam, giai đoạn 1971- 2022. Loại tác động quy mô; (2) Hiệu ứng cơ cấu và (3) Hiệu bất đối xứng của hiệu quả sử dụng năng ứng kỹ thuật. Sự gia tăng về quy mô của lượng đến ô nhiễm môi trường chưa được nền kinh tế, hay sự chuyển dịch từ nông quan tâm đúng mức trong bối cảnh kinh nghiệp sang công nghiệp đều làm cho chất tế Việt Nam. Đây là minh chứng cần thiết lượng môi trường suy giảm. Trong khi đó, phải có thêm các nghiên cứu thực nghiệm việc áp dụng các công nghệ sản xuất mới, khác để lý giải mối quan hệ giữa hai biến thân thiện với tự nhiên sẽ hạn chế đáng kể số này cho kinh tế Việt Nam. những áp lực lên môi trường. Nghiên cứu được bố cục thành năm phần, phần 1 trình bày lý do nghiên cứu. Phần 2 2.2. Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm tập trung tổng quan tài liệu, trong khi phần 3 trình bày phương pháp nghiên cứu. Kết Hiệu quả sử dụng năng lượng được đo lường quả thực nghiệm và thảo luận được trình bằng số lượng điện năng phải tiêu hao để bày ở phần 5. Và kết luận cùng hàm ý chính tạo ra một đô la Mỹ cho GDP. Do vậy trước sách được tổng kết ở phần 5. tiên cần phải thống nhất cách lập luận, theo đó một quốc gia cần ít kWh điện hơn để 2. Tổng quan nghiên cứu tạo ra 1 đô la Mỹ trong GDP, hoặc 1 kWh điện tạo ra nhiều hơn đô la Mỹ so với trước 2.1. Lý thuyết nền đây thì được hiểu là quốc gia đó có hiệu quả sử dụng năng lượng tăng. Và ngược lại, Kuznets (1955) là người tiên phong tìm nếu cần nhiều kWh điện hơn để tạo ra 1 đô hiểu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế la Mỹ trong GDP thì được coi là quốc gia và chất lượng môi trường. Ông phát hiện đó có hiệu quả sử dụng năng lượng giảm. ra hiệu ứng hình chữ U ngược, theo đó nền Lấy bối cảnh là Trung Quốc, một quốc gia 68 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
  5. BÙI HOÀNG NGỌC có mức độ ô nhiễm môi trường cao, Hu và cáo rằng sự bền vững của các hệ sinh thái cộng sự (2014) kết luận rằng việc tăng sản tự nhiên, và lượng khí thải CO2 giảm xuống xuất năng lượng và sử dụng năng lượng đều đòi hỏi có sự đóng góp của việc nâng cao làm suy giảm chất lượng không khí ở quốc hiệu quả sử dụng năng lượng và chuyển đổi gia này. Tương tự, Lin và cộng sự (2016) sang sử dụng các loại năng lượng tái tạo, điều tra sự tồn tại của đường cong môi thân thiện với môi trường như năng lượng trường EKC tại các nước Châu Phi, cũng gió, năng lượng mặt trời hay năng lượng kết luận rằng cấu trúc sử dụng các loại năng sinh học là yêu cầu bắt buộc và khẩn cấp lượng và hiệu quả sử dụng năng lượng tác đối với các quốc gia này. động cùng chiều đến lượng khí thải CO2. Tuy nhiên, không phải sử dụng bất kỳ loại Khuyến nghị của Lin và cộng sự (2016) là năng lượng nào cũng gậy ra các hệ lụy xấu các quốc gia Châu Phi cần chú trọng phát cho chất lượng môi trường, và năng lượng triển các loại năng lượng sạch. sinh học là một trong những loại năng lượng Sử dụng nhiều năng lượng làm tăng lượng đó. Theo Ngo (2022) việc sử dụng năng khí thải CO2 cũng có thể được tìm thấy lượng sinh học như sản phẩm phụ từ nông trong nghiên cứu của Shahbaz và cộng sự nghiệp, cây trồng, gỗ, bã mía, hoặc chất thải (2016) cho kinh tế Bồ Đào Nha. Cụ thể hữu cơ v.v… không chỉ giúp hạn chế lượng hơn, bằng kỹ thuật ước lượng ARDL có khí thải CO2 ra môi trường, mà còn giúp kiểm tra điểm gãy cấu trúc, nhóm tác giả Trung Quốc giảm áp lực phụ thuộc quá mức kết luận có mối quan hệ nhân quả Granger vào các loại năng lượng không tái tạo như một chiều chạy từ biến hiệu quả sử dụng xăng dầu, gas, điện năng, đồng thời cũng năng lượng đến biến ô nhiễm môi trường, giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. thậm chí hiệu quả sử dụng năng lượng có Tựu chung lại, tác động của năng lượng tác động dương đến lượng khí thải CO2 và hiệu quả sử dụng năng lượng đến chất cả trong ngắn hạn và dài hạn. Ngoài năng lượng môi trường ở các quốc gia vẫn chưa lượng, thì phát triển tài chính cũng đóng đồng nhất. Bất chấp hiệu quả sử dụng năng góp vào ô nhiễm môi trường ở Bồ Đào lượng được cải thiện, thì những lý do được Nha giai đoạn 1971-2011. Đi sâu vào phân đưa ra để giải thích cho việc gây ra ô nhiễm tích cơ cấu tiêu thụ năng lượng ảnh hưởng môi trường vẫn là: (i) Tiêu thụ một số loại đến chất lượng môi trường ở Trung Quốc, năng lượng xả thải các chất độc hại cho Naminse và Zhuang (2018) chỉ ra tiêu môi trường là những thuộc tính tự nhiên thụ than đá đóng góp vào ô nhiễm không của năng lượng; (ii) Các loại năng lượng khí nhiều nhất là 4,29%, tiếp theo là dầu thô thường có giá bán thấp, do vậy vì mục (0,817%), điện (0,226%), và gas (0,098%). đích lợi nhuận một số doanh nghiệp có thể Đức là quốc gia có hiệu quả sử dụng năng phớt lờ các quy định về môi trường; (iii) lượng được xếp hạng cao trên thế giới. Giảm lãng phí năng lượng đòi hỏi sự đầu tư Rüstemoglu (2019) phát hiện ra rằng chính mạnh mẽ cho công nghệ và vốn con người, những nỗ lực trong việc cải tiến công nghệ, do vậy đây không phải là vấn đề có thể giải và chuyển sang sử dụng các loại năng quyết trong ngắn hạn, đặc biệt là ở những lượng tái tạo, năng lượng địa nhiệt đã giúp quốc gia đang phát triển, hoặc có các quy Đức cải thiện được chất lượng môi trường định về môi trường còn lỏng lẻo (Bildirici và gia tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp & Kayikçi, 2024; Mester và cộng sự, 2023). sản xuất công nghiệp. Phân tích cho nhóm Nghiên cứu cho kinh tế Việt Nam, Tang và quốc gia Châu Á, Huang và He (2023) báo Tan (2015) khẳng định tiêu thụ năng lượng, Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 69
  6. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là vị tính: kWh), ký hiệu là EI, đại diện cho hai trụ cột chính tiềm ẩn nguy cơ gây ra hiệu quả sử dụng năng lượng, được lấy đại sự suy giảm chất lượng môi trường. Tuy diện từ chỉ số “energy intensity index” do nhiên, theo tìm hiểu của tác giả thì khám cơ quan quản lý năng lượng của Mỹ tính phá tác động của hiệu quả sử dụng năng toán và công bố. Như đã lập luận ở phần lượng đến chất lượng môi trường ở Việt 2, một quốc gia có cường độ sử dụng năng Nam vẫn là một khoảng trống. Bùi Hoàng lượng tăng (tức là sử dụng nhiều năng Ngọc (2020), Bùi Hoàng Ngọc và cộng sự lượng hơn đề tạo ra 1 đô la Mỹ trong GDP) (2020), Bui và Nguyen (2023) chỉ khẳng thì quốc gia đó được xem là có hiệu quả sử định tiêu thụ điện và tăng trưởng kinh tế dụng năng lượng thấp. Cuối cùng dữ liệu làm tăng lượng khí thải CO2 và suy giảm về tiêu thụ năng lượng sinh học (biến BIO, dấu chân sinh thái ở Việt Nam. Khả năng đơn vị metric tons) được lấy đại diện từ tiềm ẩn tác động bất đối xứng cũng chưa chỉ số “Biomass consumption” do https:// được đề cập đến. Do vậy, nghiên cứu này www.nrel.gov/gis/biomass.html công bố. muốn lấp đầy những “khoảng trống” đó, và Nghiên cứu sử dụng biến BIO trong mô đề xuất một số hàm ý chính sách về bảo vệ hình nhằm mục đích khám phá khả năng môi trường tốt hơn cho Việt Nam. thay thế của năng lượng sinh học với các loại năng lượng không tái tạo, để giảm bớt 3. Mô hình, dữ liệu và phương pháp các áp lực lên chất lượng môi trường trong nghiên cứu bối cảnh kinh tế của Việt Nam. 3.1. Mô hình & nguồn dữ liệu 3.2. Phương pháp nghiên cứu Điều tra tác động của hiệu quả sử dụng năng Nelson và Plosser (1982) đã khuyến nghị lượng, tăng trưởng kinh tế và tiêu thụ năng hầu hết các biến số chuỗi thời gian đều là lượng sinh học đến chất lượng môi trường dữ liệu có “tính bền”. Tức là những biến ở Việt Nam giai đoạn 1971-2022 là mục động trong quá khứ của biến số đó có thể tiêu của nghiên cứu này. Kế thừa các nghiên ảnh hưởng đến sự thay đổi ở hiện tại. Để cứu trước của Bildirici và Kayikçi (2024), khám phá được sự ảnh hưởng này trong Ahmad và cộng sự (2019), Nwaka và cộng nghiên cứu, bài viết áp dụng phương pháp sự (2020), và lý thuyết về đường cong môi tự hồi quy phân phối trễ (autoregressive trường EKC, mô hình nghiên cứu tổng quan distributed lags, ARDL) do Pesaran và của nghiên cứu này được đề xuất như sau: Shin (1995) giới thiệu. Khi đó, mô hình CO2 = f (EI, logGDP, logBIO) nghiên cứu có thể viết dưới dạng mô hình (Công thức 1) ARDL(p,q) như sau: Trong đó, biến CO2 đại diện cho chất lượng môi trường được đo lường bằng lượng khí thải CO2 (đơn vị tính: metric tons/người). Còn biến GDP là thu nhập bình quân đầu người (đơn vị tính: đô la Mỹ, được tính theo giá cố định năm 2015). Biến CO2 và GDP được thu thập từ dữ liệu của Ngân hàng thế (Công thức 2) giới. Bài viết sử dụng chỉ số cường độ sử Trong đó: ∆ minh họa cho sai phân bậc 1, dụng năng lượng (energy intensity) (đơn và β2, β3, β4 là những tác động trong dài 70 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
  7. BÙI HOÀNG NGỌC hạn, ɛt là sai số ước lượng, t phản ánh thời ˆ ˆ ˆ giả thuyết đối H1: β1 ≠ β 2 ≠ β3 ≠ β 4 ≠ 0 . ˆ gian nghiên cứu. Tương tự, α2, α3, α4 là các Nếu giả thuyết trống bị bác bỏ, đây là minh tác động trong ngắn hạn, còn p là độ trễ tối chứng cho thấy có tồn tại hiện tượng đồng ưu của các biến CO2, còn q(1, 2, 3) là độ trễ liên kết trong dài hạn giữa các biến số trong tối ưu của từng biến độc lập. mô hình. Sau đó, nghiên cứu sử dụng kiểm Để điều tra khả năng tiềm ẩn tồn tại tác động định Wald để điều tra khả năng tồn tại tác bất đối xứng của hiệu quả sử dụng năng động bất đối xứng trong dài hạn với giả lượng đến chất lượng môi trường bài viết ˆ ˆ thuyết trống H 0, LR : β 2+ = β 2− và giả thuyết dựa theo phương pháp phân tách do Shin và đối H1.LR : β 2 ˆ + ≠ β − . Giả thuyết trống và ˆ 2 cộng sự (2014) đề xuất. Theo đó, biến EI sẽ giả thuyết đối để kiểm định tác động bất được chia thành ba thành phần: EI0 (hàm ý là đối xứng trong ngắn hạn được thể hiện qua số kWh tối thiểu); thành phần tích lũy tăng công thức: q1 q1 (kí hiệu là EI+) phản ánh những năm sau cần H 0, SR : ∑ αˆ 2, j = ∑ α 2, j , và giả thuyết đối + ˆ− nhiều kWh để tạo ra 1 đô la Mỹ cho GDP j j = 0= 0 hơn năm trước, và thành phần tích lũy giảm q1 q1 (kí hiệu là EI-) phản ánh cần ít kWh hơn năm H1, SR : ∑ α 2, j ≠ ∑ α 2, j ˆ+ ˆ− trước. Biến EI+ và EI- được xác định như sau: j j = 0= 0 t t Cuối cùng, tác động của thành phần tich EI t+ =∑ ∆EI + =∑ max(∆EI j , 0) j lũy tăng (EI+) và tích lũy giảm (EI-) được j j = 1= 1 tính toán theo công thức do Banerjee et al. t t (1996) đề xuất như sau: EI t− =∑ ∆EI − =∑ min(∆EI j , 0) j j j = 1= 1 ∂CO2,t + j − h ∂CO2,t + j h = ∑ mh = ∑ + ; mh (Công thức 3) j ∂EI t+ = 0= 0 ∂EI t j − Thay EI+ và EI- vào công thức 2, phương pháp ARDL biến thành NARDL như sau: với h = 0,1,2…. Khi h → ∞ thì mh → β 2+ , mh → β 2− . Hệ số + − của β 2 , β 2 phản ánh tác động bất đối xứng + − tích lũy của hiệu quả sử dụng năng lượng trong dài hạn. 4. Kết quả thực nghiệm Thống kê mô tả (Công thức 4) Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc Quá trình phân tích kết quả của nghiên cứu gia năm 2021 do Bộ Tài nguyên và Môi được thực hiện theo các bước sau: Đầu trường công bố thì tất cả các loại ô nhiễm tiên, bài viết ước lượng công thức 4 bằng môi trường đã xuất hiện ở Việt Nam. Cụ phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS thể, quan trắc chất lượng môi trường ở các (Ordinary Least Square). Tiếp theo, phương đô thị lớn như thủ đô Hà Nội và thành phố pháp kiểm định đồng liên kết dưới dạng Hồ Chí Minh thì chỉ có 28,45% số ngày đường bao (Bounds-testing) do Pesaran et là có chất lượng không khí tốt, 47,10% là al. (2001) đề xuất được áp dụng, với giả trung bình, và có đến 5,7% số ngày xấu = ˆ ˆ = = ˆ ˆ thuyết trống H0: β1 β 2 β3 β 4 0 và = thậm chí rất xấu. Thủ đô Hà Nội là nơi tệ Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 71
  8. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam nhất, trong khi huyện Nam Sách của tỉnh biến EI được xác định là dừng ở bậc gốc (kí Hải Dương là địa phương có chất lượng hiệu là I(0)), ba biến gồm CO2, logGDP và không khí tốt nhất cả nước. Hình 2 và Bảng logBIO đều dừng ở sai phân bậc 1 (kí hiệu 1 cho thấy suốt từ năm 1989 đến nay cả là I(1)). Theo Pesaran và Shin (1995), Shin mức độ ô nhiễm môi trường và số kWh để và cộng sự (2014) kết quả kiểm định tính tạo ra 1 đô la Mỹ cho GDP của Việt Nam dừng như vậy là thỏa mãn điều kiện thứ đều tăng. Năm 2022, lượng CO2 bình quân nhất của phương pháp ước lượng ARDL và đầu người của Việt Nam nằm ở mức 3,5 NARDL. Phương pháp ARDL tự tính toán metric tons, cao hơn mức trung bình của độ trễ tối ưu, theo kết quả trong Bảng 2, p thế giới là 2,56. Đây là bằng chứng rõ nét sẽ nhận giá trị bằng 3, còn q1 = 1, và q2 nhất cho thấy Chính phủ cần quyết tâm và = q3 = 0, tương ứng với mô hình ARDL/ có nhiều biện pháp mạnh mẽ hơn nữa để NARDL tối ưu là ARDL/NARDL(3,2,0,0). phòng ngừa sự suy giảm chất lượng môi trường đang diễn ra ở Việt Nam. Kết quả kiểm định đồng liên kết Điều kiện thứ hai để áp dụng được phương Kết quả kiểm định tính dừng pháp ước lượng ARDL và NARDL là các Để áp dụng được phương pháp ước lượng biến phải tồn tại hiện tượng đồng liên kết ARDL và NARDL đòi hỏi các biến số phải trong dài hạn. Do vậy, bài viết tuân theo thỏa mãn tính dừng (Pesaran & Shin, 1995). hướng dẫn của Pesaran và cộng sự (2001) Do vậy, bài viết ứng dụng hai phương pháp đi kiểm định giả thuyết trống kiểm định tính dừng phổ biến của Dickey = ˆ ˆ = = ˆ ˆ H0: β1 β 2 β3 β 4 0 và giả thuyết đối = và Fuller (1981) (kí hiệu là ADF test), và H1: β1ˆ ≠ β ≠ β ≠ β ≠ 0 trong công thức 2 ˆ ˆ ˆ 2 3 4 của Phillips và Perron (1988) (kí hiệu là PP để xác định sự tồn tại này. test) giới thiệu. Ngoài ra bài viết sử dụng Giá trị của thống kê F = 4,213 lớn hơn giá chỉ số thống kê AIC để lựa chọn độ trễ tối trị của đường bao trên I(1) = 3,983 tại mức ưu cho từng biến số. Theo kết quả ở Bảng 2, ý nghĩa thống kê 10% cho phương pháp Nguồn: U.S. Energy Information Administration và Ngân hàng thế giới (2023) Hình 2. Diễn biến lượng khí thải CO2 và hiệu quả sử dụng năng lượng của Việt Nam 72 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
  9. BÙI HOÀNG NGỌC ARDL (xem Bảng 3). Tương tự, giá trị của Kết quả thực nghiệm thống kê F = 5,673 lớn hơn giá trị tới hạn Tác động tuyến tính của hiệu quả sử dụng của đường bao trên I(1) = 4,733 ở mức ý năng lượng, tăng trưởng kinh tế và tiêu thụ nghĩa thống kê 5%. Theo Pesaran và cộng năng lượng sinh học đến lượng khí thải sự (2001), Shin và cộng sự (2014) kết quả CO2 bằng phương pháp ARDL được khám kiểm định như vậy bác bỏ giả thuyết H0, phá trong bước tiếp theo. Theo đó, kết quả tức là tồn tại hiện tương đồng liên kết giữa trong Bảng 4 biến cho thấy ∆CO2(-1) và các biến số trong mô hình. Như vậy, điều ∆CO2(-2) đều dương và có ý nghĩa thống kiện thứ 2 cũng được thỏa mãn. kê, hàm ý rằng dữ liệu về CO2 có “tính bền”, và lượng xả thải CO2 năm trước có Bảng 1. Kết quả thống kê mô tả Giá trị Sai số Giá trị Giá trị Tên biến Số quan sát trung bình chuẩn nhỏ nhất lớn nhất CO2 53 1,05 0,98 0,26 3,76 EI 53 1,07 0,34 0,62 1,82 logGDP 53 4,64 0,46 3,79 5,51 logBIO 53 8,14 0,21 7,80 8,41 Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 2. Kết quả kiểm định tính dừng và độ trễ tối ưu của các biến số ADF test PP test Tên biến Độ trễ tối ưu I(0) I(1) I(0) I(1) CO2 2,543 -2,544 0,283 -5,915*** 3 EI -4,273*** -5,120*** -5,726*** -9,426*** 2 logGDP -2,004 -3,686** -1,791 -14,191*** 0 logBIO -0,202 -7,696*** -0,028 -7,714*** 0 Ghi chú: Những kiểm định được thực hiện có hệ số chặn (intercept), có xu hướng (trend). **, *** tương ứng với các mức ý nghĩa thống kê là 5% và 1%. Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 3. Kiểm định đồng liên kết theo phương pháp ARDL và NARDL Mức ý nghĩa Phương pháp ARDL Giá trị kiểm định I(0) I(1) thống kê Thống kê F  4,213 10% 2,893 3,983 Số biến độc lập 3 5% 3,535 4,733 1% 4,983 6,423 Phương pháp NARDL Thống kê F 5,673 10% 2,893 3,983 Số biến độc lập 4 5% 3,535 4,733 1% 4,983 6,423 Nguồn: Tính toán của tác giả Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 73
  10. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam Bảng 4. Kết quả phân tích tác động tuyến tính bằng kỹ thuật ARDL Biến phụ thuộc: ΔCO2 Tên biến Hệ số beta Sai số T-ratio [Prob] CointEq(-1) 0,031 0,007 4.25 [0,000] ∆CO2(-1) 0,273 0,119 2,28 [0,027] ΔCO2(-2) 0,612 0,129 4,74 [0,000] ΔEI 0,593 0,126 4,69 [0,000] EI(-1) 0,140 0,125 1,12 [0,268] logGDP -0,009 0,090 -0.09 [0,922] logBIO 0,156 0,143 1,09 [0,281] Hệ số chặn -1,336 1,086 -1,23 [0,226] Nguồn: Tính toán của tác giả tác động khuyến khích lượng xả thải trong kê, hàm ý chưa đủ bằng chứng thống kê để năm hiện tại. Tuy nhiên, hệ số ước lượng kết luận tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của biến CointEq(-1) = 0,031, mặc dù có ý có thể gây ra những tác động xấu cho môi nghĩa thống kê nhưng lại hàm ý các cú sốc trường. Cuối cùng nhưng quan trọng nhất, trong ngắn hạn không bị triệt tiêu trong dài đó là khám phá tác động bất đối xứng của hạn. Hay nói cách khác, là việc áp dụng hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí phương pháp ước lượng ARDL là không thải CO2 ở Việt Nam. Theo kết quả trong phù hợp cho mẫu dữ liệu này. Bảng 5, trong dài hạn biến EI+ = 0,880 và Việc phương pháp ước lượng ARDL không có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, đồng thời phù hợp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, biến EI- = 0,238, có ý nghĩa thống kê ở mức trong đó có thể tồn tại khả năng xảy ra tác 10%. Theo Shin và cộng sự (2014), kết quả động bất đối xứng. Để khẳng định điều này, có thể được diễn giải như sau: với giả định bài viết tiếp tục áp dụng phương pháp ước các điều kiện khác không thay đổi, khi tăng lượng NARDL. Kết quả trong Bảng 5 cho 1 kWh sử dụng năng lượng thì làm tăng thấy hệ số của biến CointEq(-1) = -0,112 và lượng khí thải CO2 bình quân đầu người có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, chứng tỏ lên 0,88 (metric tons), và khi giảm 1 kWh phương pháp ước lượng NARDL là phù hợp sử dụng năng lượng để tạo ra 1 đô la Mỹ cho mẫu dữ liệu này. Phân tích trong ngắn trong GDP thì lượng khí thải CO2 giảm hạn, hệ số ước lượng của biến ΔCO2 đều 0,238 (metric tons). Như vậy tác động của dương và có ý nghĩa ở mức 5%, hàm ý rằng những tích lũy tăng sẽ mạnh hơn tác động không kiểm soát tốt việc xả thải CO2 ở các của những tích lũy giảm. Nói một cách đơn năm trước đó thì tình trạng ô nhiễm không giản hơn, thì nếu kinh tế Việt Nam sử dụng khí ở Việt Nam sẽ càng trầm trọng hơn. nhiều kWh hơn thì sẽ làm tăng nguy cơ ô Biến ΔlogBIO = -2,267 hàm ý rằng nếu tăng nhiễm môi trường, trong khi nâng cao hiệu 1% tiêu dùng năng lượng sinh học sẽ làm quả sử dụng năng lượng sẽ góp phần giảm giảm lượng khí thải CO2 đi 2,267 (metric đi nguy cơ này. Kiểm định Wald trong dài tons) trong ngắn hạn, và 0,907 (metric tons) hạn cho thấy giá trị của thống kê F = 6,42, trong dài hạn. Tương tự, biến logGDP = và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%, như vậy -0,086, nhưng lại không có ý nghĩa thống có thể kết luận chung lại là tác động của 74 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
  11. BÙI HOÀNG NGỌC Bảng 5. Kết quả phân tích tác động bất đối xứng bằng phương pháp NARDL Biến phụ thuộc: ΔCO2 Tên biến Hệ số beta Sai số T-ratio [Prob] CointEq(-1) -0,112 0,020 -5,59 [0,000] ΔCO2(-1) 0,267 0,114 2,42 [0,019] ΔCO2(-2) 0,511 0,112 4,57 [0,000] ΔlogBIO -2,267 1,274 -1,78 [0,082] ΔlogBIO(-1) 2,175 1,297 1,67 [0,101] EI+ 0,880 0,305 2,88 [0,006] EI- 0,238 0,129 1,84 [0,073] logGDP -0,086 0,102 -0,85 [0,401] logBIO(-1) -0,907 0,496 -1,83 [0,075] Hệ số chặn 7,511 4,040 1,86 [0,070] R2 0,599 R2-adj 0,510 χ SC 2 1,910 [0,162] χ FF 2 2.307 [0,065] χ NORM 2 283,49 [0.171] χ HET 2 1,367 [0,235] Kiểm định Wald dài hạn 6,42 [0,015] Ghi chú: Dấu “+” và dấu “-” minh họa cho thành phần tích lũy dương và âm. χ SC , χ FF , 2 2 χ , χ HET minh họa cho các kiểm định tự tương quan, kiểm định dạng hàm, kiểm định phân 2 2 NORM phối chuẩn và kiểm định phương sai thay đổi. Giá trị trong ngoặc vuông biểu thị cho p_value. Nguồn: Tính toán của tác giả hiệu quả sử dụng năng lượng là tác động năng lượng, và sử dụng năng lượng sinh đối xứng trong ngắn hạn, nhưng bất đối học sẽ làm giảm nguy cơ ô nhiễm môi xứng trong dài hạn. trường. Đồng thời vẫn khẳng định bản chất Kết quả kiểm định tự tương quan, kiểm tự nhiên là tiêu thụ năng lượng làm tăng định dạng hàm, kiểm định phân phối lượng khí thải CO2 ra môi trường. Kết luận chuẩn, kiểm định phương sai thay đổi trong này trùng với nghiên cứu của Tang và Tan Bảng 5 đều có p_value > 0.05, chứng tỏ mô (2015) cho trường hợp của Việt Nam, hay hình không gặp phải các “khuyết tật” này. nghiên cứu của Saint Akadiri và cộng sự Bên cạnh đó, kiểm định tổng tích lũy phần (2020). Về hiệu quả sử dụng năng lượng, dư (CUSUM) cho thấy mô hình là ổn định kết luận của nghiên cứu này trùng với (Hình 3), và tác động bất đối xứng được phát hiện của Bildirici và Kayikçi (2024), minh họa trong hình bên phải của Hình 3. và Mester và cộng sự (2023), nhưng lại Khi những kiểm định khuyết tật được thỏa khác kết luận của Lin và cộng sự (2016). mãn, theo Pesaran và Shin (1995) kết quả Xét trong bối cảnh cụ thể của kinh tế Việt ước lượng sẽ đảm bảo được tính tin cậy. Nam, kết luận này có thể được lý giải thông qua các lý do chính như sau: (i) Việt Nam Thảo luận kết quả vẫn có diện tích rừng và cây xanh khá lớn Nghiên cứu này tìm được bằng chứng (chiếm khoảng 41% diện tích) nên một thống kê để kết luận tăng hiệu quả sử dụng phần lượng khí thải CO2 đã được hấp thụ Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 75
  12. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam Nguồn: Tính toán và vẽ minh họa của tác giả Hình 3. Kiểm định CUSUM (hình bên trái) và tác động bất đối xứng (hình bên phải) tự nhiên; (ii) là quốc gia phát triển sau, nên Đóng góp lớn nhất của nghiên cứu này vào Việt Nam có cơ hội để lựa chọn các công cơ sở lý thuyết là tìm được bằng chứng nghệ sản xuất tiên tiến, thân thiện với môi về tác động bất đối xứng của hiệu quả sử trường và ít tiêu hao năng lượng hơn (Bùi dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2. Hoàng Ngọc, 2020); (iii) Việc hội nhập sâu Với việc áp dụng đồng thời phương pháp và rộng vào kinh tế thế giới và khu vực đòi tự hồi quy phân phối trễ tuyến tính ARDL, hỏi Chính phủ phải thực hiện nhiều cam và phương pháp tự hồi quy phân phối trễ kết về bảo vệ môi trường, điều này giúp phi tuyến NARDL cho kinh tế Việt Nam nhận cao nhận thức cho cả cơ quan quản giai đoạn 1971- 2022, nghiên cứu này rút lý, các doanh nghiệp, và người dân (Dinh ra được một số kết luận sau: & Lin, 2014). Thứ nhất: Tác động của hiệu quả sử dụng Tiêu thụ năng lượng sinh học làm giảm áp năng lượng đến lượng khí thải CO2 là tác lực cho chất lượng môi trường, kết luận này động bất đối xứng trong dài hạn, nhưng đối phù hợp với phát hiện của Nwaka và cộng xứng trong ngắn hạn. Tuy nhiên, việc tăng sự (2020); Ullah và cộng sự (2018); You và sử dụng năng lượng ảnh hưởng lớn hơn cộng sự (2017). Năng lượng sinh học ở Việt việc giảm sử dụng năng lượng. Nam thường là những sản phẩm phụ chủ Thứ hai: Sử dụng năng lượng sinh học trong yếu là từ rừng, cây trồng, hoặc chất thải hữu sản xuất và tiêu dùng giúp giảm bớt các áp lực cơ. Việt Nam sử dụng năng lượng sinh học cho những vấn đề môi trường ở Việt Nam. chủ yếu để tạo ra phân bón hữu cơ, nhiệt Để vận dụng kết quả này vào thực tiễn, tác và điện năng. Theo You và cộng sự (2017) giả xin khuyến nghị một số hàm ý chính việc sử dụng năng lượng sinh học mang tới sách như sau: (i) Bên cạnh việc yêu cầu báo nhiều lợi ích như: Giảm sự phụ thuộc vào cáo hiệu quả sử dụng năng lượng từ các Bộ, năng lượng hóa thạch, giảm thiểu phát thải ngành, và địa phương theo định kỳ, Chính khí nhà kính, và chi phí cho việc xử lý chất phủ cần sớm ban hành tiêu chuẩn sử dụng thải rắn, hoặc các bãi rác. năng lượng, đặc biệt là những năng lượng có giá trị kinh tế cao, hoặc không có khả năng 5. Kết luận và hàm ý chính sách tái tạo; (ii) Có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ 76 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
  13. BÙI HOÀNG NGỌC ít tiêu hao năng lượng, như giảm thuế thu động đến lượng khí thải CO2 như đầu tư nhập doanh nghiệp, hỗ trợ tư vấn công nghệ, trực tiếp nước ngoài, chính sách về thuế hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, hỗ trợ tín dụng môi trường… chưa được đưa vào phân với lãi suất ưu đãi v.v…; (iii) Nghiên cứu tích trong nghiên cứu này. Chúng tôi cũng và khuyến khích doanh nghiệp, người dân chưa phân tích cụ thể ngành nghề hay khu sử dụng nhiều hơn các loại năng lượng sinh vực nào trong nền kinh tế Việt Nam gây học. Mô hình sản xuất mà tự tạo ra năng tác động nhiều nhất đến chất lượng môi lượng từ các sản phẩm phụ của quá trình sản trường. Đây là những hướng các nghiên xuất hoặc sinh hoạt cũng cần được xem xét. cứu tương lai có thể tiếp tục phát triển để Tuy nhiên, một số biến số khác có thể tác có cái nhìn toàn diên hơn về chủ đề này. ■ Tài liệu tham khảo Abbasi, M. A., Parveen, S., Khan, S., & Kamal, M. A. (2020). Urbanization and energy consumption effects on carbon dioxide emissions: evidence from Asian-8 countries using panel data analysis. Environ Sci Pollut Res Int, 27(15), 18029-18043. https://doi.org/10.1007/s11356-020-08262-w Acheampong, A. O. (2018). Economic growth, CO2 emissions and energy consumption: What causes what and where? Energy Economics, 74, 677-692. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.eneco.2018.07.022 Adebayo, T. S., Ramzan, M., Iqbal, H. A., Awosusi, A. A., & Akinsola, G. D. (2021). The environmental sustainability effects of financial development and urbanization in Latin American countries. Environmental Science and Pollution Research, 28(41), 57983-57996. https://doi.org/10.1007/s11356-021-14580-4 Adil, A. A. (2018). Could human development be the key to environmental sustainability? Leonardo, 51(2), 197-198. https://doi.org/10.1162/LEON_a_01514 Agbede, E. A., Bani, Y., Azman-Saini, W. N. W., & Naseem, N. A. M. (2021). The impact of energy consumption on environmental quality: empirical evidence from the MINT countries. Environmental Science and Pollution Research, 28(38), 54117-54136. https://doi.org/10.1007/s11356-021-14407-2 Aydin, C., Onay, R. D., & Sahin, I. (2022). Does energy intensity matter in the nexus between energy consumption and economic growth regarding capital-energy substitution? Environmental Science and Pollution Research, 29(58), 88240-88255. https://doi.org/10.1007/s11356-022-21927-y Banerjee, A., Dolado, J. J., & Mestre, R. (1998). Error-correction Mechanism Tests for Cointegration in a Single-equation Framework. Journal of time series analysis, 19(3), 267-283. https://doi.org/10.1111/1467-9892.00091 Bayat, R., Ashrafi, K., Shafiepour Motlagh, M., Hassanvand, M. S., Daroudi, R., Fink, G., & Kunzli, N. (2019). Health impact and related cost of ambient air pollution in Tehran. Environ Res, 176, 108547. https://doi.org/10.1016/j.envres.2019.108547 Bildirici, M., & Kayikçi, F. (2024). Energy consumption, energy intensity, economic growth, FDI, urbanization, PM2.5 concentrations nexus. Environment Development and Sustainability, 26(2), 5047-5065. https://doi.org/10.1007/ s10668-023-02923-9 Bui, H. N., & Nguyen, N. T. (2023). Bayesian Hierarchical Mix-Effects Approach to Impacts of Air Pollution and Economic Growth on Private Health Care Expenditure. In Optimal Transport Statistics for Economics and Related Topics, 483, 417-426. https://doi.org/10.1007/978-3-031-35763-3_29 Bùi Hoàng Ngọc (2020). Tác động của tiêu thụ điện đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam: Đối xứng hay bất đối xứng? Tạp chí nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, 31(2), 45-60. Bùi Hoàng Ngọc, Nguyễn Hữu Khôi, Cảnh Chí Hoàng, Nguyễn Tiến Long & Bùi Thanh Khoa (2020). Tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ điện, tỉ lệ đô thị hóa và dấu chân sinh thái: Thực nghiệm ở các nước ASEAN. Tạp chí nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh Châu Á, 31(8), 05-24. Chen, Q., Madni, G. R., & Shahzad, A. A. (2023). The usage of spatial econometric approach to explore the determinants of ecological footprint in BRI countries. PLoS One, 18(10), e0288683. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0288683 Dickey, D. A., & Fuller, W. A. (1981). Likelihood ratio statistics for autoregressive time series with a unit root. Econometrica, 49(4), 1057-1072. https://doi.org/10.2307/1912517 Dinh, H. L., & Lin, S. M. (2014). CO2 emissions, energy consumption, economic growth and FDI in Vietnam. Managing Global Transitions, 12(3), 219-232. Energy Information Administration (2023). https://www.eia.gov/opendata/ Grossman, G. M., & Krueger, A. B. (1991). Environmental Impacts of a North American Free Trade Agreement. NBER working paper series. No., 3914. https://doi.org/10.3386/w3914 Nguyen, M. H., & Bui, H. N. (2020). Revisiting the relationship between energy consumption and economic growth Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng 77
  14. Tác động của hiệu quả sử dụng năng lượng đến lượng khí thải CO2 ở Việt Nam nexus in Vietnam: new evidence by asymmetric ARDL cointegration. Applied Economics Letters, 28(12), 978-984. https://doi.org/10.1080/13504851.2020.1789543 Hu, H., Zhang, X. H., & Lin, L. L. (2014). The interactions between China’s economic growth, energy production and consumption and the related air emissions during 2000-2011. Ecological Indicators, 46, 38-51. https://doi. org/10.1016/j.ecolind.2014.06.007 Ngo, T. H. (2022). Effect of economic indicators, biomass energy on human development in China. Energy & Environment, 33(5), 829-852. https://doi.org/10.1177/0958305X211022040 Huang, W. T., & He, J. (2023). Impact of energy intensity, green economy, and natural resources development to achieve sustainable economic growth in Asian countries. Resources Policy, 84, Article 103726. https://doi.org/10.1016/j.resourpol.2023.103726 Kuznets, S. (1955). Economic Growth and Income Inequality. The American Economic Review, 45(1), 1-28. Lin, B. Q., Omoju, O. E., Nwakeze, N. M., Okonkwo, J. U., & Megbowon, E. T. (2016). Is the environmental Kuznets curve hypothesis a sound basis for environmental policy in Africa? Journal of Cleaner Production, 133, 712-724. https://doi.org/10.1016/j.jclepro.2016.05.173 Mester, I., Simut, R., Mester, L., & Bâc, D. (2023). An Investigation of Tourism, Economic Growth, CO2 Emissions, Trade Openness and Energy Intensity Index Nexus: Evidence for the European Union. Energies, 16(11), 4308. https://doi.org/10.3390/en16114308 Naminse, E. Y., & Zhuang, J. C. (2018). Economic Growth, Energy Intensity, and Carbon Dioxide Emissions in China. Polish Journal of Environmental Studies, 27(5), 2193-2201. https://doi.org/10.15244/pjoes/78619 Nelson, C. R., & Plosser, C. I. (1982). Trends and random walks in macroeconmic time series. Journal of Monetary Economics, 10(2), 139-162. https://doi.org/10.1016/0304-3932(82)90012-5 Nwaka, I. D., Nwogu, M. U., Uma, K. E., & Ike, G. N. (2020). Agricultural production and CO2 emissions from two sources in the ECOWAS region: New insights from quantile regression and decomposition analysis. Science of The Total Environment, 748, 141329. https://doi.org/https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2020.141329 Pesaran, M. H., & Shin, Y. (1995). An Autoregressive Distributed Lag Modelling Approach to Cointegration Analysis. Department of Applied Economics, University of Cambridge. https://books.google.com.vn/books?id=ZqIsNAEACAAJ Pesaran, M. H., Shin, Y., & Smith, R. J. (2001). Bounds testing approaches to the analysis of level relationships. Journal of Applied Econometrics, 16(3), 289-326. https://doi.org/10.1002/jae.616 Phillips, P. C. B., & Perron, P. (1988). Testing for a unit root in time series regression. Biomètrika, 75(2), 335-346. https://doi.org/10.1093/biomet/75.2.335 Romer, P. M. (1989). Endogenous technological change. NBER working paper series. No., 3210. https://doi.org/10.3386/w3210 Rüstemoglu, H. (2019). Factors affecting Germany’s green development over 1990-2015: a comprehensive environmental analysis. Environmental Science and Pollution Research, 26(7), 6636-6651. https://doi.org/10.1007/s11356-019-04132-2 Saint Akadiri, S., Adewale Alola, A., Olasehinde-Williams, G., & Udom Etokakpan, M. (2020). The role of electricity consumption, globalization and economic growth in carbon dioxide emissions and its implications for environmental sustainability targets. Sci Total Environ, 708, 134653. https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2019.134653 Shahbaz, M., Jam, F. A., Bibi, S., & Loganathan, N. (2016). Multivariate granger causality between co2 emissions, energy intensity and economic growth in portugal: evidence from cointegration and causality analysis. Technological and Economic Development of Economy, 22(1), 47-74. https://doi.org/10.3846/20294913.2014.989932 Shin, Y., Yu, B., & Greenwood-Nimmo, M. (2014). Modelling Asymmetric Cointegration and Dynamic Multipliers in a Nonlinear ARDL Framework. In R. C. Sickles & W. C. Horrace (Eds.), Festschrift in Honor of Peter Schmidt, Econometric Methods and Applications, 281-314. Springer. https://doi.org/10.1007/978-1-4899-8008-3__9 Swiss organisation IQAir (2023). Báo cáo chất lượng không khí thế giới. https://www.iqair.com/vi/newsroom/waqr- 2023-pr?srsltid=AfmBOoqWEwfSVcgA8X-pueL6dwgNK95rsb3r89n10c0CYl-vku_mAEMM, Truy cập ngày 25 tháng 07 năm 2024 Tang, C. F., & Tan, B. W. (2015). The impact of energy consumption, income and foreign direct investment on carbon dioxide emissions in Vietnam. Energy, 79, 447-454. https://doi.org/10.1016/j.energy.2014.11.033 Tổng cục thống kê (2021). Niên giám thống kê 2021. NXB Thống kê . Ullah, A., Khan, D., Khan, I., & Zheng, S. (2018). Does agricultural ecosystem cause environmental pollution in Pakistan? Promise and menace. Environ Sci Pollut Res Int, 25(14), 13938-13955. https://doi.org/10.1007/s11356-018-1530-4 Yang, Z. M., Cai, J. J., Lu, Y., & Zhang, B. (2022). The Impact of Economic Growth, Industrial Transition, and Energy Intensity on Carbon Dioxide Emissions in China. Sustainability, 14(9), 14, 4884. https://doi.org/10.3390/su14094884 You, S., Tong, H., Armin-Hoiland, J., Tong, Y. W., & Wang, C.-H. (2017). Techno-economic and greenhouse gas savings assessment of decentralized biomass gasification for electrifying the rural areas of Indonesia. Applied Energy, 208, 495-510. https://doi.org/10.1016/j.apenergy.2017.10.001 Zhang, X., Geng, Y., Shao, S., Wilson, J., Song, X., & You, W. (2020). China’s non-fossil energy development and its 2030 CO2 reduction targets: The role of urbanization. Applied Energy, 261, 114353. https://doi.org/10.1016/j.apenergy.2019.114353 78 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 273+274- Năm thứ 27 (1+2)- Tháng 1&2. 2025
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2