HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TỔNG QUAN KHOA HỌC
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ TUYỂN THẦU NĂM 2006
Mã số: B.06-50
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Cơ quan chủ trì: Viện Quản lý kinh tế
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ngô Quang Minh
Thư ký đề tài: Th.S Bùi Văn Huyền
6711 17/4/2008
Hà Nội – 2007
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TỔNG QUAN KHOA HỌC
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ TUYỂN THẦU NĂM 2006
Mã số: B.06-50
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Cơ quan chủ trì: Viện Quản lý kinh tế
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ngô Quang Minh
Thư ký đề tài: Th.S Bùi Văn Huyền
Hà Nội, 2007
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
1.1. Bối cảnh ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
1.1.1. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) - tiền
thân của WTO
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (gọi tắt theo tiếng Anh là
GATT) là một trong những thành quả của việc tổ chức lại các quan hệ kinh tế
quốc tế sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Ban đầu, với sáng kiến của Mỹ, các
chuyên gia kinh tế Mỹ, Anh đã bắt tay soạn thảo những nội dung chính nhằm
thiết lập một tổ chức kinh tế quốc tế sau chiến tranh.
Tại Hội nghị Bretton Woods (7/1944), cùng với việc thành lập Quĩ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Tái thiết và phát triển Quốc tế (IBRD),
44 quốc gia tham dự hội nghị thống nhất tham gia đàm phán thành lập Tổ
chức Thương mại Quốc tế (ITO) và Liên hợp quốc được giao nhiệm vụ xúc
tiến thành lập. Ngày 18/2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc
triệu tập một "Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Việc làm" với mục
tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến
chương thành lập ITO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại
thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi
hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
Trong khuôn khổ của Liên hợp quốc, ba hội nghị quốc tế đã diễn ra vào
tháng 10/1946, tháng 8/1947 và tháng 11/1947 nhằm soạn thảo văn kiện thành
lập ITO với tên gọi Hiến chương Havana - một công ước quốc tế bao gồm
106 điều và 16 phụ lục. Trong quá trình đàm phán nhằm ra đời hiến chương
ITO, các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy
tắc thương mại trong Dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các
nhân nhượng liên quan đến thương mại, gồm các quy định thương mại và các
nhân nhượng thuế quan được đưa ra trong Hiệp định chung về Thuế quan và
Thương mại (GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp định phụ
1
trợ nằm trong Hiến chương ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến chương
DANH SÁCH CÁC CỘNG TÁC VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI
ThS. Ngô Thị Ngọc Anh
Viện Quản lý kinh tế
ThS. Nguyễn Văn Chiến
Cục Thống kê Bắc Ninh
PGS.TS Kim Văn Chính
Viện Quản lý kinh tế
ThS. Nguyễn Anh Dũng
Viện Quản lý kinh tế
ThS. Nguyễn Thị Kim Đoan Học viện Chính trị khu vực 3
TS. Trịnh Thị Ái Hoa
Viện Quản lý kinh tế
TS. Đặng Ngọc Lợi
Viện Quản lý kinh tế
ThS. Hồ Thị Hương Mai
Viện Quản lý kinh tế
ThS. Ngô Đức Minh
Viện Quản lý kinh tế
ThS. Đinh Thị Nga
Viện Quản lý kinh tế
TS. Nguyễn Quốc Thái
i
Viện Quản lý kinh tế
1.1. Bối cảnh ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) 1.2. Cơ cấu tổ chức của Tổ chức thương mại Thế giới 1.3. Các hiệp định của WTO 1.4. Các hoạt động đặc biệt
1 1 5 16 31 36 36 53
MỤC LỤC PHẦN THỨ NHẤT: WTO VÀ VIỆT NAM
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI Chương 2: KHÁI QUÁT KINH TẾ VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
2.1. Quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên WTO 2.2. Khái quát kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO
PHẦN THỨ HAI: TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Khái quát hiện trạng công nghiệp Việt Nam 3.2. Những cam kết chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp 3.3. Công nghiệp Việt Nam sau 6 tháng gia nhập WTO 3.4. Tác động gia nhập WTO đến công nghiệp Việt Nam 3.5. Một số giải pháp
4.1. Khái quát hiện trạng nông nghiệp Việt Nam 4.2. Các cam kết chủ yếu của Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp 4.3. Nông nghiệp sau gia nhập WTO 4.4. Những tác động nhìn từ hiện trạng nông nghiệp Việt Nam 4.5. Những tác động trong thực thi Hiệp định nông nghiệp của WTO 4.6. Tác động của gia nhập WTO tới một số mặt hàng chủ yếu 4.7. Một số giải pháp chủ yếu
5.1. Khái quát hiện trạng dịch vụ Việt Nam 5.2. Những cam kết chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ 5.3. Giá cả và dịch vụ sau 6 tháng gia nhập WTO 5.4. Tác động gia nhập WTO đến lĩnh vực dịch vụ 5.5. Một số giải pháp 5.6. Gia nhập WTO và lĩnh vực ngân hàng
Chương 3: TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP KHI GIA NHẬP WTO Chương 4: TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP KHI GIA NHẬP WTO Chương 5: TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DỊCH VỤ KHI GIA NHẬP WTO Chương 6: GIA NHẬP WTO VÀ LĨNH VỰC XUẤT NHẬP KHẨU
78 78 86 89 93 101 108 108 117 123 125 130 132 138 144 144 149 155 158 159 161 171 171 182 185
6.1. Xuất khẩu Việt Nam trước khi gia nhập WTO: Thành tựu và vấn đề đặt ra 6.2. Xuất nhập khẩu sau khi gia nhập WTO 6.3. Một số đánh giá ban đầu về tác động sau gia nhập WTO đến xuất nhập khẩu của Việt Nam 6.4. Một số giải pháp
Chương 7: GIA NHẬP WTO VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
190 194 194 197 205 208 211
7.1. Tổng quan đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 7.2. Đánh giá chung về đầu tư nước ngoài với kinh tế Việt Nam 7.3. Những cam kết đầu tư của Việt Nam trong khuôn khổ WTO 7.4. Đầu tư kể từ khi gia nhập WTO và một số vấn đề đặt ra 7.5. Cải cách đầu tư và những tác động của gia nhập WTO đối với đầu tư nước ngoài 7.6. Một số giải pháp
221
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Bảng 1.1 Quy trình giải quyết tranh chấp của WTO
24
Bảng 1.2 Thực thi Hiệp định Dệt – May
29
Bảng 2.1
54
Tốc độ tăng và đóng góp của các nhóm ngành vào tốc độ tăng trưởng năm 2007
Bảng 2.2 Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế giai đoạn 2000 – 2006
57
Bảng 2.3 Cơ cấu kinh tế các nước Đông Á năm 1999
67
Bảng 2.4 Xếp hạng năng lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam 2005-2006
70
Bảng 2.5 Năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam 2005-2006
72
Bảng 2.6 Điểm số CPI của Việt Nam qua các năm
73
Bảng 2.7 So sánh mức xếp hạng của các năm trước
74
Bảng 3.1 Mức thuế bình quân cam kết hàng công nghiệp
87
Bảng 3.2
88
Tổng hợp cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong đàm phán gia nhập WTO đối với một số sản phẩm công nghiệp
Bảng 3.3 Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2007
89
Bảng 3.4
90
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2007
Bảng 3.5
98
Tỷ lệ tăng trưởng hàng dệt may của một số quốc gia sang thị trường Hoa Kỳ (%)
Bảng 4.1 So sánh giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và Thái Lan
115
Bảng 4.2 Một số sản phẩm tiêu biểu cam kết cắt giảm thuế quan
119
Bảng 4.3 Những cam kết quan trọng nhất trong Hiệp định Nông nghiệp
122
Bảng 4.4 Kết quả sản xuất vụ đông xuân năm 2007
123
Bảng 4.5 Sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2007
125
Bảng 4.6 Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2007
125
Bảng 5.1 Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của các phân ngành dịch vụ
145
Bảng 5.2 Tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế cho GDP
146
Bảng 5.3
148
Tỷ trọng đóng góp của một số dịch vụ động lực trong GDP giai đoạn 1995-2000
Bảng 5.4 Vận tải hành khách và hàng hoá 7 tháng năm 2007
157
Bảng 5.5 Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng
162
Bảng 6.1 Giá trị (triệu USD) và thị trường xuất khẩu (%) của Việt Nam
175
Bảng 6.2 Kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu 2004-2006
177
Bảng 6.3 Các yếu tố cấu thành tăng trưởng xuất khẩu
178
Bảng 6.4 Quy mô và tốc độ tăng của từng khu vực thị trường so với năm 2005
179
Bảng 6.5 Tỷ trọng hàng hoá Việt Nam so với tổng hàng nhập khẩu của Mỹ (%)
180
Bảng 6.6
183
Một số chỉ tiêu sau 9 tháng gia nhập WTO (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm trước
Bảng 6.7
188
20 nhóm hàng hoá nhập khẩu có lượng và giá trị tăng mạnh trong quý I/2007
Bảng 7.1 Cải cách liên quan đến đầu tư
214
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Số hiệu
Tên hình
14
53
54
56
58
59
61
76
78
79
109
111
113
144
155
171
172
172
173
174
Hình 1.1 Cơ cấu tổ chức của WTO Hình 2.1 Tốc độ tăng trưởng GDP 1986-2007 Hình 2.2 Qui mô GDP và tỷ lệ GDP/người Hình 2.3 Tổng đầu tư toàn xã hội và tỷ lệ đầu tư/GDP Hình 2.4 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành Hình 2.5 Những sản phẩm xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD Hình 2.6 Tổng giá trị giao dịch cổ phiếu thị trường niêm yết giai đoạn 2000-2006 Hình 2.7 Điểm mạnh và điểm yếu của Việt Nam Hình 3.1 Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế Hình 3.2 Công nghiệp Việt Nam 2001-2007 Hình 4.1 Tốc độ gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006 (% so với 2005) Hình 4.2 Biến đổi cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp Hình 4.3 Kim ngạch xuất khẩu một số nông sản chủ yếu Hình 5.1 Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP và lĩnh vực dịch vụ Hình 5.2 Chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2005-2007 Hình 6.1 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua một số năm Hình 6.2 Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm của Việt Nam Hình 6.3 Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP Hình 6.4 Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người Hình 6.5 Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD
176
Hình 6.6
Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ (triệu USD) và tốc độ tăng trưởng hàng năm
179
182
184
194
195
Hình 6.7 Cán cân thương mại của Việt Nam Hình 6.8 Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 1996-2006 Hình 6.9 Thay đổi kim ngạch xuất nhập khẩu 9 tháng 2007 so với 9 tháng 2006 Hình 7.1 Tổng quan đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ 1988 đến 2006 Hình 7.2 Tổng vốn đầu tư giai đoạn 2000-2006
198
Hình 7.3
Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành tính theo giá trị và số lượng dự án, giai đoạn 1988-2007
209
216
217
219
Hình 7.4 Vốn FDI trung bình 10 tháng giai đoạn 2005-2007 Hình 7.5 Chỉ số Vnindex trong 2 năm 10/2005- 10/2007 Hình 7.6 Chỉ số VNindex sau gia nhập WTO Hình 7.7 So sánh cơ sở hạ tầng của các nước trong ASEAN
iv
DANH MỤC CÁC HỘP
Số hiệu
Tên hộp
Trang
Hộp 1.1 WTO thuộc về ai?
11
Hộp 1.2 Phương thức biểu quyết có thể được áp dụng
15
Hộp 2.1 Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam
37
Hộp 2.2 Khả năng và mối quan tâm đối với việc tham gia hệ thống
42
Hộp 2.3 Thế nào là “biểu thuế tối đa” và “biểu thuế tăng dần”?
43
Hộp 3.1 Dự án Intel
84
Hộp 3.2 Chính sách công nghiệp cần đồng hành cùng doanh nghiệp
85
Hộp 3.3 Ý kiến doanh nghiệp về chính sách phát triển công nghiệp
86
Hộp 3.4 Nội dung cơ bản của cam kết trong lĩnh vực công nghiệp
86
Hộp 3.5 Doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội
96
Hộp 4.1 Thế nào là “bóp méo cạnh tranh”?
118
Hộp 4.2 Hỗ trợ trong nước trong Hiệp định Nông nghiệp
120
Hộp 4.3 Các tiêu chuẩn quốc tế này là gì?
122
Hộp 4.4 Ba cái được khi gia nhập WTO
127
Hộp 4.5 Trợ cấp của một số Chính phủ
128
Hộp 4.6 Tác động tiêu cực khi gia nhập WTO
129
Hộp 4.7
136
Tăng trưởng xuất khẩu cá phi lê đông lạnh của Việt Nam trong trường hợp Mỹ áp dụng thuế bán phá giá
Hộp 5.1 Sáu tháng đầu năm 2007: Giá tăng không phải do WTO
156
Hộp 5.2 Thời điểm lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam
166
Hộp 5.3 Trường hợp của Trung Quốc
167
Hộp 6.1 Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú trả lời báo Tuổi trẻ
184
Hộp 6.2
193
Thứ trưởng Bộ Thương mại Nguyễn Thành Biên: Muốn đạt kế hoạch phải giữ chất lượng
Hộp 7.1 Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs)
205
Hộp 7.2 Nội dung chính của hiệp định TRIMs
206
Hộp 7.3 Sự khác biệt giữa cam kết gia nhập WTO và pháp luật Việt Nam
210
223
Hộp 7.4 Tập trung đầu tư cho nhân lực để đón dòng vốn FDI
v
Mục tiêu đề tài nhằm phân tích, đánh giá tác động tới nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO. Để thực hiện mục tiêu, ban chủ nhiệm đề tài lựa chọn cách tiếp cận, phân tích theo cơ cấu ngành (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ), ngoài ra có phân tích thêm 2 lĩnh vực là xuất nhập khẩu và đầu tư. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự tách bạch tác động theo cơ cấu nêu trên không rõ ràng, một cam kết có thể tác động lên nhiều lĩnh vực, đồng thời một lĩnh vực chịu tác động từ nhiều hiệp định, cam kết. Những tác động đan xen, hoà quyện, rất khó bóc tách ... gây những khó khăn nhất định trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, thời gian gia nhập WTO của Việt Nam chưa được 1 năm, những tác động chưa bộc lộ hết, nhiều cam kết chưa được thực thi, do đó một số kết luận chủ yếu mang tính dự báo.
Sau gần 1 năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi nhất định. Tuy vậy, ban chủ nhiệm và các cộng tác viên không thể bóc tách những tác động do riêng WTO mang lại với những hiệp định đa phương và song phương khác. Nói cách khác, những kết quả đạt được của nền kinh tế sau gia nhập WTO có bao nhiêu phần trăm do kết quả của tổ chức này mang lại đã không được phân tích trong phạm vi đề tài.
Một số yếu tố khác, có ảnh hưởng đến những kết quả đạt được của nền kinh tế trong giai đoạn vừa qua như cải cách cơ cấu kinh tế trong nước, hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ, cải cách hành chính … là những nội dung đã thực hiện từ trước khi Việt Nam gia nhập WTO và sẽ còn tiếp tục thực hiện trong những năm tới. Như vậy, kết quả đạt được của nền kinh tế do nhiều yếu tố, trong đó WTO là một trong số đó.
Những cam kết và thực hiện cam kết trong khuôn khổ WTO có những tác động khác biệt trong ngắn hạn và dài hạn. Nhiều cam kết sẽ tác động tiêu cực trong ngắn hạn nhưng sẽ mang lại kết quả tích cực trong dài hạn và ngược lại, chẳng hạn như cắt giảm thuế quan sẽ dẫn đến tăng kim ngạch nhập khẩu trong ngắn hạn nhưng nếu điều chỉnh cơ cấu mặt hàng sẽ tạo thêm “lực” cho nền kinh tế trong dài hạn.
WTO tác động tới các thành viên đến đâu phụ thuộc vào chính mỗi quốc gia. Sự thành công nhiều hay ít với tư cách thành viên WTO không phải phụ thuộc vào tổ chức này mà ở chính mỗi thành viên và Việt Nam không phải ngoại lệ.
Với tất cả những yếu tố trên, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng kết quả nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài chỉ là những đánh giá ban đầu và còn nhiều khiếm khuyết, rất mong nhận được sự góp ý và chia sẻ của các nhà khoa học và những người quan tâm đến chủ đề này.
vi
MỞ ĐẦU
Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển
trong cuộc giao lưu với báo vietnamnet
Chúng ta đánh giá quá cao, quá mức sự kiện gia nhập WTO. Đánh giá quá cao theo cách lạc quan tếu. Nếu như vậy thì rất nguy hiểm. Vào WTO là đất nước "đổi đời", không có chuyện đó đâu.
Không ở đâu như Việt Nam, người dân tổ chức đi bộ, míttinh chào mừng
tổ chức thành công APEC và gia nhập WTO. Tôi hoàn toàn không phê phán, nhưng nếu chỉ dừng ở đó thì chẳng giải quyết được vấn đề gì. Các phong trào đó cần khẳng định quyết tâm, tận dụng được cơ hội, vượt qua
"Việt Nam được nhiều hay mất nhiều phụ thuộc vào chính Việt Nam" Pascal Lamy, Tổng giám đốc WTO
vii
thách thức … để làm cái gì tốt hơn. Nếu đặt không đúng, không phấn đấu được thì lại tạo ra thất vọng, lúc bấy giờ lại đổ tại đàm phán.
ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc, các nước
đều muốn sớm thúc đẩy tự do hoá thương mại, và bắt đầu khắc phục những
hậu quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm 1930. Do vậy,
ngày 23/10/1947, 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời"
(PPA), có hiệu lực từ 1/1/1948, thông qua nghị định thư này, Hiệp định
GATT đã được chấp nhận và thực thi.
Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Cuối
cùng, tháng 3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về
Thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc tại Havana. Tuy nhiên, quốc hội
của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc hội
Mỹ phản đối Hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Mỹ đã đóng vai trò
tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950, Chính phủ Mỹ chính
thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua Hiến chương Havana,
do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn tác dụng. Và mặc dù chỉ là
tạm thời, GATT trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại
quốc tế từ năm 1948 cho đến tận năm 1995, khi WTO ra đời.
Trong 48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức 8 vòng đàm phán:
Năm
Địa điểm/Tên
Chủ đề đàm phán
Thuế quan Thuế quan Thuế quan Thuế quan Thuế quan
Số nước 23 13 38 26 26
62
102
123
1947 1949 1951 1956 1960- 1961 1964- 1967 1973- 1979 1986- 1994
Geneva Annecy Torquay Geneva Geneva (Vòng Dillon) Geneva (Vòng Kenedy) Geneva (Vòng Tokyo) Geneva (Vòng Uruguay)
Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá Thuế quan, các biện pháp phi quan thuế, các hiệp định "khung" Thuế quan, các biện pháp phi quan thuế, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, hàng dệt, nông nghiệp, thành lập WTO, v.v...
Năm vòng đàm phán đầu tiên chủ yếu tập trung vào đàm phán giảm
thuế quan. Bắt đầu từ Vòng đàm phán Kenedy, nội dung của các vòng đàm
phán mở rộng dần sang các lĩnh vực khác. Vòng đàm phán cuối cùng - Vòng
Uruguay - đã mở rộng nội dung sang hầu hết các lĩnh vực của thương mại bao
2
gồm: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ... và
cho ra đời một tổ chức mới thay thế cho GATT - đó là WTO.
Trong suốt quá trình tồn tại, GATT đã trở thành hệ thống thể chế và
pháp lý của nền thương mại quốc tế, hiệp định của GATT cũng là hiệp định
đa phương duy nhất điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế. Mặc dù còn
những khiếm khuyết nhất định nhưng trong thời gian 48 năm tồn tại, GATT
đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi và tự do
hoá thương mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Tính tới
thời điểm trước ngày 1/1/1995 (WTO ra đời), GATT đã có 124 thành viên và
đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm
và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc giảm thuế quan cho tới các biện
pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế quốc tế
giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức thuế trung
bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước
phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát
triển còn khoảng 15%. Qui mô của GATT cũng không ngừng được mở rộng,
từ chỗ chi phối 20% tổng giá trị thương mại thế giới khi thành lập, đến năm
1995, tỷ lệ này lên tới 90%.
1.1.2. Sự ra đời của WTO
Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 80, đầu 90, tình hình thương mại quốc tế có nhiều thay đổi, GATT bắt đầu tỏ ra có những bất cập, không theo kịp tình hình.
- Khiếm khuyết lớn nhất của GATT là tính chất “tạm thời” của hiệp định này với tư cách là một “điều ước quốc tế”. GATT không phải là tổ chức quốc tế nên đã gây ra những tranh cãi về tư cách thành viên. Trường hợp của
Trung Quốc là ví dụ: Quốc gia này đã tham gia ký kết ban đầu như “thành viên sáng lập” của GATT. Tháng 7/1986, Trung Quốc đệ đơn khôi phục tư
cách thành viên ký kết ban đầu nhưng không được các chuyên gia pháp lý của GATT chấp thuận với lý do đây không phải là tổ chức quốc tế, vì vậy không thể áp dụng qui định kế thừa hay khôi phục tư cách thành viên.
3
- Những thành công của GATT trong việc giảm và ràng buộc thuế quan ở mức thấp cộng với một loạt các cuộc suy thoái kinh tế trong những năm 70
và 80 đã thúc đẩy các nước xây dựng các loại hình bảo hộ phi thuế quan để đối phó với hàng nhập khẩu, đồng thời thực hiện nhiều hình thức hỗ trợ và trợ cấp.
Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị mà việc giảm thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong khi đó, phạm vi của GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể và sâu rộng đến các vấn đề này.
- Khi GATT được thành lập năm 1948, Hiệp định này chủ yếu điều tiết thương mại hàng hoá hữu hình. Đến những năm 80, GATT đã không còn thích ứng với thực tiễn thương mại thế giới bởi sự phát triển nhanh chóng của
các lĩnh vực thương mại dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, tư vấn... . Cùng với các loại hình
thương mại dịch vụ, các vấn đề thương mại trong đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đã phát triển nhanh chóng và trở thành một bộ phận quan trọng của thương mại quốc tế, đòi hỏi những thay đổi sâu
rộng trong các hiệp định cũng như mô hình tổ chức.
- Một số khiếm khuyết trong lĩnh vực thương mại hàng hoá dần bộc lộ. Chẳng hạn trong nông nghiệp và dệt may, các cố gắng tự do hoá thương mại
đã không đạt được thành công như mong muốn. Kết quả là còn rất nhiều ngoại lệ với các quy tắc chung trong hai lĩnh vực thương mại này.
- Cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng tỏ ra không thích ứng với tình hình thế giới. Thương mại quốc tế ở những năm 80 và 90 đòi hỏi phải có một tổ chức thường trực, có nền tảng pháp lý vững chắc
để đảm bảo thực thi các hiệp định, quy định chung của thương mại quốc tế, trong khi đó GATT chỉ là một hiệp định. Về hệ thống giải quyết tranh chấp, GATT chưa có một cơ chế điều tiết thủ tục tố tụng chặt chẽ, không đưa ra một thời gian biểu nhất định, do đó, các vụ việc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ bị bế tắc. Để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả, hệ
thống này cần phải được tổ chức lại.
Nhận thức rõ những khiếm khuyết đó, các bên tham gia GATT đã nỗ lực để củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến 1994, Hiệp định GATT và các hiệp định phụ trợ của nó đã được các nước thảo luận sửa đổi và cập nhật để thích ứng với điều kiện thay đổi của môi trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947, cùng với các quyết định
4
đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT 1994. Một số
hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Dệt may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với GATT 1994, chúng tạo
thành các yếu tố của các Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại Hàng hoá. Vòng đàm phán Uruguay cũng thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại Dịch vụ và Quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại. Một trong những thành công lớn nhất của vòng đàm phán lần này là các nước đã cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập WTO, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
1.2. Cơ cấu tổ chức của WTO
1.2.1. Mục tiêu Mục tiêu trực tiếp của WTO được nêu trong tuyên bố thành lập nhằm Xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn1 theo hướng tạo ra những thoả thuận và cam kết tương hỗ của các thành viên
nhằm giảm đáng kể thuế, hàng rào cản trở thương mại và loại bỏ sự phân biệt đối xử trong TMQT. Mục tiêu gián tiếp của WTO nhằm:
- Nâng cao mức sống;
- Bảo đảm tạo đầy đủ việc làm, đảm bảo tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu cầu thực tế;
- Phát triển việc sử dụng các nguồn lực của thế giới;
- Mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
Có thể cụ thể hoá mục tiêu của WTO theo ba giác độ: kinh tế, chính trị,
xã hội.
Mục tiêu kinh tế của WTO là đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế
theo hướng tự do. Thông qua việc thiết lập hệ thống các cam kết đa phương, WTO hướng đến tạo lập và duy trì môi trường thương mại tự do có thể quản lý được, hướng các quốc gia tới việc thực thi chính sách thương mại ổn định,
minh bạch, có thể dự đoán được nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư kinh doanh có thể ra các quyết định đúng, nhờ đó không chỉ các quốc gia tham gia thương mại quốc tế có thể tăng trưởng việc làm, thu nhập và phát triển bền vững, mà nền kinh tế thế giới cũng đạt tới trạng thái hiệu quả.
1 Vụ Chính sách thương mại đa biên -Bộ Thương mại (2000), Kết quả vòng đàm phán Urugoay về hệ thống thương mại đa biên, NXB Thống kê, Hà Nội.
5
Mục tiêu chính trị của WTO là thiết lập một thể chế pháp lý toàn cầu
cho phép duy trì môi trường thương mại ổn định, khuyến khích thương mại tự do, hạn chế các quốc gia đưa ra các chính sách thương mại tuỳ tiện làm tổn
hại đến quá trình phát triển thương mại quốc tế.
Mục tiêu xã hội của WTO là hướng tới nền kinh tế thế giới hiệu quả, qua đó phục vụ tốt hơn nhu cầu của dân cư ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
Đặc biệt WTO có giành sự chú ý nhất định đến việc tạo điều kiện cho các quốc gia kém phát triển tham gia thương mại quốc tế.
Như vậy, từ các mục tiêu được công bố công khai của WTO có thể thấy
đây là một thể chế tích cực, ủng hộ và hướng đến thương mại tự do. WTO hướng tới hình thành một môi trường thương mại quốc tế ổn định, minh bạch
và có thể dự đoán được nhằm bảo đảm cho thương mại tự do có thể thực thi được theo những tiêu chuẩn phù hợp với từng thời kỳ lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Những mục tiêu nêu trên có sức hấp dẫn rất lớn đối với tất cả các
quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, trong thực tế, quá trình thực hiện mục tiêu có rất nhiều mâu thuẫn giữa các bên tham gia cũng như các vấn đề nảy sinh do xung đột về lợi ích, do trình độ phát triển và lựa chọn chính sách của
các thành viên.
1.2.2. Chức năng
Theo Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, tổ chức này có năm chức
năng cơ bản như sau:
Một là: Tạo thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và tiến hành các mục
tiêu của Hiệp định này và các Hiệp định thương mại đa biên khác, cũng như các Hiệp định nhiều bên. WTO có trách nhiệm theo dõi chính sách thương mại của các quốc gia thành viên nhằm thúc đẩy việc thực thi chúng theo cách thức mà các nước đã cam kết tập thể với nhau.
Hai là: Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các nước thành viên về quan hệ
thương mại giữa các nước này về các vấn đề được đề cập đến trong các Hiệp định WTO và thực thi kết quả của các cuộc đàm phán đó. Đàm phán tại WTO dựa trên hai nguyên tắc: (1) Nhân nhượng lẫn nhau: Một quốc gia không thể chỉ “nhận” mà cần có những điều khoản để đổi lại; (2) Đối xử đặc biệt với nước đang phát triển, nhất là các nước kém phát triển.
6
Ba là: Giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên trên cơ sở Quy
định và thủ tục giải quyết tranh chấp. WTO nỗ lực xây dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập và công bằng những vấn đề khúc mắc, tranh chấp
nảy sinh giữa các thành viên của WTO thông qua các thủ tục pháp lý khách quan. Tuy nhiên, do khả năng gây ảnh hưởng không chính thức cũng như khả năng tham gia vào hoạt động pháp lý thực tế để giải quyết các tranh chấp cụ
thể là khác nhau giữa các nước có tiềm lực, có sức mạnh ngoại thương khác nhau, nên thực tế giải quyết tranh chấp hiện nay trong WTO chưa đạt được mức độ khách quan như mong muốn. Song, theo đánh giá chung, cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO đã ít nhiều thể hiện được tính độc lập và khách quan của nó.
Bốn là: Thực hiện rà soát chính sách thương mại thông qua Cơ chế rà
soát chính sách thương mại. Định kỳ theo quy định của WTO, các quốc gia phải gửi báo cáo về chế độ thương mại của mình cho WTO và cơ quan giúp
việc của WTO có trách nhiệm gửi báo cáo này cho các thành viên quan tâm. Thông qua việc giám sát chính sách thương mại quốc gia, WTO thúc đẩy quan hệ hiểu biết lẫn nhau giữa các nước thành viên, qua đó khuyến khích các
thành viên tuân thủ các quy định, cam kết và thủ tục mà các nước thoả thuận. Các quốc gia có ảnh hưởng lớn đến thương mại quốc tế như Mỹ, EU, Nhật Bản … định kỳ rà soát chính sách là hai năm, các quốc gia khác thường là 4-6 năm tuỳ thuộc mức độ ảnh hưởng đến thương mại toàn cầu. Riêng đối với các nước chậm phát triển, thời gian này có thể dài hơn.
Năm là: Nhằm đạt được một sự nhất quán, hài hoà trong việc hoạch
định chính sách thương mại toàn cầu, WTO sẽ phối hợp với IMF, WB hay
một số tổ chức quốc tế khác như Trung tâm thương mại Quốc tế (ITC),
Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) trong những lĩnh vực cụ thể,
chẳng hạn như tăng cường năng lực điều hành của Chính phủ đối với các quốc
gia chậm phát triển.
1.2.3. Nguyên tắc cơ bản
WTO hoạt động dựa trên một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức
tạp, bao gồm các hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều
chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó
7
đều được xây dựng trên cơ sở bảy nguyên tắc cơ bản của WTO.
Nguyên tắc 1: Không có sự phân biệt đối xử
Nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định về chế độ Đãi ngộ
Tối huệ quốc (MFN) và Đãi ngộ Quốc gia (NT). MFN là một nguyên tắc cơ bản của WTO, được nêu trong Điều I - Hiệp định GATT, điều II - Hiệp định GATS và điều IV - Hiệp định TRIPS. Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu
một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt
đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì
cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên
tắc này; Nguyên tắc NT: Trong khi nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên không được phép áp dụng đối xử phân biệt giữa các nước thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa
hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong nước.
Nguyên tắc MFN và NT lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực
thương mại hàng hoá, sau khi WTO ra đời thì nó được mở rộng cả sang thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại và các lĩnh vực khác, tuy vậy mức độ áp dụng của quy tắc này trong các lĩnh vực là khác nhau. Trong thương mại hàng hoá: MFN và NT được áp dụng tương đối toàn diện và triệt để. Trong thương mại dịch vụ: MFN và NT cũng được áp dụng với những lĩnh vực mà một thành viên đã cam kết mở cửa thị trường,
với những lĩnh vực dịch vụ còn duy trì hạn chế thì việc dành MFN và NT tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán các cam kết cụ thể. Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, các NT trên đã được thể chế hoá cụ thể và phổ biến trong các công ước quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Nguyên tắc 2: Chỉ bảo hộ bằng thuế quan
8
Trong WTO, việc bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa không bị ngăn
cấm. Tuy nhiên, WTO đưa ra một nguyên tắc là các nước chỉ được thực hiện bảo hộ chủ yếu thông qua thuế quan, không được sử dụng các biện pháp
thương mại khác. Mục tiêu của nguyên tắc này để đảm bảo sự minh bạch của việc bảo hộ và giảm thiểu những tác dụng bóp méo thương mại phát sinh.
Nguyên tắc 3: Tạo dựng một nền tảng ổn định cho thương mại
Một nguyên tắc cơ bản của WTO là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định cho thương mại quốc tế, thông qua việc các nước ràng
buộc thuế quan của mình. Các nước chỉ có thể tăng thuế quan sau khi đã tiến hành đàm phán lại và đã đền bù thoả đáng cho lợi ích các bên bị thiệt hại do việc tăng thuế đó.
Để đảm bảo nguyên tắc này, các nước thành viên WTO còn có nghĩa vụ phải minh bạch hoá các quy định thương mại của mình, phải thông báo mọi biện pháp đang áp dụng và ràng buộc chúng (tức là cam kết sẽ không thay đổi
theo chiều hướng bất lợi cho thương mại, nếu thay đổi phải được thông báo, tham vấn và bù trừ hợp lý). Tính dự báo được nhằm giúp các nhà kinh doanh
nắm rõ tình hình hiện tại cũng như xác định được cơ hội của họ trong tương lai. Nguyên tắc này giúp cho môi trường kinh doanh có tính ổn định và lành mạnh.
Nguyên tắc 4: Thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán
WTO đảm bảo thương mại giữa các quốc gia ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp các hàng rào thương mại để thúc đẩy
buôn bán. Kể từ năm 1948 đến nay, GATT và WTO đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc thương mại ngày càng tự do này, WTO đảm
nhận chức năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại.
WTO kiên trì xu hướng hạn chế dần đi tới xoá bỏ các hàng rào cản trở
thương mại quốc tế như thuế quan và các biện pháp phi thuế quan nhằm tiến tới một thị trường thống nhất dựa trên các quy tắc cạnh tranh kinh tế. Do đó, ngoài việc khuyến khích, duy trì thường xuyên các cuộc đàm phán giảm thuế quan, WTO còn thúc đẩy, mở rộng các đàm phán nhằm đi tới các hiệp định bổ sung về thủ tục hành chính đối với hàng xuất nhập khẩu.
9
Gần đây, WTO mở rộng các vấn đề đàm phán sang lĩnh vực môi trường
và lao động liên quan đến sản xuất sản phẩm. Về phương diện xã hội, các quy định của một số nước liên quan đến bảo vệ môi trường và an toàn lao động
cho phụ nữ và trẻ em mang tính nhân đạo. Nhưng về mặt điều kiện thương mại thì các quy định mới này có thể cản trở hoạt động thương mại và gây bất lợi cho hàng hoá của các nước kém phát triển. Do đó, quá trình hoạch định và
thực thi chính sách thương mại tự do của WTO trong mối liên hệ đến các vấn đề công bằng và phát triển còn tiềm ẩn nhiều khía cạnh phức tạp và mâu thuẫn nhau.
Nguyên tắc 5: Tạo lập môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng
WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do,
công bằng và không bị bóp méo. Tất cả các Hiệp định của WTO như về nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ... đều nhằm mục tiêu tạo một môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các quốc gia.
WTO khuyến khích thương mại theo khuynh hướng cạnh tranh kinh tế thuần tuý dựa trên lợi thế cạnh tranh nhằm thiết lập cơ cấu phân công lao động quốc tế hiệu quả. Chính vì thế, trong các nội dung đàm phán, cũng như
trong các hiệp định đã ký kết của WTO các biện pháp can thiệp của nhà nước làm hạn chế phạm vi hoạt động của cơ chế thị trường cạnh tranh tự do hoặc làm méo mó giá cả thường bị gây áp lực phải hạn chế dần, đi tới xoá bỏ. Nguyên tắc này đặc biệt liên quan đến thương mại nhà nước và trợ cấp của nhà nước, nhất là trong các vòng đàm phán gần đây, khi vấn đề trợ cấp nông
sản và chi tiêu của Chính phủ được nhiều nước quan tâm đề xuất đưa vào chương trình đàm phán. Mục đích của nguyên tắc này là xây dựng một môi trường trong đó hàng hoá và dịch vụ cạnh tranh bình đẳng với nhau, không có sự hỗ trợ tài chính của nhà nước.
Nguyên tắc 6: Nguyên tắc "khước từ" và khả năng áp dụng các
hành động khẩn cấp
Khi tình hình kinh tế hay thương mại của một nước gặp khó khăn nhất thời, WTO cho phép các nước thành viên được tạm thời miễn không thực hiện những nghĩa vụ nhất định.
WTO cũng cho phép các chính phủ được áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp trong những trường hợp quy định. Các thành viên có thể áp dụng
10
các hạn chế nhập khẩu hay tạm ngừng các nhân nhượng thuế quan đối với
những sản phẩm cụ thể khi nhập khẩu các sản phẩm này tăng mạnh, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước.
Theo quy định của WTO, các nước sẽ loại bỏ tất cả hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép các nước thành viên được áp dụng các hạn chế nhập khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ như:
- Nước nhập khẩu gặp khó khăn về cán cân thanh toán
- Có căng thẳng về ngoại hối (do nhu cầu nhập khẩu vì mục tiêu phát
triển tăng mạnh, hoặc do các nước này thiết lập hay mở rộng hoạt động sản xuất trong nước).
Khi các nước áp dụng các ngoại lệ này, các hạn chế số lượng phải được
áp dụng trên cơ sở không có sự phân biệt đối xử.
Nguyên tắc 7: Ưu đãi dành cho các nước đang phát triển Một trong những mục tiêu hoạt động của WTO là cần phải có nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế
tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước đó. Với khoảng 2/3 số thành viên của mình là các nước đang và kém phát triển, WTO luôn khuyến khích phát triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các
quốc gia này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa phương. WTO cũng dành cho các nước đang phát triển,
các nền kinh tế chuyển đổi những ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
Những ưu đãi được khuyến khích trong WTO khá đa dạng, từ cam kết
giảm thuế quan bất tương xứng đến lộ trình thực hiện cam kết dài hơn cho các nước đang phát triển, thậm chí WTO cho phép miễn nghĩa vụ cam kết cho các nước chậm phát triển nhất.
Hộp 1.1. WTO thuộc về ai?
WTO được điều khiển bởi chính các chính phủ là thành viên của tổ chức. Tất cả các quyết định lớn đều có sự tham gia của toàn thể các thành viên, được đưa ra hoặc ở cấp Hội nghị bộ trưởng (họp ít nhất là 2 năm một lần), hoặc ở cấp các đại sứ và đại biểu (họp thường xuyên ở Geneva). Thông thường các quyết định được đưa ra theo nguyên tắc đồng thuận.
Do nguyên tắc này, WTO khác với một số tổ chức quốc tế khác, ví dụ như Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế. Tại WTO không có sự uỷ quyền cho một Uỷ ban
11
điều hành hoặc một nhân vật đứng đầu tổ chức quốc tế trong quá trình ra quyết định.
Các chế tài áp dụng cho các nước thành viên, được quy định trong các quy tắc của WTO, là kết quả của những cuộc thương lượng giữa các thành viên của Tổ chức này. Chính bản thân các thành viên này giám sát việc áp dụng các nguyên tắc theo đúng các trình tự đã được họ thoả thuận, bao gồm cả việc dùng đến các biện pháp trừng phạt thương mại. Nhưng những biện pháp trừng phạt này do chính các nước đặt ra và được toàn thể các thành viên cho phép áp dụng, điều này thực sự khác với các tổ chức quốc tế khác. Ví dụ như, các tổ chức này có thể tác động đến chính sách của một nước bằng cách đe doạ ngừng cấp các khoản tín dụng.
Đôi khi khó có thể thông qua các quyết định theo nguyên tắc đồng thuận với khoảng 150 thành viên. Lợi ích chính của nguyên tắc đồng thuận là các quyết định có nhiều cơ hội được tất cả các thành viên chấp thuận hơn, và mặc dù khó khăn, nhiều thoả thuận rất quan trọng đã được ký kết. Cho đến nay, ý tưởng thành lập một cơ quan điều hành có số thành viên hẹp - có thể dưới hình thức một Uỷ ban điều hành trong đó mỗi thành viên đại diện cho một nhóm nước – thường xuyên được nêu ra. Tuy nhiên, hiện giờ WTO vẫn là một tổ chức hoạt động dưới sự điều khiển của các nước thành viên và trung thành với nguyên tắc đồng thuận. Nguồn: Tìm hiểu về WTO, tr.85
1.2.4. Cơ cấu tổ chức của WTO
Bộ máy điều hành của WTO được tổ chức như sau:
- Hội nghị Bộ trưởng WTO: Là cơ quan cao nhất của WTO, bao gồm đại
diện của tất cả các thành viên, định kỳ họp 2 năm một lần. Hội nghị Bộ trưởng sẽ
thực thi chức năng thông qua hầu hết các quyết định của WTO (các hiệp định, thông
báo, chương trình nghị sự của các vòng đàm phán, giải thích ý nghĩa các hiệp định).
- Đại hội đồng WTO: Là cơ quan thường trực giữa hai kỳ họp của Hội
nghị Bộ trưởng. Đại hội đồng cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên
và thực hiện 3 chức năng: chức năng của Hội nghị Bộ trưởng trong thời gian
giữa các khoá họp (giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến WTO);
chức năng của cơ quan giải quyết tranh chấp khi có vụ việc đưa lên Đại hội
đồng; chức năng của cơ quan rà soát chính sách thương mại của các thành
viên theo định kỳ. Đại hội đồng còn quy định quy chế hoạt động và thủ tục
hành chính cho các hội đồng trực thuộc.
Dưới Đại Hội đồng, WTO có ba Hội đồng về ba lĩnh vực thương mại
cụ thể là Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và
12
Hội đồng về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Các hội đồng
này có các cơ quan cấp dưới (các uỷ ban và các tiểu ban) để thực thi các công
việc cụ thể trong từng lĩnh vực. (Ví dụ, Hội đồng Thương mại Hàng hoá có 11
uỷ ban, 2 nhóm công tác và Cơ quan Giám sát Hàng dệt, Hội đồng Thương
mại Dịch vụ có 2 uỷ ban, 2 nhóm công tác...).
Tương đương với các Hội đồng này, WTO còn có một số uỷ ban với
phạm vi chức năng nhỏ hơn, nhưng cũng báo cáo trực tiếp lên Đại Hội đồng,
đó là các Uỷ ban về Thương mại và Phát triển, Thương mại và Môi trường,
Hiệp định Thương mại Khu vực, Hạn chế bảo vệ Cán cân Thanh toán, Uỷ ban
về Ngân sách, Tài chính và Quản lý, và Tiểu ban về các nước Chậm phát
triển. Bên cạnh các uỷ ban đó là các Nhóm công tác về Gia nhập, và Nhóm
Công tác về Mối quan hệ giữa Đầu tư và Thương mại, về Tác động qua lại
giữa Thương mại và Chính sách cạnh tranh, về Minh bạch hoá và Mua sắm
của Chính phủ. Ngoài ra còn có hai uỷ ban về các hiệp định nhiều bên.
- Ban thư ký WTO: Là một cơ quan quan trọng của WTO đặt tại
Geneva. Đứng đầu Ban Thư ký là Tổng Thư ký, dưới đó là các Phó tổng thư
ký, phụ trách từng mảng cụ thể. Nhiệm vụ chính của Ban thư ký là:
+ Hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý cho các cơ quan chức năng của WTO
(các hội đồng, uỷ ban, tiểu ban, nhóm đàm phán) trong việc đàm phán và thực
thi các hiệp định;
+ Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
chậm phát triển;
+ Phân tích các chính sách thương mại và tình hình thương mại;
+ Giúp đỡ trong việc giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến
việc diễn giải các quy định, luật lệ của WTO;
+ Xem xét vấn đề gia nhập của các nước và tư vấn cho các quốc gia đó.
Tất cả các thành viên của WTO có thể tham gia vào tất cả các hội đồng,
uỷ ban, tiểu ban,... ngoại trừ Cơ quan phúc thẩm, các nhóm chuyên gia giải
quyết tranh chấp, Cơ quan giám sát hàng dệt may và các uỷ ban và hội đồng
13
được thành lập theo các hiệp định đa biên.
Hội nghị Bộ trưởng
Đại hội đồng nhóm họp với chức năng là cơ quan giải quyết tranh chấp
Đại hội đồng nhóm họp với chức năng là cơ quan rà soát chính sách thương mại
Đại hội đồng
Hình 1.1: Cơ cấu tổ chức của WTO
Ban hội thẩm Hội đồng giải quyết tranh chấp
Hội đồng về thương mại hàng hoá
Hội đồng về thương mại dịch vụ
Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
Các uỷ ban về
Thương mại các dịch vụ tài chính Các cam kết cụ thể
Các nhóm lao động Quy định nội bộ Các quy tắc của GATS
Các uỷ ban nhiều bên
Uỷ ban về thương mại hàng không dân dụng Uỷ ban về chi tiêu chính phủ
Uỷ ban về đàm phán thương mại
Các uỷ ban về Thương mại và môi trường Thương mại và phát triển Tiểu ban về các nước đang phát triển Các hiệp định thương mại khu vực Các hạn chế nhằm cân bằng cán cân thanh toán Ngân sách, tài chính và quản lý Nhóm công tác về Gia nhập tổ chức Các nhóm công tác về Quan hệ giữa thương mại và đầu tư Tác động qua lại giữa thương mại và chính sách cạnh tranh Minh bạch trong chi tiêu chính phủ Thương mại, nợ và tài chính Thương mại và chuyển giao công nghệ
Chương trình phát triển Doha: Uỷ ban đàm phán thương mại và các cơ quan trực thuộc Các phiên họp đặc biệt của
Các uỷ ban về Tiếp cận thị trường Nông nghiệp Các biện pháp kiểm dịch động thực vật Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại Trợ cấp và các biện pháp đối kháng Chống bán phá giá Định giá hải quan Quy tắc xuất xứ ‘Giấy phép nhập khẩu Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Các biện pháp tự vệ Cơ quan giám sát về dệt may Nhóm công tác về Các doanh nghiệp thương mại nhà nước
Uỷ ban đa biên
Uỷ ban dịch vụ/Uỷ ban về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ/ Cơ quan giải quyết tranh chấp/Uỷ ban nông nghiệp/Uỷ ban về thương mại và phát triển/Uỷ ban về thương mại và môi trường Nhóm đàm phán về
Tiếp cận thị trường/các quy định
Uỷ ban về Hiệp định Công nghệ thông tin
Chú giải sơ đồ:
Đệ trình báo cáo lên Đại hội đồng (hoặc cơ cấu trực thuộc Đại hội đồng) Các uỷ ban được thành lập theo quy định của các hiệp định nhiều bên có nhiệm vụ thông báo cho Đại hội đồng hoặc Hội đồng về thương mại hàng hóa về các hoạt động của mình, ngay cả khi không phải tất cả các thành viên WTO đều tham gia ký kết các hiệp định nhiều bên này Uỷ ban về đàm phán thương mại trực thuộc Đại hội đồng. Đại hội đồng nhóm họp dưới danh nghĩa là Cơ quan Rà soát chính sách thương mại và Cơ quan Giải quyết tranh chấp
14
Hộp 1.2: Phương thức biểu quyết có thể được áp dụng
WTO kế thừa truyền thống của GATT là thông qua các quyết định trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận chứ không đưa vấn đề ra biểu quyết. Tiến trình này cho phép tất cả các nước thành viên đảm bảo được rằng lợi ích của họ được một cách đúng đắn, ngay cả khi họ chấp nhận đồng thuận vì lợi ích tối cao của hệ thống thương mại đa phương.
Khi sự đồng thuận là không thể, Hiệp định của WTO cho phép khả năng đưa vấn đề ra biểu quyết; khi đó quyền quyết định sẽ được thông qua với đa số phiếu, mỗi thành viên có quyền bỏ một phiếu.
Hiệp định về WTO đưa ra bốn trường hợp sau :
* Các thành viên của WTO với ba phần tư số phiếu, có thể thông qua cách giải
thích một hiệp định thương mại đa phương.
* Hội nghị bộ trưởng có thể quyết định, cũng với ba phần tư số phiếu, chấp thuận
cho một thành viên miễn trừ thực hiện một nghĩa vụ của một hiệp định đa phương.
* Các quyết định liên quan đến việc sửa đổi các điều khoản của các hiệp định đa phương có thể được thông qua nếu được chấp thuận bởi hoặc tất cả các thành viên, hoặc hai phần ba số thành viên, tuỳ theo tính chất của điều khoản được xem xét. Tuy nhiên, tất cả các điều chỉnh này chỉ có hiệu lực đối với các thành viên chấp thuận chúng.
* Các quyết định liên quan đến việc gia nhập Tổ chức WTO của một thành viên mới có thể được thông qua tại Hội nghị bộ trưởng, hoặc tại Đại hội đồng (giữa hai kỳ họp của Hội nghị bộ trưởng) với hai phần ba số phiếu.
Các Uỷ ban trực thuộc Hội đồng thương mại hàng hoá: Thâm nhập thị trường; Nông nghiệp; Các biện pháp kiểm dịch động thực vật; Cơ quan giám sát hàng dệt may; Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại; Trợ cấp và các biện pháp trả đối kháng; Chống bán phá giá; Định giá hải quan; Các quy tắc xuất xứ; Các giấy phép nhập khẩu; Các biện pháp liên quan đến đầu tư; Tự vệ; Các doanh nghiệp thương mại Nhà nước (Nhóm công tác).
Liệu cùng một nhóm người có thể đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau?
Không hoàn toàn như vậy. Tuy các Hội đồng và các Uỷ ban bao gồm đại diện của tất cả các thành viên WTO, nhưng điều đó không có nghĩa là các thiết chế này là một hoặc là sự phân biệt giữa các thiết chế này chỉ mang tính hình thức.
Trong thực tiễn, không có chuyện cùng một nhóm người tham gia vào công việc của các hội đồng và ủy ban khác nhau vì cấp bậc của đại biểu và thẩm quyền đòi hỏi là khác nhau.
Trưởng phái đoàn ở Geneva (thông thường là cấp đại sứ) đại diện cho đất nước mình ở Đại hội đồng. Do có một vài Uỷ ban rất chuyên môn, các chính phủ đôi khi cử các chuyên gia đương chức trong nước đại diện cho đất nước mình tham dự các cuộc họp của các Uỷ ban này.
Thậm chí ngay ở cấp độ Hội đồng thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại, nhiều đoàn đại biểu được đại diện bởi những người khác nhau.
Nguồn: Tìm hiểu Tổ chức Thương mại Thế giới, tr. 88
15
1.3. Các hiệp định của WTO
Có thể nói, WTO là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc về
thương mại giữa các quốc gia. Cốt lõi của WTO là các hiệp định do các chính
phủ thành viên đàm phán và ký kết. Các hiệp định này tạo ra nền tảng pháp lý
cho việc tiến hành hoạt động thương mại quốc tế, với mục tiêu thúc đẩy giao
lưu thương mại hàng hoá, dịch vụ và hợp tác thương mại ngày càng sâu rộng
và hiệu quả hơn. Khuôn khổ thể chế đối với các hoạt động của WTO được
xác định trong các hiệp định với 3 trụ cột chính: Thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, WTO còn điều hành hệ
thống giải quyết tranh chấp chung cho các lĩnh vực trong các hiệp định cụ thể,
đồng thời đánh giá thường kỳ về chính sách thương mại của các nước và hợp
tác với các tổ chức quốc tế khác nhằm tạo sự hài hoà trong phát triển kinh tế
toàn cầu.
Hệ thống WTO hiện nay bao gồm những hiệp định độc lập như:
- Các hiệp định đa phương về Thương mại Hàng hoá bao gồm Hiệp
định GATT 1994 và các hiệp định đi kèm với nó;
- Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS);
- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS)
1.3.1. Thương mại Hàng hoá
Hiệp định chủ chốt điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hoá của WTO là
GATT 1994. Mục tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành cắt giảm thuế
quan. Kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước thành viên đã đưa ra các cam
kết ràng buộc thuế đối với hầu hết các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu.
GATT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để tiến hành thương mại hàng hoá
giữa các nước thành viên, đó là nguyên tắc MFN, NT, không hạn chế số
lượng, các hiệp định thương mại khu vực, các điều khoản ưu tiên và ưu đãi
dành cho các nước đang và chậm phát triển, các quy tắc về đàm phán, ràng
16
buộc thuế quan và đàm phán lại... GATT cũng có các điều khoản cơ bản về
các vấn đề chống bán phá giá, xác định trị giá hải quan, trợ cấp, tự vệ khẩn
cấp... tuy nhiên những điều khoản này còn bộc lộ nhiều bất cập trong thực tế.
Tại các nước phát triển, thuế quan đã giảm trung bình 38% sau khi thực
hiện đầy đủ những cam kết trong vòng đàm phán Uruguay. Mức giảm thuế quan tương ứng của các nước đang phát triển là 25%2. Mức thuế quan ràng
buộc trung bình (thuế quan cam kết) cũng được cắt giảm đáng kể và sát với
thuế quan thực tế áp dụng, nhất là với các quốc gia phát triển.
Cũng tính từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển
cam kết tiến hành cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn
trung bình là 3,8% trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995; Số lượng các sản
phẩm phải chịu thuế suất hải quan cao giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ
tất cả các nước phải chịu thuế suất trên 15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng
đối với các nước đang phát triển thì mức giảm này là từ 9% xuống 5%). Ngày
26/3/1997, 40 nước chiếm 92% thương mại thế giới trong lĩnh vực công nghệ
thông tin đã nhất trí miễn thuế và các loại phí khác cho tất cả các sản phẩm
công nghệ thông tin nhập khẩu kể từ năm 2000. Số lượng các dòng thuế được
ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết tăng các ràng buộc
dòng thuế từ 77% lên 99%, các nước đang phát triển cũng cam kết tăng dòng
thuế này từ 21% lên 73%. Riêng đối với các nền kinh tế chuyển đổi, các cam
kết tương ứng tăng từ 73% lên 98%.
2 WTO (2001)
17
Nội dung chủ yếu của GATT là cắt giảm thuế quan và ràng buộc mức thuế. Ngoài ra, GATT còn tạo cơ sở để tiếp tục tiến hành các cuộc đàm phán nhằm cắt giảm thuế quan trong tương lai, đồng thời thúc đẩy các cam kết mở cửa thị trường của các quốc gia. Bên cạnh đó, GATT cũng quy định những thủ tục cần thiết như tham vấn, bồi thường khi một nước muốn rút bỏ một ràng buộc thuế quan của mình, trong những trường hợp đặc biệt, cụ thể. GATT cũng có các quy định về các vấn đề như định giá tính thuế, hạn chế số lượng, tự vệ khẩn cấp, trợ cấp, bảo vệ cán cân thanh toán, gia nhập, rút lui, miễn trừ... Tuy nhiên, trong khuôn khổ của GATT, một số vấn đề chưa được đề cập chi tiết, chưa nhận được sự nhất trí của tất cả các thành viên. Kết thúc Vòng đàm phán Uruguay, các nước thành viên đã nhất trí đưa ra các hiệp định
cụ thể về các vấn đề này, bao gồm:
1. Hiệp định Nông nghiệp (AoA)
2. Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh Dịch tễ (SPS)
3. Hiệp định Dệt may (ATC)
4. Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật Cản trở Thương mại (TBT)
5. Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại
(TRIMs)
6. Hiệp định Chống Phá giá (Anti-dumping)
7. Hiệp định Trị giá Hải quan (ACV)
8. Hiệp định về Giám định Hàng hoá trước khi xuống tầu (PSI)
9. Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ (Rules of Origin)
10. Hiệp định về Giấy phép Nhập khẩu (Import Licensing)
11. Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng (SCM)
12. Hiệp định về các Biện pháp Tự vệ (AoS)
Ngoài các hiệp định nêu trên, trong khuôn khổ của GATT còn có các
hiệp định chuyên ngành như Hiệp định về Công nghệ thông tin (ITA). Vòng
đàm phán Uruguay đạt được kết quả quan trọng là một số quốc gia thống nhất
bãi bỏ thuế quan trong một số ngành, qua đó, một số hiệp định đã được ký kết
như hiệp định đối với sản phẩm công nghiệp trong một số ngành: dược phẩm,
đồ chơi, hoá chất, giấy và sản phẩm giấy, thiết bị y tế, đồ nội thất, thiết bị nông
nghiệp, thiết bị xây dựng, thép. Trong ngành nông nghiệp có hiệp định về bia
và rượu mạnh. Hầu hết các hiệp định chuyên ngành, thuế suất cam kết ở mức
0% và chủ yếu do các quốc gia phát triển ký kết (trừ một số quốc gia đang phát
triển có mức sống cao như Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc). Điểm đặc biệt
đáng chú ý là, theo nguyên tắc MFN, các thành viên không tham gia ký kết
nhưng vẫn được hưởng miễn thuế đối với hàng xuất khẩu của mình sang các
nước khác. Điều đó có nghĩa là các quốc gia đang phát triển được hưởng lợi từ
các hiệp định chuyên ngành ngay cả khi họ không tham gia ký kết.
1.3.2. Thương mại dịch vụ
Hoạt động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO được điều
18
chỉnh bởi Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS). GATS bao gồm:
- Các quy định và nguyên tắc chung được trình bày trong Hiệp định chung
- Các phụ lục của GATS và các quyết định cấp Bộ trưởng
Phụ lục về Miễn trừ MFN
Phụ lục về Di chuyển và cư trú của thể nhân
Phụ lục về Dịch vụ Vận tải hàng không
Phụ lục về Dịch vụ tài chính
Phụ lục về Vận tải biển
Phụ lục về Viễn thông cơ bản
- Các cam kết của từng nước về các lĩnh vực dịch vụ cụ thể, về áp dụng
MFN, NT và mở cửa thị trường trong các lĩnh vực đó.
Thuật ngữ dịch vụ trong GATS không được định nghĩa rõ ràng nhưng
chúng được phân nhóm thành 12 ngành:
Dịch vụ nghề nghiệp và dịch vụ kinh doanh;
Dịch vụ viễn thông;
Dịch vụ xây dựng;
Dịch vụ phân phối;
Dịch vụ giáo dục;
Dịch vụ môi trường;
Dịch vụ tài chính;
Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và dịch vụ xã hội;
Dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến du lịch;
Dịch vụ vui chơi giải trí, thể thao, văn hoá;
Dịch vụ vận tải;
Các dịch vụ khác.
12 ngành dịch vụ này được chia thành 160 tiểu ngành, được phân định
thống nhất theo danh mục CPC (Danh mục phân loại sản phẩm theo tiêu
chuẩn Liên hợp quốc).
GATS phân biệt 4 hình thức cung cấp dịch vụ khác nhau:
19
- Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Dịch vụ được một nước thành viên
này cung cấp cho một nước thành viên khác (chỉ có dịch vụ di chuyển, người
cung cấp dịch vụ không di chuyển) - ví dụ truyền hình trực tiếp cuộc thi hoa
hậu thế giới.
- Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài: Người tiêu dùng ở nước này sang
nước khác tiêu dùng dịch vụ - ví dụ đi du lịch, tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài.
- Hiện diện thương mại: Dịch vụ được cung cấp bởi một nhà cung ứng
đặt cơ sở hoạt động ở một nước thành viên khác- ví dụ trường hợp mở chi
nhánh tại nước ngoài.
- Di chuyển tạm thời của người cung cấp dịch vụ: Dịch vụ được thực
hiện bởi cá nhân đi sang nước khác trong một thời gian ngắn- ví dụ như một
chuyên gia đi thực hiện hoạt động dịch vụ ở nước ngoài trong thời gian ngắn.
Trong bốn phương thức cung cấp dịch vụ kể trên, hiện diện thương mại
được coi là phương thức được các thành viên quan tâm nhất và cũng có nhiều
cam kết chi tiết nhất.
Nhìn chung, Hiệp định GATS mới đạt được kết quả có mức độ về mở
cửa thị trường; thành công nhất của GATS là đã mở rộng được diện điều
chỉnh của hệ thống thương mại đa biên, đặc biệt là bao trùm cả những lĩnh
vực như đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trình độ chuyên môn, sự di chuyển
của người cung cấp dịch vụ và cung cấp dữ liệu qua biên giới. Những tiền đề
đó đã hợp pháp hoá khuôn khổ pháp lý ban đầu chung cho các nước và là xuất
phát điểm để các quốc gia tiếp tục đàm phán cụ thể hơn về những lĩnh vực
đầy tiềm năng này qua các vòng đàm phán trong tương lai. Tầm quan trọng
của thương mại dịch vụ ngày càng được khẳng định và các đàm phán về
thương mại dịch vụ sẽ càng trở nên quan trọng trên diễn đàn của WTO, diễn
đàn khu vực và liên khu vực.
1.3.3. Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs)
Tính đến nay, TRIPs là hiệp định đa phương toàn diện nhất liên quan
đến quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Sau vòng đàm phán Uruguay, các quốc gia
đã đạt được kết quả rất khả quan cả về chiều rộng và chiều sâu về quyền sở
20
hữu trí tuệ liên quan tới thương mại. Các hiệp định chủ yếu trước đây thuộc
diện quản lý của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đã được chấp nhận
chính thức và ràng buộc trong khuôn khổ WTO, được thực hiện trên cơ sở
NT. Các nước tham gia Vòng đàm phán Uruguay đã ký kết Hiệp định TRIPs
điều chỉnh quyền tác giả và các quyền có liên quan, nhãn hàng, chỉ dẫn địa lý,
thiết kế công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bảo hộ thông tin
bí mật và hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp đồng chuyển
giao quyền sử dụng. (Xem thêm Phụ lục 5). Các bên cũng chấp nhận Cơ chế
Giải quyết Tranh chấp của WTO được áp dụng cho tranh chấp phát sinh từ
các hiệp định này. TRIPs không chỉ dựa trên những hiệp định chủ yếu của hệ
thống sở hữu trí tuệ hiện có mà còn xây dựng được những quy định mới chưa
được WIPO xây dựng.
Phạm vi bảo hộ của TRIPs gồm 7 lĩnh vực, trong mỗi lĩnh vực bao gồm
nhiều nội dung cụ thể:
Bản quyền và quyền lợi liên quan;
Phát minh, sáng chế;
Thừa kế mẫu hàng công nghiệp;
Thương hiệu;
Tiêu chí địa lý;
Thiết kế bố cục mạch điện tổng hợp;
Thông tin chưa công khai.
TRIPs được tiến hành song song và không mâu thuẫn với những công ước quốc tế về quyền SHTT như công ước Berne3, Công ước Roma4, Công ước về quyền sở hữu trí tuệ mạch điện tổng hợp (IPIC), công ước Paris5 … TRIPs cũng qui định những ngoại lệ, đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong từng trường hợp cụ thể. Mức độ bảo hộ trong TRIPs được xem là tiêu chuẩn thấp nhất. Điều đó có nghĩa là luật pháp của các quốc gia thành viên không được qui định thấp hơn mức qui định bảo hộ trong TRIPs. Các qui định cơ bản của TRIPs có thể chia thành 5 nhóm:
3 Công ước về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật 4 Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, người sản xuất, chương trình thu thanh và các tổ chức phát thanh truyền hình 5 Công ước về bảo hộ sở hữu công nghiệp
21
- Nhóm các qui định liên quan đến việc thực hiện bảo hộ theo nguyên
tắc NT và MFN.
- Nhóm các qui định tối thiểu về nội dung bảo hộ, thời gian bảo hộ tối
thiểu của 7 lĩnh vực SHTT, chẳng hạn như phát minh sáng chế có thời gian
bảo hộ tối thiểu 20 năm; nhãn hiệu thương mại (thương hiệu) bảo hộ tối thiểu
7 năm sau mỗi lần đăng ký…
- Nhóm qui định về quyền áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm hạn
chế chủ thể SHTT lạm dụng quyền của mình hoặc có những hành vi hạn chế
thương mại hay chuyển giao công nghệ không hợp lý.
- Nhóm qui định về đảm bảo việc thực thi sự bảo hộ bằng các qui định
về cơ chế, tổ chức, thủ tục và đền bù có liên quan.
- Nhóm qui định về thời gian thực hiện các điều chỉnh hệ thống luật
pháp quốc gia cho phù hợp với các qui định nêu trên: 1 năm đối với các nước
phát triển, 5 năm đối với các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi, 11
năm đối với các nước chậm phát triển.
(cid:31)Trong quan hệ thương mại quốc tế, quyền lợi của các quốc gia luôn
1.3.4. Cơ chế giải quyết tranh chấp
mâu thuẫn với nhau, và rất dễ xảy ra tranh chấp. Do vậy, hệ thống thương mại
đa biên mà các nước thành viên WTO nỗ lực xây dựng sẽ không thể tồn tại và
hoạt động hiệu quả nếu như thiếu đi cơ chế giải quyết tranh chấp. Vòng đàm
phán Uruguay đã đạt được một thành công lớn là đưa ra được một cơ chế giải
quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương mại
quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế rất nhiều những
hành động đơn phương, độc đoán của những cường quốc thương mại, góp
phần tháo gỡ những bế tắc vốn thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Vì
thế, hiệu quả của hệ thống thương mại thế giới được nâng cao. Các nước đang
phát triển, chậm phát triển và ngay cả một số nước phát triển coi đây là một
thắng lợi với nhiều lợi ích thu được từ hệ thống thương mại đa biên.
Nhìn chung, các tranh chấp thường được giải quyết bằng nhân nhượng.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các tranh chấp không thể giải quyết bằng
22
thương lượng thì cần đến một cơ quan đủ quyền lực với cơ chế giải quyết
tranh chấp được các thành viên chấp nhận.
Đối tượng của các tranh chấp trong khuôn khổ WTO là chính sách
thương mại của các nước thành viên chứ không phải là tranh chấp phát sinh từ
việc thực hiện hợp đồng thương mại. Do đó, mục tiêu của cơ chế giải quyết
tranh chấp nhằm tạo tính an toàn và khả thi trong việc thực thi các hiệp định.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp: không đi ngược lại mục tiêu của
WTO và thúc đẩy thương mại tự do. Do đó, WTO khuyến khích các giải pháp
tự thương lượng giữa các bên tranh chấp hơn là đưa vụ việc ra cơ quan giải
quyết tranh chấp. Trường hợp các bên không thống nhất được thì cách giải
quyết được ưu tiên là rút lại những quy định không phù hợp với Hiệp định đã
được ký kết của các bên liên quan. Các quy định bồi thường chỉ được đưa ra
trong trường hợp không thể thực hiện việc rút lại các biện pháp không phù
hợp với quy định của WTO và khi có một biện pháp tạm thời ngăn cản việc
thu hồi đó. Biện pháp cuối cùng mới là cho phép thành viên khởi kiện đình
chỉ áp dụng các nhân nhượng và nghĩa vụ đã cam kết với bên bị kiện. Nhìn
chung, nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO không hướng vào kết quả
thắng thu trong từng vụ việc mà giải quyết theo tinh thần bảo vệ tối đa sự tuân
thủ luật lệ của WTO, thúc đẩy môi trường tự do thương mại.
- Thủ tục giải quyết tranh chấp: Các tranh chấp đưa ra trước cơ quan
giải quyết tranh chấp của WTO được xem xét và giải quyết theo trình tự sau:
+ Khi xuất hiện tranh chấp, nước khiếu nại cần nêu vấn đề với nước bị
khiếu nại để hai bên cùng tham vấn tìm cách giải quyết;
+ Nếu quá trình tham vấn thất bại, WTO sẽ giúp đỡ tìm trung gian, môi
giới hoà giải. Nếu vấn đề vẫn không tháo gỡ được thì nước khiếu nại có thể
yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO lập Ban hội thẩm;
+ Trong những thời hạn quy định, Ban hội thẩm sẽ nghiên cứu vấn đề
và lập báo cáo trình Hội đồng giải quyết tranh chấp.
+ Sau một thời gian đủ để các bên xem xét báo cáo của Ban hội thẩm,
Hội đồng giải quyết tranh chấp sẽ họp để thông qua báo cáo này. Báo cáo sẽ
23
được thông qua nếu không có nước thành viên nào phản đối.
+ Nếu có nước thành viên phản đối thì Hội đồng giải quyết tranh chấp
sẽ giao vụ việc cho Cơ quan phúc thẩm xem xét lại. Cơ quan này có quyền
thông qua hoặc sửa đổi báo cáo của Ban hội thẩm.
+ Dựa trên các báo cáo của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan phúc thẩm,
Hội đồng giải quyết tranh chấp sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng.
Một cơ quan phúc thẩm cũng được thể chế hoá với những thành viên
luân phiên đại diện cho các thành viên - đó là Uỷ ban Kháng nghị (Appelate).
Nếu kết quả giải quyết tranh chấp không được thi hành nghiêm túc, bên có
quyền lợi bị vi phạm được quyền áp dụng những biện pháp trả đũa, thậm chí
trả đũa chéo nếu những biện pháp trả đũa áp dụng với cùng một lĩnh vực
(thuộc phạm vi điều chỉnh của cùng một hiệp định) không được coi là đạt kết
quả mong muốn.
Thoả thuận về Giải quyết tranh chấp của WTO rất chú trọng giai đoạn
tham vấn, nhằm tạo một cơ hội để các bên liên quan tới vấn đề đang tranh
chấp có thể tìm kiếm được một giải pháp thoả đáng. Tham vấn là thủ tục đầu
tiên nhằm tránh khả năng phải đi đến thủ tục bắt buộc. Ngoài ra còn có những
bước đi có thể mang tính chất tự nguyện như yêu cầu Tổng Giám đốc WTO
làm trung gian hoà giải hay thống nhất đưa ra trọng tài.
Bảng 1.1: Quy trình giải quyết tranh chấp của WTO
Thời gian 60 ngày
Phối hợp
Trong kỳ họp thứ hai của DSB
0-20 ngày (thêm 10 ngày nếu Tổng Giám đốc được yêu cầu chọn BHT)
Nhóm chuyên gia thực hiện rà soát (Điều 13; Phụ lục 4) Họp rà soát với Ban hội thẩm theo yêu cầu (Điều 15.2)
Công việc Tham vấn (Điều 4) (cid:200) Thành lập Ban Hội thẩm (Do Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB)) (Điều 6) (cid:200) Điều khoản hoạt động (Điều 7) Thành phần (Điều 8) (cid:200) Ban Hội thẩm xem xét Họp với các bên (điều 12) và bên thứ 3 có liên quan (điều 10) (cid:200) Giai đoạn rà soát giữa kỳ Phần báo cáo mô tả được gửi cho các bên để đánh giá (Điều 15.1). Báo cáo giữa kỳ được gủi cho tất cả các bên xem xét (Điều 15.2) (cid:200)
24
Báo cáo của Ban Hội thẩm gửi cho tất cả các bên (điều 12.8; Phụ lục 3 đoạn 12 (j))
6 tháng kể từ khi thành lập Ban Hội thẩm, 3 tháng trong trường hợp khẩn cấp 9 tháng từ khi thành lập BHT
60 ngày dàng cho báo cáo của BHT, trừ khi có kháng nghị
Rà soát của Uỷ Ban kháng nghị (Đ 15.2) 30 ngày dành cho Uỷ Ban Kháng nghị rà soát
Thời hạn hợp lý do các thành viên đề xuất, hoặc các bên tranh chấp thoả thuận hoặc trọng tài phán quyết (khoảng 15 tháng nếu trọng tài phán quyết)
(cid:200) Báo cáo của Ban Hội thẩm lên DSB (Đ.21.9; Phụ lục 3, đoạn 12 (k)) (cid:200) DSB chấp nhận báo cáo của Ban Hội thẩm bao gồm bất cứ thay đổi báo cáo của Ban Hội thẩm nào do UBKN thực hiện (Đ.16.1,16.4 và 17.14) (cid:200) Thực thi Báo cáo của bên thua kiện về dự kiến thực thi với "một thời hạn hợp lý" (cid:200) Trong trường hợp không thực thi các bên đàm phán việc đền bù vì ngừng thực thi đầy đủ (Đ22.2)
30 ngày sau khi "thời hạn hợp lý kết thúc"
Tranh chấp về việc thực thi: Có thể kiện, bao gồm cả tham khảo với Ban Hội thẩm đầu tiên về việc thực thi (Đ21.5) (90 ngày) Có thể đưa ra trọng tài về mức độ đình chỉ và các nguyên tắc trả đũa (Đ.22.6 và 22.7)
(cid:200) Biện pháp Trả đũa Nếu không nhất trí được về việc bồi thường, DSB cho phép trả đũa việc không thực thi đầy đủ (Đ22) Trả đũa chéo: Trong cùng ngành hàng, các ngành hàng khác, hiệp định khác (Đ22.3)
Các qui định của WTO trong một số lĩnh vực cụ thể
a/ Lĩnh vực nông nghiệp
Hiệp định Nông nghiệp (AoA) đánh dấu bước phát triển đáng kể,
hướng tới lập lại trật tự và cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Hàng nông sản, do tính chất đặc biệt nhạy cảm, từ trước đến nay vẫn được
hưởng nhiều ngoại lệ. Mặc dù chỉ chiếm không quá 10% thương mại thế giới
và không quá 5% GDP của rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển,
nhưng thương mại nông sản luôn là đối tượng đàm phán rất nhạy cảm trong
các cuộc đàm phán, thương mại quốc tế.
Thương mại nông sản là lĩnh vực được bảo hộ cao nhất trong chính
sách thương mại của các nước thành viên. Trong kỷ nguyên của GATT,
thương mại nông nghiệp hầu như vẫn chịu những quy chế riêng và chưa được
25
đưa vào khuôn khổ của hệ thống đa biên. Nông nghiệp thường là lĩnh vực
tranh chấp và thách thức giữa các nước thành viên.
Nhằm tạo ra một khuôn khổ cho thương mại hàng nông sản thế giới và
tăng cường trao đổi mặt hàng này, cuối vòng đàm phán Uruguay, các nước đã
cùng nhau ký Hiệp định Nông nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp đã đạt được
những thoả thuận về mở cửa thị trường nông sản, thuế hoá các biện pháp phi
thuế, giảm trợ cấp và các mức hỗ trợ trong nước của các nước thành viên. Nội
dung chính của Hiệp định nông nghiệp thể hiện trên 3 mặt: (1) Tiếp cận thị
(cid:31)- Tiếp cận thị trường: Bao gồm các biện pháp loại bỏ hàng rào phi thuế
trường; (2) Hỗ trợ trong nước và (3) Trợ cấp xuất khẩu.
bằng thuế hoá. Hiệp định yêu cầu các nước phát triển phải giảm bình quân
36% mức thuế nhập khẩu trong 6 năm (1995-2000), các nước đang phát triển
phải giảm 24% trong vòng 10 năm (1995-2004), các nước chậm phát triển
được miễn trừ nhưng phải thuế hoá các biện pháp phi thuế và xây dựng mức
trần để đảm bảo trong tương lai, các quốc gia này không tăng thuế quá mức
(cid:31)Nguyên tắc của hiệp định là chỉ bảo hộ bằng thuế quan để đảm bảo tính
trần cam kết.
minh bạch, dễ dự đoán. Yêu cầu các nước thuế hoá các biện pháp phi thuế
100% số dòng thuế hàng nông sản. Hiệp định cũng cung cấp 2 biện pháp quan
trọng nhằm hỗ trợ các quốc gia trong quá trình thuế hoá, đó là quyền tự vệ
đặc biệt và hạn ngạch thuế quan. Quyền tự vệ đặc biệt (SSG) là quyền được
tạm thời áp dụng mức thuế cao hơn mức cam kết đối với một sản phẩm nào
đó khi lượng nhập khẩu tăng đột ngột làm tổn hại đến sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, chỉ một số mặt hàng được áp dụng biện pháp này, đó là những sản
phẩm đã thuế hoá các biện pháp phi thuế và đạt được thoả thuận với các nước
khác trong quá trình đàm phán. Hạn ngạch thuế quan (TRQ) nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các nước xuất khẩu để đảm bảo việc xuất khẩu không bị gián
đoạn khi tiến hành thuế hoá các biện pháp phi thuế. Cũng như SSG, chỉ có số
ít các mặt hàng được áp dụng TRQ do phải đàm phán với các nước thành viên
trên nhiều lĩnh vực như số mặt hàng áp dụng, mức hạn ngạch ban đầu…
- Hỗ trợ trong nước: Là những hỗ trợ của Chính phủ giành cho các đối
26
tượng không trực tiếp gắn với hoạt động hay kết quả xuất khẩu của chính đối
tượng đó. Hỗ trợ trong nước được phân nhóm thành 3 nhóm: Nhóm không
hoặc rất ít bóp méo thương mại nông sản; nhóm có thể bóp méo các quan hệ
thương mại nông sản và nhóm hỗ trợ bóp méo thương mại. Trong hai nhóm
đầu, các qui định cho phép các Chính phủ tiến hành hỗ trợ với những điều
kiện nhất định. Riêng nhóm hỗ trợ bóp méo thương mại (còn gọi là tổng hỗ
trợ gộp - AMS), Hiệp định qui định sẽ cắt giảm trong các giai đoạn khác nhau
(cid:31)- Trợ cấp xuất khẩu: Là những lợi ích gắn với hoạt động hoặc kết quả
với tỷ lệ với thời gian theo nhóm nước.
xuất khẩu. Hiệp định AoA qui định các nước phát triển sẽ cắt giảm 36%
nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm trong vòng 6 năm
tính từ 1995; khối lượng hàng hoá được hưởng trợ cấp giảm 21% cũng trong
thời gian trên. Trong giai đoạn thực thi 6 năm đó, các nước phát triển được
phép sử dụng trợ cấp để giảm giá tiếp thị và vận chuyển hàng hoá xuất khẩu
trong những trường hợp nhất định. Các nước đang phát triển sẽ cắt giảm 24%
nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm, khối lượng hàng
hoá được hưởng trợ cấp sẽ được giảm 14% trong vòng 10 năm tính từ năm
1995. Tỷ lệ trên được tính trên mức trung bình hàng năm của thời kỳ cơ sở
1986-1990 và bắt đầu từ năm 1995. Các nước không được phép áp dụng thêm
bất kỳ biện pháp trợ cấp xuất khẩu nào trước đây chưa tồn tại. Riêng đối với
các nước chậm phát triển, các cam kết cắt giảm được miễn trừ.
Ngoài ra, AoA còn qui định các nước được phép tự mình đặt ra tiêu
chuẩn vệ sinh nhưng chúng phải dựa trên cơ sở khoa học (khuyến khích sử
dụng những tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi trên thế giới).Tuy nhiên, các
nước đang phát triển cho rằng trên thực tế, quyền lợi của họ không được đảm
bảo vì AoA còn nhiều bất bình đẳng và nhiều nước đã không tuân thủ đầy đủ
hiệp định này.
b/Lĩnh vực công nghiệp
Hiệp định chủ chốt điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng công nghiệp của
WTO là GATT 1994. GATT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để tiến hành hoạt
động thương mại hàng hoá giữa các nước thành viên như MFN, NT, không hạn
27
chế số lượng, hiệp định khu vực, ưu đãi giành cho các nước chậm phát triển …
Nội dung chủ yếu của GATT là cắt giảm và ràng buộc thuế quan hàng
công nghiệp. Ngoài việc xây dựng danh mục ràng buộc thuế quan, GATT còn
tạo những cơ sở cho việc đàm phán giảm thuế trong tương lai. Bên cạnh đó,
GATT cũng qui định những thủ tục cần thiết như tham vấn, bồi thường khi
một quốc gia rút khỏi các ràng buộc thuế quan của mình. GATT cũng có
những qui định về các vấn đề như định giá tính thuế, hạn chế số lượng, tự vệ
khẩn cấp, trợ cấp … nhưng các nội dung này chưa thật chi tiết và chưa bám
sát tình hình thương mại quốc tế. Một số điều khoản về chống bán phá giá,
định giá hải quan, tự vệ khẩn cấp … trong GATT chưa đầy đủ và chi tiết, sau
này chúng đã được cụ thể hoá bằng các hiệp định riêng biệt.
c/ Hàng dệt và may
Hầu hết các nước có trình độ công nghệ phát triển cao đều không chú
trọng phát triển ngành này và trở thành những nước nhập khẩu lớn. Hầu hết
các nước đang phát triển đều lựa chọn ngành dệt và may để đầu tư phát triển
vì đòi hỏi công nghệ không cao, giải quyết được nhiều lao động. Với những
lý do đó, trong khi các quốc gia phát triển kêu gọi tự do hoá thương mại thông
qua dỡ bỏ rào cản đối với hầu hết các sản phẩm thì họ lại dựng lên các rào cản
đối với hàng dệt may nhằm hạn chế nhập khẩu mặt hàng này. Vì vậy, giống
như nông sản, hàng dệt may cũng là một vấn đề hóc búa trong WTO. Trước
Vòng đàm phán Uruguay, thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi Hiệp
định Đa sợi (MFA). Hiệp định này cho phép các nước được ký kết các hiệp
định song phương hoặc tiến hành các hành động đơn phương để đặt ra hạn
ngạch nhập khẩu hàng dệt may. Hệ thống này rất bất lợi cho các nước đang
phát triển, vốn rất có tiềm năng về mặt hàng này.
Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định về hàng Dệt - May (ATC) đã
được ký kết. Hiệp định cũng quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản
phẩm dệt và may vào hệ thống thương mại đa biên. Tuy nhiên, hiệp định ATC
không xoá bỏ hạn chế đối với hàng dệt may ngay lập tức mà được chuyển tiếp
trong vòng 10 năm (1995-2005), chia làm 4 giai đoạn. Tỷ lệ tối thiểu các sản
phẩm được nhất thể hoá của từng giai đoạn sẽ là 16, 17 và 18% và trước ngày
28
1/12005, toàn bộ sản phẩm hàng dệt và may sẽ hoàn toàn được hoà nhập vào
hệ thống chính sách thương mại đa phương của WTO.
(cid:31)- Đưa những sản phẩm vào chịu sự điều chỉnh của cơ chế thương mại
Việc thực thi Hiệp định Dệt - May được thực hiện thành hai tuyến:
đa biên và một khi những sản phẩm đó được nhất thể hoá (integrated) thì
(cid:31)- Nới lỏng các hạn chế số lượng với các sản phẩm còn lại, từ hạn mức
không được áp dụng hạn chế số lượng nữa.
cơ sở được xác định (với mức tối thiểu quy định) và áp dụng cơ chế linh hoạt
cho nước xuất khẩu sử dụng hạn chế đó. Nước áp dụng hạn ngạch cần thông
báo rõ các tiêu thức trên. Trong thời gian chuyển tiếp, dần dần tự do hoá
thương mại đối với những mặt hàng trước đây thuộc diện áp dụng hạn ngạch.
Hiệp định cũng cho phép trong thời kỳ chuyển tiếp được áp dụng những
biện pháp tự vệ. Chỉ những thành viên đã tiến hành những chương trình “nhất
thể hoá” được áp dụng những biện pháp này. Việc áp dụng chỉ có thể được tiến
hành trên cơ sở đã thực hiện hai bước liên tiếp: (1) chứng minh được có sự tổn
hại hay đe doạ gây tổn hại do nhập khẩu tăng lên đột ngột và (2) có mối liên hệ
trực tiếp giữa sự tổn hại đó với sự tăng vọt số lượng nhập khẩu.
Giai đoạn
% sản phẩm được đưa vào GATT (bao gồm cả việc dỡ bỏ hạn ngạch)
Tốc độ nới lỏng hạn ngạch hiện nay (nếu mức năm 1994 là 6%)
16%
6,69%/năm
17%
8,7%/năm
18%
11,05%/năm
Không còn hạn ngạch
49% (tối đa)
Bảng 1.2: Thực thi Hiệp định Dệt - May
Giai đoạn I: 1/1/1995 - 31/12/1997 Giai đoạn II: 1/1/1998 - 31/12/2001 Giai đoạn III: 1/1/2002 - 31/12/2004 Giai đoạn IV: từ 1/1/2005 Nhất thể hoá hoàn toàn vào GATT (và xoá bỏ mọi hạn ngạch). Hiệp định ATC chấm dứt. Áp dụng mức nhập khẩu năm 1990 làm cơ sở.
d/ Lĩnh vực đầu tư
Trước đây, khi bắt đầu Vòng đàm phán Uruguay, các bên có tham vọng
đi dến một hiệp định đầu tư đa phương tương đối toàn diện, đề cập đến cả các
29
vấn đề chính sách có tác động tới lưu chuyển đầu tư trực tiếp nước ngoài, vấn
đề áp dụng các nguyên tắc của GATT là NT (cho các công ty nước ngoài
được hưởng các quyền lợi tương tự như các công ty trong nước về đầu tư,
thành lập và hoạt động trong nội địa) và nguyên tắc MFN (không cho phép
các nước phân biệt đối xử giữa các nguồn đầu tư khác nhau) trong đầu tư. Tuy
nhiên, những đề xuất, mặc dù được các nước phát triển rất ủng hộ, đã vấp
phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía các nước đang phát triển, với lý do là
khuôn khổ GATT không cho phép đàm phán các vấn đề đầu tư và nếu tiến
hành đàm phán thì phải đưa cả vấn đề buôn bán giữa các công ty xuyên quốc
gia như giá chuyển nhượng, các biện pháp hạn chế kinh doanh và các hành vi
khác vào phạm vi đàm phán. Kết quả là trong vòng đàm phán này, các nước
chỉ đề cập đến đầu tư trong một phạm vi hẹp - các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại.
Hiệp định Đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) điều chỉnh các biện
pháp được áp dụng trong lĩnh vực đầu tư nhưng đồng thời liên quan đến thương
mại hàng hoá (không điều chỉnh các lĩnh vực nằm ngoài thương mại hàng hoá).
Trong số rất nhiều các biện pháp đầu tư có tác động bóp méo thương mại, Hiệp
định TRIMs không cho phép các nước thành viên áp dụng 5 biện pháp được coi
là vi phạm nguyên tắc NT và không hạn chế số lượng sau đây:
- Yêu cầu các doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng các sản phẩm có
xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, hoặc
- Yêu cầu doanh nghiệp chỉ được mua hoặc sử dụng các sản phẩm nhập
khẩu được giới hạn trong một tổng số tính theo số lượng hoặc giá trị sản
phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu.
- Hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu dưới hình thức hạn chế chung
hoặc hạn chế trong một tổng số liên quan đến số lượng hoặc giá trị sản xuất
trong nước mà doanh nghiệp đó xuất khẩu;
- Yêu cầu doanh nghiệp thu ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng
nhhu cầu nhập khẩu của mình;
- Yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán một mặt hàng nhất
30
định, hoặc chỉ được xuất khẩu hàng hoá tương ứng với số lượng và giá trị
hàng hoá sản xuất trong nước của doanh nghiệp.
Có 3 điều khoản trong Hiệp định TRIMs qui định sự đối xử đặc biệt và
khác biệt giành cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Những điều
khoản này bao gồm 2 loại: (1) Sự linh hoạt trong cam kết, thực hiện và sử
dụng các công cụ chính sách; (2) Thời gian ân hạn.
1.4. Các hoạt động đặc biệt
Chức năng chủ yếu của WTO là tạo một khuôn khổ quy định cho các
cuộc đàm phán thương mại và bắt buộc các nước thành viên phải tôn trọng
luật chơi thương mại đa phương đã được chính những quốc gia này thống
nhất (ngay cả trong quá trình giải quyết tranh chấp). Trong việc thực thi
những chức năng trên, WTO đặc biệt chú trọng bốn hoạt động: (1) Hỗ trợ các
nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi; (2) Trợ
giúp đặc biệt cho việc thúc đẩy xuất khẩu; (3) Hợp tác để soạn thảo các chính
sách kinh tế trên quy mô toàn cầu; (4) Thường xuyên thông báo những biện
pháp thương mại mới được các quốc gia thành viên thông qua và những thay
đổi liên quan đến những biện pháp hiện hành.
1.4.1. Hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước đang trong quá
trình chuyển đổi
Các nước đang phát triển chiếm tới 3/4 số lượng thành viên của WTO.
Cùng với các nước đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, các nước đang phát triển có thể sẽ đóng một vai trò ngày càng quan
trọng tại WTO một khi số lượng thành viên thuộc hai nhóm nước này càng
ngày càng tăng.
Chính vì vậy, WTO dành một sự quan tâm lớn đối với những nhu cầu
cũng như những vấn đề riêng của các nước đang phát triển và các nước đang
trong quá trình chuyển đổi. Viện đào tạo và hợp tác kỹ thuật trực thuộc Ban
thư ký của WTO tổ chức một số chương trình hỗ trợ để giải thích quá trình
hoạt động của WTO và đào tạo các chuyên gia và các nhà thương thuyết cho
các quốc gia. Một số hoạt động này diễn ra ở Geneva, đa số còn lại được tổ
31
chức tại các quốc gia có liên quan. Nhiều chương trình hỗ trợ, tổ chức dưới
hình thức các khoá đào tạo, được phối hợp chuẩn bị cùng với các tổ chức
quốc tế khác. Một chương trình hỗ trợ khác là các chương trình của riêng
WTO dành cho các quốc gia có liên quan.
Các hình thức hỗ trợ hết sức đa dạng, WTO có thể giúp các ứng viên
tiến hành các hoạt động thương lượng để gia nhập tổ chức và thực thi những
cam kết được đưa ra trong khuôn khổ WTO, hoặc WTO đưa ra những lời tư
vấn cần thiết cho phép các nước thành viên tham gia một cách thiết thực hơn
vào các cuộc thương lượng đa phương. Ngoài ra, các nước đang phát triển,
đặc biệt các nước chậm phát triển nhất trong số này nhận được những thông
tin thương mại và thuế quan liên quan đến lợi ích của họ trong lĩnh vực xuất
khẩu đến cũng như sự tham gia của họ trong các hoạt động của các cơ quan
trực thuộc WTO.
1.4.2. Trợ giúp đặc biệt cho việc tăng cường xuất khẩu
Trung tâm thương mại quốc tế được GATT thành lập vào năm 1964
theo yêu cầu của các nước đang phát triển để hỗ trợ các nước này tăng cường
xuất khẩu. Hiện nay, trung tâm được đặt đưới sự đồng quản lý của WTO và
Liên hợp quốc, tổ chức này thực thi nhiệm vụ quản lý thông qua Hội nghị
Liên hợp quốc về thương mại và phát triển - UNCTAD.
Trung tâm đáp ứng những yêu cầu trợ giúp kỹ thuật do các nước đang
phát triển đệ trình. Các nước này mong muốn thực thi những chương trình tăng
trưởng xuất khẩu cũng như những hoạt động và phương thức nhập khẩu. Trung
tâm cung cấp những thông tin và ý kiến tư vấn về những thị trường xuất khẩu
và những kỹ thuật thương mại hoá. Trung tâm hỗ trợ việc thành lập những cơ
quan xúc tiến xuất khẩu, thương mại hoá và đào tạo nhân lực cần thiết. Đối với
những nước kém phát triển nhất, trợ giúp của Trung tâm là miễn phí.
1.4.3. Soạn thảo các chính sách kinh tế trên quy mô toàn cầu
Một khía cạnh quan trọng trong trọng trách của WTO là tổ chức này
phải phối kết hợp với Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới và các thể chế
đa phương khác để có được một sự đồng nhất cao trong việc soạn thảo các
32
chính sách kinh tế trên quy mô toàn cầu. Một tuyên bố riêng được Hội nghị
Bộ trưởng ở Marrakech đưa ra vào tháng 4 năm 1994, nhằm nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của mục tiêu này.
Tuyên bố trên tính đến vai trò đóng góp ngày càng tăng của WTO vào
việc đạt được một sự đồng nhất cao trong việc soạn thảo các chính sách kinh
tế trên quy mô toàn cầu. Tuyên bố cũng thừa nhận là các khía cạnh khác nhau
của chính sách kinh tế có liên quan với nhau và khuyến khích WTO thúc đẩy
sự hợp tác với các thể chế quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực tiền tệ và tài
chính như WB và IMF.
Tuyên bố này cũng thừa nhận rằng việc tự do thương mại tạo điều kiện
thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển của các nền kinh tế. Việc tự do hoá
này là một nhân tố càng ngày càng quan trọng để đảm bảo sự thành công của
các chương trình điều chỉnh kinh tế được nhiều nước tiến hành. Những
chương trình điều chỉnh này, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế có thể đặt
ra nhiều thách thức lớn về mặt xã hội.
1.4.4. Thực hiện minh bạch
Minh bạch 1: thường xuyên thông tin cho WTO. Thông thường, cách thức duy nhất để xem xét các cam kết có được thực hiện đầy đủ hay không là đề nghị các nước có liên quan thông báo sớm nhất bằng văn bản cho WTO về những biện pháp hữu hiệu mà các nước này đã đưa ra. Một số lớn các thoả thuận tại WTO quy định nghĩa vụ của các chính phủ thành viên là phải thông
báo cho Ban thư ký WTO những biện pháp thương mại mới mà họ đã thông qua hoặc những thay đổi mà họ thực hiện đối với những biện pháp hiện hành. Chính vì thế, một số thông tin chi tiết đã được gửi tới các cơ quan có thẩm quyền của WTO liên quan đến những sắc luật mới trong lĩnh vực chống bán phá giá hoặc thuế đối kháng, đến những quy chuẩn kỹ thuật mới áp dụng trong thương mại, hoặc đến những thay đổi trong quy định điều chỉnh hoạt
động thương mại dịch vụ, và các luật hay quy định liên quan đến hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ. Nhiều nhóm công tác đặc biệt cũng đã được thành lập để xem xét những thoả thuận mới về tự do thương mại và các chính sách thương mại của các nước đang trong quá trình gia nhập WTO.
33
Minh bạch 2: thường xuyên thông tin cho công chúng. Kênh thông tin công cộng quan trọng nhất của WTO là trang Web của tổ chức này. Những
thông tin liên quan đến những hoạt động của tổ chức được cập nhật hàng ngày. Những thông tin có sẵn trên mạng chủ yếu là những thông tin và khái
niệm giải thích mang tính chất chung, liên quan đến một loạt những câu hỏi dạng như "Tìm hiểu về WTO". Những người nào muốn theo dõi các hoạt động cụ thể của WTO có thể tham khảo và tải từ trên mạng một số lượng
ngày càng nhiều tài liệu mang tính chính thức, hiện nay con số này là hơn 150.000 đầu tài liệu.
Ngày 14 tháng 5 năm 2002, Đại hội đồng của WTO đã quyết định tạo điều kiện cho công chúng dễ dàng tiếp cận số lượng tài liệu nhiều hơn nữa ngay từ khi những tài liệu này được phát hành. Đại hội đồng cũng quyết định rằng một số tài liệu hiện chiếm một tỷ lệ nhỏ và không được lưu hành rộng rãi sẽ được công bố công khai sớm hơn, khoảng hai tháng sau khi được lưu hành, thay vì sáu tháng như trước đây. Đây là một quyết định quan trọng thứ hai
liên quan đến tính minh bạch. Ngày 18 tháng 7 năm 1996, Đại hội đồng cũng đã nhất trí rằng WTO sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn nữa về những hoạt động của mình cho công chúng và cơ quan này quyết định rằng những tài liệu phổ biến cho công chúng kể cả những tài liệu được phân phát chung trong tổ chức này có thể được truy cập trực tiếp trên mạng máy tính.
Mục đích của những quyết định trên là để phổ biến thông tin rộng rãi cho công chúng. Các phương tiện nghe nhìn là một kênh thông tin quan trọng và những cuộc họp báo về tất cả những cuộc họp lớn của WTO cũng được tổ
chức tại Geneva để phục vụ các nhà báo - và càng ngày càng nhiều thông tin được chuyển tải qua thư điện tử hoặc các kênh thông tin khác cho các nhà báo trên toàn thế giới.
Song song với kênh thông tin trên, theo dòng thời gian, Ban thư ký của WTO đã tăng cường đối thoại với xã hội dân sự - các Tổ chức phi chính phủ (NGO) mà WTO quan tâm, các nghị sĩ quốc hội, sinh viên, giáo sư đại học và
các nhóm nghề nghiệp khác.
Trong thời gian trước khi Hội nghị cấp Bộ trưởng WTO diễn ra ở Doha năm 2001, các thành viên của WTO đã đề xuất và thông qua nhiều hoạt động mới liên quan đến NGO. Năm 2002, Ban thư ký WTO đã tăng cường các cuộc họp báo cung cấp thông tin cho NGO về tất cả các kỳ họp quan trọng của Tổ
34
chức và Ban thư ký đã bắt đầu công bố lịch trình của những buổi họp báo này
tại địa chỉ của mình trên mạng Internet. Các NGO cũng thường xuyên được mời đến trụ sở WTO để trực tiếp giới thiệu cho đại diện của các chính phủ
thành viên WTO những kết quả nghiên cứu và phân tích mới nhất của mình.
Một danh sách cập nhật hàng tháng về những bản thông tin xuất phát mà Ban thư ký nhận được từ các NGO cũng được thiết lập và phân phát cho
35
các chính phủ thành viên để tham khảo. Một tập san thông tin điện tử ra hàng tháng cũng được cung cấp cho các NGO, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận với các thông tin được WTO công bố.
CHƯƠNG 2
KHÁI QUÁT KINH TẾ VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
2.1. Quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên WTO
2.1.1. Quyền lợi và nghĩa vụ nói chung
Khi gia nhập WTO, các thành viên đều có những quyền lợi nhất định
và các nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền lợi và nghĩa vụ được phân định khác
nhau dựa trên các góc độ tiếp cận. Xét về tổng thể, quyền lợi và nghĩa vụ luôn
gắn với các qui định của WTO, thể hiện trên 4 nội dung chính:
- Thứ nhất: Quyền lợi và nghĩa vụ gắn với việc thực thi và được hưởng
từ các hiệp định trong khuôn khổ WTO trên các mặt như hàng hoá, dịch vụ,
quyền sở hữu trí tuệ, đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia…
- Thứ hai: Quyền lợi và nghĩa vụ còn được thể hiện ở khả năng tiếp cận
cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO. Nếu trường
hợp quyền lợi của một nước bị vi phạm, nước đó có quyền tiếp cận cơ quan
giải quyết tranh chấp để tìm kiếm các biện pháp phù hợp nhằm giải quyết mâu
thuẫn, thúc đẩy tự do thương mại. Bên cạnh đó, mỗi thành viên WTO đều tiếp
nhận sự giám sát của các cơ quan giải quyết tranh chấp để kịp thời xử lý
những mâu thuẫn phát sinh, hướng tới môi trường thương mại công bằng.
- Thứ ba: Tham gia các cuộc đàm phán đa phương, có quyền bỏ phiếu
(tán thành hoặc phản đối) các chính sách, qui tắc thương mại quốc tế, đồng
thời có trách nhiệm giám sát việc thực thi của các thành viên khác nếu các qui
định pháp lý được thông qua.
- Thứ tư: Được hưởng các biện pháp ngoại lệ, tự vệ và các ưu đãi khác
tuỳ từng trường hợp cụ thể nhằm đảm bảo ổn định, bền vững trong củng cố,
phát triển kinh tế của mỗi thành viên, nhất là đối với các nước đang phát triển
và kém phát triển. Tuy nhiên, nghĩa vụ của mỗi thành viên là không được lạm
dụng hệ thống ưu đãi để thực hiện các biện pháp bảo hộ, bóp méo tự do
36
thương mại trên thực tế.
Hộp 2.1: Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam
1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc)
8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục6 về chính sách thương mại”
1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA)
1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường.
7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
12-2001: BTA có hiệu lực
4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra
Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương.
2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm phán,
với 2 mốc quan trọng:
- 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
- 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong 28 đối
tác có yêu cầu đàm phán song phương.
26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14 phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để chính
thức kết nạp Việt Nam.
2.1.2. Sự ràng buộc của WTO đối với các nước thành viên
Để đảm bảo các hiệp định của WTO được thực hiện, cơ chế ràng buộc
đối với các thành viên được xây dựng trên cơ sở các cam kết của mỗi thành
viên và các cam kết tập thể.
Ràng buộc của mỗi thành viên dựa trên các cam kết của thành viên đó
trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương. Mỗi thành viên “tự ràng
6 Bị vong lục: là văn bản ngoại giao trình bày lịch sử một vấn đề để tranh thủ dư luận hay làm cơ sở cho bang giao. Khi VN gia nhập WTO, bước gửi bị vong lục cho ban thư Ký WTO là bước thứ 3 mà VN phải tiến hành trong quá trình gia nhập tổ chức này. Bị vong lục này sẽ là nền tảng cho việc xem xét của Ban công tác xét duyệt. Các cuộc họp tiếp theo của Ban công tác xét duyệt sẽ xem xét các câu hỏi đặt ra bởi các thành viên WTO đối với thông tin của bị vong lục và các trả lời của chính phủ xin gia nhập. Bị vong lục thực chất là bản tóm tắt toàn bộ hệ thống cơ chế, chính sách kinh tế, thương mại của Việt Nam. Bị vong lục không chỉ giới thiệu tổng quan về nền kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô, cơ sở hoạch định và thực thi chính sách, mà còn cung cấp các thông tin chi tiết về chính sách liên quan tới thương mại hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
37
buộc” bằng những cam kết trên từng lĩnh vực cụ thể và đảm bảo thực hiện
đúng các cam kết đó. Trong nội dung tự ràng buộc, việc đảm bảo hệ thống
luật pháp trong nước không mâu thuẫn với các hiệp định, nguyên tắc của
WTO luôn được quan tâm và chịu sự giám sát chặt chẽ. Trường hợp luật pháp
trong nước có mâu thuẫn với các hiệp định, nguyên tắc của WTO thì quốc gia
đó phải sửa đổi để đảm bảo tính phù hợp.
Ràng buộc tập thể là việc cam kết nhiều bên trong các cuộc đàm phán.
Một quốc gia tiến hành ký kết các hiệp định đa phương với hệ thống qui tắc
đã được nhất trí cần đảm bảo tuân thủ nghiêm túc những nội dung đã ký kết
và được giám sát bởi các cơ quan đại diện.
Ràng buộc trả đũa là trường hợp vi phạm nguyên tắc cùng có lợi và ưu
đãi lẫn nhau trong khuôn khổ WTO. Khi một thành viên vi phạm các qui định
nêu trên, gây thiệt hại cho một hoặc nhiều thành viên khác sẽ có thể bị trả
đũa. Như vậy, trả đũa được nhìn nhận như một ràng buộc trong quan hệ
thương mại quốc tế nhằm tiến tới các quan hệ thương mại bền vững. Trên
thực tế, biện pháp trả đũa đã hạn chế đến mức thấp nhất các thành viên đơn
phương tiến hành bảo hộ gây phương hại đến lợi ích của các thành viên có
liên quan.
2.1.3. Những ưu đãi của WTO giành cho các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam
Khoảng 2/3 trong tổng số thành viên WTO là các nước đang phát triển
và nhóm này đóng vai trò ngày càng quan trọng, tích cực không chỉ nhờ số
lượng đông đảo và vị trị ngày càng lớn của họ trong nền kinh tế thế giới mà
còn nhờ việc họ càng ngày càng coi thương mại là công cụ quan trọng hàng
đầu trong nỗ lực phát triển của mình. WTO đang cố gắng đáp ứng nhu cầu
đặc biệt của các nước đang phát triển bằng ba phương thức:
- Các hiệp định của WTO đều có những qui định đặc biệt dành cho các
nước đang phát triển.
- Uỷ ban về thương mại và phát triển là cơ quan tập trung chính các
công việc của WTO trong lĩnh vực này cùng với một số uỷ ban khác như
38
thương mại và nợ hoặc chuyển giao công nghệ.
- Ban thư ký của WTO cung cấp trợ giúp kỹ thuật (chủ yếu dưới nhiều
hình thức đào tạo) cho các nước đang phát triển.
Thứ nhất : Đối với các hiệp định thì thời hạn thực hiện dài hơn, các
điều kiện ưu đãi hơn
Trong các hiệp định của WTO có nhiều điều khoản dành cho các nước
đang phát triển và các nước kém phát triển nhất một số quyền ưu đãi đặc biệt
hay quyền được đối xử nương nhẹ hơn, nói cách khác là quyền được “đối xử
đặc biệt và đối xử ưu đãi”. Trong đó, một số cho phép các nước phát triển
dành cho các nước đang phát triển nhiều ưu đãi hơn là cho các nước thành
viên khác của WTO.
Hiệp định GATT (Điều chỉnh thương mại hàng hoá) có một đoạn đặc
biệt (phần 4) về thương mại và phát triển. Đoạn này qui định phải áp dụng
nguyên tắc không có đi có lại trong đàm phán thương mại giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển: cụ thể là khi các nước phát triển chấp nhận
nhân nhượng thương mại đối với các nước đang phát triển thì đổi lại họ không
nên trông chờ các nước đang phát triển đưa ra các bản chào tương tự.
Các hiệp định của WTO cũng qui định những biện pháp khác dành cho
các nước đang phát triển:
- Dành cho các nước đang phát triển thời hạn dài hơn để thực hiện các
cam kết của mình (qui định có trong rất nhiều hiệp định của WTO)
- Những qui định giúp tăng cường khả năng thương mại của các nước
đang phát triển bằng cách nâng cao khả năng tiếp cận thị trường (ví dụ như
các hiệp định về hàng dệt may, về dịch vụ, về những rào cản kỹ thuật đối với
thương mại).
- Những qui định buộc các nước thành viên của WTO phải đảm bảo lợi
ích của các nước đang phát triển khi đưa ra các biện pháp ở cấp độ quốc gia
hay quốc tế (ví dụ như hiệp định chống bán phá giá, hiệp định về các biện
39
pháp tự vệ, hiệp định về những rào cản kỹ thuật đối với thương mại)
- Những điều khoản qui định phương thức hỗ trợ các nước đang phát
triển (chẳng hạn để giúp họ thực hiện các cam kết đảm bảo các tiêu chuẩn về
sức khoẻ động vật và bảo vệ thực vật, đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật hay để
phát triển lĩnh vực viễn thông của họ)
Thứ hai: Hỗ trợ pháp lý từ phía Ban thư ký
Trong Ban thư ký của WTO có các cố vấn pháp lý đặc biệt có nhiệm vụ
giúp đỡ, tư vấn pháp lý cho các nước đang phát triển trong các vụ tranh chấp
tại WTO. WTO cũng có thể hỗ trợ về tư vấn thông qua Viện đào tạo và hợp
tác kỹ thuật của mình. Đây là phương thức thường được các nước đang phát
triển sử dụng.
Năm 2001, 32 chính phủ thành viên của WTO đã thành lập Trung tâm
tư vấn về luật lệ của WTO. Thành viên của trung tâm bao gồm các nước có
đóng góp tài chính cho trung tâm và các nước được hưởng tư vấn pháp lý. Tất
cả các nước kém phát triển nhất đều mặc nhiên được sự hỗ trợ của trung tâm.
Còn các nước đang phát triển và các nền kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi thì
phải trả một phần chi phí.
Thứ ba : Hỗ trợ của Uỷ ban Thương mại và phát triển
Uỷ ban Thương mại và phát triển được giao đảm trách một mảng công
việc lớn. Trong số rất nhiều vấn đề thuộc thẩm quyền của mình, Uỷ ban đã
định ra 4 lĩnh vực ưu tiên là: xem xét thực hiện các qui định dành cho các
nước đang phát triển, đưa ra phương hướng chỉ đạo cho hợp tác kỹ thuật, tăng
cường sự tham gia của các nước đang phát triển vào hệ thống đa phương và
quan tâm đến tình hình của các nước kém phát triển nhất.
Các nước thành viên cũng phải thông báo cho WTO biết những chương
trình ưu đãi thương mại đặc biệt mà họ dành cho hàng hoá của các nước đang phát
triển cũng như những thoả thuận cấp khu vực được ký kết giữa các nước đang
phát triển. Uỷ ban Thương mại và phát triển đã xem xét các thông báo về:
- Các chương trình thuộc Hệ thống ưu đãi chung (trong đó các nước
phát triển ưu tiên giảm bớt các rào cản đối với việc buôn bán hàng hoá có
40
nguồn gốc từ các nước đang phát triển)
- Các thoả thuận về ưu đãi được ký kết giữa các nước đang phát triển
như MERCOSUR (Khối thị trường chung các nước châu Mỹ La tinh),
COMESA (Khối thị trường chung vùng Đông và Nam châu Phi) và AFTA
(Khu vực tự do mậu dịch giữa các nước ASEAN).
Thứ tư : Các hoạt động hợp tác kỹ thuật của WTO
Hợp tác kỹ thuật của WTO nhằm mục đích duy nhất là giúp đỡ các nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tham gia có hiệu quả hơn vào hệ thống thương mại đa phương. Cụ thể là giúp đỡ các nước này xây dựng những thể chế cần thiết và đào tạo viên chức. Các lĩnh vực được quan tâm gồm có chính sách thương mại và hiệu quả của kỹ năng đàm phán.
WTO thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo về chính sách thương mại tại Geneva. Ngoài ra, hàng năm WTO cũng tổ chức khoảng 400 hoạt động hợp tác kỹ thuật, trong đó có các cuộc hội thảo và họp bàn tròn tại nhiều nước khác nhau và các khoá học tại Geneva.
Các hoạt động này được dành cho các nước đang phát triển, các nước đang
trong thời kỳ chuyển đổi. Một số hội thảo cũng đã được tổ chức tại châu Á, châu
Mỹ La tinh, vùng Caribê, vùng Trung Đông và tại khu vực Thái Bình Dương.
Các hoạt động hợp tác kỹ thuật và đào tạo được tài trợ từ ba nguồn:
ngân sách thường xuyên của WTO, đóng góp tự nguyện của các nước thành
viên WTO và sự hỗ trợ một phần chi phí từ những nước tham gia vào các hoạt
động của WTO hay từ các tổ chức quốc tế khác.
Chương trình “Các trung tâm tham khảo của WTO” được ra đời vào
năm 1997 nhằm mục đích hình thành một mạng lưới các trung tâm thông tin
tin học hoá tại các nước kém phát triển nhất và đang phát triển. Các trung tâm
này tạo điều kiện cho những người quan tâm được tiếp cận với các nguồn
thông tin và tài liệu của WTO thông qua một thư viện, một bộ sưu tập đĩa
CD-ROM và một đường liên kết Internet với các Website và các cơ sở dữ liệu
của WTO. Các trung tâm này phần lớn được đặt tại các bộ thương mại và tại
trụ sở của các tổ chức điều phối cấp khu vực. Hiện có khoảng hơn 100 trung
41
tâm tham khảo như vậy trên thế giới.
Thứ năm: Một số vấn đề khác đang được xem xét
Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) đã đánh dấu một bước ngoặt trong
quan hệ Bắc - Nam tại GATT/WTO. Trước đây, cho dù đã có một số ngoại lệ thì
xu hướng chung vẫn là các nước phát triển và đang phát triển tập hợp thành hai
khối đối lập nhau. Trong một số lĩnh vực như dệt may, quần áo hay đối với một
số vấn đề mới được đề cập tại WTO, ranh giới giữa hai khối vẫn luôn rõ nét và
trong nội bộ khối các nước đang phát triển lại hình thành thêm một số liên minh
như Nhóm châu Phi và Nhóm các nước kém phát triển nhất.
Tuy nhiên, trong các lĩnh vực khác, các nước đang phát triển không có
lợi ích chung và có thể có các quan điểm đàm phán trái ngược nhau. Do vậy
giữa các nhóm nước đang phát triển lại hình thành tiếp nhiều liên minh khác.
Bất đồng quan điểm thường xuất hiện trong những lĩnh vực quan trọng đối
với các nước đang phát triển, chẳng hạn như nông nghiệp.
Hộp 2.2: Khả năng và mối quan tâm đối với việc tham gia hệ thống
Là kết quả của các cuộc đàm phán thương mại từ 1986-1994 trong khuôn khổ Vòng Uruguay, các hiệp định của WTO tạo cho các nước đang phát triển nhiều khả năng cải thiện tình hình. Các cuộc đàm phán về tiếp tục tự do hoá trong khuôn khổ Chương trình Doha chính là nhằm mục tiêu tăng cường các khả năng đó.
Xuất khẩu sẽ là lĩnh vực được hưởng lợi chủ yếu nhờ các biện pháp sau:
- Cải cách cơ bản việc buôn bán các sản phẩm nông nghiệp
- Bỏ dần hạn ngạch xuất khẩu đối với các sản phẩm dệt may và quần áo của các
nước đang phát triển
- Giảm thuế quan đối với các sản phẩm công nghiệp
- Tăng số lượng các mặt hàng được hưởng biểu thuế “trần” (biểu thuế khó tăng)
trong khuôn khổ WTO
- Bỏ dần các hiệp định song phương hạn chế khối lượng giao dịch đối với một số sản phẩm. Đây là các biện pháp thuộc “vùng xám” (còn được gọi là các biện pháp tự hạn chế xuất khẩu) và trên thực tế không được GATT/WTO công nhận
Nguồn: Tìm hiểu Tổ chức Thương mại Thế giới
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề: Các nước đang phát triển cho
rằng một số thị trường lớn vẫn áp dụng mức thuế quan quá cao (“biểu thuế tối
đa”) đối với một số mặt hàng như dệt may, quần áo, cá và các sản phẩm từ cá
và như vậy sẽ tiếp tục kìm hãm xuất khẩu. Hơn nữa, tại Vòng đàm phán
42
Uruguay, mức giảm thuế quan trung bình của các nước phát triển đối với hàng
hoá xuất khẩu chủ yếu từ các nước đang phát triển (37%) chỉ thấp hơn đôi
chút so với mức giảm thuế quan chung cho tất cả các loại hàng hoá (40%).
Ngoài ra, các ưu đãi mất dần giá trị đang là vấn đề quan tâm của các nước
đang phát triển. Họ cho rằng nếu các mức thuế thông thường tiếp tục được hạ
thấp thì sẽ không còn nhiều chênh lệch giữa mức thuế thông thường và mức
thuế ưu đãi và như vậy, sẽ làm giảm tác động của những ưu đãi thuế quan mà
hàng hoá nhập khẩu từ một số nước đang phát triển đang được hưởng trên thị
trường của các nước phát triển.
Còn nhiều tranh cãi về đâu là ích lợi thực sự của các loại ưu đãi. Khác
với những cam kết về thuế quan trong khuôn khổ WTO, các loại ưu đãi không
được các hiệp định của WTO qui định mức “trần” và như vậy có thể được
điều chỉnh dễ dàng. Ưu đãi thường được các nước nhập khẩu quyết định đơn
phương. Do đó, các biểu thuế ưu đãi có thể gây ra nhiều biến động cho các
hoạt động thương mại hơn là các biểu thuế “trần” thông thường (khó điều
chỉnh). Tựu chung, các nước sẽ được hưởng lợi nhiều hơn nếu áp dụng các
biểu thuế “trần” thông thường.
Dĩ nhiên cũng có một số nước và một số doanh nghiệp được hưởng lợi
từ các chính sách ưu đãi. Lợi ích thu được nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào từng
loại hàng hoá cũng như vào khả năng nắm bắt cơ hội, điều chỉnh sản xuất để
duy trì cạnh tranh sau khi ưu đãi bị xoá bỏ.
Hộp 2.3: Thế nào là “biểu thuế tối đa” và “biểu thuế tăng dần”?
Biểu thuế tối đa: Hiện nay đa phần thuế nhập khẩu đều rất thấp, đặc biệt là tại các nước phát triển. Tuy nhiên khi các chính phủ đã coi một số mặt hàng là nhạy cảm và muốn bảo hộ các nhà sản xuất trong nước thì thuế quan lại được duy trì ở mức cao và như vậy tác động phần nào đến xuất khẩu của các nước đang phát triển. Các loại thuế như vậy được gọi là “biểu thuế tối đa”.
Biểu thuế tăng dần: Nếu muốn bảo vệ các ngành công nghiệp chế biến hoặc lắp ráp của mình thì một nước có thể đánh thuế thấp hơn đối với việc nhập khẩu nguyên liệu của các nhà sản xuất nội địa (và như vậy giúp giảm chi phí sản xuất trong nước) và đánh thuế cao hơn đối với việc nhập khẩu thành phẩm (và như vậy bảo vệ được hàng hoá sản xuất trong nước). Các loại thuế như vậy được gọi là “biểu thuế tăng dần”. Nếu các nước nhập khẩu nguyên liệu sử dụng phương thức đánh thuế này thì các nước xuất khẩu khó có thể đối phó bằng cách tự mình chế biến nguyên liệu và sản xuất các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao.
43
Khả năng khai thác ưu đãi của Việt Nam: Liệu Việt Nam có thể tận
dụng được những thay đổi này hay không? Câu trả lời là có nhưng trong điều
kiện nền kinh tế có khả năng tự điều chỉnh, phù hợp với qui tắc chung bằng
việc áp dụng một loạt các biện pháp, từ hoàn thiện chính sách và quản lý kinh
tế vĩ mô cho đến tăng cường đào tạo và đầu tư.
2.1.4. Cơ hội và thách thức với kinh tế Việt Nam
Cơ hội
Cũng như các nước đang phát triển khác, động lực chính khi gia nhập
WTO nhằm tìm kiếm nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư
để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời cũng tạo những áp lực
cải cách bên trong nhằm hướng tới sân chơi thương mại toàn cầu. Có thể khái
quát quyền lợi của Việt Nam khi gia nhập WTO trên các nội dung chính sau:
Thứ nhất: Tiếp cận và mở rộng thị trường. Đây là quyền lợi rất lớn của
các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Quyền lợi của
Việt Nam khi gia nhập WTO trên khía cạnh này được thể hiện trên các nội
dung: (1) Thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Với kim ngạch xuất nhập khẩu
chiếm trên 40% GDP, ngoại thương ngày càng có vị trí quan trọng trong thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế; (2) Đối với các doanh nghiệp, mở rộng thị trường là
điều kiện quan trọng để tìm kiếm nguồn lực đầu vào tối ưu cho sản xuất; (3)
Được hưởng qui chế MFN gắn với qui chế thành viên của WTO. Trong nhiều
trường hợp, các nước không phải là thành viên WTO cũng có thể được các
đối tác thương mại trao MFN một cách tự nguyện nhưng không có gì đảm bảo
rằng những nước này sẽ tiếp tục thực hiện các ưu đãi đó; hoặc các nước trao
MFN thường đi kèm với điều kiện nhất định. Chẳng hạn Mỹ trao MFN cho
Nga và một số quốc gia khác với điều kiện các quốc gia này phải thực hiện
điều khoản Jakson - Vanik về tự do di cư...; (4) Các biện pháp trừng phạt,
nhất là chống bán phá giá được áp dụng “mạnh tay” hơn (cả về điều tra và
những biện pháp cụ thể) đối với các nước không phải là thành viên WTO.
Với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi và chi phí lao động rẻ, Việt Nam
44
có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt
may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp
để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may
của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá
bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này
nếu có mối quan hệ thương mại thuận lợi đối với các nước thành viên WTO.
Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa
ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế
quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt
Nam.
Thứ hai: tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với việc tăng cường mối
quan hệ thương mại và từng bước minh bạch hoá hệ thống chính sách, trong
tương lai gần, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư với các hình
thức khác nhau như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, chuyển giao công
nghệ... Thị trường xuất khẩu không bị bó hẹp trong các hiệp định song
phương và khu vực cũng là điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mở rộng sản xuất, tăng cường năng lực, qui mô. Xét trên bình diện khu
vực và quốc tế và so sánh với các nước thành viên đang phát triển khác, nếu
các điều kiện khác như nhau (môi trường đầu tư, các ưu đãi...), Việt Nam có
lợi thế hơn về nguồn nhân lực và qui mô của thị trường nội địa. Những yếu tố
nêu trên thực sự là những cơ hội to lớn đối với Việt Nam. Thực tế, trong
những năm qua đã chỉ rõ, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam và xu thế này ổn địn trong tương lai: năm 2006, đầu tư nước
ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu
và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba: Thương mại dựa trên nguyên tắc công bằng và việc tiếp cận dễ
dàng các cơ chế giải quyết tranh chấp tạo cơ hội cho các nước “yếu” như
Việt Nam. Trong WTO, hệ thống thương mại dựa trên nguyên tắc chứ không
phải trên sức mạnh là cơ hội tốt đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh
45
của mọi thành viên tổ chức này. Môi trường thương mại quốc tế, sau nhiều nỗ
lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, tham gia thị trường
quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản
thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được
WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… và phần thua thiệt
thường là các doanh nghiệp Việt Nam. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng
được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để
đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả
và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này.
Với nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, các doanh nghiệp
Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm và qui mô nhỏ, các quan hệ thương mại
dựa trên nguyên tắc sẽ là cơ hội để hệ thống doanh nghiệp lớn mạnh theo qui
luật khách quan. Cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính công bằng và bắt
buộc, có khả năng thực thi cao là cơ hội tiềm tàng đối với kinh tế Việt Nam
với qui mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. Cơ chế này giúp
Việt Nam khẳng định tư cách thành viên trong các tranh chấp, tránh được
những phán quyết bất lợi từ phía các đối tác thương mại lớn như trong vụ kiện
chống bán phá giá cá tra, cá basa trong thời gian qua.
Thứ tư: Áp lực thúc đẩy cải cách kinh tế trong nước. Với những phức
tạp vốn có của các nền kinh tế chuyển đổi, kinh tế Việt Nam gặp không ít khó
khăn khi thiết lập những thể chế cần thiết nhằm thực hiện các cam kết của
WTO. Những qui định mang tính bắt buộc của WTO như sở hữu trí tuệ, hệ
thống tiêu chuẩn, qui định về vệ sinh dịch tễ, vệ sinh động vật, thương mại
nhà nước ... một mặt tạo sức ép rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, mặt
khác, là cơ hội thuận lợi đẩy mạnh quá trình cải cách hướng tới thực hiện cam
kết. Chỉ tính riêng trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã đẩy
nhanh công tác soạn thảo và thông qua luật pháp nhanh gấp nhiều lần những
năm trước đó. Chẳng hạn, từ năm 2001, tức sau khi rà soát chính sách vòng 1
theo yêu cầu của WTO, đến cuối năm 2003 Quốc hội Việt Nam đã thông qua
và sửa đổi bổ sung hơn 25 văn bản luật, pháp lệnh, Hiến pháp... về rất nhiều
46
lĩnh vực. Trong quá trình cải cách, Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ kỹ
thuật từ Ban thư ký của WTO và từ các thành viên trong quá trình chuyển đổi,
cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng hệ thống pháp luật...
Áp lực cải cách trong nước theo hướng công khai, minh bạch, phù hợp
với các thiết chế quản lý như quy định của WTO đã từng bước hoàn thiện môi
trường kinh doanh của Việt Nam. Đây là tiền đề rất quan trọng để không
những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu
hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và
công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc
làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thứ năm: Tạo lập vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Gia nhập
WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc
hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết
lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện bảo vệ lợi
ích của đất nước, của doanh nghiệp. Với những thành tựu đạt được sau hơn 20
năm đổi mới, gia nhập WTO không chỉ nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, mà còn tạo những tiền đề cần thiết cho những giai đoạn phát
triển tiếp theo.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO
mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là
trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý
nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân
còn nhỏ bé.
Thách thức
Song song với những cơ hội có thể khai thác, những thách thức của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với kinh tế nước ta không nhỏ. Ngoài những thách thức mà hầu như các quốc gia đang và chậm phát triển phải đối mặt, nhiều tài liệu chính thức của Đảng và Nhà nước đã đề cập như áp lực cả về kinh tế, chính trị, xã hội; sự thâm nhập của các trào lưu tư tưởng, chính trị phản động, văn hoá đồi trụy.... thì ở nước ta còn phải đối mặt trực tiếp với nhiều
47
thách thức, bao gồm:
Thứ nhất: Năng lực cạnh tranh thấp. Trên cả ba cấp độ: Quốc gia - doanh nghiệp - sản phẩm, năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn thấp kém,
điều này đặt ra những thách thức không nhỏ khi tham gia hoạt động thương mại toàn cầu. Năng lực cạnh tranh trên góc độ ngành kinh tế cũng không mấy khả quan. Việt Nam là nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp
hoá, lĩnh vực này có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển cũng như cơ cấu thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, những yếu kém nội tại đã làm cho sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp chưa cao. Nông nghiệp còn yếu
cả về cơ sở vật chất, trình độ công nghệ, đặc biệt là việc tuân thủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm trong qui trình sản xuất. Những lô hàng xuất khẩu bị trả về vì dư lượng chất kháng sinh quá cao trong sản phẩm thuỷ sản, dư
lượng chất trừ sâu trong sản phẩm trồng trọt hay liên tiếp những vụ ngộ độc được các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin, không chỉ là thách thức đối
với ngành nông nghiệp khi gia nhập WTO mà đã thực sự trở thành mối lo ngại của toàn xã hội.
Trong công nghiệp, những ngành, sản phẩm được xác định là mũi nhọn,
có năng lực cạnh tranh cao như may mặc, điện tử, giày dép ... lại là những ngành gia công với giá trị gia tăng rất thấp cho công đoạn này. Nói cách khác, chúng ta đang cạnh tranh bằng tình trạng dư thừa lao động (giá nhân công rẻ) chứ không phải bằng công nghệ mới, sản phẩm đặc trưng, tăng tính năng cho mỗi sản phẩm .... điều mà các ngành công nghiệp ở các nước phát triển thường
làm. Ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển tương xứng cũng là một trong những thách thức cần vượt qua nhằm tạo “hậu phương” cho toàn bộ ngành công nghiệp nói chung, những sản phẩm công nghiệp chủ lực nói riêng nâng cao năng lực cạnh tranh. Các sản phẩm công nghiệp khác với những yếu kém thường được nhắc đến như mẫu mã đơn điệu, giá thành cao, thời gian ra đời sản phẩm mới chậm ... cùng với những hạn chế khác như trình độ công nghệ
lạc hậu, chậm đổi mới, khả năng tiếp thị yếu ... thực sự trở thành những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.
Lĩnh vực dịch vụ với những sản phẩm chủ yếu như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, viễn thông .... còn một khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực cả về trình độ công nghệ, giá thành, tính ổn định cũng như chất lượng sản
48
phẩm. Với những yếu kém vốn có, các sản phẩm dịch vụ sẽ chịu những áp lực
cạnh tranh rất lớn từ các tập đoàn có nhiều kinh nghiệm của nước ngoài. Trên thực tế, ngay từ trước khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, lĩnh vực dịch
vụ đã gặp không ít khó khăn và chịu nhiều sức ép từ việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường này trong khuôn khổ các cuộc đàm phán song phương. Tình trạng các cán bộ có năng lực trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm “chạy” về các
tập đoàn nước ngoài trong thời gian gần đây đã mang tính phổ biến.
Như vậy, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của
Việt Nam với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường
nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát
huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Thách thức trong nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện ở chiến lược phát triển liệu có phát huy được lợi thế so sánh hay không; ở chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không; ở môi trường kinh doanh có thông thoáng, thuận lợi hay không v.v…
Thứ hai: Cải cách hệ thống pháp luật và thực thi các hiệp định
Mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể trong việc ban hành mới, sửa đổi hệ thống luật pháp nhằm phù hợp với các điều luật của WTO nhưng trên tổng thể, nhiều bộ luật chuyên ngành còn bộc lộ những bất cập, hệ thống văn bản dưới luật, giấy phép con … còn chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí trái ngược
với những qui định của bộ luật chính đã và đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam, trước hết là hệ thống luật pháp kinh tế. Là thành viên chính thức, Việt Nam phải tuân theo hệ thống hiệp định của WTO, điều luật của tổ chức này gồm 28 chương dài hàng ngàn trang cùng với hàng ngàn trang ghi chú và phân loại khác. Do vậy, để hiểu cặn kẽ hệ thống pháp luật của WTO là điều không dễ, xây dựng hệ thống pháp luật phù
49
hợp với các qui định của tổ chức này sẽ càng khó khăn gấp nhiều lần. Mặc dù
được hưởng qui chế MFN trong việc hoàn tất chính sách, nghĩa là Việt Nam có thời gian “đệm” cho việc hoàn thiện chính sách theo qui định của WTO,
nhưng với khối lượng công việc đồ sộ và trước yêu cầu minh bạch hoá tất cả các chính sách kinh tế, thương mại, rà soát chương trình xây dựng pháp luật để đảm bảo thực thi các cam kết, đã và đang là những khó khăn, thách thức
đáng kể cho Việt Nam với tư cách thành viên chính thức.
Việc thực hiện hệ thống hiệp định của WTO thực sự là những thách thức. Trong mỗi hiệp định cụ thể, với những nội dung và yêu cầu khác nhau,
ngoài những cơ hội có thể nắm bắt được, những thách thức đi kèm cũng không nhỏ. Chẳng hạn hiệp định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Đây là hiệp định
nhằm khuyến khích sự sáng tạo với việc yêu cầu người sử dụng phải trả tiền đối với những sản phẩm được bảo hộ. Mục tiêu cao đẹp của hiệp định này gây không ít bất lợi cho các nước đang và kém phát triển bởi hầu hết các phát
minh, sáng chế tập trung ở các nước phát triển. Các nước đang phát triển muốn sử dụng những thành tựu này nhưng không muốn phải trả tiền. Đối với Việt Nam, thói quen của người dân và các doanh nghiệp chưa kịp thay đổi để
phù hợp với qui định của hiệp định, và do đó sẽ có thể phải chịu những trừng phạt hay bồi thường, ngay cả trong những trường hợp không cố ý.
Thứ ba: Điều hành nền kinh tế của Chính phủ
Gia nhập WTO trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động
mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh
nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là thách thức không nhỏ.
Gia nhập WTO cũng là gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam không phát huy được lợi thế
so sánh, không tái cơ cấu theo hướng hiện đại sẽ có thể bị phụ thuộc vào các
nền kinh tế lớn, phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài, trở thành địa chỉ gia công
50
cho các ngành công nghiệp của các nước phát triển. Nguy cơ này xuất phát từ
năng lực nội tại của nền kinh tế Việt Nam do di chứng của kinh tế hiện vật
khép kín, trình độ phát triển kinh tế thấp, các quan hệ kinh tế thị trường của
Việt Nam còn phát triển ở mức sơ khai, cơ cấu kinh tế trong nước còn lạc hậu.
Với những đặc điểm bất cập như vậy, nếu Việt Nam không tăng tốc trong giai
đoạn quá độ được WTO cho phép thì nguy cơ giải thể, phá sản hàng loạt
doanh nghiệp có thể xảy ra, gây tác hại xấu cho kinh tế, xã hội, chính trị.
Hệ thống DNNN, nhất là các doanh nghiệp độc quyền, sẽ gặp khó khăn
do WTO buộc chúng phải hoạt động theo nguyên tắc thương mại bình thường,
Nhà nước không được dành cho chúng những khoản ưu đãi tài chính như tín
dụng ưu đãi, khoanh nợ, xoá nợ, nhất là độc quyền. Nếu nước ta không tái cơ
cấu DNNN nhanh chóng để đặt cơ sở nền tảng cho chúng hoạt động hiệu quả
theo nguyên tắc thị trường thì sẽ có nguy cơ DNNN phá sản hàng loạt. Ngoài
ra, Nhà nước cũng sẽ gặp khó khăn trong quản lý sản xuất hàng hoá công cộng
theo nguyên tắc thị trường, bởi vì cơ chế này hiện tại khởi động rất chậm.
Thứ tư: Phúc lợi và an sinh xã hội
Trên thực tế, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi
ít hơn trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế nói chung và gia nhập WTO nói
riêng. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ
phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực; nguy
cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên,
phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi Chính phủ phải có chính
sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn nhằm thực hiện chủ trương của
Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Người lao động sẽ gặp khó khăn khi tìm kiếm và giữ chỗ làm việc do
những tác động sau: doanh nghiệp có thể sa thải người do phải tái cơ cấu sản
xuất để đủ sức cạnh tranh; vòng đời sản phẩm ngắn lại nên người lao động
phải chuyển nghề liên tục; sức ép cạnh tranh giữa lao động trong nước và lao
động nước ngoài sẽ trực diện và gay gắt hơn; bộ phận dân cư ít kỹ năng thích
51
ứng, nhất là nông dân, sẽ bị nghèo đói bần cùng hơn làm cho chương trình
xoá đói giảm nghèo thêm khó khăn, nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn cho an
sinh xã hội.
Bất ổn về chính trị và tệ nạn xã hội có cơ hội phát triển nhiều hơn, khả
năng ngăn chặn của Nhà nước và xã hội khó khăn hơn, tốn phí hơn... Khi Việt
Nam thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép các hãng nước ngoài kinh
doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, giải trí, thông tin... thì cơ hội để bọn
phản động trà trộn gây hại sẽ lớn hơn. Trong khi đó, Nhà nước phải giảm các
biện pháp kiểm soát hành chính trực tiếp. Những biện pháp kiểm soát gián
tiếp, một mặt, đòi hỏi chi phí tài chính lớn, nhân lực kiểm soát phải có kỹ
năng chuyên nghiệp cao, mặt khác, không thể kiểm soát triệt để. Do đó, nếu
nhà nước không đổi mới hoạt động kiểm tra giám sát của mình kịp thời thì
nguy cơ bất ổn đi cùng hội nhập WTO là khá cao.
Như vậy, gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn,
vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội là tiềm năng, còn thách
thức hiện hữu hàng ngày. Cơ hội tự nó không biến thành sức mạnh mà tuỳ
thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của Việt Nam. Thách thức tuy là sức ép
trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào “nội lực” của toàn
bộ nền kinh tế.
Cơ hội và thách thức cần đặt trong mối quan hệ tổng thể và nhìn nhận
trong sự vận động, chúng hoà quyện, chuyển hoá lẫn nhau, trong cơ hội chứa
đựng những thách thức và ngược lại. Thách thức đối với ngành này có thể là
cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực
mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại,
không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức
sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Như vậy, nhân tố
chủ quan, nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định đến việc tận dụng cơ
hội, đẩy lùi thách thức, đưa nền kinh tế đến mục tiêu xác định.
Với thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển biến tích
cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh
52
nghiệm và kết quả của nhiều nước gia nhập WTO có thể khẳng định, kinh tế
Việt Nam có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức và đạt những thành tựu
lớn hơn trong tương lai. Trong từng giai đoạn phát triển, có thể nền kinh tế
Việt Nam sẽ gặp phải những đổ vỡ, một số doanh nghiệp có thể bị phá sản
nhưng số còn lại, lớn hơn rất nhiều và sẽ phát triển tốt hơn.
2.2. Khái quát kinh tế Việt Nam khi gia nhập WTO
2.2.1 Những kết quả nổi bật
Thứ nhất: Tăng trưởng và phát triển kinh tế
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, mức tăng trưởng GDP năm
2006 đạt 8,17%, thấp hơn tốc độ của năm 2005 (8,43%) nhưng do năm 2005
là năm cuối của kế hoạch 5 năm nên các cấp, các ngành nỗ lực rất cao để đạt
được kết quả nêu trên. Trong bối cảnh năm 2006, thiên tai trên diện rộng, dịch
bệnh xảy ra triền miên (chỉ riêng thiên tai đã gây thiệt hại 18,7 tỷ đồng, cao
nhất trong 35 năm qua, tương đương với 1% GDP) thì kết quả đạt được là rất
đáng kể.
Hình 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP 1986-2007 (%)
GDP(%)
9.5 9.3
8.7 8.1 8.8
8.1
6.8 6.9 7.1 7.3 7.8 8.4 8.2 8.5
6.01
5.7
4.8
4.685.095.81
3.63
10 9 8 7 6 5 4 3 2 2.84 1 0 1986
1988
1990
1992
1994
1996
1998
2000
2002
2004
2006
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Với tốc độ tăng trưởng này, kinh tế Việt Nam đạt kỷ lục tăng GDP liên
tục trong 25 năm (vượt Hàn Quốc: 23 năm và chỉ sau Trung Quốc với 28 năm
liên tục). Với tốc độ 8,17% năm 2006, tăng trưởng kinh tế không những vượt
chỉ tiêu của Quốc hội, mà còn là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế vào
53
hàng cao nhất thế giới.
Chỉ số GDP bình quân đầu người được cải thiện đáng kể so với năm
trước đó. Nếu như năm 2005, GDP bình quân đầu người đạt 10,1 triệu
đồng/người thì con số này năm 2006 đạt 11,6 triệu đồng/người. Nếu qui đổi
theo tỷ giá hối đoái tại các thời điểm tính toán, con số tương ứng năm 2005 là
638 USD/người; năm 2006 là 725 USD/người. Với chỉ số năm 2006, Việt
Nam đã từng bước vượt qua ranh giới của các quốc gia đang phát triển có thu
nhập thấp nhất.
Hình 2.2: Qui mô GDP và tỷ lệ GDP/người
1000
1600
950
900
1400
820
800
1200
722
700
0 5 3 1
639
1000
600
0 4 1 1
553
500
3 7 9
800
492
ì
440
9 3 8
413
400
.
600
4
g n ồ đ u ệ i r T
.
8
300
g n ồ đ ỷ t n h g N
.
3 5 1 7
400
3 1 6
200
1 8 4
5 3 5
200
100
0
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008 (ước)
GDP ( ngh. Tỷ đ)
GDP/người (USD)
Nguồn: Cao Viết Sinh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tăng trưởng kinh tế đạt ở cả công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Trong đó, tốc độ tăng chung của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng đạt
10,37%. Riêng giá trị sản xuất công nghiệp đạt tỷ lệ tăng trưởng 17%. Dịch
vụ đạt tốc độ tăng trưởng 8,28%, cao hơn mức trung bình tăng trưởng GDP.
Nông nghiệp với việc gặp nhiều thiên tai, dịch bệnh vẫn đạt tốc độ tăng
trưởng 3,4%
Bảng 2.1: Tốc độ tăng và đóng góp của các nhóm ngành vào tốc độ
Tốc độ tăng (%)
Đóng góp vào tốc độ tăng (điểm %)
Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng chung (%)
tăng trưởng năm 2007
Tổng số
8,17
8,17
100
Nông - lâm - thuỷ sản
3,4
0,67
8,2
54
Công nghiệp - xây dựng
10,37
4,16
50
Dịch vụ
8,29
3,34
40,9
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2006-2007 Việt Nam và Thế
giới, tr. 5
Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng nêu trên nhìn nhận từ các khu vực
kinh tế có thể thấy, sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù kinh tế Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn
nhưng kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực sự là động lực
của tăng trưởng, góp phần quan trọng làm tăng qui mô, đảm bảo tốc độ tăng
trưởng chung của nền kinh tế.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng cả về qui mô và tốc độ tăng
trưởng (so với cùng kỳ năm trước): Năm 2000 đạt 145.000 tỷ đồng, năm 2005
là 40.900 tỷ, năm 2006 đạt 41.000 tỷ và năm 2007 dự kiến là 41.300 tỷ đồng..
Tổng lượng vốn đầu tư phát triển đạt 398,9 nghìn tỷ đồng, bằng 41% GDP,
cao nhất từ trước đến nay. Quí 1/2007, với làn sóng đầu tư ồ ạt, dự kiến trong
cả năm 2007, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP sẽ tiếp tục tăng cao và có nguy cơ
phải hạ nhiệt bởi tăng trưởng quá nóng. Cơ cấu nguồn vốn cho thấy, tỷ trọng
vốn Nhà nước có xu hướng giảm, tương ứng với nó là tỷ trọng vốn ngoài nhà
nước tăng lên.
Vốn FDI đạt kỷ lục cả về vốn đăng ký mới và vốn thực hiện. Nguồn
vốn ODA cũng tăng nhanh cả về vốn cam kết và vốn thực hiện. Vốn đầu tư
qua thị trường chứng khoán vượt ngưỡng 3 tỷ USD. Xuất khẩu tăng cả về qui
mô và tốc độ. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 40 tỷ USD, bằng 65%
GDP đã chứng tỏ độ “mở” của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt
22,1%, trong đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao hơn khu
vực kinh tế trong nước (23,2% và 20,5%). Tổng thu ngân sách cũng vượt mức
dự toán Quốc hội đề ra, đáp ứng sức ép chi ngân sách, đảm bảo các khoản chi
55
đột xuất và tăng chi đối với lĩnh vực an sinh xã hội và phát triển con người.
Hình 2.3: Tổng đầu tư toàn xã hội và tỷ lệ đầu tư/GDP
41.3
45
500
41
40.9
40.7
37.8
37.2
450
40
35.4
34
400
35
350
30
300
25
250
20
5 5 4
200
9 9 3
15
3 4 3
150
1 9 2
10
100
3 . 9 3 2
0 0 2
5 . 0 7 1
5 4 1
5
50
0
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng đầu tư toàn XH (Nghìn tỷ đồng)
Đầu tư/GDP (%)
Chỉ số giá tiêu dùng thấp nhất trong 3 năm trở lại đây và thấp hơn tốc độ
tăng trưởng kinh tế (6,6% so với 8,17%). Nền kinh tế tạo nhiều việc làm mới
góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị từ 5,3% năm 2005 xuống
còn 4,4% năm 2006. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ
nghèo đói giảm mạnh: năm 1990 còn 70% hộ nghèo, thì con số này là 28,9%
vào năm 2000 và dưới 27% vào năm 2004; tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới giảm từ
19% năm 2005 xuống còn 3% năm 2006. Chỉ số HDI của Việt Nam đã gia tăng
khá nhanh và liên tục qua các năm, số trường học và học sinh đi học không
ngừng tăng lên, số cơ sở khám chữa bệnh và giường bệnh cũng tăng.
Thứ hai: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực.
Về cơ cấu ngành: Tỷ trọng của nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản giảm,
tương ứng là tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng. Cơ
cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp
và dịch vụ, giảm dần của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Từ một nước có
56
nền công nghiệp kém phát triển, đến nay Việt Nam đang từng bước xây dựng
một nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp liên tục tăng,
tỷ trọng đóng góp của ngành nông – lâm - ngư nghiệp giảm.
Tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế cũng liên tục tăng trong các
năm. Cụ thể, tăng nhẹ trong ngành nông – lâm - thủy sản, mặc dù trong năm
2001 có sự sụt giảm đáng kể so với năm 2000 nhưng trong những năm tiếp
theo đã có sự tăng trở lại; tăng cao nhất trong ngành công nghiệp và xây
dựng, luôn giữ tốc độ tăng trưởng trên 10%/năm cao hơn tốc độ tăng trưởng
toàn nền kinh tế, riêng trong ngành dịch vụ có sự gia tăng đều đặn hàng năm
tuy tốc độ không cao, duy trì ở mức 6-7%/năm, trong năm 2006, đạt 8,29%.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng các ngành kinh tế giai đoạn 2000 – 2006 Đơn vị: %
Năm
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
GDP
6,79 6,89 7,08 7,26 7,57 8,43 8,17
Nông – lâm – thủy sản
4,63 2,98 4,17 3,25 3,30 4,04
3,4
Công nghiệp – xây dựng
10,07 10,39 9,48 10,35 10,25 10,65 10,37
Dịch vụ
5,32 6,10 6,54 6,57 7,25 8,48 8,29
Nếu xét theo tỷ lệ đóng góp của mỗi ngành vào tốc độ tăng chung, có
thể thấy giá trị gia tăng của nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản nước ta theo
giá thực tế đã giảm từ 38% năm 1986 xuống còn khoảng 8,2% năm 2006. Tỷ
lệ tương ứng ở nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 28,8% năm 1986
lên 50,9% năm 2006, của nhóm ngành dịch vụ tăng từ 33% năm 1986 lên
40,9% năm 2006.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH nền kinh tế, trong
đó nông nghiệp giảm tỷ trọng tương đối, công nghiệp và dịch vụ tăng tương
ứng. Mặc dù trên tổng thể, cơ cấu ngành năm 2006 không có nhiều khác biệt
so với năm 2005, nhưng đi sâu phân tích cơ cấu nội bộ ngành sẽ thấy có
những chuyển biến tích cực. Trong cơ cấu ngành nông - lâm - thuỷ sản, tỷ
trọng lĩnh vực sản xuất nông nghiệp giảm liên tục (năm 2000 chiếm 80,8% thì
đến 2006, tỷ trọng này chỉ còn 75,5%), tỷ trọng của lĩnh vực thuỷ sản tăng
nhanh. Trong tổng giá trị sản xuất ngành thuỷ sản, giá trị nuôi trồng tăng
57
nhanh, từ 31,7% năm 90 lên 62% năm 2006. Trong cơ cấu nhóm ngành công
nghiệp - xây dựng, tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ giảm, phù hợp với
chủ trương tiết kiệm tài nguyên quốc gia, tỷ lệ công nghiệp chế biến tăng
nhanh. Đây là xu hướng tích cực trong quá trình vận động đến mục tiêu trở
thành nước công nghiệp vào năm 2020. Trong nhóm ngành dịch vụ, tỷ trọng
các ngành như khách sạn, nhà hàng, vận tải, du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm ... đề tăng. Đây là dấu hiệu đáng mừng bởi các ngành nêu trên từng
bước tạo lập kết cấu hạ tầng “mềm” cho nền kinh tế, phù hợp với xu hướng
phát triển của một nền kinh tế năng động, có độ mở cao.
Hình 2.4: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành (%)
100%
20.24
20.4
21.83
21.83
21
23.24
24.53
27.18
33
80%
38.1
60%
40.38
38
38.22
38.48
38.63
38.74
44.06
38.1
40%
41
41.5
20%
39.95
39.38
38.13
38.49
36.73
28.9
28.76
0%
1986
1995
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Công nghiệp
Dịch vụ
Nông nghiệp
Về cơ cấu thành phần và vùng kinh tế: Tỷ trọng kinh tế nhà nước tiếp
tục giảm (chiếm 38% năm 2006 so với 40,2% năm 1995). Tương tự, kinh tế
tập thể và kinh tế cá thể cũng giảm liên tục trong 5 năm trở lại đây. Kinh tế tư
nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh và đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn hẳn các khu vực kinh tế khác. Năm 2006, với làn sóng đầu tư
nước ngoài tăng mạnh, tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
sẽ tiếp tục tăng cao trong tương lai gần. Cơ cấu vùng kinh tế cũng có những
chuyển biến đúng hướng: Vừa tập trung phát triển các trọng điểm kinh tế, các
vùng kinh tế động lực, trọng điểm, vừa chú ý phát triển vùng sâu, vùng xa.
Các khu công nghiệp tập trung dần chuyển dịch ra xa các khu vực trung tâm,
một mặt tận dụng giá nhân công, tiền thuê đất, mặt khác góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế các vùng này theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp.
58
Thứ ba: Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam từ năm 1991 đến nay không ngừng
tăng trưởng. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2,4 tỷ USD,
năm 2003 đạt 20,14 tỷ USD, năm 2004 là 26,5 tỷ USD, năm 2005 đạt 32,5 tỷ
USD và năm 2006 đạt 39,6 tỷ USD gấp 16,5 lần so với năm 1990 và gấp 2,7
lần so với năm 2000. Năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
đứng thứ 6/11 nước trong khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 16/44 quốc gia và
vùng lãnh thổ Châu Á, xếp hạng 39/165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2006 đạt xấp xỉ 65% GDP, cao
gấp gần 3 lần so với tỷ lệ trung bình của các nước trên thế giới (22%) và là
năm thứ 4 liên tiếp tỷ trọng này vượt quá 50% GDP. Tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2006 đạt 22,1%, cao hơn tốc độ bình quân giai
đoạn 2001-2005 (17,4%).
Hình 2.5: Những sản phẩm xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD
9000
8000
Đơn vị: Triệu USD
7000
6000
5000
4000
3000
2000
1000
0
2001
2004
2005
2006
3126
5096
7390
8200
Dầu thô
1975
4386
4800
5800
Dệt may
1587
2692
3000
3592
Giày dép
1816
2401
2740
3358
Thuỷ sản
1000
1520
1933
Sản phẩm gỗ
1075
1442
1708
Hàng điện tử
1390
1278
Gạo
1300
cao su
Chủng loại hàng hoá XK cũng phong phú hơn, từ chỗ chỉ có một vài
59
mặt hàng nông sản đến nay đã mở rộng ra danh mục hàng trăm sản phẩm,
trong đó sản phẩm xuất khẩu của khu vực công nghiệp chế tạo có xu hướng
tăng nhanh hơn (năm 2004 hàng công nghiệp xuất khẩu chiếm 73,8%, có hơn
17 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 100 triệu USD/ năm, 9 mặt hàng đạt
kim ngạch xuất khẩu 500 triệu USD/ năm, 6 mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu trên 1 tỷ USD, 4 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hơn 2 tỷ). Năm 2006,
đã có tới 9 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD với tổng kim
ngạch của 9 mặt hàng này lên tới 28.398 triệu USD, chiếm 71,7% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước.
Vốn ODA cam kết cho 2007 cũng tăng đột biến, đạt 4,44 tỷ USD mặc
dù có những dự báo trước đó cho rằng nguồn vốn này sẽ giảm bởi ảnh hưởng
xấu từ vụ tham nhũng ở PMU 18. Hiện tại, vốn ODA chiếm khoảng 11% tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 17% vốn đầu tư từ ngân sách và bằng khoảng
50% vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Cũng trong năm 2006, Việt Nam trở thành thị trường bán lẻ có sức hấp
dẫn thứ 3 toàn cầu, thu hút được nhiều nhà đầu tư cũng như các tập đoàn bán
lẻ trên thế giới tham gia đầu tư. Theo kết quả đánh giá mức độ hấp dẫn của thị
trường bán lẻ trong 30 nền kinh tế mới nổi đối với các tập đoàn bán lẻ do
hãng tư vấn A.T. Kearney tiến hành khảo sát, mức độ hấp dẫn của thị trường
bán lẻ Việt Nam đã tăng năm bậc so với năm 2005, hiện chỉ đứng sau Ấn Độ
và Nga trong bảng xếp hạng. Cũng theo đánh giá của hãng tư vấn này, thị
trường Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng do GDP tăng liên tục, dân cư có độ
tuổi dưới 30 chiếm trên 50% dân số, tốc độ tiêu dùng của người dân cũng như
doanh số bán lẻ tăng nhanh qua các năm.
Thứ tư : Bùng nổ thị trường chứng khoán
Sau một thời gian dài hoạt động, năm 2006 đánh dấu sự bùng nổ của thị
trường chứng khoán với tổng giá trị vốn hoá tính đến hết tháng 2/2007 đạt
24,4% GDP năm 2006, gấp hơn 20 lần mục tiêu đề ra, thậm chí vượt cả kế
hoạch phát triển thị trường này đến 2010. Đến cuối năm 2006, tổng khối
lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường tăng khoảng 8 lần so với cùng thời
điểm năm 2005. Tính tới thời điểm 31/12/2006, tại hai trung tâm giao dịch
60
chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, các công ty niêm yết đã lên
đến con số 193, đạt tổng giá trị vốn hoá 221.156 tỷ đồng (tương đương 14 tỷ
USD), chiếm 22,7% GDP năm 2006. Cũng trong năm 2006, hàng loạt công ty
lớn như Bảo Minh, Ngân hàng Á châu (ACB), Ngân hàng Sài gòn Thương tín
(SACOMBANK) đã lên sàn, góp phần làm cho thị trường sôi động hơn,
phong phú hơn.
Hình 2.6 : Tổng giá trị giao dịch cổ phiếu thị trường niêm yết giai
đoạn 2000-2006
Đơn vị: Tỷ đồng
40000
37564.8
35000
30000
26877.96
25000
19877.15
20000
15000
10000
2991
5000
1034.72
1082.2
92.35
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Năm 2006, các trung tâm giao dịch chứng khoán đã tổ chức được 188
phiên đấu giá, cung cấp hơn 645 triệu cổ phiếu cho thị trường, đạt 84% tổng
số lượng chào bán, thu hơn 12.880 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp lựa chọn thị
trường chứng khoán như kênh huy động vốn chủ yếu, hiệu quả. Bên cạnh đó,
thị trường trái phiếu cũng khá sôi động với gần 400 loại trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với trị giá trên 70.000 tỷ
đồng, bằng 7,7% GDP cùng năm. Các công ty chứng khoán cũng phát triển
khá mạnh, tính đến 31/12/2006, cả nước có 55 công ty chứng khoán đang hoạt
động hoặc đã được cấp phép với tổng vốn điều lệ gần 4.025 tỷ đồng (riêng
trong năm 2006, số công ty chứng khoán được cấp phép là 41). Số tài khoản
giao dịch của các nhà đầu tư cũng tăng mạnh cùng với sự bùng nổ của thị
trường. Tính đến hết năm 2006, có gần 100.000 tài khoản giao dịch, trong đó
nhà đầu tư là tổ chức chiếm 502, số còn lại là các nhà đầu tư tư nhân, trong đó
61
có lượng không nhỏ là các nhà đầu tư nước ngoài. Theo nhận định của tờ
Wall Street Journal, chỉ tính trong tháng 1/2007 đã có khoảng 700 triệu USD tiền đầu tư gián tiếp đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam7, cho thấy sức
hấp dẫn và tốc độ tăng qui mô của thị trường non trẻ này.
Theo báo cáo của Birinyi Associates, trong năm 2006, Việt Nam đã
vượt lên trên Nga và Trung Quốc, trở thành quốc gia đứng thứ 3 trên thế giới
về lợi suất đầu tư chứng khoán, lên tới 145% (đứng sau Peru với lợi suất
168% và Venezuela với lợi suất 156%). Chỉ số VN - Index tăng 145% năm
2006 và trong hai tháng đầu năm 2007 đã tăng thêm 46%.
2.2.2. Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế Việt Nam bộc lộ những
hạn chế nhất định, ảnh hưởng trực tiếp đến tính ổn định và bền vững trong
quá trình phát triển.
Một là, chất lượng tăng trưởng chưa cao
Mặc dù tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng trong năm 2006 nhưng chất
lượng tăng trưởng là vấn đề cần quan tâm. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa vào
lượng vốn đầu tư trong khi hiệu quả đầu tư thấp. So sánh với năm 2005 có thể
thấy, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của năm 2006 cao hơn nhưng tăng trưởng kinh tế
thấp hơn. Tăng trưởng chưa thực sự bền vững, mức tăng trưởng còn thấp so
với tiềm năng. Tăng trưởng chủ yếu dựa vào các nhân tố theo chiều rộng, tận
dụng những lợi thế sẵn có với những ngành, sản phẩm truyền thống, nhiều lao
động, hao phí vật tư lớn mà chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực công
nghệ cao.
Mặc dù GDP tăng 25 năm liên tục nhưng do qui mô nền kinh tế nhỏ
nên dù tăng trưởng cao thì thực lực nền kinh tế vẫn chưa mạnh. Hơn nữa, nhìn
từ các yếu tố đóng góp vào tăng trưởng theo phương pháp tính năng suất các
yếu tố tổng hợp (TFP) cho thấy, phần đóng góp của vốn và lao động còn cao,
trong khi phần đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ còn thấp. Sự tăng
7 Nguyễn Văn Cầm (2007), Thực tế và lời đồn, Thời báo kinh tế Sài gòn số 10/2007.
62
trưởng đạt được chủ yếu do tăng vốn đầu tư và số lượng lao động chứ không
phải là do nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư, trình độ công nghệ và chất
lượng lao động. Điều này đe doạ tính bền vững trong hiện thời và tương lai,
tạo ra mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng (số lượng) và chất lượng, hiệu quả
tăng trưởng.
Xu hướng phát triển chủ yếu dựa vào yếu tố vốn đầu tư, trong khi đó,
vốn tự có thấp, chủ yếu phải đi vay từ nước ngoài, vay trong dân cư,… sẽ
khiến cho tăng trưởng thiếu tính bền vững, ổn định, dễ bị tác động từ các
yếu tố bên ngoài, đặc biệt từ sự biến động của thị trường vốn. Yếu tố lao
động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có lợi thế so sánh (như giá
rẻ, dồi dào…) thì chỉ đóng vai trò thấp hơn nhiều so với yếu tố vốn trong
tăng trưởng.
Xem xét các yếu tố cơ bản theo phương pháp tính năng suất nhân tố
tổng hợp (hiệu quả đầu tư, chất lượng lao động được thể hiện qua năng suất
lao động và tiến bộ khoa học công nghệ) sẽ nhận diện rõ hơn chất lượng tăng
trưởng của Việt Nam trong thời gian qua.
- Về hiệu quả đầu tư: Lượng vốn đầu tư liên tục tăng trong những năm
qua, năm 2000 vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế là 151,2 nghìn tỷ đồng
(bằng 34,2% GDP); năm 2005 tăng lên 335 nghìn tỷ đồng (bằng 40% GDP);
năm 2006 đạt 398,9 nghìn tỷ đồng (bằng 41% GDP). Tốc độ tăng về vốn đầu
tư thực hiện cao hơn tốc độ tăng GDP, tăng 22,3% (giai đoạn1991 – 1995); 12,2% (1996 – 2000) và 13,4% (2001 – 2006)8. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư lại
thấp và ngày càng giảm, thể hiện qua chỉ số ICOR còn khá cao và liên tục
tăng, cụ thể từ 2,7 (năm 1991) tăng dần lên 3,6 (năm 1997); tăng cao đột ngột
năm 1998 và 1999 tương ứng là 5,3 và 6,1; sau giai đoạn này, chỉ số ICOR có
giảm nhưng vẫn ở mức cao so với trước giai đoạn khủng hoảng, 4,9 (năm
2003) và lên cao nhất vào năm 2005 (6,93). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng đầu tư kém hiệu quả, hệ số ICOR cao, đó là: (1) Một phần là vì
8 Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2006-2007, Việt Nam và thế giới
63
nước ta đang trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
cần phải đầu tư nhiều vào các công trình xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ
tầng, là những dự án đòi hỏi số vốn đầu tư cao nhưng lại chậm thu hồi vốn,
nhất là các công trình lớn và nhiều năm nữa mới đi vào hoạt động; (2) Sự bất
hợp lý trong cơ cấu vốn đầu tư, cụ thể, chúng ta quá chú trọng vào những
ngành công nghiệp được xếp vào nhóm có sức cạnh tranh thấp, thu hồi vốn
chậm (mía, đường, sắt, thép, phân bón, giấy…), đầu tư vào các dự án cần nhiều
vốn nhưng sử dụng ít lao động; đầu tư dàn trải; (3) Khu vực nhà nước có hiệu
quả đầu tư thấp nhưng lại chiếm tỷ trọng cao (trên 50% trong giai đoạn 2000-
2006) Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, hệ số ICOR trong khu vực Nhà
nước là 7,2 trong khi đó ở khu vực tư nhân là 3,8 trong cả giai đoạn 2001-2006;
(4) Giám sát đầu tư còn bất cập trong hầu hết các khâu, từ quy hoạch, thiết kế,
dự toán, đấu thầu, thi công đến giám sát thi công, đồng thời, làm gia tăng thất
thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước và nguồn vốn ODA. Tham nhũng cũng là một trong những vấn đề
gay gắt hiện nay làm giảm hiệu quả đầu tư của nền kinh tế.
- Năng suất lao động xã hội: Một trong những nguyên nhân của chất
lượng tăng trưởng thấp là năng suất lao động xã hội không cao. Năng suất lao
động của nước ta hiện đang kém từ 2 đến 15 lần so với các nước trong khu vực
ASEAN. Năng suất lao động của nước ta tăng rất chậm, chỉ khoảng 4 -
5%/năm trong khi các nước trong khu vực tăng từ 10-15%/năm. Với tốc độ như
trên, khoảng cách về năng suất lao động sẽ ngày một cách biệt giữa Việt Nam
và các nước trong khu vực. Năng suất lao động thấp do một số nguyên nhân
sau: (1) Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay vẫn tập
trung chủ yếu vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản, tiếp theo là nhóm
ngành dịch vụ và cuối cùng là nhóm ngành công nghiệp - xây dựng. Tỷ lệ này
gần như ngược với các tỷ lệ tương ứng của các nước trong khu vực; (2) Chất
lượng lao động của nước ta còn rất yếu kém, xếp vào loại thấp. Tỷ lệ lao động
trẻ cao so với nhiều nước trong khu vực là một lợi thế của lao động Việt Nam.
Bên cạnh những ưu thế về thể chất, lao động trẻ thường là đội ngũ có học
64
thức, năng động, sáng tạo, ham hiểu biết, tiếp thu nhanh kỹ thuật và công
nghệ mới. Mặt khác, trình độ học vấn của lao động Việt Nam tương đối cao.
Tỷ lệ người biết chữ trong trong số lực lượng lao động xã hội là 94,3% (năm
2002). Bên cạnh những mặt mạnh nêu trên, lực lượng lao động của Việt Nam
bộc lộ nhiều hạn chế, số người được đào tạo nghề và kỹ năng chuyên môn quá
ít, năm 2002 mới chiếm có 19,62%. Sự khác nhau về trình độ văn hóa, về đào
tạo nghề và kỹ năng chuyên môn cũng biểu hiện khá rõ giữa lao động ở khu
vực nông thôn và khu vực thành thị, cũng như giữa lao động nữ và lao động
nam. Một hạn chế nữa của lao động Việt Nam là ý thức tổ chức kỷ luật, tác
phong công nghiệp rất yếu thể hiện ở lối sống vô tổ chức, vô kỷ luật, làm việc
tùy tiện, thiếu sự hợp tác giữa các thành viên với nhau v.v... ; (3) Trình độ
công nghệ của nước ta còn thấp nên trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lao động.
Ngoài ra, hiệu quả quản lý kém, nguồn lực sử dụng không hiệu quả … cũng là
những yếu tố làm giảm năng suất lao động.
- Khoa học công nghệ: Đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất ở nước ta trong những năm qua mặc dù đã
có những tiến triển khả quan, tác động đến tăng trưởng trong nhiều lĩnh vực,
góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới, có giá trị kinh tế cao, song vẫn chưa tạo
nên bước đột phá trong tỷ lệ đóng góp của tiến bộ khoa học công nghệ vào
tăng trưởng. Theo tiêu chí đầu tư cho nghiên cứu và triển khai (R&D) bình
quân trên cán bộ nghiên cứu, Việt Nam thấp hơn Thái Lan 4 lần, Trung Quốc
7 lần, 8 lần so với Malaysia và 26 lần so với Singapore. Đáng lưu ý là đầu tư
R&D của khu vực ngoài Nhà nước đang còn quá thấp, mới đạt khoảng 19%
trong tổng số. So sánh tỷ trọng này với các nước trong khu vực cho thấy, hầu
hết các quốc gia láng giềng, khu vực ngoài nhà nước có tỷ trọng đầu tư R&D
cao, chẳng hạn Trung Quốc là 45%, Malaysia 60% và Nhật Bản đạt trên 72%.
Cuộc điều tra trên 7.850 doanh nghiệp công nghiệp của Tổng cục Thống kê
trong năm 2005 cũng cho thấy, chỉ có 3,86% trong số 293 doanh nghiệp đầu
tư vào nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ, tỷ lệ này bằng hơn 50% so
65
với kỳ điều tra của năm 2002 (chiếm 6,14%). Mặc dù chế biến là ngành được
khuyến khích mạnh mẽ, nhưng chỉ có 38 doanh nghiệp sản xuất thực phẩm và
đồ uống (chiếm 3,4% số doanh nghiệp) đầu tư vào khoa học công nghệ.
Số lượng các bằng phát minh sáng chế trên một người dân chỉ bằng
1/11 so với Trung Quốc và Thái Lan, bằng 1/88 so với Singapore. Năng lực
nghiên cứu cơ bản và phát triển công nghệ mặc dù được đánh giá là có tiến
bộ khả quan song mới chỉ thể hiện dưới dạng tiềm năng. Số lượng các cơ
quan khoa học công nghệ so với các nước là không nhiều.
Trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, lạc hậu
3 - 4 thế hệ so với những nước công nghiệp phát triển, đứng thứ 92 trong số
117 nước được điều tra (WEF 2005 - 2006). Chuyển giao công nghệ chưa có
những tiến bộ cần thiết, đặc biệt trình độ công nghệ thông tin còn rất thấp. Tỷ
trọng doanh nghiệp có công nghệ cao mới đạt 20,6%, thấp xa so với các nước
ASEAN; rất ít doanh nghiệp quan tâm đến thông tin về khoa học và công
nghệ, chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp đạt được trình độ tiên tiến (phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)9.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu lao động không
chuyển đồng bộ với cơ cấu kinh tế
Mặc dù cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng và tích cực, song còn
chậm, chưa đáp ứng yêu cầu của cơ cấu kinh tế hiện đại theo hướng công
nghiệp hoá. So sánh với một số nước trong khu vực cho thấy, tỷ trọng các
ngành trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam vẫn chưa thể đạt đến mức là một
nước có nền kinh tế phát triển. Chẳng hạn ở Nhật Bản, tỷ trọng nông nghiệp chỉ
chiếm 2% GDP, ngành dịch vụ chiếm tới 61%; Hàn Quốc tỷ trọng nông nghiệp
chỉ chiếm 6% GDP, dịch vụ chiếm tới 51%. Ngành công nghiệp chế tác, một
phân ngành quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hóa đóng một vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế đang phát triển. Tỷ trọng của ngành này luôn chiếm
khoảng 2/3 trong tỷ lệ đóng góp của ngành công nghiệp trong GDP. Tuy nhiên,
ở Việt Nam, tỷ lệ này vẫn còn thấp, chiếm chưa đến 50%.
9 Kết quả phân tích trên 42.000 doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành phố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cuối
năm 2005.
66
Bảng 2.3: Cơ cấu kinh tế các nước Đông Á năm 1999
Đơn vị: %
Nông
Dịch
Nước
Công nghiệp
nghiệp
vụ
Trung Quốc
18
49 (CN chế tác chiếm 37%)
33
Hàn Quốc
6
43 (CN chế tác chiếm 26%)
51
Malaysia
12
48 (CN chế tác chiếm 34%)
40
Thái Lan
11
40 (CN chế tác chiếm 29%)
49
Việt Nam
25,5
34,5 (CN chế tác chiếm 17,7%)
40
Nhật Bản
2
37 (CN chế tác chiếm 24%)
61
Philippine
17
32 (CN chế tác chiếm 22%)
51
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Tốc độ chuyển dịch cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp còn rất chậm chạp,
tuy tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp có giảm nhưng vẫn khá lớn, tỷ trọng
giá trị ngành chăn nuôi, ngành thủy sản vẫn còn thấp. Tỷ trọng chăn nuôi trong
thời gian tới có nguy cơ giảm xuống do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm sẽ
khiến cho đầu tư vào ngành chăn nuôi gia cầm bị hạn chế. Những cạnh tranh,
tranh chấp đối với thủy sản Việt Nam gần đây, những đe dọa của thiên tai bất
thường, những khó khăn về giới hạn năng lực sản xuất và diện tích canh tác đối
với ngành thủy sản cũng khiến cho ngành này đang phải đứng trước nguy cơ tỷ
trọng sẽ giảm trong thời gian tới. Năm 2006, tốc độ tăng giá trị sản xuất nông -
lâm - thuỷ sản đạt 4,4%, trong đó nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng 3,6%, con số tương ứng với lâm nghiệp và thuỷ sản là 1,2% và 7,7%10.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị dịch vụ là xu thế chủ đạo trong chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của các nước phát triển, phù hợp với sự phát triển nhanh chóng
của tiến bộ công nghệ và phát triển nền kinh tế tri thức. Trong khi đó ở Việt
Nam, tỷ trọng giá trị dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế tăng với tốc độ chậm,
thậm chí còn có xu hướng giảm tính từ năm 2004 đến nay. Các ngành dịch vụ
cơ bản (khách sạn, nhà hàng, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc…) có tác
10 Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2006-2007, Việt Nam và thế giới
67
dụng thúc đẩy sự phát triển của các phân ngành dịch vụ khác lại gần như
không có sự tăng trưởng. Trong 10 năm (1995 - 2005), tỷ trọng của các ngành
dịch vụ cơ bản chỉ chiếm dao động khoảng 46%, phân ngành khách sạn, nhà
hàng trong nhiều năm vẫn giữ ở mức 7,9%, trong khi đó phân ngành thương
nghiệp và sửa chữa vật phẩm tiêu dùng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao,
40,1%. Ngành vận tải và thông tin liên lạc là hai ngành tác động trực tiếp và
không thể thiếu đối với các ngành sản xuất cũng chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm
tốn là 9,2% năm 1995 và tăng lên 9,6% trong năm 2004. Các dịch vụ cao cấp
như ngân hàng, tài chính, chuyển giao công nghệ đang trong giai đoạn hình
thành nên năng lực cạnh tranh vẫn còn thấp kém.
Tỷ trọng công nghiệp khá cao trong GDP và đang có chuyển dịch đúng
hướng. Mặc dù cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp chuyển dịch theo hướng
tăng dần tỷ trọng khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài nhưng tỷ trọng khu vực nhà nước vẫn còn cao, chiếm 31,8% năm 2006.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nhà nước
đạt thấp nhất trong 3 khu vực, chỉ đạt 9,11% năm 2006 so với 18,8% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và 23,9% khu vực ngoài nhà nước11. Đây cũng
là nhân tố làm giảm tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành năm 2006.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo ngành cho thấy, ngành khai thác mặc dù liên
tục giảm tỷ trọng theo cơ cấu nội bộ ngành nhưng vẫn còn khá cao, chiếm
7,8% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 2006. Tính gia công trong ngành
công nghiệp còn cao, thể hiện nền công nghiệp mang tính phụ thuộc và mang
lại giá trị gia tăng thấp. Tỷ trọng số doanh nghiệp công nghệ cao của Việt
Nam mới đạt 20,6% trong tổng số (năm 2006), thấp hơn nhiều các nước trong
khu vực (Philippine: 29,1%; Indonesia: 29,7%; Thái lan: 30,8%; Malaysia:
51,1 và Singapore: 71%).
Mức đóng góp của xuất khẩu cho tốc độ tăng trưởng GDP đang ngày
cao và có xu hướng tăng, trung bình là 19%/năm. Năm 2004, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam đạt 26,485 tỷ USD, trở thành nước đứng thứ 50 trong
danh sách 50 quốc gia và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa lớn nhất thế giới.
11 Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 2006-2007, Việt Nam và thế giới
68
Năm 2005 đạt 32,419 tỷ USD và năm 2006 đạt 39,605 tỷ USD.
Tuy tốc độ tăng của xuất khẩu khá cao nhưng tốc độ tăng của nhập
khẩu cũng tăng mạnh. Kim ngạch nhập khẩu luôn lớn hơn xuất khẩu dẫn đến
tình trạng cán cân thương mại của Việt Nam luôn ở tình trạng thâm hụt. Cụ
thể, năm 2006, trong khi xuất khẩu của Việt Nam đạt kim ngạch 39,605 tỷ
USD thì nhập khẩu là 44,41 tỷ USD (nhập siêu 4,805 tỷ USD và tỷ lệ nhập
siêu năm 2006 là 12,1%). Mặc dù nhập siêu không hoàn toàn mang tín hiệu
xấu đối với nền kinh tế bởi đây là xu hướng chung của các nước đang tiến
hành công nghiệp hoá, nhưng cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam còn nhiều
bất cập, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nói chung cũng
như tính bền vững trong kim ngạch xuất nhập khẩu, thể hiện:
- Xuất khẩu đã tăng trưởng rất nhanh trong thời kỳ sau đổi mới, nhưng
cơ cấu xuất khẩu lại hầu như không có nhiều thay đổi, chỉ thiên về xuất khẩu
nông sản chưa chế biến (lúa gạo, cà phê, thủy sản,…) và khoáng sản (chủ yếu
là dầu thô), những mặt hàng có hàm lượng công nghệ, chất lượng cao xuất
khẩu còn ít. Tỷ trọng hàng hóa công nghệ cao xuất khẩu trên tổng giá trị chế
biến hàng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu
vực như Thái lan, Malaysia, Trung Quốc …
- Mạng lưới các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ trực tiếp cho các
hoạt động sản xuất để xuất khẩu chưa phát triển. Ngành sản xuất xuất khẩu
của Việt Nam chủ yếu là nhập khẩu nguyên liệu để gia công như ngành da
giày, may mặc,…
- Tỷ trọng hàng nhập khẩu phục vụ cho tiêu dùng và nguyên, vật liệu
trong cơ cấu hàng nhập khẩu tuy đã giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ
trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ còn thấp.
Như vậy, tuy đã có những sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế,
nhưng nhìn một cách tổng thế, cơ cấu kinh tế Việt Nam vẫn còn lạc hậu. Hiện
tại cơ cấu kinh tế của Việt Nam giống như cơ cấu kinh tế của một số quốc gia
ASEAN đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX.
Ba là, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Trong thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp
69
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, nhưng nhìn chung, chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn kém. Xếp hạng năng lực cạnh tranh
của nước ta rất thấp và liên tục tụt bậc trong bảng xếp hạng năng lực cạnh
tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong những năm gần đây.
Theo công bố trong báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2006-2007 của
WEF, thứ hạng của Việt Nam xếp theo Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp là
77 trên 125 quốc gia, chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng là 86. Trong khi
đó thứ hạng tương ứng theo các chỉ số trên của Việt Nam tại báo cáo năm
2005-2006 là 74 và 81, trong tổng số 117 quốc gia được xếp hạng. Như vậy,
thứ hạng của Việt Nam theo các chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp và tăng
trưởng năm 2006 đều sụt giảm so với năm 2005.
Mặc dù mới được sử dụng trong thời gian ngắn, nhưng chỉ số năng lực
cạnh tranh tổng hợp được WEF dùng để đo lường năng lực cạnh tranh quốc
gia. Chỉ số này cho phép so sánh điểm số xếp hạng qua các năm của từng
quốc gia để mỗi nước nhận thấy sự thay đổi của mình. Năm 2005, điểm số
xếp hạng năng lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam tăng so với năm 2004,
nhưng Việt Nam vẫn bị giảm hạng do nhiều quốc gia khác có tiến bộ hơn.
Năm 2006, điểm số xếp hạng của Việt Nam lại gần như không thay đổi, trong
khi nhiều nước vẫn tiếp tục cải thiện năng lực cạnh tranh của bản thân họ. Kết
quả này dường như cho thấy những nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia của Việt Nam trong năm qua là chưa nhiều và do vậy chưa đủ để giúp
Việt Nam cải thiện về thứ hạng.
Hạng năm 2006
Tăng (+)/giảm (-) hạng
Bảng 2.4: Xếp hạng năng lực cạnh tranh tổng hợp của Việt Nam 2005-2006
Hạng năm 2005 Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm -0.02
3.91
3.89
77
74
-3
Chỉ số năng lực cạnh tranh
tổng hợp 1 Thể chế 2 Hạ tầng 3 Kinh tế vĩ mô 4 Y tế và giáo dục cơ bản 5 Đào tạo và giáo dục bậc cao 6 Hiệu quả thị trường 7 Sự sẵn sàng về kỹ thuật 8 Trình độ kinh doanh 9 Đổi mới và sáng tạo
3.62 2.79 4.63 6.43 3.39 4.10 2.85 3.55 3.10
63 85 44 54 88 56 81 88 57
3.66 2.69 4.69 6.69 3.32 4.12 2.74 3.55 3.18
-11 2 -9 -2 -2 -17 -4 2 -18
-0.04 0.10 -0.06 -0.26 0.07 -0.02 0.11 0.00 -0.08
74 83 53 56 90 73 85 86 75
Nguồn: Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu 2006- 2007, Diễn đàn Kinh tế thế giới.
70
Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp được xây dựng trên cơ sở đo
lường các yếu tố có tác động lớn tới năng suất và năng lực cạnh tranh quốc
gia. Các yếu tố này được phân loại thành 9 nhóm nhân tố thể hiện năng suất
và năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm: thể chế, hạ tầng, kinh tế vĩ mô,
giáo dục cơ bản và y tế, giáo dục và đào tạo bậc cao, hiệu quả thị trường, mức
độ sẵn sàng về công nghệ, trình độ kinh doanh và đổi mới.
Có thể thấy 7 trong số 9 trụ cột năng lực cạnh tranh của Việt Nam có
thứ hạng giảm, trong đó đáng lưu ý là trụ cột về hiệu quả thị trường, giảm 17
hạng, thể chế giảm 11 hạng, kinh tế vĩ mô giảm 9 hạng. Việt Nam đã có sự
cải thiện thứ hạng về phát triển hạ tầng và trình độ kinh doanh, nhưng mức độ
thăng hạng không nhiều (2 hạng). Điều đáng lưu ý là hầu hết các trụ cột bị
giảm hạng đều có điểm xếp hạng giảm, nhất là lĩnh vực y tế và giáo dục cơ
bản. Như vậy, sự sụt giảm trong bảng xếp hạng có nguyên nhân từ chính các
chỉ số trụ cột của Việt Nam. Điều này nói lên chúng ta tự yếu đi so với chính
chúng ta 1 năm trước đó. Nếu đặt trong bối cảnh chung, khi mà các quốc gia
không ngừng cải thiện năng lực cạnh tranh thì thứ hạng có thể còn thấp hơn
nhiều. Đây là tín hiệu cảnh báo đáng chú ý đối với nền kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp, WEF còn dung chỉ số
năng lực cạnh tranh tăng trưởng để đo lường năng lực cạnh tranh của quốc
gia. Chỉ số này đo lường các yếu tố vĩ mô tác động tới tăng trưởng quốc gia.
Chỉ số này được xây dựng trên ba yếu tố cơ bản được coi là các trụ cột cho
tăng trưởng của nền kinh tế: công nghệ, thể chế công và ổn định môi trường
kinh tế vĩ mô. Tương tự như chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp, chỉ số năng
lực cạnh tranh tăng trưởng bị giảm hạng với điểm xếp hạng gần như không
thay đổi. Cả ba trụ cột của tăng trưởng kinh tế và hầu hết các chỉ số cấu thành
đều có thứ hạng giảm. Các chỉ số có thứ hạng giảm nhiều nhất là chuyển giao
công nghệ: giảm 33 hạng, sự lãng phí của khu vực nhà nước: giảm 18 hạng,
ổn định kinh tế vĩ mô: giảm 8 hạng…
Xét về điểm xếp hạng có thể thấy, ngoại trừ chỉ số lãng phí của khu
vực nhà nước có điểm xếp hạng giảm mạnh (giảm 0,33 điểm), các chỉ số khác
71
có điểm xếp hạng đều tăng hoặc ít thay đổi. Đáng lưu ý là chỉ số chống tham
nhũng có điểm xếp hạng tăng cao nhất, 0,25 điểm. Hơn nữa, chỉ số chuyển
giao công nghệ và đánh giá tín nhiệm quốc gia thuộc nhóm có thứ hạng giảm
mạnh nhưng điểm số xếp hạng lại tăng đáng kể.
Hạng năm 2006
Tăng (+)/giảm (-) hạng
Bảng 2.5: Năng lực cạnh tranh tăng trưởng của Việt Nam 2005-2006
Hạng năm 2005 Hạng Điểm Hạng Điểm Hạng Điểm 0.07
3.44
3.37
- 5
86
81
-4 -6 2
0.14 -0.01 0.15
1
96 94 84 102
2.86 1.86 2.19 4.08
92 88 86 69
2.72 1.87 2.04 3.92
-33 -6
0.16 0.15
2
103 68
3.58 3.74
97 64
3.43 3.71
-4 -5 -8 -11 -23
0.03 0.25 -0.08 -0.05 0.10
3
116 68 45 75 91
3.41 3.88 4.75 3.34 2.68
111 60 34 52 73
3.16 3.96 4.80 3.24 3.01
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng Chỉ số công nghệ Chỉ số đổi mới Chỉ số công nghệ thông tin Chỉ số chuyển giao công nghệ Chỉ số thể chế công Chỉ số pháp luật và hợp đồng Chỉ số tham nhũng Chỉ số môi trường vĩ mô Chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô Chỉ số đánh giá tín nhiệm Chỉ số đánh giá sự lãng phí của khu vực nhà nước
-18
-0.33
Nguồn: Báo cáo Năng lực Cạnh tranh Toàn cầu 2006- 2007, Diễn đàn Kinh tế thế giới. (WEF - Global Competitiveness Report)
Số liệu WEF công bố cho thấy Việt Nam đã có những nỗ lực nhất định
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh các nước
khác cũng nỗ lực cải thiện yếu tố này thì thấy những tiến bộ của Việt Nam
chưa theo kịp với tốc độ thay đổi chung. Ngoài ra, một số chỉ số có tốc độ cải
thiện nhanh, nhưng bên cạnh đó, vẫn còn những chỉ số quan trọng khác như
chống tham nhũng, tình trạng lãng phí trong khu vực nhà nước … ít được cải
thiện, thậm chí có dấu hiệu tụt lùi.
Bốn là, một vài chỉ số đánh giá, xếp hạng khác
Đây là các chỉ số đánh giá, xếp hạng của một số tổ chức quốc tế được
tiến hành định kỳ hàng năm nhằm cung cấp bức tranh tổng quát về kinh tế
toàn cầu theo những tiêu chí nhất định. Mặc dù không phải là các chỉ số thuần
tuý kinh tế, phương pháp đánh giá cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng
kết quả công bố có thể có những ảnh hưởng đến các nhà đầu tư hiện hữu cũng
72
như các đối tác tiềm năng trong tương lai.
- Chỉ số nhận biết tham nhũng (Corruption Perception Index - CPI):
Theo đánh giá, xếp hạng của Tổ chức Minh bạch quốc tế, năm 2006, Việt
Nam xếp thứ hạng 111 trong tổng số 163 quốc gia được điều tra về mức độ
tham nhũng dưới góc nhìn của giới doanh nhân, học giả và chuyên gia phân
tích rủi ro. Thang bậc đánh giá được xếp từ 10 (rất trong sạch) đến 0 (tham
nhũng đặc biệt nghiêm trọng), Việt Nam được 2,6 điểm, ngang hàng với Lào,
Nicaragoa, Yemen, Zambia, đứng trên Philippines (2,5 điểm), Indonesia (2,4),
Campuchia (2,1), Nga (2,5) nhưng đứng sau các nước láng giềng như
Malaysia (5), Thái lan (3,6).
Bảng 2.6: Điểm số CPI của Việt Nam qua các năm
Năm
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Điểm
2,79 2,5
2,6
2,5
2,6
2,4
2,4
2,6
2,6
2,6
Xếp hạng
43
74
75
76
75
85
100 102 107 111
Tổng số nước 52
85
99
90
91
102 133 146 159 163
Nguồn: Tổ chức Minh bạch Quốc tế (www.transparency.org).
Trong khi hầu hết các quốc gia trong khu vực, tình trạng tham nhũng
được cải thiện (Hàn Quốc tăng 0,5 điểm; Nhật Bản tăng 0,4 điểm; Thái Lan tăng 0,2 điểm ...) thì Việt Nam hầu như không được cải thiện (2,6 điểm trong giai đoạn 2004-2006), luôn thấp hơn mức trung bình của thế giới, dao động trong khoảng từ 2,4-2,7 điểm trong suốt 10 năm qua (các quốc gia có chỉ số này dưới 3 điểm được xếp vào nhóm tham nhũng nghiêm trọng).
- Rủi ro kinh tế và chính trị: Tổ chức Tư vấn rủi ro kinh tế và chính trị xếp Việt Nam đứng thứ hai ở Châu Á năm 2005 (sau Indonesia) về tham nhũng. Đáng chú ý là bảng phân tích năm 2006 của tập đoàn Aon và Oxford
công bố, theo đó Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguy cơ trung bình cao đối với các rủi ro về kinh tế, rủi ro liên quan đến ngoại hối, rủi ro liên
quan tới thể chế và tư pháp, rủi ro về can thiệp mang tính chính trị vào các hoạt động kinh tế. Ngoài ra, tổ chức Thông tin kinh tế của tạp chí uy tín The Economist trong bảng phân tích rủi ro quốc gia công bố tháng 12/2006 cho
thấy, Việt Nam xếp ở mức độ ít rủi ro nói chung và về khả năng trả nợ nước ngoài, chính sách tiền tệ, ngân hàng và chính trị, nhưng có mức rủi ro trung bình về cơ cấu kinh tế, lạm phát và năng lực cạnh tranh xuất khẩu. Tuy nhiên,
73
theo tổng hợp từ kết quả công bố của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Diễn
đàn kinh tế Thế giới và Tổ chức Minh bạch quốc tế, Việt Nam có mức độ rủi ro rất cao về quản trị doanh nghiệp, xếp hạng 127 trên tổng số 132 quốc gia
được điều tra.
- Chỉ số tự do kinh tế: Theo kết quả công bố ngày 16/1/2007 về chỉ số tự do kinh tế do Quĩ Heritage phối hợp với tạp chí The Wall Street Journal,
Việt Nam đứng thứ 138 trên tổng số 157 quốc gia trên toàn cầu được khảo sát và đứng thứ 25 trên tổng số 30 quốc gia ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Mặc dù chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam liên tục được cải thiện tính
từ năm 1995 trở lại đây, nhưng hiện vẫn thấp hơn mức trung bình chung của thế giới và của Châu Á (năm 2006, chỉ số trung bình của Việt Nam là
500/100, chỉ số trung bình của các nước trên thế giới là 60,6 và của Châu Á là 59,1). Mức độ thuận lợi trong kinh doanh năm 2006 của Việt Nam theo công bố của Ngân hàng Thế giới ở vị trí 104/175 nền kinh tế, thấp hơn các quốc gia
trong khu vực như Singapore, Thái lan, Trung Quốc.
- Chỉ số môi trường kinh doanh12: Theo Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2008 do Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) và Ngân hàng Thế giới
phối hợp thực hiện cho thấy, Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp trong lĩnh vực tiếp cận tín dụng bằng việc mở rộng phạm vi tài sản có thể sử dụng để thế chấp. Bên cạnh đó, bản báo cáo cũng chỉ ra những lĩnh vực cần cải thiện như bảo vệ nhà đầu tư, giải thể doanh nghiệp và đóng thuế. Năm 2007, Việt Nam xếp hạng thứ 91/178 nền kinh tế, cải thiện đáng kể
so với thứ hạng 104/175 nền kinh tế vào năm 2006. Năm trước đó, Việt Nam đã bị tụt 6 bậc.
Bảng 2.7: So sánh mức xếp hạng của các năm trước
2005 2006 2007 Thay đổi thứ hạng
Mức độ thuận lợi/dễ dàng trong: Kinh doanh nói chung Thành lập doanh nghiệp Xin giấy phép các loại Tuyển dụng và sa thải lao động Đăng ký quyền sở hữu tài sản Tiếp cận nguồn vốn tín dụng Bảo vệ lợi ích nhà đầu tư Nộp thuế
98 89 28 137 30 76 170 116
104 97 25 104 34 83 170 120
91 97 63 84 38 48 165 128
+13 0 -38 +20 -4 +35 +5 -8
12 Được IFC và WB phát hành hàng năm, Báo cáo Môi trường Kinh doanh đánh giá mức độ thuận lợi về môi trường kinh doanh của một nền kinh tế dựa trên 10 yếu tố: Thành lập doanh nghiệp, Cấp giấy phép, Tuyển dụng và sa thải lao động, Đăng ký tài sản, Vay vốn tín dụng, Bảo vệ nhà đầu tư, Đóng thuế, Thương mại quốc tế, Thực thi hợp đồng và Giải thể doanh nghiệp.
74
Xuất nhập khẩu hàng hóa Bảo đảm thực thi hợp đồng thương mại Giải quyết phá sản
68 90 105
75 94 116
63 40 121
+12 +54 -5
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới)
Phân tích từng chỉ số thành phần cho thấy, một số được cải thiện mạnh
nhưng cũng có nhiều chỉ số bị tụt hạng. Về bảo vệ nhà đầu tư, Việt Nam nằm
trong số những quốc gia kém nhất trước sự lạm dụng tài sản doanh nghiệp của
giám đốc hay thành viên hội đồng quản trị. Về giải thể doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay còn nhiều bất cập như thủ tục khó khăn, mất thời gian. Về đóng
thuế, báo cáo chỉ rõ các doanh nghiệp ở Việt Nam mất khá nhiều thời gian
thực hiện các nghĩa vụ thuế, trung bình 1.050 giờ/năm, tương đương với 130
ngày làm việc.
Tiêu chí thành phần
Thuận lợi trong kinh doanh (xếp hạng tổng quát)
Thủ tục (số bước) Thời gian (ngày) Chi phí (% thu nhập đầu người) Vốn tối thiểu
Thủ tục (số bước) Thời gian (ngày) Chi phí (% thu nhập đầu người)
Tuyển dụng nhân công
Độ khó trong tuyển dụng (0-100) Độ khó trong sa thải (0-100) Chi phí lao động ngoài lương (% lương) Chi phí sa thải (số tuần lương)
Thủ tục (số bước) Thời gian (ngày) Chi phí (% giá trị tài sản)
Số khoản (tính theo năm) Thời gian (giờ/năm) Tỷ trọng thuế trên lợi nhuận
Bảng 2.8: Xếp hạng chi tiết của Việt Nam (Chi phí tính theo đô la Mỹ) Thứ hạng 91 97 11 50 20 0 63 13 194 373,6 84 0 40 17 87 38 4 67 1,2 48 165 128 32 1.050 41,1 63 6 24 669 8 23 881
1 Khởi nghiệp 2 Xin giấy phép 3 4 Đăng ký tài sản 5 Tiếp cận tín dụng 6 Bảo vệ nhà đầu tư 7 Đóng thuế 8 Xuất nhập khẩu
Số giấy tờ để xuất khẩu Thời gian để xuất khẩu (ngày) Chi phí xuất khẩu (tính trên container) Số giấy tờ để nhập khẩu Thời gian để nhập khẩu (ngày) Chi phí nhập khẩu (tính trên container)
75
Thực thi hợp đồng
Thủ tục (số bước) Thời gian (ngày) Chi phí (% nợ đòi) Giải thể doanh nghiệp
9 10 Thời gian (năm)
Chi phí (% tài sản) Tỷ lệ thu hồi
40 34 295 31 121 5 15 18
Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài gòn, số 40, tr 7.
Báo cáo môi trường kinh doanh cũng cho thấy, mặc dù Việt Nam đã nỗ lực cải cách trên nhiều lĩnh vực, nhưng nhiều tiêu chí thành phần vẫn chưa được cải thiện, môi trường kinh doanh chung không thay đổi nhiều, trong khi
các nước khác đã thực thi nhiều biện pháp nhằm cải thiện môi trường này.
- Chỉ số tổng hợp điểm mạnh, điểm yếu: Theo kết quả khảo sát khu vực Đông Á của Ngân hàng Thế giới năm 2006, rất nhiều chỉ số của Việt
Nam thấp hơn mức trung bình trong khu vực, trong đó có nhiều chỉ số quan trọng như hiệu quả huy động thu ngân sách, thương mại, khu vực tài chính,
môi trường điều tiết ...
.
Quản lý kinh tế vĩ mô
5
Chính sách tài chính
M inh bạch, trách nhiệm giải trình tham nhũng
4
Chất lượng dịch vụ hành chính công
Chính sách nợ
3
Hiệu quả huy động thu ngân sách
2
Thương mại
1
Tài chính công
Khu vực tài chính
0
Quyền sở hữu và quản trị quốc gia
M ôi trường điều tiết
Chính sách và thể chế
Bình đẳng giới
An sinh xã hội
Công bằng trong sử dụng nguồn lực
Nguồn nhân lực
Hình 2.7 : Điểm mạnh và điểm yếu của Việt Nam
Việt Nam
Đông Á
Có thể các chỉ số nói trên không đánh giá được toàn diện thực trạng của
76
các lĩnh vực đã điều tra vì các số liệu được phân tích dựa trên các điều tra
mẫu trong những phạm vi nhất định. Ngoài ra, các chỉ số chủ yếu phục vụ cho
các mục tiêu của cơ quan nghiên cứu của chính những tổ chức đó, nên các
tiêu chí được xây dựng theo những yêu cầu nhất định, vì vậy, còn không ít ý
kiến khác nhau về kết quả đã được công bố. Tuy vậy, với nhiều tiêu chí khác
nhau của các tổ chức khác nhau, nhưng tổng hợp các kết quả cho thấy, Việt
Nam đang đối mặt với thực tiễn đáng lo ngại về các chỉ số xếp hạng nói
chung. Có thể Việt Nam đã cải thiện được nhiều chỉ số riêng lẻ, nhưng xét về
tổng thể, những kết quả đạt được chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nếu so
sánh với chính chúng ta, những thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực là
không thể phủ nhận, góp phần làm cho Việt Nam tốt hơn về nhiều mặt. Tuy
nhiên, các quốc gia khác cũng không ngừng cải cách và cải cách nhanh hơn
chúng ta, do đó Việt Nam khó có những đột biến về xếp hạng nếu thiếu những
77
biện pháp quyết liệt, đồng bộ.
CHƯƠNG 3 TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP KHI GIA NHẬP WTO
3.1. Khái quát hiện trạng công nghiệp Việt Nam
3.1.1. Thành tựu
Nhìn lại thành tựu phát triển công nghiệp sau hơn 20 năm đổi mới có thể thấy vai trò của ngành đang được nâng cao, đóng góp ngày càng lớn tới phát triển kinh tế nói chung. Những đổi mới từ chủ trương, chính sách của
Đảng, cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước với sự nỗ lực của các doanh nghiệp đã đưa công nghiệp trở thành ngành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh
tế quốc dân. Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh cả số lượng ngành nghề, số cơ sở sản xuất, loại hình doanh nghiệp, tổng vốn đầu tư, kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng và giá trị tổng sản phẩm trong nước.
Số lượng, lĩnh vực ngành nghề từng bước được mở rộng, từ những ngành nghề công nghiệp truyền thống như khai thác (dầu khí, than đá), gia công (dệt may, lắp ráp), trong quá trình phát triển, ngành công nghiệp chuyển
dần sang những lĩnh vực mới, mang lại giá trị gia tăng cao, như công nghệ thông tin, hoá dầu, sản xuất linh kiện điện tử... Bên cạnh đó, quá trình đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ được đẩy nhanh, góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh ngành, sản phẩm; nhiều doanh nghiệp mới với công nghệ hiện đại được thành lập. Với những kết quả đó, hoạt động sản xuất công nghiệp
phát triển mạnh, đưa tổng giá trị sản xuất toàn ngành đạt mức tăng trưởng cao và liên tục.
Hình 3.1: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế (tỷ đ)
Tỷ đ 1000000
800000
600000
400000
200000
0
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Nguồn: Tổng cục Thống kê; Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2006-2007.
78
Hình3.2: Công nghiệp Việt Nam 2001-2007 (%)
30
20
10
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
7t/2007
14.6
14.8
16
16
17.1
17
17
Giá trị sản xuất CN
12.7
12.5
12.7
11.2
7.2
9.3
9.7
Khu vực DNNN
21.5
18.3
18.7
21
25.4
23.9
20.4
Ngoài nhà nước
12.6
15.2
18.1
15.7
21.2
18.8
18.9
FDI
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Những thành tựu nổi bật trong thời gian qua trên lĩnh vực công nghiệp
có thể kể đến là:
- Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp ngày càng quan trọng đối với tăng trưởng chung của cả nền kinh tế: Công nghiệp luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, trở thành ngành có vị trí quan trọng hàng đầu, chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Trong giai đoạn 1992 - 2006, công nghiệp luôn đạt được tốc độ tăng trưởng GDP trên 10% (trừ năm 1998 và 1999). Đóng góp của công nghiệp trong tăng trưởng chung đạt trung bình
trên 50% trong giai đoạn 1986-2006.
Hình3.3: Đóng góp vào tăng trưởng GDP của công nghiệp (%)
40.1
2006
50.8
9.1
40.52
2005
49.71
9.78
37.72
2004
50.48
11.8
35.86
2003
53.37
10.76
37.85
2002
48.95
13.2
36.54
2001
53.39
10.07
Công nghiệp Nông nghiệp Dịch vụ
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
79
Năm 2001, tỷ lệ tăng trưởng GDP của nền kinh tế đạt 6,89%, trong đó
nông, lâm, ngư nghiệp chỉ đóng góp được 10,07% và dịch vụ đóng góp 36,54%,
công nghiệp đóng góp tới 53,39%. Đến năm 2006, tỷ lệ tăng trưởng của cả nền
kinh tế là 8,17%, phần đóng góp của nông, lâm, ngư nghiệp chỉ còn 9,1%, phần
đóng góp của dịch vụ tăng lên 40,1%, công nghiệp vẫn đóng góp tới 50,8%.
Hình 3.4: Đóng góp của công nghiệp trong cơ cấu GDP giai đoạn 2001-2006 (%)
Dịch vụ, 38.09
Công nghiệp, 51.12
Nông nghiệ p, 10.79
Với tốc độ tăng trưởng nhanh, ngành công nghiệp góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năm 2001, nông, lâm, ngư nghiệp còn chiếm tới 23,25%
tổng sản phẩm trong nước; dịch vụ chiếm 38,55%; công nghiệp và xây dựng chiếm 38,46%. Đến năm 2006, các tỷ trọng tương ứng là 20,40%, 38,08% và 41,52%. Từ quốc gia có cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ, Việt Nam đã chuyển thành nước có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Công nghiệp đóng vai trò quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Hình 3.5: Đóng góp của công nghiệp vào GDP theo điểm %
10
8.4
8.17
8
7.79
7.34
GDP
7.08
6.89
6
%
4.2
ệ l ỷ T
4.15
4
3.92
3.93
3.47
3.68 Công nghiệp
2
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
80
- Góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu: Công nghiệp có đóng góp
lớn nhất vào tổng kim ngạch xuất khẩu. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo các
nhóm hàng của Việt Nam đang có những thay đổi hết sức quan trọng phản
ánh đúng xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp theo hướng phát triển kinh tế thị trường,
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các sản phẩm công
nghiệp xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng chủng loại và liên tục tăng
với tốc độ cao, cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001, trong
15.027 triệu USD kim ngạch xuất khẩu, hàng công nghiệp chiếm 54,5%; năm
2006, trong 39.606 triệu USD kim ngạch xuất khẩu, hàng công nghiệp chiếm
tới khoảng 75%. Trong tiến trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cơ cấu
hàng công nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đang thay đổi theo hướng giảm tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thô, tăng tỷ trọng kim ngạch hàng công
nghiệp chế biến và bắt đầu xuất khẩu được một số sản phẩm có hàm lượng
khoa học - công nghệ cao.
- Cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch tích cực: Cùng với những đóng góp
to lớn vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
nền kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế công nghiệp theo ngành, theo vùng lãnh
thổ và theo thành phần kinh tế cũng có những thay đổi quan trọng. Cơ cấu
kinh tế ngành công nghiệp đang có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác; tăng dần các
ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao; gắn sự phát triển công nghiệp
với nhu cầu thị trường.
Hình 3.6: Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo tỷ lệ % trong cấu trúc tăng trưởng ngành công nghiệp
Khai thác 8%
Xây dựng 26%
Khai thác 5%
Xây dựng 16%
Điện gaz nước 8%
Điện gaz nước 9%
Chế biến 70%
Chế biến 58%
81
Năm 2001 Năm 2006
Tỷ trọng khu vực nhà nước trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành: Năm
2000 là 41,8% thì đến năm 2006 giảm còn 31,8%. Tốc độ tăng trưởng khu
vực công nghiệp nhà nước chậm hơn so với tốc độ chung (11,1% so với
16,3%). Tỷ trọng khu vực ngoài nhà nước trong tổng giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp tăng mạnh trong giai đoạn 2000 đến 2006 (22,2% năm
2000 tăng lên 30% năm 2006). Tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
cũng tăng từ 35,9% năm 2000 lên 38,2% năm 2006. Như vậy, khu vực ngoài
nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao hơn khu
vực nhà nước, đã và đang trở thành động lực tăng trưởng ngành công nghiệp
trong giai đoạn hậu WTO.
Hình 3.7: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2006 theo khu vực (%)
25
20
15
18.8
23.9
10
5
9.1
0
Khu vực nhà nước
Khu vực ngoài nhà nước
Khu vực có vốn ĐTNN
Cơ cấu kinh tế công nghiệp theo vùng lãnh thổ: Công nghiệp đang
được phát triển rộng trên cơ sở phát huy lợi thế về điều kiện tự nhiên và
truyền thống nghề nghiệp từng vùng, thúc đẩy sự giao lưu trao đổi hàng hoá
giữa các vùng. Trong quá trình này, công nghiệp vẫn được phát triển tập trung
hơn ở các vùng kinh tế trọng điểm tạo nên sự phát triển vượt trội của các vùng
này qua mức độ tập trung hoá cao của công nghiệp, mức độ đóng góp vào
tăng trưởng chung và bước đầu phát huy tác động lan toả tới sự phát triển
kinh tế - xã hội ở các vùng kinh tế khác.
3.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, xuất phát từ yêu cầu phát triển và
tiềm năng ngành, công nghiệp bộc lộ một số yếu kém sau:
- Chưa phát huy đầy đủ vai trò trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện
82
đại hoá đất nước, trước hết là đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn. Mối
quan hệ giữa công nghiệp - nông nghiệp trong quá trình hiện đại hoá nông
nghiệp - nông thôn còn hạn chế. Công nghiệp chưa trở thành động lực chính
thúc đẩy nông nghiệp phát triển, chưa phải là nhân tố hình thành các khu chế
biến tập trung, các vùng chuyên canh... Công nghiệp chưa đáp ứng đầy đủ các
máy móc thiết bị, vật tư nông nghiệp; quan hệ trao đổi, mua bán sản phẩm
giữa doanh nghiệp công nghiệp với các hộ nông dân chưa bền vững, gắn bó.
Việc phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, từ góc độ nhất định, chưa
đạt mục tiêu kỳ vọng.
- Trình độ kỹ thuật chưa cao, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, năng lực
cạnh tranh ngành còn thấp. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công
nghiệp nhẹ lạc hậu hơn so với trình độ trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ;
đối với công nghiệp nặng, mức độ lạc hậu còn cao hơn. Tốc độ đổi mới công
nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp khá chậm, từ 10-15%/năm. Tỷ lệ
đóng góp của các nhân tố khoa học công nghệ xấp xỉ 25%, trong khi chỉ số
này của các nước khác dao động từ 40 - 60%. Sản phẩm công nghiệp đơn điệu
về kiểu dáng, mẫu mã và chậm đổi mới, chất lượng thấp... do đó, năng lực
cạnh tranh của nhiều sản phẩm công nghiệp thấp. Phát triển công nghiệp còn
lạm dụng khai thác tài nguyên (nhất là những tài nguyên hoá thạch, không thể
tái tạo), công nghệ lạc hậu, xử lý chất thải chưa được chú ý đúng mức ... đã và
đang phá vỡ tính bền vững trong phát triển của ngành nói riêng và của toàn bộ
nền kinh tế nói chung.
- Chất lượng tăng trưởng chưa cao: Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng cao,
liên tục trong thời gian dài, nhưng cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch chậm, tỷ
trọng công nghiệp khai thác còn lớn, nhiều sản phẩm thô (khí đốt, dầu mỏ,
than đá...) vẫn là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong
kim ngạch xuất khẩu. Phần lớn các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng khoa
học thấp, chủ yếu là gia công. Công nghiệp phụ trợ non yếu, các sản phẩm sản
xuất trong nước còn đơn giản, những chi tiết phức tạp hầu hết phải nhập khẩu.
Trong hai năm trở lại đây, công nghiệp khai thác giảm mạnh, năm 2006
chỉ đạt 0,81%, bằng 19% tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành giai đoạn
83
2001-2005. Sự giảm sút, nhìn từ chất lượng tăng trưởng có thể thấy sự yếu
kém về công nghệ, kỹ thuật trong ngành và nguy cơ mất cân đối giữa khai
thác và chế biến.
Chất lượng tăng trưởng thấp còn thể hiện ở khoảng cách chênh lệch
giữa tốc độ tăng giá trị sản xuất và tốc độ tăng giá trị gia tăng của ngành: Năm
2001 là 4,24 điểm phần trăm. Con số tương ứng các năm tiếp theo là: 2002 là
5,37; năm 2003 và 2004 là 6,37; năm 2005 là 6,55; năm 2006 là 6,81. Khoảng
cách ngày càng lớn một mặt chứng tỏ sự gia tăng các phân ngành có chi phí
trung gian lớn, mặt khác cho thấy lắp ráp, gia công cho nước ngoài vẫn là lĩnh
vực chủ yếu của công nghiệp Việt Nam. Gia công không chỉ mang lại giá trị
gia tăng thấp, tích luỹ chậm mà còn bị phụ thuộc vào giá nguyên liệu nhập
khẩu. Ngành chế biến có mức tăng trưởng cao, nhưng vẫn chủ yếu là sản xuất
thay thế nhập khẩu, thiếu chiến lược phát triển dài hạn và tăng trưởng dựa
trên sự bảo hộ của Nhà nước.
Hộp 3.1: Dự án Intel
Khu công nghệ cao của Tp.HCM đón nhận dự án 1 tỷ USD đầu tư của Intel vào lắp ráp và thử nghiệm có quy mô lớn nhất thế giới nhưng nếu xem xét kỹ thì trong 4 công đoạn (nghiên cứu - sản xuất - lắp ráp và phân phối) thì họ chỉ triển khai ở Việt Nam 2 công đoạn cuối.
Nguồn:http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=10&id=32d7d2e95087e4&pageid=706
- Lao động trong ngành công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ lao
động trẻ tuy cao, với 60% dân số sinh ra sau 1975 nhưng lao động qua đào tạo
chỉ đạt 27% và tỷ lệ thu hút sinh viên vào các trường đại học và cao đẳng
hằng năm mới chiếm 20% số thí sinh. Điều này đã dẫn đến năng suất lao động
trong công nghiệp thấp. Việc trang bị vốn cho người lao động trong ngành
chưa tốt cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển
công nghiệp. Một số ngành sử dụng nhiều lao động với việc phát huy lợi thế
so sánh về giá nhân công như dệt may, da giầy... khó giúp cho ngành công
nghiệp Việt Nam phát triển mang tính đột phá nếu xét về chất lượng tăng
trưởng vì tỷ suất lợi nhuận đạt thấp (Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu của ngành
dệt may chỉ là1,8%).
- Chính sách phát triển công nghiệp chưa phát huy hết tiềm năng các
nguồn lực. Mặc dù đã có những nỗ lực trong đổi mới chính sách, nhưng sự
84
ôm đồm của các DNNN ngành công nghiệp đối với cả những lĩnh vực sản
xuất thông thường đã làm giảm hiệu quả hoạt động chung của ngành. Nhiều
chương trình của ngành chưa chuẩn bị kỹ, dẫn đến cách làm theo phong trào
như xi măng lò đứng, mía đường .... và lần lượt thất bại. Hình thành các tập
đoàn kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực công nghiệp trọng yếu là cần
thiết, song nó làm giảm hiệu quả phân bổ nguồn lực, bóp méo cách thức phân
bổ hiệu quả dựa trên nguyên tắc thị trường. Sự bảo hộ nhiều khi thái quá của
Nhà nước đã trở thành những rào cản khó vượt qua đối với các doanh nghiệp
ngoài nhà nước trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, kể cả những lĩnh vực Nhà
nước không cần nắm giữ độc quyền hoặc chi phối.
Các doanh nghiệp ngoài nhà nước bước đầu phát tăng trưởng mạnh về
số lượng, góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm, khai thác nguồn lực,
đóng góp vào ngân sách và tốc độ tăng trưởng nhưng nhìn chung, qui mô nhỏ
bé và những phân biệt đối xử trong tiềm thức cũng như thực tiễn quản lý chưa
được gỡ bỏ hoàn toàn. Ngoài ra, sự thiếu nhất quán, dễ thay đổi và khó dự
đoán của chính sách cũng là một trong những bất cập trong phát triển công
nghiệp.
Hộp 3.2: Chính sách công nghiệp cần đồng hành cùng doanh nghiệp
Mặc dù không thành văn nhưng có một quan điểm ngự trị hàng chục năm liền trong các cơ quan công quyền là chính sách chỉ để quản lý! Vì vậy, doanh nghiệp luôn luôn xác định chính sách chính là một thứ rào cản cần vượt qua hoặc né, luồn lách khỏi phạm vào cái "bờ dậu" ấy.
Điều này hiển hiện qua kết quả khảo sát 57 ý kiến về chính sách công nghiệp mà các doanh nghiệp mong đợi thì tựu trung, đa số đều mong muốn cải cách các chính sách phát triển công nghiệp như tiếp cận nguồn vốn, cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ phát triển nhân lực, hỗ trợ thông tin thị trường, công khai quy hoạch phát triển, phát triển hạ tầng giao thông công nghiệp, nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp... Nguồn:http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=10&id=32d7d2e95087e4&pageid=706
- Thiếu chiến lược, qui hoạch bộc lộ bất cập. Trong nhiều ngành hàng
công nghiệp, hầu hết đều đã có chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể
ngành, nhưng chưa được chiến lược và quy hoạch phát triển công nghiệp nói
chung đề cập. Mối quan hệ giữa các quy hoạch ngành và quy hoạch công
nghiệp địa phương có sự chồng chéo, trùng lặp. Chẳng hạn việc xây dựng quy
hoạch công nghiệp dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh có nhiều điểm trùng
85
lắp hoặc mâu thuẫn với các quy hoạch công nghiệp địa phương mà tuyến
đường này đi qua. Ngoài ra, quy hoạch các ngành công nghiệp thường bị phá
vỡ bởi các chỉ số dự báo không sát với tình hình thực tiễn.
Hộp 3.3: Ý kiến doanh nghiệp về chính sách phát triển công nghiệp
Tại cuộc hội thảo "Chính sách công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập" tổ chức
ngày 15/5/2007, do Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách Bộ Công nghiệp tổ chức, rất
nhiều ý kiến cho rằng, nhiều chính sách phát triển công nghiệp không còn phù hợp và cần
phải sửa đổi: Có tới 72,6% ý kiến doanh nghiệp khi được hỏi đã cho rằng cần phải bổ
sung chỉnh sửa các quy hoạch phát triển công nghiệp và lần lượt con số này đối với chính
sách khuyến công, bảo hộ hàng hóa - sở hữu trí tuệ là 62,1% và 74,1%. Nguồn:http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=10&id=32d7d2e95087e4&pageid=706 3.2. Những cam kết chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp
Cam kết trong lĩnh vực công nghiệp tập trung vào nội dung cắt giảm
thuế quan và trợ cấp. Việt Nam cam kết kể từ khi gia nhập WTO sẽ không
cấp bất kỳ trợ cấp bị cấm nào cho các đối tượng hưởng trợ cấp mới theo
chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên
tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những lợi ích
mà các đối tượng hưởng trợ cấp hiện tại đang được nhận theo hai chương
trình này sẽ được xóa dần trong vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO.
Chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư
dựa trên tiêu chí xuất khẩu dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ
hoàn toàn bị xoá bỏ không muộn hơn 5 năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập
WTO. Toàn bộ các trợ cấp bị cấm khác sẽ bị xoá bỏ kể từ ngày gia nhập WTO
và bất kỳ chương trình trợ cấp nào khác còn lại cũng sẽ được điều chỉnh phù
hợp với quy định của Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống trợ cấp của
WTO. Việt Nam sẽ thông báo cho WTO về các biện pháp xóa bỏ hai chương
trình trợ cấp nói trên cũng như biện pháp xoá bỏ các trợ cấp bị cấm khác.
Hộp 3.4: Nội dung cơ bản của cam kết trong lĩnh vực công nghiệp
Cắt giảm thuế quan, phi thuế quan
+ Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành, gồm 10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện là sau 5 - 7 năm.
86
+ Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải.
+ Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may (63%), cá và sản phẩm cá (38%), gỗ và giấy (33%), hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử (24%).
+ Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23,9%.
+ Việt Nam cũng cam kết tham gia vào một số hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3 - 5 năm.
+ Trong các hiệp định trên, khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin, các sản phẩm điện tử như máy tính, điện thoại di động; máy ghi hình, máy - ảnh kỹ thuật số… ) sẽ có thuế suất nhập khẩu 0% sau 3 - 5 năm, tối đa là sau 7 năm.
+ Việc tham gia hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo các hiệp định dệt may với EU, Hoa kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.
+ Cho phép thời gian chuyển tiếp không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ
đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO.
+ Cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ
trình; không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.
Trợ cấp
+ Bãi bỏ trợ cấp thay thế nhập khẩu (như thuế ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa) và các loại trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nước (như bù lỗ cho hoạt động xuất khẩu, thưởng theo kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất cho hợp đồng xuất khẩu…) kể từ khi gia nhập WTO.
+ Với trợ cấp xuất khẩu gián tiếp (chủ yếu dưới dạng ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu), sẽ không cấp thêm kể từ khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã được hưởng ưu đãi loại này từ trước ngày gia nhập WTO được hưởng một thời gian chuyển tiếp là 5 năm để bãi bỏ hoàn toàn.
+ Việt Nam không cam kết đối với DNNN.
+ Riêng với ngành dệt - may, tất cả các loại trợ cấp bị cấm theo Hiệp định SCM,
dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều được bãi bỏ ngay từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nguồn: Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
87
Bảng 3.1: Mức thuế bình quân cam kết hàng công nghiệp
Bình quân chung và theo ngành
Cam kết WTO của Trung Quốc Nước phát
Mức cắt giảm thuế chung tại Vòng Uruguay Nước đang
Mức giảm so với thuế MFN hiện hành (%)
Thuế suất cam kết vào cuối lộ trình (%)
Thuế suất cam kết khi gia nhập WTO (%)
Thuế suất MFN hiện hành (%)
triển
phát triển
Hàng công
16,6
16,1
12,6
23,9
9,6
giảm 37% giảm 24%
nghiệp
Ngoài ra, cam kết trong lĩnh vực công nghiệp còn liên quan đến nội
dung về quyền kinh doanh đối với các doanh nghiệp, cá nhân (kể cả các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Theo các nội dung cam kết, Việt
Nam sẽ giành quyền kinh doanh đầy đủ cho các đối tượng nêu trên không
muộn hơn 1/1/2007, ngoại trừ một số sản phẩm do Nhà nước quản lý. Riêng
với quyền nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu, Việt Nam cam kết sau khi hết
thời gian chuyển đổi (tới 1/1/2009), quyền này mới được thực thi. Đối với
xuất khẩu gạo, thời hạn chuyển đổi là 1/1/2011. Quyền kinh doanh đầy đủ bao
gồm quyền được bán sản phẩm nhập khẩu cho mọi cá nhân hoặc doanh
nghiệp có quyền phân phối sản phẩm đó tại Việt Nam. Các cam kết về quyền
kinh doanh sẽ áp dụng cho tất cả các thành viên của WTO trên cơ sở nguyên
tắc đối xử quốc gia.
Về cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu, tuỳ loại hàng hoá mà các cam kết
cắt giảm và thời gian thực hiện khác nhau. Riêng với Dệt may, cam kết của
Việt Nam sẽ thực hiện ngay khi gia nhập. Tuy nhiên, trên thực tế, mức cắt giảm
nêu trên đã được thực hiện trong cam kết song phương với Hoa Kỳ và EU.
Bảng 3.2: Tổng hợp cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong đàm
phán gia nhập WTO đối với một số sản phẩm công nghiệp
Cam kết với WTO
Một số sản phẩm công nghiệp
Thời gian thực hiện
Thuế suất khi gia nhập
Thuế suất cuối cùng
Thuế suất MFN 0-10 7,5 40
38,7 17,7 40
38,7 13 32
5-7 năm 2 năm
0,7
6,5
6,4
2 năm
- Xăng dầu - Sắt thép (thuế suất bình quân) - Xi măng - Phân hoá học (thuế suất bình quân) - Giấy (thuế suất bình quân) - Tivi - Điều hoà - Máy giặt
22,3 50 50 40
20,7 40 40 38
15,1 25 25 25
- Dệt may (thuế suất bình quân)
37,3
13,7
13,7
5 năm 5 năm 3 năm 4 năm Ngay khi gia nhập (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với Mỹ và EU
88
50
40
30
5 năm
90
90
52
12 năm
90
90
47
10 năm
90 100
100 80
70 50
7 năm 10 năm
80
100
70
7 năm
60
60
50
5 năm
- Giày dép - Xe ôtô con + Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy xăng + Xe từ 2.500 cc trở lên, loại 2 cầu + Dưới 2.500 cc và các loại khác - xe tải + Loại không quá 5 tấn + Loại thuế suất khác hiện hành 80% + Loại thuế suất khác hiện hành 60% - Phụ tùng ôtô - Xe máy + Loại từ 800 cc trở lên + Loại khác
20,9 100 100
24,3 100 95
20,5 40 70
3-5 năm 8 năm 7 năm
Nguồn: http://www.wto.org
3.3. Công nghiệp Việt Nam sau 6 tháng gia nhập WTO
Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2007 theo giá so sánh tăng
16,9% so với cùng kỳ năm 2006, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 8,5%,
khu vực ngoài Nhà nước tăng 20,5% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng
19,3% (dầu mỏ và khí đốt giảm 4%, các sản phẩm khác tăng 24,3%).
Thực hiện (Tỷ đồng)
5 tháng năm 2007
Ước tính tháng 6 năm 2007
Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2007
Bảng 3.3: Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2007 (Giá so sánh 1994)
225056
50656
275712
Tháng 6 năm 2007 so với tháng 6 năm 2006 (%) 119,5
6 tháng đầu năm 2007 so với cùng kỳ năm 2006 (%) 116,9
53683 37146 16537 82236 89137 12907 76230
12796 8676 4120 18251 19609 2437 17172
66479 45822 20657 100487 108746 15344 93402
108,5 111,3 102,8 120,5 119,3 96,0 124,3
37146 98773 16537 82236 89137
8676 22371 4120 18251 19609
45822 121144 20657 100487 108746
115,3 115,7 114,6 120,9 121,1 92,4 126,7 115,7 119,7 114,6 120,9 121,1
111,3 117,1 102,8 120,5 119,3
TỔNG SỐ PHÂN THEO KHU VỰC VÀ THÀNH PHẦN KINH TẾ Khu vực DNNN Trung ương Địa phương Khu vực ngoài Nhà nước Khu vực có vốn ĐTNN Dầu mỏ và khí đốt Các ngành khác PHÂN THEO CẤP QUẢN LÝ Công nghiệp trung ương Công nghiệp địa phương Nhà nước địa phương quản lý Ngoài Nhà nước Kinh tế có vốn ĐTNN
89
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong cơ cấu ngành công nghiệp, giá trị sản xuất ngành công nghiệp
chế biến chiếm tỷ trọng lớn, tăng 18,8%, góp phần quan trọng làm tăng giá trị
sản xuất công nghiệp; khai thác mỏ chỉ tăng 1,5%, do sản lượng dầu thô khai
thác giảm 7,4% và sản lượng than sạch khai thác tăng ở mức 12,4%; sản xuất
và phân phối điện, ga, nước tăng 11,5% (trong đó sản lượng điện sản xuất
tăng 11,6%).
Về các sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp
ngành chế biến có tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung (như thép cán, bia,
thuốc trừ sâu, gạch lát, máy công cụ, động cơ điện, máy biến thế, ô tô lắp ráp,
xe máy lắp ráp). Một số sản phẩm quan trọng đối với nền kinh tế cũng như
liên quan đến xuất khẩu lại tăng ở mức thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm
sút so với cùng kỳ.
Bảng 3.4: Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp tháng 6
Thực hiện
Cộng dồn 6 tháng năm 2007
Ước tính tháng 6 năm 2007
Tháng 5 năm 2007
Đơn vị tính
Tháng 6 năm 2007 so với tháng 6 năm 2006 (%)
Nghìn tấn
6 tháng đầu năm 2007 so với cùng kỳ năm 2006 (%) 112,4
17783,2
3874,2
21657,4
119,5
Nghìn tấn
6597
1292,0
7889,0
92,1
92,6
Than Dầu thô khai thác (ĐTNN) Khí đốt thiên nhiên (TW) Ga hoá lỏng (TW) Thuỷ sản chế biến Sữa hộp Đường mật Bia Bột ngọt (ĐTNN) Thuốc lá bao Vải lụa Quần áo dệt kim Quần áo may sẵn Giấy bìa Xút NaOH Thuốc trừ sâu Phân hoá học Thuốc ống Thuốc viên Xà phòng Sứ vệ sinh Xi măng
Triệu m3 Nghìn tấn Nghìn tấn Triệu hộp Nghìn tấn Triệu lít Tấn Triệu bao Triệu m2 Nghìn cái Triệu cái Nghìn tấn Tấn Tấn Nghìn tấn Triệu ống Triệu viên Nghìn tấn Nghìn cái Nghìn tấn
3237 129,1 260,0 167,8 898,4 665,1 108221 1732,4 234,7 42851 491,7 450,3 40505 24912 972,5 203,1 9584,0 248,0 1942,2 12370,9
549 25,1 53,5 37,9 29,6 243,1 26383 340,6 46,7 8726 95,9 97,9 9731 4306 221,3 45,7 1796,3 49,7 371,5 2226,4
3786 154,2 313,5 205,7 928,0 908,2 134604 2073,0 281,4 51577 587,6 548,2 50236 29218 1193,8 248,8 11380,3 297,7 2313,7 14597,3
93,7 85,7 104,7 123,9 113,4 148,1 153,8 99,7 113,9 92,0 114,0 124,1 117,1 97,3 166,0 104,6 118,1 131,0 106,4 107,0
107,7 83,7 115,7 105,5 113,1 120,4 112,6 107,8 111,4 88,9 113,8 115,0 101,7 120,8 112,8 105,5 110,0 115,4 106,5 111,6
90
và 6 tháng đầu năm 2007
Triệu viên Gạch xây Nghìn m2 Gạch lát Nghìn tấn Thép cán Cái Máy công cụ Cái Động cơ diezen Cái Động cơ điện Cái Máy biến thế Ắc quy Nghìn kwh Quạt điện dân dụng Nghìn cái Nghìn cái Tivi lắp ráp Cái Ô tô lắp ráp Cái Xe máy lắp ráp Cái Xe đạp Triệu kwh Điện phát ra
7319,7 64771,6 1757,8 904 22701 48021 9798 1625,8 623,7 1108,8 16994 1047343 235121 25737,9
1318,1 12897,6 361,6 202 5060 11113 2004 364,4 150,1 228,5 4155 209618 43165 5895,9
8637,8 77669,2 2119,4 1106 27761 59134 11802 1990,2 773,8 1337,3 21149 1256961 278286 31633,8
138,1 107,2 120,5 174,1 103,7 124,1 132,0 115,6 100,8 119,8 145,7 136,9 26,7 113,7
112,2 124,4 117,2 141,6 98,9 131,2 120,8 111,8 114,5 113,9 132,9 134,5 28,2 111,6
Nguồn : Tổng cục Thống kê
Đánh giá chung:
Các chỉ số thống kê cho thấy, tăng trưởng công nghiệp 6 tháng đầu năm
nay tăng 19,5%, cao hơn tốc độ tăng GDP cùng kỳ (16,9%). Qua 6 tháng đầu
năm, có thể rút ra một số đánh giá ban đầu sau:
Một là, công nghiệp đang trên đà tăng trưởng, phản ánh xu hướng tăng
trưởng của khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực ngoài nhà nước, các
ngành khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tính chung 6 tháng, tăng
trưởng công nghiệp đạt tốc độ khá cao, là tiền đề để tăng trưởng chung cả
năm của ngành này đạt mục tiêu đề ra. Nếu 6 tháng cuối năm, công nghiệp
vẫn giữ tốc độ tăng trưởng trên, ngành này sẽ có 17 năm liên tục tăng hai chữ
số - một tốc độ tăng cao, tăng liên tục, tăng trong thời gian dài.
Hai là, Cơ cấu tăng trưởng cao ở hai khu vực (ngoài nhà nước và khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài) góp phần quan trọng đạt tốc độ tăng cao của
ngành. Công nghiệp khu vực ngoài nhà nước tăng khá cao nhờ năng lực của
khu vực này tăng do nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, nhờ tiến độ cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh. Công nghiệp khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,3%, nếu không kể dầu mỏ và khí đốt bị giảm,
thì các ngành khác của khu vực tăng cao nhất, lên đến 24,3%, nhờ năng lực
được tăng thêm, nhờ tận dụng được thời cơ Việt Nam gia nhập WTO, thuế
nhập khẩu vào các nước thành viên được cắt giảm để đẩy mạnh xuất khẩu.
Xét trên địa bàn: Nhiều địa bàn tăng cao hơn tốc độ chung, như Hà Nội
91
(tăng 21,3%), Hải Phòng (18,4%), Vĩnh Phúc (52,8%), Hà Tây (22,1%), Bình
Dương (23,7%), Đồng Nai (22,4%), Cần Thơ (18,1%)...
Về sản phẩm: Nhiều sản phẩm chủ yếu có tốc độ tăng cao, trong đó có
những sản phẩm tăng cao hơn tốc độ chung, như bia (20,4%), thuốc trừ sâu
(20,8%), gạch lát (24,4%), thép cán (17,2), máy công cụ (41,6%), máy biến
thế (20,8%), ôtô lắp ráp (32,9%), xe máy lắp ráp (34,5%).
Ba là, cơ cấu sản xuất nội bộ ngành chuyển dịch theo hướng tích cực,
trên cả 3 mặt. Cơ cấu thành phần trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành, cho
thấy, công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện chiếm tỷ trọng lớn
nhất (39,4%), cao hơn cả khu vực ngoài nhà nước (36,4%) và cao gấp rưỡi tỷ
trọng của khu vực doanh nghiệp nhà nước (24,1%). Hai khu vực (vốn đầu tư
nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước) chiếm trên 3/4 toàn ngành công
nghiệp, có tốc độ tăng trưởng cao, trở thành động lực tăng trưởng chung.
Theo địa bàn: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp ở những địa bàn đô thị
lớn thấp hơn ở những tỉnh vùng ven, thậm chí còn thấp hơn tốc độ tăng chung
của cả nước. Trường hợp của Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ trọng công
nghiệp chiếm hơn 25% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước nhưng chỉ
tăng 12,7%, thấp hơn tốc độ tăng chung của cả nước và thấp hơn tốc độ tăng
của Bình Dương, Đồng Nai. Trường hợp của Hà Nội tuy vẫn tăng khá cao,
nhưng đã thấp xa so với tốc độ tăng của Vĩnh Phúc, Hà Tây. Cơ cấu công
nghiệp theo ngành và sản phẩm đã chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng công
nghiệp khai thác mỏ và tỷ trọng công nghiệp điện nước giảm, tỷ trọng công
nghiệp chế biến tăng. Tỷ trọng công nghiệp khai thác mỏ giảm khi mà khai
thác dầu thô giảm 7,4%, ga hoá lỏng giảm 16,3%, than chỉ tăng 12,4%, khí
đốt thiên nhiên chỉ tăng 7,7%, thấp hơn nhiều tốc độ tăng của cùng kỳ các
năm trước. Tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng cao nhất trong ba ngành.
Bốn là, Mặc dù tăng trưởng với tốc độ cao, nhưng chất lượng tăng
trưởng công nghiệp thấp. Công nghiệp còn mang nặng tính gia công, giá trị
gia tăng thấp, thu nhập của người lao động thấp; phụ thuộc vào nước ngoài
trong điều kiện giá thế giới tăng. Công nghiệp phụ trợ và nội địa hoá chậm.
92
Hiệu quả và sức cạnh tranh của công nghiệp còn thấp, dẫn đến nhập siêu lớn.
3.4. Tác động gia nhập WTO đến công nghiệp Việt Nam
3.4.1.Những tác động chung
Xuất phát từ những thành tựu, hạn chế của công nghiệp Việt Nam, trên
cơ sở kết quả ban đầu sau gần một năm gia nhập WTO, những tác động đối
với ngành công nghiệp chưa rõ ràng, chủ yếu mang tính xu hướng. Những số
liệu thống kê chưa cho phép rút ra những kết luận dài hạn, do đó, những đánh
giá ban đầu đối với ngành công nghiệp chủ yếu dựa trên những cam kết gia
nhập và hiện trạng ngành.
Những tác động tích cực
- Tác động tới xuất khẩu hàng công nghiệp: Khả năng tiếp cận thị
trường của các sản phẩm công nghiệp sẽ thuận lợi hơn so với trước khi gia
nhập vì các chính sách và ưu đãi được dành cho tất cả các thành viên. Bên
cạnh xu hướng gia tăng tỷ trọng xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng nhằm đáp
ứng nhu cầu đa dạng của các khu vực khác nhau cũng sẽ là một xu hướng đối
với các doanh nghiệp công nghiệp.
- Thu hút đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ: Với những cam
kết mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan, xoá bỏ trợ cấp, các doanh nghiệp
công nghiệp nước ngoài sẽ tìm thấy những tiềm năng và cơ hội tại thị trường
Việt Nam. Do đó, ngành công nghiệp nội địa có điều kiện thu hút vốn đầu tư
vào các lĩnh vực công nghệ cao, từng bước chuyển dịch cơ cấu ngành và tiếp
cận công nghệ mới. Doanh nghiệp công nghiệp sẽ có môi trường và điều kiện
để làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao, đặc biệt là của
các nền kinh tế công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản. Nhờ tiếp cận
những những công nghệ tiên tiến và hiện đại này, các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam có thêm điều kiện đổi mới sản xuất, mở rộng liên doanh,
liên kết, nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí về nhân công và nguyên liệu,
rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, cho ra đời những sản phẩm đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe về chất lượng, mẫu mã của các nước nhập khẩu.
- Việc tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới, tiên tiến của
93
thế giới góp phần nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp
Việt Nam; có thêm cơ hội nâng cao tay nghề cho công nhân lao động, tiếp thu
và nâng cao kinh nghiệm quản lý điều hành sản xuất công nghiệp.
- Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn bằng các hình thức hợp tác,
liên doanh, hợp đồng thực hiện .... Qua đó, các doanh nghiệp công nghiệp
Việt Nam có thêm cơ hội tiếp cận các nguồn vốn mới, bảo đảm thúc đẩy quá
trình phát triển doanh nghiệp cả về quy mô và chiều sâu.
- Trong giai đoạn đầu, các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao
động sẽ có cơ hội phát triển mạnh. Nhiều dự báo cho rằng, ngành dệt may sẽ
chịu tác động tiêu cực do phải cạnh tranh với các thị trường xuất khẩu lớn như
Trung Quốc. Tuy nhiên, kết quả của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
cho thấy, tăng trưởng của những ngành sử dụng nhiều lao động của Việt Nam
vẫn rất cao, mặc dù đó cũng là những ngành có thế mạnh của Trung Quốc.
Sự phát triển mạnh của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động
thể hiện trên cả tỷ lệ tăng trưởng sản lượng của sản phẩm và tỷ lệ lao động
trong ngành. Sau 5 năm thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tỷ
lệ tăng trưởng sản lượng của các sản phẩm sử dụng nhiều lao động từ 15,9%
giai đoạn 2000-2001 lên tới 22,7% giai đoạn 2002-2005. Như vậy, nếu dẫn chiếu thị trường Hoa Kỳ như một trong 150 thành viên WTO13 có thể thấy, kỳ
vọng và xu hướng của công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động sẽ tăng trưởng
nhanh trong thời gian tới.
- Việc làm trong ngành công nghiệp tăng mạnh. Do xu hướng tăng qui
mô và sản lượng của các ngành sử dụng nhiều lao động kéo theo tăng trưởng
việc làm trong ngành này. Đây là xu hướng tích cực trong bối cảnh thất
nghiệp đang chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành theo hướng khai thác lợi thế so sánh tương quan14.
- Thúc đẩy thay đổi cấu trúc sở hữu ngành: Số lượng doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia xuất khẩu sản phẩm
94
công nghiệp tăng nhanh, đồng thời khối DNNN và hộ gia đình giảm mạnh 13 Đây chỉ là trường hợp giả định vì các thành viên WTO không giống nhau về qui mô thị trường, nhu cầu nhập khẩu .... và Hoa Kỳ luôn là thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam. 14 Trong giai đoạn đầu, công nghiệp Việt Nam chuyển mạnh sang các ngành có sử dụng nhiều lao động sẽ phát huy được lợi thế do nguồn lực này dồi dào, giá rẻ trong tương quan so sánh với nguồn vốn và đất đai.
trong giai đoạn 1995-2005. Số lượng các DNNN giảm mạnh cho thấy những
kết quả của các biện pháp tái cơ cấu khu vực này trong thời gian qua. Sự gia
tăng của các doanh nghiệp tư nhân trong sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu
cho thấy động lực thúc đẩy ban đầu là Luật Doanh nghiệp với việc tạo điều
kiện thuận lợi, giảm chi phí, tạo lập môi trường bình đẳng cho các doanh
nghiệp tư nhân. Sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu
còn cho thấy năng lực cạnh tranh của khối này cao hơn so với khối DNNN và
hộ gia đình.
Kết quả khảo sát, đánh giá sau 5 năm thực hiện Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ cho thấy, khối doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, các DNNN và hộ gia đình giảm đáng kể
trong danh sách doanh nghiệp xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Loại trừ những yếu tố
như cải cách khu vực DNNN, tạo môi trường thuận lợi như ban hành Luật
Doanh nghiệp ... , điều này cho thấy xu hướng thay đổi cấu trúc sở hữu ngành
theo hướng chuyển động lực tăng trưởng sang khối doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những tác động tiêu cực
- Giảm đáng kể mức độ bảo hộ của Nhà nước và gia tăng sức ép cạnh
tranh đối với sản xuất công nghiệp trong nước. Theo đó, một số doanh nghiệp
công nghệ lạc hậu, qui mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp ... sẽ có nguy cơ phá sản
hoặc sáp nhập, trở thành những khâu, mắt xích trong qui trình sản xuất của
các tập đoàn công nghiệp nước ngoài.
- Các quy định nghiêm ngặt của WTO như các quy định về thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. ... đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tuân thủ nghiêm túc, sản phẩm đạt chất lượng đồng đều. Trong
thời gian đầu, các nguy cơ bị kiện hoàn toàn có thể xảy ra nếu một bộ phận
các doanh nghiệp công nghiệp không thay đổi cách thức sản xuất kinh doanh
95
kiểu cũ.
- Chưa hiểu biết đầy đủ pháp luật và tập quán của quốc tế và của từng
nước đối tác thành viên WTO; thiếu thông tin về các tiêu chuẩn quốc tế, cách
thức tiếp cận thị trường, các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh ở
ngoài nước nên trong cạnh tranh, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều vấp
váp.
Hộp 3.5: Doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội
Bộ Thương mại vừa đưa ra con số khiến những ai quan tâm tới con đường hội nhập quốc tế của doanh nghiệp Việt phải giật mình. Đó là chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu D, đồng nghĩa với việc chỉ khoảng 8% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng những ưu đãi trong thương mại nội vùng.
Việt Nam tham gia ASEAN từ năm 1995, tham gia CEPT/AFTA (Chương trình Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung/Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN) từ năm 1996. ASEAN là tổ chức quốc tế đầu tiên Việt Nam gia nhập, là những bạn hàng quen thuộc và dễ tiếp xúc nhất, với hơn 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới bên ngoài.
Ngoài con số 8% nói trên, các cơ quan nhà nước nghĩ gì về con số 312 triệu USD kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam sang các nước ASEAN hưởng ưu đãi thuế bằng sử dụng C/O mẫu D trong năm 2006 cũng do Bộ Thương mại vừa công bố?
312 triệu USD tương đương khoảng 4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN năm 2006. Hiện nay ở hầu hết các nước ASEAN, mức thuế ưu đãi 0-5% được áp dụng phổ biến tới 98% số dòng thuế, có nước như Singapore còn áp dụng thuế suất 0% đối với 100% hàng hóa có xuất xứ ASEAN.
Vậy mà sau 12 năm tham gia ASEAN, tới nay chúng ta mới chỉ tận dụng được ưu
đãi cho 4% kim ngạch xuất khẩu của mình!
Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn
- Mặc dù tiềm năng và cơ hội thu hút vốn rất lớn đối với doanh nghiệp
công nghiệp, nhưng hiện tại, khối các doanh nghiệp này đang trong tình trạng
thiếu vốn, công nghệ không cao, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp ... sẽ là
những thách thức thực sự. Sự tác động của WTO sẽ thu hẹp thị phần, mất cơ
hội phát triển của các doanh nghiệp này ngay trong giai đoạn chuyển tiếp (5-7
năm đầu tiên sau gia nhập).
- Tác động xấu đến cơ cấu nội bộ ngành: Xuất phát từ cơ cấu ngành với
công nghiệp lắp ráp là chủ yếu, công nghiệp chế tạo chưa phát triển, chưa sản
xuất được các sản phẩm công nghiệp đòi hỏi dây chuyền công nghệ cao với
vốn đầu tư lớn, khi mở cửa thị trường, các doanh nghiệp công nghiệp nước
96
ngoài sẽ cung ứng hàng hoá, sản phẩm đầu vào và tiếp cận những lĩnh vực có
giá trị gia tăng cao. Do đó, chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành sẽ bị tác động
mạnh theo sức ép gia nhập, theo nhu cầu thị trường và có thể lệch chuẩn đổi
với định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đang được xây dựng trong chiến
lược phát triển công nghiệp.
3.4.2. Tác động tới một số lĩnh vực công nghiệp chủ yếu
- Dệt may15: Là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, có một số
lợi thế như nguồn lao động trẻ dồi dào, giá nhân công rẻ, khả năng tiếp thu
nhanh; điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho phát triển nguyên liệu tự nhiên;
hạ tầng kỹ thuật khá hiện đại và được chú trọng đầu tư phát triển; trình độ đạt
yêu cầu quốc tế và đã làm quen với những thị trường khắt khe như Mỹ, EU.
Bên cạnh đó, ngành dệt may bộc lộ một số hạn chế như năng suất lao động
thấp; thực hiện gia công cho các hãng lớn là chính, do đó giá trị gia tăng chưa
cao, chưa xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm; công nghiệp phụ trợ
kém phát triển, hầu hết phải nhập; công nghệ ngành dệt lạc hậu. Những khâu
trong ngành dệt may mang lại giá trị gia tăng cao thì của Việt Nam lại kém,
chẳng hạn như khâu thiết kế trong chuỗi giá trị sản phẩm may mặc.
+ Gia nhập WTO tác động đến năng lực và qui mô toàn ngành thông
qua việc khai thác thị trường tiềm năng. Với thị trường rộng lớn, năng lực sản
xuất không phải là điều đáng quan tâm mà vấn đề là ở năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Thị trường rộng với nhiều nhu cầu khác nhau giúp cho các
doanh nghiệp đa dạng hoá sản phẩm, tránh tình trạng nhiều doanh nghiệp
trong nước cùng sản xuất một loại sản phẩm, cùng xuất khẩu vào một thị
trường ... dẫn đến cạnh tranh nội bộ. Việc mở rộng thị trường còn đảm bảo
tính ổn định trong sản xuất và xuất khẩu bởi các doanh nghiệp không phải lệ
thuộc vào một vài thị trường nhất định.
Riêng Hoa Kỳ - thị trường chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu hàng
15 Những điều kiện, hiện trạng, phương thức xuất khẩu, lợi thế .... của công nghiệp dệt may và công nghiệp da giầy có nhiều nét tương đồng. Do đó đề tài không phân tích ngành da giầy, chỉ phân tích ngành dệt may như một đại diện của ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, kim ngạch lớn và nhiều tiềm năng.
97
dệt may của Việt Nam đã bãi bỏ hạn ngạch tính từ tháng 1/2007. Dù chưa có
số liệu thống kê chính thức, nhưng kỳ vọng tỷ lệ tăng kim ngạch vào thị
trường này đến năm 2010 tăng khoảng 20-30%/năm là hoàn toàn có thể.
Bảng 3.5: Tỷ lệ tăng trưởng hàng dệt may của một số quốc gia sang
thị trường Hoa Kỳ (%)
2005∇
7
Việt Nam Trung Quốc Ấn Độ Bănglađét Indonexia
2001 2 5 -3 -1 8
2002 1.764∗ 8 7 -10 -9
2003 164 19 5 -2 4
2004 8 20 10 7 11
2006 18 16 6 23 27
47 32 20 20
Để thấy rõ hơn tác động của WTO đến dệt may, phân tích trường hợp
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cho thấy: Trước khi hiệp định
được ký kết, tăng trưởng kim ngạch dệt may sang Hoa Kỳ đạt 2%/năm trong
giai đoạn 2000-2001. Ngay sau khi ký kết, tỷ lệ ngày là 1.764%, tăng gấp gần
900 lần. Mức tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đối với thị
trường Hoa Kỳ có thể dự báo được dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia
tương đồng (có năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất, xuất khẩu trong cùng
nhóm với Việt Nam) sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ hạn ngạch vào 1/1/2005.
Hơn nữa, dệt may Việt Nam đã từng bước làm quen trong tiến trình hội
nhập qua AFTA, BTA, trong đó, các qui định của BTA gần giống với các qui
định của WTO và kết quả của ngành vẫn rất khả quan. Điều này cho thấy nỗ
lực nội tại của ngành, tiềm năng phát triển cũng như khả năng thích ứng của
ngành dệt may khá tốt trong các điều kiện các nhau.
Hình 3.7: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (Triệu USD)
Thực hiện BTA với Mỹ
7800
5802
4800
3609.1
2732.9
1981.9
1975.9
9000 8000 7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007 (ước)
∇ Bãi bỏ hạn ngạch hàng Dệt may với các quốc gia trên (trừ Việt Nam) ∗ Khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực
98
Tăng trưởng dệt may đều đặn và liên tục trong giai đoạn 2002 - 2007
trong bối cảnh các quốc gia xuất khẩu hàng dệt may có thế mạnh như Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia ... được xoá bỏ hạn ngạch (từ 1/1/2005) cho thấy
những kỳ vọng lạc quan sau khi gia nhập WTO. Thực tế cho thấy xuất khẩu
hàng dệt may tăng mạnh trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 7,8 tỷ
USD, đứng đầu trong các mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, lợi nhuận ngành
này mang lại vẫn thấp do chủ yếu là gia công và phải nhập nguyên vật liệu.
+ Cam kết bãi bỏ trợ cấp ngay sau khi gia nhập WTO cũng có những
tác động không nhỏ đến ngành dệt may. Theo đó, Việt Nam sẽ xoá bỏ toàn bộ
các trợ cấp bị cấm (tức là các trợ cấp căn cứ vào thành tích xuất khẩu hoặc
khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay thế nhập khẩu) dành cho ngành
dệt may, bao gồm các trợ cấp dưới hình thức ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí
xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước, ưu
đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, trợ cấp khuyến khích xuất khẩu dựa trên thành tích xuất
khẩu và trợ cấp xúc tiến thương mại dựa trên thành tích xuất khẩu.
Theo đánh giá của chuyên gia Fred Bucker, đại diện hãng Luật Baker
& McKenzie, việc xoá bỏ trợ cấp theo cam kết của WTO chắc chắn sẽ có
nhiều ngành công nghiệp chủ chốt, đặc biệt là dệt may của Việt Nam gặp khó khăn16. Tuy nhiên, nhìn lại những ưu đãi về trợ cấp của Chính phủ đối với dệt
may trong thời gian qua có thể thấy, mỗi năm ngành này chỉ được cấp tín
dụng ưu đãi khoảng 5 triệu USD và bổ sung vốn lưu động khoảng 1 triệu
USD, đáp ứng khoảng gần 4% nhu cầu toàn ngành. Với tỷ trọng như trên, nếu
bãi bỏ các trợ cấp sẽ không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh, xuất khẩu ngành dệt may trong thời gian tới.
+ Cam kết mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan17 với nguy cơ sản
16 Tạp chí Nhịp cầu, 7/2006. 17 Toàn bộ thuế nhập khẩu hiện nay (đối với sản phẩm may mặc là 50%, sản phẩm sợi là 20% và sản phẩm vải là 40%) sẽ phải giảm xuống mức thấp, khoảng từ 10-15%, là mức chung của các thành viên WTO. Như vậy, sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng dệt may nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa.
99
phẩm dệt may Việt Nam sẽ mất dần thị trường trong nước được một số
chuyên gia cảnh báo18 có thể sẽ không xảy ra. Về lý thuyết, cơ hội cho các thị
trường là như nhau và như vậy, sức ép cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam sẽ
gia tăng. Tuy nhiên, đây là ngành có thế mạnh của Việt Nam, các nhà xuất
khẩu nước ngoài sẽ không chuyển hướng xuất khẩu sang một thị trường có
nhiều thế mạnh, năng lực cạnh tranh khá cao và có đông đảo các nhà cung cấp
trong nước. Do vậy, thị trường sẽ phân khúc với nhóm sản phẩm cạnh tranh
cao là những hàng cao cấp của các hãng nổi tiếng, có thương hiệu trên thị
trường quốc tế; đối với các mặt hàng khác, thị trường nội địa sẽ ít chịu ảnh
hưởng của các hãng nước ngoài.
Bức tranh chung đối với công nghiệp dệt may với nhiều gam màu sáng,
những tác động tích cực là chủ đạo.
- Công nghiệp lắp ráp: Công nghiệp lắp ráp thời gian qua tăng trưởng
nhanh, tạo nhiều việc làm mới và đóng góp quan trọng trong tăng trưởng
chung. Tuy vậy, lắp ráp chủ yếu từ các linh kiện, cụm chi tiết nhập khẩu từ
nước ngoài, phần linh kiện sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ rất nhỏ, đơn giản,
giá trị thấp trong cơ cấu sản phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp tham gia ngành
này là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (năm 2004, chiếm 91,5% tổng
sản lượng toàn ngành). Thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp lắp ráp chủ yếu
ở nội địa (trừ một số hàng điện tử và xe máy), được hưởng chế độ bảo hộ sản
xuất trong nước.
Trước khi gia nhập WTO, mặt hàng điện gia dụng, điện tử của Việt Nam có sức cạnh tranh yếu hơn hàng Trung Quốc19. Trong thị trường nội địa,
mặt hàng này vẫn chiếm thị phần lớn do chế độ bảo hộ bằng thuế quan (thuế
suất nhập khẩu từ 40-50%). Do đó, nếu cắt giảm thuế suất nhập khẩu, mặt
hàng này có nguy cơ mất thị phần ngay tại thị trường trong nước.
Công nghiệp lắp ráp ô tô thời gian qua phát triển mạnh nhưng tiêu
18 Tài liệu hội nhập kinh tế quốc tế của Hà Nội. 19 Khi Trung Quốc gia nhập WTO, hàng điện gia dụng, điện tử của Việt Nam hầu như không thâm nhập được vào thị trường rộng lớn này. Ngược lại, các sản phẩm của Trung Quốc vẫn tràn vào Việt Nam qua nhiều con đường tiểu ngạch, buôn lậu, thậm chí cả chính thức nhưng vẫn có sức cạnh tranh cao hơn vì giá thấp hơn và mẫu mã đa dạng.
100
chuẩn chất lượng đang là vấn đề nổi cộm. Theo kết quả kiểm tra của Bộ Công
nghiệp tại 36 doanh nghiệp lắp ráp ô tô cho thấy, chỉ 10 doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn; thiết bị dây chuyền chủ yếu được nhập từ Trung Quốc, chất lượng thấp.
Với hiện trạng trên, ngành công nghiệp ô tô sẽ phải chịu tác động nhiều nhất.
Có thể sẽ chỉ còn lại một số rất ít liên doanh sản xuất ôtô tiếp tục trụ lại và phát
triển được, trong khi hầu hết các doanh nghiệp nội địa sẽ bị phá sản, hoặc phải
chuyển sang sản xuất phụ tùng vì ngành công nghiệp ôtô vẫn cần mua một
phần phụ tùng sản xuất trong nước vì lý do giá thành, thời gian giao nhận. Các
liên doanh lắp ráp cũng sẽ chịu tác động mạnh từ làn sóng nhập khẩu với các
sản phẩm có sức cạnh tranh cao về giá, về mẫu mã và chất lượng.
Khi mà các doanh nghiệp lắp ráp trình độ thấp và trung bình có thể mất
thị phần, các hãng lớn tiếp tục quan tâm và đầu tư vào thị trường Việt Nam bởi riêng thị trường nội địa có sức tiêu thụ rất lớn20. Do đó, công nghiệp ô tô
tiếp tục phát triển mạnh nhưng theo cách thức khác: doanh nghiệp nước
ngoài, các hãng ô tô lớn mở chi nhánh thay vì các doanh nghiệp lắp ráp như
hiện nay. Cùng với nó, công nghiệp phụ trợ có cơ hội phát triển nhằm tận
dụng lợi thế so sánh về nguồn nhân lực và hạ giá thành vận chuyển.
- Công nghiệp chế biến: Nhìn chung, công nghiệp chế biến của Việt
Nam vừa lạc hậu về công nghệ, vừa nhỏ lẻ về quy mô trong tất cả các lĩnh
vực: chế biến nông sản, chế biến thuỷ sản và chế biến khác.
Tác động rõ rệt khi gia nhập WTO là những thay đổi “về chất” trong
ngành công nghiệp chế biến, các sản phẩm sơ chế, mang lại giá trị gia tăng
thấp sẽ dần được thay thế bằng các phương pháp chế biến sâu, hiện đại, đáp
ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường khó tính. Trong phân khúc thị trường,
công nghiệp sơ chế vẫn tồn tại trong ngắn hạn, gắn với vùng nguyên liệu tập
trung và hướng tới một nhóm khách hàng trong nước.
3.5. Một số giải pháp
Công nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng cả về qui mô, năng lực
sản xuất, kim ngạch xuất khẩu và giá trị sản lượng sau WTO với những thế
101
mạnh về gia công và khai thác. Tuy vậy, để công nghiệp mang lại giá trị gia 20 Các nhà phân tích thị trường tính toán, trong giai đoạn 5 năm tới, riêng nhu cầu ô thay thế cho xe công nông đã chiếm khoảng 75.000 chiếc; thay thế xe bus chiếm 32.000 chiếc.
tăng cao hơn, chuyển dịch từ gia công lắp ráp sang những lĩnh vực có hàm
lượng công nghệ cao, trước hết cần xác định chiến lược phát triển ngành, theo
đó, cần tập trung vào các biện pháp pháp gia tăng giá trị trong ngành có lợi
thế, sử dụng nhiều lao động, đồng thời thúc đẩy phát triển công nghiệp có
trình độ công nghệ cao.
3.5.1. Điều chỉnh cơ cấu công nghiệp
Đẩy mạnh quá trình đổi mới, sắp xếp hợp lý hoá, xây dựng cơ cấu
ngành công nghiệp linh hoạt, có hiệu quả trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh
và tạo lập lợi thế so sánh mới phù hợp với yêu cầu phát triển. Lựa chọn cơ cấu
ngành công nghiệp theo hướng giảm dần quy mô các ngành công nghiệp khai
thác tài nguyên, nhất là khai thác các loại tài nguyên không thể tái tạo; Phân
bố doanh nghiệp công nghiệp gắn với chiến lược phát triển chung và qui
hoạch ngành. Điều chỉnh trên cả 3 nội dung: cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần,
cơ cấu vùng. Phân loại nhóm ngành tuỳ thuộc vào năng lực cạnh tranh và khả
năng tác động sau gia nhập WTO để lựa chọn giải pháp phù hợp:
- Ngành dệt may:
+ Thực hiện các biện pháp nhằm tăng thêm giá trị gia tăng trong sản
phẩm bằng cách phát triển công nghiệp cung cấp nguyên liệu trong nước, hạn
chế nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào mà Việt Nam có thể cung cấp được
như bông, vải, phụ liệu. Phát triển công nghiệp đầu vào cho dệt may cần chú
ý đến năng lực cạnh tranh và chất lượng sản phẩm khi so sánh với các nguyên
liệu ngoại nhập.
+ Đầu tư phát triển các khâu tạo giá trị gia tăng cho dệt may như thiết
kế, tiếp thị... Khi hình ảnh và thương hiệu của sản phẩm Việt Nam đã định vị
được trên thị trường, giá trị gia tăng mang lại trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ lớn
hơn rất nhiều so với việc gia công theo đơn đặt hàng hiện nay.
+ Kết hợp qui hoạch ngành dệt may với qui hoạch vùng và lãnh thổ.
Thực tế cho thấy, giai đoạn vừa qua công nghiệp dệt may tập trung ở các
trung tâm lớn (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai...) và rất thuận lợi trong
102
thu hút lao động. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một số tỉnh phát triển ngành
công nghiệp này cho thấy lợi thế về giá cả sinh hoạt, chỗ ở, giá nhân công rẻ
... nên có ưu thế. Do đó, các thành phố lớn nên tập trung đầu tư cho các khâu
dịch vụ, quảng cáo, thiết kế ... và các nhà máy nên dịch chuyển đến những
vùng lân cận.
- Công nghiệp chế biến:
+ Có những biện pháp khuyến khích với các nhà đầu tư nước ngoài vào
lĩnh vực này vì chịu nhiều rủi ro của thời tiết, tính mùa vụ của nguyên liệu và
thị trường không ổn định.
+ Hình thành những vùng chuyên canh, ứng dụng thành tựu công nghệ
vào sản xuất nhằm tạo các sản phẩm đầu ra có chất lượng đồng đều. Đây cũng
là những căn cứ để thu hút đầu tư vào công nghiệp chế biến. Ngoài ra, cần tạo
mối liên kết gắn bó trong qui trình sản xuất nguyên liệu - công nghiệp chế
biến - tiêu thụ sản phẩm sau chế biến.
+ Đổi mới công nghệ chế biến đã lạc hậu bằng các công nghệ tiên tiến,
gắn vùng nguyên liệu với qui mô đầu tư vừa phải (dễ thay mới khi công nghệ
thay đổi).
- Công nghiệp lắp ráp:
+ Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là ngành có trình độ công
nghệ cao, do đó thu hút thành công những dự án lớn, công nghệ hiện đại là lựa
chọn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu phát triển sẽ tạo tiền đề để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Tạo điều kiện cho những dự án đã đầu tư ở Việt Nam, nhất là các dự
án lớn, trình độ công nghệ cao như Intel, Microsoft ... qua đó tạo tiền lệ tốt
đối với các tập đoàn lớn thông qua tác động lan toả. Các doanh nghiệp qui mô
lớn, trình độ công nghệ cao quyết định đầu tư sẽ kéo theo chuỗi các nhà cung
ứng (công nghiệp phụ trợ) và dịch vụ tương thích đi kèm.
+ Để công nghiệp lắp ráp trong nước dần tiếp cận với công nghệ, trình
103
độ quản lý hiện đại, trong ngắn hạn, có thể phát triển các liên doanh thay thế
hàng nhập khẩu. Giai đoạn tiếp theo sẽ đẩy mạnh sản xuất theo chiều sâu,
hướng tới các thị trường xuất khẩu.
3.5.2. Huy động và sử dụng vốn
Nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp và xây dựng tới 2010 và giai
đoạn 2010 - 2020 rất lớn21, đòi hỏi phải có những biện pháp phù hợp:
- Với vốn ngân sách: Điều chỉnh luồng vốn theo hướng ưu tiên đầu tư
cho hạ tầng công nghiệp. Để nguồn vốn này phát huy hiệu quả, các công việc
đi kèm cần chuẩn bị kỹ lưỡng như rà soát qui hoạch, tăng cường công tác
giám sát đầu tư, thanh tra, kiểm tra các công trình, dự án đầu tư.
Xác định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước về vốn đầu tư, tăng cường
phân cấp quản lý và trách nhiệm của người đứng đầu. Gắn trách nhiệm cá
nhân với từng khâu ra quyết định trong quá trình đầu tư theo nguyên tắc mỗi
khâu đều có một cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm đến cùng.
- Với vốn ngân hàng: Giao quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại
nhà nước trong các quyết định cho vay đầu tư và trách nhiệm bảo toàn vốn.
Kiên quyết không để tình trạng nợ xấu phát sinh, vừa “mất điểm” trong lĩnh
vực đầu tư ngân hàng đối với các nhà đầu tư nước ngoài, vừa kém hiệu quả
trong các dự án đầu tư theo “mệnh lệnh”.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư
nước ngoài, ưu tiên các hướng đầu tư cho công nghiệp phụ trợ, công nghiệp
trình độ cao. Từ bỏ các dự án công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường hoặc tác
động xấu đến phát triển bền vững.
- Huy động vốn từ dân cư: Phát triển và lành mạnh hoá thị trường
chứng khoán theo hướng gắn giá trị cổ phiếu với kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Trước mắt, tiếp tục cổ phần hoá các doanh nghiệp hoạt
động hiệu quả, tăng cung trên thị trường và qui định chặt chẽ hơn các điều
21 Theo tính toán của Bộ Công nghiệp, nhu cầu vốn đầu tư cho công nghiệp và xây dựng giai đoạn 2006-2010 khoảng 825-874 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 44% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng khoảng 1,8 lần giai đoạn 2001-2005. Nguồn: Báo cáo của Bộ Công nghiệp.
104
kiện phát hành cổ phiếu. Ngoài ra, sàn giao dịch chứng khoán cần xây dựng
các điều kiện tối thiểu (qui mô, kết quả hoạt động, khả năng thanh khoản các
giao dịch sơ cấp...) mới cho tham gia lên sàn.
3.5.3. Nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp
- Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học với hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp (bằng hình thức tài trợ, kết hợp giữa doanh nghiệp với tổ chức nghiên
cứu hoặc phối hợp giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước về khoa
học công nghệ các cấp).
- Thay đổi cách đánh giá tiêu chí khoa học theo hướng từ việc kê khai
số lượng công trình sang các kết quả đã được ứng dụng trong thực tiễn, nhất
là với khoa học thực nghiệm.
- Chuyển hướng đầu tư kinh phí cho khoa học công nghệ từ các chương
trình nghiên cứu theo thời gian (theo giai đoạn nhất định) sang nghiên cứu
theo vấn đề: vấn đề tiết kiệm năng lượng, vấn đề giảm thiểu ô nhiễm...
- Phát triển các chợ công nghệ tạo sự liên kết giữa các trung tâm nghiên
cứu với các doanh nghiệp và giữa các trung tâm với nhau.
- Tìm kiếm giải pháp phát triển trong các phân ngành hẹp như dệt may,
giày dép, thiết kế thời trang... bằng cách đặt hàng hoặc phối hợp nghiên cứu.
- Tăng thu hút các dự án trong những ngành, lĩnh vực hiện nay Việt
Nam còn yếu nhằm tranh thủ công nghệ, từng bước chuyển giao, tiếp thu
công nghệ mới.
3.5.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm
công nghiệp
- Đối với khu vực doanh nghiệp công nghiệp: (1) Kiên quyết thực hiện
các biện pháp cổ phần hoá theo phương án tổng thể đã được Thủ tướng phê
duyệt. Bộ chủ quản cũng cần rà soát lại những DNNN không nằm trong diện
sắp xếp, nhưng hoạt động kém hiệu quả hoặc nhà nước không cần nắm giữ để
lựa chọn các phương án tái cấu trúc; (2) Vận hành hiệu quả các tập đoàn kinh
tế ngành công nghiệp như Than - Khoáng sản, Điện lực, Dệt may, Dầu khí
105
theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi đơn vị thành viên và của
toàn tập đoàn; (3) Thúc đẩy phát triển mô hình công ty mẹ - công ty con trong
các doanh nghiệp ngành công nghiệp; (4) Xây dựng mối liên kết giữa các
doanh nghiệp lớn trong ngành công nghiệp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
tạo những vệ tinh cần thiết trong cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ
sản phẩm.
- Đối với sản phẩm công nghiệp: Bên cạnh những biện pháp nâng cao
chất lượng, hạ giá thành là việc đáp ứng các tiêu chuẩn khác nhau tuỳ thuộc
vào thị trường tiêu thụ. Đối với thị trường trong nước, hàng hoá đáp ứng tiêu
chuẩn Việt Nam (TCVN) nhưng với các thị trường khác, các bộ tiêu chuẩn có
nhiều khác biệt (ISO, SA 8000, HACCP...), do đó, mỗi doanh nghiệp cần lựa
chọn công nghệ sản xuất, qui trình quản lý ... phù hợp với mục tiêu, chiến
lược và thị trường của mình.
3.5.5. Đào tạo nguồn nhân lực
- Thay đổi cơ chế tài chính đối với các cơ sở đào tạo nghề theo hướng
tự hạch toán. Nguồn thu của các cơ sở đào tạo nghề là tiền đóng học phí và
các chương trình liên kết đào tạo giữa cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp
theo đơn đặt hàng.
- Các hiệp hội ngành nghề cần có qui hoạch nhằm xác định nhu cầu, số
lượng người và nghề cần đào tạo trong từng giai đoạn, trên cơ sở đó xây dựng
kế hoạch và liên kết với các cơ sở đào tạo để cung ứng nguồn nhân lực theo
yêu cầu.
- Gắn đào tạo với các khu công nghiệp tập trung, đồng thời qui hoạch
đào tạo nghề cho các vùng nông thôn theo nhóm (nhóm thành lập doanh
nghiệp; nhóm làm nghề; nhóm mới gia nhập thị trường lao động; nhóm cần
đào tạo lại...).
3.5.6. Một số giải pháp khác
- Đổi mới quản lý nhà nước trong công nghiệp: Giải quyết hợp lý mối
quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp và thị trường; Hoạt động quản lý
của Nhà nước cần được tiếp tục điều chỉnh theo hướng từ bỏ mọi biểu hiện
106
của sự tập quyền trong quản lý, xoá bỏ các chính sách bao cấp, sử dụng các
quan hệ thị trường trong và ngoài nước để xây dựng phương án phân bố các
nguồn lực cho phát triển công nghiệp; Tôn trọng quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh trên cơ sở
tôn trọng luật pháp của Nhà nước, nâng cao khả năng thích ứng của doanh
nghiệp với các điều kiện của môi trường kinh doanh và sự biến động của thị
trường trong và ngoài nước.
Đổi mới quản lý Nhà nước theo hướng phục vụ doanh nghiệp, thị
trường, trong đó tạo môi trường thuận lợi, rõ ràng minh bạch và ổn định cho
phát triển công nghiệp phải là chức năng quan trọng hàng đầu.
- Huy động tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp.
Thực hiện phân bổ và sử dụng hợp lý nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước
vào những chương trình trọng điểm về phát triển kết cấu hạ tầng và đào tạo
nguồn nhân lực trình độ cao. Đồng thời tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi huy
động rộng rãi các nguồn đầu tư của toàn xã hội cho phát triển công nghiệp nói
riêng, toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Áp dụng rộng rãi những phương pháp quản lý tiên tiến, áp dụng các
giải pháp cần thiết để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất,
nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan tới lĩnh vực công
nghiệp, tạo môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, lành mạnh
cho các doanh nghiệp công nghiệp. Xây dựng các chính sách theo hướng bảo
đảm tính minh bạch, ổn định và phù hợp với yêu cầu của WTO và các thông
107
lệ quốc tế.
CHƯƠNG 4
TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP
ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP KHI GIA NHẬP WTO
Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến nông nghiệp khó có thể
“cân, đong, đo, đếm” một cách cụ thể. Xét trên bình diện tổng thể toàn bộ nền
kinh tế nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng, việc gia nhập WTO là một
thời cơ lớn và là sự lựa chọn đúng đắn. Tuy vậy, những tác động tích cực hay
tiêu cực đến đâu còn phụ thuộc nhiều nhân tố chủ quan và khách quan; phụ
thuộc vào các giải pháp và tính khả thi của nó; đồng thời phải được xem xét
trên từng lĩnh vực, từng ngành, từng sản phẩm với góc nhìn toàn diện.
4.1. Khái quát hiện trạng nông nghiệp Việt Nam
4.1.1. Thành tựu chủ yếu
Thứ nhất: Sản xuất nông nghiệp đạt tốc độ phát triển cao
Kể từ sau Đổi mới, nông nghiệp Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng
liên tục và đều đặn mặc dù ngành sản xuất này luôn gặp phải những tác động
xấu như thiên tai, bão lũ. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 1990 - 2000
đạt 5,2%. Từ năm 2000 đến nay, mặc dù tốc độ tăng trưởng giảm so với thời
kỳ trước đó nhưng vẫn đạt tốc độ cao so với tốc độ tăng trưởng trung bình của
nông nghiệp thế giới.
So với các năm trước, tăng trưởng ngành nông nghiệp năm 2001 là 3%
so với năm 2000, năm 2002 là 4,2%; năm 2003 đạt 3,6%; năm 2004 là 3,5%;
năm 2005 tăng 3,4%. Riêng trong năm 2006, ngành nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn do thiên tai, dịch bệnh (dịch cúm gà, dịch lở mồm long móng, bệnh
rầy nâu, vàng lùn, bão lũ...), nhưng giá trị sản xuất toàn ngành vẫn tăng khá cao so với năm 2005, đạt 4,2%22. Lĩnh vực chăn nuôi có tốc độ tăng giá trị sản
xuất cao nhất (7,7%), tiếp đến là dịch vụ nông nghiệp (2,7%), trồng trọt
22 Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2006-2007, tr 23
108
(1,9%) và lâm nghiệp (1,1%).
Hình 4.1: Tốc độ gia tăng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2006
(% so với 2005)
%
7.7
4.2
2.7
1.9
1.1
9 8 7 6 5 4 3 2 1 0
Giá trị SX NN
Trồng trọt
Chăn nuôi
Lâm nghiệp
Dịch vụ NN
Nguồn: Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2006-2007, tr. 23.
Thứ hai: Đa dạng hoá ngành, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp; cơ cấu
nội bộ ngành chuyển dịch theo hướng tích cực
Nếu như trước năm 1986, nông nghiệp nước ta chú trọng phát triển
trồng trọt và chăn nuôi thì từ năm 1986 đến nay, các lĩnh vực khác như ngư
nghiệp, lâm nghiệp được chú ý đầu tư và có bước phát triển mạnh. Lĩnh vực
trồng trọt phát triển mạnh không chỉ trong những cây trồng chủ yếu như cây
lương thực, cây công nghiệp mà cả các cây trồng khác như hoa, rau màu, cây
ăn quả, cây thức ăn gia súc, cây dược liệu ... Lĩnh vực chăn nuôi cũng từng
bước đa dạng hoá, từ việc chỉ chú ý đến chăn nuôi gia súc, gia cầm, đến nay
nhiều loại giống nuôi đã được phát triển mạnh. Nhìn chung, nông nghiệp Việt
Nam phát triển đa dạng hơn, bước đầu khai thác được lợi thế so sánh của
vùng, của từng sản phẩm.
Nhiều loại cây công nghiệp đã được trồng ở những vùng đất trống, đồi núi
trọc, từng bước nâng cao đời sống dân cư trong vùng, đồng thời đa dạng hoá cơ
cấu cây trồng, góp phần gia tăng giá trị sản xuất lĩnh vực lâm nghiệp. Trồng rừng
và sản xuất đồ gỗ từng bước khẳng định vị trí trong cơ cấu xuất khẩu.
Ngư nghiệp (cả nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản) đã trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn trong những năm gần đây. Các trang trại, khu vực nuôi cá
tra, cá basa phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu long, góp phần quan trọng
trong giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Các giống thuỷ sản khác như nuôi tôm, ba ba,
109
ngao, ốc hương ... được phát triển mạnh ở những vùng có điều kiện tự nhiên
phù hợp, dọc bờ biển và các tỉnh đồng bằng sông Hồng cũng góp phần đa
dạng hoá cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản, gia tăng giá trị sản xuất toàn ngành.
Năm 2006, mặc dù thời tiết diễn biến bất thường, nhiều cơn bão lớn ảnh
hưởng trực tiếp đến các vùng nuôi trồng thuỷ sản nhưng sản lượng khai thác
vẫn tăng (đạt trên 2 triệu tấn, tăng 0,7% so với năm 2005), nuôi trồng thuỷ sản
đạt mức tăng trưởng cao (đạt trên 1,69 triệu tấn, tăng 14,6%). Sự tăng trưởng
của nuôi trồng và khai thác thuỷ sản tác động trực tiếp đến tăng sản lượng và
kim ngạch xuất khẩu (đạt 3,433 tỷ USD, tăng 25,35% so với năm 2005).
Chăn nuôi phát triển mạnh theo hướng sản xuất tập trung, qui mô lớn.
Nhiều trang trại sản xuất qui mô lớn được hình thành ở nhiều tỉnh trên cả
nước, bước đầu thay đổi tập quán chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún, tự cấp trước
đây. Các con nuôi có xu hướng chuyển dịch từ chăn nuôi lấy sức kéo (trâu,
ngựa) sang các các loại gia súc, gia cầm cho giá trị kinh tế cao, cung cấp thịt,
sữa cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu (bò, dê, cừu, lợn, gia cầm...). Đến
nay, ngành chăn nuôi đã đáp ứng nhu cầu thịt, trứng cho nhu cầu tiêu dùng
trong nước, một phần cho xuất khẩu, đáp ứng khoảng 20% sữa toàn xã hội.
Trồng trọt phát triển khá đa dạng với nhiều vùng cây công nghiệp, cây
ăn quả, rau, hoa ... qui mô lớn: vùng cao su Đông nam bộ, cà phê ở Tây
nguyên, chè Phú Thọ, Thái Nguyên, thanh long ở Bình Thuận, vải ở Bắc
Giang, nhãn ở Hưng Yên, hoa ở Đà Lạt ... Sự phát triển mạnh và đa dạng
trong nông nghiệp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành theo hướng
tích cực, cụ thể: Tỷ trọng của các ngành chăn nuôi, trồng trọt giảm đáng kể.
Trong ngành trồng trọt, các cây trồng truyền thống cũng giảm tỷ trọng, mặc
dù giá trị sản xuất tăng mạnh. Trong ngành chăn nuôi, đàn gia súc lấy sức kéo
giảm mạnh, cùng với nó là đàn gia súc lấy sữa, lấy thịt tăng nhanh.
Sự phát triển đa dạng của nông nghiệp góp phần quan trọng chuyển
dịch cơ cấu ngành này theo hướng tích cực: Tỷ trọng của ngành chăn nuôi,
trồng trọt giảm dần, tương ứng là tỷ lệ tăng của ngành sản xuất ngư nghiệp.
Trong ngành trồng trọt, tỷ trọng của cây lương thực giảm nhanh, tỷ trọng cây
110
công nghiệp tăng khá mạnh.
Hình 4.2: Biến đổi cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp
18.4
19.3
7.9 7.7
5.7 13.2
10.7 4.6
13.8 5.4
5.6
5.2
84.4
84.7
81.1
80.8
76
75.5
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
1986
1990
2000
2005
2006
Nông nghiệ p
1995 Lâm nghiệ p
Ngư nghiệ p
Thứ ba: Sản xuất nông nghiệp chuyển dần sang sản xuất hàng hoá,
hướng về xuất khẩu
Từ sản xuất tự cấp, tự túc, sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã chuyển
dần sang nền sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung, qui mô lớn. Nhiều vùng
sản xuất hàng hoá tập trung, có trình độ chuyên môn cao, qui mô lớn, sản xuất
theo nhu cầu và tín hiệu thị trường đã được hình thành và phát triển. Sản
phẩm nông nghiệp dần chuyển dịch theo hướng khai thác đặc sản, hướng về
xuất khẩu. Sự chuyên môn hoá đã tạo ra khối lượng hàng hoá ngày càng lớn,
chất lượng không ngừng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường trong
nước và quốc tế. Một số sản phẩm nông nghiệp có tỷ suất hàng hoá cao,
không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ, đóng góp ngày càng lớn cho kim
ngạch xuất khẩu: Lượng gạo xuất khẩu chiếm 25% tổng số sản xuất, chiếm
25% thị phần gạo thế giới, là nước đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu mặt hàng
này; Cà phê Việt Nam chiếm 10% thị phần cà phê thế giới, lượng xuất khẩu
đạt 90% tổng số sản xuất trong nước; Cao su đạt tỷ lệ xuất khẩu 85%, chè là
75%, thuỷ sản chiếm 10%... Một số sản phẩm có sản lượng xuất khẩu tăng
nhanh: So sánh sản lượng xuất khẩu năm 2004 với năm 1990 cho thấy, mặt
hàng cà phê tăng 10,8 lần, cao su tăng 6,7 lần, chè tăng 6,1 lần, thuỷ sản tăng
hơn 10 lần.
111
Thứ tư: Một số sản phẩm chủ lực từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh
Một số nông sản (gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều) thời gian qua đã từng
bước tạo lập và khẳng định vị trí trên thị trường quốc tế. Thị trường tiêu thụ
cũng không ngừng được mở rộng, ngoài các thị trường truyền thống như
ASEAN, Nga, Trung Quốc, các sản phẩm nông nghiệp đã bước đầu thâm
nhập thị trường EU, Mỹ, châu Phi.
- Gạo: Là mặt hàng chủ lực của Việt Nam. Từ một quốc gia phải nhập
khẩu lương thực, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia trong nhóm dẫn
đầu về xuất khẩu mặt hàng này. Lượng gạo xuất khẩu cũng tăng qua các năm
mặc dù quá trình đô thị hoá đã thu hẹp một phần diện tích đất cho sản xuất
nông nghiệp. Chất lượng gạo xuất khẩu cũng không ngừng được nâng cao,
gạo phẩm cấp cao (5-10% tấm) ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
lượng xuất khẩu, từng bước thu hẹp khoảng cách giá với Thái Lan trên một
đơn vị xuất khẩu. Trong một vài năm gần đây, các loại gạo đặc sản được chú
ý đầu tư, trồng theo vùng chuyên canh, có qui trình sản xuất khoa học hơn,
góp phần làm gia tăng giá trị trên một đơn vị sản lượng.
- Cà phê: Là mặt hàng được xếp vào nhóm có năng lực cạnh tranh cao.
Diện tích trồng cà phê tăng nhanh, từ 119.300 ha năm 1990 lên 503.200 ha
năm 2004 và sản lượng tăng tương ứng từ 92.000 tấn lên 834.600 tấn. Qui
trình sản xuất từng bước được tiêu chuẩn hoá, nhiều vùng chuyên canh đã ứng
dụng tiến bộ công nghệ trong tưới tiêu, thu hoạch, sơ chế sau thu hoạch và
chế biến sản phẩm. Với ưu thế cạnh tranh về điều kiện tự nhiên, giá lao động
... sản phẩm cà phê Việt Nam từng bước xác lập vị thế trên thị trường thế giới.
- Cao su, chè, hạt tiêu, hạt điều: Có lợi thế về cạnh tranh do đặc điểm tự
nhiên, thổ nhưỡng và giá nhân công. Tuy nhiên, năng suất và chất lượng của
các mặt hàng này không đều, tỷ trọng sản phẩm không đảm bảo các tiêu
chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh .... còn cao, ảnh hưởng đến uy tín và khả
năng mở rộng thị trường của mỗi sản phẩm. Ngoài ra, quy trình sản xuất và
chế biến mang nặng tính thủ công, do đó năng suất thấp.
- Trái cây: Trái cây Việt Nam có triển vọng nằm trong nhóm có khả
năng cạnh tranh do những ưu thế sẵn có. Thời gian qua, diện tích trồng cây ăn
112
trái tăng nhanh, cơ cấu cây trồng đa dạng hơn, bước đầu ứng dụng công nghệ
sinh học trong sản xuất ... đã góp phần tăng nhanh sản lượng, tăng kim ngạch
xuất khẩu.
- Sản phẩm thuỷ sản: Đây là nhóm mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam
trong hiện tại và tương lai gần. Hiện tại, Việt Nam đang là một trong những
nước hàng đầu về xuất khẩu thuỷ sản, trong đó có một số mặt hàng có thế
mạnh độc quyền như tôm sú lớn. Sản phẩm tôm chiếm tỷ trọng khoảng 50%
giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Từ năm 2000 trở lại đây, sản phẩm tôm sú của Việt
Nam không ngừng nâng cao chất lượng với sản lượng đứng đầu trong các
quốc gia xuất khẩu mặt hàng này. Sản lượng thuỷ sản tăng nhanh trong thời
gian gần đây do tăng cả về nuôi trồng và khai thác, trong đó ngành nuôi trồng
có tốc độ tăng nhanh.
Hình 4.3: Kim ngạch xuất khẩu một số nông sản chủ yếu
1399
1350
Triệ u USD 1500
1300
1070
880
1000
772
535
503
500
198
138
109
97
0
Gạo
Cà phê
Cao su
Hạt điều
Hồ tiêu
Chè
2005
2006
Nguồn: Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2005-2006; 2006-2007
4.1.2. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp Việt Nam bộc lộ nhiều
hạn chế, thực sự là những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.
Thứ nhất: Sức sản xuất thấp, qui mô còn nhỏ
Chủ trương giao ruộng đất lâu dài trong sản xuất nông nghiệp cho
người nông dân là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển lĩnh vực này trong
những năm qua. Tuy nhiên, qui mô thửa ruộng cho mỗi hộ thấp, phân tán chỉ
có thể đạt được những kết quả trong giới hạn nhất định (đáp ứng nhu cầu gia
113
đình, một phần mang ra thị trường) và là rào cản đối với người nông dân thực
hiện sản xuất qui mô lớn. Công tác dồn điền, đổi thửa nhằm khắc phục tình
trạng manh mún đã được thí điểm ở một số địa phương, nhưng do nhiều
nguyên nhân, chủ trương này chưa được áp dụng rộng rãi. Bên cạnh đó, số lao
động nông nghiệp cao trên một đơn vị diện tích sản xuất: Việt Nam có 24
triệu lao động nông nghiệp nhưng chỉ có 9 triệu ha đất nông nghiệp, trung bình 2,6 lao động đảm nhiệm 1 ha23, dẫn đến năng suất lao động thấp.
Như vậy, ruộng đất với qui mô nhỏ, phân tán, người nông dân không
thể (hoặc không muốn) đầu tư đồng bộ, ứng dụng thành tựu khoa học công
nghệ vào sản xuất, do đó năng suất chưa cao và chất lượng sản phẩm không
đồng đều. Qui mô nhỏ, sản lượng thấp, người sản xuất cũng không quan tâm
nhiều đến các chỉ tiêu chất lượng, các yêu cầu của hàng rào kỹ thuật mà các
thị trường nhập khẩu nông sản của Việt Nam đang áp dụng. Các doanh nghiệp
xuất khẩu nông sản cũng khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn cung ổn định,
chất lượng đồng đều vì sản phẩm nông nghiệp mang tính thời vụ, sản xuất
không tuân thủ những qui định chung. Một số sản phẩm nông nghiệp nước ta
thời gian qua không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của một số thị trường xuất khẩu
đã và đang ảnh hưởng đến thị phần, đến kim ngạch toàn ngành.
Thứ hai: Hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đồng bộ
và hiện đại
Nhìn từ yêu cầu của nền nông nghiệp hướng về xuất khẩu (sức cạnh
tranh ngành, sản phẩm...) cho thấy, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất nông
nghiệp còn nhiều bất cập, chưa hiện đại và thiếu đồng bộ. Mặc dù một số
vùng chuyên canh, trang trại đã ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào
sản xuất, nhưng còn mang tính cá biệt. Hệ thống thuỷ lợi chưa đáp ứng yêu
cầu sản xuất lớn, kênh mương, hệ thống tưới tiêu cũ, máy móc phục vụ sản
xuất phần lớn lạc hậu, công suất thấp, phương pháp tưới lạc hậu (tưới tràn,
vừa lãng phí nước, vừa phá hỏng kết cấu dinh dưỡng đất). Cơ giới hoá trong
sản xuất chưa đồng bộ, mới thực hiện được trong một vài khâu như làm đất,
thu hoạch, nhưng cũng chưa phổ biến. Điện khí hoá nông nghiệp mới dừng lại
114
ở bơm nước phục vụ tưới tiêu, một vài nơi ứng dụng trong bảo quản sản 23 Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới, tr.250
phẩm. Ứng dụng thành tựu công nghệ sinh học chưa rộng rãi, kết quả chưa
như mong đợi .... Tất cả những yếu tố đó dẫn đến năng suất cây trồng, con
nuôi, hiệu quả sản xuất nông nghiệp còn thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới: Năng suất lúa trung bình của Việt Nam xấp xỉ 5 tấn/ha thì với
Trung Quốc là 6,2 tấn. Lao động trong nông nghiệp chiếm 56% tổng lao động
xã hội nhưng mới chỉ đóng góp được 20% GDP; 1 ha đất nông nghiệp của Đài Loan làm ra 10.000 USD/năm thì Việt Nam mới chỉ đạt 1.500 USD24.
Thứ ba: Năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm nông nghiệp chủ
yếu bộc lộ những hạn chế
Mặc dù tỷ trọng hàng nông lâm sản xuất khẩu chiếm khoảng 35% tổng
khối lượng làm ra, thị trường ngày càng mở rộng, nhưng nhìn chung, sức
cạnh tranh chưa cao, chưa tạo vị thế vững chắc trên thị trường.
- Gạo: Chất lượng gạo xuất khẩu không đồng đều giữa các nguồn sản
xuất ở các khu vực khác nhau. Tỷ lệ gạo đặc sản, giá trị cao còn thấp. Giá gạo
xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn giá gạo xuất khẩu trung bình của các nước
xuất khẩu khác.
Bảng 4.1: So sánh giá xuất khẩu gạo của Việt Nam và Thái Lan
2000
2001
2002
2003
2004
207
178
234
199
237
Gạo Thái Lan, 5% tấm
190
173
230
190
225
Gạo Việt Nam qui ra 5% tấm
17
5
4
9
12
Chênh lệch
Nguồn: FAO
Đơn vị: USD/tấn
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do chất lượng gạo của Việt Nam
thấp, khó thâm nhập vào những thị trường lớn, có yêu cầu cao về độ đồng đều
và các tiêu chuẩn kỹ thuật ngặt nghèo. Bên cạnh đó, khả năng khai thác thị
trường mới, quảng bá hình ảnh, đàm phán ký kết hợp đồng ... chúng ta chưa
24 Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới, tr.250
115
làm tốt như Thái Lan.
- Cà phê: Chủ yếu xuất khẩu thô với sản phẩm cà phê vối.
- Cao su, chè: Năng suất thấp, chất lượng không đồng đều giữa các
vùng chuyên canh. Sản phẩm chè thường có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
vượt quá tiêu chuẩn. Giá sản phẩm chè của Việt Nam thường thấp hơn giá chè trên thị trường thế giới từ 600 - 1000 USD/tấn25.
- Trái cây: So với các sản phẩm cùng loại trong khu vực (nhất là với
Thái Lan), trái cây Việt Nam thua kém cả về chất lượng và giá thành. Về chất
lượng, trái cây Việt Nam vẫn sử dụng nhiều giống cũ, sản xuất mang tính tự
nhiên, do đó chất lượng và năng suất thấp. Giá thành sản xuất trái cây Việt
Nam cũng cao hơn so với các chủng loại sản phẩm trong khu vực: So với Thái Lan, giá thành cam của Việt Nam cao hơn 4 lần, xoài cao hơn 5 lần26.
- Sản phẩm thuỷ sản: Công nghệ đánh bắt và nuôi trồng nhìn chung còn
lạc hậu, được thực hiện chủ yếu bởi hộ gia đình, qui mô nhỏ, tài chính hạn
chế, không áp dụng được những tiến bộ công nghệ. Công nghệ chế biến đã
từng bước tiếp cận với trình độ khu vực, nhưng chưa đồng đều, hiện còn
khoảng 40% nhà máy chế biến qui mô nhỏ, chủ yếu thực hiện sơ chế. Tỷ
trọng lao động thủ công trong công nghiệp chế biến mang tính phổ biến. Chất
lượng hàng thuỷ sản vượt quá tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Chất
lượng sản phẩm hàng thuỷ sản bộc lộ hàng loạt những yếu kém như dư lượng
kháng sinh, tạp chất trong sản phẩm, chứng minh xuất xứ kém ... đã ảnh
hưởng đến năng lực cạnh tranh của mặt hàng có nhiều tiềm năng này.
Tóm lại: Bên cạnh những kết quả đạt được, nông nghiệp Việt Nam phát
triển chủ yếu theo chiều rộng, chưa đầu tư mạnh vào khoa học công nghệ, sản
xuất mang nặng tính tự nhiên, manh mún ... sẽ trở thành những thách thức
không nhỏ trong thực hiện các ràng buộc đa phương về sản phẩm nông sản.
Mặc dù về nguyên tắc, các quốc gia thành viên phải cam kết mở cửa thị
trường hàng nông sản, nhưng trên thực tế, các hàng rào kỹ thuật rất khắt khe
mà các nước phát triển dựng lên nhằm bảo hộ sản xuất trong nước cũng sẽ là
25 Thời báo kinh tế Việt Nam, 24/3/2003 26 Thời báo kinh tế Việt Nam, 17/8/2003
116
những thách thức đối với các sản phẩm nông nghiệp nước ta hiện nay. Bên
cạnh đó, các sản phẩm chủ lực trong nông nghiệp của Việt Nam cũng là
những sản phẩm có thế mạnh của các quốc gia trong khu vực, nhất là Trung
Quốc và Thái Lan, trong khi trình độ sản xuất, năng lực khai thác thị trường,
chất lượng sản phẩm và giá thành của hàng Việt Nam thường có sức cạnh
tranh thấp hơn, nên mặc dù trở thành thành viên WTO nhưng sản phẩm nông
nghiệp Việt Nam cũng sẽ gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, những bất cập
trong lĩnh vực nông nghiệp còn phải kể đến kết cấu hạ tầng cho phát triển
chưa đáp ứng yêu cầu, hệ thống pháp lý bộc lộ những điểm chưa phù hợp, yêu
cầu vệ sinh an toàn thực phẩm chưa trở thành nguyên tắc mang tính bắt buộc, tập quán sản xuất lạc hậu, tuỳ tiện27 ...
4.2. Các cam kết chủ yếu của Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp
Nông nghiệp có tầm ảnh hưởng lớn đối với bộ phận lớn cư dân trên thế
giới, ước tính có khoảng 2,5 tỷ người trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra thu nhập
cho mình từ lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, nông nghiệp giữ vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo cuộc sống của người nghèo. Tuy nhiên, thị trường
nông sản dễ dàng bị bóp méo bởi mức thuế bảo hộ bình quân cao, trợ cấp xuất
khẩu hay những trợ cấp khác trong sản xuất. Ngoài ra, các qui định về vệ sinh
dịch tễ cũng tác động mạnh đến thị trường sản phẩm nông nghiệp. Trước bối
cảnh đó, WTO thấy sự cần thiết phải đưa vấn đề nông nghiệp vào trong khuôn
khổ những nguyên tắc của mình nhằm cải cách các điều kiện đối với thương
mại hàng nông sản, đảm bảo sự ổn định và an toàn trong lĩnh vực nông nghiệp
đối với cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. Nhằm tạo ra một khuôn khổ
cho thương mại hàng nông sản thế giới và tăng cường trao đổi mặt hàng này,
cuối vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cùng nhau ký Hiệp định Nông
nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp đã đạt được những thoả thuận về mở cửa thị
trường nông sản, thuế hoá các biện pháp phi thuế và giảm trợ cấp cũng như
mức hỗ trợ trong nước của các nước thành viên. Vì vậy, khi gia nhập WTO,
27 Bảo quản thuốc bảo vệ thực vật của người dân: 81,4% cất trong nhà, gầm giường ngủ; 7% để ở chuồng lợn. Trong sử dụng: trên 94% sử dụng không có hướng dẫn, tự pha chế; trên 80% không hiểu biết tính độc hại của mỗi loại thuốc; 50% dùng tay (không có găng bảo vệ) để pha chế thuốc. (Báo Lao động Thủ đô 31/7/2003)
117
nước ta cũng phải thực hiện những cam kết trên.
Hộp 4.1: Thế nào là “bóp méo cạnh tranh”? Đây là một vấn đề lớn. Nền thương mại sẽ bị bóp méo khi giá cả được duy trì ở mức cao hay thấp hơn mức bình thường và khi khối lượng hàng hoá được sản xuất, mua và bán cũng nhiều hay ít hơn mức bình thường (mức bình thường có nghĩa là mức được duy trì trên các thị trường có cạnh tranh).
Chẳng hạn, những cản trở đối với nhập khẩu và các khoản trợ cấp trong nước có thể làm tăng giá của các sản phẩm nông nghiệp trên thị trường nội địa của một nước. Giá tăng thì lại kích thích sản xuất dư thừa. Nếu muốn bán lượng hàng hoá dư thừa ra thị trường thế giới, nơi giá cả vốn thấp hơn, thì cần phải có trợ cấp xuất khẩu. Kết quả là các nước có chính sách trợ cấp lại có thể sản xuất và xuất khẩu được nhiều hơn mức thông thường.
Để biện minh cho chính sách hỗ trợ và bảo hộ nông dân của mình, ngay cả khi điều đó làm tổn hại đến việc buôn bán nông sản, chính phủ các nước thường vin vào ba lí do sau:
- Nhằm đảm bảo sản xuất đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu quốc gia;
- Nhằm bảo vệ người nông dân khỏi những tác động xấu của thời tiết cũng như
những biến động giá cả trên thị trường thế giới; - Nhằm bảo vệ xã hội nông thôn. Tuy nhiên, các chính sách được áp dụng lại thường rất tốn kém, gây ra sản xuất dư thừa, dẫn đến chiến tranh về trợ cấp xuất khẩu. Còn nước nào mà có ít khả năng trợ cấp thì phải chịu thua thiệt. Trong các cuộc đàm phán, các nước thường thảo luận về việc liệu có khả năng đạt được ba mục tiêu trên mà vẫn không bóp méo cạnh tranh hay không.
Nguồn: Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2004), Tìm hiểu về Tổ chức thương mại thế giới.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 150 của đại
gia đình WTO với xuất phát điểm GDP năm 2005 đạt 52,4 tỷ USD (1% GDP
thế giới) và kim ngạch xuất khẩu là 32,4 tỷ USD (0,3% tổng kim ngạch xuất
khẩu thế giới). Việc tham gia WTO tạo những cơ hội cho Việt Nam thâm
nhập thị trường nông sản thế giới với kim ngạch 548 tỷ USD/năm, đồng thời
cũng sẽ phải chia sẻ thị trường nội địa 82 triệu dân trong điều kiện cạnh tranh
công bằng. Trong lĩnh vực nông nghiệp các cam kết của chính phủ Việt Nam
khi gia nhập WTO là: Bỏ trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản, hỗ trợ nông sản
nội địa sẽ chỉ được duy trì ở mức tối đa 10% giá trị sản lượng như các nước
đang phát triển khác trong WTO và mức cam kết cắt giảm bình quân đối với
sản phẩm nông nghiệp là từ 25,2% xuống còn 21%. Một số sản phẩm nông
nghiệp tiêu biểu được chính phủ Việt Nam cam kết cắt giảm thuế như thịt bò,
118
thịt lợn (heo), sữa nguyên liệu...
TT
Bảng 4.2: Một số sản phẩm tiêu biểu cam kết cắt giảm thuế quan
Mặt hàng
Cam kết với WTO Thuế suất cuối cùng (%)
Thời hạn thực hiện (năm)
5 - 2 5 5 3-5 5 5-6 3 5 2 3 5 5 3 5 5 5 3
Thịt bò Thịt heo Sữa nguyên liệu Sữa thành phẩm Thịt chế biến Bánh kẹo (thuế suất BQ) Bia Rượu Thuốc lá điếu Xì gà Thức ăn gia súc Bột mì Cam Chuối Đậu các loại Đường tinh luyện Hạt điều Khoai tây Thịt cừu, dê
14 15 18 25 22 25,3 35 45-50 135 100 7 15 20 25 20 85 25 10 7
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19
Thuế suất khi gia nhập (%) 20 30 20 30 40 34,4 65 65 150 150 10 20 40 40 30 100 40 20 10
Nguồn: www.mof.gov.vn
* Về các cam kết cắt giảm trợ cấp
Đối với trợ cấp xuất khẩu: Hiệp định về nông nghiệp cấm việc trợ cấp
cho xuất khẩu nông sản, trừ phi chúng được nêu rõ trong các danh mục cam
kết của các nước thành viên. Trong trường hợp đó, các nước sẽ bị buộc phải
giảm đồng thời mức trợ cấp và khối lượng hàng hoá xuất khẩu được trợ cấp.
Với cơ sở là mức trợ cấp trung bình của giai đoạn 1986-1990, các nước phát
triển chấp nhận giảm 36% giá trị các khoản trợ cấp xuất khẩu trong vòng 6
năm kể từ năm 1995 (24% trong vòng 10 năm đối với các nước đang phát
triển). Các nước phát triển cũng thoả thuận giảm 21% khối lượng hàng hoá
xuất khẩu được trợ cấp trong vòng 6 năm (14% trong vòng 10 năm đối với
các nước đang phát triển). Các nước kém phát triển không cần phải có bất cứ
cam kết gì về vấn đề này.
Về nội dung này, Việt Nam cam kết bãi bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu cho
hàng nông sản khi được chính thức kết nạp vào WTO. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn được bảo lưu quyền thụ hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho
119
một nước đang phát triển trong lĩnh vực này trong một thời gian nhất định.
Đối với trợ cấp sản xuất trong nước: WTO phân loại hỗ trợ làm 3
nhóm: hộp vàng, hộp xanh da trời và hộp xanh lá cây. Các miễn trừ bao gồm
(1) Mức hỗ trợ thấp hơn 5% giá trị sản xuất; (2) Những hỗ trợ được xem là có
ảnh hưởng tối thiểu đến sản xuất và thương mại, chẳng hạn như hỗ trợ về thu
nhập khi gặp thiên tai, hỗ trợ bảo vệ môi trường ... ; (3) Hỗ trợ liên quan đến
quá trình hạn chế sản xuất.
Hộp 4.2: Hỗ trợ trong nước trong Hiệp định Nông nghiệp
Hỗ trợ hộp vàng: Làm bóp méo thương mại, chẳng hạn như các biện pháp hỗ trợ kích thích sản xuất, khuyến khích sản xuất dư thừa, dẫn tới đẩy lùi các sản phẩm nhập khẩu ra khỏi thị trường nội địa, kéo theo trợ cấp xuất khẩu và bán phá giá trên thị trường thế giới.
Hỗ trợ hộp xanh lá cây: Hỗ trợ có mức độ bóp méo thương mại ít hơn hộp vàng. Một số khoản đền bù trực tiếp cho nông dân khi họ bị buộc phải hạn chế sản xuất, một số chương trình trợ giúp của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và nông thôn tại các nước đang phát triển và các biện pháp hỗ trợ khác có quy mô khiêm tốn (nguyên tắc “minimis” - không đáng kể) so với tổng giá trị của sản phẩm hoặc của các sản phẩm được trợ cấp (dưới 5% đối với các nước phát triển và dưới 10% đối với các nước đang phát triển).
Hỗ trợ hộp xanh da trời: Là những hỗ trợ được coi là ảnh hưởng ít hoặc không ảnh hưởng đến thương mại và sản xuất. Các biện pháp này bao gồm những dịch vụ được nhà nước đảm bảo như nghiên cứu, y tế công cộng, cơ sở hạ tầng và an ninh lương thực. Chúng cũng gồm những khoản bồi thường được rót trực tiếp cho nông dân nhưng không nhằm mục đích khuyến khích sản xuất, ví dụ như một số hình thức trực tiếp hỗ trợ thu nhập, trợ cấp cho việc tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, và những khoản chi trả trực tiếp trong khuôn khổ chương trình bảo vệ môi trường và hỗ trợ phát triển các vùng.
Theo thông báo của Việt Nam cho WTO, tổng mức hỗ trợ sản xuất
trong nước (Total AMS) giai đoạn cơ sở 1999 - 2001 là 3.961,59 tỉ
VNĐ/năm. Các chính sách hỗ trợ của chúng ta đa phần nằm trong diện "hộp
xanh" và "Đối xử đặc biệt và khác biệt" dành cho các nước đang phát triển.
Đây là những nhóm được tự do áp dụng. Tuy nhiên, thời gian trước mắt, ngân
sách nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này.
Ở nhóm hỗ trợ "hộp xanh lá cây" nước ta vẫn được phép trợ cấp tối đa
10% giá trị sản lượng hàng nông sản. Về nguyên tắc, những cam kết trong
việc loại bỏ trợ cấp đối với sản xuất hàng nông sản không ngăn cản Việt Nam
tiếp tục hỗ trợ cho ngành sản xuất nông sản. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh
120
tế và ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp như chúng ta, hoàn toàn không
phải dễ dàng áp dụng được đầy đủ các yêu cầu của Hiệp định nông nghiệp
(Hiện tại, mức hỗ trợ trong nước thấp hơn 10%).
* Về các cam kết mở cửa thị trường hàng nông sản
Nguyên tắc mới đối với mở cửa thị trường nông nghiệp là chỉ áp dụng
thuế quan. Trước vòng đàm phán Uruguay, việc nhập khẩu một số hàng nông
sản bị hạn chế bởi các hạn ngạch và các biện pháp phi thuế quan khác. Tuy
nhiên, các biện pháp này đã được thay thế bằng thuế quan. Thuế quan cho
phép đảm bảo một mức bảo hộ tương đương: nếu biện pháp trước đây sẽ làm
tăng 75% giá hàng hoá trên thị trường nội địa so với giá trên thị trường thế
giới, thì thuế suất mới áp dụng có thể lên đến 75% (cách thức chuyển hoá hạn
ngạch và các biện pháp phi quan thuế khác sang thuế quan còn được gọi là
quá trình “thuế hoá”)
Trong tiến trình đàm phán song phương với 28 đối tác và đàm phán đa
phương về mở cửa thị trường, Việt Nam đã cam kết giảm thuế nông sản 20%
so với mức thuế ưu đãi tối huệ quốc (MFN) hiện hành, tức là từ mức 23,5%
như hiện nay xuống còn 20,9% (tính theo mức thuế trong hạn ngạch của một
số mặt hàng) trong vòng từ 5 đến 7 năm tới. Mức độ giảm có sự khác nhau
giữa các sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm. Khái quát chung là các sản phẩm
chế biến hiện có mức thuế cao (40% - 50%) thì bị yêu cầu giảm nhiều hơn so
với nông sản thô.
Những nhóm hàng cụ thể phải giảm nhiều là thịt, sữa, rau quả chế biến,
thực phẩm chế biến, quả ôn đới (táo, lê, đào, nho, ki-wi). Các mặt hàng nông
sản thô chúng ta có khả năng xuất khẩu lớn như gạo, cà-phê, cao su, hạt tiêu,
hạt điều... không giảm hoặc giảm rất ít. Một số mặt hàng vẫn sẽ áp dụng hạn
28 Trong số các sản phẩm thuộc phạm vi Hiệp định về nông nghiệp, cá và các sản phẩm từ cá không nằm trong khuôn khổ Hiệp định trên mà thuộc sản phẩm công nghiệp. Mức thuế nhập khẩu đối với sản phẩm cá và cá đã thấp hơn so với các sản phẩm công nghiệp khác (dược, điện tử, gỗ... ), nhưng cao hơn so với các sản phẩm nông nghiệp, mức thuế đối với cá và sản phẩm cá vẫn khá cao
121
ngạch thuế quan trong một thời gian nữa là đường, muối, trứng, gia cầm, thuốc lá28.
Bảng 4.3: Những cam kết quan trọng nhất trong Hiệp định Nông nghiệp
Nội dung
Các nước đang phát triển (10 năm, 1995 - 2004)
- 24% - 10% -13% Dưới 10% giá trị sản xuất
Thuế quan cắt giảm trung bình - Cho tất cả sản phẩm N.nghiệp - Tối thiểu cho từng sản phẩm Hỗ trợ trong nước - Hỗ trợ làm bóp méo thương mại (hộp vàng) - Hỗ trợ được miễn cắt giảm
Các nước phát triển (6 năm:1995- 2000) - 36% - 15% -20% Dưới 5% giá trị sản xuất -36% -21%
-24% -14%
Trợ cấp xuất khẩu - Giá trị trợ cấp - Khối lượng được trợ cấp (Giai đoạn cơ sở: 86-90) Mức cơ sở cho cắt giảm thuế là mức ràng buộc trước ngày 1/1/1995, hoặc đối với những mặt hàng chưa được ràng buộc thì áp dụng mức thực tế vào tháng 9/1986 khi Vòng đàm phán Uruguay bắt đầu.
* Các biện pháp vệ sinh dịch tễ: Theo qui định, các nước được phép tự
mình đặt ra tiêu chuẩn vệ sinh, nhưng chúng phải dựa trên cơ sở khoa học
(khuyến khích sử dụng những tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi trên thế
giới). Cam kết của Việt Nam là sẽ áp dụng những tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ
đã được công nhận rộng rãi trong từng trường hợp cụ thể.
Hộp 4.3: Các tiêu chuẩn quốc tế này là gì?
Phụ lục của Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ nêu rõ đó là
những tiêu chuẩn đã được các cơ quan sau soạn ra:
- Codex Alimentarius, Uỷ ban hỗn hợp của Tổ chức nông lương Liên hợp quốc và
Tổ chức y tế thế giới (FAO/WHO): Áp dụng cho lương thực
- Tổ chức thế giới về sức khoẻ động vật (Cơ quan quốc tế về bệnh dịch động vật):
Áp dụng cho sức khoẻ động vật
- Ban thư ký Công ước quốc tế về bảo vệ các loại thực vật: Áp dụng cho việc bảo
tồn các loài thực vật.
Chính phủ các nước có thể bổ sung vào danh sách này tất cả những tổ chức hay
hiệp định quốc tế khác mà tất cả các thành viên của WTO đều có thể tham gia.
Nguồn: Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2004), Tìm hiểu về Tổ chức thương mại thế giới.
Một điểm lưu ý trong việc thực hiện các cam kết của Việt Nam là Hiệp
định Nông nghiệp chưa đủ chặt chẽ để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các
thành viên. Trên thực tế, nhiều nước đã không tuân thủ đầy đủ Hiệp định
Nông nghiệp. Hỗ trợ nông nghiệp của các nước OECD vẫn còn rất cao, năm
122
1997 là 280 tỷ USD, năm 1998 là 307 tỷ USD, trong đó, EU chiếm tới 142 tỷ,
Hoa Kỳ 100 tỷ và Nhật Bản 60 tỷ, năm 1998 là 362 tỷ USD (tăng khoảng 8%
so với năm 1997).
4.3. Nông nghiệp sau gia nhập WTO
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất toàn ngành nông -
lâm - ngư nghiệp 9 tháng năm 2007 tăng 4,2% so với cùng kỳ năm 2006
(trong đó nông nghiệp tăng 2,6%; lâm nghiệp tăng 1,1% và thuỷ sản tăng
9,6%). Giá trị gia tăng toàn ngành tính đến hết tháng 9/2007 tăng khoảng
3,02% so với cùng kỳ năm 2006 (thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2006 so với
năm 2005 là 3,41%). Sản lượng vụ đông xuân 2007 ước đạt 17,1 triệu tấn, giảm
531,3 nghìn tấn so với vụ đông xuân năm trước, trong đó các địa phương phía
Bắc 6,2 triệu tấn, giảm 597,5 nghìn tấn, do diện tích giảm 0,6% và năng suất lúa
giảm 8,2%; các địa phương phía Nam đạt 10,9 triệu tấn, tăng 66,2 nghìn tấn,
chủ yếu do năng suất tăng 0,4 tạ/ha. Sản lượng hầu hết các cây trồng vụ đông
xuân khác đều tăng so với cùng vụ năm trước.
Bảng 4.4: Kết quả sản xuất vụ đông xuân năm 2007
Thực hiện vụ đông xuân năm 2007
Cả
Vụ đông xuân năm 2007 so với vụ đông xuân 2006 (%) Cả
Chia ra
Chia ra
nước Miền Bắc Miền Nam
nước Miền Bắc Miền Nam
19014,6
7863,7
11150,9
98,3
95,1
100,7
Tổng sản lượng lương thực có hạt (Nghìn tấn) Diện tích, năng suất và sản lượng một số cây trồng
2986,6 57,1 17056,9
1140,8 54,4 6201,0
1845,8 58,8 10855,9
99,7 97,3 97,0
99,4 91,8 91,2
99,9 100,7 100,6
533,8 36,7 1956,7
473,9 35,1 1661,7
59,9 105,6 49,2 105,7 295,0 111,6
106,5 106,0 112,9
98,7 106,2 104,8
15,1
125,0 79,6 994,6
109,9 73,3 805,6
98,6 125,2 102,0 189,0 100,6
99,1 101,8 100,9
95,0 104,5 99,2
Lúa đông xuân Diện tích (Nghìn ha) Năng suất (Tạ/ha) Sản lượng (Nghìn tấn) Ngô Diện tích (Nghìn ha) Năng suất (Tạ/ha) Sản lượng (Nghìn tấn) Khoai lang Diện tích (Nghìn ha) Năng suất (Tạ/ha) Sản lượng (Nghìn tấn) Đậu tương Diện tích (Nghìn ha) Năng suất (Tạ/ha) Sản lượng (Nghìn tấn)
101,7 15,2 154,8
90,5 13,9 125,9
11,2 113,8 25,8 113,2 28,9 128,8
107,6 106,1 114,1
211,3 138,1 291,9
Lạc
Diện tích (Nghìn ha) Năng suất (Tạ/ha)
176,1 20,9
135,5 19,1
40,6 100,8 26,9 102,9
104,2 103,2
90,8 105,1
123
Sản lượng (Nghìn tấn)
368,4
259,1
109,3 103,7
107,6
95,5
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Chăn nuôi: Theo kết quả điều tra chăn nuôi ngày 1/4/2007, tổng đàn lợn
cả nước bằng 98,6% cùng thời điểm năm trước, giảm 384 nghìn con, chủ yếu do
đàn lợn thịt giảm 1,6%; đàn trâu giảm gần 2%, chủ yếu giảm đàn trâu cày kéo;
đàn bò tăng trên 5%, chủ yếu tăng ở các tỉnh miền núi, duyên hải Nam Trung bộ
do có nguồn thức ăn dồi dào cho chăn thả. Đàn gia cầm được khôi phục nhưng
tốc độ tăng chậm lại, ước tính chỉ tăng dưới 4%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng
các loại tăng trên 4%, trong đó thịt bò hơi tăng khoảng 6%; thịt lợn hơi tăng 4%.
Dịch bệnh: Tính đến thời điểm tháng 6/2007, dịch cúm gia cầm đã tái phát
tại 67 xã của 18 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và còn 8 xã thuộc 2
huyện của tỉnh Quảng Trị có các ổ dịch lở mồm, long móng xảy ra chưa qua
21 ngày. Đến ngày 21/6/2007, có 63 tỉnh/thành phố đã và đang triển khai
công tác tiêm phòng đợt 1 năm 2007, trong đó có 44 tỉnh đã cơ bản hoàn
thành tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm lần 1 đợt 1 năm 2007. Tổng số gia
cầm được tiêm là 146,6 triệu con.
Lâm nghiệp: 6 tháng đầu năm 2007 đạt kết quả tốt so với cùng kỳ năm
trước do thời tiết tương đối thuận. Diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt
97,8 nghìn ha, tăng 0,3%; trồng cây phân tán 110,4 triệu cây, tăng 0,2%; sản lượng gỗ khai thác 1387,5 nghìn m3, tăng 2,9%. Do thời tiết khô hanh kéo dài
ở các tỉnh phía Bắc, nên mặc dù công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng
được tăng cường nhưng số vụ cháy và diện tích rừng bị thiệt hại tăng nhiều so
với cùng kỳ năm trước: Diện tích rừng bị thiệt hại ước tính 4310,1 ha, tăng
54,9% so với cùng kỳ; trong đó diện tích rừng bị cháy là 3704,4 ha.
Thuỷ sản: Sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm ước tính đạt 1849,5
nghìn tấn, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nuôi trồng tăng
19,2%; khai thác tăng 2,6%. Nuôi trồng thuỷ sản tăng khá, do giá cá tra, cá
basa tăng cao, nuôi cá bằng lồng bè phát triển khá. Khai thác thuỷ sản đạt
1076,9 nghìn tấn, trong đó khai thác biển đạt 989,4 nghìn tấn, tăng 3%.
Khai thác thuỷ sản tăng do thời tiết thuận lợi, các loại cá xuất hiện nhiều và
124
dài ngày ở vùng biển miền Trung và phía Nam, tàu và thuyền được cải
hoán nâng cao công suất đảm bảo hoạt động trên nhiều tuyến, ra khơi
thường xuyên.
Bảng 4.5: Sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2007
Thực hiện (Nghìn tấn)
Tổng số Cá Tôm Thuỷ sản khác Nuôi trồng Cá Tôm Thuỷ sản khác Khai thác Cá Tôm Thuỷ sản khác
6 tháng đầu năm 2006 1697,6 1278,2 160,0 259,4 648,0 479,4 106,7 61,9 1049,6 798,8 53,3 197,5
6 tháng đầu năm 2007
1849,5 1402,1 171,9 275,5 772,6 589,4 116,8 66,4 1076,9 812,7 55,1 209,1
6 tháng đầu năm 2007 so với cùng kỳ năm 2006 (%) 108,9 109,7 107,4 106,2 119,2 122,9 109,5 107,3 102,6 101,7 103,4 105,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 4.6: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2007 (Theo giá so sánh 1994)
Thực hiện (Tỷ đồng)
Tổng số Nông nghiệp Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ Lâm nghiệp Thủy sản Nuôi trồng Khai thác
6 tháng đầu năm 2006 84946,4 64719,3 49381,9 13726,9 1610,5 3102,0 17125,1 8887,3 8237,8
6 tháng đầu năm 2007 87932,0 66004,5 49930,9 14421,2 1652,4 3140,5 18787,0 10312,6 8474,4
6 tháng đầu năm 2007 so với cùng kỳ năm 2006 (%) 103,5 102,0 101,1 105,1 102,6 101,2 109,7 116,0 102,9
Nguồn: Tổng cục Thống kê
4.4. Những tác động nhìn từ hiện trạng nông nghiệp Việt Nam
Những tác động nhìn từ hiện trạng nông nghiệp nằm trong mối tương
quan với việc thực hiện các cam kết, phụ thuộc vào chính sách của Việt Nam
cũng như nỗ lực phát triển của ngành. Xuất phát từ hiện trạng nông nghiệp
Việt Nam, những tác động mong đợi bao gồm:
125
* Những tác động tích cực
- Nông nghiệp nước ta sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu với
các hàng rào thương mại ngày càng hạ thấp. Nhiều sản phẩm nông nghiệp có
sức cạnh tranh của Việt Nam như gạo, tôm, hồ tiêu, điều ... sẽ có nhiều cơ hội
thâm nhập các thị trường mới, mở rộng hơn nữa ở các thị trường truyền
thống. Nếu chưa phải là thành viên WTO, một số nước có chính sách phân
biệt đối xử với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam bằng việc sử dụng
hàng rào thuế và phi thuế nhằm hạn chế nhập khẩu, nhưng chúng ta không thể
khởi kiện lên WTO để đảm bảo quyền lợi của mình.
- Có thể tăng thị phần trong xuất khẩu nông sản thế giới: Sau vòng đàm
phán Uruguay, biên độ giảm thuế nông sản của các nước phát triển đạt trên
37% (một số sản phẩm như rau, hạt có dầu, hoa tươi .... giảm trên 40%), các
nước đang phát triển cơ bản cắt giảm đạt mục tiêu đã ký kết (24%). Bên cạnh
đó, số lượng cho phép nhập vào thị trường các quốc gia thành viên cũng tăng đáng kể29 (gia tăng hạn ngạch) đã làm cho không gian xuất khẩu rộng mở đối
với sản phẩm nông sản Việt Nam. Các hàng hóa nông sản nước ta có ưu thế
như gạo, cà phê, cao su, chè, điều, tiêu... sẽ gia nhập thị trường nông sản thế
giới có kim ngạch 559 tỷ USD/năm, nông dân sẽ có thêm điều kiện tiếp cận
nhiều thị trường, nắm bắt tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nông dân cũng dễ
dàng hơn trong việc lựa chọn định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh
về chất lượng và giá cả. Thị trường nông sản rộng mở, nhất là các mặt hàng
tôm, cua, cá; bưởi Năm Roi, Phúc Trạch, Tân Triều, Đoan Hùng, nhãn Hưng
Yên, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn, vải thiều Bắc Giang; nước dứa cô đặc,
nước ổi, nước cam, mơ...; măng chua, nấm rơm; thịt gà ta... có thêm cơ hội
thâm nhập vào thị trường quốc tế.
- Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp,
sơ chế hoặc chế biến nông sản, mở mang những vùng đất hoang hóa, sản xuất
những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà họ đang có thị trường. Nhờ đó lao
động Việt Nam, nhất là lao động nông nghiệp sẽ có thêm công ăn việc làm;
29 Gia tăng hạn ngạch sau vòng đàm phán Uruguay: Số lượng hạn ngạch thuế quan về tiểu ngạch tăng 807.000 tấn; gạo tăng 1,076 triệu tấn; Ngô tăng 1,065 triệu tấn; Chế phẩm từ sữa tăng 729.000 tấn; Dầu thực vật tăng 110.000 tấn.
126
người tiêu dùng Việt Nam sẽ mua được những sản phẩm vừa rẻ hơn, chất
lượng cao hơn. Nông dân nghèo canh tác ở các vùng khó khăn sẽ có cơ may
phát triển nhờ những giống mới do các công ty quốc tế chuyên áp dụng công
nghệ sinh học tạo ra.
- Thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu ngành: Tín hiệu từ thị trường và dự báo
của các cơ quan chức năng sẽ giúp người nông dân lựa chọn những giống cây,
con phù hợp, mang lại giá trị kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường.
- Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hoá sẽ đem lại cơ hội cho đổi mới
công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Sức ép của hàng hoá nông sản nhập khẩu đối với sản xuất và chế biến
nông sản trong nước ngày càng gia tăng, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất, người nông dân được tự do
lựa chọn tư liệu sản xuất nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ
thực vật, thức ăn chăn nuôi ...); trong tiêu dùng, người dân (với tư cách người
tiêu dùng) có cơ hội lựa chọn hàng hóa nông sản phong phú và có chất lượng
cao của thế giới.
- Có thể khai thác những ưu đãi của WTO dành cho các thành viên
đang phát triển như chưa phải đưa ra các cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu
hàng nông sản, không phải cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân....
Hộp 4.4: Ba cái được khi gia nhập WTO
Theo PGS-TS. Mai Thành Phụng - Trung tâm khuyến nông quốc gia, gia nhập WTO nông
dân có 3 cái được. Thứ nhất, thị trường nông sản rộng mở, hàng hóa nông sản có thể
bán trong nước và 149 nước thành viên còn lại trong WTO. Thứ hai là đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam sẽ tăng mạnh, đặc biệt là vào lĩnh vực nông nghiệp, nhờ vậy sẽ thúc đẩy
nền nông nghiệp Việt Nam phát triển mạnh lên. Thứ ba là bà con nông dân sẽ có dịp tiếp
cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn và sâu rộng
hơn.
Nguồn: Nguyễn Huyền http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id= 0da606ba6fa4ce&pageid=1446
127
* Những tác động tiêu cực
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta sẽ chịu nhiều tác động,
ảnh hưởng tới sự phát triển của nông nghiệp, đến kết cấu ổn định của nông
thôn và an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là nông dân nghèo.
- Các nước công nghiệp phát triển bảo hộ rất cao cho nông nghiệp,
trong khi nền nông nghiệp nước ta còn rất lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật
và cơ chế quản lý; chất lượng nông sản hàng hóa chưa cao cả về tiêu chuẩn kỹ
thuật, mỹ thuật và nhất là về vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, sản
xuất manh mún, chưa có những vùng chuyên canh… dẫn đến lượng cung
hàng hoá không ổn định, khó đáp ứng những đơn đặt hàng khối lượng lớn. Về
lý thuyết, người sản xuất có thể tiếp cận dễ dàng với các giống cây con mới
nhưng trên thực tế, các hộ nghèo khó có thể thụ hưởng những thành tựu công
nghệ mới bởi giá cả đầu vào cao và không thể tùy tiện nhân giống (các công
ty nước ngoài giữ quyền tác giả). Trong khi đó, hàng hóa nông nghiệp Việt
Nam thường không có nhãn hiệu có uy tín quốc tế nên bán không được giá.
- Các sản phẩm hàng hóa như đường, ngô, súc sản của Việt Nam sẽ bị
đe doạ hơn cả bởi các mặt hàng này từ Mỹ và EU nhập khẩu vào Việt Nam và
được các chính phủ trợ cấp rất cao.
Hộp 4.5: Trợ cấp của một số Chính phủ
Nhiều sản phẩm mà Việt Nam đang cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu (như gạo) hay sẽ
nhập khẩu ngày càng nhiều (như ngô) được Chính phủ các nước giàu trợ cấp ở mức độ
cao cũng như được bảo hộ thông qua hàng rào thuế quan. Chính phủ Mỹ hàng năm trợ
cấp 10 tỷ USD cho các chủ trang trại trồng ngô, hay 3.6 tỷ USD cho trang trại sản xuất gạo.
Hay một con bò EU được trợ cấp 2.62 USD mỗi ngày, nhiều hơn thu nhập của nông dân
nghèo Việt Nam.
Nguồn: Lê Kim Dung (Điều phối viên chương trình Oxfam Anh) Http://www2.vietnamnet.vn/wto/2006/10/624566/+%22n%C3%B4ng+nghi%E1%BB%87p%22+%2B+ h%E1%BA%ADu+wto&hl=vi&ct=clnk&cd=3&gl=vn
Các mặt hàng nông phẩm cũng bị đe doạ từ các thị trường khu vực như
Thái Lan. Có thể thấy một điều hiện nay giá hầu hết các nông sản Việt Nam
đều đắt hơn hàng nước ngoài mà chất lượng lại không bảo đảm. Giá thành sản
xuất hàng của ta thường cao hơn của người do tốn nhiều chi phí, trả nhiều lệ
phí, trả nhiều công gián tiếp. Trường hợp mặt hàng gạo: Thái Lan trồng lúa
128
mùa địa phương tuy năng suất chỉ đạt dưới 2,5 tấn/ha nhưng chất lượng khá
cao và đồng đều; chi phí sản xuất trên một đơn vị sản lượng thấp do tận dụng
điều kiện thiên, ít tốn phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, diệt cỏ; Việt Nam có
năng suất lúa cao sản ngắn ngày từ 4-6 tấn/ha nhưng chi phí sản xuất cao (tiền
bơm nước, phân, thuốc trừ sâu, làm cỏ, phòng trừ chuột).
- Sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản sẽ phải giải quyết các vấn đề khó khăn
về phế thải, dịch bệnh, thuốc, hoá chất sử dụng; nâng cao dân trí nông thôn ven
biển; giá nhiên liệu tăng cao... Việc thực hiện cam kết về Các biện pháp Vệ
sinh và Kiểm dịch động thực vật (SPS) tác động mạnh đến sản xuất và xuất
khẩu các mặt hàng này. Hiệp định này đòi hỏi sự hài hoà các tiêu chuẩn quốc
gia trong nông nghiệp và thuỷ hải sản, sẽ tác động trực tiếp đến người sản xuất
nghèo, qui mô nhỏ, nhất là vùng sâu, vùng xa trong một thời gian dài. Ngân hàng Thế giới ước tính chi phí thực thi một hiệp định là 100 triệu USD30 trong
khi nguồn lực của Chính phủ còn hạn chế sẽ là những áp lực lớn trong chi ngân
sách . Ngoài ra, ưu thế cạnh tranh bằng chi phí lao động thấp của các sản phẩm
nông nghiệp và thuỷ sản Việt Nam sẽ mất dần trong tương lai.
Hộp 4.6:Tác động tiêu cực khi gia nhập WTO
Có 3 khó khăn rất lớn mà bà con nông dân sẽ phải đối mặt. Một là, nông dân không phải muốn sản xuất cái gì cũng được, mà phải hướng đến sản xuất cái gì thị trường cần, bán có giá, có hiệu quả kinh tế. Do đó nông dân phải sản xuất theo tiêu chí thị trường chấp nhận. Hai là do tính cạnh tranh quyết liệt, nên chúng ta phải có quy trình chuẩn cho ra sản phẩm giá thành hạ năng suất tăng, chất lượng tăng và đặc biệt là bán được giá cao. Ba là marketing. Hiện nay marketing là khâu yếu nhất của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, làm sao để quảng bá thương hiệu, liên kết nông dân, tổ chức sản xuất ra được sản phẩm có uy tín trên thị trường có số lượng lớn.
Trong tiến trình hội nhập là cơ hội để sản phẩm nông sản Việt Nam tiếp cận nhiều thị trường trên thế giới. Đây cũng là cơ hội để nông dân tiếp cận những công nghệ mới của nhà đầu tư, bên cạnh những sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải liên tục đổi mới và nâng cao về chất lượng cải tiến công nghệ và giá cả cạnh tranh. Như vậy, lợi thế của nông dân là được lựa chọn nhiều mặt hàng giá rẻ, phù hợp với yêu cầu và điều kiện sản xuất làm thế nào nâng cao chất lượng, hạ được giá thành sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Có một thực tế là hiện nay trình độ sản xuất của bà con nông dân còn ở mức độ thấp, bộc lộ nhất là giống cây trồng, vật nuôi vẫn chưa kiểm dịch đầy đủ và cũng chưa kiểm soát nguồn gốc. Thứ hai là chưa kiểm soát tốt phân hóa học, phân bón. Thứ ba là công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hóa thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong quá trình hội nhập. Thứ tư là quy mô sản
30 Theo VietnamNet.
129
xuất bình quân diện tích đất trên một nông hộ còn rất thấp khoảng 0,7- 1ha/hộ, vì vậy muốn sản xuất với quy mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó. Thứ năm là giá thành sản xuất vẫn còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường...
Nguồn: Nguyễn Huyền http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id= 0da606ba6fa4ce&pageid=1446
4.5. Những tác động trong thực thi Hiệp định nông nghiệp của
WTO
Từ cam kết và thực hiện cam kết trong tiến trình thực hiện Hiệp định
Nông nghiệp trong WTO, có thể nhận thấy một số tác động của việc gia nhập
WTO đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta như sau:
Thứ nhất: Đảm bảo cho hàng nông sản Việt Nam có thị trường ổn
định. Các nước thành viên tuân theo Hiệp định Nông nghiệp, tức là duy trì
thuế nhập khẩu ưu đãi trong phạm vi hạn ngạch thuế quan, sẽ đảm bảo sự
thâm nhập hàng nông sản nước ta vào 149 thị trường còn lại, tạo đầu ra ổn
định. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là trên thực tế, một số nước phát triển chỉ
thực hiện các cam kết đối với nhóm sản phẩm chất lượng thấp (chủ yếu dùng
làm thức ăn chăn nuôi). Đối với nhóm sản phẩm có giá trị cao, cạnh tranh trực
tiếp với sản phẩm của họ thì các quốc gia đó thường bảo hộ bằng nhiều cách
khác nhau, trong đó phổ biến là hạn ngạch. Tuy nhiên, nhìn từ tiềm năng và
hiện trạng của nông nghiệp Việt Nam, đây chưa phải là vấn đề cấp bách và có
thể giải quyết trong thời gian dài. Tác động trước mắt đối với thị trường nông
sản là việc mở cửa thị trường, Việt Nam phải giảm thuế nhập khẩu và loại bỏ
một số trợ cấp sản xuất như Hiệp định nông nghiệp qui định. Do đó, hàng hoá
nông sản Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng hoá nông sản của các quốc
gia khác ngay trong chính thị trường nội địa: Chăn nuôi bò, lợn, gia cầm, sữa,
công nghiệp chế biến thực phẩm, mía đường là những ngành có sức cạnh
tranh kém, sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn ngay tại thị trường trong nước.
Thứ hai: Hạn chế tình trạng phân biệt đối xử trong thương mại nông
31 Thực chất việc quản lý những hạn ngạch tối thiểu là nhằm mục đích hợp pháp hóa vai trò của các doanh nghiệp nhà nước. Khi các doanh nghiệp nhà nước có được quyền bán sản phẩm trên thị trường nội địa, cộng với độc quyền xuất khẩu nông sản, họ có thể lựa chọn mức định giá, và có thể thay đổi giá của sản phẩm.
130
sản. Nguyên tắc mở cửa thị trường công khai trong Hiệp định Nông nghiệp phụ thuộc vào cách thức phân bổ hạn ngạch nhập khẩu tối thiểu31, và do vậy,
đã tạo ra một số các biện pháp điều tiết khối lượng xuất nhập khẩu sản phẩm
nông nghiệp mang tính phân biệt đối xử, như phân biệt đối xử về khối lượng,
phân biệt đối xử về giá. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu
hàng nông sản buộc chúng ta một mặt phải có hình thức đấu tranh, đàm phán
song phương, mặt khác phải tích cực tham gia trong tiến trình đàm phán đa
phương để loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử này. Gia nhập vào WTO cho
phép nước ta có tiếng nói để chống lại sự phân biệt đối xử đó.
Thứ ba: Tác động thúc đẩy nâng cao giá trị hàng nông phẩm. Hiệp
định chung về thuế quan ưu đãi qui định một số mặt hàng nông sản nhiệt đới
được miễn thuế nhập khẩu. Như vậy, những ưu đãi trong các hiệp định khác
nhau về hàng nông sản nhiệt đới sẽ tác động thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng
này. Hiệp định nông nghiệp cũng đưa ra các yêu cầu các thành viên phải đưa
ra mức thuế trần đối với sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến, và trong
nhiều trường hợp, sản phẩm chế biến có mức thuế suất thấp hơn các sản phẩm thô hoặc sơ chế32. Những cam kết trên tạo cơ hội để Việt Nam phát triển lĩnh
vực chế biến nông sản, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nông
nghiệp nhiệt đới dành cho xuất khẩu và tăng khả năng xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam.
Thứ tư: Tăng giá nông phẩm trên thế giới tác động đến kim ngạch
xuất khẩu nông sản Việt Nam. Mặc dù vòng đàm phán Đôha kết thúc không
như dự kiến và kỳ vọng ban đầu, nhưng nhìn chung, xu thế cắt giảm trợ cấp
(nhất là trợ cấp xuất khẩu) của các nước phát triển đối với nông nghiệp đang
chuyển biến theo hướng tích cực, nghiêm túc hơn. Điều này tác động làm tăng
giá nông sản thế giới, nhất là giá lương thực. Là quốc gia xuất khẩu nông sản
lớn, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc tăng giá trên thị trường thế giới, góp
phần tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản. Năm 2006, mặc dù một số sản
phẩm xuất khẩu có sự sụt giảm về lượng, nhưng do giá tăng, kim ngạch xuất
khẩu nông sản Việt Nam vẫn đạt mức cao. So với năm 2005, năm 2006 có
131
một số mặt hàng nông sản tăng giá như gạo tăng 2,5%; cà phê tăng 49,2%; 32 Trong trường hợp như cao su, đay, dầu thực vật, các loại gia vị, thuốc lá, gỗ, là một ví dụ điển hình, thuế quan đối với thành phẩm của các mặt hàng nói trên đã được giảm nhiều so với các sản phẩm chưa qua sơ chế hoặc bán thành phẩm.
cao su tăng 33,4%; hạt tiêu tăng 6,6% ... Tính chung năm 2006, do giá tăng
làm cho tổng kim ngạch tăng 8%, đóng góp khoảng 41,2% vào tổng mức tăng, tương đương gần 3 tỷ USD33.
Thứ năm: Tác động đến an ninh lương thực. Mặc dù Việt Nam là
nước trong nhóm dẫn đầu về xuất khẩu lương thực và các sản phẩm sơ chế
khác, nhưng lại là nước nhỏ, sản xuất manh mún, năng suất lao động thấp, thu
nhập theo đầu người không cao, trong khi đó khả năng nghiên cứu dự báo tình
hình sản xuất, giá cả, xuất khẩu hàng nông sản kém. Vì vậy, khi thực thi hiệp
định mở cửa thị trường, nếu không có chiến lược lâu dài, Việt Nam dễ bị tổn
hại nếu xảy ra những biến động về thị trường từ bên ngoài. Trường hợp xảy ra
sự giảm sút sản xuất lương thực trên thế giới, có thể có tác động mạnh đến dự
trữ lương thực và an ninh lương thực quốc gia.
Như vậy, nhìn từ các cam kết và thực hiện cam kết cho thấy, những tác
động nhiều chiều phụ thuộc vào năng lực của chính các chủ thể tham gia thị
trường và tính nghiêm túc trong thực thi các nội dung của hiệp định. Việt
Nam là nước có lợi thế về nông nghiệp, khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của
một số mặt hàng sẽ được tăng lên nếu như phần lớn trợ cấp cho nông nghiệp
của các nước phát triển bị bãi bỏ và các thành viên phải tuân thủ đúng yêu cầu
của Hiệp định Nông nghiệp.
4.6. Tác động của gia nhập WTO tới một số mặt hàng chủ yếu
- Gạo: Gạo và các sản phẩm từ gạo sẽ không chịu tác động nhiều từ các
hiệp định của WTO. Việt Nam vẫn giữ mức thuế suất 40% tại thời điểm gia
nhập. Hơn nữa, thế mạnh của gạo Việt Nam với giá rẻ, đa dạng về chủng loại
... sẽ vẫn giữ được thị phần nhất định ở thị trường trong nước. Đối với thị
trường xuất khẩu, với những hạn chế đã phân tích (chất lượng thấp, giá thành
so sánh quốc tế cao, qui trình chế biến chưa đạt chuẩn, chi phí vận chuyển,
bốc xếp ... trong xuất khẩu cao), trong thời gian trước mắt, gạo Việt Nam khó
có khả năng thâm nhập các thị trường khó tính. Tuy vậy, nhu cầu lương thực
33 Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2006-2007, tr.16.
132
thế giới tiếp tục tăng cao, thị trường mở rộng trong khi năng lực sản xuất
nông nghiệp của thế giới không đáp ứng kịp sẽ là cơ hội tốt để gạo nước ta
tiếp tục mở rộng thị phần.
Sự tác động của WTO đối với sản phẩm gạo của Việt Nam trong thời
gian tới chủ yếu từ Thái Lan. Tác động trong tương lai có thể xảy ra là thị
phần gạo của Thái Lan sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thị trường nội
địa Việt Nam do những ưu thế về giá và chất lượng. Sự cạnh tranh của gạo
Thái Lan với gạo Việt Nam chủ yếu diễn ra ở thị trường nội địa và các thị
trường một số nước phát triển, yêu cầu chất lượng cao. Đối với các thị trường
khác, sản lượng gạo của Thái Lan không đủ đáp ứng nhu cầu và cũng không
phải là định hướng chiến lược của quốc gia này. Do đó, đối với thị trường
“cao cấp”, gạo Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn; đối với thị trường “trung
bình và thấp cấp”, gạo Việt Nam sẽ tiếp tục giữ và mở rộng thị phần. Gạo
phẩm cấp cao của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh ngày càng gay gắt, gạo phẩm
cấp thấp, xuất khẩu phục vụ chăn nuôi sẽ cạnh tranh ít gay gắt hơn.
- Cà phê: Xuất khẩu thứ 2 thế giới (sau Braxin), cà phê Việt Nam ít
chịu sức ép cạnh tranh do phân khúc thị trường (cà phê Việt Nam với chất
lượng trung bình, có nhiều thị trường tiêu thụ ngay khi chưa gia nhập WTO).
Đối với cà phê sơ chế, hiện thị trường Việt Nam không nhập khẩu mặt hàng
này mà đang xuất khẩu mạnh. Như vậy, gia nhập WTO, mặt hàng cà phê sơ
chế sẽ không chịu sức ép cạnh tranh tại thị trường nội địa, ngược lại, sẽ có
nhiều cơ hội xuất khẩu sang các thị trường của các quốc gia thành viên. Tiến
trình cắt giảm thuế quan đối với mặt hàng này trong khuôn khổ WTO ngày
càng có lợi cho người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu bởi họ sẽ thu được
lợi nhuận cao hơn.
Đối với cà phê thành phẩm (cả hoà tan và không hoà tan), lịch trình cắt
giảm thuế từ 45% xuống 5% vào năm 2006 sẽ tác động trực tiếp đến các
doanh nghiệp chế biến trong nước, gián tiếp ảnh hưởng đến người trồng loại
hàng hoá này.
- Rau quả: Sản phẩm rau quả bao gồm rau quả tươi và rau quả qua chế
biến. Đối với rau quả tươi đặc trưng vùng nhiệt đới (hành, rau diếp) và một số
133
loại hoa (hoa hồng, phong lan), thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập là 0%
(mở cửa hoàn toàn). Đối với rau quả như su hào, bắp cải, súp lơ ...., mức thuế
suất cam kết tại thời điểm gia nhập từ 20-30%. Đối với rau quả khô và sản
phẩm qua chế biến, mức thuế suất cam kết khá cao (30-40% tại thời điểm gia
nhập) và lịch trình cắt giảm khoảng 50% thuế suất đến sau 2010. Như vậy,
mặt hàng rau quả ít chịu cạnh tranh ở thị trường nội địa (mặc dù một số sản
phẩm có mức thuế bằng 0) do thói quen tiêu dùng và tính đa dạng của các sản
phẩm trong nước. Trong ngắn hạn, rau quả tươi cùng chủng loại của các quốc
gia khó thâm nhập vào thị trường Việt Nam do chi phí cao, khó bảo quản;
trong dài hạn, một số sản phẩm rau quả cao cấp hoặc không sản xuất trong
nước sẽ có nhiều cơ hội ở thị trường trong nước. Đối với rau quả đã qua chế
biến, theo lịch trình cắt giảm thuế quan, sản phẩm của các nước sẽ tràn vào thị
trường Việt Nam vì năng lực cạnh tranh của ngành này khá thấp. Như vậy, cắt
giảm thuế quan sẽ chủ yếu tác động đến các sản phẩm rau quả đã qua chế
biến; đối với các sản phẩm rau quả tươi, tác động đối với sản xuất và tiêu thụ
trong nước không rõ rệt.
Đối với thị trường xuất khẩu: Sản phẩm rau quả tươi sẽ có nhiều cơ hội
tăng kim ngạch, mở rộng thị phần theo các cam kết đa phương. Tuy nhiên,
công nghệ chế biến sau thu hoạch, khả năng bảo quản kém đối với các sản
phẩm theo mùa vụ sẽ là những cản trở trong thời gian trước mắt. Đối với sản
phẩm rau quả qua chế biến, mặc dù nhu cầu thị trường thế giới khá cao nhưng
công nghệ chế biến thấp nên ngoài những mặt hàng thế mạnh (hồ tiêu, điều),
các sản phẩm nông sản Việt Nam khó có những đột biến (cả về số lượng và
kim ngạch xuất khẩu) trong thời gian trước mắt.
- Sản phẩm chăn nuôi: Sẽ chịu tác động mạnh khi gia nhập WTO.
Năng lực cạnh tranh trong chăn nuôi hiện tại rất thấp (thói quen sản xuất
truyền thống, năng suất thấp, giá thành cao, không đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm), do đó khi Việt Nam mở cửa thị trường sản phẩm chăn nuôi sẽ tác
động trực tiếp đến giá sản phẩm chăn nuôi trong nước, qua đó ảnh hưởng đến
những người sản xuất mặt hàng này. Thịt trâu, bò tươi, ướp lạnh theo cam kết
gia nhập WTO sẽ có thuế suất 20% tại thời điểm gia nhập và cắt giảm còn
134
14% đến năm 2012; thịt cừu, dê cam kết gia nhập là 10%; gà, vịt và một số
gia cầm khác giữ ở mức 40% (thời điểm gia nhập); thịt lợn tươi và ướp lạnh
sẽ có thuế suất tại thời điểm gia nhập là 30% và cắt giảm còn 25% đến 2012.
Như vậy, đối với thị trường nội địa, sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam sẽ phải
cạnh tranh gay gắt với sản phẩm cùng loại do thuế suất nhập khẩu từng bước được cắt giảm34; đối với thị trường xuất khẩu, các mặt hàng này của Việt Nam
sẽ khó mở rộng thị phần tại các nước đang phát triển, có hàng rào kỹ thuật
khắt khe. Gia nhập WTO, thị trường sản phẩm chăn nuôi Việt Nam sẽ chịu
tác động mạnh, chịu sức ép cạnh tranh lớn ngay trên “sân nhà” và nguy cơ
giảm thị phần ngày càng rõ rệt. Nguy cơ “thua” đối với sản phẩm chăn nuôi
một mặt do sản phẩm của Việt Nam không tạo được niềm tin đối với người
tiêu dùng (sản phẩm không được kiểm dịch, qui trình kiểm dịch không
nghiêm túc, qui trình sản xuất không tuân thủ những qui định kỹ thuật, chất
lượng sản phẩm không đồng đều, năng lực quản lý nhà nước đối với vệ sinh
an toàn thực phẩm còn yếu), mặt khác, các quốc gia phát triển trợ cấp cho chăn nuôi dưới nhiều hình thức35.
- Thuỷ sản: Hai mặt hàng chủ yếu của Việt Nam là cá phi lê đông lạnh
(cá tra và cá basa - catfish) và tôm đông lạnh. Với các cam kết đa phương, thị
trường của các sản phẩm thuỷ sản chủ lực sẽ không ngừng tăng trưởng theo
hướng có lợi cho người sản xuất và kinh doanh mặt hàng này. Hiện tại, các thị
trường nhập khẩu chủ yếu hàng thuỷ sản của Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật bản
đã có những tranh chấp thương mại nhất định trong thời gian qua (hàng Việt
Nam bị kiện bán phá giá), tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực của Việt Nam liên tục tăng trưởng trong giai đoạn 2000 - 2006 chứng
tỏ sự linh hoạt của các nhà sản xuất và năng động của các doanh nghiệp xuất
khẩu. Ngay khi chưa gia nhập WTO, việc hiệp hội của Mỹ kiện các doanh
34 Ngay trên thị trường nội địa, ở các thành phố lớn, các nhà hàng, khách sạn ... ít thấy xuất hiện sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam. Tại Hà Nội, tìm kiếm thịt bò Kobê, Úc ... tại các khách sạn lớn sẽ dễ hơn nhiều so với các sản phẩm thịt bò Việt Nam. 35 Một con bò của EU được hưởng trợ cấp 2,62 USD/ngày, cao hơn thu nhập trung bình của nông dân nghèo Việt Nam, Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 1/6/2006. 36 Theo Đánh giá 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ: Mặc dù Mỹ là thị trường lớn, có tranh chấp thương mại về vụ việc tôm đông lạnh và cá phi lê đông lạnh nhưng kết quả toàn ngành thuỷ sản
135
nghiệp Việt Nam bán phá giá cá phi lê và tôm đông lạnh có tác động không lớn đến kết quả chung của ngành36.
Hộp 4.7: Tăng trưởng xuất khẩu cá phi lê đông lạnh của Việt Nam trong trường hợp
Mỹ áp dụng thuế bán phá giá
Thuế bán phá giá được áp dụng với cá phi lê đông lạnh trong tháng 1/2003, khi Bộ Thương mại Mỹ đưa ra phán quyết sơ bộ về việc bán phá giá. Phán quyết cuối cùng được đưa ra vào tháng 6/2003, theo đó mức thuế áp dụng từ 31-64%. Mức thuế trên có tác động bất lợi đáng kể đến sản phẩm này ở thị trường Mỹ với mức xuất khẩu hàng tháng giảm từ trên 10 triệu USD xuống dưới 2 triệu USD. Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu sang Mỹ bị đình trệ từ sau năm 2003.
Tuy nhiên, tổng sản lượng xuất khẩu mặt hàng này vẫn tăng trưởng đều đặn và liên tục trong giai đoạn 2000 - 2005 cho thấy, dường như phán quyết của Bộ Thương mại Mỹ có tác động không nhiều đến số lượng và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Điều này được lý giải bằng việc các doanh nghiệp Việt Nam đã đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu (chuyển từ phi lê đông lạnh sang phi lê tươi) và tìm kiếm những thị trường mới.
Xuất khẩu cá tra và cá ba sa của Việt Nam (tấn)
2000
2001
2002
2004
2005
2003
1.129
1.737
27.987
83.844
141.011
Tổng
32.876
610
1.280
17.251
14.438
14.798
Sang Mỹ
8.803
Nguồn: Đánh giá tác động sau 5 năm thực hiện hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ
Gia nhập WTO, các cam kết đa phương sẽ tạo nhiều cơ hội cho ngành
thuỷ sản của Việt Nam phát triển nhanh và bền vững trong tương lai. Tuy
nhiên, nguy cơ bị kiện bán phá giá ở một thị trường nào đó vẫn là những đe
doạ thường trực đối với các sản phẩm thuỷ sản do Việt Nam chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường37. Với 149 thị trường đầy tiềm năng, xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam sẽ không phải lệ thuộc vào một vài thị trường nhất định
(như Mỹ, Nhật) và do đó, đảm bảo tính ổn định trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá này. Như vậy, việc gia nhập WTO sẽ tác động không nhiều đến thị
phần, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản, sự tăng trưởng có
được chủ yếu do năng lực sản xuất và kinh doanh từ phía Việt Nam.
Đánh giá chung: Qua 8 tháng gia nhập WTO, có thể thấy nông nghiệp
vẫn tăng trưởng đều đặn, kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trưởng ổn định. Điều đó cho thấy tăng trưởng xuất khẩu được quyết định bởi “bên cung” - tức là sự năng động của người sản xuất (chuyển đổi giống con nuôi phù hợp...) chứ không phải các chế tài thương mại do các đối tác áp đặt. - USAID - CIEM - FIA, tr. 62. 37 Trong trường hợp này, Việt Nam phải sử dụng nước thứ 3 để tính các chi phí “thị trường”.
136
Việt Nam chưa có chuyển biến rõ rệt. Sự tăng trưởng xuất khẩu của một số
sản phẩm chủ lực hay chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành cũng không thể vội
vàng kết luận do WTO mang lại. Những kết quả đạt được sau gia nhập WTO
do nhiều yếu tố, trước hết phải kể đến các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đã “mở đường” cho ngành phát huy, khai thác tiềm năng. Bên
cạnh đó là những nỗ lực của bản thân ngành nông nghiệp, của mỗi phân
ngành, của từng đơn vị sản xuất cũng như mỗi doanh nghiệp xuất nhập khẩu;
Thứ hai là quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, ký
kết và thực hiện các hiệp định song phương và đa phương trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã tạo những cơ hội cho ngành nông nghiệp, cho mỗi sản
phẩm những cơ hội mới, sản xuất nông nghiệp xuất phát từ tín hiệu thị
trường, từ nhu cầu trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, không thể phủ định
những tác động của WTO đến tăng trưởng sản xuất toàn ngành, tăng kim
ngạch xuất khẩu của sản phẩm, nhưng những tác động mang tính dài hạn
nhiều hơn những đột biến trước mắt.
Gia nhập WTO, dù muốn hay không thì mỗi sản phẩm, mỗi doanh
nghiệp cũng chịu những tác động nhất định về sức ép cạnh tranh từ việc mở
cửa thị trường. Đối với những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, có lợi thế so
sánh, có năng lực cạnh tranh cao sẽ ít chịu sức ép và có cơ hội phát triển,
những sản phẩm không có lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh thấp ... sẽ từng
bước thu hẹp sản xuất, tạo tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành phù
hợp, hiệu quả hơn.
Việc xoá bỏ trợ cấp theo các cam kết cũng không có những xáo trộn lớn
bởi có tới 98% hỗ trợ trong nước nằm trong diện hộp xanh (được WTO cho
phép), những hỗ trợ khác hầu như không được thực hiện do năng lực tài chính
hạn chế. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu sẽ không gặp khó khăn khi thực
hiện các cam kết đa phương về cắt giảm trợ cấp và các qui định ngặt nghèo
khác của WTO. Những tác động của WTO đến nông nghiệp nhìn nhận theo
nhiều chiều cho thấy, những cơ hội, lợi ích nhiều hơn những yếu tố bất lợi. Sự
thành công của nông nghiệp Việt Nam trong WTO chỉ có thể được quyết định
137
bởi chính năng lực nội tại của ngành.
4.7. Một số giải pháp chủ yếu
Nhìn từ cơ cấu ngành, nông nghiệp bị sức ép cạnh tranh rất mạnh bởi
sức cạnh tranh của lĩnh vực này khá thấp, sản xuất lạc hậu, phân tán, năng
suất thấp, chất lượng không đều… . Để bảo đảm cho nông nghiệp, nông thôn
phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững, đời sống người nông dân ổn định
và từng bước cải thiện khi Việt Nam gia nhập WTO, trước hết cần giải quyết
một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ
cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp nói riêng. Đối với cơ cấu chung, cần
từng bước giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu ngành cấp 1 bằng các biện
pháp cụ thể như phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ; Chuyên môn hoá
sản xuất nông nghiệp; Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp nhằm tăng năng suất và giảm số lượng lao động; Từng bước
chuyển lao động nông nghiệp sang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ.
Tăng thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên các
dự án đầu tư ở khu vực nông nghiệp – nông thôn có sử dụng nhiều lao động.
Ngoài ra, cần chú trọng phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề thủ
công nhằm tận dụng lực lượng lao động tại chỗ.
Hai là, tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp – nông thôn. Nguồn
ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trước mắt cần tập trung xây
dựng kết cấu hạ tầng, kho bãi, phát triển thuỷ lợi, đầu tư vào công nghiệp chế
biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, tạo điều kiện lưu thông hàng hoá
nông sản thuận lợi. Phát triển các chợ nông thôn, chợ đầu mối theo khu vực,
hình thành hệ thống thương mại nông sản thuận lợi, hiện đại.
Phát triển các hợp tác xã nông nghiệp chuyên canh, các công ty cổ phần
nông nghiệp, đảm bảo cung ứng vật tư, nguyên liệu đầu vào, giống cây con …
và đảm bảo đầu ra ổn định cho các vùng sản xuất, tạo sự an tâm, ổn định của
người sản xuất, từng bước hình thành những vùng chuyên canh, sản xuất lớn.
138
Khuyến khích người nông dân góp vốn vào các công ty cổ phần nông nghiệp,
để một mặt tăng thu nhập của chính những người nông dân, mặt khác đảm
bảo ổn định trong cung cấp nguyên liệu từ nông nghiệp.
Đẩy mạnh tích tụ ruộng đất theo hướng cho thuê lại, tạo tiền đề cho sản
xuất qui mô lớn, đồng thời rút dần lao động nông nghiệp sang làm việc ở khu
vực công nghiệp và dịch vụ gắn liền với giải quyết tốt những vấn đề an sinh
xã hội ở nông thôn.
Ba là, Nhà nước xây dựng và thực hiện chiến lược tổng thể công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; hướng dẫn nông dân kinh nghiệm
thành công; cung cấp dịch vụ tư vấn; giúp tiếp cận các chương trình vay vốn;
giúp giao dịch hợp đồng; đưa ra và kiểm soát thực hiện các quy định về chất
lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn nông sản hàng hóa. Nhà nước cần đầu tư
gấp rút và ưu tiên cho việc cải tiến các chương trình giáo dục và đào tạo cho
nông dân, công nhân, nhà quản lý những kiến thức và kỹ năng phù hợp với
yêu cầu toàn cầu hóa. Cần sửa đổi Luật hợp tác xã cho phù hợp yêu cầu hội
nhập kinh tế thế giới.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển vùng trong phạm vi
cả nước, quan hệ kinh tế giữa các vùng trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so
sánh của từng vùng. Chú trọng phát triển các vùng nông thôn có lợi thế so
sánh, có thế mạnh về tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm và tăng
thu nhập. Quy hoạch phát triển mạnh hệ thống thị trường tiêu thụ các mặt
hàng nông sản, nâng cao sức mua của thị trường trong nước, mà trọng tâm là
khu vực thị trường nông thôn.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô như chính
sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai, hệ thống luật pháp kinh
tế… nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần. Khuyến khích
và tạo điều kiện cho hội nông dân ở cơ sở hoạt động có hiệu quả. Tăng cường
các hoạt động phổ biến, hướng dẫn, sử dụng và chuyển giao quy trình công
nghệ mới với các hình thức thích hợp. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của kinh tế hộ - với tư cách đơn vị sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế
thị trường. Sắp xếp lại và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong khu vực nông
139
nghiệp, thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh; thay đổi cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động công
ích thành những doanh nghiệp mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong việc thực
hiện dịch vụ kỹ thuật, cung ứng giống, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị
phục vụ cho việc lưu thông trao đổi và xuất khẩu hàng hóa nông sản. Thiết
lập và phát triển hệ thống nghiên cứu, phân tích đánh giá, dự báo, cung cấp
thông tin và giao dịch thị trường hiện đại, nhất là hệ thống phân tích, dự báo
thị trường trung và dài hạn, thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ
lực, thị trường mới và thị trường tiềm năng … để phục vụ việc hoạch định
chính sách vĩ mô. Về lâu dài, cần xây dựng chiến lược thị trường, vì thị
trường nông sản đang là yếu tố có tính quyết định khả năng tiêu thụ và do đó
quyết định quy mô sản xuất hàng hóa nông sản ở trong nước. Chấm dứt tình
trạng xuất khẩu nông sản chỉ dựa vào tình hình dư thừa trong nước hoặc do
một cơ cấu đã có sẵn.
Đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển nông nghiệp hàng
hóa trong điều kiện mới. Hoàn chỉnh các chính sách tạo lập đồng bộ khuôn
khổ pháp lý cho việc phát triển và mở rộng thị trường sử dụng và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp; giao rừng và đất rừng cho hộ nông
dân kinh doanh lâu dài và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tăng cường
kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện các chính sách và
qui định liên quan, xử lý nghiêm những sai phạm trong hoạt động thị trường.
Bốn là, đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp
(giống cây trồng và vật nuôi, kể cả những giống có gen chuyển đổi thích nghi
điều kiện canh tác khắc nghiệt của nông dân vùng sâu, vùng xa; giảm giá
thành sản xuất nông sản; công nghệ sau thu hoạch; phát triển thị trường nông
sản). Các nhà khoa học cần đưa ra được các giống cây trồng vật nuôi có chất
lượng cao, xây dựng căn cứ khoa học lựa chọn hướng phát triển sản xuất,
kinh doanh, hỗ trợ nông dân tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ. Đầu
tư vào phát triển các giống mới có năng suất, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Việc nghiên cứu, phát triển
140
các loại giống cây, con cần sự đầu tư, hỗ trợ của nhà nước phù hợp với những
yêu cầu của WTO. Chú trọng hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu và triển
khai, đầu tư thích đáng vào chuyển giao công nghệ. Đưa công nghệ sinh học,
giống mới, quy trình sản xuất mới, công nghệ mới vào việc bảo quản, chế
biến nông sản.... Khuyến khích mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cung
cấp dịch vụ nông nghiệp như: trợ giúp kỹ thuật, cung cấp thông tin thị trường,
hỗ trợ tài chính và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm...
Năm là, điều chỉnh chính sách trong nước: Khai thác triệt để các qui
định của WTO cho hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu. Xây dựng lộ trình hành động
và các biện pháp hỗ trợ cụ thể, khắc phục tình trạng chính sách hỗ trợ mang
tính tình thế, thiếu chiến lược dài hạn. Hướng chính sách hỗ trợ nông nghiệp
vào sản xuất thay vì vào hoạt động kinh doanh như hiện nay. Trong thời gian
tới, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cần tuân thủ theo Hiệp định nông
nghiệp của WTO, cụ thể:
+ Hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây: Thực hiện hỗ trợ theo các nhóm. (1)
Nhà nước thực hiện cung cấp dịch vụ và phúc lợi cho nông nghiệp dưới các
hình thức như nghiên cứu khoa học, đào tạo (cấp kinh phí cho các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề để đào tạo cán
bộ kỹ thuật, kinh tế, công nhân lành nghề phục vụ sản xuất nông nghiệp),
khuyến nông (cấp kinh phí hoạt động, hỗ trợ cơ sở vật chất cho công tác
khuyến nông). (2) Hỗ trợ lương thực, thực phẩm, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
cho các vùng khó khăn (vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai vv…). (3) Hỗ
trợ chuyển dịch cơ cấu, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương thông qua
các hình thức ưu đãi thuế, đầu tư, tín dụng…
+ Hỗ trợ dạng hộp xanh da trời. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ theo
chương trình phát triển, bao gồm: (1) Trợ cấp đầu tư của Chính phủ dưới hình
thức hỗ trợ tài chính, cho vay với lãi suất ưu đãi để phát triển kinh tế trang
trại. (2) Trợ cấp đầu vào cho người sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp
thông qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội. (3) Trợ cấp dành cho sản
xuất như khuyến khích các hộ nông dân từ bỏ cây thuốc phiện chuyển sang
141
sản phẩm nông nghiệp khác.
Ngoài ra, Chính phủ cần quan tâm bảo hộ hợp lý (bảo hộ trong khuôn
khổ qui định WTO) một số sản phẩm trong nước có giá cao so với hàng nhập
khẩu và chất lượng chưa đồng đều như bông, rau quả, thịt gia súc, gia cầm …,
từng bước nâng cao sức cạnh tranh của mỗi sản phẩm. Xây dựng những hàng
rào kỹ thuật mà WTO cho phép để bảo vệ hàng nông sản trong nước.
Để đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững, Chính phủ cần xây
dựng các chính sách ngăn cấm, hạn chế việc khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như đất, nước, không khí, rừng, đất rừng…. Tiếp tục hoàn
thiện về chính sách đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường nhằm
quản lý, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, hạn chế tiến tới
ngăn chặn tối đa mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo vệ đa
dạng sinh học. Bên cạnh đó, cần coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, kết
hợp với đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và trình độ
khoa học và kỹ thuật của người dân đối với việc bảo vệ, khai thác cũng như
phát triển tài nguyên và môi trường
Sáu là, hỗ trợ các doanh nghiệp nông nghiệp làm hàng xuất khẩu hiểu
rõ những qui định của từng thị trường về hàng rào phi thuế quan để điều chỉnh
sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng, thỏa mãn những tiêu chuẩn của đối
tác, đảm bảo là đối tác tin cậy, lâu dài, khắc phục tình trạng vì lợi ích trước
mắt làm tổn hại đến uy tín của các doanh nghiệp cùng lĩnh vực, của thương
hiệu nông sản Việt Nam.
Bảy là, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu: Cần
đánh giá cụ thể sức cạnh tranh của từng loại nông sản xuất khẩu chủ lực để có
giải pháp khắc phục những yếu kém, đảm bảo nông sản Việt Nam chiếm lĩnh
được thị trường trong nước và thế giới. Qui hoạch các vùng sản xuất chuyên
canh, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất các loại nông sản, trước mắt là
những nông sản xuất khẩu chủ lực. Thành lập các Trung tâm kiểm nghiệm và
chứng nhận chất lượng nông sản hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong
nước và nhất là xuất khẩu trên các vùng sản xuất nông nghiệp qui mô tập
142
trung. Bên cạnh đó, cần xây dựng và thực hiện các thương hiệu hàng hóa
nông sản xuất khẩu của Việt Nam như trái cây, gạo, cà phê… , tạo ra những
thương hiệu riêng đối với từng mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, trước hết cần nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, một mặt cần cải tạo các giống cây trồng, vật
nuôi, mặt khác phải tổ chức lại sản xuất để có sức mạnh cung cấp cho thị
trường những lô hàng nông sản lớn. Gắn kết chặt chẽ giữa các vùng sản xuất
143
chuyên canh và chế biến nguyên liệu tại chỗ.
CHƯƠNG 5
TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ KHI GIA NHẬP WTO
5.1. Khái quát hiện trạng dịch vụ Việt Nam
Đánh giá khái quát tình hình phát triển dịch vụ sau hơn 20 năm đổi mới
cho thấy có sự đan xen giữa thành tựu và hạn chế: Bên cạnh những ngành
dịch vụ phát triển mạnh là một số ngành chưa khai thác hết tiềm năng, tốc độ
phát triển chậm. Trong giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới, dịch vụ tăng trưởng
nhanh, liên tục và có tốc độ cao hơn tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, tính từ năm
1986 trở lại đây, tăng trưởng dịch vụ có xu hướng giảm, thấp hơn tốc độ tăng
trưởng GDP. Như vậy, tốc độ tăng trưởng dịch vụ giai đoạn từ 1996 trở lại
đây có xu hướng ngược với xu thế chung trên thế giới. Tỷ trọng dịch vụ trong
GDP chưa phản ánh đúng xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường đang
phát triển mạnh.
Hình 5.1: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP và
lĩnh vực dịch vụ
10
8.6
7.5
7
8
8.2
6
6.97
5.7
5.7
4.4
4
% g n ở ư r t g n ă t ộ đ
c ố T
2
0
1986-1990
1990-1995
1995-2000
2000-2005
Tăng trưởng GDP
Tăng trưởng dịch vụ
Nguồn: Tổng cục Thống kê; Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Chương trình
phát triển Liên hợp quốc
Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, hàng loạt ngành dịch vụ
144
trước đó bị cấm trước đó đồng loạt phát triển mạnh, đã thúc đẩy lĩnh vực này
tăng trưởng nhanh cả về tốc độ và giá trị. Cơ cấu dịch vụ trong GDP năm 1986 là 33% thì đến năm 2006, con số này là 40,9%.
Tuy nhiên, từ năm 1996, tăng trưởng của dịch vụ có xu hướng sụt giảm và không đạt mục tiêu về tăng trưởng được đề ra tại các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội: Kế hoạch đề ra là tốc độ tăng trưởng dịch vụ giai đoạn 1996 -
2000 bình quân đạt 12-13% và đến năm 2000, dịch vụ đóng góp 45-46% trong GDP, tuy nhiên, con số đạt được chỉ là 5,7% và 38,74%. Tương tự, giai đoạn 2000-2005, mục tiêu đề ra là 7% và 41-42% nhưng kết quả thực tế là
6,97% và 38,5%. Mặc dù năm 2006, tốc độ tăng của dịch vụ đạt 8,29%, cao hơn tốc độ tăng GDP (8,17%) và đóng góp 3,34 điểm phần trăm vào tốc độ
tăng trưởng chung, nhưng vẫn chưa đạt kế hoạch đề ra.
Giai đoạn 2000-2005, mặc dù dịch vụ không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra về cả tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng trong GDP, nhưng nhìn chung, xu
hướng tăng trưởng đã phản ánh xu thế của nền kinh tế thị trường giai đoạn đầu và biến đổi trong cơ cấu ngành.
Về các phân ngành dịch vụ, tốc độ tăng trưởng phản ánh diễn biến của cả khu vực dịch vụ nói chung: Tốc độ cao trong giai đoạn 1986-1995, có xu hướng giảm trong giai đoạn 1995-2000 và phục hồi ở giai đoạn 2000-2005.
Bảng 5.1: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của các phân
ngành dịch vụ
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm
TT
Phân ngành dịch vụ
1. Khách sạn và nhà hàng 2. Khoa học và công nghệ 3. Tài chính và tín dụng 4. Giáo dục và đào tạo 5. Thương mại, sửa chữa thiết bị 6. Y tế và dịch vụ xã hội 7. Vận tải, kho chứa và viễn thông 8. Hoạt động văn hoá, thể thao 9. Dịch vụ cá nhân và cộng đồng 10. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội 11. Quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng,
1986- 1990 6,2 9,6 6,2 9,5 4,2 11,1 3,4 13,5 5,5 4,9 7,8
1990- 1995 9,8 7,5 16,4 11,2 7,4 5,8 7,2 9,3 10,1 70,3 7,2
1995- 2000 5,6 5,5 7,5 5,6 5,9 5 6,5 7,8 8 12,5 2,6
2000- 2005 8,7 8,6 7,7 7,5 7,5 7,4 7,4 6,2 5,9 5,9 5,5
đảm bảo xã hội bắt buộc 12. Dịch vụ kinh doanh BĐS
Tổng GDP
6,7 4,4
9,6 8,2
4,7 7,0
3,9 7,5
145
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng 5.1 cho thấy, chỉ có phân ngành tài chính và tín dụng đạt mức tăng
trưởng cao liên tục trong giai đoạn 1986-2005. Trong giai đoạn 2000-2005, chỉ
có 3 phân ngành (số 1, 2, 3 trong bảng) đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn mức
trung bình (7,5%) trong toàn ngành dịch vụ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng cao
của một số phân ngành chưa hẳn đã đóng góp tỷ trọng lớn trong GDP.
Bảng 5.2: Tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế cho GDP (giá cố
định - phân ngành của Việt Nam)
Đơn vị: %
TT
Hoạt động kinh tế
Phần trăm GDP 2000
2005
1995
Thương mại
1. Nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp 2. Khai khoáng 3. Chế tạo 4. Tiện ích 5. Xây dựng 6. 7. Khách sạn và nhà hàng 8. Vận tải, kho bãi, viễn thông 9. Dịch vụ tài chính 10. Khoa học và công nghệ 11. Dịch vụ kinh doanh nhà đất 12. Quản lý hành chính 13. Giáo dục và đào tạo 14. Dịch vụ y tế và xã hội 15. Văn hoá, giải trí 16. Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
19,6 5,8 22,8 2,9 8,6 16,3 3,4 3,9 2,1 0,6 3,8 2,7 3,3 1,4 0,6 2,2
23,3 6,7 18,8 2,3 7,5 16,3 3,2 3,9 2,1 0,6 4,5 2,1 3,3 1,4 0,6 2,4
Dịch vụ/GDP
26,2 5,3 15,5 1,7 7,5 17,2 3,4 4,0 2,0 0,6 5 3,6 3,6 1,5 0,6 2,3 43,8/100 41,3/100 40,5/100
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bảng đóng góp của phân ngành dịch vụ vào GDP cho thấy, mặc dù một
số phân ngành có tốc độ tăng trưởng cao như khoa học công nghệ, giáo dục
và đào tạo ... lại có đóng góp không lớn vào GDP; Dịch vụ tài chính có tốc độ
tăng cao trong suốt giai đoạn 1986 - 2005, nhưng mới chỉ đóng góp 2,1%
GDP năm 2005. Một số phân ngành có đóng góp lớn trong GDP như chế tạo,
dịch vụ nông -lâm - thuỷ sản lại có tốc độ tăng trưởng không cao. Tốc độ tăng
trưởng cao của những phân ngành đóng góp thấp và tốc độ tăng trưởng không
cao của những phân ngành đóng góp lớn một mặt làm giảm tỷ trọng toàn
ngành dịch vụ trong GDP, mặt khác cho thấy một số ngành tăng trưởng cao
146
giai đoạn vừa qua có ý nghĩa tiềm năng nhiều hơn là những đóng góp thực tế.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung, tăng
trưởng toàn ngành dịch vụ trong thời gian qua chưa phản ánh xu thế của nền
kinh tế thị trường năng động. Ngành dịch vụ nói chung và nhiều phân ngành
còn ở dạng tiềm năng. Nguyên nhân có thể là:
- Chưa quan tâm đúng mức đến phát triển dịch vụ: Hiện chưa có chiến
lược tổng thể phát triển dịch vụ. Mặc dù một số bộ, ngành đã xây dựng chiến
lược phát triển một số phân ngành dịch vụ nhất định nhưng do sự thay đổi bối
cảnh kinh tế xã hội thời gian gần đây, các chiến lược đó bộc lộ nhiều điểm
không phù hợp. Trong việc xây dựng chiến lược, qui hoạch, thiếu vắng sự
phối hợp giữa các ngành liên quan.
- Tình trạng độc quyền của khu vực DNNN trong lĩnh vực dịch vụ đã
kìm hãm sự phát triển của khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài, kéo theo năng lực cạnh tranh ngành bị giảm sút. Nhiều dịch vụ như
viễn thông, điện, vận tải hàng không ... được cung cấp độc quyền bởi các
DNNN một mặt cản trở khả năng tiếp cận thị trường của các khu vực khác,
mặt khác không tạo động lực nâng cao chất lượng, giảm giá dịch vụ.
- Cầu về dịch vụ chưa cao: Các chủ thể kinh tế chưa quen với việc tiêu
dùng dịch vụ hay sử dụng những tổ chức cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tự cung cấp dịch vụ là chính (kể cả khi
qui mô doanh nghiệp đã lớn gấp nhiều lần). Một số doanh nghiệp chỉ sử dụng
các dịch vụ như quảng cáo, thiết kế ..., một số dịch vụ khác như quản trị, tư
vấn, đào tạo ... ít được quan tâm. Ngoài ra cũng cần kể đến thu nhập của dân
cư. Mặc dù thu nhập tăng cao trong những năm vừa qua nhưng mặt bằng thu
nhập còn thấp, do đó họ ít có điều kiện tiếp cận, tiêu dùng dịch vụ, nhất là các
dịch vụ cao cấp.
- Hiệu lực pháp lý kém, quản lý nhà nước bộc lộ bất cập. Với tính đa
dạng và phức tạp, hơn nữa, nhiều ngành dịch vụ mới ra đời đã gây không ít
khó khăn trong quản lý. Hiện tại có nhiều Bộ tham gia quản lý nhưng quá
trình phối hợp và phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, do đó có tình trạng
chồng chéo trong quản lý. Một số lĩnh vực như bảo hộ bản quyền tác giả, đảm
147
bảo chất lượng dịch vụ, tiêu chuẩn kỹ thuật dịch vụ ... còn thiếu khung khổ
pháp lý hoặc hiệu lực quản lý kém, một mặt làm tổn hại đến người tiêu dùng,
mặt khác không khuyến khích các dịch vụ vươn lên trong cạnh tranh
Tình hình phát triển một số dịch vụ động lực
Trong nền kinh tế hiện đại, sự phát triển mạnh của các dịch vụ động lực
như tài chính, ngân hàng, logicstic (dịch vụ hậu cần), khoa học và công nghệ ...
có vai trò ngày càng quan trọng thúc đẩy tăng trưởng chung của khu vực dịch
vụ. Tỷ trọng các dịch vụ động lực ngày càng tăng trong cơ cấu GDP toàn ngành.
Hiện tại, các dịch vụ động lực ở nước ta hiện nay có tốc độ tăng trưởng
khá cao nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu GDP. Do đó tốc độ tăng
trưởng cao của một số dịch vụ này tác động không nhiều đến tốc độ và tỷ
trọng của ngành so với các khu vực khác của nền kinh tế.
Bảng 5.3: Tỷ trọng đóng góp của một số dịch vụ động lực trong
GDP giai đoạn 1995-2000 (giá cố định)
% GDP
Phân ngành
1995
2000
2005
Vận tải, kho bãi, viễn thông
4
3,9
3,9
Dịch vụ tài chính
2
2,1
2,1
Khoa học và công nghệ
0,6
0,6
0,6
Dịch vụ kinh doanh nhà đất
5
4,5
3,8
Giáo dục và đào tạo
3,6
3,3
3,3
Đơn vị: %
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong 5 dịch vụ nêu trên cho thấy, chỉ có dịch vụ tài chính gia tăng cơ
cấu đóng góp trong GDP giai đoạn 1995-2005 (mặc dù mức gia tăng không
đáng kể), số còn lại hoặc giữ nguyên, hoặc suy giảm. Trong cơ cấu dịch vụ,
các dịch vụ động lực chưa phát triển tương xứng với qui mô, tốc độ tăng của
toàn ngành dịch vụ nói riêng và GDP nói chung. Tốc độ tăng trưởng dịch vụ
38 Ngô Doãn Vịnh (chủ biên), Hướng tới sự phát triển của đất nước: một số vấn đề lý thuyết và ứng dụng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.516.
148
trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ bằng 0,54% của Ấn Độ, 0,42 lần Indonexia, 0,93 lần Trung Quốc, 0,34 lần Hàn Quốc38...
- Về giáo dục, đào tạo: Dịch vụ trong lĩnh vực này kém phát triển, Việt
Nam chưa có nhiều cơ sở đào tạo đạt chuẩn quốc tế. Điều này ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh của phân ngành
trong bối cảnh gia nhập WTO. Những nỗ lực cải cách của ngành giáo dục tuy
đã đạt được những kết quả bước đầu, song chất lượng đào tạo vẫn là vấn đề
nan giải.
- Về dịch vụ khoa học, công nghệ: Được đầu tư mạnh trong giai đoạn
1995-2005, tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp của phân ngành này trong GDP
không đổi trong 10 năm (chiếm 0,6%). Khả năng ứng dụng kết quả nghiên
cứu khoa học vào thực tiễn còn thấp, thị trường khoa học kém phát triển là
những nét nổi bật trong sự phát triển dịch vụ khoa học thời gian qua.
- Dịch vụ kinh doanh nhà đất, vận tải, kho bãi, viễn thông có bước phát
triển mạnh nhưng không ổn định. Chi phí vận tải của Việt Nam cao hơn so
với các nước trong khu vực. Dịch vụ kinh doanh nhà đất diễn biến phức tạp
với một thị trường thiếu đồng bộ và thông tin chưa hoàn toàn minh bạch.
- Dịch vụ tài chính: Đây là phân ngành duy nhất vừa đảm bảo tốc độ
tăng trưởng cao trong cả giai đoạn 1995-2005, vừa có tỷ trọng ngày càng lớn
trong cơ cấu GDP. Tuy vậy, những cam kết về mở của thị trường dịch vụ tài
chính trong cam kết WTO sẽ có những tác động mạnh đến phân ngành này
trong thời gian tới. Những ưu đãi của nhà nước đối với khu vực DNNN và
những yếu kém của hệ thống ngân hàng thương mại sẽ là những thách thức
thực sự trong tương lai gần.
5.2. Những cam kết chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ39 Cam kết chung cho tất cả các ngành hoặc phân ngành dịch vụ: Trừ khi
có qui định khác, doanh nghiệp dịch vụ nước ngoài được phép hiện diện
thương mại tại Việt Nam dưới hình thức hợp đồng, liên doanh và doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được
phép thành lập văn phòng đại diện ở Việt Nam nhưng các văn phòng này
39 Tóm lược Báo cáo của Ban công tác: Các cam kết về dịch vụ. www.mot.gov.vn
149
không được phép tham gia vào các hoạt động sinh lợi trực tiếp.
Về mua cổ phần: Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép mua
cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam với số vốn không vượt quá 30% số
vốn điều lệ của doanh nghiệp đó. Sau 12 tháng tính từ khi gia nhập, hạn chế
này bị bãi bỏ trừ khi có qui định khác.
Dịch vụ tài chính:
- Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm: Công ty bảo hiểm
100% vốn nước ngoài không được phép cung ứng dịch vụ bảo hiểm đối với
thương vụ được chỉ định như trách nhiệm pháp lý bên thứ 3 đối với xe gắn
máy, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt... Các giới hạn này sẽ được dỡ bỏ kể
từ 1/1/2008. Sau 5 năm tính từ thời điểm gia nhập, các công ty bảo hiểm nước
ngoài được thành lập chi nhánh tại Việt Nam.
- Các tổ chức tín dụng: Theo cam kết, kể từ 1/4/2007, các tổ chức tín
dụng nước ngoài sẽ được thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam với các điều kiện cụ thể đi kèm (các pháp nhân và thể nhân phải có giấy
phép mới được quyền kinh doanh, công ty mẹ phải có tổng tài sản trên 20 tỉ
USD và cuối năm trước thời điểm nộp đơn); Việc thành lập công ty tài chính
100% vốn nước ngoài hoặc công ty tài chính liên doanh, tổ chức tín dụng đó
phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn.
Việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được đối xử quốc gia đầy
đủ như ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc thành lập hiện diện
thương mại. Công ty chứng khoán nuớc ngoài muốn kinh doanh chứng khoán
tại Việt Nam phải hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Nghị định số
114/2003/NÐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị truờng chứng khoán
cũng như các luật lệ hiện hành khác. Thời hạn hoạt động của các công ty tài
chính liên doanh hoặc công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho
thuê tài chính liên doanh hoặc công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước
ngoài tối đa là 50 năm và có thể được gia hạn. Phần vốn góp của bên nước
ngoài vào ngân hàng thương mại liên doanh không được vượt quá 50% vốn
đăng ký của ngân hàng, trong khi phần góp vốn của bên nước ngoài vào tổ
chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh cần chiếm ít nhất 30% vốn đăng ký.
150
Tổng số cổ phần của các tổ chức tín dụng và cá nhân nước ngoài không được
vượt quá 30% vốn đăng ký của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, trừ
khi luật pháp Việt Nam có quy định khác hoặc được cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam cho phép. Ngoài ra, các công ty chứng khoán nuớc ngoài muốn
giao dịch chứng khoán tại Việt Nam phải chịu các hạn chế được quy định
trong biểu cam kết cụ thể của Việt Nam.
Dịch vụ kinh doanh
- Dịch vụ pháp lý: Các tổ chức, công ty luật nước ngoài được quyền
thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức: chi nhánh,
công ty trực thuộc, công ty nước ngoài, công ty liên kết. Luật sư nước ngoài
có thể hành nghề về luật nước ngoài hoặc luật quốc tế với tư cách là thành
viên hoặc người làm thuê cho các hiện diện thương mại của các tổ chức hành
nghề của luật sư nước ngoài, hoặc người làm thuê cho các văn phòng luật c.a
Việt Nam hoặc công ty luật hợp danh của Việt Nam. Để hành nghề luật sư tại
Việt Nam, người nước ngoài phải có chứng chỉ hành nghề hợp pháp do một
cơ quan hoặc tổ chức nước ngoài có thẩm quyền cấp, có thiện chí đối với Nhà
nước Việt Nam và được một hiện diện thương mại của tổ chức hành nghề luật
sư nước ngoài hoặc tổ chức luật sư Việt Nam tuyển dụng.
- Dịch vụ thuế: Sau một năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có
thể cấp giấy phép đối với loại hình dịch vụ này tuỳ thuộc nhu cầu của nền
kinh tế.
- Dịch vụ kiến trúc, qui hoạch, tư vấn xây dựng: Trong thời gian 2 năm
kể từ khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ được
cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Doanh nghiệp nước ngoài phải là pháp nhân của một thành viên WTO.
- Dịch vụ máy tính: Sau 2 năm kể từ ngày gia nhập, các công ty 100%
vốn nước ngoài có thể chỉ được cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài tại Việt Nam; sau 3 năm, có thể mở chi nhánh.
- Dịch vụ quảng cáo: Ngay sau khi Việt Nam gia nhập, các công ty
151
nước ngoài có thể mở chi nhánh, liên doanh hoặc hợp tác với các đối tác Việt
Nam với phần vốn góp không quá 51% vốn pháp định của liên doanh. Giới
hạn về tỷ lệ vốn góp sẽ được dỡ bỏ kể từ 1/1/2009.
- Nghiên cứu thị trường, tư vấn: Với tỷ lệ vốn góp không quá 51%, các
doanh nghiệp nước ngoài có thể liên kết, hợp tác, liên doanh với đối tác Việt
Nam. Thời điểm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập tính từ
1/1/2009. Với các dịch vụ tư vấn quản lý, sau 3 năm từ khi gia nhập, các tổ
chức nước ngoài được phép mở chi nhánh.
- Dịch vụ nông nghiệp, săn bắn và lâm nghiệp: Chỉ thành lập liên
doanh hoặc hợp đồng với phần vốn góp phía nước ngoài không vượt qúa 51%
vốn pháp định của liên doanh đó.
Dịch vụ viễn thông
Các dịch vụ qua biên giới đối với điện thoại, telex, truyền dữ liệu phụ
thuộc vào đường dây truyền hoặc di động trên mặt đất thì cần đạt được thoả
thuận thương mại với đối tác phía Việt Nam, đồng thời phải được cấp phép
cung ứng dịch vụ quốc tế. Đối với dịch vụ viễn thông cung cấp dựa trên vệ
tinh: cần thoả thuận với nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh quốc tế của Việt Nam
được cấp phép (trừ một số dịch vụ cho các đối tượng kinh doanh ngoài khơi,
trên biển, văn phòng ngoại giao...)
Đối với dịch vụ không dựa trên tiện ích hạ tầng mạng: Các nhà cung
cấp dịch vụ được liên doanh với nhà cung ứng dịch vụ viễn thông ngay sau
khi gia nhập, phần vốn góp không vượt quá 51% vốn pháp định và sau 3 năm,
phần vốn pháp định không được vượt quá 65%. Đối với dịch vụ dựa trên tiện
ích hạ tầng mạng: Các doanh nghiệp nước ngoài được liên doanh với nhà
cung ứng dịch vụ viễn thông ngay sau khi gia nhập, phần vốn góp không vượt
quá 49% vốn pháp định.
Đối với dịch vụ viễn thông cơ bản: Sau 3 năm, các công ty nước ngoài
được phép sử dụng trạm vệ tinh mặt đất.
Các dịch vụ giải trí gia tăng khác dựa trên các dịch vụ viễn thông sẽ có
152
phần vốn góp phía nước ngoài không vượt quá 50%.
Dịch vụ phát hành và chiếu phim: Chỉ được hiện diện dưới hình thức
hợp đồng hoặc liên doanh với đối tác hợp pháp của Việt Nam, trong đó phần
vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định của liên
doanh (băng video không có trong cam kết). Đối với dịch vụ chiếu phim, chỉ
cho phép hợp đồng hoặc liên doanh với đối tác hợp pháp của Việt Nam với
phần vốn góp của nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định.
Dịch vụ phân phối: Các doanh nghiệp nước ngoài muốn tham gia cung
cấp dịch vụ phân phối hàng hoá sẽ phải liên doanh với các doanh nghiệp Việt
Nam với phần vốn góp giới hạn tối đa phía nước ngoài là 49% (tỷ lệ này được
dỡ bỏ vào 1/1/2008). Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được quyền
làm đại lý, bán buôn, bán lẻ tất cả các mặt hàng nhập khẩu hợp pháp và các
sản phẩm sản xuất trong nước theo qui định của pháp luật (trừ các danh mục
miễn trừ là xi măng, clinker, lốp, sản phẩm giấy, máy kéo, xe tải, xe con, xe
mô tô, sắt thép, rượu và các sản phẩm có cồn, phân bón, thiết bị nghe nhìn).
Sau 3 năm kể từ thời điểm gia nhập, các hạn chế này sẽ được dỡ bỏ. Tuy
nhiên, điều kiện thành lập các dịch vụ bán lẻ sẽ được xem xét trên cơ sở nhu
cầu của nền kinh tế Việt Nam. Các mặt hàng không đưa vào danh mục cam
kết trong lĩnh vực phân phối bao gồm: thuốc điếu, xì gà, sách, báo, tạp chí,
băng video, đá quí, dược phẩm, chất nổ, thuốc, dầu chế biến, dầu thô, gạo,
đường.
Dịch vụ giáo dục: Các cam kết giới hạn trong lĩnh vực khoa học kỹ
thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh
doanh, kinh tế học, toán học, luật quốc tế và đào tạo ngôn ngữ. Không cam
kết trong giáo dục phổ thông. Đối với giáo dục người lớn, giáo dục bậc cao và
các dịch vụ giáo dục khác, chỉ cho phép thành lập liên doanh. Các qui định
này được dỡ bỏ tính từ 1/1/2009, nghĩa là từ thời điểm nêu trên, các cơ sở đào
tạo 100% vốn nước ngoài sẽ được phép thành lập.
Dịch vụ môi trường: Trong thời gian 4 năm kể từ khi gia nhập, các
công ty nước ngoài được phép thành lập liên doanh với vốn góp không vượt
quá 51% vốn pháp định. Hạn chế này được dỡ bỏ sau 4 năm.
153
Dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao:
Trong thời gian 5 năm kể từ khi gia nhập, các công ty nước ngoài được
phép thành lập liên doanh với vốn góp không vượt quá 49% vốn pháp định.
Hạn chế này được dỡ bỏ sau 5 năm. Riêng đối với kinh doanh trò chơi điện
tử, chỉ cho phép hình thức hợp đồng hoặc liên doanh với đối tác Việt Nam đã
được cấp phép hoạt động dịch vụ này.
Bệnh viện và dịch vụ y tế: Các nhà cung ứng nước ngoài được phép
cung ứng dịch vụ dưới hình thức hợp đồng, liên doanh hoặc thành lập bệnh
viện 100% vốn nước ngoài. Vốn đầu tư tối thiểu với bệnh viện thương mại là
20 triệu USD, với phòng khám đa khoa là 200.000 USD, với cơ sở chuyên
khoa là 2 triệu USD.
Dịch vụ vận tải:
Vận tải đường biển được thành lập liên doanh, trong đó phần vốn góp của
nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định. Các công ty vận tải biển 100%
nước ngoài chỉ được thành lập sau 5 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Vận tải hàng không được phép cung ứng dịch vụ văn phòng hoặc đại lý
bán vé tại Việt Nam. Sửa chữa hoặc bảo trì máy bay sẽ được thành lập công
ty liên doanh với vốn góp tối đa phía nước ngoài không vượt quá 51%. Sau 5
năm, công ty liên doanh 100% vốn mới được phép thành lập.
Vận tải đường sắt cho phép các công ty liên doanh với phần vốn góp
nước ngoài không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
Vận tải đường bộ: Các công ty nước ngoài được phép vận tải bằng
đường bộ dưới hình thức hợp đồng, liên doanh với phần vốn góp không quá
49%. Sau 3 năm, tuỳ thuộc nhu cầu thị trường, các công ty liên doanh có thể
cho phép mức tối đa vốn góp phía nước ngoài lên đến 51% nhưng tài xế phải
là người Việt Nam.
Như vậy, các cam kết về dịch vụ cho thấy Việt Nam đã mở cửa thị
trường khá mạnh trong nhiều lĩnh vực và hầu hết các cam kết sẽ được thực
hiện ngay sau khi gia nhập. Gia nhập WTO, các dịch vụ tài chính, ngân hàng,
154
bảo hiểm, viễn thông, vận tải... sẽ là các lĩnh vực mở cửa mạnh mẽ nhất.
5.3. Giá cả và dịch vụ sau 6 tháng gia nhập WTO
Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch
vụ 6 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 335,6 nghìn tỷ đồng, tăng 22,9% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó các khu vực kinh tế đều tăng trên 25%, riêng khu
vực kinh tế nhà nước giảm 7,7%. Xét theo ngành kinh doanh, thương nghiệp
chiếm gần 82%, tăng 22,6%; khách sạn, nhà hàng chiếm 11,8%, tăng 21,7%; du lịch chiếm 1,2%, tăng 38,6%; dịch vụ chiếm 5,1%, tăng 28,4%40.
Giá tiêu dùng tháng 6/2007 tăng 0,9% so với tháng 5/2007, tăng 5,2%
so với tháng 12/2006 và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá tiêu dùng
tăng do giá của tất cả các nhóm hàng hóa đều tăng với các mức độ khác nhau.
So với 6 tháng đầu năm trước, giá tiêu dùng bình quân tăng 7%, thấp hơn
mức tăng bình quân 8,6% trong 6 tháng đầu năm 2005 và 7,9% trong 6 tháng
đầu 2006 và thấp hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy vậy, với
xu hướng tăng giá như 6 tháng đầu năm và các biến động về giá trên thị
trường quốc tế, việc kiểm soát giá trong 6 tháng cuối năm là không dễ.
Hình 5.2: Chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2005-2007
3
2.5
2
1.5
%
1
ệ l ỷ T
0.5
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
-0.5
-1
2005
2006
2007
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Về giá đô la Mỹ: 6 tháng có xu hướng tăng nhẹ từ tháng 4/2007 và hầu
40 http://www.gos.gov.vn
155
hết các tháng đều tăng so với cùng tháng năm trước, bình quân mỗi tháng tăng
0,5%. Giá đô la Mỹ tháng 6/2007 tăng 0,3% so với tháng trước, tăng 0,1% so
với tháng 12/2006 và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá vàng: 6 tháng
biến động thất thường, bình quân 6 tháng tăng 11,9% so với 6 tháng đầu năm
trước, trong đó giá vàng tháng 6/2007 giảm 2% so với tháng trước nhưng tăng
5% so với tháng 12/2006 và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.
Hộp 5.1: Sáu tháng đầu năm 2007: Giá tăng không phải do WTO
Việc tăng giá vừa rồi là do mấy yếu tố sau: thứ nhất là do giá cả một số mặt hàng
trên thế giới tăng; thứ hai, giá lương thực thực phẩm tăng.
Việc giá xuất khẩu lương thực tăng đặt ra yêu cầu là phải mua hàng của nông dân với giá cao hơn. Điều đó có nghĩa là việc phân phối lợi ích giữa nhà sản xuất và người đi buôn hợp lý.
Do đó nó cũng góp phần làm giá lương thực trong nước tăng lên. Ngoài ra, cúm
gà, dịch bệnh cũng làm giá cả trong nước tăng, lượng tiền lưu thông tăng lên.
Nhà nước đã bỏ ra một số lượng lớn tiền để mua ngoại tệ cũng gây áp lực tăng giá. Một số chính sách giá của Nhà nước trong lĩnh vực điện, xăng dầu, than cũng kích thích tăng giá mặt hàng khác.
Đó là các yếu tố làm tăng giá mà theo tôi, việc tăng giá vừa rồi là không thể coi thường mặc dù vẫn có thể kiểm soát được. Vì thế điều này đặt ra nhiệm vụ kiềm chế giá trong sáu tháng cuối năm là rất quan trọng.
Nguồn : Trả lời của nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển với Thời báo kinh tế Việt Nam. Http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=1017&id =cfbdb2aa160c3a.
Về xuất, nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 6,2 tỷ
USD, tăng 20,8% trong đó xuất khẩu dịch vụ gần 3 tỷ USD, tăng 17,2% và nhập khẩu dịch vụ đạt 3,2 tỷ USD, tăng 24,4%41. Giá trị xuất khẩu các loại
dịch vụ 6 tháng đầu năm đều tăng so với cùng kỳ năm 2006. Nhập khẩu dịch
vụ có mức tăng cao hơn xuất khẩu dịch vụ (Điều này được giải thích do phí
vận tải và bảo hiểm hàng hoá nhập khẩu tăng 31,6%, dịch vụ tài chính tăng
23,1%, dịch vụ bảo hiểm tăng 16,9%).
Bưu chính, viễn thông trong nước và quốc tế tiếp tục phát triển ổn định.
Số thuê bao điện thoại phát triển mới trong 6 tháng ước tính đạt 8,9 triệu,
nâng tổng số thuê bao trên cả nước tính đến hết tháng 6 đạt 36,4 triệu. Việt
Nam được đánh giá là nước có tốc độ phát triển viễn thông cao so với các
41 Tổng cục Thống kê, http://www.gos.gov.vn
156
nước trong khu vực.
Vận chuyển hành khách 6 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt 749,9 triệu
lượt khách, tăng 8,3% về lượt khách so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển
hành khách tăng ở cả vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường
không. Vận chuyển hàng hoá 6 tháng ước tính đạt 181,6 triệu tấn và 45,2 tỷ
tấn.km; tăng 7,6% về tấn và 7% về tấn.km. Hầu hết các hình thức vận chuyển
đều tăng trừ vận chuyển đường sắt và đường hàng không.
Bảng 5.4: Vận tải hành khách và hàng hoá 7 tháng năm 2007
Ước tính 7 tháng năm 2007
7 tháng năm 2007 so với cùng kỳ năm trước (%)
Khối lượng luân chuyển
Khối lượng vận chuyển
Khối lượng luân chuyển
Khối lượng vận chuyển Nghìn HK Triệu HK.km 38396.1 876026.6
108.3
108.8
Trong nước Ngoài nước
874103.6 1923.0
32664.1 5732.0
108.3 107.1
107.1 119.6
A. HÀNH KHÁCH Tổng số Phân theo phạm vi vận tải Phân theo cấp quản lý
Trung ương Địa phương
17044.0 858982.6
103.8 108.4
112.9 107.2
7001.0 1638.1 104652.8 757747.4 4987.4
2907.8 114.2 2194.2 24879.8 8300.0
97.7 105.8 102.0 109.3 116.7
110.3 105.7 102.2 109.1 109.2
Đường sắt Đường biển Đường sông Đường bộ Hàng không
107.6
106.9
11437.3 26958.8
Nghìn tấn Triệu tấn.km 212578.1
52906.9
Trong nước Ngoài nước
196302.5 16275.6
19432.0 33474.9
107.4 110.3
107.2 106.8
Trung ương Địa phương
29760.1 182818.0
34904.7 18002.2
106.6 107.8
106.8 107.1
Phân theo ngành vận tải B. HÀNG HOÁ Tổng số Phân theo phạm vi vận tải Phân theo cấp quản lý Phân theo ngành vận tải
Đường sắt Đường biển Đường sông Đường bộ Hàng không
5147.2 21634.3 40860.0 144860.3 76.3
2219.9 39645.2 3804.3 7078.3 159.2
96.8 105.5 105.6 108.9 98.2
111.1 106.4 105.8 109.2 95.7
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm ước tính đạt 2,11 triệu
lượt người, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm 2006. Các nhóm khách tăng cao
gồm du lịch, thăm thân nhân; các khách đến với mục đích khác giảm nhẹ.
- Ngân hàng: Mặc dù theo cam kết từ 1/4/2007 nhưng đến hết quí
157
3/2007, hiện chưa có ngân hàng nước ngoài 100% vốn được thành lập.
5.4. Tác động gia nhập WTO đến lĩnh vực dịch vụ
Việc mở cửa thị trường dịch vụ sẽ gia tăng mức độ cạnh tranh đối với
từng lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, liệu sự gia tăng mức độ cạnh tranh có góp phần
cải thiện năng lực cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ trong nước? Hoặc sự
tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ dẫn đến sự thu hẹp hay sụp
đổ của các nhà cung cấp dịch vụ trong nước, tác động bất ổn đối với nền kinh tế?
Rất khó có thể rút ra những kết luận chính xác trong thời gian quá ngắn sau khi
Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ, ngay cả khi thời điểm thực hiện mở cửa
một số lĩnh vực dịch vụ (như ngân hàng) đã qua gần nửa năm nhưng hiện chưa
có ngân hàng 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Như vậy, những đánh giá tác
động đối với lĩnh vực dịch vụ chủ yếu mang tính dự báo.
5.4.1. Những tác động tích cực
- Tác động nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực dịch vụ. Sự phát
triển của khu vực dịch vụ trong thời gian qua được đánh giá là dưới mức tiềm
năng, chưa khai thác hết những lợi thế có được, chưa phát huy được nguồn
lực sẵn có. Trong bối cảnh mới, khi mà các phân ngành dịch vụ có sự xuất
hiện của các doanh nghiệp nước ngoài, hệ thống cung ứng dịch vụ của Việt
Nam buộc phải nâng cao năng lực, sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Sức
ép cạnh tranh, nhìn từ mặt tích cực, sẽ như một động lực nhằm khơi dậy các
tiềm năng của hệ thống dịch vụ trong nước.
Trong giai đoạn đầu, sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực
dịch vụ chính là những yếu kém của hệ thống cung ứng dịch vụ trong nước.
Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tìm thấy nhiều tiềm năng và cơ hội khi tham
gia thị trường Việt Nam. Khi thị phần của hệ thống cung ứng dịch vụ của
doanh nghiệp nước ngoài đạt được tỷ lệ nhất định, lợi nhuận của các doanh
nghiệp trong nước sẽ giảm xuống nhưng năng lực cạnh tranh của khu vực này sẽ được nâng cao42.
- Mở rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ: Gia nhập WTO mở
158
ra thị trường rộng lớn đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ, các nhà cung cấp 42 Kết luận này được Classens, Kunt và Huizinga (1998) rút ra sau khi phân tích lĩnh vực ngân hàng của 80 quốc gia giai đoạn 1988-1995.
có nhiều cơ hội hơn, thị trường rộng lớn hơn và nhu cầu thị trường đa dạng hơn. Bên cạnh đó, việc gia tăng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng mở ra
thị trường xuất khẩu dịch vụ tại chỗ hoặc những cơ hội hợp tác, liên doanh với các đối tác nước ngoài.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ thông qua các hiệp định và
các hiệp hội về dịch vụ nói chung, trên từng phân ngành dịch vụ nói riêng.
- Tạo lập môi trường cạnh tranh: Yêu cầu của các hiệp định trong WTO
và các cam kết đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách và các qui phạm pháp luật cho phù hợp, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực dịch vụ Việt Nam.
5.4.2. Những tác động tiêu cực
- Thị phần khu vực dịch vụ trong nước giảm xuống: Với lợi thế về vốn, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực và kinh nghiệm hoạt động nên các doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ nước ngoài sẽ có nhiều lợi thế trong cạnh tranh. Thị phần các doanh nghiệp trong nước sẽ bị thu hẹp, một số doanh nghiệp yếu
kém có thể bị phá sản, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Khu vực DNNN sẽ chịu tác động mạnh từ việc điều chỉnh chính sách của Chính phủ, theo đó các lĩnh vực hạn chế dần được dỡ bỏ, sự độc quyền của
DNNN sẽ bị thu hẹp và xoá bỏ trong hầu hết các lĩnh vực dịch vụ theo cam kết. Bảo hộ đối với DNNN cũng phải xoá bỏ, do đó nếu các doanh nghiệp này không
kịp thời đổi mới thì rất khó có thể cạnh tranh trên thị trường. Sự tác động còn có thể gây đổ vỡ đối với một số DNNN thuộc lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, ngân hàng và kéo theo những bất ổn của cả nền kinh tế.
- Đội ngũ nhân lực có trình độ trong lĩnh vực dịch vụ có thể sẽ chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này tác động tiêu cực đến quá trình cơ cấu lại, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nước.
5.5. Một số giải pháp
- Xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển dịch vụ trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng. Hiện tại, các cơ
159
quan chức năng của Việt Nam đang tiến hành xây dựng chiến lược quốc gia
về phát triển dịch vụ đến 2020, trong đó chỉ rõ các mục tiêu phát triển, nhấn
mạnh mối quan hệ giữa các phân ngành dịch vụ. Trong thời gian tới, cần sớm
hoàn tất chiến lược tổng thể, làm căn cứ để mỗi ngành, mỗi địa phương xây
dựng kế hoạch cụ thể và các biện pháp thực hiện.
- Hoàn thiện chính sách liên quan đến phát triển dịch vụ. Các chính
sách cần phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết gia nhập WTO. Trong
thời gian tới, các chính sách định hướng vào những nội dung chính sau:
+ Tạo lập môi trường kinh doanh: Gỡ bỏ những rào cản trong môi
trường kinh doanh như giấy phép con, các qui định dưới luật không phù hợp.
Từng bước mở rộng quyền kinh doanh, quyền thành lập doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực dịch vụ đối với mọi thành phần kinh tế. Tiếp tục rà soát
những hạn chế về điều kiện kinh doanh.
+ Tạo lập môi trường cạnh tranh: Chống độc quyền trong cung ứng
dịch vụ, từng bước tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng trong các phân
ngành không nằm trong danh mục cấm (hoặc kinh doanh có điều kiện). Có
chính sách khuyến khích, thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân và khu vực
nước ngoài trong cung ứng dịch vụ.
+ Tiếp tục xã hội hoá cung ứng dịch vụ: Đẩy mạnh xã hội hoá đối với
một số loại dịch vụ công như y tế, giáo dục, văn hoá, khoa học công nghệ ...
nhằm huy động mọi nguồn lực cho phát triển, mặt khác từng bước đảm bảo sự
công bằng trong tiếp cận các dịch vụ công.
+ Đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước đối với các phân ngành dịch
vụ, đồng thời tạo mối liên kết trong công tác quản lý đối với các dịch vụ có
liên quan.
+ Thúc đẩy phát triển những dịch vụ “động lực”, tạo đà cho nền kinh tế
phát triển bền vững. Tuỳ từng phân ngành dịch vụ để có những biện pháp cụ
thể. Giải pháp chung trong nhóm này là thực hiện chính sách tự do hoá mạnh
hơn, tăng cường đầu tư, gia tăng tính cạnh tranh của mỗi phân ngành.
- Xây dựng lộ trình hội nhập dịch vụ trong khuôn khổ WTO. Với rất
160
nhiều cam kết trên từng lĩnh vực cụ thể, các cơ quan quản lý nhà nước liên
quan cần xây dựng lộ trình chung cho toàn ngành dịch vụ và cho mỗi phân
ngành, làm cơ sở để các dịch vụ định hướng hoạt động.
- Nghiêm túc thực hiện những điều chỉnh pháp luật phù hợp với các
luật lệ của WTO và các cam kết của Việt Nam. Tiếp tục rà soát, huỷ bỏ những
văn bản không còn phù hợp, đồng thời tiếp tục ban hành các văn bản pháp
luật mới phù hợp với các qui tắc chung của WTO. Đối với mỗi phân ngành cụ
thể, tuỳ thời điểm cam kết về từng nội dung (mở cửa thị trường, cắt giảm thuế
quan, huỷ bỏ những hạn chế ...) để kịp thời ban hành những qui định phù hợp.
Từng bước điều chỉnh cách tiếp cận phân ngành của dịch vụ phù hợp với phân
loại của WTO, trên cơ sở đó có thể xem xét, ban hành những văn bản pháp
luật mới (theo cách tiếp cận phân ngành mới), chẳng hạn như luật về dịch vụ
môi trường, luật về dịch vụ pháp lý...
- Thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ: Cần kết hợp những hỗ trợ của Nhà nước
và nỗ lực của các doanh nghiệp. Trước mắt, công tác quảng bá hình ảnh, hợp
tác với các nhà cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp, nâng cao năng lực nội tại
của mỗi nhà cung ứng trong nước ... là những điều kiện đảm bảo thành công
trong xuất khẩu dịch vụ.
5.6. Gia nhập WTO và lĩnh vực ngân hàng
Trong các cam kết và thực hiện cam kết về lĩnh vực dịch vụ, ngân hàng
là một trong những ngành nhạy cảm nhất với sự thay đổi. Trong khuôn khổ
phạm vi đề tài, chúng tôi phân tích lĩnh vực ngân hàng như một trường hợp
điển hình trong việc gia nhập WTO của Việt Nam trên lĩnh vực dịch vụ.
Cũng như nhiều lĩnh vực dịch vụ nhạy cảm khác, nhiều ý kiến lo ngại
việc thực thi các hiệp định và cam kết trong lĩnh vực ngân hàng sẽ có tác động
xấu đến các ngân hàng trong nước, nhất là với các ngân hàng thương mại
quốc doanh. Những lo ngại này xuất phát từ cả vị thế cạnh tranh mạnh của các
ngân hàng nước ngoài và những yếu kém của các ngân hàng trong nước sau
nhiều năm hoạt động không có sự cạnh tranh quốc tế. Kết quả của việc gia
161
nhập WTO đến lĩnh vực ngân hàng không thể xác định một cách đầy đủ trong
thời gian ngắn và trong bối cảnh chưa xuất hiện những đối thủ cạnh tranh
quốc tế trên thị trường Việt Nam.
5.6.1. Khái quát về lĩnh vực ngân hàng
Hiện tại trên thị trường Việt Nam có 6 ngân hàng thương mại quốc
doanh, 39 ngân hàng cổ phần tư nhân, 6 ngân hàng liên doanh và 31 chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, còn có 46 văn phòng đại diện ngân
hàng nước ngoài, tuy nhiên các văn phòng này không được cung cấp các dịch vụ ngân hàng trong thị trường nội địa43.
Mặc dù tỷ trọng nhỏ các ngân hàng thương mại quốc doanh nhưng thị
phần của khu vực này chiếm tỷ trọng rất lớn: Bốn (trong sáu) ngân hàng
nhóm này chiếm 81% các khoản vay bằng nội tệ, 53% các khoản vay bằng
USD vào thời điểm cuối năm 2005. Các ngân hàng cổ phần tư nhân đạt được
những kết quả khả quan trong thời gian qua nhưng hầu hết có qui mô nhỏ; sáu
ngân hàng liên doanh qui mô cũng rất nhỏ, trong mỗi ngân hàng đều có 50%
vốn của một ngân hàng thương mại quốc doanh; 31 chi nhánh ngân hàng
nước ngoài chỉ chiếm tổng cộng 4% các khoản vay nội tệ và 20% các khoản
vay bằng USD.
hàng
hàng
hàng
Ngân liên doanh
Chi nhánh NH n.ngoài
Ngân TMQD 6 240.654
Ngân cổ phần 39 43.491
6 2.357
31 11.040
81 4.866
15 986
1 1.543
4 1.822
Số lượng Các khoản vay bằng nội tệ (tỷ đ) Tỷ lệ (%) Các khoản vay bằng USD (triệu USD) Tỷ lệ (%)
53
11
17
20
Nguồn: USAID, CIEM, FIA (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 144.
Bảng 5.5: Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng
5.6.2. Những cải cách 5 năm qua trong lĩnh vực ngân hàng và một số kết quả
Ngay từ năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều biện pháp cụ thể
43 USAID, CIEM, FIA (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 142.
162
nhằm tái cấu trúc, nâng cao năng lực cạnh tranh của lĩnh vực ngân hàng. Theo
kế hoạch, toàn bộ các ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ phải hoàn thành
cổ phần hoá vào năm 2010, trong đó một số ngân hàng sẽ tiến hành cổ phần
hoá ngay trong năm 2007. Tới năm 2010, nhà nước nắm giữ mức trần là 51%
cổ phần trong các ngân hàng được tiến hành cổ phần hoá. Tỷ lệ cổ phần của
một ngân hàng nước ngoài nắm giữ tối đa đối với các ngân hàng thương mại
cổ phần quốc doanh được khống chế ở mức tối đa 10% (hiện đã nâng lên
15%) và tổng vốn của các ngân hàng nước ngoài nắm giữ tại một ngân hàng
Việt Nam không vượt quá 30%.
Ngoài những nỗ lực củng cố bản thân hệ thống ngân hàng, các biện
pháp cải thiện hoạt động quản lý và giám sát cũng được tăng cường. Năm
2005, qui định về tỷ lệ phân loại nợ được ban hành, phù hợp với thông lệ
quốc tế. Các qui định khác nhằm từng bước minh bạch hoá hoạt động cũng
được qui định cụ thể: ban hành qui định mới về tỷ lệ an toàn, qui định về
chống rửa tiền và công bố thông tin... Tất cả những qui định trên nhằm từng
bước đổi mới các biện pháp quản lý và giám sát hiện đại hơn, tiếp cận dần với
các chuẩn mực quốc tế.
Những cải cách toàn diện trong 5 năm vừa qua đã mang lại những kết
quả tích cực: Lợi nhuận của các ngân hàng, nhất là ngân hàng thương mại cổ
phần tăng nhanh. Trong năm 2006, tất cả ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng đều tăng vốn điều lệ. Ba ngân hàng thương mại quốc doanh là
Ngoại thương, Đầu tư phát triển, Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoàn
thành đợt phát hành trái phiếu có khả năng chuyển đổi, đã huy động được 1.385 tỷ đồng đến trên 3.000 tỷ đồng (tính tại thời điểm cuối năm 2006)44.
Các ngân hàng thương mại cổ phần cũng có bước phát triển mạnh. Tất cả các
ngân hàng khu vực này đều thực hiện thành công nhiều đợt phát hành trái
phiếu và cổ phiếu tăng vốn. Nhiều ngân hàng đã thu hút được các đối tác
nước ngoài tham gia như ACB, Sacombank, VP Bank, Techcombank...
44 Kinh tế Việt Nam và thế giới 2006-22007, tr. 51
163
Các dịch vụ ngân hàng từng bước được đa dạng hoá, trong đó phát triển
mạnh nhất là dịch vụ thẻ45. Bên cạnh đó, các dịch vụ gia tăng khác như kiều hối,
thanh toán, chuyển tiền trong nước và quốc tế, kinh doanh ngoại tệ cũng được
nhiều ngân hàng chú trọng đầu tư. Tính đến tháng 12/2006, có 12 ngân hàng
thương mại thành lập và đưa vào hoạt động công ty kinh doanh chứng khoán.
Chất lượng nguồn nhân lực không ngừng được nâng cao, nhất là các
ngân hàng thương mại cổ phần. Thị trường nhân lực chất lượng cao ngành
ngân hàng trong thời gian qua mang tính cạnh tranh cao, lượng cầu lớn, do đó
đòi hỏi đội ngũ cán bộ không ngừng nâng cao trình độ, đáp ứng ngày càng tốt
hơn các yêu cầu mới của thị trường. Công nghệ ngân hàng không ngừng được
đổi mới. Hầu hết các ngân hàng đã sử dụng những phần mềm chuyên ngành.
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được kết nối với 65 ngân hàng
thành viên và 270 chi nhánh tham gia.
Khu vực ngân hàng thương mại cổ phần có bước phát triển mạnh nhất.
Nhiều ngân hàng đạt tốc độ tăng các chỉ tiêu cơ bản trong năm 2006 (lợi
nhuận, qui mô vốn, tài sản, lượng khách, vốn huy động ...) từ 50-80% so với
cùng kỳ năm 2005. Đến 31/12/2006, ACB đạt tổng tài sản hơn 44.875 tỷ
đồng, tăng 85,97% so với cuối năm 2005; mạng lưới giao dịch gồm 80 chi
nhánh và phòng giao dịch, dẫn đầu về qui mô hoạt động trong khu vực ngân
hàng thương mại cổ phần.
Ngân hàng nước ngoài mở rộng nhanh qui mô hoạt động. Tính đến hết
năm 2006, có 9 ngân hàng, tập đoàn tài chính nước ngoài đầu tư vốn mua từ
10-30% vốn cổ phần trong 7 ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam.
Tổng vốn ước tính của các ngân hàng nước ngoài đưa vào thị trường Việt
Nam đạt khoảng 1 tỷ USD. Thị phần hoạt động của các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài năm 2006 đạt 14%, tăng 5% so với năm 2005. Tổng doanh số cho
vay của các ngân hàng và tập đoàn tài chính nước ngoài giai đoạn 1995-2006
lên tới 10 tỷ USD.
Mặc dù có những tiến bộ đáng ghi nhận nhưng nhìn chung, hệ thống
45 Hiện tại, cả nước có 17 ngân hàng phát hành thẻ và thanh toán nội địa, 10 ngân hàng thương mại làm đại lý phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
164
ngân hàng Việt Nam bộc lộ nhiều yếu kém. Theo đánh giá của IMF, trong khi
nhiều ngân hàng thương mại cổ phần đạt yêu cầu an toàn vốn 8% thì các ngân
hàng thương mại quốc doanh không đảm bảo yêu cầu này. Theo thông báo
của Ngân hàng nhà nước, tổng giá trị nợ khó đòi của hệ thống ngân hàng năm 2005 là 4,4%, tuy nhiên, theo WB và IMF thì con số này là 15-30%46. Các
dịch vụ mặc dù có bước phát triển mạnh nhưng nếu so sánh loại hình (số
lượng) và chất lượng dịch vụ với một số nước trong khu vực sẽ thấy dịch vụ
của các ngân hàng Việt Nam không đa dạng và chất lượng thấp. Trong một
cuộc điều tra của UNDP, 50% số người được hỏi cho rằng họ có thể chuyển
tiền gửi sang ngân hàng nước ngoài ngay khi các hạn chế với ngân hàng nước
ngoài được bãi bỏ; 45% cho rằng họ thích vay của các ngân hàng nước ngoài hơn trong nước47.
Tổng quan hoạt động của các khối ngân hàng năm 2006 cho thấy: Thị
phần huy động vốn của khối ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn lớn nhất,
nhưng tỷ trọng giảm so với năm 2005 (giảm 3,4%); các khối khác đều tăng thị
phần, trong đó các ngân hàng thương mại cổ phần tăng cao nhất, đạt 14,1%, tăng
2,1% so với năm 2005. Thị phần dư nợ cho vay cũng có diễn biến tương tự: các
ngân hàng thương mại quốc doanh có xu hướng giảm, các khối còn lại (cổ phần,
liên doanh, nước ngoài) đều tăng. Trên thị trường đầu tư, khối ngân hàng thương
mại cổ phần và các ngân hàng nước ngoài mở rộng và có tốc độ tăng trưởng cao,
trong khi đó ngân hàng thương mại quốc doanh có xu hướng giảm.
5.6.3. Tác động của gia nhập WTO đến lĩnh vực ngân hàng
Thực chất của việc gia nhập WTO và mở cửa lĩnh vực ngân hàng là
việc cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động theo cùng điều kiện giống
với các ngân hàng Việt Nam. Như vậy, mặt tích cực của những tác động là
sức ép cạnh tranh buộc các ngân hàng trong nước phải nâng cao năng lực hoạt
động để cạnh tranh và phát triển; mặt tiêu cực có thể là những đổ vỡ hệ thống,
46 USAID, CIEM, FIA (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 146. 47 USAID, CIEM, FIA (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 147.
165
dẫn đến những bất ổn tại thị trường tài chính trong nước.
Hộp 5.2: Thời điểm lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam
Ngày 5/5/2007, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định 22 của Chính phủ về hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng con 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam. Như vậy, văn bản tạo hành lang pháp lý cơ bản cuối cùng đã được ban hành.
Trước đó, từ đầu năm 2007, một số ngân hàng nước ngoài đã xúc tiến kế hoạch thành lập ngân hàng con 100% vốn. Tại những cuộc tiếp xúc với báo giới gần đây, đại diện của ngân hàng nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam là Ngân hàng Hồng Kông - Thượng Hải (HSBC) cho biết mọi điều kiện chuẩn bị cần thiết đã sẵn sàng, vấn đề còn lại là thời gian. Ngoài HSBC, một số nguồn tin còn đề cập đến khả năng nhập cuộc cùng lúc của Ngân hàng ANZ và Standard Chareted. Với HSBC, từ việc lập ngân hàng con 100% là khả năng được được mở rộng từ 5 - 10 chi nhánh, lượng nhân viên cũng dự kiến sẽ tăng gấp đôi từ 400 lên 800 người…
Về thông tư Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành, các điều kiện đặt ra cơ bản không có nhiều thay đổi với những thông tin đã được đề cập trước đây, đặc biệt là trong các kết quả đàm phán gia nhập WTO, như yêu cầu về tổng tài sản của ngân hàng mẹ tối thiểu là 10 tỷ USD, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%, nợ xấu dưới 3%...
Tuy nhiên, sau thông tư trên ban hành, để thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài, ngân hàng đó phải thuộc những quốc gia, vùng lãnh thổ đã có thỏa hợp tác về trao đổi thông tin, giám sát và quản lý với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đang xúc tiến để ký những thỏa thuận cần thiết trước khi thông qua xét duyệt các hồ sơ gửi về. Nguồn: http://www.vneconomy.vn
- Tác động nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng trong
nước: Việc các ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam sẽ
tạo điều kiện cho các ngân hàng trong nước trao đổi, hợp tác trong hoạch
định, điều hành chính sách tiền tệ, phòng ngừa rủi ro, từng bước nâng cao uy
tín và vị thế của các ngân hàng trong nước trên trường quốc tế. Các ngân hàng
Việt Nam có điều kiện trao đổi vốn, kinh nghiệm, công nghệ quản lý, đào tạo
nguồn nhân lực. Ngoài ra, các ngân hàng trong nước cũng sẽ phải minh bạch
hơn các hoạt động giao dịch, chuyên môn hoá sâu hơn các dịch vụ gia tăng.
Kinh nghiệm của các quốc gia đang phát triển cho thấy, trong giai đoạn đầu,
các ngân hàng trong nước bị giảm thị phần và lợi nhuận nhưng bên cạnh đó,
môi trường cạnh tranh hơn sẽ cải thiện năng lực hoạt động của toàn bộ hệ
166
thống ngân hàng trong nước, mang lại lợi ích nhiều hơn cho khách hàng và cả
nền kinh tế48. Như vậy, mở cửa lĩnh vực ngân hàng, tạo lập môi trường cạnh
tranh hơn có thể tác động đến hiệu quả hoạt động của một số ngân hàng trong
nước nhưng hiệu ứng tích cực đối với khách hàng và cả nền kinh tế sẽ lớn hơn
rất nhiều.
Hộp 5.3: Trường hợp của Trung Quốc
Trung Quốc thực hiện qui chế đối xử quốc gia với các ngân hàng nước ngoài từ tháng 1/2007. Trong 5 năm trước đó, Chính phủ Trung Quốc đã từng bước nới lỏng các qui định các giới hạn với các ngân hàng nước ngoài tại quốc gia này. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, các ngân hàng nước ngoài thay vì mở rộng hoạt động bằng cách lập chi nhánh, họ đã tập trung các khoản đầu tư chiến lược vào các ngân hàng quốc doanh và các ngân hàng cổ phần tư nhân. Như vậy, các ngân hàng nước ngoài không thành lập chi nhánh để cạnh tranh với các ngân hàng Trung Quốc mà thay vào đó là hình thành các quan hệ đối tác chiến lược, góp phần củng cố hệ thống ngân hàng trong nước thông qua việc cung cấp các bí quyết kỹ thuật, cải thiện quản trị doanh nghiệp và các phương pháp quản lý rủi ro.
Chiến lược hợp tác cũng đang được các ngân hàng nước ngoài thực hiện ở Việt Nam. Thời gian qua, các ngân hàng nước ngoài đều mua cổ phần ở những ngân hàng thương mại cổ phần mạnh, trở thành đối tác chiến lược: ANZ với Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn - Thương tín, Duestche Bank với Habubank, Standard Chartered Bank với ACB, HSBC với Techcombank, Paribas với Ngân hàng Thương mại cổ phần Phương Đông.
Nguồn: USAID, CIEM, FIA (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai Hiệp định
Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 149.
- Giảm thị phần, lợi nhuận của các ngân hàng trong nước: Hiện tại, các
ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn chiếm ưu thế về thị phần, khách hành
và kênh phân phối. Sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài trong thời
gian tới sẽ có thể có những điều chỉnh lớn về thị phần trên toàn lãnh thổ, qua
đó lợi nhuận của các ngân hàng trong nước cũng sẽ có nguy cơ suy giảm.
- Rủi ro trong quá trình tái cơ cấu: Yêu cầu đặt ra đối với các ngân hàng
trong nước là nhanh chóng đổi mới, hiện đại hoá công nghệ, đào tạo nguồn
nhân lực, thu hút cán bộ có năng lực, mở rộng qui mô. Tuy nhiên, quá trình
đổi mới công nghệ và mở rộng qui mô có thể vượt quá năng lực quản lý hiện
tại và gây ra những rủi ro mới trong hoạt động.
- Tác động đến ổn định tài chính: Xuất phát từ những yếu kém của hệ
48 Nghiên cứu của Classen, Kunt và Huizinga qua khảo sát 80 quốc gia giai đoạn 1988-1995.
167
thống ngân hàng trong nước, nhiều nghiên cứu nhận định việc mở cửa lĩnh
vực ngân hàng sẽ làm tăng rủi ro thị trường tài chính trong nước trên các mặt
giá cả, lãi suất, chu chuyển vốn. Hệ thống ngân hàng nói riêng và thị trường
tài chính trong nước sẽ đối mặt với nguy cơ bất ổn trong khu vực và trên thế
giới. Các luồng vốn chu chuyển lớn với năng lực giám sát yếu hiện nay có thể sẽ tiềm ẩn yếu tố rủi ro đối với thị trường tài chính trong nước49.
Tuy nhiên, theo phân tích của Kaminsky và Reihart (1999)50, việc tham
gia của các ngân hàng nước ngoài không đồng nghĩa với việc tăng nguy cơ
bất ổn về tài chính. Ngược lại, các tác giả còn có bằng chứng cho thấy hệ
thống ngân hàng nước ngoài góp phần làm ổn định thị trường tài chính trong
suốt thời gian xảy ra khủng hoảng ở Hoa Kỳ, Mỹ la tinh và Châu Á trong
những năm 1990. Trường hợp của Mexico và Argentina cũng rút ra những kết
luận tương tự. Kết quả nghiên cứu về hệ thống ngân hàng ở các nước Đông Á
(Indonexia, Hàn Quốc, Malaysia, Philippin, Thái lan) trong giai đoạn khủng
hoảng cho thấy nguyên nhân không phải do sự hiện diện của các ngân hàng
nước ngoài.
Từ những phân tích mang tính kinh nghiệm có thể thấy, sự tham gia
của hệ thống ngân hàng nước ngoài ít có khả năng gây những đổ vỡ của hệ
thống ngân hàng trong nước và những bất ổn tài chính. Ngược lại, sự hiện
diện của chúng còn là động lực khuyến khích các ngân hàng trong nước áp
dụng những kỹ thuật quản lý rủi ro hiệu quả hơn, đồng thời đặt ra yêu cầu với
các cơ quan quản lý nhà nước phải có những biện pháp cụ thể đối với mỗi
ngân hàng trong việc áp dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro.
5.6.4. Một số giải pháp với lĩnh vực ngân hàng
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo lập hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo an toàn, bình đẳng cho mọi tổ chức tài chính, ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
- Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Ngân
49 Ban Hội nhập kinh tế quốc tế thành phố Hà Nội - Uỷ ban Quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế, Các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 50 USAID, CIEM, FIA (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hà Nội, tr. 149.
168
hàng Nhà nước nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô.
- Thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo lộ trình đã được phê duyệt nhằm sớm hình thành những ngân hàng lớn, có uy tín, có sức cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước.
- Giảm dần bảo hộ với các ngân hàng thương mại quốc doanh. Nhanh chóng thực hiện các biện pháp tái cơ cấu như cổ phần hoá, phát hành cổ phiếu
lần đầu ...
- Từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Có kế hoạch đào tạo,
đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có. Thực hiện các biện pháp nhằm thu hút lực lượng lao động có trình độ, có năng lực trên thị trường nhân sự hiện nay.
- Tăng cường hợp tác quốc tế dưới nhiều hình thức nhằm học hỏi kinh
nghiệm quản lý, công nghệ quản trị của các ngân hàng hàng đầu. Tranh thủ sự hỗ trợ của các thể chế tài chính quốc tế; tận dụng những ưu đãi của các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng giành cho các nước đang phát triển.
- Mỗi ngân hàng thương mại cần xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện mới; xây dựng các qui chế quản lý và điều hành phù hợp
với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trước mắt, các ngân hàng thương mại tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
+ Tăng vốn và cải thiện cơ cấu vốn: Mở rộng phạm vi và các hình thức
huy động như mở tài khoản phát hành séc và phiếu mua hàng, séc quà tặng. Ngân hàng có thể kết hợp với nhiều doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ để phát
hành các phiếu mua hàng với nhiều mệnh giá và thời gian linh hoạt. Tiếp tục xây dựng mới các điểm thanh toán tự động và đồng bộ hoá công nghệ thanh toán giữa các ngân hàng với nhau.
Đơn giản hoá các thủ tục cho vay và trả góp, các ngân hàng ký hợp đồng với các doanh nghiệp để cung ứng các hàng hoá giá trị lớn (bất động sản, động sản giá trị lớn) theo hình thức trả góp với thế chấp chính là tài sản
đó. Các ngân hàng cũng có thể ký các hợp đồng mua sắm trong tương lai theo hình thức ba bên (ngân hàng - khách hàng - doanh nghiệp cung ứng sản phẩm) nhằm thu hút những khoản tiết kiệm dài hạn.
+ Đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: Đầu tư đồng bộ hạ tầng công nghệ và các phần mềm chuyên ngành nhằm giảm thời gian luân chuyển
169
chứng từ và thời gian thanh toán, nhất là với các ngân hàng thương mại quốc
doanh. Từng bước tự động hoá một số khâu giao dịch, nhất là các giao dịch cần thời gian ngắn như thanh toán các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Song song với hiện đại hoá công nghệ là việc chuyển đổi, hoàn thiện hệ thống kế toán theo các tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán quốc tế. Sự đồng bộ về hệ thống kiểm toán, kế toán sẽ tạo thuận lợi trong hợp tác, liên doanh với các
đối tác nước ngoài.
+ Cải thiện chất lượng kinh doanh và khả năng tài chính. Để nâng cao
năng lực tài chính và chất lượng kinh doanh, các ngân hàng thương mại cần tập trung vào 4 nội dung chính: (1) Tăng qui mô vốn và tập trung nguồn vốn cho kinh doanh; (2) Bổ sung vốn chủ sở hữu từ phần lợi nhuận thu được; (3)
Thanh lý những tài sản không trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh doanh chính. Trong giai đoạn đầu, khi nguồn vốn chủ sở hữu chưa lớn, các ngân hàng thương mại cần thanh lý những tài sản giá trị lớn nhưng không tham gia
vào hoạt động kinh doanh hoặc những tài sản mang tính đầu tư dài hạn như bất động sản...; (4) Giải quyết tình trạng dư nợ, đưa về tỷ lệ an toàn, từng bước thực hiện các giao dịch (nhất là đối với khu vực DNNN) trên nguyên tắc
170
thị trường; phân loại mức độ rủi ro các khoản nợ quá hạn và ngăn chặn những khoản nợ xấu mới có thể phát sinh.
CHƯƠNG 6 GIA NHẬP WTO VÀ LĨNH VỰC XUẤT NHẬP KHẨU
6.1. Xuất khẩu Việt Nam trước khi gia nhập WTO: Thành tựu và
vấn đề đặt ra
6.1.1. Thành tựu
- Xuất khẩu tăng trưởng liên tục
Giai đoạn 1990 - 2006, với đường lối đối ngoại rộng mở, xuất khẩu của
Việt Nam liên tục gia tăng với tốc độ cao, từ 2,4 tỷ USD năm 1990 lên tới gần
40 tỷ năm 2006.
Hình 6.1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam qua một số năm
Đơn vị: Triệu USD
6 2 8 9 3
9 1 4 2 3
5 8 4 6 2
9 4 1 0 2
5448
5 8 4 6 1
2404
9 2 0 5 1
2 8 4 4 1
1990
1995
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Kim ngạch xuất khẩu năm 2006 cao nhất từ trước tới nay. So sánh tổng
kim ngạch xuất khẩu năm 2006 với các năm trước đó sẽ thấy: tăng gấp 16,5
lần năm 1990; gấp 7,3 lần năm 1995, gấp 2,7 lần năm 2000. Tính riêng năm
2006, qui mô xuất khẩu trung bình đạt 3,3 tỷ USD/tháng. Sự gia tăng kim
ngạch xuất khẩu qua hơn 15 năm trở lại đây đánh dầu bước chuyển đáng kể
trong thương mại đối ngoại, tốc độ tăng tương đương với các nước công
nghiệp hoá mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông trong giai đoạn đầu
phát triển.
Thứ hạng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam liên tục được
171
cải thiện trong bảng xếp hạng khu vực và thế giới: năm 2006 đứng thứ 6/11
nước trong khu vực Đông Nam á, 16/44 nước và vùng lãnh thổ Châu Á, thứ
39/165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (so sánh với thứ 98 của năm 1985;
thứ 70 của năm 1990; thứ 62 của năm 1995 và thứ 49 của năm 2000...).
Tăng trưởng hàng năm về xuất khẩu đạt cao. Nếu lấy năm 2000 làm cơ
sở, tốc độ tăng năm 2001 là 4%, năm 2002 là 11%, từ năm 2003 - 2006 tốc độ
đạt trên 20%. Riêng năm 2004, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất với 31%.
Hình 6.2: Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm của Việt Nam
35
30
23
31
22
25
Đơn vị: %
21
20
11
15
10
4
5
0
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Nguồn: Đánh giá 5 năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
- Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP ngày càng tăng
Tỷ lệ này cho thấy vai trò và những đóng góp quan trọng cho tăng
trưởng kinh tế của quốc gia, phản ánh độ mở của nền kinh tế. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP của Việt Nam liên tục tăng từ 1995 đến nay, riêng giai đoạn 2003-2006, tỷ lệ này luôn đạt trên 50% GDP.
Hình 6.3: Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP
70
Đơn vị: % GDP
60
50
40
30
9 . 4 6
8 5
1 . 1 6
6 . 0 5
6 . 7 4
4 . 6 4
3 . 6 4
20
2 . 6 2
10
0
1995
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
172
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tính riêng năm 2006, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP của Việt
Nam cao gấp gần 3 lần mức trung bình của thế giới (22%), đứng thứ 5 so với
các nước trong khu vực Đông Nam Á; đứng thứ 6 châu Á (trên Trung Quốc,
Nhật, Hàn Quốc, Ấn Độ...) và đứng thứ 8 thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu tính theo bình quân đầu người năm 2006 mặc dù
còn thấp hơn so với mức trung bình của thế giới nhưng đánh dấu bước phát
triển mạnh nếu so sánh với chính Việt Nam trong các giai đoạn trước đó: gấp
12,9 lần năm 1990; gấp 6,2 lần năm 1995; gấp 2,5 lần năm 2000 và tăng
20,7% so với năm 2005.
Hình 6.4: Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người
500
390.1
470.9
Đơn vị: USD/người
400
300
186.5
200
75.7
36.4
100
0
1990
1995
2000
2005
2006
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu khá cao: giai đoạn 1991-2005 đạt
trung bình 18,9%; giai đoạn 2001-2005 đạt 17,4%. Riêng năm 2006, tốc độ
tăng trưởng đạt 22,1%, cao hơn mức trung bình của giai đoạn 1991-2005.
- Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là động lực tăng trưởng
xuất khẩu
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng trung bình 23,2% (nếu
trừ dầu thô, khu vực này tăng tới 30,1%). Con số tuyệt đối mức tăng kim
ngạch xuất khẩu năm 2006 so với 2005 đạt 7.168 triệu USD thì riêng khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 4.320 triệu USD, bằng 60,3%. Tỷ trọng
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng đều trong tổng kim ngạch xuất
173
khẩu qua các năm: 54,7% năm 2004; 57,2% năm 2005 và 57,7% năm 2006.
Khu vực kinh tế trong nước mặc dù tăng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhưng năm 2006, mức tăng là 20,5% - đây là mức tăng rất cao
khi so sánh với chính khu vực này các năm trước đó. Sự tăng trưởng của khu vực kinh tế trong nước phản ánh sự trưởng thành của các doanh nghiệp khu vực này, từng bước khẳng định vị trí, năng lực cạnh tranh được nâng cao,
chiếm lĩnh và mở rộng thị trường quốc tế.
Như vậy, so sánh 2 khu vực cho thấy, với tốc độ tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng lớn, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng
khẳng định tầm quan trọng với kim ngạch xuất khẩu nói riêng và với tăng trưởng kinh tế nói chung. Khu vực này trở thành động lực của tăng trưởng
xuất khẩu trong thời gian qua và sẽ tiếp tục giữ vị trí này trong tương lai.
- Các mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng kim ngạch xuất khẩu
Trong 25 mặt hàng chủ lực theo danh mục, có tới 21 mặt hàng đạt kim
ngạch xuất khẩu năm 2006 cao hơn năm 2005, trong đó nhiều mặt hàng tăng cao hơn mức độ tăng chung như Cao su: 58,3%; đồ chơi trẻ em: 57,7%; cà
phê: 49,9%; cáp điện: 34%... Trong tổng mức tăng tuyệt đối (7.168 triệu USD), nhiều mặt hàng có đóng góp lớn như dệt may (967 triệu), dầu thô (951 triệu), thuỷ sản (625 triệu), giầy dép (515 triệu)...
Năm 2006, có tới 9 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, tăng thêm 2 mặt hàng so với năm 2005 (cao su, cà phê). Trong số đó, dầu thô đóng góp lớn nhất với 8.323 triệu USD, kế đến là dệt may (5.802 triệu USD),
giày dép, thuỷ sản, sản phẩm gỗ, điện tử - máy tính ...
Hình 6.5: Các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (triệu USD)
3 2 3 8
7378
2 0 8 5
4806
5 5 5 3
4 6 3 3
3005
2741
4 0 9 1
0 7 7 1
1442
1399
3 7 2 1
6 0 3 1
1 0 1 1
Cà phê
Cao su
Gạo
Thuỷ sản Giày dép Dệt may Dầu thô
Điện tử - máy tính
Sản phẩm gỗ
2006
2005
174
Ngoài các mặt hàng trên, năm 2006 còn có thêm 12 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 100 triệu USD, đó là than đá (927 triệu), dây điện và
cáp điện (701 triệu), hạt điều (505 triệu), túi xách - ví - vali - mũ .. (490 triệu), sản phẩm nhựa (478 triệu), sản phẩm gốm sứ (264 triệu), rau quả (263 triệu), sản phẩm mây tre cói thảm (195 triệu), hạt tiêu (190 triệu), đá quí và kim loại
quí (169 triệu), chè (111 triệu), xe đạp và phụ tùng xe đạp (110 triệu). Tổng km ngạch của 21 mặt hàng có kim ngạch trên 100 triệu đạt 32.801 triệu USD, bằng 82,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, các mặt hàng chủ lực đã đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu qua từng năm. Sự gia tăng của một số mặt hàng mới trong tốp “trên 100
triệu USD” cho thấy, một mặt cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, mặt khác khai thác lợi thế, phát huy thế mạnh để nâng số lượng, đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay, đáp ứng nhu cầu
đa dạng của các thị trường mới trong khuôn khổ đàm phán WTO.
- Thị trường xuất khẩu mở rộng
Ngoài các thị trường như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Australia, Đức, Anh, Nga... , các thị trường mới ở Châu Phi dần được hình thành và phát triển mạnh, hứa hẹn nhiều tiềm năng trong những năm tới.
Thị trường xuất khẩu tăng ở tất cả các khu vực trên thế giới, những thị trường có sức mua lớn đều có tốc độ tăng kim ngạch cao hơn tốc độ tăng chung của cả nước (châu Âu tăng 27%; châu Mỹ tăng 33,4%, thị trường châu
Phi - Tây Nam Á tăng 77,1% so với cùng kỳ năm 2005). Riêng thị trường châu Á mặc dù có tốc độ tăng thấp hơn so với tốc độ tăng KNXK của cả nước nhưng vẫn tăng 19%(51). Về quy mô, châu Á là thị trường nhập khẩu hàng hoá lớn nhất của Việt Nam đạt kim ngạch nhập khẩu trên 20,84 tỷ USD, chiếm 52,4% tổng kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường. Châu Mỹ đạt trên 9,2 tỷ
USD, chiếm 23,1%, châu Âu đứng thứ ba với gần 7,65 tỷ USD, chiếm 19,2%; châu Phi-Tây Nam Á đạt gần 2,1 tỷ USD, chiếm 5,3%.
Bảng 6.1: Giá trị (triệu USD) và thị trường xuất khẩu (%) của Việt Nam
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Năm 06 so 05 (%)
Thị trường
KN (tr. USD)
T.trọng (%)
KN (tr. USD)
T.trọng (%)
KN (tr.USD)
T.trọng Th.hiện (%)
(%)
Ch.lệch (%)
51 Chủ yếu do xuất khẩu dầu thô và gạo giảm;
175
26,503
100
Tổng KNXK
14,513
54.8
Châu Á
5,412
20.4
Châu Âu
5,642
21.3
3.69 3.97 8.18 0.83
427
1.6
32,442 18,857 5,834 6,866 886
100.0 58.5 18.1 21.3 2.1
39,605 20,840 7,650 9,200 1,915
100.0 52.6 19.3 23.2 4.8
122.1 110.5 131.1 134.0 216.2
(2.78)
Châu Mỹ Châu Phi, Tây Nam Á
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất với tốc độ tăng trưởng cao liên tục kể từ
sau Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được ký kết. Tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này năm 2006 đạt 32%, năm 2005 là 19%, năm 2004 là
27% ... Giá trị xuất khẩu sang thị trường Mỹ năm 2005 đạt 5.931 triệu USD, chiếm 18,3% tổng xuất khẩu của Việt Nam. Con số tương ứng năm 2006 là 7.829 triệu USD và 19,7%.
Riêng với thị trường Mỹ, ngay sau khi thực hiện Hiệp định thương mại, tốc độ xuất khẩu tăng nhanh, đạt 128% cho thấy cơ hội đối với xuất khẩu Việt Nam sau gia nhập WTO là rất lớn. Các điều khoản trong Hiệp định thương
mại gần giống với các điều khoản của WTO. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu của Việt Nam sẽ có cơ hội tăng trưởng nhanh tương ứng với tốc độ tăng trưởng vào Mỹ sau Hiệp định Thương mại.
Hình 6.6: Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ (triệu USD) và tốc
độ tăng trưởng hàng năm (%)
10000
29%
8000
Sau Hiệ p định Thương mại
26%
Trước Hiệ p định Thương mại
6000
16%
90%
4000
128%
2000
28%
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Giá trị
Tốc độ tăng trưởng
176
Nguồn: Đánh giá 5 năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Ngoài thị trường Mỹ, thị trường EU và Nhật Bản cũng được duy trì và
mở rộng. Năm 2006, hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường EU chiếm 21%
và tăng 43%; vào thị trường Nhật Bản tăng 20,2%. Giày dép xuất khẩu sang
EU tăng 13% và chiếm 54,4%. Các thị trường mới cũng đạt tốc độ tăng
trưởng cao: giày dép vào Argentina tăng 84%....
- Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu từng bước được cải thiện
Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhóm hàng chế
biến sâu và hàng công nghiệp. Số lượng các mặt hàng chủ lực tăng nhanh.
Các hàng sơ chế hoặc sản phẩm thô có xu hướng giảm tương đối trong dài
hạn: Tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 28% năm 1996 lên 40%
năm 2000 và khoảng 50% năm 2006. Năm 1996, chỉ có 9 mặt hàng xuất khẩu
đạt kim ngạch trên 100 triệu USD thì đến năm 2006, con số này là 21, trong
đó có 9 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD.
Bảng 6.2: Kim ngạch và tỷ trọng xuất khẩu 2004-2006
KNXK năm 2004
KNXK năm 2005
KNXK năm 2006
2006 so 2005
2005 so 2004
2004 so 2003
KN
T.trọng
KN
T.trọng
KN
T.trọng
tr.USD %
%
tr.USD %
%
tr.USD %
%
Tổng XK hàng hoá
100
100
39,605
100
20.5
21.1
8,126
20,5
Nông, lâm, thuỷ sản Nhiên liệu, khoáng sản
22.7
24.7
9,250
23,4
CN và TCMN
40.4
38.4
15,437
39,0
131.5 122.1 150.5 131.0 123.1
26,504 5,437 6,026 10,697 4,344
32,442 6,852 8,042 12,459 5,089
122.4 126.0 133.5 116.5 117.2
122.1 118.6 115.0 123.9 133.5
Hàng hoá khác
16.4
15.6
6,792
17,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tuy nhiên, kim ngạch của nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản thay đổi
không đáng kể trong 3 năm qua; tương tự, tỷ trọng của nhóm nông, lâm thủy
sản năm 2006 bằng 2004. Như vậy, trong 3 năm qua, cơ cấu xuất khẩu nước
ta vẫn chưa có sự chuyển tích cực theo hướng tăng tỷ lệ hàng chế biến, giảm
tỷ lệ hàng sơ chế và khoáng sản.
Đóng góp của nhân tố tăng khối lượng xuất khẩu vào tăng kim ngạch
177
của cả nước đạt cao trong năm 2004, thấp trong năm 2005 và đã tăng trở lại
trong năm 2006. Đây là dấu hiệu tích cực đối với xuất khẩu, do lượng hàng
hóa xuất khẩu tăng thể hiện quy mô sản xuất được mở rộng, là yếu tố giúp
duy tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững.
Bảng 6.3: Các yếu tố cấu thành tăng trưởng xuất khẩu
Trong đó
Do tăng giá
Do tăng lượng
KNXK tăng (triệu USD)
KN (triệu USD)
Tỷ trọng (%)
KN (triệu USD)
Tỷ trọng (%)
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
6,327.0 5,730 7,163.3
1,973.4 3,294.1 2,941.0
31.2 57.5 41.1
4,353.6 2,436.2 4,222.3
68.8 42.5 58.9
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Về nhập khẩu và cán cân thương mại:
- Kim ngạch cả năm 2006 đạt trên 44,4 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm
2005, vượt 4,5% so với dự báo từ đầu năm. Trong đó kim ngạch nhập khẩu
của các doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 28,05 tỷ USD, chiếm
63,2% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước, tăng 20,2 % so với cùng kỳ
năm 2005. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,36 tỷ USD kim
ngạch nhập khẩu, chiếm 36,8%, tăng 19,9% so với năm 2005.
- Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, máy móc, thiết bị và hầu hết các vật tư,
nguyên liệu cho sản xuất trong nước đều tăng: Nhập khẩu máy móc, thiết bị
tăng 24,1%; xăng dầu 5,8 tỷ USD, tăng 16,4% (nhưng lượng nhập giảm
3,8%); phân bón tăng 5,1%; chất dẻo tăng 26,8%; hoá chất 18,6%; giấy các
loại tăng 30,5%; vải tăng 23,1%; riêng nguyên phụ liệu dệt, may, da giảm
14,1%, và đang có xu hướng giảm do tăng sản xuất thay thế ở trong nước; sắt,
thép 2,9 tỷ USD, giảm 0,9%, nhưng lượng tăng 1,8% nhờ giá giảm.
- Thị trường nhập khẩu năm 2005 tập trung chủ yếu vào châu Á, chiếm
khoảng trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.
- Nhập khẩu dịch vụ năm 2006 đạt 5,12 tỷ USD, tăng 14,3% so với
178
năm trước, trong đó du lịch tăng 16,7% và cước phí vận tải, bảo hiểm chiếm
33,7%, tăng 20,1%. Nhập siêu dịch vụ năm 2006 chỉ còn khoảng 22 triệu
USD (năm trước 220 triệu USD).
Hình 6.7: Cán cân thương mại của Việt Nam (triệu USD)
8000
6847
6000
5066
4000
3858
2795
2000
1963
655
369
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
-2000
2000 -1154
-1189
-3080
-4536
-5065
-4000
-5080
-6000
-5484
-8000
Thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam
Thặng dư với Mỹ
Một số nhận xét: Nhập khẩu năm 2006 đã phục vụ tốt cho nhu cầu sản
xuất, xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu năm 2006 tăng ở tất cả
các thị trường. Châu Á là thị trường có kim ngạch nhập khẩu cao nhất, đạt
trên 35,84 tỷ USD, tăng 42,6% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng
80,7%. Khu vực Đông Nam Á đạt kim ngạch 10,85 tỷ USD, tăng 39,7% so
với năm 2005; Châu Âu đứng thứ hai với gần 5,44 tỷ USD, tăng 26,4% so với
cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 12,2%; Châu Mỹ có kim ngạch nhập khẩu
đứng thứ 3, đạt gần 1,9 tỷ USD, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước, chiếm
4,2%; Châu Đại Dương đạt kim ngạch 778 triệu USD, tăng 31,9% so với
cùng kỳ năm trước, chỉ chiếm 1,8% KNNK của các thị trường; Châu Phi -
Tây nam Á: tuy có tỷ trọng thấp nhất trong các thị trường nhập khẩu của Việt
Nam, đạt 322 triệu USD, chỉ chiếm 0,7% nhưng lại có tốc độ tăng trưởng cao
nhất (tăng 77,7%).
Bảng 6.4: Quy mô và tốc độ tăng của từng khu vực thị trường so với
năm 2005
Châu lục
T.hiện năm 2005
Ước năm 2006
Tốc độ
179
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
tăng/ giảm (%)
Kim ngạch (tr.USD)
Kim ngạch (tr.USD)
29.844
81
35.843
80,7
42,6
Châu Á
1.569
4,3
1.885
4,2
20,6
Châu Mỹ
4.528
12,3
5.438
12,2
26,4
Châu Âu
648
1,8
778
1,8
31,9
Châu Đại Dương
268
0,7
322
0,7
77,7
Châu Phi
36.978
44.410
Tổng cộng
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Mặc dù giá trị nhập siêu tăng nhẹ so với dự báo từ đầu năm nhưng, tỷ
lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu là 12,1%, thấp hơn nhiều so với
15,6% của năm 2005.
6.1.2. Vấn đề đặt ra
- Qui mô xuất khẩu còn nhỏ: So sánh với các nước trong khu vực cho
thấy qui mô xuất khẩu của Việt Nam quá nhỏ nếu tính theo bình quân đầu
người. Năm 2006, xuất khẩu bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng
470 USD, thấp hơn mức trung bình của thế giới (1.385 USD). Năm 2000,
mức này của Trung Quốc là 358,8 USD; Thái Lan là 1.113,8; Singapore đạt
34.468,8 ...
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng tỷ trọng nhập
khẩu hàng hoá của nước ta vẫn rất nhỏ trong tổng số nhập khẩu của quốc gia
này. Năm 2006, quẩn áo của Việt Nam chiếm 3,58% tổng kim ngạch nhập
khẩu mặt hàng này của Mỹ. Tương tự, mặt hàng giày dép chiếm 4,04%...
Bảng 6.5: Tỷ trọng hàng hoá Việt Nam so với tổng hàng nhập khẩu
của Mỹ (%)
2002 2003 2004 2005
0,21 0,36 0,36 0,4
1,41 3,49 3,56 3,58
180
Nhập khẩu từ Việt Nam/tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ Quần áo nhập khẩu từ Việt Nam/tổng nhập khẩu quần áo của Mỹ
1,46 2,1 2,88 4,02
0,37 0,87 0,93 1
Giày dép Việt Nam/tổng nhập khẩu giày dép của Mỹ Quần áo và giầy dép Việt Nam/tổng nhập khẩu hàng tiêu dùng của Mỹ
Nguồn: Đánh giá 5 năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Nếu so sánh xuất khẩu sang Mỹ với gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam nhưng chỉ chiếm 0,4% tổng giá trị nhập khẩu của quốc gia này
cho thấy qui mô tương đối của nền kinh tế nói chung và lĩnh vực xuất khẩu
nói riêng. Ngay cả khi xem xét các mặt hàng có mức tăng đột biến của Việt
Nam là dệt may và giày dép sang thị trường Mỹ thì trên thực tế, thị phần vẫn
rất nhỏ, chỉ chiếm 1% tổng tiêu dùng của Mỹ cho các sản phẩm này. Như vậy,
tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn với thị trường Mỹ nói riêng và
thị trường 150 thành viên WTO nói chung.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu còn lạc hậu: Tỷ trọng hàng hoá thô hoặc sơ
chế còn cao mặc dù đã có những thay đổi tích cực trong thời gian gần đây.
Trong cơ cấu hàng công nghiệp chế tạo thì tỷ lệ gia công còn lớn. Sản phẩm
có hàng lượng trí tuệ cao chiếm tỷ trọng nhỏ; Dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ.
Mặt hàng chủ lực của Việt Nam vẫn manh mún, nhỏ bé và thiếu chiến lược rõ
ràng. Trong các hàng xuất khẩu chủ lực, dầu thô chiếm kim ngạch cao nhất
nhưng đây là ngành khai thác tài nguyên quốc gia. Ngành tiếp theo là dệt may
với kim ngạch năm 2006 đạt gần khoảng 8,3 tỷ USD nhưng nếu so sánh với
Malaysia năm 2000 với chiến lược xuất khẩu hàng điện tử (đạt 57 tỷ USD
trong tổng số 87 tỷ kim ngạch xuất khẩu) cho thấy tình trạng manh mún, nhỏ
lẻ trong xuất khẩu đang tiếp tục tái diễn.
- Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu chậm: Trong từng ngành hàng và trong
từng lĩnh vực bộc lộ những bất cập trong hoạt động xuất khẩu. Chưa kịp thời
điều chỉnh các mặt hàng theo nhu cầu của thế giới nên trong nhiều trường
hợp, sản phẩm khó tiêu thụ hoặc bán với giá thấp hơn các sản phẩm cùng loại
(gạo, cà phê...).
- Giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp: Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu
181
dạng thô hoặc sơ chế. Một số mặt hàng khác gia công cho các hãng lớn nước
ngoài nên phần gia tăng thấp. May mặc, giày dép với việc gia công, phần thu
được của Việt Nam chiếm chỉ khoảng 20% tổng giá trị gia tăng. Tuy nhiên,
lựa chọn cách thức nào để tăng giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị sản phẩm còn
là nội dung gây tranh cãi và thiếu chiến lược rõ ràng.
Xuất khẩu
Nhập khẩu
50 45 40 35 30 25 20 15 10 5 0
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Hình 6.8: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 1996-2006 (triệu USD)
6.2. Xuất nhập khẩu sau khi gia nhập WTO
Nền kinh tế Việt Nam những tháng sau khi gia nhập WTO được đánh
giá là tiếp tục phát triển tốt. Về xuất khẩu, theo số liệu của Bộ Thương mại,
giá trị hàng hóa xuất khẩu 9 tháng ước tính đạt 35,2 tỷ USD, tăng 19,4% so
với 9 tháng năm 2006, trong đó khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu 15,4 tỷ
USD, tăng 24,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt
trên 14 tỷ USD, tăng 31,7%. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu trong 9 tháng
đều có tốc độ tăng cao, một nửa trong tổng số các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
đã đạt giá trị trên 500 triệu USD. Mặc dù xuất khẩu của khu vực kinh tế trong
nước có mức tăng trưởng thấp hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhưng
mức tăng 24,9% so với cùng kỳ năm 2006 cho thấy những dấu hiệu khả quan
về tốc độ tăng trưởng, qui mô xuất khẩu và số lượng mặt hàng xuất khẩu
trong thời gian tới.
Các mặt hàng chủ lực: Trong 9 tháng có 8 mặt hàng đạt mức xuất khẩu
trên 1 tỷ USD là: Dệt, may 5,8 tỷ USD, tăng 31,6%; dầu thô gần 5,8 tỷ USD,
giảm 11,3%; giày, dép gần 3 tỷ USD, tăng 13,1%; thủy sản 2,7 tỷ USD, tăng
182
13,4%; sản phẩm gỗ 1,7 tỷ USD, tăng 24,9%; hàng điện tử, máy tính 1,5 tỷ
USD, tăng 23,6%; cà phê 1,5 tỷ USD, tăng 85,9%; gạo 1,3 tỷ USD, tăng
14,9%.
Về thị trường: Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Việt
Nam, giá trị xuất khẩu sang thị trường này 9 tháng đạt trên 7 tỷ USD, chiếm
19,9% tổng giá trị xuất khẩu 9 tháng, tăng 19,5% so cùng kỳ năm trước.
Tiếp đến là xuất khẩu sang thị trường EU đạt 6,5 tỷ USD, chiếm 18,4%
tổng giá trị xuất khẩu 9 tháng và tăng 29%. Thị trường châu Á, ngoài xuất
khẩu sang các nước trong khối ASEAN đạt 5,9 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng
giá trị xuất khẩu 9 tháng và tăng 26% so với 9 tháng 2006 còn có những
thị trường lớn khác như Nhật Bản 4 tỷ USD, chiếm 11,4% và tăng 3,7%;
Trung Quốc 2,3 tỷ USD, chiếm 6,5% và tăng 3,3%.
Về nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu 9 tháng ước tính đạt 42,9 tỷ USD,
tăng 30,3% so cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước 27,5 tỷ
USD, chiếm 64,1% tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu 9 tháng và tăng 31,3%; khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài 15,4 tỷ USD, chiếm 35,9% và tăng 28,6%. Giá trị
hàng hóa nhập siêu 9 tháng là 7,6 tỷ USD, bằng 21,7% giá trị xuất khẩu hàng
hóa 9 tháng và gấp trên 2,2 lần mức nhập siêu 9 tháng 2006. Số liệu cân đối xuất
nhập khẩu 8 tháng cho thấy, nhập siêu 8 tháng từ thị trường Trung Quốc là 5,25
tỷ USD; Đài Loan 3,37 tỷ USD; Xin-ga-po 3,36 tỷ USD; Hàn Quốc 2,46 tỷ
USD; Thái Lan 1,5 tỷ USD.
Bảng 6.6: Một số chỉ tiêu sau 9 tháng gia nhập WTO (tăng/giảm) so với
cùng kỳ năm trước
+8,16 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) +4,2 Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản +9,4 Sản lượng thuỷ sản +17,1 Giá trị sản xuất công nghiệp +19,4 Tổng kim ngạch xuất khẩu +30,3 Tổng kim ngạch nhập khẩu +22,8 Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội Khách quốc tế đến Việt Nam +18,5 Giá tiêu dùng tháng 9 năm 2007 so với tháng 12 năm 2006 +7,32
183
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Điểm đáng lưu ý là nhập siêu trong 9 tháng sau gia nhập WTO tăng
nhanh (gấp hơn 2,2 lần so với cùng kỳ 2006) nhưng các mặt hàng nhập khẩu
trong giai đoạn vừa qua chủ yếu là máy móc thiết bị, các yếu tố đầu vào cho
sản xuất ....
Hộp 6.1: Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Cẩm Tú trả lời báo Tuổi trẻ
Việt Nam mới vào WTO, đầu tư tăng kéo nhu cầu nhập khẩu tăng theo nên phải chấp nhận. Nếu nhập siêu chỉ để tiêu xài, chúng tôi sẽ tìm biện pháp cắt ngay. Nhưng nhập siêu để sản xuất, nếu giảm sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế.
Phần tăng nhập khẩu của Việt Nam trong 9 tháng vừa qua là 67,08% thuộc bảy nhóm mặt hàng gồm máy móc, thiết bị, máy tính, dầu, sắt thép... Về nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhiều người kêu lớn nhưng điện tử tiêu dùng cũng chỉ tăng hơn 300 triệu USD...
Tổng các mặt hàng tiêu dùng thời gian qua, Việt Nam nhập tăng so với cùng kỳ chỉ 852 triệu USD so với khoảng 10 tỉ USD tổng nhập khẩu tăng thêm so với 2006 thì rõ ràng không đáng kể.
...Phần tăng hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 8,52% tổng mức tăng hàng nhập khẩu. Ta đang nhận được lợi ích từ WTO vì nhập được nguyên vật liệu, máy móc với giá rẻ hơn...
Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn
Hình 6.9: Thay đổi kim ngạch xuất nhập khẩu 9 tháng 2007 so với 9
tháng 2006
30
20.5
20
19.4
Xuất khẩu (%)
17.4
10
0
0 0
9 tháng 2006
9 tháng 2007
-10
Chỉ tiêu của Quốc hội cho cả năm
Ước thực hiện 2007
-20
-15.5
Nhập khẩu (%)
-27.5
-30
-30.3
-40
Trong 9 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng cao hơn chỉ tiêu của Quốc hội đề ra, dự kiến đến hết năm, tốc độ này sẽ đạt 20,5%52. Nếu
52 Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tóm tắt tình hình kinh tế xã hội năm 2007 và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008 (Trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ Ba, ngày 13/10/2007)
184
như biến động tỷ lệ tăng kim ngạch xuất khẩu không vượt quá xa so với dự
kiến thì nhập khẩu có diễn biến ngược lại: Chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 15,5%
nhưng kết quả 9 tháng (2007) đạt 30,3% và theo dự báo của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, con số này cả năm ước khoảng 27,5%, gần gấp 2 lần chỉ tiêu đề ra.
Giá trị nhập khẩu tăng cao và nhập siêu lớn bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, nhưng trước hết là do yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Trong 9 tháng
đã nhập một số thiết bị, máy móc có giá trị lớn như: Thiết bị điện lực 442
triệu USD; máy bay 376 triệu USD; thiết bị dầu khí 350 triệu USD; tàu chở
dầu 262 triệu USD; đầu xe lửa 177 triệu USD. Ngoài ra còn do giá nhiều mặt
hàng nhập khẩu chủ yếu của nước ta trong 9 tháng vừa qua trên thị trường thế
giới đều tăng và đứng ở mức cao. Chỉ tính riêng tăng giá của 6 mặt hàng nhập
khẩu là sắt thép, chất dẻo, lúa mỳ, xăng dầu, phân bón và sợi đã làm cho giá
trị nhập khẩu 9 tháng tăng trên 1 tỷ USD (Thép 611 triệu USD, chất dẻo 168
triệu USD, lúa mỳ 72 triệu USD, xăng dầu 63 triệu USD, phân bón 55 triệu
USD, sợi dệt 46 triệu USD). Tuy nhiên, nhập khẩu tăng với tốc độ cao và
nhập siêu lớn, vượt xa mục tiêu kế hoạch đề ra đầu năm cũng cho thấy những
hạn chế về dự báo thị trường, dự báo yêu cầu của nền kinh tế nói chung và dự
báo tác động hai chiều của việc gia nhập WTO đối với hoạt động ngoại
thương nói riêng.
6.3. Một số đánh giá ban đầu về tác động sau gia nhập WTO đến
xuất nhập khẩu của Việt Nam
Kết quả xuất nhập khẩu 9 tháng sau khi gia nhập WTO mặc dù chưa
phản ánh rõ nét những tác động của việc gia nhập tổ chức này nhưng có thể
thấy được những tác động ban đầu sau:
- Thứ nhất, tốc độ tăng xuất khẩu 19.4% của 9 tháng đầu năm nay thấp
hơn mức tăng của 9 tháng năm 2006 (so với 9 tháng năm 2005), cho thấy xu
hướng tăng trưởng xuất khẩu đang chậm lại. Đây là kết quả không đúng với
những dự báo và kỳ vọng khi gia nhập WTO, thị trường xuất khẩu của Việt
Nam được mở rộng. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng đạt 35,2
tỷ USD, trung bình mỗi tháng đạt 3,91 tỷ USD, thấp hơn mức kỳ vọng (3,96
tỷ USD/tháng - mức kỳ vọng thấp nhất để đạt được mục tiêu giá trị xuất khẩu
185
cả năm là 47,52 tỷ USD). Trong 3 tháng còn lại, theo mục tiêu kỳ vọng, xuất
khẩu của Việt Nam phải đạt 12,32 tỷ USD, trung bình mỗi tháng đạt 4,1 tỷ
USD - điều này rất khó có thể thực hiện.
Lý giải tình trạng xuất khẩu chậm lại do lượng dầu thô xuất khẩu giảm.
Ngoài ra, một số mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác cũng giảm giá trị xuất
khẩu như gạo, xe đạp và phụ tùng xe đạp..
Qua tình hình xuất khẩu 9 tháng cũng cho thấy, một số mặt hàng đã
tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu như dệt may, sản phẩm nhựa, hàng điện tử,
sản phẩm gỗ, thuỷ sản , rau quả ... Sự gia tăng kim ngạch có đóng góp của cả
yếu tố lượng và giá, trong đó phần đóng góp của lượng chiếm tỷ trọng lớn.
Mặc dù vậy, tốc độ tăng kim ngạch vẫn không cao do tỷ trọng dầu thô trong
cơ cấu hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn.
Giảm xuất khẩu dầu thô nhưng không tác động mạnh đến kim ngạch
xuất khẩu còn cho thấy, bước đầu xuất khẩu của Việt Nam không chỉ lệ thuộc
vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng ngoài
dầu thô của các khu vực doanh nghiệp, nhất là với khu vực doanh nghiệp
100% vốn trong nước cho thấy, từng bước những mặt hàng sản xuất và gia
công sẽ thay thế vai trò độc tôn của dầu thô trong cơ cấu và giá trị xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu tiếp tục được củng cố và mở rộng, các doanh
nghiệp Việt Nam đã bước đầu khai thác được những cơ hội WTO mang lại
như hạn ngạch bị dỡ bỏ, thuế suất được cắt giảm .... Ngoài những thị trường
truyền thống tăng cao, nhất là Anh, Mỹ, Australia, EU, bản đồ thị trường xuất
khẩu của Việt Nam đã lên trên 200 nước và vùng lãnh thổ.
- Thứ hai, nhập khẩu tăng mạnh hơn xuất khẩu đã làm tăng mạnh nhập
siêu. Nhập siêu trong 9 tháng đầu năm 2007 đạt tới 7,6 tỷ USD, tăng gấp 2,3
lần cùng kỳ 2006, bằng 21% giá trị xuất khẩu và là mức kỷ lục từ trước đến
nay. Tính đến 25/10/2007, nhập khẩu tiếp tục tăng mạnh hơn xuất khẩu, cụ
thể, kim ngạch xuất khẩu 10 tháng 2007 đạt hơn 39 tỷ USD, bằng 83,5% kế
hoạch năm, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2006. Trong khi đó, nhập khẩu 10
186
tháng đạt gần 48 tỷ USD, tăng 30,5% cùng kỳ và bằng 91,7% kế hoạch năm
2007. Tính chung, 10 tháng 2007, nhập siêu đã là 8,9 tỷ USD, tăng 131,5% so
với 10 tháng năm 2006 và bằng 22,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau về tỷ lệ nhập siêu nhưng qua phân
tích cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu cho thấy, tỷ trọng các mặt hàng thiết bị
máy móc, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất rất lớn, chiếm trên 70% giá trị
trong các mặt hàng nhập khẩu. Các mặt hàng tiêu dùng chỉ tăng 8,25% so với
cùng kỳ năm 2006 (so sánh với tốc độ tăng khoảng 60% của các mặt hàng
máy móc - thiết bị - phụ tùng).
Như vậy, sự gia tăng nhập khẩu chủ yếu là tăng đầu tư cho sản xuất53 và xuất khẩu trong tương lai54. Ngoài ra, tăng nhập khẩu còn do tăng đầu tư,
là hệ quả tất yếu của việc các doanh nghiệp FDI mở rộng qui mô, tăng năng
lực sản xuất sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tuy nhiên, việc gia tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu thời gian qua cũng
cho thấy nền kinh tế Việt Nam chịu sự phụ thuộc vào thị trường thế giới, cụ thể
là nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị nhập ngoại. Hầu hết các doanh
nghiệp tham gia sản xuất hàng xuất khẩu đều dựa chủ yếu vào nguồn nguyên
liệu nhập ngoài. Điều này còn cho thấy những yếu kém của công nghiệp phụ
trợ Việt Nam và việc giảm nhập siêu bằng biện pháp cắt giảm nhập khẩu trong
bối cảnh gia nhập WTO sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể thực hiện được.
So sánh khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài cho thấy, nhập siêu của của khu vực kinh tế trong nước rất cao. Chỉ tính
trong tháng 4, khối doanh nghiệp trong nước chỉ xuất khẩu 1,78 tỷ USD, thì
nhập khẩu lên tới 2,8 tỷ USSD. Ngược lại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài xuất khẩu tới 2,17 tỷ USD thì nhập khẩu chỉ là 1,7 tỷ USD. Như
vậy, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước còn yếu, chưa tận
dụng được những cắt giảm thuế suất thế nhập khẩu với hàng hoá Việt Nam.
53 Để phục vụ mục đích gia tăng đầu tư,riêng kim ngạch nhập khẩu riêng nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng trong quý I/2007 đã tăng 891 triệu USD (tăng 66,1%), sắt thép tăng 345 triệu USD (tăng 69,3%) 54 Để phục vụ mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, rõ ràng nhất là việc nhập khẩu chỉ riêng ba mặt hàng vải, sợi và bông đã tăng 216 triệu USD (bình quân tăng gần 30%), hoặc kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng gỗ và nguyên, phụ liệu gỗ đã tăng 69 triệu USD (tăng 48,5%)... so với cùng kỳ năm 2006
187
- Thứ ba, nhập khẩu nhiều mặt hàng tăng mạnh. Tính trong 3 tháng đầu
năm 2007, hàng loạt các mặt hàng không nằm trong danh sách “chủ yếu” hay
nhóm thiết bị - máy móc. Mặc dù giá trị tăng kim ngạch nhập khẩu không lớn,
thêm 2,58 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2006 nhưng tỷ lệ khối lượng tăng rất
cao: vải (43,2%); tân dược (22,1%); thức ăn gia súc (61,6%)... Qua đó có thể
thấy xu hướng tăng các mặt hàng khác do cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ còn tiếp
tục tăng trưởng trong giai đoạn tới. Đây là một trong những tác động rõ nhất khi thực hiện các cam kết WTO trong thời gian vừa qua55.
TT
Bảng 6.7: 20 nhóm hàng hoá nhập khẩu có lượng và giá trị tăng mạnh trong quý I/2007
Nhóm hàng nhập khẩu
KNNK tăng do lượng NK tang trong QI/2007 so QI/2006
Tỷ lệ khối lượng hàng hoá NK tăng QI-2007/QI-2006 (%)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20
9,4 10,6 13,6 18,8 19,7 20,6 22,1 23,4 29,9 32,1 32,9 34,2 38,5 42,4 45,5 45,6 61,6 62,2 62,8 31,8
(triệu USD) 116,6 41,9 9,7 13,9 11,1 48,3 27,8 24,4 34,7 39,5 144,0 200,0 97,3 59,8 46,4 170,5 86,3 26,7 845,2 536,7 2.580,6
Xăng dầu Chất dẻo nguyên liệu Cao su Thuốc trừ sâu và nguyên liệu Dầu mỡ động thực vật Hoá chất nguyên liệu Tân dược Linh kiện và phụ tùng xe gắn máy Phân bón các loại Phôi thép Điện tử, máy tính và linh kiện Vải Kim loại thường khác Gỗ và nguyên liệu Sợi các loại Thép thành phẩm Thức ăn gia súc và nguyên liệu Bông Máy móc, thiết bị, phụ tùng Hàng hoá khác Tổng số
Nguồn: Bộ Thương mại (2007).
55 Có nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một trong những lý do giải thích cho sự gia tăng mạnh của nhập khẩu của phần lớn các mặt hàng trong những tháng đầu năm 2007 chính là hệ quả của việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu hơn 3.000 mặt hàng để thực hiện cam kết gia nhập WTO, khiến hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn và đổ mạnh vào thị trường trong nước.
188
- Thứ tư, kỳ vọng xuất khẩu những năm tiếp theo sẽ tăng mạnh. Gia
nhập WTO, kỳ vọng xuất khẩu tăng do cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ dần các
rào cản phi thuế quan của các nước sẽ tạo thuận lợi hơn cho các sản phẩm
thuộc diện được cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan của Việt
Nam thâm nhập thị trường các nước thành viên, nhất là những sản phẩm có
lợi thế so sánh như dệt may, giày dép, lắp ráp... Bên cạnh đó, áp lực gia nhập
WTO sẽ thúc đẩy cải cách trong nước đối với lĩnh vực xuất khẩu, qua đó tác
động tăng kim ngạch xuất khẩu trong tương lai.
- Thứ năm, Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp FDI sẽ tăng nhanh.
Đây là kết quả tất yếu sau làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong
thời gian qua. Nhìn lại kết quả xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI cho
thấy, giai đoạn 2001 - 2006, xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao, tỷ trọng ngày càng lớn56. Với mức tăng trưởng đầu tư nước ngoài như hiện nay, các
doanh nghiệp FDI sẽ tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao và đảm bảo tỷ trọng
trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu trong khoảng 5 năm tới. Tuy vậy, kết quả
thực tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường đầu tư, tổng vốn FDI
thực hiện, nỗ lực cải cách hành chính ...
Tóm lại: Qua phân tích những diễn biến của xuất nhập khẩu thời gian
qua, có thể nhận thấy một số tác động ban đầu của việc gia nhập WTO, mặc
dù những tác động này chưa thật sự rõ nét và chưa trở thành xu hướng chủ
đạo. Mặc dù vậy, những diễn biến trong hoạt động xuất nhập khẩu mang lại
những gợi ý quan trọng, đặt ra những yêu cầu mới với hàng hoá xuất khẩu nói
riêng, với chính sách xuất khẩu và năng lực của toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Những vấn đề cần được quan tâm trong thời gian trước mắt có thể là
các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị
trường trong và ngoài nước trong bối cảnh thuế quan đang và sẽ tiếp tục cắt
giảm; là những biện pháp lựa chọn khi nhập khẩu vẫn tiếp tục có xu hướng
tăng trong một vài năm tới; là làm thế nào để từ nước nhập siêu trở thành
56 Năm 2001 xuất khẩu của khu vực FDI chỉ chiếm 45%; Năm 2005, khi bắt đầu dấy lên làn sóng đầu tư mới vào nước ta đánh dấu bằng việc tăng mạnh thu hút FDI, khu vực này đã chiếm tới trên 57% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Năm 2006, con số này là 57,8%.
189
nước xuất siêu vào năm 2010 như chiến lược xuất nhập khẩu đề ra ...
6.4. Một số giải pháp
Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt nêu rõ mục tiêu tổng quát là "Phát triển xuất khẩu với
tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất cao
mặt hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh, có khả năng chiếm lĩnh thị phần
đáng kể trên thị trường thế giới. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng
đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; sản phẩm chế
biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô; đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ"57. Đề án cũng chỉ
rõ các mục tiêu cụ thể gồm: (1) Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu hàng hóa bình quân 17,5%/năm và đến năm 2010 đạt khoảng 72,5
tỷ USD; (2) Đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ cả nước bình
quân 16,3%/năm và đến năm 2010 đạt khoảng 12 tỷ USD; (3) Đến năm 2010,
xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm - thủy sản chiếm khoảng 13,7%, nhóm
hàng nhiên liệu - khoáng sản chiếm khoảng 9,6%, nhóm hàng công nghiệp và
công nghệ cao chiếm khoảng 54,0% và nhóm hàng hóa khác chiếm 22,7%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa; (4) Cân bằng xuất khẩu - nhập
khẩu vào những năm đầu sau năm 2010"....
Trong những tháng cuối năm 2007, đầu năm 2008, theo dự báo của Bộ
Công thương, triển vọng tăng xuất khẩu khá rõ ràng và rất khả quan do nhiều
mặt hàng có lượng xuất khẩu tăng, một số sản phẩm nông nghiệp vào vụ thu
hoạch, đặc biệt là giá một số mặt hàng trên thị trường thế giới tăng mạnh như
cà phê, gỗ, hải sản, dầu thô .... Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến một số yếu tố
ảnh hưởng đến xuất khẩu trong những tháng tới như dịch cúm gia cầm, lở
mồm long móng, dịch sâu rầy gây hại cho sản xuất nông nghiệp, tình trạng
hạn hán, thiếu nguồn nước ảnh hưởng đến cân đối nguồn điện....
Để khai thác những tác động tích cực của gia nhập WTO mang lại,
57 Quyết định số 156/2006/QĐ-TTg ngày 30-6-2006 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010.
190
chiến lược tổng thể là thúc đẩy xuất khẩu để một mặt góp phần cho tăng
trưởng kinh tế, mặt khác nhằm cân bằng cán cân xuất nhập khẩu58. Do đó, đề
tài tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sau gia nhập
WTO, bao gồm:
- Tiếp tục đa dạng hóa mặt hàng thúc đẩy xuất khẩu tăng về lượng, chú
trọng phát hiện các mặt hàng mới có tốc độ tăng trưởng cao và tiềm năng tăng
trưởng lớn để tập trung đầu tư. Động viên mọi thành phần kinh tế làm hàng
xuất khẩu thông qua: hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
theo các nhóm chính sách thuộc hộp xanh, hộp xanh lơ và tối đa 10% đối với
nhóm chính sách thuộc hộp đỏ ... Tập trung xuất khẩu các mặt hàng công
nghệ cao, có giá trị giá tăng lớn như sản phẩm điện tử, phần mềm ... vì đây là
loại sản phẩn có thể sản xuất quy mô lớn và đang thu hút nhiều nhà sản xuất
hàng đầu thế giới đến đầu tư, đồng thời tận dụng được nguồn nhân lực chi phí
thấp để tạo ra lợi thế. Bên cạnh các sản phẩm công nghệ cao, cần đẩy mạnh
các sản phẩn sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày nhằm tận dụng tối
đa nguồn nhân lực dồi dào và giá rẻ. Kết hợp các sản phẩm xuất khẩu truyền
thống với các sản phẩm mới, có tiềm năng và thị trường lớn trong tương lai.
Đối với nhóm hàng nông lâm thủy sản, cần nâng cao hàm lượng chế biến,
giảm xuất khẩu thô. Trước mắt, cần quy hoạch lại nuôi trồng với quy mô lớn
và năng suất cao, gắn với chế biến sau đánh bắt. Xuất khẩu dịch vụ trước hết
với những lĩnh vực có thế mạnh như hàng không, du lịch, dịch vụ hàng hải, dịch vụ tài chính59.
- Đầu tư cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện kết cấu hạ tầng phục vụ cho xuất
khẩu như bến cảng, kho tàng... Nâng cao năng lực bốc xếp, khả năng thông
qua ở các cảng lớn. Phát triển kết cấu hạ tầng thông tin và truyền thông trong
các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng thành tựu công nghệ
trong quản lý xuất nhập khẩu như công nghệ thông tin sau thông quan, thủ tục
58 Trong bối cảnh tăng nhập khẩu như một tất yếu vì yêu cầu của sản xuất trong nước, của các doanh nghiệp FDI, do vậy không dùng biện pháp kiềm chế nhập khẩu mà thay vào đó cần tăng mạnh xuất khẩu để cân bằng cán cân xuất nhập khẩu. 59 Xuất khẩu dịch vụ năm 2006 đạt 5,1 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm 2005, trong đó một số dịch vụ có tỷ trọng cao đạt mức tăng trên 20% như: du lịch, tăng 23,9%; vận tải hàng không tăng 35,5%; dịch vụ hàng hải tăng 27,5%; dịch vụ tài chính tăng 22,7%. Nguồn: Bộ Thương mại.
191
lưu kho bãi... tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu. Rút
ngắn thời gian nền kinh tế phi thị trường (12 năm), trước mắt thoả thuận với
từng đối tác để họ công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam nhằm tạo
thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi có những tranh chấp thương
mại. Xây dựng bộ máy làm xuất khẩu trong sạch, loại bỏ những yếu kém trong tổ chức và cán bộ liên quan đến xuất khẩu60.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu: Quyền tiếp cận thị trường là điều kiện
rất thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam tiếp tục củng cố thị
trường truyền thống, mở rộng những thị trường mới ở các khu vực châu Phi,
Mỹ la tinh, Trung Đông ... Muốn vậy, Việt Nam cần thực hiện nghiêm túc các
cam kết quốc tế, nhất là các cam kết về thuế và mở cửa thị trường trong
WTO. Bên cạnh đó, cần tiếp tục rà soát, cắt giảm các thủ tục rườm rà, cản trở
hoạt động xuất nhập khẩu. Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nhằm phân tán
rủi ro, giảm thiệt hại, chủ động các biện pháp ứng phó khi có những biến động bất thường trên thị trường quốc tế61,
- Tăng cường xúc tiến thương mại: Thành lập các đoàn xúc tiến thương
mại, tăng cường vai trò của đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài
trong việc cung cấp, quảng bá hình ảnh, thương hiệu của doanh nghiệp, của
hàng hoá Việt Nam. Cung cấp các kênh thông tin nhằm mở rộng hợp tác
thông qua đại lý, kênh phân phối ở nước ngoài cho các doanh nghiệp xuất
khẩu. Nâng cao vai trò của hiệp hội trong xúc tiến thương mại, quảng bá hình
ảnh, bảo vệ quyền lợi của thành viên, liên kết trong nước nhằm hỗ trợ về
thông tin thị trường, thông tin khách hàng, thị phần, xu hướng tiêu dùng ...
- Đào tạo nhân lực cho lĩnh vực xuất khẩu: Bên cạnh năng lực chuyên
môn nhất định, cần chú trọng đạo tạo kỹ năng cần thiết cho đội ngũ nhân lực
làm xuất khẩu như trình độ ngoại ngữ, khả năng nghiên cứu thị trường, kỹ
năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, am hiểu về luật
pháp kinh tế quốc tế...
- Chuẩn bị các phương án và nhân lực để ứng phó với những tình
60 Theo nguyên Bộ trưởng Thương Mại Trương Đình Tuyển, các doanh nghiệp Việt Nam không sợ cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài bằng sợ một bộ máy quản lý hành chính có tham nhũng. 61 Chẳng hạn ngoài việc xuất khẩu sang các thị trường dùng đồng đô la, cần khai thác các thị trường không sử dụng đồng tiền này để hạn chế thiệt hại khi đồng đô la giảm giá.
192
huống liên quan đến xuất khẩu hàng hoá như các vụ kiện chống bán phá giá,
các tranh chấp thương mại về thị trường, thương hiệu, các rào cản kỹ thuật
phát sinh.
- Giảm tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng dựa vào nguồn lợi tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên, thay vào đó, cần tìm kiếm những sản phẩm xuất khẩu
khác trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh về nhân lực, vị trí địa lý, chính sách
... Trước mắt, tập trung đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các khu
công nghiệp, khu chế xuất, tạo năng lực sản xuất cho xuất khẩu.
- Nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm xuất khẩu, đồng thời đảm
bảo độ tin cậy, tính an toàn của mỗi sản phẩm. Trước mắt, ứng dụng công
nghệ mới vào qui trình sản xuất hàng xuất khẩu, tăng cường hoạt động nghiên
cứu phát triển, xây dựng công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến ...
Hộp 6.2: Thứ trưởng Bộ Thương mại Nguyễn Thành Biên: Muốn đạt kế hoạch phải giữ chất lượng
Vấn đề chất lượng hàng xuất khẩu đang nổi lên rất bức xúc. Nếu chúng ta không
có giải pháp kịp thời, hiệu quả thì nguy cơ mất thị trường là rất lớn.
Chúng tôi đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính dành nguồn tiền thích hợp cho việc kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu, tuyên truyền giáo dục người dân. Phải lo từ khâu đánh bắt, nuôi trồng đến qui trình chế biến một cách tổng thể, đồng bộ. Về xuất khẩu hàng dệt may đi Mỹ, chúng tôi sẽ cố gắng giảm thiểu tác động từ chương trình giám sát của phía Mỹ.
Trước mắt, sẽ tăng cường kiểm tra giám sát xuất xứ hàng hóa, ngưng việc tạm nhập tái xuất mặt hàng dệt may nhằm chống chuyển tải bất hợp pháp. Đề xuất này đã được Thủ tướng chấp thuận.
Nguồn: Báo Tuổi trẻ, ngày 25/7/2007
- Tăng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI. Tích cực thu
hút nguồn vốn FDI vào các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu trên cơ sở qui hoạch ngành và chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010. Xác
định một số ngành xuất khẩu chủ lực trong tương lai (sản phẩm gỗ, đóng tàu, dây và cáp điện, sản phẩm nhựa, linh kiện điện tử, dịch vụ ...) trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh để kêu gọi đầu tư, đảm bảo phát triển xuất khẩu bền vững.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến những thông tin liên quan đến WTO đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm khai thác tối đa những cơ hội và ưu đãi đối với từng thị trường, từng mặt hàng, góp phần thúc
193
đẩy tăng trưởng chung.
CHƯƠNG 7
GIA NHẬP WTO VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
7.1. Tổng quan đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam bắt đầu bằng chủ trương đổi mới, mở
cửa tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng (1986). Một năm sau, Quốc hội
thông qua Luật Đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho thu hút đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam.
Qua 20 thực hiện thu hút đầu tư nước ngoài, tính đến hết năm 2006 đã
có trên 7.000 dự án được cấp phép với tổng vốn đạt trên 70 tỷ USD, trong đó
vốn thực hiện chiếm trên 50%. Đầu tư nước ngoài đăng ký đã tăng đều trong
giai đoạn 1988-1996, giảm mạnh trong thời kỳ xảy ra khủng hoảng tài chính
châu Á (1997-1999), tăng nhẹ trong giai đoạn 2000-2003 và bùng nổ trong
giai đoạn 2004-2006.
Hình7.1: Tổng quan đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ
1988 đến 2006 (Triệu USD)
14000
12000
FDI đăng ký
10000
8000
6000
4000
2000
FDI thực hiện
0
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
342
526
735
1291
2209
3037
4188
6937
10163
5591
5100
2565
2839
3143
2999
3191
4548
6840
12000
FDI đăng ký
329
575
1018
2041
2556
2714
3115
2367
2335
2413
2450
2591
2650
2853
3309
4100
FDI thực hiện
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện cũng có xu hướng tương tự nhưng có
mức đột biến ít hơn: Tăng đều từ năm 1988-1997, giảm nhẹ trong 2 năm 1998
194
và 1999, tăng đều kể từ năm 2000, nhất là giai đoạn 2004-2006. Riêng trong 2
năm 1998 và 1999, do khủng hoảng tài chính trong khu vực, một số doanh
nghiệp ở các quốc gia bị khủng hoảng rút lại quyết định đầu tư.
Giai đoạn 2001-2005 đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký đạt 20,9 tỷ USD, tổng vốn thực hiện
đạt 14,3 tỷ USD, vượt 30% kế hoạch và tăng 13,6% so với giai đoạn 1995-
2000. Riêng năm 2006, nguồn vốn FDI vượt xa kế hoạch và cả những dự báo
lạc quan nhất, với con số kỷ lục 12 tỷ USD, bao gồm cả dự án cấp mới và
tăng vốn. So với kế hoạch đề ra (6,5 tỷ USD), thu hút FDI đã gần gấp đôi và
lớn hơn tổng vốn của 2 năm 2004 và 2005.
Hình 7.2: Tổng vốn đầu tư giai đoạn 2000-2006
14
12
12
Tổng vốn đầu tư (tỷ USD)
10
6.8
8
6
4.5
3.1
3.2
3
2.8
4
2
0
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Nguồn: Đánh giá tác động của 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ, tr.83
Năm 2006, cả nước có 797 dự án được cấp phép với tổng vốn lên tới
7,6 tỷ USD, trung bình đạt 9,4 triệu USD/dự án, cao hơn 2 lần so với mức
trung bình năm 2005 (4,6 triệu USD/dự án). Hàng loạt các dự án lớn của các
tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam, điển hình
là tập đoàn thép Posco với số vốn lớn nhất, đạt 1,126 tỷ USD, tiếp đến là Intel
với vốn 1 tỷ USD, dự án thép 556 triệu USD của tập đoàn Tycoons
Worldwide Steel, tập đoàn VMEP tăng vốn lên 93 triệu USD, Canon tăng đầu
tư thêm 70 triệu USD, Công ty Winvest Investment Việt Nam (300 triệu
USD), công ty TNHH điện tử Meiko (300 triệu USD)... Điều này cho thấy các
195
nhà đầu tư lớn bắt đầu quan tâm đến Việt Nam.
Năm 2006 cũng đánh dấu đợt tăng vốn đầu tư mạnh của nhiều dự án:
439 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng hơn 2,1 tỷ USD. Mặc dù
lượt tăng dự án thấp hơn năm 2005 nhưng tổng vốn tăng thêm lớn hơn, trong
đó một số công ty tăng mạnh như Intel (tăng từ 605 triệu USD lên 1 tỷ USD),
công ty giày Linh Luh tăng vốn thêm 98 triệu USD... Một số công ty lớn
chuyển hướng đầu tư từ Trung Quốc sang Việt Nam như tập đoàn sản xuất đồ
thể thao Nike, Intel ... cho thấy môi trường đầu tư của Việt Nam không ngừng
được cải thiện và ngày càng có sức hấp hơn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Về vốn thực hiện, năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với
năm 2005, trong đó nhiều dự án đầu tư lớn đã tích cực triển khai ngay như
Canon, Matsushita, Brathers Industries, Honda.
Đầu tư nước ngoài thực hiện giai đoạn 2000-2006 tăng chậm hơn nhiều
so với số đăng ký. Điều này có thể do độ trễ cần thiết kể từ khi doanh nghiệp
đăng ký đến khi triển khai trên thực tế. Nếu như vậy, vốn thực hiện sẽ tăng nhanh trong vài năm tiếp theo62. Ngoài ra, một số doanh nghiệp thực hiện
những biện pháp “thăm dò” bằng các khoản đầu tư nhỏ, sau một thời gian sẽ
tăng vốn nếu thấy thuận lợi và khi đã có những thành công. Với nhận định
nêu trên, có thể thấy rõ triển vọng bùng nổ vốn thực hiện vào giai đoạn trước
năm 2010 khi mà vốn đăng ký năm 2006 và một vài năm sau đó tăng mạnh.
Các dự án đầu tư nước ngoài tăng qui mô kể từ năm 2003. Sau khủng
hoảng tài chính châu Á, cả tổng khối lượng đầu tư và qui mô vốn trung bình
của dự án đều giảm mạnh, từ 27 triệu USD năm 1996 xuống còn 5 triệu USD
năm 2002. Qui mô vốn trung bình tăng đều trong giai đoạn 2003-2006 nhưng
vẫn dưới 25 triệu USD/dự án. Qui mô dự án nhỏ có thể do Việt Nam cần hơn
những lĩnh vực thu hút nhiều lao động, vốn nhỏ, phù hợp với lợi thế. Tuy vậy,
một số dự án lớn trong thời gian gần đây cho thấy, lĩnh vực sản xuất qui mô
lớn bắt đầu được quan tâm thông qua các cam kết quốc tế của Việt Nam về
khả năng tiếp cận thị trường và lĩnh vực đầu tư. Điều này cho thấy các dự án
62 Chẳng hạn, dự án 1 tỷ USD của Intel sẽ tính vốn đăng ký năm 2006 nhưng sẽ tính vào vốn thực hiện kể từ năm 2007.
196
qui mô lớn sẽ tiếp tục tăng nhanh trong giai đoạn sau gia nhập WTO.
Vị trí xếp hạng thu hút đầu tư của Việt Nam liên tục được cải thiện. Năm
2004, Việt Nam là xếp thứ 10 về tiếp nhận vốn đầu tư tại châu Á. Năm 2006 và
2007, Việt Nam có thể vượt qua một số quốc gia như Malaysia, Đài Loan...
7.2. Đánh giá chung về đầu tư nước ngoài với kinh tế Việt Nam
7.2.1. Những kết quả đạt được
- Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới, vượt qua khủng hoảng kinh tế,
giữ vững nhịp độ tăng trưởng trong suốt gần 20 năm. Theo Báo cáo của Ban
công tác gia nhập WTO, các dự án đầu tư nước ngoài tính đến tháng 12/2005
chiếm 18% tổng vốn đầu tư, 31% doanh thu xuất khẩu, 37% sản lượng công
nghiệp, chiếm 14% GDP của Việt Nam. Các dự án này cũng tạo ra 620.000
việc làm trực tiếp và vài trăm ngàn việc làm gián tiếp.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp mở rộng thị
trường xuất khẩu, nâng cao năng lực xuất khẩu chung cho cả nền kinh tế.
Tính chung trong giai đoạn 2001-2006, kim ngạch xuất khẩu của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước, bằng 50% nếu tính cả dầu thô. Riêng trong năm 2006, doanh thu của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 29,4 tỷ USD, tăng 31,3% so với năm
2005, trong đó doanh thu xuất khẩu đạt 14,6 tỷ USD (chưa kể dầu thô), tăng
31,2% so với năm 2005. Nếu tính cả dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực
này đạt 22,6 tỷ USD, bằng 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Nhập khẩu của doanh nghiệp khu vực này năm 2006 đạt 16,35 tỷ USD,
tăng 19,3% so với năm 2005. Mặc dù nhập khẩu tăng cao nhưng mang tính
tích cực, tạo nền tảng vật chất, hạ tầng cho sản xuất, tạo đà cho xuất khẩu
trong tương lai.
Đầu tư nước ngoài trong hơn 20 năm qua chủ yếu trong lĩnh vực công
nghiệp. Kết quả đầu tư cho thấy, trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư vào
197
công nghiệp, xây dựng đạt 81% tổng giá trị đầu tư ở Việt Nam. Về giá trị sản
lượng, đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 40% sản lượng công nghiệp, là nhân
tố quan trọng đảm bảo cho ngành này tăng trưởng trung bình trên 15% kể từ
năm 2001 đến nay. Đầu tư nước ngoài chiếm 100% ở một số lĩnh vực như dầu
thô, sản xuất máy giặt, ô tô, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% sản
lượng cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% thiết bị y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% da giầy63... Năm 2006, sản xuất
công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5%, cao hơn mức
tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước.
Hình 7.3: Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành tính theo giá trị và
số lượng dự án, giai đoạn 1988-2007 (tỷ đ; dự án; %)
Dịch vụ, 903, 11%
Dịch vụ, 23.8, 33%
Công nghiệp, 44.7, 61%
Nông nghiệp, 1807, 22%
Nông nghiệp, 4.2, 6%
Công nghiệp, 5348, 67%
Theo số sự án
Theo vốn đầu tư (tỷ đ; %)
Nguồn: Tổng cục Thống kê. Số liệu tính đến tháng 9/2007; Chỉ tính
những dự án còn hiệu lực
Hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều có trình độ
công nghệ sản xuất tiên tiến, công nghệ quản trị hiện đại, hoạt động trong các
ngành có yêu cầu về kỹ thuật và quản trị cao như tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, bất động sản, công nghệ thông tin, khai thác dầu khí, sản xuất linh kiện
và lắp ráp ô tô ...
Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần quan trọng trong tạo việc làm
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hiện tại, các doanh nghiệp khu vực
này tạo khoảng 1 triệu việc làm trực tiếp với mức thu nhập cao hơn các khu
198
vực kinh tế khác. Đội ngũ cán bộ quản lý và kỹ thuật làm việc trong các 63 Lê Xuân Bá (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, tr. 21.
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không ngừng được nâng cao tay nghề
và trình độ quản lý. Các chuyên gia Việt Nam làm việc trong các doanh
nghiệp này từng bước thay thế các chuyên gia nước ngoài trong nhiều lĩnh
vực, nhất là mảng quản lý và điều hành kỹ thuật.
- Vốn đầu tư nước ngoài giữ vị trí quan trọng cho đầu tư phát triển
Luật Đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 đã kịp thời bù đắp những
thiếu hụt về đầu tư cho phát triển khi nguồn viện trợ từ Liên Xô bị cắt đột
ngột, đầu tư trong nước còn hạn chế. Ngay sau khi Luật Đầu tư nước ngoài có
hiệu lực, dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh chóng cho đến năm 2000.
Từ sau năm 2000, mặc dù đầu tư trong nước tăng nhanh nhưng tỷ trọng vốn
đầu tư nước ngoài vẫn chiếm 17% trong giai đoạn 2001-2005. Việc đầu tư
nước ngoài tăng cao, nguồn ngân sách nhà nước có điều kiện hỗ trợ cho vùng
sâu, vùng xa, các chương trình quốc gia .... nhằm tạo sự phát triển cân đối và
bền vững. Qua đó, vốn ngân sách phát huy tác dụng trong xoá đói giảm
nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền, phát triển hạ tầng ở những
vùng yếu kém ... tạo thêm lực để tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài trong
những năm tiếp theo.
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo lập vị thế quốc gia trên
trường quốc tế
Đầu tư nước ngoài góp phần mở rộng kinh tế đối ngoại, khắc phục
những khó khăn trong bối cảnh Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, góp
phần hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính trong
khu vực vào những năm 90 (thế kỷ XX), từng bước tạo thế và lực mới trên
trường quốc tế.
Quan hệ đầu tư của Việt Nam đã thiết lập được với trên 70 quốc gia và
vùng lãnh thổ; quan hệ thương mại với trên 170 quốc gia và vùng lãnh thổ; ký
kết hơn 60 hiệp định thương mại song phương, trong đó có những hiệp định
rất quan trọng như ký với Trung Quốc (Hiệp định thương mại năm 1991;
Hiệp định hợp tác kinh tế năm 1992), Hoa Kỳ (Hiệp định thương mại 2000,
199
có hiệu lực từ 2001), EU (Hiệp định khung hợp tác về thương mại, đầu tư
phát triển năm 1995)... Các quan hệ đa phương cũng tiếp tục được mở rộng cả
về qui mô và chiều sâu: Nối lại quan hệ với Quĩ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng
Thế giới vào năm 1993; gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
vào năm 1995; tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), tham gia
Hiệp định khung về đầu tư ASEAN (AIA). Cùng với các nước khác, Việt
Nam là thành viên sáng lập ASEM, trong đó có nội dung triển khai hoạt động
về xúc tiến đầu tư (IPAP). Năm 1998, Việt Nam trở thành thành viên Diễn
đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái bình dương (APEC). Từ năm 2002, Việt Nam tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN+ (ASEAN - Trung Quốc;
ASEAN - Ấn Độ; ASEAN - Hàn Quốc...). Năm 1995 nộp đơn và năm 2006,
Việt Nam trở thành thành viên WTO.
Những nỗ lực trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ đầu tư nói
riêng đã tạo lập những nền tảng quan trọng nhằm tăng thu hút đầu tư nước
ngoài trong giai đoạn vừa qua, đồng thời tạo đà cho thu hút nguồn vốn này
trong những năm tiếp theo.
- Những tác động lan toả
Đầu tư nước ngoài đã tạo nên những khu vực sản xuất - thương mại -
dịch vụ gắn liền với các doanh nghiệp, các khu vực đầu tư, hình thành những
cụm sản xuất, cụm dịch vụ phục vụ trực tiếp cho hoạt động của các dự án, các
doanh nghiệp. Qua đó, nguồn vốn đầu tư nêu trên đã gián tiếp tạo ra lượng
việc làm lớn.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến các
doanh nghiệp trong nước trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu, nâng cao
năng lực cạnh tranh, tiêu chuẩn hoá qui trình sản xuất và quản lý (ISO) thông
qua các liên kết sản xuất, các hợp đồng cung cấp nguyên liệu, sản phẩm đầu
vào. Qua đó, các doanh nghiệp trong nước không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh nhằm tiếp tục ký kết được hợp đồng với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi cơ
200
chế quản lý, các chính sách cũng như mỗi cán bộ phải hoàn thiện năng lực,
trình độ đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Nói cách khác, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài cho chúng ta thêm những kinh nghiệm thực tiễn, bài học thực
tế trong quản lý và điều hành hoạt động doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Qua đó, Việt Nam có thêm kinh nghiệm quản lý khu vực kinh tế khác
(nhà nước, tư nhân), hoàn thiện quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường theo thông lệ quốc tế.
7.2.2. Một số hạn chế
Những yếu kém khách quan (trình độ phát triển kinh tế thị trường thấp,
kết cấu hạ tầng kém phát triển, hậu quả nặng nề của chiến tranh...) được nhắc
đến khá nhiều và trong nhiều trường hợp, được viện dẫn như những lý do giải
thích cho chất lượng thấp của môi trường đầu tư. Tuy nhiên, những yếu kém
này cần thời gian dài với chiến lược, qui hoạch tổng thể tầm quốc gia. Phạm
vi đề tài chỉ đề cập đến một số yếu tố mang tính chủ quan.
- Về nhận thức: Thiếu thống nhất, thậm chí ý kiến còn trái ngược về thu
hút đầu tư, các ưu đãi đầu tư, độ mở của nền kinh tế nói chung và mỗi địa
phương nói riêng, lựa chọn phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, cấp
phép các hình thức đầu tư .... Sự thiếu thống nhất trong nhận thức dẫn đến
lúng túng trong qui hoạch, khó khăn trong hoạch định chính sách, mâu thuẫn
trong điều hành thực tiễn, xuất hiện nhiều trường hợp “phá rào” hoặc “làm
trước, báo cáo sau” như đã từng diễn ra ở một số tỉnh Đông Nam bộ, đồng
thời, tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư.
Kết quả thu hút đầu tư tăng mạnh là không thể phủ nhận: Năm 2005 đạt
6,3 tỷ USD; năm 2006 đạt 10,2 tỷ USD. Tuy vậy, đầu tư nước ngoài tăng
nhanh không có nghĩa môi trường đầu tư đã hấp dẫn và hoàn thiện: Năm 2005
có số dự án bị rút giấy phép hoặc đề nghị rút giấy phép là 1,27 tỷ USD; năm
2006, số vốn FDI thực hiện chỉ đạt trên 30% so với tổng vốn đăng ký (4,1 tỷ
USD trên tổng số 12 tỷ USD). Điều này có nghĩa thất bại trong thu hút đầu tư
chiếm khoảng 20% và sẽ có những tác động lan toả xấu. Số liệu trên cũng cho
thấy môi trường đầu tư còn tiềm ẩn không ít rủi ro và xu hướng chuyển dòng
đầu tư sang các nước lân cận có môi trường thuận lợi hơn có thể trở thành
201
hiện thực.
- Hệ thống pháp luật bộc lộ những bất cập: Luật Đầu tư và Luật Doanh
nghiệp được Quốc Hội thông qua năm 2005 đánh dấu những nỗ lực của Chính
phủ trong cải thiện môi trường đầu tư, tạo quyền bình đẳng trong gia nhập và
rút khỏi thị trường đối với các doanh nghiệp không phân biệt trong hay ngoài
nước. Tuy nhiên, pháp luật về kinh tế thị trường thiếu đồng bộ, một số thị
trường quan trọng như tài chính, tiền tệ, bất động sản, khoa học công nghiệp
... phát triển chậm. Giấy phép con vẫn tồn tại như một cản trở nhìn nhận dưới
góc độ thu hút và thực hiện đầu tư. Cam kết gia nhập WTO, Việt Nam chấp
nhận 12 năm kinh tế phi thị trường cho thấy xây dựng hệ thống luật pháp cho
nền kinh tế thị trường nói chung rất khó khăn và cần không ít thời gian. Một
bất cập của hệ thống pháp luật nữa là sự thiếu đồng bộ, chưa rõ ràng và khó
dự đoán. Nhiều nghị định và thông tư hướng dẫn chưa qui định cụ thể hoặc dễ thay đổi ... gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài64.
- Qui hoạch chậm và chất lượng chưa cao: Theo qui định, các dự án
chỉ được phê duyệt và cấp phép nếu phù hợp với qui hoạch (nhiều cấp qui
hoạch, từ tổng thể đến cụ thể). Tuy nhiên, công tác qui hoạch chậm, mâu
thuẫn giữa các cấp hoặc dễ bị điều chỉnh đã gây nhiều rủi ro cho các nhà đầu
tư, thiệt hại cho cả nền kinh tế. Nhiều qui hoạch thiếu thông tin dự báo, cơ sở
dữ liệu lạc hậu, chưa gắn với sự phát triển của khu vực và thế giới cũng như những biến động mang tính dự báo65 ....
Chỉ tính riêng qui hoạch sử dụng đất, tính đến giữa năm 2006, có tới
64% số huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và 65% số xã, phường, thị
trấn chưa hoàn thành. Chất lượng qui hoạch của những đơn vị đã hoàn thành
qui hoạch cũng chưa cao, nhiều dự án treo, chậm do vướng qui hoạch hoặc
không qui hoạch khu dân cư ... gây ô nhiễm môi trường, nảy sinh nhiều vấn
đề kinh tế xã hội khác vẫn tồn tại ở nhiều địa phương.
64 Nghị định 108 của Chính phủ qui định lĩnh vực đầu tư có điều kiện trong Luật Đầu tư 2005. Tuy vậy, cả luật và nghị định mới qui định lĩnh vực đầu tư có điều kiện, chưa qui định điều kiện để đầu tư cho mỗi lĩnh vực. 65 Chiến lược kinh tế Biển đã được Quốc hội thông qua nhưng một số chuyên gia cho rằng, bản chiến lược này chưa hề tính tới mực nước biển dâng cao và Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh nhất của hiện tượng thiên nhiên này. Chương trình Tiêu điểm, VTV1 Đài Truyền hình Việt nam, ngày 4/11/2007.
202
- Quản lý Nhà nước còn yếu: Bộ máy quản lý hành chính nhà nước đã
được thu gọn về đầu mối nhưng vẫn cồng kềnh, làm cho quản lý hoạt động
đầu tư nước ngoài chưa thực sự hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, tham nhũng
của một bộ phận cán bộ liên quan đến đầu tư nước ngoài diễn ra ở nhiều nơi.
Việc phân cấp đầu tư cho các tỉnh, bên cạnh những kết quả đạt được, đã bộc
lộ tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương và việc ban
hành những ưu đãi không phù hợp với các qui định hiện hành. Theo báo cáo
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, những năm qua đã có 42 tỉnh, thành phố ban
hành qui định ưu đãi đầu tư trái với qui định và việc phân cấp chưa rõ ràng,
khiến nhà đầu tư mất nhiều thời gian giải quyết thủ tục, không có đơn vị nào
chịu trách nhiệm nếu xảy ra sai phạm...
- Chất lượng nguồn nhân lực thấp: Mặc dù Nhà nước thực hiện nhiều
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng so với yêu cầu
phát triển, nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo trên cả nước chiếm 24% năm 200566. Trình độ học vấn, kinh nghiệm quản
lý của các lãnh đạo doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (người Việt Nam)
có cao hơn khu vực khác nhưng không nhiều do đội ngũ này chuyển sang từ
lãnh đạo doanh nghiệp phía Việt Nam (chủ yếu là DNNN). Do đó, nhiều lãnh
đạo doanh nghiệp liên doanh không bảo vệ được lợi ích của người lao động,
bảo toàn và phát triển vốn phía Việt Nam.
- Ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí ngày
càng trầm trọng ở các khu công nghiệp, nơi tập trung số đông các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chất thải rắn ở các khu công nghiệp chiếm
khoảng 30% tổng chất thải rắn phát sinh hàng năm nhưng việc xử lý chất thải
này ở mỗi khu công nghiệp, mỗi nhà máy không giống nhau. Theo kết quả
khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ khoảng 10% số doanh nghiệp có
chất thải rắn ký hợp đồng vận chuyển và xử lý với các đơn vị chuyên nghiệp.
Nhiều khu công nghiệp không có hệ thống xử lý chất thải, nước thải tập trung.
Cũng theo kết quả từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 6/2006, chỉ có
66 Ban Chỉ đạo điều tra lao động - việc làm Trung ương: Công bố điều tra lao động - việc làm 2005, ngày 17/11/2005.
203
33/135 khu công nghiệp trên cả nước đã xây dựng và vận hành hệ thống chất
thải. Một số nhà máy có xây dựng hệ thống xử lý nước thải riêng nhưng mang
tính hình thức, không vận hành thường xuyên (chỉ vận hành khi có đoàn kiểm
tra môi trường). Hệ thống lọc khí, bụi ở các khu công nghiệp chưa được quan
tâm đầy đủ, hầu hết thải trực tiếp ra môi trường.
- Kéo dãn khoảng cách thu nhập: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài thường lựa chọn đầu tư ở những đô thị lớn, hạ tầng phát triển, giao
thông thuận lợi, tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, do đó thu nhập
của người lao động trong các khu vực này vốn đã cao lại càng cao trong
tương quan với các khu vực vùng sâu, vùng xa; giữa công nghiệp - dịch vụ
với nông nghiệp.
- Một bộ phận doanh nghiệp kinh doanh không lành mạnh: Hầu hết các
nhà đầu tư nước ngoài có dự định hoạt động lâu dài, kinh doanh lành mạnh,
tuân thủ pháp luật và thuần phong mỹ tục, văn hoá Việt Nam. Bên cạnh đó,
một bộ phận nhỏ doanh nghiệp tìm những cơ hội trục lợi, có dấu hiệu vi phạm
pháp luật, lừa đảo bằng nhiều hình thức khác nhau như khai tăng giá trị vật tư
nhập ngoại để xây dựng hạ tầng vật chất, qua đó chiếm đoạt một phần vốn
góp phía Việt Nam; Dùng dự án đã được phê duyệt để tổ chức gọi vốn đầu tư
của các tổ chức trong nước, sau đó “trốn”, gây thiệt hại cho nhiều tổ chức, cá
nhân Việt Nam; Trường đào tạo quốc tế Hà Nội (Liên doanh giữa công ty
SICT (Singapore) và Bộ Giáo dục Đào tạo Việt Nam đào tạo tiếng Anh bất
ngờ đóng cửa .... Tuy hiện tượng trên không mang tính phổ biến nhưng phía
Việt Nam cần nghiêm túc xem xét năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ liên
quan, năng lực thẩm định dự án, khả năng và động cơ của các tổ chức môi
giới, tư vấn, dịch vụ ...
Tóm lại: Những lợi ích mang lại luôn đi kèm với những rủi ro tiềm ẩn
trong thu hút đầu tư nước ngoài. Nhận diện rõ những mặt tích cực nhằm phát
huy, khai thác, đồng thời cũng thấy rõ những mặt trái để kịp thời ngăn ngừa
vừa là yêu cầu, là đòi hỏi đối với các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung,
quản lý vốn đầu tư nước ngoài nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế. Về tổng quan, đầu tư nước ngoài tính đến hết năm 2006 rất khả quan, đánh
204
dấu đợt bùng nổ làn sóng đầu tư, là kết quả của những nỗ lực đối ngoại của
Chính phủ, tạo tiền đề thuận lợi cho những đợt bùng nổ tiếp theo khi Việt
Nam là thành viên chính thức của WTO.
7.3. Những cam kết đầu tư của Việt Nam trong khuôn khổ WTO
Theo Báo cáo của Ban công tác gia nhập WTO, Việt Nam cam kết sẽ
sửa đổi hệ thống luật pháp, xây dựng chương trình hành động phù hợp với
Hiệp định TRIMs và thực hiện đầy đủ các yêu cầu của hiệp định này kể từ
ngay sau khi gia nhập; các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tự do lựa chọn thị
trường cho các sản phẩm của mình thay vì ưu tiên mua sản phẩm nội địa như
trước đây (trừ những sản phẩm được nêu trong Quyết định số 718/BKH-QĐ.
Hộp 7.1 : Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs)
Chỉ được áp dụng cho các biện pháp gây ảnh hưởng đến trao đổi hàng hoá. Hiệp định thừa nhận một số biện pháp có thể gây hạn chế hoặc làm méo mó thương mại. Hiệp định quy định rằng không một thành viên nào được phép áp dụng những biện pháp phân biệt đối xử đối với người hoặc hàng hoá nước ngoài (tức là vi phạm nguyên tắc “đối xử quốc gia” của GATT). Hiệp định cũng cấm áp dụng các biện pháp đầu tư làm hạn chế khối lượng trao đổi (trái với một nguyên tắc khác của GATT). Hiệp định lập danh mục các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại bị coi là trái với các điều khoản của GATT. Danh mục này bao gồm các biện pháp yêu cầu một doanh nghiệp phải mua một tỷ lệ sản phẩm sản xuất trong nước nào đó (“các yêu cầu về hàm lượng hàng nội địa”). Hiệp định cũng không khuyến khích các nước áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với một doanh nghiệp hoặc đặt ra cho doanh nghiệp những mục tiêu xuất khẩu (các yêu cầu về cân bằng trong trao đổi”).
Theo hiệp định, các nước thành viên phải thông báo cho các nước khác, thông qua WTO, tất cả những biện pháp đầu tư nào không phù hợp với hiệp định. Các biện pháp này cần bị xoá bỏ trong thời hạn 2 năm đối với các nước phát triển (tức tới cuối năm 1996), 5 năm đối với các nước đang phát triển (tới cuối năm 1999) và 7 năm đối với các nước kém phát triển. Tháng 7/2001, Hội đồng về thương mại hàng hoá đã nhất trí kéo dài giai đoạn chuyển tiếp này đối với một số nước đang phát triển có yêu cầu.
Hiệp định lập ra một Uỷ ban về các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại TRIMs. Uỷ ban có trách nhiệm giám sát việc triển khai các cam kết. Hiệp định cũng quy định rằng các thành viên của WTO sẽ xem xét, muộn nhất là vào 1/1/2000, liệu có nên bổ sung vào hiệp định một số điều khoản về chính sách đầu tư và cạnh tranh hay không. Quá trình xem xét này từ nay cũng nằm trong khuôn khổ Chương trình Đôha về phát triển.
Nguồn: Ban thư ký WTO, Tìm hiểu Tổ chức thương mại thế giới, www.wto.org
Như vậy, những cam kết quan trọng nhất của Việt Nam là tuân thủ đẩy
205
đủ những qui định trong TRIMs.
Hộp 7.2: Nội dung chính của hiệp định TRIMs
Hiệp định TRIMs không đưa ra một định nghĩa chính xác về các biện pháp bị cấm. Thay vào đó, nó là một bản danh sách minh họa bao gồm những ví dụ về những biện pháp liên quan đến thương mại bị cấm. Trong bản danh sách này có những yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, những yêu cầu liên quan đến tiêu dùng trong nước, các yêu cầu khác nhau về cán cân thương mại và một số yêu cầu khác.
Những yêu cầu như vậy bị cấm khi chúng là những điều kiện bắt buộc đối với việc thành lập và cả khi chúng là những điều kiện hưởng ưu đãi (ví dụ trợ cấp). Hiệp định TRIMs không phân biệt giữa các biện pháp dành cho các nhà đầu tư trong nước hay nhà đầu tư nước ngoài. Hiệp định này chỉ áp dụng đối với thương mại hàng hoá.
Mặt khác, việc yêu cầu nhà đầu tư phải xuất khẩu một phần sản phẩm của mình không bị coi là xung đột với GATT. Trợ cấp xuất khẩu bị giới hạn bởi Hiệp định về trợ cấp của WTO. Hiệp định TRIMs còn nhằm làm minh bạch hơn và làm rõ cách thức loại bỏ những biện pháp bị cấm hiện tại. Tất cả mọi thành viên của WTO đều có 90 ngày để thông báo về những yêu cầu không phù hợp với hiệp định GATT. Sau khi Hiệp định TRIMs có hiệu lực, các nước phát triển có 2 năm, nước đang phát triển có 5 năm, nước chậm phát triển có 7 năm để loại bỏ những biện pháp đã thông báo.
Nguồn: Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế (2005), Tác động của các hiệp định WTO đối với các nước đang phát triển. www.mot.gov.vn
Các ưu đãi về thuế nhập khẩu dựa trên tỷ lệ nội địa hoá đối với doanh
nghiệp sản xuất và lắp ráp xe máy đã được bãi bỏ kể từ năm 2003. Các ưu đãi
về mức thuế nhập khẩu dựa trên cơ sở tỷ lệ nội địa hoá ở các ngành điện/điện
tử/ cơ khí được bãi bỏ kể từ 1/10/2006. Các yêu cầu về tỷ lệ xuất khẩu với
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng được bãi bỏ kể từ năm 2003.
Việt Nam cũng cam kết không phân biệt đối xử về hàng hoá, dịch vụ,
đầu tư, quyền xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hình doanh
nghiệp. Cam kết bỏ chế độ hai giá, bỏ chính sách nội địa hoá, bỏ lệnh cấm
nhập khẩu ô tô cũ ...
- Cam kết về chính sách đầu tư: Việt Nam cam kết nhà đầu tư nước
ngoài được đầu tư trong những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm,
được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo qui định của pháp luật Việt
Nam; Các nhà đầu tư trong và ngoài nước được đối xử bình đẳng, được
khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong hoạt động; Cam kết công
nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập cũng như các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; Cam kết thực hiện các điều
206
ước quốc tế khác liên quan đến đầu tư mà Việt Nam là thành viên; Khuyến
khích và có chính sách ưu đãi cụ thể đối với lĩnh vực, địa bàn đầu tư.
- Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài: Cục Đầu tư nước ngoài
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) là cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
- Hình thức đầu tư nước ngoài: Đối với hình thức đầu tư trực tiếp
(FDI), nhà đầu tư nước ngoài được phép lựa chọn các hình thức 100% vốn,
liên doanh, BOT, BTO, BT, BCC, mua cổ phần, góp vốn, đầu tư thực hiện
việc sáp nhập hoặc mua lại .... Đối với hình thức đầu tư gián tiếp, nhà đầu tư
được phép mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác thông
qua quĩ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian ....
- Địa bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư: Luật Đầu tư qui định cụ thể
về địa bàn ưu tiên đầu tư gồm các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn, khu công nghiệp, công nghệ cao ... Các qui định cụ
thể cần căn cứ vào nghị định hướng dẫn. Các lĩnh vực khuyến khích đầu tư
bao gồm công nghệ cao, vật liệu mới, nuôi trồng - chế biến nông lâm thuỷ
sản, sử dụng nhiều lao động, phát triển kết cấu hạ tầng, ngành nghề truyền
thống, y tế, giáo dục ....
- Đảm bảo vốn và tài sản cho nhà đầu tư nước ngoài: Cam kết không
quốc hữu hoá, không tịch thu bằng biện pháp hành chính; Được chuyển ra
nước ngoài các khoản như lợi nhuận, chi phí cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, tiền
vay, vốn đầu tư, các tài sản hợp pháp của nhà đầu tư ... sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ tài chính với nhà nước Việt Nam.
- Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong
hoạt động đầu tư, đảm bảo lợi ích hợp pháp trong chuyển giao công nghệ.
- Mở cửa thị trường đầu tư liên quan đến thương mại: Việt Nam mở
cửa thị trường phù hợp với cam kết trong WTO. Bãi bỏ các qui định về điều
kiện mua hàng hoá trong nước, tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá, tỷ lệ nhập khẩu...
- Cam kết về giá, phí, lệ phí thống nhất: Nhà đầu tư nước ngoài được áp
dụng thống nhất về giá, phí, lệ phí hàng hoá, dịch vụ, do Nhà nước kiếm soát.
207
- Đảm bảo đầu tư: Việt Nam cam kết đảm bảo quyền lợi cao nhất cho
nhà đầu tư trong trường hợp có những thay đổi về chính sách: Nếu chính sách
mới có lợi hơn thì nhà đầu tư được hưởng theo qui định mới; Nếu chính sách
tổn hại đến những ưu đãi hiện hành thì nhà đầu tư được hưởng theo giấy
chứng nhận đầu tư.
- Minh bạch hoá trong đầu tư nước ngoài: Trang thông tin điện tử của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ cập nhật liên tục những qui định pháp lý, số liệu
thống kê, các mẫu đăng ký, các thông tin liên quan đến đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Có sự trao đổi thường xuyên giữa nhà đầu tư nước ngoài và đại
diện cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư . Quá trình xây dựng văn bản qui
phạm pháp luật được công khai hoá, có sự đóng góp ý kiến của các nhà đầu tư
nước ngoài.
- Các thủ tục: Cam kết đơn giản hoá các thủ tục theo hướng tạo thuận lợi
cho nhà đầu tư. Đơn giản hoá thủ tục xin cấp visa, không hạn chế trong việc cấp
thị thực với cán bộ quản lý, chuyên gia nước ngoài. Thủ tục thẩm định dự án
cũng được qui định cụ thể, phù hợp với qui định và cam kết trong WTO.
7.4. Đầu tư kể từ khi gia nhập WTO và một số vấn đề đặt ra
Trong 10 tháng đầu năm, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đổ vào Việt Nam đạt 11,26 tỷ USD, vượt qua con số 10,2 tỷ USD của năm
2006 (theo số liệu của Tổng cục Thống kê). Với tốc độ trung bình hàng tháng
đạt trên 1 tỷ USD. Với trên 11 tỷ USD, FDI trong 10 tháng đã tăng 36,4% so
với cùng kỳ năm 2006. Trong số này có 1.144 dự án cấp mới với 9,75 tỷ
USD, tăng 59% và 300 dự án hiện hữu xin tăng vốn, đạt 1,5 tỷ USD.
Tính theo ngành kinh tế, công nghiệp vẫn dẫn đầu về nguồn vốn đầu tư nước
ngoài với trên 5,3 tỷ USD trong 10 tháng, tiếp sau là dịch vụ với 4,25 tỷ USD.
Tính theo địa phương, trong tháng 10 có 99 dự án FDI cấp mới với 1,46
tỷ USD và 26 dự án tăng vốn, trị giá 196 triệu USD. Tổng cộng, FDI vào Việt
Nam trong tháng đạt 1,65 tỷ USD. Với tốc độ này, trong 2 tháng cuối năm,
FDI vào Việt Nam sẽ vượt mức dự kiến (kế hoạch đặt ra là 12 tỷ trong năm
2007). Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn giữ vị trí địa phương thu hút lượng vốn FDI
208
cao nhất cả nước, với 18 dự án trị giá trên 1 tỷ USD. Tiếp sau là TP Hồ Chí
Minh và Hà Nội với lần lượt 987,4 và 896,4 triệu USD. Cho đến nay, các dự
án đầu tư vào Bà Rịa - Vũng Tàu chủ yếu trong lĩnh vực thép và nhiệt điện,
trong khi các dự án tại Hà Nội tập trung vào bất động sản và khách sạn.
Năm 2007 xuất hiện hàng loạt dự án qui mô lớn, trị giá khoảng 5 tỷ
USD đang xúc tiến vào Việt Nam, với các nhà đầu tư lớn từ Mỹ, Hàn Quốc,
tập trung ở các lĩnh vực công nghiệp, công nghệ cao và địa ốc, đối tác là
những tập đoàn lớn, có kinh nghiệm trong các lĩnh vực công nghệ cao như tập
đoàn Foxconn (Đài Loan) đầu tư dự án sản xuất điện tử kỹ thuật cao, với tổng
vốn kỷ lục 5 tỉ USD tại Bắc Ninh, Bắc Giang. Tổ hợp hoá dầu Naphtha
Cracking và xây dựng hạ tầng KCN Hoà Tâm (Phú Yên) của công ty hoá chất
SPC (Singapore) đã làm lễ khởi công xây dựng với tổng mức đầu tư 5,3 tỉ USD67. Triển vọng đến cuối năm, sẽ có thêm nhiều dự án lớn được cấp phép,
đưa con số FDI lên mức kỷ lục mới.
Tính theo quốc gia, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam
trong 10 tháng đầu năm với tổng vốn 2,44 tỷ USD, chiếm 21,6% lượng FDI
cả nước. Tiếp theo là British Virgin Islands (thuộc Vương quốc Anh tại vùng
biển Caribê), và Singapore với lần lượt 1,7 và 1,3 tỷ USD.
Hình 7.4: Vốn FDI trung bình 10 tháng giai đoạn 2005-2007 (Tỷ USD)
12
11.26
10
8.5
8
6
East
4.83
4
Gia nhập WTO
2
0
10 tháng 2005
10 tháng 2006
10 tháng 2007
Nguồn: Tổng cục Thống kê
67 Ngoài ra, một số dự án lớn khác như Dự án sản xuất máy tính xách tay Compal (Đài Loan) 500 triệu USD đặt tại Vĩnh Phúc; dự án đóng tàu biển cỡ lớn tại vịnh Vân Phong của TĐ STX (Hàn Quốc) 500 triệu USD; các dự án khu đô thị dịch vụ Vạn Thắng; khu du lịch sinh thái Bãi Cát Thắm (Khánh Hoà); dự án nhiệt điện BOT Mông Dương 2 (Quảng Ninh), BOT nhiệt điện than miền Nam (Bình Thuận), tổng mức đầu tư mỗi NMĐ khoảng 1,4 tỉ USD; nhà máy nhiệt điện than Vân Phong (Khánh Hoà), tổng vốn đầu tư 3,8 tỉ USD đã được Thủ tướng chấp thuận về chủ trương đầu tư.. Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
209
So sánh FDI trung bình 10 tháng giai đoạn 2005-2007 cho thấy tốc độ
tăng trưởng khá đều, từ 4,83 tỷ USD năm 2005 lên 8,5 tỷ USD năm 2006 và
11,26 tỷ USD năm 2007. Riêng năm 2006, tốc độ tăng trưởng FDI cao do đây
là năm bản lề gia nhập WTO, nhiều cam kết các các hiệp ước song phương
được ký kết, nhiều tín hiệu lạc quan từ nền kinh tế với giới đầu tư. Kể từ sau
gia nhập, với những nỗ lực cải cách sâu rộng của cả nền kinh tế nói chung và
liên quan đến lĩnh vực đầu tư nói riêng, tốc độ và qui mô tăng trưởng FDI vẫn
đạt cao, lập kỷ lục mới về số vốn đăng ký.
Một số vấn đề đặt ra trong thực thi cam kết về đầu tư
- Các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, nhất là ở các địa phương còn
nhiều cách hiểu không thống nhất về các nội dung cam kết, chẳng hạn thuật
ngữ “không cam kết” và “không hạn chế” có nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn
đến những quyết định quản lý thiếu thống nhất, thậm chí trái ngược.
- Trong mảng đầu tư ở lĩnh vực dịch vụ, các cam kết về đầu tư khi gia
nhập WTO chặt chẽ hơn những qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam
(Luật Đầu tư và các văn bản pháp lý liên quan). Điều này phát sinh nhiều vấn
đề: (1) Các cơ quan quản lý đầu tư sẽ áp dụng qui định trong cam kết WTO
hay pháp luật Việt Nam? (2) Những dự án đang thực hiện, sẽ phải điều chỉnh
theo cam kết hay vẫn hoạt động theo qui định trước đó (khi cấp phép đầu tư);
(3) Các dự án cấp mới sẽ thực hiện theo phương án nào? nhất là với các dự án
thành phần của cùng một chủ thể đầu tư (một tập đoàn có thể đầu tư nhiều dự
án thành phần, nhiều nơi trên lãnh thổ Việt Nam với thời điểm đầu tư trước và
sau khi Việt Nam là thành viên WTO). Hiện tại, một số địa phương lựa chọn
phương án an toàn, chưa vội cấp phép đầu tư mới ở những lĩnh vực có sự
khác biệt giữa luật pháp Việt Nam và các cam kết WTO.
Hộp 7.3: Sự khác biệt giữa cam kết gia nhập WTO và pháp luật Việt Nam
Trong một số ngành trước khi gia nhập WTO, chúng ta đã mở cửa với mức độ rất
cao, không hạn chế phần vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, theo quy định của biểu cam kết, thì chúng ta hạn chế lại. Ví dụ như trong ngành dịch vụ giáo dục, y tế thì đến ngày 1/1/2009, nhà đầu tư nước ngoài mới được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong khi đó, từ chục năm nay, chúng ta đã cho phép hình thức này. Thậm chí đối với dịch vụ giáo dục, Việt Nam còn đặc biệt khuyến khích đầu tư và dành nhiều ưu đãi. Nguồn: Thuỳ Trang http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=10&id
210
- Lúng túng trong quản lý giữa Bộ Thương mại và Bộ Kế hoạch & Đầu tư đối với các dự án đang chờ cấp phép (các dự án đang chờ nhưng không
nằm trong nghĩa vụ mở cửa theo các nội dung đàm phán). Khi nhà đầu tư nước ngoài đăng ký trong những ngành không nằm trong danh mục biểu cam kết, Bộ Thương mại trả lời không mở cửa, do đó các sở kế hoạch và đầu tư ở
các địa phương chưa biết xử lý như thế nào. Nhiều địa phương lựa chọn phương án từ chối cấp phép, làm xáo trộn tình hình đầu tư.
- Mức độ cam kết của Việt Nam không giống nhau giữa các hiệp định song phương và cam kết trong WTO68. Cam kết trong WTO của Việt Nam liên quan đến đầu tư so sánh với các quốc gia mới gia nhập được đánh giá là
vừa phải. Tuy nhiên, nếu so sánh với Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì mức độ cam kết của Việt Nam mạnh hơn. Điều này có nghĩa là các dự án đầu tư sẽ được thực thi theo cam kết của WTO và các cam kết song
phương, khu vực sẽ không còn giá trị (đã được thay thế bằng cam kết WTO). Vướng mắc phát sinh ở đây đối với trường hợp các dự án hoặc hợp phần dự án đang được triển khai theo hiệp định song phương sẽ phải điều chỉnh cho phù hợp với các cam kết WTO69.
- Việc thực thi các cam kết xoá bỏ ưu đãi dựa vào thành tích xuất khẩu hay tỷ lệ nội địa hoá có thể ảnh hưởng đến những cam kết của Chính phủ Việt Nam (hay chính quyền địa phương) về những ưu đãi dành cho các doanh nghiệp nhất định trong quá trình kêu gọi đầu tư. Như vậy, việc thực thi cam
kết WTO có thể gây xung đột lợi ích với thực thi cam kết đối với mỗi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
7.5. Cải cách đầu tư và những tác động của gia nhập WTO đối với
đầu tư nước ngoài
Về cải cách đầu tư
211
Việc ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (2005) đánh dấu bước cải cách mạnh mẽ về đầu tư, tạo điều kiện và môi trường bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với các cam kết quốc tế, tạo bước đệm 68 Đây là hiện tượng không phổ biến vì thông thường, các hiệp định song phương và khu vực có độ mở lớn hơn so với các hiệp định toàn cầu. 69 Một số nhà đầu tư ở các quốc gia không có cam kết song phương với Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ các cam kết của Việt Nam, xuất hiện tình trạng “kẻ ăn không” ở một số lĩnh vực. Trong khi đó, các nhà đầu tư ở các quốc gia ký hiệp định song phương với Việt Nam có thể bị thiệt thòi nếu chính sách không điều chỉnh kịp thời.
cho gia nhập WTO và các hiệp định đầu tư khác. Nhiều hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài được dỡ bỏ, các thủ tục bảo hộ với đầu tư nước ngoài
được cải thiện, cùng với các cam kết trong WTO, lĩnh vực đầu tư được cải cách mạnh, thể hiện trên một số nội dung sau:
- Khái niệm đầu tư được mở rộng, bao gồm mọi loại hình đầu tư.
- Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập công ty cổ phần và phát
hành chứng khoán.
- Nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài trong mọi lĩnh vực không bị hạn chế.
- Sử dụng trọng tài quốc tế, toà án nước ngoài hoặc luật nước ngoài
trong trường hợp có tranh chấp và pháp luật Việt Nam không qui định về các tranh chấp đó.
- Các biện pháp đầu tư dựa trên tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hoá được
bãi bỏ (tuân thủ Hiệp định TRIMs).
- Bãi bỏ chế độ hai giá và các thông lệ khác mang tính phân biệt giữa
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
- Cải thiện các qui định về quản trị doanh nghiệp.
- Bãi bỏ hạn chế về vốn góp và yêu cầu về thuê, tuyển các vị trí quản lý
cấp cao là người Việt Nam trong công ty liên doanh.
- Xác lập quyền đầu tư và quyền sở hữu vốn đầu tư và các tài sản khác
liên quan của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Các công ty nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
- Cam kết các qui định chung liên quan đến đầu tư phù hợp với các yêu cầu của các hiệp ước quốc tế. Tăng khả năng tiếp cận thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là đối với lĩnh vực dịch vụ.
Bên cạnh việc ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, rất nhiều
các cải cách pháp lý và các qui định liên quan đã được sửa đổi nhằm cải thiện
môi trường kinh doanh. Các cải cách nêu trên xuất phát từ nhiều yêu cầu,
trong đó có yêu cầu để gia nhập được vào WTO. Một số cải cách điển hình
212
nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và có liên quan đến đầu tư bao gồm:
- Luật Sở hữu trí tuệ nhằm bảo hộ quyền của chủ thể đối với nhãn hiệu
hàng hoá, quyền tác giả, bằng sáng chế độc quyền ...
- Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực của toà án.
- Các qui định mới nhằm tăng quyền của doanh nghiệp trong mối quan
hệ với chính quyền trung ương và địa phương.
- Luật Ban hành văn bản qui phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hơn,
minh bạch hơn các hoạt động lập pháp.
- Qui định về ngân hàng, tự do hoá ngân hàng, dịch vụ pháp lý, dịch vụ
tư vấn.
- Luật Cạnh tranh nhằm điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, tình trạng độc quyền. Luật Phá sản tạo căn cứ cho việc phá sản và tái
cơ cấu doanh nghiệp.
- Luật Thương mại mới và Luật Dân sự mới bổ sung những điều kiện
đầy đủ hơn về hợp đồng.
Về tác động của WTO tới đầu tư
Trong thời gian sau gia nhập WTO tính bằng tháng, tác động rõ rệt nhất
của WTO đối với kinh tế Việt Nam là trên lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Tuy
vậy, như đã trình bày, rất khó bóc tách phần tác động trực tiếp từ WTO và
những nỗ lực từ phía Việt Nam trong nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút
đầu tư, cải thiện hạ tầng, điều chỉnh chính sách, sửa đổi luật pháp... Những
đánh giá ban đầu về tác động của WTO tới đầu tư nước ngoài xuất phát từ
những tín hiệu đầu tư trong thời gian qua và những kỳ vọng trong tương lai.
- Đầu tư nước ngoài tăng trưởng đều do Việt Nam mở cửa một số lĩnh
vực trước đây bị hạn chế. Trong các ngành mở cửa, quan trọng nhất là nhóm
ngành dịch vụ như ngân hàng, viễn thông, thương mại, phân phối, dịch vụ
pháp lý, dịch vụ tư vấn .... Đây là những ngành thu hút sự quan tâm đặc biệt
của giới đầu tư vì một mặt, các doanh nghiệp trong nước không mạnh, qui mô
nhỏ, năng lực cạnh tranh không cao, mặt khác các nhà đầu tư, nhất là ở các
213
nước phát triển rất mạnh về những lĩnh vực này. Do vậy, họ nhìn thấy những
tiềm năng to lớn khi đầu tư vào những ngành vừa là thế mạnh của họ, vừa ít
đối thủ cạnh tranh từ thị trường nội địa. Với lộ trình mở cửa từng bước, đầu tư
nước ngoài chắc chắn sẽ có những phản ứng tích cực tuỳ thuộc vào độ mở và
lộ trình thực thi cam kết.
- Thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư của Việt
Nam được cải thiện rõ rệt thông qua cải thiện hàng loạt những lĩnh vực liên
quan trước sức ép trực tiếp và gián tiếp của việc gia nhập WTO.
Bảng 7.1: Cải cách liên quan đến đầu tư70
Năm năm trước
Thực trạng hiện nay
Các cải cách
đã được thực hiện
Không có khung pháp lý đảm
Các qui định mới về đối xử tối huệ
Pháp lệnh về
quốc và đối xử quốc gia. Cơ chế định giá kép đối với công ty nước ngoài bị xoá bỏ
bảo cho việc không phân biệt đối xử giữa các công ty trong và ngoài nước, tồn tại cơ chế định giá kép với công ty nước ngoài
đối xử và MFN/NT các qui định có tác động đến cơ chế hai giá
Quyền kinh doanh hạn chế và
Các thủ tục về quyền kinh doanh đã
Các qui định
các thủ tục không rõ ràng
được đơn giản hoá, song ở thời điểm 2006, vẫn còn những điểm chưa chắc chắn về quyền kinh doanh nhập khẩu
hướng dẫn thi hành Luật Thương mại
Các qui định về quyền sở hữu
Lần đầu tiên có một đạo luật toàn diện
Luật về quyền
về quyền sở hữu trí tuệ
sở hữu trí tuệ
trí tuệ chưa hoàn chỉnh và thiếu hiệu quả
Nhiều hạn chế đối với sự tham
Ít hạn chế hơn trong các ngành dịch
Luật Đầu tư,
gia của nhà đầu tư nước ngoài trong các ngành dịch vụ
Luật các tổ chức tín dụng, Luật về luật sư
vụ pháp lý, ngân hàng, bảo hiểm. Vẫn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết liên quan đến tự do hoá các ngành viễn thông và phân phối
Các cơ chế khác nhau đối với các hình thức đầu tư khác nhau. Toàn bộ đầu tư nước ngoài phải được thẩm định thì
Luật pháp chung về đầu tư và doanh nghiệp áp dụng cho mọi hình thức đầu tư.Cấp phép bằng đăng ký đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài có giá trị
tư Luật Đầu Luật 2005; Doanh nghiệp 2005
70 Mặc dù một số cải cách không phải yêu cầu trực tiếp trong quá trình đàm phán gia nhập WTO nhưng chúng đã tác
động tích cực đến những nội dung đàm phán song phương và đa phương.
214
mới được cấp giấy phép. Khả năng tiếp cận các qui trình trọng tài để giải quyết các tranh chấp đầu tư còn yếu kém, bảo hộ đầu tư không mạnh
dưới 300 tỷ đồng trong các lĩnh vực không hạn chế. Khả năng tiếp cận trọng tài quốc tế mạnh hơn. Việc bảo hộ trong các trường hợp tước quyền sở hữu và quốc hữu hoá được củng cố
Các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá
Đã được xoá bỏ
Luật Đầu
tư
2005
và các kết quả đầu tư khác trái với TRIMs
Không phải mọi luật và qui định
Các văn bản qui phạm pháp luật và
Luật Ban hành
đều được công bố, kể cả ở cấp trung ương và địa phương
các văn bản qui phạm pháp luật
các qui định được công bố 15 ngày trước khi có hiệu lực ở cấp trung ương. Ở cấp địa phương, các qui định phải được công bố hoặc niêm yết
Luật Phá sản
Các thủ tục phá sản kém hiệu quả
Đã được cải thiện nhưng ít được sử dụng
Việc nội luật hoá các điều ước quốc tế chưa rõ ràng
Luật về các điều ước quốc tế
Các thủ tục thực hiện những yêu cầu của các điều ước quốc tế trong nội luật đã rõ ràng, được sử dụng để phê chuẩn nghị định thư gia nhập WTO theo hình thức sử dụng một luật để điều chỉnh nhiều luật cùng một lúc
Nguồn: USAID, CIEM, FIA (2007), Đánh giá tác động của 5 năm triển khai Hiệp định
thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.44-47.
- Mở cửa thị trường, gián tiếp thúc đẩy đầu tư. Việc tăng khả năng tiếp
cận thị trường thành viên của hàng hoá Việt Nam theo cam kết sẽ gián tiếp
thúc đẩy đầu tư. Nhiều lĩnh vực có tiềm năng xuất khẩu và những lĩnh vực
mới sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài bởi họ nhìn thấy
triển vọng xuất khẩu các mặt hàng này sau gia nhập. Cùng với khả năng tiếp
cận thị trường của hàng hoá, nguồn nhân lực và các ưu đãi khác sẽ tạo hiệu
ứng tương tác trong thu hút đầu tư. Như vậy, trong thời gian tới, những ngành
có năng lực (hoặc tiềm năng) xuất khẩu cao như giày dép, dệt may, công
nghiệp chế tác sử dụng nhiều lao động ... với thị trường xuất khẩu rộng lớn,
nguồn nhân lực mang tính cạnh tranh (không yêu cầu trình độ quá cao) sẽ tiếp
215
tục thu hút được nguồn vốn đầu tư.
- Tăng đầu tư gián tiếp. Thị trường chứng khoán được thành lập năm
2000 và từng bước tự do hoá cho các nhà đầu tư nước ngoài về vốn cổ phần
trong các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ tạo ra làn sóng đầu tư gián tiếp
trong thời gian tới. Việc nhà đầu tư nước ngoài được mua tới 49% cổ phần ở
một công ty Việt Nam được niêm yết công khai (ngoại trừ một số ít lĩnh vực
như ngân hàng) sẽ là động lực mạnh mẽ thu hút các nhà đầu tư tư nhân, các tổ
chức tài chính. Gia nhập WTO, tăng trưởng kinh tế đạt mức cao cùng với môi
trường đầu tư được cải thiện tạo ra hình ảnh đẹp về tiềm năng và triển vọng
đầu tư. Việt Nam như một điểm đến an toàn, hấp dẫn, khả năng sinh lợi cao
kể từ giữa năm 2006. Với qui mô nhỏ và non trẻ, chỉ cần khoản đầu tư nhỏ
của tổ chức đầu tư lớn ở các nước phát triển cũng là khoản đầu tư khổng lồ
với thị trường chứng khoán Việt Nam
Hình 7.5: Chỉ số Vnindex trong 2 năm 10/2005- 10/2007
<>
Nguồn: Công ty Chứng khoán Sài gòn
Thị trường chứng khoán trong hai năm cho thấy, trong năm thứ nhất,
những biến động của thị trường và chỉ số không lớn. Kể từ cuối năm 2006, thị
trường chứng khoán có bước phát triển mạnh và bùng nổ kể từ sau gia nhập
WTO. Sự bùng nổ này do nhiều nguyên nhân, trong đó có tác động tích cực
từ việc gia nhập WTO và những cam kết của Việt Nam liên quan đến đầu tư
216
gián tiếp thông qua thị trường này.
Hình7.6: Chỉ số VNindex sau gia nhập WTO
Gia nhập WTO 7.11
Nguồn: Công ty Chứng khoán Sài gòn
Những thách thức đặt ra sau gia nhập WTO đối với đầu tư nước ngoài
- Về môi trường luật pháp: Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO,
điều đó có nghĩa là Việt Nam phải cam kết thực hiện những tiêu chuẩn quốc
tế về sự minh bạch, tính đồng bộ, tính công bằng và tính hợp lý. Với những
nỗ lực và kết quả đạt được, môi trường luật pháp của Việt Nam đã được cải
thiện đáng kể, nhất là trong giai đoạn 5 năm vừa qua. Tuy nhiên, hệ thống luật
pháp của Việt Nam còn nhiều yếu kém. Theo cam kết, nhiều luật cũ hết hiệu
lực, luật mới được ban hành nhưng thiếu hướng dẫn, do đó chưa triển khai được trên thực tế71.
- Về cán bộ quản lý và lực lượng lao động: Để chủ động đề ra được các
kế hoạch, lộ trình hội nhập trong lĩnh vực FDI phù hợp với tình hình kinh tế
trong nước, hạn chế các tác động tiêu cực và tăng cường các tác động tích cực
của tự do hoá FDI, Việt Nam cần đội ngũ quản lý giỏi và lao động lành nghề.
71 Về vấn đề môi trường pháp lý, điều mà các nhà tài trợ và các nhà đầu tư, doanh nghiệp mong muốn hiện nay là sớm có các văn bản hướng dẫn việc thực thi các luật mới tránh để tạo ra một khoảng trống khi mà các luật cũ đã hết hiệu lực, nhưng luật mới lại chưa có Nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện.
217
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ quản lý hiện nay của Việt Nam còn ít, thiếu kinh
nghiệm hội nhập. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ đòi hỏi phải có thời gian và kinh
phí. Đây là thách thức trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp và hệ thống giáo dục
chưa theo kịp thế giới.
Nguồn lao động phổ thông với những ưu điểm như cần cù, chịu khó và
có giá rẻ nhưng chuyên môn kỹ thuật yếu, thiếu tác phong công nghiệp và
không tôn trọng cam kết. Mặc dù tỷ lệ người biết chữ cao (chiếm 97%), tỷ lệ
người có bằng cấp trên đại học cũng tương đối cao, nhưng trên thực tế, số
người tiếp cận được với khoa học kỹ thuật, quản lý mới còn quá ít. Tính riêng
số lượng sinh viên tốt nghiệp khối kỹ thuật: Việt Nam đạt 30,6% trong tổng số, trong khi đó Trung Quốc là 64,2%, Singapore là 42%72. Như vậy, lợi thế
cạnh tranh về giá rẻ sẽ không còn là lựa chọn của các nhà đầu tư công nghệ cao.
Họ sẽ chọn đội ngũ lao động có tay nghề với giá hợp lý.
- Về quản lý nhà nước: Bên cạnh những cải cách về thủ tục hành chính
ở các khâu như thẩm định dự án, phê duyệt dự án ..., còn tồn tại một số quy
định phức tạp, gây phiền hà cho các nhà đầu tư như thủ tục ở một số lĩnh vực
xuất nhập khẩu, hải quan, đất đai.... Các thủ tục về thuế, thanh tra, kiểm tra
không nhất quán, chồng chéo, dễ thay đổi và còn hiện tượng hình sự hoá các
quan hệ kinh tế. Các giấy phép con vẫn tồn tại gây cản trở quá trình thực hiện
dự án kể cả khi nhà đầu tư đã được cấp phép. Bộ máy hành chính tồn tại
nhiều bất cập, tình trạng quan liêu, gây phiền hà cho nhà đầu tư của một số
cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng là một trong những cản trở
thu hút đầu tư, làm “mất điểm” môi trường đầu tư.
- Cạnh tranh thu hút FDI với các nước trong khu vực. Những cải cách
khá thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và thu hút FDI của
các nước trong khu vực đặt ra những thách thức trong thu hút nguồn vốn này
của Việt Nam. Môi trường luật pháp, chính sách đối với FDI của Việt Nam đã
được cải thiện mạnh trong thời gian gần đây và được các nhà đầu tư đánh giá
cao, tuy vậy, kết cấu hạ tầng, lao động, công nghiệp phụ trợ .... còn kém hấp
218
dẫn so với nhiều quốc gia trong khu vực. Hơn nữa, Việt Nam nằm trong khu 72 Một số ý kiến của các nhà đầu tư nước ngoài trong Hội nghị tư vấn của các nhà tài trợ cho rằng, giá nhân công ở Việt Nam rẻ nhưng lại hoá đắt so với các nước khác nếu so sánh tương quan giữa giá nhân công và năng suất lao động. Do đó, nhiều doanh nghiệp FDI thuê chuyên viên kỹ thuật người nước ngoài.
vực các quốc gia đều có chiến lược thu hút FDI như Trung Quốc, Ấn Độ ...,
do đó cạnh tranh thu hút nguồn vốn này ngày càng gay gắt.
Hình 7.7: So sánh cơ sở hạ tầng của các nước trong ASEAN
Sân bay 5
4.5
4
3.5
3
2.5
2
1.9
Viễn thông
Cảng biển
1.5
1
2.2
2
0.5
0
1.9
1.9
Điện lực
Giao thông
Singapore
Brunei
Malaysia
Thailand
Philippine
Indonesia
Việt Nam
Myamar
Laos
Cambodia
Nguồn:http://news.cens.com
* Điểm 5 cao nhất, điểm 0 thấp nhất
Việt Nam có ưu thế về tài nguyên, lao động trẻ và đông, giá nhân công
thấp ... nhưng những lợi thế này sẽ mất dần khi yêu cầu về chất lượng công
việc ngày càng cao. Những yếu tố khác như hạ tầng, công nghệ, dịch vụ, trình
độ lao động ... của Việt Nam kém các nước khác, trong khi đây là những yếu
tố ngày càng quan trọng cấu thành năng lực cạnh tranh FDI trong tương lai.
So sánh các yếu tố hạ tầng của Việt Nam với các nước ASEAN cho
thấy cả 5 lĩnh vực là viễn thông, điện lực, giao thông, cảng biển và sân bay
đều có điểm khá thấp, chỉ hơn Lào và Campuchia. Khi thực hiện các cam kết
219
trong khuôn khổ WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa hầu hết các lĩnh vực, dành
qui chế đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư nước ngoài, không còn duy trì
chính sách bảo hộ sản xuất trong nước và nếu môi trường đầu tư chậm được
cải thiện sẽ là những yếu tố cản trở trong thu hút FDI.
- Nguy cơ trở thành “bãi rác công nghệ”.
Xu thế tự do hoá FDI sẽ tạo thuận lợi cho các nước trong đó có các
nước đang phát triển đầu tư vào Việt Nam. Chính các quốc gia này đã tiếp
nhận công nghệ lạc hậu từ các nước phát triển và họ muốn chuyển giao những
công nghệ này cho các nước kém phát triển hơn để tiếp nhận thế hệ công nghệ
mới. Do vậy, nếu quản lý không tốt, Việt Nam có thể trở thành nơi tiếp nhận
những công nghệ lạc hậu. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian qua, do nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó có những yếu kém từ nội tại như trình độ cán bộ,
năng lực quản lý, khả năng tiếp cận thông tin ...., Việt Nam đã tiếp nhận nhiều
công nghệ lạc hậu trên thế giới thông qua FDI, làm ảnh hưởng đến môi
trường, đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế.
- Mất dần thị trường trong nước của các doanh nghiệp FDI. Với tư
cách thành viên WTO, các doanh nghiệp FDI có cơ hội thúc đẩy bán hàng vào
trong nước và xuất khẩu vào thị trường các nước thành viên còn lại. Bên cạnh
đó, các thành viên WTO cũng có thêm một thị trường mới, có cơ hội thúc đẩy bán
hàng, xuất khẩu hàng hoá của họ vào Việt Nam.
- Công tác xúc tiến đầu tư bộ lộ những yếu kém. Việc xúc tiến đầu tư,
thu hút FDI trong thời gian qua bộc lộ những yếu kém như chưa xác định rõ
ràng yếu tố hấp dẫn nhất của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong tương quan với các quốc gia khác trong khu vực73.
Công tác xúc tiến đầu tư bộ lộ một số hạn chế như không cập nhật
thường xuyên các thông tin mà nhà đầu tư quan tâm; chưa tìm hiểu kỹ tiềm
năng, thế mạnh hay nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư khác nhau đến từ các
73 Việt Nam đã đưa ra một loạt yếu tố như là điểm hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, chẳng hạn ổn định chính trị; ổn định kinh tế vĩ mô; vị trí địa lý lý tưởng; nguồn nhân lực trẻ và có kỹ năng; mức lương công nhân cạnh tranh (60-70% của Thái Lan, 18% của Singapore và 3-5% của Nhật Bản); kích cỡ thị trường triển vọng với dân số lớn và thu nhập đang tăng... nhưng chưa xác định điểm nào là yếu tố hấp dẫn nhất, qua đó tìm các biện pháp để tiếp tục cải thiện các yếu tố được coi là “điểm nhấn”.
220
quốc gia khác nhau; các thông điệp thường chung chung...
7.6. Một số giải pháp
Với mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2006-2010 dự kiến từ 7,5-8%/năm,
nền kinh tế Việt Nam sẽ cần khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư (giá
2005), trong đó vốn trong nước chiếm khoảng 65% và vốn nước ngoài chiếm
khoảng 35% ( bằng 49 tỷ USD). Trong cơ cấu vốn nước ngoài, theo dự kiến,
vốn ODA và vốn vay sẽ tăng chậm và như vậy, vốn FDI sẽ phải tăng rất
nhanh, khoảng 25 tỷ USD vốn thực hiện. Để đảm bảo thực hiện mục tiêu đề
ra, góp phần khai thác tốt nhất những tác động tích cực của WTO mang lại,
hạn chế các tác động tiêu cực, một số biện pháp trong thời gian tới có thể là:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách
Ban hành các chính sách phù hợp nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào
những ngành, lĩnh vực tạo ra năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế. Chú ý thu
hút đầu tư nước ngoài từ các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn lớn (nắm
giữ công nghệ cao, công nghệ nguồn). Ngoài ra, những ngành, lĩnh vực mang
lại giá trị gia tăng cao cũng cần có những chính sách cụ thể nhằm khuyến
khích đầu tư như tạo mẫu, thiết kế hoặc các lĩnh vực nghiên cứu, triển khai.
Hoàn thiện chính sách hỗ trợ khu vực nông nghiệp – nông thôn – nông
dân phù hợp với những ưu đãi của WTO, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước
ngoài vào khu vực này. Ban hành các qui định ưu đãi đối với đầu tư nước
ngoài vào các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp
và các ngành công nghiệp chế tác có lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, cần
hoàn thiện các chính sách hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài tới
phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, ô nhiễm môi trường.
Hoàn thành cổ phần hoá vào năm 2009 theo đề án tổng thể đã được Thủ
tướng phê duyệt nhằm tăng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán, qua
đó thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài, tạo vốn cho nền kinh tế.
Điều chỉnh qui định trong Luật Lao động về thời gian ký hợp đồng lao
động đối với những người được gia hạn từ lần thứ 2 trở đi (theo qui định là
phải ký hợp đồng lao động vô thời hạn) theo hướng phù hợp với các qui định
221
chung về lao động. Sửa đổi qui định trong Luật Đất đai theo hướng cho gia
hạn (có điều kiện) đối với các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng (nhất là
hạ tầng khu công nghiệp) vì thời gian đền bù giải phóng mặt bằng thường kéo
dài (có trường hợp trên 10 năm). Ngoài ra, cần tiếp tục công khai các yêu cầu
và điều kiện về cấp giấy phép trong từng lĩnh vực cụ thể.
Thứ hai, làm tốt công tác qui hoạch
Cần thực hiện tốt nghị định của Chính phủ về công tác lập, phê duyệt
và quản lý qui hoạch. Sớm rà soát, điều chỉnh những qui hoạch không phù
hợp với qui hoạch tổng thể và công bố rộng rãi để các nhà đầu tư nước ngoài
được biết. Công bố danh sách thu hút đầu tư nước ngoài gắn với qui hoạch
tổng thể; công bố chi tiết những ngành, lĩnh vực đầu tư, làm tốt công tác xúc
tiến đầu tư …. tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư lựa chọn phương án.
Qui hoạch ngành cần dựa trên qui hoạch tổng thể, đồng thời cần có qui
hoạch chi tiết, cụ thể làm cơ sở để các nhà đầu tư ra quyết định, đồng thời tạo
thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư. Đối với lĩnh vực nông
nghiệp, các qui hoạch cần ưu tiên là qui hoạch sử dụng đất, qui hoạch vùng
chuyên canh, qui hoạch sản phẩm mũi nhọn… Đối với công nghiệp, qui
hoạch các khu công nghiệp tập trung, các cụm công nghiệp vừa và nhỏ xa khu
dân cư đi đôi với di dời các khu công nghiệp trong nội thành, nội thị gây ô
nhiễm. Gắn qui hoạch khu công nghiệp với qui hoạch dân cư cho khu công
nghiệp. Đối với kết cấu hạ tầng, qui hoạch cần đảm bảo cho phát triển dài
hạn, gắn bó giữa các loại hình giao thông (đường bộ, đường thuỷ, đường hàng
không, đường sắt). Qui hoạch hạ tầng phải đảm bảo đi trước một bước.
Thứ ba, thu hút đầu tư nước ngoài qua chất lượng nguồn nhân lực
Điều chỉnh cơ cấu các trường đại học theo hướng tăng các trường
công nghệ phù hợp với xu thế phát triển và tình hình thực tiễn đặt ra. Đối với
đào tạo nghề, cần đa dạng hoá loại hình, kết hợp giữa đào tạo theo chương
trình cứng (giai đoạn 1) với các chương trình đào tạo mềm (giai đoạn 2), tăng
cơ hội lựa chọn môn học đối với sinh viên.
Gắn đào với nghiên cứu khoa học và thực hành thông qua liên kết đào
222
tạo giữa các trường đại học trong nước với các trường nước ngoài, giữa
trường với các doanh nghiệp, nhất là những lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ
thông tin, phát triển thị trường ... Chú trọng phát triển các ngành kỹ thuật và
luật pháp, tạo ra đội ngũ nhân lực có trình độ kỹ thuật cao, đội ngũ những
người am hiểu luật pháp và thông lệ quốc tế để đảm nhận vai trò cụ thể trong
quan hệ thương mại với đối tác nước ngoài, nhất là trong các tranh chấp
thương mại.
Hộp 7.4: Tập trung đầu tư cho nhân lực để đón dòng vốn FDI
Phát biểu tại Quốc hội tháng 10/2007, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nói Chính phủ sẽ tập trung đầu tư cho nguồn nhân lực cao nhằm đáp ứng nhu cầu đang tăng của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ông Nhân nói rằng năm 2006 trở lại đây là thời kỳ mới trong thu hút đầu tư nước ngoài và nhu cầu nhân lực chất lượng cao đang tăng lên nhanh chóng. Chẳng hạn Intel, nhà sản xuất bộ vi xử lý lớn nhất thế giới, đã đầu tư 1 tỷ USD vào Việt Nam, công ty sẽ cần 3.000 lao động, trong đó cần 1.000 kỹ sư, chủ yếu là thuộc ngành điện tử, tin học, tự động hoá.
Một trong những công ty hàng đầu thế giới về thiết kế, sản xuất vi mạch đến từ Nhật Bản đã triển khai xây dựng trung tâm tại Việt Nam. Công ty này cho biết sẽ tuyển khoảng 1.000 kỹ sư thiết kế bán dẫn.
Công ty Foxconn của Đài Loan cũng bắt đầu đầu tư vào Việt Nam. Tập đoàn này
dự kiến trong 5 năm sẽ đầu tư 5 tỷ USD và sử dụng trên 50.000 lao động.
“Vấn đề duy nhất mà cả ba nhà đầu tư đều lo lắng là không có đủ nhân lực trình độ cao mà lại rẻ so với các nước khác. Chẳng hạn, Intel cần tuyển đợt đầu 200 kỹ sư, thì tìm chưa được 100 người đạt yêu cầu...”, Phó thủ tướng nói.
Nguồn: Anh Minh (2007), “Tập trung đầu tư cho nhân lực để đón dòng vốn FDI”, Thời báo kinh tế
Sài gòn, số 45/2007 ngày 1/11/2007, tr.10.
Tăng chi ngân sách hàng năm để tăng cường giáo dục và đào tạo toàn
diện, nâng cao chất lượng lao động của Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của nhà
đầu tư nước ngoài về chất lượng, giá cả và kỷ luật lao động; nâng cao trình độ
chuyên môn của công chức nhà nước các cấp và lao động Việt Nam liên quan
đến công tác quản lý và trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Thực hiện chính sách giáo dục mang tính đón đầu ở một số
lĩnh vực như kỹ thuật, kỹ năng kinh doanh, năng lực quản trị.
Thứ tư, hoàn thiện tổ chức bộ máy và cán bộ
Các bộ chuyên ngành tăng cường vai trò hoạch định, điều hành chính
223
sách gắn với thanh tra, kiểm tra. Phân cấp mạnh cho các địa phương và các
ban quản lý khu công nghiệp trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Phân
định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của mỗi phòng ban chức năng gắn
với một cá nhân cụ thể được giao nhiệm vụ giải quyết công việc và chịu trách
nhiệm đối với những vấn đề liên quan phát sinh trong quá trình hoạt động. Cơ
quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài cần hoạt động mang tính hỗ trợ
cho các doanh nghiệp, từng bước chuyển từ phương thức cai quản sang hoạt
động theo nguyên tắc phục vụ.
Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản
lý nhà nước nói chung và cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài nói riêng. Đây là
lĩnh vực đòi hỏi cán bộ phải có năng lực nhất định về ngoại ngữ, về công
nghệ thông tin, về khả năng giao tiếp và những đặc thù văn hoá ở các vùng
khác nhau trên thế giới.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư
Thường xuyên cập nhật thông tin về xu thế phát triển của thị trường thế
giới, xu hướng đầu tư, mối quan tâm của các nhà đầu tư ở các quốc gia có
lượng đầu tư lớn vào Việt Nam; nghiên cứu chính sách đầu tư của các công ty
xuyên quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn để có những biện pháp phù hợp
nhằm tăng thu hút FDI, đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài. Thực
hiện nhiều hình thức truyền thông nhằm kêu gọi đầu tư như thông qua du lịch,
hội chợ, trao đổi thương mại, qua các trang web, qua các kênh thông tin đại
chúng trong nước và quốc tế; Tăng cường các đoàn vận động, xúc tiến đầu tư
ở nhiều cấp; Lựa chọn đặt văn phòng đại điện đầu tư ở những nước được xác
định là các nhà đầu tư lớn, đầu tư chiến lược; Thu hút, tạo điều kiện cho các
tập đoàn lớn thế giới mở văn phòng đại diện ở Việt Nam, khuyến khích họ
224
tìm dự án đầu tư.
1. Đinh Văn Ân: “Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ nhanh, bền
vững chất lượng cao ở Việt Nam”, NXB Thống kê, 2005
2. Mười lợi ích của hệ thống thương mại WTO, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2001. 3. Lê Xuân Bá, Việt Nam gia nhập WTO và nhu cầu cấp bách về phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, Thương nghiệp thị trường Việt Nam, 9/2004.
4. Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006), Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 15 năm từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản xuất, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 5. Phạm Thị Thanh Bình, Cải cách thương mại của Việt Nam trước khi gia nhập WTO,
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, 18/2004.
6. Doãn Kế Bôn, Nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng may mặc xuất khẩu khi WTO
xoá bỏ hạn ngạch dệt may vào năm 2005, Thương mại, 8/2004.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – DFI – UNDP (2001): Việt Nam hướng tới 2010 tập 1 và 2,
NXB Chính trị Quốc gia -2001.
8. Nguyễn Cảnh Chắt, Ảnh hưởng của việc gia nhập WTO đối với công nghiệp cơ khí chính
sách, Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 4/2002.
9. Nguyễn Kim Chi, Xu hướng chính sách thương mại Hoa Kỳ trong bối cảnh vòng đàm
phán mới của WTO, Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, số 2/2003.
10. Đại học quốc gia Hà Nội, Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO, Nhà xuất bản Thế
giới, Hà Nội, 2004.
11. Quốc Đạt, Giải đáp các vấn để về thủ tục gia nhập WTO, Nhà xuất bản Thế giới, Hà
Nội, 2005.
12. Đỗ Đức Định, Các nền kinh tế đang phát triển trong tiến trình tham gia WTO, Những
vấn đề kinh tế thế giới, số 59/1999.
13. Trung Đức, Gia nhập WTO một sự kiểm chứng nội lực Việt Nam, Con số và sự kiện, số
101/2003.
14. Nguyễn Cao Đức, “Các nhân tố quyết định đến lạm phát của Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 4, 2006.
15. Nguyễn Thị Kim Dung, Lao động Việt Nam khi gia nhập WTO, Lao động và xã hội,
247/2004.
16. Vũ Minh Giang, Juergen Wiemann, Hoàng Phước Hiệp, Việt Nam và tiến trình gia
nhập WTO, NXB Thế giới, H. 2005.
17. Việt Hà, Nông nghiệp Trung Quốc trước việc gia nhập WTO: Tác động và đối sách,
Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3/2003.
18. Hoàng Phước Hiệp, Tìm hiểu pháp luật chống bán phá giá của tổ chức Thương mại
thế giới và Hoa Kỳ, Luật học, số 1/2003.
19. Hà Đan Huân, Một vài suy nghĩ về ngành ngân hàng và quá trình đàm phán gia nhập
WTO, Ngân hàng, số 1+2/2003.
20. James M. Buchana.H, Toàn cầu hoá như một thứ được đóng khung bởi hai lập luận
lôgíc về thương mại, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, Hà nội, 2002.
21. Bernard Hoekman, Aaditya Mattoo, Philip English, Sổ tay về phát triển thương mại và WTO, Dịch: Nguyễn Mạnh Hùng ... ; H.đ.: Vũ Cương, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2004.
225
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
22. Phạm Minh, Pháp luật kinh doanh theo Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2001.
23. Dương Thị Bình Minh: Quản lý chi tiêu công ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp,
NXB Tài chính, 2005
24. Vũ Hồng Minh, Địa vị pháp lý của nước đang phát triển trong GATT/WTO - nghiên cứu về lĩnh vực thương mại nông nghiệp và dệt may, Luận án Tiến sĩ Luật học, Nagoya, 2003.
25. Vương Trung Minh (ch.b.), Bạch Tân Thu, Vương Tuyết Khánh, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO... , Lê Quang Lâm dịch, NXB Lao động, H. 2005. 26. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Thế giới 2006: Công bằng và phát triển, NXB
Văn hóa Thông tin, 2005.
27. Ngân hàng Thế giới (2006), Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 - Hướng đến tầm cao
mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Ngân hàng Thế giới, Công ty tài chính quốc tế (2007), Báo cáo môi trường kinh doanh
2008.
29. Lê Hữu Nghĩa, Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt nam, Thông tin những vấn
đề lý luận, số 6/2000.
30. Phan Thảo Nguyên, Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ của Tổ chức Thương mại Thế
giới, Nhà nước pháp luật, số 4/2003.
31. Từ Ninh, WTO và cải cách pháp luật ở Việt Nam, Dân chủ và pháp luật, số 7/2003. 32. Đỗ Hoài Nam (ch.b.), Lê Đăng Doanh, Võ Trí Thành, Các doanh nghiệp Việt Nam với
việc gia nhập WTO, NXB Khoa học xã hội, H. 2005.
33. Bùi Đường Nghiêu,“Đánh giá mức độ bền vững của ngân sách nhà nước Việt Nam
trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 1, 2006
34. Ngô Vĩnh Long (2005), Ai được, ai thua trong việc Trung Quốc vào WTO và một số
bài học có thể rút ra được cho Việt Nam.
35. Phan Thanh Phố, Việt Nam với tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới, NXB
Chính trị Quốc gia, H. 2005.
36. Phạm Thái Quốc, Kinh tế Trung Quốc một năm sau khi gia nhập WTO, Lý luận chính
trị, số 2/2003.
37. Farhang Rajaee, Khảo nghiệm về toàn cầu hoá, Hà Nội, 2002 38. Bùi Thiên Sơn, Tự do hoá dịch vụ tài chính trong khuôn khổ WTO: Kinh nghiệm các
nước, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, 2001.
39. Đỗ Tiến Sâm, Trung Quốc gia nhâp WTO kinh nghiệm với Việt Nam, NXB Khoa học
kỹ thuật, H.2005.
40. Bùi Tất Thắng (2006), WTO thường thức, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội. 41. Phạm Ngọc Thạch, Trung Quốc với việc thực thi các cam kết với WTO: Một số thách
thức đối với hệ thống pháp luật, Nghiên cứu Trung Quốc, số 1/2003.
42. Nguyễn Văn Thanh (chủ biên), Từ diễn đàn Siatơn - toàn cầu hoá và tổ chức thương
mại thế giới (WTO), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
43. Phan Chí Thành, Đàm phán gia nhập WTO và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam,
Nghiên cứu kinh tế, số 9/2003.
44. Nguyễn Văn Thanh, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với tiến trình toàn cầu hoá,
226
Cộng sản, số 3/2000.
45. Nguyễn Văn Thạo, Một số vấn đề về toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt nam
vào kinh tế thế giới, Thông tin lý luận, số 1/2000.
46. Đinh Trọng Thịnh, Hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam: Vấn đề và
giải pháp, Ngân hàng, số 2/2004.
47. Đinh Trọng Thịnh, WTO và các nền kinh tế yếu, Nghiên cứu kinh tế, 3/2004. 48. Nguyễn Văn Thường, Tăng trưởng kinh tế Việt Nam: những rào cản cần vượt qua, Lý
luận chính trị, 2005.
49. Trần Trọng Toàn, Đình Nguyên Khiêm (đồng chủ biên), Toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế của Việt nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
50. Phạm Quý Thọ: “Thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển,
số 5, 2005
51. Thông tin chọn lọc phục vụ lãnh đạo, số 4 – tháng 2/2006, Viện Khoa học tài chính. 52. Phạm Quang Thao (ch.b.), Nguyễn Kim Dũng, Nghiêm Quý Hào, Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới : Cơ hội và thách thức, NXB Chính trị quốc gia, H. 2005. 53. Hồ Thanh Tùng s.t., b.s, Trị giá tính thuế theo GATT - WTO - Doanh nghiệp Việt
Nam hội nhập - Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, NXB Văn hoá Thông tin, H. 2003.
54. Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại ICTC, WTO thương mại đầu tư Việt Nam trong tiến trình hội nhập = Vietnam trade investment in the process of integration / Dịch: Hoàng Nam Sơn, H. 2004.
55. Nguyễn Văn Thanh, Jane Kelsey, Hồ Vĩnh, Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con
đường đã chọn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Ngân hàng thế giới, Việt Nam sẵn sàng gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), Kỷ yếu diễn đàn Hà Nội 3-4/6/2003, TP.Hồ Chí Minh 6-7/6/2003). 56. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2003, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2004 57. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê 2004, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2005 58. Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, Toàn cầu hoá kinh tế lối thoát của Trung Quốc là ở
đâu, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
59. Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Việt Nam và các tổ chức kinh tế quốc tế,
Hà Nội, 2000.
60. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Toàn cầu hoá, quan điểm và thực tiễn
kinh nghiệm quốc tế, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1999.
61. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Việt Nam tích cực chuẩn bị gia nhập WTO trong một số lĩnh vực dịch vụ, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004. 62. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2004), Chính sách phát triển kinh tế: Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, tập 1 và 2, CIEM – UNDP, Dự án VIE 01/012, NXB Giao thông Vận tải
63. Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện Kinh tế Thế giới, Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - thời cơ và thách thức, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
64. Viện Kinh tế và chính trị thế giới (2006), Trung Quốc sau khi gia nhập WTO thành
công và thách thức, NXB Thế giới.
227
65. Viện Khoa học tài chính (2006), Những vấn đề nan giải trong phát triển kinh tế xã hội
của Trung Quốc hiện nay, Thông tin chọn lọc phục vụ lãnh đạo, số 5.
66. Viện nghiên cứu Trung Quốc (2005), Trung Quốc gia nhập WTO – Kinh nghiệm với
Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.
67. Văn hóa, thể chế, tăng trưởng Hàn Quốc và Thái Lan, Yoshihara Kunio, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
68. Nguyễn Văn Vĩnh, Kinh tế Trung Quốc sau một năm gia nhập WTO và một số ảnh
hưởng đến ASEAN, Kinh tế và dự báo, số 4/2003.
69. Bộ thương mại - Vụ chính sách thương mại đa biên, Kết quả vòng đàm phán Uruguay
về hệ thống thương mại đa biên, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội, 2000.
70. Bộ ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Tài liệu tham khảo phục vụ khoá bồi d- ưỡng kiến thức dành cho cán bộ và doanh nghiệp về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, Hà Nội, 2000.
71. Yan Wang (2005), Trung Quốc hậu WTO: Kinh nghiệm về điều phối chính sách. 72. Dr Ramkishen S. Rajan, Trade Liberalization, New Regionalism And Poverty Reduction In Asia And The Pacific, Expert Group Meeting on Regional Trade Agreements in Asia and the Pacific, Bangkok, 30 - 31 January 2003.
73. Anderson, Kym, "Globalization, WTO and ASEAN", ASEAN Economic Bulletin,
18(1), April 2001.
74. Robert Devlin - Lucio Castro, Regional Banks and Regionalism: A new frontier for Development Financing, INTAL - ITD - STA, Working Paper 13, Buenos Aires, October 2003.
75. Margaret C. Lee, African Countries - Pawns in the Trade War Between the US and EU,
SEATINI Bulletin Vol. 6, No. 16, 15 Oct 2003.
76. Oxfam Canada, What Rules and Policies Cause Hunger?, Oct 2002. 77. Application of Sanitary and Phytosanitary Measures (SPS Agreement). 78. Monikar Binder et staff, The Role of Risk and Cost - Benefit Analysis in Determining
Quarantine Measures, Productivity Commission, Australia, 2002.
79. Ramkishen S. Rajan, Rahul Sen and Reza Siregar, Singapore and the New Regionalism: Bilateral Economic Relations with Japan and the US, Adelaide University SA 5005, Australia, June 2001.
80. Zumwalt P., How WTO Membership Affects China, Economic Perspectives, Jan 2002 81. Asian productivity Organization (APO) – Annual report, 2004 82. ASEAN Development Outlook 2005 83. Deepak Bhattasali, Shantong Li, Will Martin, China and the WTO : Accession, policy, reform, and poverty reduction strategies, Ed. Washington, D.C - The World Bank - New York, Oxford univ., 2004.
84. Kym Anderson, Agriculture, trade reform and poverty reduction : implications for sub-
Saharan Africa, Geneva - New York - United Nations, 2004.
85. Merlinda D. Ingco, John D. Nash, Agriculture and the WTO : Creating a trading system for development, Washington, D.C; The World Bank, Oxford univ. press, 2004. 86. Fan Zhai and Shantong Li, The implication of accession to WTO on China’s economy,
The Development Research Center - The State Council, P.R China
228
87. David G. Mayes and Jiao Wang, China after WTO membership – A CGE analysis of
the impact of trade liberalisation, South Bank University, UK.
88. Một số website cung cấp thông tin - www.worldbank.com; www.undp.org; www.weforum.org - www.sbv.gov.vn; www.vnexpress.net; www.vietnamnet.vn; www.vir.com.vn; www.cpv.org.vn; www.industry.gov.vn; www.vcci.com.vn; www.mof.gov.vn; www.fetp.edu.vn; www.vva21.org;....
229
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ TUYỂN THẦU NĂM 2006
Mã số: B.06-50
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Cơ quan chủ trì: Viện Quản lý kinh tế
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ngô Quang Minh
Thư ký đề tài: Th.S Bùi Văn Huyền
KIẾN NGHỊ
Hà Nội – 2007
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
KIẾN NGHỊ
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ TUYỂN THẦU NĂM 2006
Mã số: B.06-50
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Cơ quan chủ trì: Viện Quản lý kinh tế
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ngô Quang Minh
Thư ký đề tài: ThS. Bùi Văn Huyền
Hà Nội - 2007
KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG CƠ CHẾ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Những tác động khi Việt Nam gia nhập WTO biểu hiện trên nhiều mặt, ở nhiều cấp độ và thay đổi theo từng thời kỳ, từng giai đoạn, chịu ảnh hưởng của các chính sách trong nước và những thay đổi của môi trường quốc tế. Trong phạm vi đề tài, do giới hạn về thời gian sau gia nhập của Việt Nam nên nhóm nghiên cứu chưa có đủ những dữ liệu ban đầu để tiến hành các phương
pháp đánh giá cần những số liệu thống kê đầy đủ. Sau một thời gian nhất định (ít nhất là sau 1 năm), những tác động đã khá rõ ràng và cơ sở dữ liệu đã được thống kê, cần có những đánh giá toàn diện, sâu sắc hơn. Về cơ chế đánh giá
tác động, đề tài kiến nghị một số nội dung sau:
1. Kiến nghị về cách tiếp cận phân nhóm trong đánh giá tác động
Đánh giá tác động không chỉ dừng lại ở những dữ kiện trong quá khứ mà còn bao hàm cả những dự báo trong ngắn hạn và dài hạn. Tuy vậy, những phân tích, tổng kết về tác động trong quá khứ có vai trò quan trọng, cho phép nhận
diện mối quan hệ của các chủ thể trong tương lai.
Nguồn số liệu cho các đánh giá cần đảm bảo tính chính xác, liên tục nhằm chỉ rõ những tác động trong quá khứ và xu hướng tác động trong tương
lai dựa trên những qui luật kinh tế khách quan.
Cơ chế đánh giá không cứng nhắc mà cần linh hoạt tuỳ thuộc đối tượng
nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu và mục đích nghiên cứu. Sự phối hợp giữa các phương pháp khác nhau trong nhiều trường hợp là cần thiết bởi chúng cung cấp những kết luận từ nhiều góc nhìn, qua đó, vấn đề cần phân tích được nhìn nhận
toàn diện hơn.
Đánh giá tác động của WTO đến nền kinh tế Việt Nam có thể tiếp cận
từ nhiều góc độ, trong đó đánh giá theo đối tượng tác động, theo thời gian và theo chủ thể hiện được sử dụng khá phổ biến và là một trong những cách tiếp cận tỏ ra phù hợp.
1.1. Đánh giá tác động theo đối tượng
Đánh giá tác động theo đối tượng có thể phân nhóm thành: (1) Tác động
1
theo ngành; (2) Tác động theo thành phần và (3) Theo chủ thể chịu tác động.
- Theo ngành, lĩnh vực: Đối tượng điều chỉnh của WTO liên quan đến rất nhiều lĩnh vực như thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, hệ thống
chính sách, quyền sở hữu .... Việc phân chia theo ngành, lĩnh vực chỉ mang tính tương đối trong đánh giá bởi các cam kết đan xen nhau, liên quan chặt chẽ với nhau (chẳng hạn cam kết về đầu tư liên quan chặt chẽ với các cam kết
quyền sở hữu trí tuệ...) và trong nhiều trường hợp, rất khó khăn khi “bóc tách” vấn đề để đánh giá. Việc phân chia theo ngành, lĩnh vực sẽ cung cấp phương pháp, nội dung phân tích bao quát, toàn diện hơn những tác động của WTO
đến nền kinh tế Việt Nam. Qua đó, từng ngành, lĩnh vực có thể xây dựng các phương án tổng thể, kế hoạch cụ thể để thực hiện cam kết, phát huy những kết quả tích cực trong việc gia nhập WTO.
Phân chia đánh giá tác động theo ngành có thể dừng lại ở ngành cấp I (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) hoặc ngành cấp 2 (chẳng hạn, trong công
nghiệp bao gồm gia dày, dệt may ...). Việc phân định ngành cấp I hay cấp II tuỳ thuộc vào yêu cầu phân tích và mục tiêu đặt ra nhưng cần đảm bảo tính bao quát toàn bộ nền kinh tế và những tác động lẫn nhau (một chính sách cho
một ngành nhưng tác động đến nhiều ngành, ngược lại, một ngành chịu sự điều chỉnh của nhiều chính sách).
Một điểm cần lưu ý khi phân ngành và đánh giá tác động là những tác động khác nhau tới các ngành. Tuỳ theo cam kết gia nhập mà những ngành khác nhau chịu tác động nhiều hay ít. Trong phân ngành cấp II của dịch vụ,
nhiều lĩnh vực hầu như không chịu tác động từ gia nhập, nhiều lĩnh vực khác sẽ chịu những tác động rất lớn (ngân hàng).
Theo cách phân chia ngành, lĩnh vực thuần tuý sẽ chỉ dừng lại ở phân ngành thống kê. Tuy nhiên, nội dung cốt lõi trong các hiệp định của WTO là tự do hoá thương mại và đầu tư, bên cạnh đó, hai lĩnh vực này có tầm quan
trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân trong hội nhập. Do vậy, lĩnh vực thương mại và đầu tư có thể được tách riêng để đánh giá mặc dù chúng đan xen, hiện hữu ở tất cả các ngành, lĩnh vực.
Cách phân ngành, lĩnh vực sẽ cung cấp bức tranh tổng thể về tác động của gia nhập WTO đến toàn bộ nền kinh tế cũng như đến các ngành, lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, cách phân loại này có nhược điểm là dễ trùng lặp trong
2
phân tích và rất khó khăn khi đánh giá tác động liên ngành.
- Theo thành phần kinh tế: Mặc dù còn nhiều ý kiến khác biệt về cách tiếp cận phân chia thành phần trong nền kinh tế, tuy nhiên, đánh giá tác động
theo thành phần cũng có ý nghĩa nhất định do đặc trưng khác nhau của mỗi thành phần (được điều chỉnh bởi những chính sách khác nhau, tính chất sở hữu giống nhau và có một số đặc điểm chung), nên những tác động của WTO
nên mỗi thành phần cũng sẽ khá rõ nét.
Đánh giá tác động theo thành phần cần bao quát được diễn biến của mỗi thành phần, chuyển dịch trong từng thành phần và sự tác động đối với
mỗi thành phần. Phân tích, đánh giá tác động của WTO đối với mỗi thành phần cần chỉ rõ những kết quả của quá trình sắp xếp, chuyển dịch dưới tác
động của gia nhập, nhất là đối với thành phần kinh tế nhà nước.
Phân tích, đánh giá theo thành phần cũng sẽ góp phần chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế của hoạch định và thực thi chính sách đối với mỗi thành phần;
điểm yếu, thế mạnh của từng thành phần trong hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, qua đó đề xuất những gợi ý chính sách phù hợp nhằm phát huy mọi thành phần kinh tế cho tăng trưởng và phát triển chung.
Phân tích tác động theo thành phần có thể kết hợp với những cách đánh giá, phân chia khác nhằm đảm bảo mục tiêu nghiên cứu. Tuỳ từng
trường hợp cụ thể, có thể kết hợp cách phân chia thành phần với phần chia theo đối tượng (ngành, lĩnh vực) hoặc chủ thể tác động (hiệp định). Chẳng hạn, phân tích tác động của Hiệp định đầu tư liên quan đến thương mại có
thể theo nhóm doanh nghiệp (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...).
- Theo chủ thể chịu tác động: Chủ thể chịu tác động đến cùng trong cam kết WTO nói riêng và các cam kết, chính sách, cơ chế ... nói chung là Chính phủ, người dân và doanh nghiệp. Cách phân chia này dựa vào chức
năng, vai trò của các chủ thể chịu tác động để phân tích, đánh giá.
Mỗi cam kết hay sự thay đổi chính sách đều tác động đến các chủ thể nêu trên với mức độ khác nhau, chẳng hạn đánh giá tác động của cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ tác động đến cả Chính phủ, đến doanh nghiệp và người dân. Tuy nhiên, Chính phủ, với vai trò chủ thể hoạch định và thực thi chính sách sẽ chịu tác động khác với doanh nghiệp và người dân (Chính phủ sẽ
3
giảm nguồn thu ngân sách, doanh nghiệp sẽ chịu áp lực cạnh tranh gay gắt
hơn). Với người dân, giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác động tuỳ theo “vai” nhất định, với vai trò là người sản xuất, người lao động, người dân sẽ chịu tác động
khác với vai trò là người tiêu dùng (một mặt, người lao động có thể mất việc làm, mặt khác, họ có nhiều lựa chọn hơn trong tiêu dùng với giá thấp hơn) ...
Phân tích, đánh giá theo đối tượng chịu tác động sẽ góp phần làm căn
cứ cho hoạch định và thực thi chính sách trên cơ sở lợi ích của các nhóm đối tượng trong xã hội.
1.2. Đánh giá tác động theo thời gian
Tác động theo thời gian bao gồm giai đoạn trước và sau gia nhập WTO. Trước khi gia nhập, kinh tế Việt Nam đã có những cải cách mạnh mẽ nhằm
từng bước tương thích, phù hợp với các nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Kể từ thời điểm gia nhập, Việt Nam phải thực hiện các qui định và điều lệ trong các hiệp định WTO, nghị định thư trong quá trình đàm phán. Tuy nhiên, do là nước
đang phát triển, Việt Nam được hưởng một số ưu đãi về thời gian và mức độ cam kết (được chuyển đổi trong một thời gian nhất định, một số cam kết được
thực hiện theo lộ trình). Vì vậy, tác động của WTO lên từng ngành, lĩnh vực, thành phần, chủ thể, sản phẩm .... là không giống nhau ở các thời điểm khác nhau. Để đánh giá tác động sát thực, phù hợp, cần có sự theo dõi, phân tích
theo định kỳ thời gian, theo các nội dung thực hiện. Tuy nhiên, việc phân định thời gian 6 tháng, 12 tháng ... không cứng nhắc, không giống nhau đối với những ngành, lĩnh vực khác nhau mà cần tuỳ thuộc vào các cam kết, việc thực
hiện cam kết và những thay đổi của môi trường. Một số sản phẩm nông nghiệp mang tính mùa vụ, có thể đánh giá theo thời gian ngắn (6 tháng) nhưng một số sản phẩm công nghiệp, dịch vụ, việc phân định thời gian như trên sẽ lãng phí và không cần thiết và có thể không chính xác (cần thời gian dài mới bộc lộ được những điểm mạnh, điểm yếu...).
Như vậy, đánh giá theo thời gian góp phần nhìn nhận những tác động của WTO toàn diện hơn, cụ thể hơn cho từng giai đoạn khác nhau; chỉ rõ những tác động khi có những thay đổi về chính sách tương ứng với thời gian thực thi cam kết.
1.3. Tác động theo chủ thể (Tác động từ các Hiệp định của WTO)
4
Phân tích tác động từ các hiệp định của WTO cho phép những nghiên
cứu chuyên sâu theo từng lĩnh vực, từng nội dung tương ứng với các qui định trong mỗi hiệp định.
Về lý thuyết, đánh giá những tác động từ các hiệp định được thực hiện bằng việc dẫn chiếu những nội dung trong hiệp định; phân tích lĩnh vực kinh tế trong nước chịu sự điều chỉnh hiệp định; phân tích, so sánh kết quả trước và
sau khi thực thi hiệp định để có những kết luận khoa học. Tuy vậy, trên thực tế việc đánh giá tác động từ các hiệp định rất khó khăn do mỗi hiệp định chứa đựng nội dung đồ sộ với rất nhiều qui định khác nhau. Hơn nữa, những thay
đổi từ khi thực thi hiệp định chưa hẳn đã do những tác động trực tiếp từ việc gia nhập WTO mà có thể do những nỗ lực cải cách trong nước, trong ngành.
Ngoài ra, việc bóc tách tác động của các hiệp định WTO với các hiệp định song phương và khu vực cũng gặp rất nhiều khó khăn.
2. Kiến nghị mô hình định lượng dùng trong đánh giá tác động
Sử dụng mô hình đánh giá nhằm chỉ rõ những thay đổi định lượng khi
gia nhập WTO, qua đó có những đánh giá xác thực hơn. Hiện nay, việc đánh
giá tác động của WTO đối với nền kinh tế thường sử dụng nhiều mô hình
đánh giá khác nhau như CGE, ARIMA, GTAP… , mỗi mô hình có những ưu
điểm và hạn chế nhất định.
- Mô hình CGE1: Trong thời gian ngắn sau gia nhập (sau 1 năm), các
phương pháp đánh giá có thể sử dụng mô hình cân bằng tổng thể CGE
(Computable General Equilibrium), kết hợp nguyên tắc cân đối đầu vào - đầu
ra (Input/Output) với các hàm kinh tế khác, tính toán mối quan hệ giữa các
ngành kinh tế theo 3 khu vực (nông nghiệp; công nghiệp - xây dựng; thương
mại - dịch vụ); xử lý và lồng ghép một hay nhiều hàm kinh tế vào bảng cân đối
liên ngành để định lượng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội trong cấu trúc quan hệ
giữa các ngành kinh tế; xây dựng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thu
nhập, tiêu dùng, tích luỹ, đầu tư.
Mô hình CGE tính toán dựa trên việc phân chia nền kinh tế thành các
1 Xem chi tiết mô hình CGE tại www.ipsard.gov.vn/News/mispa/Tap%20huan/cac%20hoa%20Tap%20huan%20dua%20len%20w eb/Bai%201.pdf
5
ngành khác nhau (ngành cấp I hay cấp II tuỳ thuộc mục tiêu phân tích). Do đó
mô hình này vừa có thể đánh giá được tác động đối với toàn bộ nền kinh tế,
vừa chỉ rõ những thay đổi đối với từng phân ngành cụ thể. Những thay đổi định
lượng thông qua mô hình CGE cũng cho phép chỉ rõ những thay đổi về chính
sách (trước và sau khi thực thi chính sách).
- Mô hình GTAP2: Được nhiều quốc gia sử dụng để đánh giá, dự báo tác
động của tự do hóa thương mại và đầu tư đối với nền kinh tế. Nhiều quốc gia
thành viên WTO đã sử dụng mô hình này nhằm dự báo những tác động và để
xuất giải pháp.
Mô hình phân tích thương mại toàn cầu GTAP (Global Trade Analysis
Project) cho phép phân tích tác động qua lại giữa các nền kinh tế với nhau trong
bối cảnh toàn cầu hóa. Ưu điểm của mô hình này là cho phép đánh giá tác động
không chỉ lên nền kinh tế nói chung mà còn đối với từng ngành sản xuất nói
riêng, và do vậy cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Mô hình GTAP
cũng có thể lượng hoá các tác động đối với các chỉ số chung của nền kinh tế
(GDP; GDP/người ...); của từng ngành (cấp I hoặc cụ thể hơn); của từng lĩnh vực
(thương mại, đầu tư...); của từng chủ thể (doanh nghiệp; hộ gia đình ...).
Ngoài 2 mô hình phổ biến nêu trên, trong mỗi lĩnh vực cụ thể có thể sử
dụng các mô hình khác nhau. Việc lựa chọn mô hình phù hợp quyết định sự thành công, tính chính xác trong đánh giá. Ứng dụng mô hình cũng cần xuất
phát từ mục tiêu, phạm vi nghiên cứu, năng lực thực hiện và quan trọng hơn là hệ thống thông tin, dữ liệu đầu vào.
3. Kiến nghị về điều kiện đảm bảo thực hiện đánh giá tác động
Thực hiện đánh giá những tác động với nền kinh tế Việt Nam có thể sử dụng mô hình phức tạp3 hoặc những phân tích đơn giản. Dù thực hiện bằng cách nào cũng cần hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin kinh tế - xã hội đầy đủ, có độ tin cậy cao. Để đảm bảo chất lượng của các đánh giá, đòi hỏi cần nâng cao chất lượng của thông tin, hạ tầng cơ sở cung cấp thông tin và năng lực của đội
2 Mô hình GTAP được Giáo sư Thomas Hertel xây dựng và phát triển tại Đại học Purdue (bang New Jersey, Hoa Kỳ) từ năm 1993. Cơ sở dữ liệu gần đây nhất của mô hình GTAP là GTAP.TAB phiên bản 6.2 năm 2003. Xem chi tiết mô hình GTAP tại https://www.gtap.agecon.purdue.edu/ 3 Việc sử dụng mô hình nhằm tăng tính định lượng, nâng cao khả năng dự báo.
6
ngũ cán bộ.
3.1. Về hạ tầng cung cấp thông tin kinh tế - xã hội
Hạ tầng thông tin bao gồm các nguồn lực thông tin, các cơ quan và hệ
thống thông tin. Để đảm bảo những phân tích, đánh giá khách quan, chính xác, hệ thống hạ tầng cung cấp thông tin kinh tế - xã hội cần đảm bảo tính chính xác, khách quan, kịp thời, liên tục và có hệ thống.
Hiện tại, hạ tầng thông tin ở Việt Nam còn chồng chéo, chưa cập nhật kịp thời, thiếu hụt ở một số lĩnh vực, sai lệch giữa các cơ quan công bố khác
nhau ... . Cơ sở dữ liệu thông tin kinh tế - xã hội thiếu hụt, nội dung thông tin nghèo nàn, khai thác qua mạng chưa thuận lợi, thiếu cơ chế phối hợp, tương tác thông tin. Mạng lưới cơ quan thông tin phân tán, tổ chức theo cơ cấu hành
chính, hoạt động chủ yếu dựa vào ngân sách.
Để phát triển hạ tầng thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và đánh giá tác động của việc Việt
Nam gia nhập WTO nói riêng, trong thời gian tới, Chính phủ cần tập trung lực lượng xây dựng các cơ sở dữ liệu về những vấn đề trọng điểm (phục vụ
đánh giá tác động của việc gia nhập WTO là một nội dung); tổ chức khai thác nhanh chóng, rộng rãi và có hiệu quả các cơ sở dữ liệu; mở rộng mạng lưới thông tin trong hệ thống thông tin kinh tế - xã hội quốc gia. Những cơ quan
thông tin tư liệu được nhận ngân sách phải có nghĩa vụ hỗ trợ và chia sẻ cho các cơ quan thông tin trong hệ thống quốc gia.
3.2. Chất lượng thông tin
Chất lượng thu thập và xử lý thông tin kinh tế - xã hội nói chung, thông tin phục vụ công tác đánh giá tác động của việc gia nhập WTO nói riêng có
độ tin cậy chưa cao. Nhiều cơ quan công bố cùng một dữ liệu thông tin nhưng có những sai số lớn. Nguồn thông tin từ các cơ quan trong nước và nước ngoài có nhiều khác biệt mặc dù được tiến hành theo cùng một phương pháp.
Dịch vụ và sản phẩm thông tin còn nghèo nàn. Nhiều nội dung thông tin chưa đáp ứng yêu cầu.
Để nâng cao chất lượng thông tin, trước mắt cần tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức trong mạng lưới các cơ quan thông tin; Thiết lập một quy trình xử lý và cung cấp thông tin nghiêm túc, chuyên nghiệp. Kết hợp giữa cung cấp
7
thông tin “thô” ở dạng cơ sở dữ liệu ban đầu và những thông tin cấp cao có
những phân tích, đánh giá của chuyên gia. Tăng cường phản biện thông tin của các nhà quản lý, của giới nghiên cứu và các tổ chức quốc tế.
3.3. Xây dựng bộ máy và cán bộ chuyên trách đánh giá những tác động
Hiện tại, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đang triển khai nhiều hình thức đánh giá tác động của việc gia nhập WTO theo địa phương, theo
lĩnh vực quản lý nhà nước dưới các hình thức như dự án, đề tài, chuyên đề nghiên cứu của tổ công tác ... Trong thời gian tới, Chính phủ có thể thành lập
nhóm chuyên gia chuyên trách đánh giá những tác động từ tổng thể đến cụ thể, kịp thời cung cấp những thông tin cần thiết, những dự báo phù hợp, làm căn cứ cho hoạch định và thực thi chính sách.
Tổ chức và trách nhiệm
Hiện tại, đã có nhiều công trình dưới dạng báo, tạp chí, đề tài ... đánh giá về cơ hội và thách thức, dự báo các tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO
đến tổng thể nền kinh tế hoặc đến từng ngành/ lĩnh vực/ sản phẩm ... nhưng còn thiếu những công trình tổng thể và những đánh giá cụ thể, sát thực, cập nhật.
Trong thời gian tới, Chính phủ có thể thành lập một tổ chức chịu trách nhiệm đánh giá tác động thường xuyên, định kỳ, trở thành kênh cung cấp thông tin chính thức, xác thực, hữu ích không chỉ với Chính phủ mà cả với
doanh nghiệp, với mỗi người dân. Tổ chức này cần có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thuộc các bộ, ngành, địa phương chuyên trách về tác động của
WTO, thống nhất từ trung ương đến địa phương và các ngành, lĩnh vực. Sau một thời gian nhất định, cơ chế đánh giá tác động mang tính tự động, phối hợp hai chiều giữa tổ chức ở cấp trên và các cấp cơ sở (các tổ chức cơ sở chịu
trách nhiệm thống kê, cung cấp thông tin, được hưởng lợi từ việc nhận được những phân tích, đánh giá ở tổ chức cấp trên...).
Những kết quả phân tích, đánh giá của tổ chức chuyên trách này sẽ hỗ
trợ cho các cơ quan Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, tìm kiếm giải pháp kịp thời, phù hợp, phát huy các tác động tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực; giúp doanh nghiệp nắm bắt thông tin, cơ hội kinh doanh; giúp người dân hiểu rõ những tác động đối với họ với tư cách người lao động và người tiêu dùng.
8
Hiện tại, hầu hết các bộ, ngành, địa phương đã thành lập bộ phận phụ
trách gia nhập WTO (hoặc hội nhập kinh tế quốc tế), do đó chỉ cần những điều chỉnh phù hợp sẽ tạo ra bộ máy đánh giá tác động hiệu quả.
Đội ngũ cán bộ
Chất lượng của các đánh giá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như năng lực cán bộ, hạ tầng thông tin.... Trong thời gian qua, nhiều dự báo thiếu chính xác4 (mặc dù công tác dự báo luôn gặp nhiều khó khăn và chịu tác động bất thường nhiều chiều), một phần nguyên nhân trên là do chất lượng của đội ngũ
cán bộ làm công tác phân tích, dự báo.
Trong thời gian tới, cần có biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo những người làm công tác dự báo, đáp ứng yêu cầu đất nước, phù hợp với điều kiện
thực tiễn Việt Nam (vận dụng linh hoạt các phương pháp đánh giá, đề xuất các giải pháp phù hợp, các dự báo chính xác trong điều kiện thiếu thông tin, dữ liệu... )
Để kịp thời chỉ ra những nhân tố tác động tích cực, tiêu cực của việc
gia nhập WTO tới toàn bộ nền kinh tế, tới từng ngành, “chúng ta cần phải có
cơ chế đánh giá toàn diện tác động của việc gia nhập WTO ngay từ năm đầu
tiên. Hàng quý, 6 tháng và một năm, nên đánh giá xem WTO đã tác động như
4 Những dự báo về chỉ số giá tiêu dùng, về xuất nhập khẩu, đầu tư ... năm 2006 khác xa so với thực tế. 5 Phát biểu của Đại sứ Việt Nam tại Thụy sĩ Ngô Quang Xuân.
9
thế nào đến tình hình xuất nhập khẩu, thị trường, xã hội. Phải sớm có cơ chế đánh giá này, chậm là nguy hiểm”5.
Phụ lục 1
Chi tiết về chế Độ đãi ngộ tối huệ quốc (Most - Favoured Nation - MFN)
Nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử.
Các lĩnh vực cho hưởng Đãi ngộ Tối huệ quốc
1. Thuế quan và khoản thu thuộc bất kỳ loại nào nhằm vào hay có liên hệ tới nhập khẩu và xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thành toán hàng nhập xuất, nhập khẩu (I.1-điều I mục 1- Hiệp định GATT). Hàng nhập khẩu từ nước thành viên bất kỳ không phải chịu thuế và/hoặc khoản thu nêu trên cao hơn hàng nhập từ một nước thành viên khác
2. Phương thức đánh thuế và thu các khoản nêu trên (I.1). Không được đánh thuế cụ thể với hàng từ một xuất xứ song lại đánh thuế phần trăm với hàng nhập từ xuất xứ khác,. hoặc thu thuế hay các khoản thu trên bằng ngoại tệ với hàng nhập từ xuất xứ này nhưng với hàng đó nhập từ xuất xứ khác thu bằng nội tệ...
3. Luật lệ và các thủ tục liên quan tới xuất nhập khẩu (I.1). Không áp dụng những thủ tục khác (ví dụ yêu cầu chứng từ bổ sung với một loại hàng) mang tính chất phân biệt đối xử giữa hàng có xuất xứ từ các nước thành viên khác nhau.
4. Thuế nội địa và mọi khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào (I.1). Không thu
phân biệt giữa hàng thuộc các xuất xứ khác nhau...
5. Mọi luật (quốc gia hay địa phương), quy tắc, quy định có tác động đến bán hàng, chào bán, mua, vận tải, phân phối hay sử dụng hàng trên thị trường nội địa (I.1) (ví dụ quy định về nhãn hàng, bao bì, đóng gói, hạn chế về vận chuyển hay kênh tiêu thụ, hay bất kỳ một biện pháp áp dụng riêng nào khác)... phải được áp dụng không mang tính phân biệt đối xử giữa hàng thuộc các xuất xứ khác nhau.
6. Các quy tắc định lượng nội địa điều chỉnh việc pha trộn, chế biến hay sử dụng tính theo khối lượng hay tỷ lệ(III.7). Ví dụ: quy định bắt buộc hay khuyến khích dùng một định lượng tối thiểu hàng nhập phải được áp dụng không mang tính phân biệt đối xử với hàng thuộc các xuất xứ khác nhau...
7. Thời gian trình chiếu phim điện ảnh (VI.b)
8. Đãi ngộ với hàng hoá quá cảnh (V.2 và V.6).
9. Các yêu cầu áp dụng với nhãn xuất xứ hàng hoá (IX.1) ...
10. áp dụng các hạn chế số lượng (XIII.1).
11. Hoạt động mua bán trong kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp thương mại Nhà nước (XVII.1). (Doanh nghiệp thương mại Nhà nước là những doanh nghiệp được dành riêng một độc quyền hay một đặc quyền trong kinh doanh theo định nghĩa của WTO không đồng nghĩa với doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước không chịu sự điều chỉnh của WTO).
Những ngoại lệ của Đãi ngộ Tối huệ quốc
1. Các ưu đãi khu vực (I.2 -> 4)
i
2. Điều khoản cho phép đãi ngộ đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang phát triển (quyết định của Các Bên Ký Kết- chữ Các Bên Ký Kết khi được viết hoa tất cả như vậy có nghĩa là hành động tập thể của tất cả các bên ký kết).
3. Mua sắm của Chính phủ (XVII.2)
4. Nhất thể hoá khu vực dưới hình thức liên minh thuế quan và khu vực mậu
dịch tự do (XXIV. 4 ->10)
5. Mậu dịch biên giới (XXIV.3)
6. Các ngoại lệ chung mang (XX)
7. Ngoại lệ vì lý do an ninh (XXI)
8. Miễn trách không phải thi hành một nghĩa vụ của GATT
9. Thuế chống bán phá giá và thuế đối kháng (VI)
ii
Phụ lục 2
Chế độ đãi ngộ quốc gia (National Treatment - NT)
Nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong nước
Các lĩnh vực cho hưởng Đãi ngộ Quốc gia
1. Các khoản thuế và khoản thu nội địa thuộc bất cứ loại nào;
2. Luật, quy tắc hay yêu cầu tác động tới bán hàng, chào bán, mua hàng, vận tải,
phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa (III.4);
3. Những quy tắc định lượng trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử
dụng sản phẩm tính theo khối lượng hay theo tỷ lệ(III.5).
Những ngoại lệ của Đãi ngộ Quốc gia
1. Mua sắm của Chính phủ (III.8). Tuy nhiên nếu một nước tham gia Hiệp định về
mua sắm của Chính phủ thì đây không còn là ngoại lệ nữa;
2. Thanh toán các khoản trợ cấp chỉ dành riêng cho các nhà sản xuất trong nước
(III.8.b);
3. Hạn ngạch về thời gian trình chiếu phim điện ảnh (III.10 và IV).
iii
Phụ lục 3
Những biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại (TRIMs)
* Hiệp định TRIMS chỉ áp dụng trong thương mại hàng hoá.
* Trong 13 biện pháp các nước đang phát triển thường áp dụng, được liệt kê dưới đây thì 5 biện pháp đầu (từ 1-5) bị coi là vi phạm nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia và Hạn chế về định lượng nên bị cấm áp dụng.
1.
Yêu cầu về hàm lượng nội địa (Local Content Requirements - LCRs). Đòi hỏi phải sử dụng một tỷ lệ nhất định nguyên liệu trong nước làm đầu vào của sản xuất.
2.
Yêu cầu cân đối thương mại (Trade Balance Requirements). Ràng
buộc nhập khẩu phải tương ứng với một tỷ lệ xuất khẩu nhất định.
3.
Yêu cầu cân đối ngoại tệ. Quy định ngoại tệ có thể sử dụng để nhập khẩu chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định trong tổng ngoại tệ doanh nghiệp thu được từ xuất khẩu hoặc từ các nguồn khác.
4.
Hạn chế hối đoái. Hạn chế tiếp cận ngoại hối và do đó hạn chế nhập
khẩu.
5.
Yêu cầu tiêu thụ nội địa. Buộc công ty bán tỷ lệ nhất định thành phẩm
trên thị trường nội địa mà thực chất là hạn chế xuất khẩu.
6.
Yêu cầu về chế tác. Đòi hỏi những sản phẩm nhất định phải được sản
xuất tại nước tiếp nhận đầu tư.
Quy định về xuất khẩu (EPRs). Quy định một tỷ lệ sản phẩm nhất định
7. phải xuất khẩu.
8.
Yêu cầu về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Buộc nhà đầu tư cung cấp cho một thị trường xác định một hoặc những sản phẩm theo chỉ định hoặc được sản xuất từ các thiết bị hay quy trình đã được quy định.
9.
Hạn chế về chế tác. Không cho phép sản xuất những sản phẩm hoặc
nhóm sản phẩm nhất định tại nước tiếp nhận đầu tư.
10. Yêu cầu về chuyển giao công nghệ. Quy định các công nghệ nhất định phải được chuyển giao theo các điều kiện phi thương mại và/hoặc dạng cũng như mức độ của các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R & D) phải được thực hiện tại nước chủ nhà.
11. Quy định về chuyển giao bản quyền. Buộc nhà đầu tư chuyển bản quyền
các công nghệ của họ cho nước chủ nhà.
12. Hạn chế chuyển vốn. Hạn chế quyền của nhà đầu tư được chuyển tiền thu
được từ hoạt động đầu tư về nước.
13. Yêu cầu về nắm giữ cổ phiếu. Quy định một tỷ lệ nhất định cổ phần của liên
doanh phải do các nhà đầu tư trong nước nắm giữ.
iv
Phụ lục 4
Một số điều khoản khác trong khuôn khổ hiệp định GATS
Một số điều khoản còn lại trong khuôn khổ Hiệp định GATS có thể được chia ra
làm hai nhóm chính.
A. Các điều khoản về tiếp tục đàm phán
Khuôn khổ Hiệp định này cho phép các nước thành viên tiếp tục tiến hành đàm phán để phát triển các quy tắc điều chỉnh việc sử dụng trợ cấp và việc áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại dịch vụ.
B. Các điều khoản về miễn trừ
Miễn trừ Tối huệ quốc. Miễn trừ này cho phép các nước được phép duy trì cách đối xử ưu đãi hơn mức cam kết trong GATS đối với một số nước theo các thoả thuận hợp tác khu vực hay các thoả thuận khác.
Hội nhập kinh tế. Hiệp định này cho phép các nước tham gia vào các thoả thuận tự do hoá thương mại với một số ít nước, với điều kiện là những lĩnh vực dịch vụ cơ bản phải được cam kết trong đó và phải tuân thủ một số điều kiện khác.
Hạn chế cán cân thanh toán. Các nước thành viên được phép áp đặt các hạn chế về chuyển khoản trong cán cân thanh toán, thậm chí cả ở trong các lĩnh vực mà họ đã đưa ra các cam kết cụ thể, khi cán cân thanh toán của các nước này gặp khó khăn.
Hội nhập vào thị trường lao động. Hiệp định này không ngăn cản các nước thành viên tham gia vào một thoả thuận với một nước khác về hội nhập hoàn toàn thị trường lao động giữa các nước này bằng cách miễn cho công dân của nhau những yêu cầu cấp phép lao động.
Ngoại lệ chung và ngoại lệ liên quan đến an ninh. Cũng giống như với thương mại hàng hoá, Hiệp định GATS không ngăn cản các nước áp dụng các biện pháp mà họ cho là cần thiết để bảo về các đạo đức xã hội, đời sống con người, động, thực vật; hay các quyền lợi an ninh cốt yếu của mình.
v
Phụ lục 5
Quyền sở hữu trí tuệ
thức của
Đối tượng
vi áp
sáng
Bằng chế
Phạm dụng Lĩnh vực chế tạo
Các phát minh mới trong lĩnh vực công nghiệp
Thiết kế vận hành
Các thoả thuận quốc tế chính Công ước Paris(*), Hiệp ước hợp tác về bằng phát minh sáng chế, Hiệp ước Budapest Công ước Paris
Các hình Quyền sở hữu trí tuệ Sở hữu công nghiệp
dáng
Thiết kế hữu ích Kiểu công nghiệp
bên sản
dáng của
Lĩnh vực chế tạo Quần áo, ô tô, thiết bị điện tử...
Các ngành
hiệu
Nhãn hàng hoá
với
Hiệp định Hague, Công ước Paris, Hiệp định Locarno Công ước Paris, Hiệp định Madrid, Hiệp định Nice, Nghị thư Madrid, định Hiệp định về luật thương hiệu Hiệp định Lisbon, Hiệp định Madrid
Bản quyền và các quyền liên quan
Sở hữu văn học và nghệ thuật
Công ước Berne(**), Công ước Rome(***), Công ước Geneva, Công ước Brussels, Công ước chung về bản quyền
nghiệp
của gây
Công nghiệp chế biến nông sản và thực phẩm, đặc biệt là rượu vang và rượu mạnh ấn phẩm, sản phẩm giải trí, nhìn, (nghe, phần phim), mềm, chương trình truyền thông Nông và thực phẩm
Kiểu ngoài phẩm Tên biểu hoặc tượng để phân biệt hàng hoá và dịch vụ của một doanh nghiệp các doanh nghiệp khác Chỉ dẫn địa lý Chỉ rõ xuất xứ của hàng hoá, qua đó thể hiện chất lượng hoặc các đặc điểm khác đặc trưng cho khu vực Nguyên tác của tác giả và các đóng góp liên quan của người thể hiện, nhà sản xuất băng đĩa, và tổ chức truyền thông. Các loài mới, ổn thuần nhất, định, đặc biệt
Quyền người giống
Liên minh bảo vệ các giống cây trồng mới (UPOV)
Bảo vệ các giống đặc thù Vi mạch
Thiết kế gốc
ước
Bí mật thương mại
thông
tin
Hiệp Washington
Bí mật thương mại
Công nghiệp vi điện tử Các ngành sản xuất
_____________________________________
(*)
Công ước Paris 1883, có tên gọi đầy đủ là Công ước về Bảo hộ Quyền Sở hữu công
nghiệp. Việt Nam đã tham gia Công ước này từ tháng 3 năm 1949.
(**)
Công ước về bảo hộ các tác phẩm văn hoá văn nghệ còn gọi tắt là Công ước Bern-1886. Nội dung chủ yếu cũng là dành đãi ngộ quốc gia và quy định tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu với những điều kiện dành riêng cho các nước đang phát triển.
(***)
Công ước quốc tế về bảo hộ những người trình diễn, người sản xuất các chương trình âm thanh và các tổ chức phát sóng, gọi tắt là Công ước Rome 1961. Nội dung chính của Công ước là chế độ đãi ngộ quốc gia và bảo hộ tối thiểu.
vi
Phụ lục 6: GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ
1. Các thuật ngữ chung
Hội nghị Bộ trưởng Cơ quan quyết định tối cao của WTO, bao gồm các Bộ
trưởng của tất cả các thành viên, nhóm họp ít nhất 2 năm 1 lần.
Đại hội đồng Cơ quan quyết định tối cao của WTO trong thời gian giữa các khoá họp của Hội nghị Bộ trưởng; bao gồm các đại diện của các thành viên WTO, thường là các nhà ngoại giao thường trú tại Giơnevơ.
Vòng đàm phán Uruguay Vòng đàm phán thương mại đa phương bắt đầu từ tháng 9 năm 1986 tại thành phố Punta del Esta ở Uruguay, và kết thúc tại Giơnevơ vào tháng 12 năm 1993. Các Bộ trưởng đã ký Biên bản cuối cùng ghi nhận các kết quả đạt được tại vòng đàm phán này tại hội nghị Bộ trưởng ở Marrakesh (Marốc) tháng 4 năm 1994.
GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại, là tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Phiên bản mới của hiệp định này từ nay là một phần trong các Hiệp định của WTO.
GATT 1947 Phiên bản cũ của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (trước
phiên bản GATT 1994).
GATT 1994 Phiên bản mới của GATT và là một phần của Hiệp định về WTO, điều
chỉnh các vấn đề về thương mại hàng hoá.
Các thành viên Các chính phủ thành viên đã gia nhập WTO.
MFN Quy chế tối huệ quốc (được ghi trong điều 1 của GATT 1994, điều 2 của GATS và điều 4 của Hiệp định TRIPS); là nguyên tắc bắt buộc một nước không được có sự phân biệt đối xử giữa các nước đối tác trong thương mại.
TPRB, TPRM Cơ quan kiểm điểm chính sách thương mại - khi Đại hội đồng nhóm họp theo những trình tự bất thường nhằm kiểm điểm chính sách và hoạt động thương mại của các thành viên WTO trong khuôn khổ một Cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại.
Chương trình tiếp nối Các công việc phải tiến hành sau năm 1995 được xác
định trong các Hiệp định của WTO.
Chế độ đối xử quốc gia Nguyên tắc bắt buộc một quốc gia phải dành cho đối tác nước ngoài cùng một chế độ đãi ngộ như đối với các thể nhân và pháp nhân trong nước. Điều III của GATT 1994 qui định các hàng hoá nhập khẩu sau khi hoàn thành thủ tục hải quan phải được đối xử giống như đối với hàng hoá cùng loại trong nước. Điều XVII của GATS và điều 3 của Hiệp định TRIPS cũng đề cập đến những qui định về nguyên tắc đối xử quốc gia trong thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ.
Minh bạch Sự đánh giá về tính công khai và dễ dự đoán của các chính sách và
tập quán thương mại cũng như quá trình triển khai chúng.
2. Thuế quan
ITA Hiệp định về công nghệ thông tin, còn gọi là Tuyên bố của các Bộ trưởng về thương mại sản phẩm công nghệ thông tin; theo hiệp định này đến năm 2000 các nước tham gia sẽ phải dỡ bỏ thuế quan đối với loại sản phẩm này.
vii
ITA II Các cuộc đàm phán nhằm mở rộng danh mục các sản phẩm trong Hiệp
định ITA.
Thương mai điện tử Các hình thức sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối
sản phẩm thông qua các mạng lưới viễn thông.
Cố định mức thuế trần Cam kết không được tăng thuế quan lên cao hơn mức đã thoả thuận. Trong trường hợp một mức thuế quan trần được ấn định, sẽ không được phép nâng thuế quan lên cao hơn mức này nếu không có hình thức bù lỗ cho bên bị thiệt hại.
Mức thuế đỉnh Mức thuế quan tương đối cao, thường được áp dụng đối với các sản phẩm "nhạy cảm" trong khi mặt bằng thuế quan chung lại thấp. Đối với các nước công nghiệp phát triển, mức thuế trần15% thường được coi là "mức thuế đỉnh".
Thuế quan Loại thuế áp dụng cho các mặt hàng nhập khẩu. Được tính theo giá trị hàng hoá (theo tỷ lệ phần trăm của giá trị hàng hoá) hoặc theo một cơ sở cố định (ví dụ 7 đô la trên 100 kg). Thuế quan sẽ tạo lợi thế về giá cho các sản phẩm nội địa cùng loại và là một nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Mức thuế hại Mức thuế quan thấp đến mức chi phí cho việc thu thuế còn cao
hơn số tiền thu được.
Free-rider hay quốc gia được hưởng lợi mà không cần phải có đi có lại Đây là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một nước không đưa ra các cam kết nhượng bộ trong thương mại nhưng lại được giảm thuế quan và có được sự nhượng bộ của các nước thông qua đàm phán trên cơ sở nguyên tắc tối huệ quốc.
Danh mục các nhượng bộ Danh mục các mức thuế trần được cố định.
WCO, Tổ chức Hải quan Thế giới, là một tổ chức đa phương có trụ sở ở Bruxelles; các nước thành viên thông qua vai trò trung gian của tổ chức này tìm cách đơn giản hoá và hợp lý hoá các thủ tục hải quan.
Thuế quan lũy tiến Đánh thuế các bán thành phẩm nhập khẩu cao hơn so với nguyên liệu nhập khẩu, nhưng thấp hơn so với với thành phẩm nhập khẩu. Đây là biện pháp để bảo vệ công nghiệp chế biến trong nước và hạn chế mọi hoạt động chế biến tại các nước có nguyên vật liệu.
HS Hệ thống điều hoà Danh mục ký hiệu quốc tế do Tổ chức Hải quan Thế giới thiết lập, gồm 6 con số cho phép các quốc gia thành viên dựa trên một cơ sở chung để phân loại hàng hoá tham gia trao đổi. Từ chữ số thứ 7, các nước có thể sử dụng các ký hiệu riêng trong phạm vi quốc gia để xác định thuế quan và các ứng dụng khác.
3. Biện pháp phi thuế quan
VRA, VER, OMA (Thoả thuận tự hạn chế, tự hạn chế xuất khẩu, thoả thuận về trao đổi mậu dịch có điều tiết) Thoả thuận song phương theo đó nước xuất khẩu hàng hoá (chính phủ hoặc một ngành sản xuất) tự giảm hoặc hạn chế xuất khẩu trong khi các nước nhập khẩu không sử dụng hạn ngạch, thuế quan hay các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác.
Lách luật Biện pháp mà các nhà xuất khẩu sử dụng để không phải trả thuế chống
bán phá giá hoặc thuế đối kháng.
Thuế chống bán phá giá Điều VI Hiệp định GATT 1994 cho phép áp dụng đối với hàng hoá bán phá giá một loại thuế chống phá giá ngang bằng với khoản chênh lệch giữa
viii
giá xuất khẩu và giá trị thực của hàng hoá bán phá giá nếu như việc bán phá giá gây thiệt hại cho các nhà sản xuất mặt hàng đó tại nước nhập khẩu.
Bán phá giá Hiện tượng bán phá giá xảy ra khi hàng hoá được xuất khẩu với giá thấp hơn giá trị của nó, điều này có nghĩa giá xuất khẩu thấp hơn so với giá bán trên thị trường nội địa hoặc thị trường các nước thứ 3, hoặc giá thành sản xuất.
Cam kết về giá Cam kết tăng giá xuất khẩu hàng hoá của nhà xuất khẩu để tránh
không bị đánh thuế bán phá giá.
Tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi mậu dịch, dỡ bỏ các rào cản hạn chế lưu
thông hàng hoá qua biên giới (ví dụ : đơn giản hoá các thủ tục hải quan)
PSI Giám định hàng hoá trước khi gửi hàng – Việc sử dụng dịch vụ của các công ty tư nhân chuyên nghiệp để kiểm tra chi tiết các chuyến hàng được xuất ra nước ngoài, ví dụ như kiểm tra giá, số lượng, chất lượng...
Các biện pháp đối kháng Biện pháp được các nước nhập khẩu áp dụng, thường dưới hình thức nâng thuế để đối lại các khoản trợ cấp mà nước xuất khẩu đã cấp cho các nhà sản xuất hay xuất khẩu.
Các biện pháp tự vệ Biện pháp được thực hiện để bảo hộ ngành sản xuất trong nước trước những áp lực của hàng hoá nhập khẩu - được qui định ở điều XIX của GATT 1994
Các biện pháp phi thuế quan Hạn ngạch, chế độ giấy phép nhập khẩu, qui định
kiểm dịch, các lệnh cấm,...
Qui tắc về xuất xứ Các đạo luật, qui định và thủ tục hành chính cho phép xác định xuất xứ của một sản phẩm. Một quyết định về xuất xứ của cơ quan hải quan có thể là cơ sở để xác định một chuyến hàng có nằm trong hạn ngạch được phép hay không, được hưởng ưu đãi thuế quan hay sẽ bị đánh thuế chống bán phá giá. Các qui tắc về xuất xứ có thể thay đổi tuỳ theo từng quốc gia.
QRs Biện pháp hạn chế số lượng – là các mức trần đặc biệt được đặt ra để hạn chế số lượng hoặc giá trị hàng hoá được phép nhập khẩu (hoặc xuất khẩu) trong một giai đoạn cụ thể.
Trợ cấp Có 2 loại trợ cấp phổ biến nhất : trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp trong nước. Trợ cấp xuất khẩu là việc chính phủ dành cho doanh nghiệp một lợi thế để xuất khẩu hàng hoá, còn trợ cấp trong nước là một lợi thế không trực tiếp liên quan đến xuất khẩu.
Thuế hoá Trình tự thủ tục liên quan đến các qui định về mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp, cụ thể là quá trình biến các biện pháp phi thuế quan thành các loại thuế.
4. Dệt may
MFA Hiệp định đa sợi (1974-1994). Trong khuôn khổ hiệp định này, các nước có thị trường dệt may bị rối loạn do việc gia tăng hàng nhập khẩu từ một nước khác, có thể tiến hành đàm phán để hạn chế số lượng hàng nhập khẩu.
ATC, Hiệp định dệt may của WTO nhằm đưa thương mại hàng dệt may vào
khuôn khổ các qui định của GATT trong thời gian 10 năm.
ITCB Văn phòng quốc tế về dệt may - Tổ chức có trụ sở ở Giơnevơ gồm 20 thành
viên là các nước đang phát triển xuất khẩu hàng dệt may.
ix
CTG - Hội đồng Thương mại hàng hoá có nhiệm vụ giám sát việc áp dụng các
Hiệp định của WTO về thương mại hàng hoá, kể cả ATC.
Lách luật Hành động né tránh các qui định về hạn ngạch và các hạn chế khác
bằng cách thay đổi nguồn gốc xuất xứ sản phẩm.
Cơ chế tự vệ tạm thời cho phép các nước thành viên áp dụng những biện pháp hạn chế đối với một số nước xuất khẩu nếu nước nhập khẩu có thể chứng minh được rằng tổng lượng hàng hoá nhập hoặc hàng nhập khẩu đến từ các nước trên tăng cao đến mức có thể đe doạ, gây thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất tương ứng trong nước.
TMB Cơ quan giám sát hàng dệt may, gồm một Chủ tịch và 10 thành viên, thực hiện nhiệm vụ trên danh nghĩa cá nhân, giám sát việc thực thi các cam kết đươc qui định trong ATC.
Chương trình hội nhập Chương trình cắt giảm các hạn chế theo 4 giai đoạn bắt
đầu từ 1 tháng 1 năm 1995 đến 1 tháng 1 năm 2005 theo qui định của Hiệp định đa sợi.
Sử dụng lại hạn ngạch Khi nước xuất khẩu sử dụng hạn ngạch xuất khẩu của
năm trước mà họ đã không sử dụng hết.
Chuyển đổi Khi nước xuất khẩu chuyển một phần hạn ngạch của mặt hàng này
sang mặt hàng khác bị hạn chế nhập khẩu.
Sử dụng trước thời hạn Nước xuất khẩu sử dụng một phần hạn ngạch của năm
sau.
5. Nông nghiệp/SPS
Lịch trình 2000 Các kế hoạch cải cách tài chính của EC giai đoạn 2000-2006 nhằm củng cố liên minh để tiếp nhận thêm các nước thành viên mới. Trong số các kế hoạch này, có cuộc cải cách về Chính sách nông nghiệp chung (CAP)
Phân loại biện pháp hỗ trợ Hỗ trợ trong nước. Hộp xanh lá cây: các biện pháp hỗ trợ không ảnh hưởng đến giao dịch hàng hoá và vì vậy không bị hạn chế. Hộp xanh da trời : biện pháp hỗ trợ liên quan đến sản xuất được phép áp dụng với điều kiện phải hạn chế sản xuất, và như vậy chỉ có ảnh hưởng tối thiểu đến trao đổi mậu dịch. Hộp hổ phách: biện pháp hỗ trợ được coi là có ảnh hưởng làm sai lệch giá cả và lượng hàng hoá trao đổi và vì vậy phải được cam kết cắt giảm.
Điểu khoản hoà hoãn Điều 13 của Hiệp định về Nông nghiệp qui định: các trợ cấp dành cho các sản phẩm nông nghiệp được nêu trong một cam kết của hiệp định này không thể bị xem xét lại vì qui định của các hiệp định khác trong khuôn khổ WTO, đặc biệt là Hiệp định về trợ cấp của GATT. Điều khoản này hết hiệu lực vào cuối năm 2003.
Codex Alimentarius Uỷ ban hỗn hợp của FAO và WHO có nhiệm vụ xây dựng
các qui chuẩn quốc tế về sự an toàn của các loại thực phẩm.
Sai lệch Tình huống trong đó giá cả và sản lượng hàng hoá cao hơn hoặc thấp
hơn so với mức thông thường của một thị trường có cạnh tranh.
Nhóm Cairns Nhóm các nước xuất khẩu nông sản đấu tranh ủng hộ tự do hóa trao đổi thương mại trong lĩnh vực này. Được thành lập vào năm 1986 tại Cairns (Ôxtrâylia) trước khi bắt đầu vòng đàm phán Uruguay. Bao gồm các nước sau: Nam Phi, Achentina, Ôxtrâylia, Braxin, Canađa, Chilê, Colombia, Fidji, Inđônêxia, Malayxia, Niu Dilân, Paraguay, Philippins, Thái Lan và Uruguay.
x
Đa chức năng, khái niệm theo đó nông nghiệp không phải chỉ có chức năng sản xuất lương thực và sợi, mà còn có chức năng bảo vệ cảnh quan môi trường, tạo việc làm ở nông thôn...
Văn phòng kiểm dịch động vật quốc tế, Văn phòng có nhiệm vụ xây dựng các
quy chuẩn quốc tế về sức khỏe động vật.
CAP, Chính sách Nông nghiệp chung của Liên minh châu Âu, là một hệ thống chi tiết với các mục tiêu sản xuất và cơ chế thương mại hoá nhằm tạo khuôn khổ cho hoạt động trao đổi thương mại nông sản giữa các nước trong nội bộ EU và giữa EU với thế giới bên ngoài.
Thuế khả biến Thuế suất thay đổi tuỳ theo giá cả trên thị trường nội địa.
Trợ cấp bù giá Trợ cấp của nhà nước dành cho người sản xuất một số mặt hàng, tương đương với mức chênh lệch giữa giá mục tiêu và giá trên thị trường nội địa hoặc lãi suất cho vay (chỉ số nào thấp hơn sẽ lấy chỉ số đó).
Chương trình phát triển xuất khẩu Chương trình hỗ trợ xuất khẩu của Mỹ để giúp các sản phẩm Mỹ có thể cạnh tranh với các nông sản xuất khẩu được trợ cấp của EU trên một số thị trường xuất khẩu.
Chương trình cải cách Chương trình nhằm giảm dần các khoản trợ cấp và các biện pháp bảo hộ, và thực hiện một số cải cách khác theo tinh thần của Hiệp định Nông nghiệp.
Bảo hộ ở khu vực biên giới Những biện pháp được áp dụng để hạn chế nhập
khẩu tại các cửa khẩu.
Qui định kiểm dịch động thực vật Những qui định được các chính phủ thông qua để bảo vệ sức khoẻ con người, các loài động thực vật, nhằm đảm bảo là thực phẩm khi tiêu thụ phải an toàn.
An ninh lương thực Khái niệm không khuyến khích việc mở cửa thị trường nội địa cho các sản phẩm nông nghiệp nước ngoài, với lý do một nước trong khả năng của mình về nguyên tắc phải tự thỏa mãn được nhu cầu lương thực thiết yếu.
Hỗ trợ trong nước Bao gồm tất cả các biện pháp có tác dụng giữ giá của nhà sản xuất ở mức cao hơn giá trên thị trường thương mại quốc tế, cụ thể gồm các biện pháp như trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất, trợ cấp bù giá, các biện pháp giảm chi phí sản xuất và thương mại chỉ được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp.
6. Sở hữu trí tuệ
Hiệp định Lisbonne Hiệp định do WIPO quản lý, có mục đích bảo vệ các chỉ dẫn
địa lý và quản lý việc đăng ký các chỉ dẫn địa lý quốc tế.
Hiệp định Madrid Hiệp định do WIPO quản lý nhằm phát hiện và loại bỏ những
chỉ dẫn giả hoặc đưa ra các thông tin sai lệch về các sản phẩm.
TRIPS Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
Hộp thư Yêu cầu nêu trong Hiệp định TRIPS đối với các nước thành viên WTO chưa có cơ chế bảo vệ dược phẩm và hóa phẩm dùng trong Nông nghiệp (ví dụ như bằng phát minh sáng chế)
CBD Công ước về đa dạng sinh học.
xi
Hàng giả Sử dụng nhãn mác đã đăng ký trên những sản phẩm cùng loại hoặc tương tự với sản phẩm đã đăng ký nhãn hiệu nhằm mục đích lừa đảo người tiêu dùng để họ tin rằng mình mua được hàng thật
Công ước Berne Hiệp ước do WIPO quản lý về quyền tác giả đối với các tác
phẩm văn học và nghệ thuật.
Công ước Paris Hiệp ước do WIPO quản lý nhằm bảo vệ quyền sở hữu công
nghiệp như bằng sáng chế, bản vẽ thiết kế hoặc kiểu dáng công nghiệp.
Công ước Roma Hiệp định do WIPO, UNESCO và ILO quản lý nhằm bảo vệ các
nghệ sĩ biểu diễn, người xuất bản, ghi âm, các tổ chức phát thanh truyền hình.
IP Quyền sở hữu trí tuệ.
Chỉ dẫn địa lý Tên các địa danh (hoặc các tên gọi gắn với một địa danh) được sử dụng để nhận dạng các sản phẩm có chất lượng, nổi tiếng hoặc có đặc trưng riêng vì chúng có xuất xứ từ địa danh này (Ví dụ: Champagne, Tequilla, Roquefort).
WIPO Tổ chức thế giới về sở hữu trí tuệ
Ăn cắp bản quyền Hành động sao chép lậu các thiết bị, sản phẩm đã đăng ký quyền tác giả vì mục đích thương mai, và các hoạt động buôn bán trái phép các loại hàng hoá sao chép.
Quyền sở hữu trí tuệ Bao gồm quyền sở hữu đối với các ý tưởng sáng tạo, nhất là các tác phẩm văn học nghệ thuật (được bảo hộ bằng quyền tác giả), quyền sở hữu đối với các phát minh, sáng chế (được bảo hộ bằng bằng sáng chế), quyền sở hữu đối với mẫu mã ký hiệu để phân biệt sản phẩm của một doanh nghiệp (được bảo hộ bằng thương hiệu) và các khía cạnh khác liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp.
Hiệp ước Washington Hiệp ước về bảo vệ sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch
tích hợp.
UPOV Liên đoàn quốc tế về bảo vệ các giống thực vật mới.
7. Đầu tư
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Nghĩa vụ bắt buộc cung cấp một sản phẩm, nghĩa vụ phải xuất khẩu hàng hoá
sang một nước hoặc một khu vực khác của nhà đầu tư.
TRIMs Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại.
Yêu cầu liên quan đến cân bằng trong trao đổi mậu dịch Nhà đầu tư được yêu
cầu phải sử dụng tiền xuất khẩu hàng hoá để thanh toán chi phí nhập khẩu
Yêu cầu liên quan đến tỷ lệ nội địa Nhà đầu tư phải sử dụng một tỉ lệ nhất định
nguyên vật liệu trong nước trong hàng hóa mà mình sản xuất.
Yêu cầu liên quan đến xuất khẩu hàng hóa Một tỉ lệ hàng hóa nhất định phải
được xuất khẩu ra nước ngoài.
8. Giải quyết cạnh tranh
Mất hoặc giảm các lợi thế Ảnh hưởng tiêu cực đến các ưu thế và triển vọng mà một nước có thể có nhờ qui chế thành viên của WTO vì một nước khác đã điều chỉnh chế độ mậu dịch hoặc không chấp hành nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ WTO.
xii
Tính tự động Tiến bộ đạt được một cách "tự động" theo thời gian trong quá trình giải quyết tranh chấp, thể hiện ở việc thành lập các nhóm chuyên gia, xác định thẩm quyền và thành phần của các nhóm chuyên gia và các trình tự thông qua quyết định
Nhóm chuyên gia Gồm 3 chuyên gia do DSB lập ra để giải quyết một vụ tranh
chấp cụ thể và đưa ra các khuyến cáo theo tinh thần các qui định của WTO.
Bản ghi nhớ về giải quyết tranh chấp Qui ước của Vòng đàm phán Uruguay về
các nguyên tắc và trình tự giải quyết các tranh chấp.
DSB - Cơ quan giải quyết tranh chấp, khi Đại hội đồng WTO nhóm họp để giải
quyết các tranh chấp
Cơ quan phúc thẩm, là một cơ quan độc lập gồm 7 thành viên có nhiệm vụ xem xét các nhận định nêu trong báo cáo của nhóm chuyên gia theo đề nghị của một trong các bên tranh chấp.
9. Dịch vụ
GATS, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO.
Cam kết Cam kết tự do hóa thương mại dịch vụ mà các nước thành viên sẵn
sàng thực hiện.
Cam kết cụ thể (xem từ : Danh sách các cam kết cụ thể)
Danh sách các cam kết cụ thể Danh sách các cam kết của một thành viên WTO
về mở của thị trường và các ràng buộc về chế độ đối xử quốc gia.
Danh sách quốc gia Các danh sách thuế quan trong phụ lục của Hiệp định GATT xác định các cam kết đã được các thành viên WTO chấp nhận một cách tự nguyện hoặc thông qua đàm phán.
Phương thức cung cấp Cách thức mà sản phẩm dịch vụ được cung cấp hoặc tiêu thụ trong trao đổi thương mại quốc tế. Phương thức 1: qua biên giới. Phương thức 2: tiêu thụ ở nước ngoài. Phương thức 3: qua cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài. Phương thức 4: qua sự di chuyển của các thể nhân.
Đa phương thức Phương pháp vận chuyển sử dụng nhiều hơn một loại phương tiện vận tải.Vì các mục đích đàm phán trong khuôn khổ GATS, thuật ngữ này được sử dụng chủ yếu để chỉ các dịch vụ “đưa đến tận nhà” gồm vận tải đường biển.
Nghĩa vụ chung Những nghĩa vụ được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực thương
mại dịch vụ khi Hiệp định có hiệu lực thi hành.
Đề xuất Đề xuất tăng cường tự do hóa lĩnh vực dịch vụ của một nước.
Thể nhân Khái niệm chỉ các cá nhân, trái với khái niệm pháp nhân chỉ các tổ
chức, doanh nghiệp.
Đại diện thương mại Việc có một văn phòng, một chi nhánh thương mại ở nước
ngoài.
Nghị định thư Là những hiệp định bổ sung của GATS. Nghị định thư thứ hai liên quan đến những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính được đưa ra vào năm 1995. Nghị định thư thứ 3 đề cập đến sự đi lại của các thế nhân.
Cẩn trọng Thuật ngữ này được dùng trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, liên quan đến việc các cơ quan nhà nước quản lý thị trường nhằm bảo vệ các nhà đầu tư và những người gửi tiền tiết kiệm và để tránh sự bất ổn và các cuộc khủng hoảng
xiii
Phí phân bổ Một loại phí trong lĩnh vực viễn thông. Đây là phí do nhà khai thác hệ
thống điện thoaị trong nước thu về từ tiền các cuộc thoại gọi đến từ nước ngoài .
10. Các tổ chức khu vực/ Thương mại và phát triển
ACP, Tổ chức các quốc gia châu Phi, vùng Caribê và Thái Bình Dương. Gồm 71 nước có những ưu đãi trong quan hệ thương mại với Liên minh châu Âu trong khuôn khổ Công ước Lomé.
EFTA Tổ chức thương mại tự do châu Âu.
NAFTA Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ gồm Canađa, Mỹ và Mêhicô.
ASEAN, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Bảy nước ASEAN là thành viên WTO (Brunây, Inđônêxia, Malayxia, Myanmar, Philippins, Singapor và Thái Lan) thường bày tỏ quan điểm về các vấn đề được nêu trong khuôn khổ WTO với tư cách là một nhóm thống nhất. Các nước thành viên ASEAN còn lại là Lào và Việt Nam.
APEC Diễn đàn hợp tác khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
CARICOM Cộng đồng và Thị trường chung của vùng Caribê gồm 15 nước.
CTD Uỷ ban về thương mại và phát triển WTO
ITC Trung tâm thương mại quốc tế được thành lập từ hiệp định GATT, hiện nay do WTO và Liên hợp quốc đồng quản lý. Liên hợp quốc tham gia quản lý thông qua UNCTAD. ITC là trung tâm điều phối hợp tác kỹ thuật và thúc đẩy thương mại ở các nước đang phát triển.
EC Các cộng đồng châu Âu (Tên chính thức của Liên minh châu Âu ở WTO).
UNCTAD Hội nghị LHQ về thương mại và phát triển.
UNCITRAL Uỷ ban LHQ về Luật thương mại quốc tế, có nhiệm vụ soạn thảo văn
bản luật, ví dụ như các văn bản trong lĩnh vực mua sắm chính phủ.
Cộng đồng Andean gồm Bôlivia, Côlômbia, Ecuađo, Pêru và Vênêzuêla
G7 Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển nhất gồm : Đức, Canađa, Mỹ, Pháp,
Italia, Nhật Bản, Anh.
G15 Nhóm 15 nước đang phát triển tạo nên cơ quan chính trị chính của Phong
trào không liên kết.
G77 Nhóm các nước đang phát triển được thành lập năm 1964 sau khi kết thúc
khoá họp đầu tiên của UNCTAD (ban đầu chỉ có 77 nước, hiện nay lên đến 130 nước).
GRULAC Ttổ chức không chính thức các nước Mỹ la tinh là thành viên WTO.
MERCOSUR gồm có Achentina, Braxin, Paraguay và Uruguay.
LDCs Các nước chậm phát triển nhất.
Nhóm bộ tứ gồm Canađa, Mỹ, Cộng đồng châu Âu và Nhật Bản
HLM, Hội nghị thượng đỉnh WTO về các nước chậm phát triển, họp tại Giơnevơ
tháng 10/1997.
SACU Liên đoàn Hải quan Nam phi, gồm Nam Phi, Botswana, Lesotho, Namibia
và Swaziland.
GSP Hệ thống ưu đãi phổ cập – các chương trình ưu đãi thuế quan của các nước
phát triển dành cho hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển
xiv
Đối xử đặc biệt và ưu đãi, các chế độ điều khoản ưu đãi trong các hiệp định
WTO dành cho các nước đang phát triển.
Liên minh thuế quan Các nước thành viên trong liên minh cùng áp dụng một
mức thuế quan chung cho hàng hóa từ bên ngoài nhập vào (ví dụ Liên minh châu Âu).
Khu vực thương mại tự do Thuế quan sẽ được bãi bỏ trong giao dịch giữa các nước thành viên, nhưng các nước thành viên sẽ tự qui định một mức thuế nhập khẩu riêng đối với các nước thứ 3 (Ví dụ Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA).
11. Thương mại và môi trường
Agenda 21 Chương trình hành động 21, là tuyên bố được thông qua tại Hội nghị
thượng đỉnh LHQ về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro năm 1992.
LCA phương pháp phân tích vòng đời cho phép đánh giá một loại sản phẩm hay
dịch vụ có ảnh hưởng đến môi trường hay không.
MEA Hiệp định đa phương về môi trường.
BTA Điều chỉnh thuế tại cửa khẩu.
Điều XX Điều khoản của GATT qui định các « ngoại lệ » được phép không phải
tuân theo các qui tắc thương mại.
CTE Uỷ ban về thương mại và môi trường của WTO.
CITES Hiệp ước về thương mại quốc tế cấm buôn bán các loài động thực vật có
nguy cơ tiệt chủng.
Công ước Basel Một hiệp định đa phương về môi trường liên quan đến các chất
thải nguy hiểm.
Ngoại lệ Qui định của các thành viên WTO cho phép một thành viên không phải chấp hành những cam kết thông thường. Qui chế ngoại lệ chỉ giới hạn trong một khoảng thời gian nhất định và mọi yêu cầu kéo dài thời hạn đều phải có lý do chính đáng.
Ex ante, ex post, trước và sau khi áp dụng một biện pháp.
TBT Hiệp định của WTO về các rào cản kỹ thuật trong thương mại.
PPM, Quy trình và phương pháp sản xuất.
Nghị định thư Montréal, Hiệp định đa phương về môi trường liên quan đến vấn
đề suy giảm tầng ô zôn.
EST, Công nghệ hợp lý không có hại cho môi trường.
EST&P, Công nghệ hợp lý không có hại cho môi trường và các sản phẩm được
sản xuất bằng công nghệ này.
xv
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ TUYỂN THẦU NĂM 2006
Mã số: B.06-50
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
Cơ quan chủ trì: Viện Quản lý kinh tế
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ngô Quang Minh
Thư ký đề tài: Th.S Bùi Văn Huyền
CÁC CHUYÊN ĐỀ
Hà Nội - 2007
MỤC LỤC
Trang
Một số vấn đề chung về Tổ chức Thương mại Thế
ThS. Ngô Thị Ngọc Anh
giới ...........................................................................
1
Những hệ quả bất lợi từ WTO đối với các nước
TS. Trịnh Thị Ái Hoa
30
đang phát triển ........................................................
Suy nghĩ về những thách thức về chính sách, thể
PGS.TS Kim Văn Chính
chế quản lý của Việt Nam thời kỳ hậu hội nhập
WTO ......................................................................... 41
Cơ hội và thách thức với kinh tế Việt Nam khi gia
ThS. Bùi Văn Huyền
nhập WTO ...............................................................
53
Tác động của việc gia nhập WTO tới thương mại
TS. Đặng Ngọc Lợi
Việt Nam - Những dự báo và giải pháp .................... 62
Tác động gia nhập WTO đến hoạt động thương mại
ThS. Nguyễn Thị Kim Đoan
của Việt Nam ............................................................ 91
Gia nhập WTO: Tác động đối với công nghiệp Việt
PGS.TS Ngô Quang Minh
Nam .........................................................................
105
Những tác động đối với nông nghiệp khi Việt Nam
ThS. Nguyễn Xuân Phi
gia nhập WTO .......................................................... 128
Tác động của việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
ThS. Nguyễn Văn Chiến
đến các doanh nghiệp Việt Nam ............................................. 146
Kinh nghiệm của Trung Quốc trong điều chỉnh chính
TS. Nguyễn Quốc Thái
sách tài khoá sau khi gia nhập WTO ........................ 155
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
ThS. Ngô Thị Ngọc Anh
1. Sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (gọi tắt theo tiếng Anh là GATT) là một trong những thành quả của việc tổ chức lại các quan hệ kinh tế quốc tế sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Ban đầu, với sáng kiến của Mỹ, các chuyên gia kinh tế Mỹ, Anh đã bắt tay soạn thảo những nội dung chính nhằm thiết lập một tổ chức kinh tế quốc tế sau chiến tranh.
Mặc dù đã đạt được những thành công lớn, nhưng đến cuối những năm 80, đầu 90, tình hình thương mại quốc tế có nhiều thay đổi, GATT bắt đầu tỏ
ra có những bất cập, không theo kịp tình hình.
- Khiếm khuyết lớn nhất của GATT là tính chất “tạm thời” của hiệp định này với tư cách là một “điều ước quốc tế”. GATT không phải là tổ chức
quốc tế nên đã gây ra những tranh cãi về tư cách thành viên. Trường hợp của Trung Quốc là ví dụ: Quốc gia này đã tham gia ký kết ban đầu như “thành viên sáng lập” của GATT. Tháng 7/1986, Trung Quốc đệ đơn khôi phục tư cách thành viên ký kết ban đầu nhưng không được các chuyên gia pháp lý của GATT chấp thuận với lý do đây không phải là tổ chức quốc tế, vì vậy không
thể áp dụng qui định kế thừa hay khôi phục tư cách thành viên.
- Những thành công của GATT trong việc giảm và ràng buộc thuế quan ở mức thấp cộng với một loạt các cuộc suy thoái kinh tế trong những năm 70 và 80 đã thúc đẩy các nước xây dựng các loại hình bảo hộ phi thuế quan để đối phó với hàng nhập khẩu, đồng thời thực hiện nhiều hình thức hỗ trợ và trợ cấp. Những biến đổi này có nguy cơ làm giảm và mất đi những giá trị mà việc giảm
thuế quan mang lại cho thương mại quốc tế. Trong khi đó, phạm vi của GATT không cho phép đề cập một cách cụ thể và sâu rộng đến các vấn đề này.
- Khi GATT được thành lập năm 1948, Hiệp định này chủ yếu điều tiết
thương mại hàng hoá hữu hình. Đến những năm 80, GATT đã không còn
thích ứng với thực tiễn thương mại thế giới bởi sự phát triển nhanh chóng của
1
các lĩnh vực thương mại dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng
không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, tư vấn... . Cùng với các loại hình
thương mại dịch vụ, các vấn đề thương mại trong đầu tư và bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ liên quan đến thương mại đã phát triển nhanh chóng và trở thành
một bộ phận quan trọng của thương mại quốc tế, đòi hỏi những thay đổi sâu
rộng trong các hiệp định cũng như mô hình tổ chức.
- Một số khiếm khuyết trong lĩnh vực thương mại hàng hoá dần bộc lộ.
Chẳng hạn trong nông nghiệp và dệt may, các cố gắng tự do hoá thương mại
đã không đạt được thành công như mong muốn. Kết quả là còn rất nhiều
ngoại lệ với các quy tắc chung trong hai lĩnh vực thương mại này.
- Cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng tỏ ra
không thích ứng với tình hình thế giới. Thương mại quốc tế ở những năm 80
và 90 đòi hỏi phải có một tổ chức thường trực, có nền tảng pháp lý vững chắc
để đảm bảo thực thi các hiệp định, quy định chung của thương mại quốc tế,
trong khi đó GATT chỉ là một hiệp định. Về hệ thống giải quyết tranh chấp,
GATT chưa có một cơ chế điều tiết thủ tục tố tụng chặt chẽ, không đưa ra
một thời gian biểu nhất định, do đó, các vụ việc tranh chấp thường bị kéo dài,
dễ bị bế tắc. Để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách hiệu quả, hệ
thống này cần phải được tổ chức lại.
Nhận thức rõ những khiếm khuyết đó, các bên tham gia GATT đã nỗ
lực để củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên. Từ năm 1986 đến
1994, Hiệp định GATT và các hiệp định phụ trợ của nó đã được các nước
thảo luận sửa đổi và cập nhật để thích ứng với điều kiện thay đổi của môi
trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947, cùng với các quyết định
đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT 1994. Một số
hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Dệt
may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với GATT 1994, chúng tạo
thành các yếu tố của các Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại
Hàng hoá. Vòng đàm phán Uruguay cũng thông qua một loạt các quy định
mới điều chỉnh thương mại Dịch vụ và Quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại. Một trong những thành công lớn nhất của vòng đàm phán lần này
2
là các nước đã cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập WTO, bắt đầu đi vào
hoạt động từ ngày 1/1/1995.
2. Mục tiêu, chức năng, nguyên tắc hoạt động
Mục tiêu trực tiếp của WTO được nêu trong tuyên bố thành lập nhằm Xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi hơn1 theo hướng tạo ra những thoả thuận và cam kết tương hỗ của các thành viên nhằm giảm đáng kể thuế, hàng rào cản trở thương mại và loại bỏ sự phân biệt
đối xử trong TMQT. Có thể cụ thể hoá mục tiêu của WTO theo ba giác độ: kinh tế, chính trị, xã hội.
Mục tiêu kinh tế của WTO là đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế
theo hướng tự do. Thông qua việc thiết lập hệ thống các cam kết đa phương, WTO hướng đến tạo lập và duy trì môi trường thương mại tự do có thể quản lý được, hướng các quốc gia tới việc thực thi chính sách thương mại ổn định,
minh bạch, có thể dự đoán được nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư kinh doanh có thể ra các quyết định đúng, nhờ đó không chỉ các quốc gia tham gia
thương mại quốc tế có thể tăng trưởng việc làm, thu nhập và phát triển bền vững, mà nền kinh tế thế giới cũng đạt tới trạng thái hiệu quả.
Mục tiêu chính trị của WTO là thiết lập một thể chế pháp lý toàn cầu
cho phép duy trì môi trường thương mại ổn định, khuyến khích thương mại tự do, hạn chế các quốc gia đưa ra các chính sách thương mại tuỳ tiện làm tổn hại đến quá trình phát triển thương mại quốc tế.
Mục tiêu xã hội của WTO là hướng tới nền kinh tế thế giới hiệu quả, qua đó phục vụ tốt hơn nhu cầu của dân cư ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
Đặc biệt WTO có giành sự chú ý nhất định đến việc tạo điều kiện cho các quốc gia kém phát triển tham gia thương mại quốc tế.
Như vậy, từ các mục tiêu được công bố công khai của WTO có thể thấy
đây là một thể chế tích cực, ủng hộ và hướng đến thương mại tự do. WTO hướng tới hình thành một môi trường thương mại quốc tế ổn định, minh bạch
và có thể dự đoán được nhằm bảo đảm cho thương mại tự do có thể thực thi được theo những tiêu chuẩn phù hợp với từng thời kỳ lịch sử phát triển kinh tế thế giới. Những mục tiêu nêu trên có sức hấp dẫn rất lớn đối với tất cả các
3
1 Vụ Chính sách thương mại đa biên -Bộ Thương mại (2000), Kết quả vòng đàm phán Urugoay về hệ thống thương mại đa biên, NXB Thống kê, Hà Nội.
quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, trong thực tế, quá trình thực hiện mục tiêu có rất nhiều mâu thuẫn giữa các bên tham gia cũng như các vấn đề nảy
sinh do xung đột về lợi ích, do trình độ phát triển và lựa chọn chính sách của các thành viên.
Chức năng
Theo Hiệp định Marrakesh thành lập WTO, tổ chức này có năm chức
năng cơ bản như sau:
Một là: Tạo thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và tiến hành các mục tiêu của Hiệp định này và các Hiệp định thương mại đa biên khác, cũng như các Hiệp định nhiều bên. WTO có trách nhiệm theo dõi chính sách thương
mại của các quốc gia thành viên nhằm thúc đẩy việc thực thi chúng theo cách thức mà các nước đã cam kết tập thể với nhau.
Hai là: Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các nước thành viên về quan hệ
thương mại giữa các nước này về các vấn đề được đề cập đến trong các Hiệp định WTO và thực thi kết quả của các cuộc đàm phán đó. Đàm phán tại WTO
dựa trên hai nguyên tắc: (1) Nhân nhượng lẫn nhau: Một quốc gia không thể chỉ “nhận” mà cần có những điều khoản để đổi lại; (2) Đối xử đặc biệt với nước đang phát triển, nhất là các nước kém phát triển.
Ba là: Giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên trên cơ sở Quy định và thủ tục giải quyết tranh chấp. WTO nỗ lực xây dựng một cơ chế giải
quyết tranh chấp độc lập và công bằng những vấn đề khúc mắc, tranh chấp nảy sinh giữa các thành viên của WTO thông qua các thủ tục pháp lý khách quan. Tuy nhiên, do khả năng gây ảnh hưởng không chính thức cũng như khả
năng tham gia vào hoạt động pháp lý thực tế để giải quyết các tranh chấp cụ thể là khác nhau giữa các nước có tiềm lực, có sức mạnh ngoại thương khác nhau, nên thực tế giải quyết tranh chấp hiện nay trong WTO chưa đạt được
mức độ khách quan như mong muốn. Song, theo đánh giá chung, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã ít nhiều thể hiện được tính độc lập và khách quan của nó.
Bốn là: Thực hiện rà soát chính sách thương mại thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại. Định kỳ theo quy định của WTO, các quốc gia
4
phải gửi báo cáo về chế độ thương mại của mình cho WTO và cơ quan giúp
việc của WTO có trách nhiệm gửi báo cáo này cho các thành viên quan tâm. Thông qua việc giám sát chính sách thương mại quốc gia, WTO thúc đẩy
quan hệ hiểu biết lẫn nhau giữa các nước thành viên, qua đó khuyến khích các thành viên tuân thủ các quy định, cam kết và thủ tục mà các nước thoả thuận. Các quốc gia có ảnh hưởng lớn đến thương mại quốc tế như Mỹ, EU, Nhật
Bản … định kỳ rà soát chính sách là hai năm, các quốc gia khác thường là 4-6 năm tuỳ thuộc mức độ ảnh hưởng đến thương mại toàn cầu. Riêng đối với các nước chậm phát triển, thời gian này có thể dài hơn.
Năm là: Nhằm đạt được một sự nhất quán, hài hoà trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, WTO sẽ phối hợp với IMF, WB hay
một số tổ chức quốc tế khác như Trung tâm thương mại Quốc tế (ITC), Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) trong những lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn như tăng cường năng lực điều hành của Chính phủ đối với các quốc
gia chậm phát triển.
Nguyên tắc cơ bản
WTO hoạt động dựa trên một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức tạp, bao gồm các hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó
đều được xây dựng trên cơ sở bảy nguyên tắc cơ bản của WTO.
Nguyên tắc 1: Không có sự phân biệt đối xử
Nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định về chế độ Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) và Đãi ngộ Quốc gia (NT). MFN là một nguyên tắc cơ bản của WTO, được nêu trong Điều I - Hiệp định GATT, điều II - Hiệp định
GATS và điều IV - Hiệp định TRIPS. Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất
khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên
5
tắc này; Nguyên tắc NT: Trong khi nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành
viên không được phép áp dụng đối xử phân biệt giữa các nước thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa
hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự
đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong nước.
Nguyên tắc MFN và NT lúc đầu chỉ được áp dụng trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, sau khi WTO ra đời thì nó được mở rộng cả sang
thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại và các lĩnh vực khác, tuy vậy mức độ áp dụng của quy tắc này trong các lĩnh vực là
khác nhau. Trong thương mại hàng hoá: MFN và NT được áp dụng tương đối toàn diện và triệt để. Trong thương mại dịch vụ: MFN và NT cũng được áp dụng với những lĩnh vực mà một thành viên đã cam kết mở cửa thị trường,
với những lĩnh vực dịch vụ còn duy trì hạn chế thì việc dành MFN và NT tuỳ thuộc vào kết quả đàm phán các cam kết cụ thể. Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, các NT trên đã được thể chế hoá cụ thể và phổ biến trong các công ước quốc
tế liên quan đến sở hữu trí tuệ.
Nguyên tắc 2: Chỉ bảo hộ bằng thuế quan
Trong WTO, việc bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa không bị ngăn cấm. Tuy nhiên, WTO đưa ra một nguyên tắc là các nước chỉ được thực hiện bảo hộ chủ yếu thông qua thuế quan, không được sử dụng các biện pháp
thương mại khác. Mục tiêu của nguyên tắc này để đảm bảo sự minh bạch của việc bảo hộ và giảm thiểu những tác dụng bóp méo thương mại phát sinh.
Nguyên tắc 3: Tạo dựng một nền tảng ổn định cho thương mại
Một nguyên tắc cơ bản của WTO là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định cho thương mại quốc tế, thông qua việc các nước ràng
buộc thuế quan của mình. Các nước chỉ có thể tăng thuế quan sau khi đã tiến hành đàm phán lại và đã đền bù thoả đáng cho lợi ích các bên bị thiệt hại do việc tăng thuế đó.
Để đảm bảo nguyên tắc này, các nước thành viên WTO còn có nghĩa vụ phải minh bạch hoá các quy định thương mại của mình, phải thông báo mọi
6
biện pháp đang áp dụng và ràng buộc chúng (tức là cam kết sẽ không thay đổi
theo chiều hướng bất lợi cho thương mại, nếu thay đổi phải được thông báo, tham vấn và bù trừ hợp lý). Tính dự báo được nhằm giúp các nhà kinh doanh
nắm rõ tình hình hiện tại cũng như xác định được cơ hội của họ trong tương lai. Nguyên tắc này giúp cho môi trường kinh doanh có tính ổn định và lành mạnh.
Nguyên tắc 4: Thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán
WTO đảm bảo thương mại giữa các quốc gia ngày càng tự do hơn thông qua quá trình đàm phán hạ thấp các hàng rào thương mại để thúc đẩy
buôn bán. Kể từ năm 1948 đến nay, GATT và WTO đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan và mở cửa thị trường. Để thực hiện nguyên tắc thương mại ngày càng tự do này, WTO đảm
nhận chức năng là diễn đàn đàm phán thương mại đa phương để các nước có thể liên tục thảo luận về vấn đề tự do hoá thương mại.
WTO kiên trì xu hướng hạn chế dần đi tới xoá bỏ các hàng rào cản trở
thương mại quốc tế như thuế quan và các biện pháp phi thuế quan nhằm tiến tới một thị trường thống nhất dựa trên các quy tắc cạnh tranh kinh tế. Do đó,
ngoài việc khuyến khích, duy trì thường xuyên các cuộc đàm phán giảm thuế quan, WTO còn thúc đẩy, mở rộng các đàm phán nhằm đi tới các hiệp định bổ sung về thủ tục hành chính đối với hàng xuất nhập khẩu.
Gần đây, WTO mở rộng các vấn đề đàm phán sang lĩnh vực môi trường và lao động liên quan đến sản xuất sản phẩm. Về phương diện xã hội, các quy định của một số nước liên quan đến bảo vệ môi trường và an toàn lao động
cho phụ nữ và trẻ em mang tính nhân đạo. Nhưng về mặt điều kiện thương mại thì các quy định mới này có thể cản trở hoạt động thương mại và gây bất lợi cho hàng hoá của các nước kém phát triển. Do đó, quá trình hoạch định và thực thi chính sách thương mại tự do của WTO trong mối liên hệ đến các vấn đề công bằng và phát triển còn tiềm ẩn nhiều khía cạnh phức tạp và mâu
thuẫn nhau.
Nguyên tắc 5: Tạo lập môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng
WTO là một hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và không bị bóp méo. Tất cả các Hiệp định của WTO như về nông nghiệp, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ... đều nhằm mục tiêu tạo một môi trường
7
cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn giữa các quốc gia.
WTO khuyến khích thương mại theo khuynh hướng cạnh tranh kinh tế thuần tuý dựa trên lợi thế cạnh tranh nhằm thiết lập cơ cấu phân công lao
động quốc tế hiệu quả. Chính vì thế, trong các nội dung đàm phán, cũng như trong các hiệp định đã ký kết của WTO các biện pháp can thiệp của nhà nước làm hạn chế phạm vi hoạt động của cơ chế thị trường cạnh tranh tự do hoặc
làm méo mó giá cả thường bị gây áp lực phải hạn chế dần, đi tới xoá bỏ. Nguyên tắc này đặc biệt liên quan đến thương mại nhà nước và trợ cấp của nhà nước, nhất là trong các vòng đàm phán gần đây, khi vấn đề trợ cấp nông
sản và chi tiêu của Chính phủ được nhiều nước quan tâm đề xuất đưa vào chương trình đàm phán. Mục đích của nguyên tắc này là xây dựng một môi trường trong đó hàng hoá và dịch vụ cạnh tranh bình đẳng với nhau, không có
sự hỗ trợ tài chính của nhà nước.
Nguyên tắc 6: Nguyên tắc "khước từ" và khả năng áp dụng các
hành động khẩn cấp
Khi tình hình kinh tế hay thương mại của một nước gặp khó khăn nhất thời, WTO cho phép các nước thành viên được tạm thời miễn không thực hiện
những nghĩa vụ nhất định.
WTO cũng cho phép các chính phủ được áp dụng các biện pháp tự vệ
khẩn cấp trong những trường hợp quy định. Các thành viên có thể áp dụng các hạn chế nhập khẩu hay tạm ngừng các nhân nhượng thuế quan đối với những sản phẩm cụ thể khi nhập khẩu các sản phẩm này tăng mạnh, gây ra
hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất trong nước.
Theo quy định của WTO, các nước sẽ loại bỏ tất cả hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép các nước thành viên được áp dụng các hạn chế nhập khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ như:
- Nước nhập khẩu gặp khó khăn về cán cân thanh toán
- Có căng thẳng về ngoại hối (do nhu cầu nhập khẩu vì mục tiêu phát triển tăng mạnh, hoặc do các nước này thiết lập hay mở rộng hoạt động sản xuất trong nước).
Khi các nước áp dụng các ngoại lệ này, các hạn chế số lượng phải được
áp dụng trên cơ sở không có sự phân biệt đối xử.
8
Nguyên tắc 7: Ưu đãi dành cho các nước đang phát triển
Một trong những mục tiêu hoạt động của WTO là cần phải có nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia kém
phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước đó. Với khoảng 2/3 số thành viên của mình là các nước đang và kém phát triển, WTO luôn khuyến
khích phát triển, dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các quốc gia này, với mục tiêu đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa phương. WTO cũng dành cho các nước đang phát triển,
các nền kinh tế chuyển đổi những ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời chú ý đến trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
Những ưu đãi được khuyến khích trong WTO khá đa dạng, từ cam kết giảm thuế quan bất tương xứng đến lộ trình thực hiện cam kết dài hơn cho các nước đang phát triển, thậm chí WTO cho phép miễn nghĩa vụ cam kết cho các
nước chậm phát triển nhất.
3. Cơ cấu tổ chức của WTO
Bộ máy điều hành của WTO được tổ chức như sau:
- Hội nghị Bộ trưởng WTO: Là cơ quan cao nhất của WTO, bao gồm đại diện của tất cả các thành viên, định kỳ họp 2 năm một lần. Hội nghị Bộ trưởng sẽ
thực thi chức năng thông qua hầu hết các quyết định của WTO (các hiệp định, thông báo, chương trình nghị sự của các vòng đàm phán, giải thích ý nghĩa các hiệp định).
- Đại hội đồng WTO: Là cơ quan thường trực giữa hai kỳ họp của Hội nghị Bộ trưởng. Đại hội đồng cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên và thực hiện 3 chức năng: chức năng của Hội nghị Bộ trưởng trong thời gian
giữa các khoá họp (giải quyết tất cả các công việc có liên quan đến WTO); chức năng của cơ quan giải quyết tranh chấp khi có vụ việc đưa lên Đại hội đồng; chức năng của cơ quan rà soát chính sách thương mại của các thành
viên theo định kỳ. Đại hội đồng còn quy định quy chế hoạt động và thủ tục hành chính cho các hội đồng trực thuộc.
Dưới Đại Hội đồng, WTO có ba Hội đồng về ba lĩnh vực thương mại
cụ thể là Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và
Hội đồng về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Các hội đồng
9
này có các cơ quan cấp dưới (các uỷ ban và các tiểu ban) để thực thi các công
việc cụ thể trong từng lĩnh vực. (Ví dụ, Hội đồng Thương mại Hàng hoá có 11
uỷ ban, 2 nhóm công tác và Cơ quan Giám sát Hàng dệt, Hội đồng Thương
mại Dịch vụ có 2 uỷ ban, 2 nhóm công tác...).
Tương đương với các Hội đồng này, WTO còn có một số uỷ ban với
phạm vi chức năng nhỏ hơn, nhưng cũng báo cáo trực tiếp lên Đại Hội đồng,
đó là các Uỷ ban về Thương mại và Phát triển, Thương mại và Môi trường,
Hiệp định Thương mại Khu vực, Hạn chế bảo vệ Cán cân Thanh toán, Uỷ ban
về Ngân sách, Tài chính và Quản lý, và Tiểu ban về các nước Chậm phát
triển. Bên cạnh các uỷ ban đó là các Nhóm công tác về Gia nhập, và Nhóm
Công tác về Mối quan hệ giữa Đầu tư và Thương mại, về Tác động qua lại
giữa Thương mại và Chính sách cạnh tranh, về Minh bạch hoá và Mua sắm
của Chính phủ. Ngoài ra còn có hai uỷ ban về các hiệp định nhiều bên.
- Ban thư ký WTO: Là một cơ quan quan trọng của WTO đặt tại
Geneva. Đứng đầu Ban Thư ký là Tổng Thư ký, dưới đó là các Phó tổng thư
ký, phụ trách từng mảng cụ thể. Nhiệm vụ chính của Ban thư ký là:
+ Hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý cho các cơ quan chức năng của WTO
(các hội đồng, uỷ ban, tiểu ban, nhóm đàm phán) trong việc đàm phán và thực
thi các hiệp định;
+ Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
chậm phát triển;
+ Phân tích các chính sách thương mại và tình hình thương mại;
+ Giúp đỡ trong việc giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến
việc diễn giải các quy định, luật lệ của WTO;
+ Xem xét vấn đề gia nhập của các nước và tư vấn cho các quốc gia đó.
Tất cả các thành viên của WTO có thể tham gia vào tất cả các hội đồng,
uỷ ban, tiểu ban,... ngoại trừ Cơ quan phúc thẩm, các nhóm chuyên gia giải
quyết tranh chấp, Cơ quan giám sát hàng dệt may và các uỷ ban và hội đồng
10
được thành lập theo các hiệp định đa biên.
Hội nghị Bộ trưởng
Đại hội đồng nhóm họp với chức năng là cơ quan giải quyết tranh chấp
Đại hội đồng nhóm họp với chức năng là cơ quan rà soát chính sách thương mại
Đại hội đồng
Hình 1: Cơ cấu tổ chức của WTO
Ban hội thẩm Hội đồng giải quyết tranh chấp
Hội đồng về thương mại hàng hoá
Hội đồng về thương mại dịch vụ
Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
Các uỷ ban về
Thương mại các dịch vụ tài chính Các cam kết cụ thể
Các nhóm lao động Quy định nội bộ Các quy tắc của GATS
Các uỷ ban nhiều bên
Uỷ ban về thương mại hàng không dân dụng Uỷ ban về chi tiêu chính phủ
Uỷ ban về đàm phán thương mại
Các uỷ ban về Thương mại và môi trường Thương mại và phát triển Tiểu ban về các nước đang phát triển Các hiệp định thương mại khu vực Các hạn chế nhằm cân bằng cán cân thanh toán Ngân sách, tài chính và quản lý Nhóm công tác về Gia nhập tổ chức Các nhóm công tác về Quan hệ giữa thương mại và đầu tư Tác động qua lại giữa thương mại và chính sách cạnh tranh Minh bạch trong chi tiêu chính phủ Thương mại, nợ và tài chính Thương mại và chuyển giao công nghệ
Chương trình phát triển Doha: Uỷ ban đàm phán thương mại và các cơ quan trực thuộc Các phiên họp đặc biệt của
Các uỷ ban về Tiếp cận thị trường Nông nghiệp Các biện pháp kiểm dịch động thực vật Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại Trợ cấp và các biện pháp đối kháng Chống bán phá giá Định giá hải quan Quy tắc xuất xứ ‘Giấy phép nhập khẩu Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại Các biện pháp tự vệ Cơ quan giám sát về dệt may Nhóm công tác về Các doanh nghiệp thương mại nhà nước
Uỷ ban đa biên
Uỷ ban dịch vụ/Uỷ ban về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ/ Cơ quan giải quyết tranh chấp/Uỷ ban nông nghiệp/Uỷ ban về thương mại và phát triển/Uỷ ban về thương mại và môi trường Nhóm đàm phán về
Tiếp cận thị trường/các quy định
Uỷ ban về Hiệp định Công nghệ thông tin
Chú giải sơ đồ:
Đệ trình báo cáo lên Đại hội đồng (hoặc cơ cấu trực thuộc Đại hội đồng) Các uỷ ban được thành lập theo quy định của các hiệp định nhiều bên có nhiệm vụ thông báo cho Đại hội đồng hoặc Hội đồng về thương mại hàng hóa về các hoạt động của mình, ngay cả khi không phải tất cả các thành viên WTO đều tham gia ký kết các hiệp định nhiều bên này Uỷ ban về đàm phán thương mại trực thuộc Đại hội đồng. Đại hội đồng nhóm họp dưới danh nghĩa là Cơ quan Rà soát chính sách thương mại và Cơ quan Giải quyết tranh chấp
4. Các hiệp định của WTO
11
Có thể nói, WTO là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc về
thương mại giữa các quốc gia. Cốt lõi của WTO là các hiệp định do các chính
phủ thành viên đàm phán và ký kết. Các hiệp định này tạo ra nền tảng pháp lý
cho việc tiến hành hoạt động thương mại quốc tế, với mục tiêu thúc đẩy giao
lưu thương mại hàng hoá, dịch vụ và hợp tác thương mại ngày càng sâu rộng
và hiệu quả hơn. Khuôn khổ thể chế đối với các hoạt động của WTO được
xác định trong các hiệp định với 3 trụ cột chính: Thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra, WTO còn điều hành hệ
thống giải quyết tranh chấp chung cho các lĩnh vực trong các hiệp định cụ thể,
đồng thời đánh giá thường kỳ về chính sách thương mại của các nước và hợp
tác với các tổ chức quốc tế khác nhằm tạo sự hài hoà trong phát triển kinh tế
toàn cầu.
Hệ thống WTO hiện nay bao gồm những hiệp định độc lập như:
- Các hiệp định đa phương về Thương mại Hàng hoá bao gồm Hiệp
định GATT 1994 và các hiệp định đi kèm với nó;
- Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS);
- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS)
Thương mại Hàng hoá
Hiệp định chủ chốt điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng hoá của WTO
là GATT 1994. Mục tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành cắt giảm
thuế quan. Kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước thành viên đã đưa ra
các cam kết ràng buộc thuế đối với hầu hết các mặt hàng công nghiệp nhập
khẩu.
GATT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để tiến hành thương mại hàng hoá
giữa các nước thành viên, đó là nguyên tắc MFN, NT, không hạn chế số
lượng, các hiệp định thương mại khu vực, các điều khoản ưu tiên và ưu đãi
dành cho các nước đang và chậm phát triển, các quy tắc về đàm phán, ràng
buộc thuế quan và đàm phán lại... GATT cũng có các điều khoản cơ bản về
các vấn đề chống bán phá giá, xác định trị giá hải quan, trợ cấp, tự vệ khẩn
12
cấp... tuy nhiên những điều khoản này còn bộc lộ nhiều bất cập trong thực tế.
Tại các nước phát triển, thuế quan đã giảm trung bình 38% sau khi thực
hiện đầy đủ những cam kết trong vòng đàm phán Uruguay. Mức giảm thuế quan tương ứng của các nước đang phát triển là 25%2. Mức thuế quan ràng
buộc trung bình (thuế quan cam kết) cũng được cắt giảm đáng kể và sát với
thuế quan thực tế áp dụng, nhất là với các quốc gia phát triển.
Cũng tính từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển
cam kết tiến hành cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn
trung bình là 3,8% trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995; Số lượng các sản
phẩm phải chịu thuế suất hải quan cao giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ
tất cả các nước phải chịu thuế suất trên 15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng
đối với các nước đang phát triển thì mức giảm này là từ 9% xuống 5%). Ngày
26/3/1997, 40 nước chiếm 92% thương mại thế giới trong lĩnh vực công nghệ
thông tin đã nhất trí miễn thuế và các loại phí khác cho tất cả các sản phẩm
công nghệ thông tin nhập khẩu kể từ năm 2000. Số lượng các dòng thuế được
ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết tăng các ràng buộc
dòng thuế từ 77% lên 99%, các nước đang phát triển cũng cam kết tăng dòng
thuế này từ 21% lên 73%. Riêng đối với các nền kinh tế chuyển đổi, các cam
kết tương ứng tăng từ 73% lên 98%.
Nội dung chủ yếu của GATT là cắt giảm thuế quan và ràng buộc mức thuế. Ngoài ra, GATT còn tạo cơ sở để tiếp tục tiến hành các cuộc đàm phán nhằm cắt giảm thuế quan trong tương lai, đồng thời thúc đẩy các cam kết mở cửa thị trường của các quốc gia. Bên cạnh đó, GATT cũng quy định những thủ tục cần thiết như tham vấn, bồi thường khi một nước muốn rút bỏ một ràng buộc thuế quan của mình, trong những trường hợp đặc biệt, cụ thể. GATT cũng có các quy định về các vấn đề như định giá tính thuế, hạn chế số lượng, tự vệ khẩn cấp, trợ cấp, bảo vệ cán cân thanh toán, gia nhập, rút lui, miễn trừ... Tuy nhiên, trong khuôn khổ của GATT, một số vấn đề chưa được đề cập chi tiết, chưa nhận được sự nhất trí của tất cả các thành viên. Kết thúc Vòng đàm phán Uruguay, các nước thành viên đã nhất trí đưa ra các hiệp định cụ thể về các vấn đề này, bao gồm:
1. Hiệp định Nông nghiệp (AoA)
13
2 WTO (2001)
2. Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh Dịch tễ (SPS)
3. Hiệp định Dệt may (ATC)
4. Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật Cản trở Thương mại (TBT)
5. Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại
(TRIMs)
6. Hiệp định Chống Phá giá (Anti-dumping)
7. Hiệp định Trị giá Hải quan (ACV)
8. Hiệp định về Giám định Hàng hoá trước khi xuống tầu (PSI)
9. Hiệp định về Quy tắc Xuất xứ (Rules of Origin)
10. Hiệp định về Giấy phép Nhập khẩu (Import Licensing)
11. Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng (SCM)
12. Hiệp định về các Biện pháp Tự vệ (AoS)
Ngoài các hiệp định nêu trên, trong khuôn khổ của GATT còn có các hiệp định chuyên ngành như Hiệp định về Công nghệ thông tin (ITA). Vòng đàm phán Uruguay đạt được kết quả quan trọng là một số quốc gia thống nhất bãi bỏ thuế quan trong một số ngành, qua đó, một số hiệp định đã được ký kết
như hiệp định đối với sản phẩm công nghiệp trong một số ngành: dược phẩm, đồ chơi, hoá chất, giấy và sản phẩm giấy, thiết bị y tế, đồ nội thất, thiết bị nông nghiệp, thiết bị xây dựng, thép. Trong ngành nông nghiệp có hiệp định về bia và rượu mạnh. Hầu hết các hiệp định chuyên ngành, thuế suất cam kết ở mức 0% và chủ yếu do các quốc gia phát triển ký kết (trừ một số quốc gia đang phát triển có mức sống cao như Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc).
Điểm đặc biệt đáng chú ý là, theo nguyên tắc MFN, các thành viên không tham gia ký kết nhưng vẫn được hưởng miễn thuế đối với hàng xuất khẩu của mình sang các nước khác. Điều đó có nghĩa là các quốc gia đang phát triển được hưởng lợi từ các hiệp định chuyên ngành ngay cả khi họ không tham gia ký kết.
Thương mại dịch vụ
14
Hoạt động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO được điều chỉnh bởi Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS). GATS bao gồm:
- Các quy định và nguyên tắc chung được trình bày trong Hiệp định chung
- Các phụ lục của GATS và các quyết định cấp Bộ trưởng
Phụ lục về Miễn trừ MFN
Phụ lục về Di chuyển và cư trú của thể nhân
Phụ lục về Dịch vụ Vận tải hàng không
Phụ lục về Dịch vụ tài chính
Phụ lục về Vận tải biển
Phụ lục về Viễn thông cơ bản
- Các cam kết của từng nước về các lĩnh vực dịch vụ cụ thể, về áp dụng
MFN, NT và mở cửa thị trường trong các lĩnh vực đó.
Thuật ngữ dịch vụ trong GATS không được định nghĩa rõ ràng nhưng
chúng được phân nhóm thành 12 ngành:
Dịch vụ nghề nghiệp và dịch vụ kinh doanh;
Dịch vụ viễn thông;
Dịch vụ xây dựng;
Dịch vụ phân phối;
Dịch vụ giáo dục;
Dịch vụ môi trường;
Dịch vụ tài chính;
Dịch vụ liên quan đến sức khỏe và dịch vụ xã hội;
Dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến du lịch;
Dịch vụ vui chơi giải trí, thể thao, văn hoá;
Dịch vụ vận tải;
Các dịch vụ khác.
12 ngành dịch vụ này được chia thành 160 tiểu ngành, được phân định
thống nhất theo danh mục CPC (Danh mục phân loại sản phẩm theo tiêu
chuẩn Liên hợp quốc).
GATS phân biệt 4 hình thức cung cấp dịch vụ khác nhau:
15
- Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Dịch vụ được một nước thành viên
này cung cấp cho một nước thành viên khác (chỉ có dịch vụ di chuyển, người
cung cấp dịch vụ không di chuyển) - ví dụ truyền hình trực tiếp cuộc thi hoa
hậu thế giới.
- Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài: Người tiêu dùng ở nước này sang
nước khác tiêu dùng dịch vụ - ví dụ đi du lịch, tiêu thụ dịch vụ ở nước ngoài.
- Hiện diện thương mại: Dịch vụ được cung cấp bởi một nhà cung ứng
đặt cơ sở hoạt động ở một nước thành viên khác- ví dụ trường hợp mở chi
nhánh tại nước ngoài.
- Di chuyển tạm thời của người cung cấp dịch vụ: Dịch vụ được thực
hiện bởi cá nhân đi sang nước khác trong một thời gian ngắn- ví dụ như một
chuyên gia đi thực hiện hoạt động dịch vụ ở nước ngoài trong thời gian ngắn.
Trong bốn phương thức cung cấp dịch vụ kể trên, hiện diện thương mại
được coi là phương thức được các thành viên quan tâm nhất và cũng có nhiều
cam kết chi tiết nhất.
Nhìn chung, Hiệp định GATS mới đạt được kết quả có mức độ về mở
cửa thị trường; thành công nhất của GATS là đã mở rộng được diện điều
chỉnh của hệ thống thương mại đa biên, đặc biệt là bao trùm cả những lĩnh
vực như đầu tư trực tiếp của nước ngoài, trình độ chuyên môn, sự di chuyển
của người cung cấp dịch vụ và cung cấp dữ liệu qua biên giới. Những tiền đề
đó đã hợp pháp hoá khuôn khổ pháp lý ban đầu chung cho các nước và là xuất
phát điểm để các quốc gia tiếp tục đàm phán cụ thể hơn về những lĩnh vực
đầy tiềm năng này qua các vòng đàm phán trong tương lai. Tầm quan trọng
của thương mại dịch vụ ngày càng được khẳng định và các đàm phán về
thương mại dịch vụ sẽ càng trở nên quan trọng trên diễn đàn của WTO, diễn
đàn khu vực và liên khu vực.
Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs)
16
Tính đến nay, TRIPs là hiệp định đa phương toàn diện nhất liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Sau vòng đàm phán Uruguay, các quốc gia đã đạt được kết quả rất khả quan cả về chiều rộng và chiều sâu về quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới thương mại. Các hiệp định chủ yếu trước đây thuộc
diện quản lý của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đã được chấp nhận chính thức và ràng buộc trong khuôn khổ WTO, được thực hiện trên cơ sở NT. Các nước tham gia Vòng đàm phán Uruguay đã ký kết Hiệp định TRIPs điều chỉnh quyền tác giả và các quyền có liên quan, nhãn hàng, chỉ dẫn địa lý, thiết kế công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bảo hộ thông tin bí mật và hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng. (Xem thêm Phụ lục 5). Các bên cũng chấp nhận Cơ chế Giải quyết Tranh chấp của WTO được áp dụng cho tranh chấp phát sinh từ các hiệp định này. TRIPs không chỉ dựa trên những hiệp định chủ yếu của hệ thống sở hữu trí tuệ hiện có mà còn xây dựng được những quy định mới chưa được WIPO xây dựng.
Phạm vi bảo hộ của TRIPs gồm 7 lĩnh vực, trong mỗi lĩnh vực bao gồm
nhiều nội dung cụ thể:
Bản quyền và quyền lợi liên quan;
Phát minh, sáng chế;
Thừa kế mẫu hàng công nghiệp;
Thương hiệu;
Tiêu chí địa lý;
Thiết kế bố cục mạch điện tổng hợp;
Thông tin chưa công khai.
TRIPs được tiến hành song song và không mâu thuẫn với những công ước quốc tế về quyền SHTT như công ước Berne3, Công ước Roma4, Công ước về quyền sở hữu trí tuệ mạch điện tổng hợp (IPIC), công ước Paris5 … TRIPs cũng qui định những ngoại lệ, đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong từng trường hợp cụ thể. Mức độ bảo hộ trong TRIPs được xem là tiêu chuẩn thấp nhất. Điều đó có nghĩa là luật pháp của các quốc gia thành viên không được qui định thấp hơn mức qui định bảo hộ trong TRIPs. Các qui định cơ bản của TRIPs có thể chia thành 5 nhóm:
- Nhóm các qui định liên quan đến việc thực hiện bảo hộ theo nguyên
tắc NT và MFN.
17
3 Công ước về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật 4 Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, người sản xuất, chương trình thu thanh và các tổ chức phát thanh truyền hình 5 Công ước về bảo hộ sở hữu công nghiệp
- Nhóm các qui định tối thiểu về nội dung bảo hộ, thời gian bảo hộ tối
thiểu của 7 lĩnh vực SHTT, chẳng hạn như phát minh sáng chế có thời gian
bảo hộ tối thiểu 20 năm; nhãn hiệu thương mại (thương hiệu) bảo hộ tối thiểu
7 năm sau mỗi lần đăng ký…
- Nhóm qui định về quyền áp dụng các biện pháp thích hợp nhằm hạn
chế chủ thể SHTT lạm dụng quyền của mình hoặc có những hành vi hạn chế
thương mại hay chuyển giao công nghệ không hợp lý.
- Nhóm qui định về đảm bảo việc thực thi sự bảo hộ bằng các qui định
về cơ chế, tổ chức, thủ tục và đền bù có liên quan.
- Nhóm qui định về thời gian thực hiện các điều chỉnh hệ thống luật
pháp quốc gia cho phù hợp với các qui định nêu trên: 1 năm đối với các nước
phát triển, 5 năm đối với các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi, 11
năm đối với các nước chậm phát triển.
(cid:31)Trong quan hệ thương mại quốc tế, quyền lợi của các quốc gia luôn
Cơ chế giải quyết tranh chấp
mâu thuẫn với nhau, và rất dễ xảy ra tranh chấp. Do vậy, hệ thống thương mại
đa biên mà các nước thành viên WTO nỗ lực xây dựng sẽ không thể tồn tại và
hoạt động hiệu quả nếu như thiếu đi cơ chế giải quyết tranh chấp. Vòng đàm
phán Uruguay đã đạt được một thành công lớn là đưa ra được một cơ chế giải
quyết tranh chấp hoàn chỉnh hơn, cho phép các mối quan hệ trong thương mại
quốc tế được giải quyết một cách công bằng hơn, hạn chế rất nhiều những
hành động đơn phương, độc đoán của những cường quốc thương mại, góp
phần tháo gỡ những bế tắc vốn thường xảy ra và khó giải quyết trước đây. Vì
thế, hiệu quả của hệ thống thương mại thế giới được nâng cao. Các nước đang
phát triển, chậm phát triển và ngay cả một số nước phát triển coi đây là một
thắng lợi với nhiều lợi ích thu được từ hệ thống thương mại đa biên.
Nhìn chung, các tranh chấp thường được giải quyết bằng nhân nhượng.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các tranh chấp không thể giải quyết bằng
thương lượng thì cần đến một cơ quan đủ quyền lực với cơ chế giải quyết
18
tranh chấp được các thành viên chấp nhận.
Đối tượng của các tranh chấp trong khuôn khổ WTO là chính sách
thương mại của các nước thành viên chứ không phải là tranh chấp phát sinh từ
việc thực hiện hợp đồng thương mại. Do đó, mục tiêu của cơ chế giải quyết
tranh chấp nhằm tạo tính an toàn và khả thi trong việc thực thi các hiệp định.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp: không đi ngược lại mục tiêu của
WTO và thúc đẩy thương mại tự do. Do đó, WTO khuyến khích các giải pháp
tự thương lượng giữa các bên tranh chấp hơn là đưa vụ việc ra cơ quan giải
quyết tranh chấp. Trường hợp các bên không thống nhất được thì cách giải
quyết được ưu tiên là rút lại những quy định không phù hợp với Hiệp định đã
được ký kết của các bên liên quan. Các quy định bồi thường chỉ được đưa ra
trong trường hợp không thể thực hiện việc rút lại các biện pháp không phù
hợp với quy định của WTO và khi có một biện pháp tạm thời ngăn cản việc
thu hồi đó. Biện pháp cuối cùng mới là cho phép thành viên khởi kiện đình
chỉ áp dụng các nhân nhượng và nghĩa vụ đã cam kết với bên bị kiện. Nhìn
chung, nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO không hướng vào kết quả
thắng thu trong từng vụ việc mà giải quyết theo tinh thần bảo vệ tối đa sự tuân
thủ luật lệ của WTO, thúc đẩy môi trường tự do thương mại.
- Thủ tục giải quyết tranh chấp: Các tranh chấp đưa ra trước cơ quan
giải quyết tranh chấp của WTO được xem xét và giải quyết theo trình tự sau:
+ Khi xuất hiện tranh chấp, nước khiếu nại cần nêu vấn đề với nước bị
khiếu nại để hai bên cùng tham vấn tìm cách giải quyết;
+ Nếu quá trình tham vấn thất bại, WTO sẽ giúp đỡ tìm trung gian, môi
giới hoà giải. Nếu vấn đề vẫn không tháo gỡ được thì nước khiếu nại có thể
yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO lập Ban hội thẩm;
+ Trong những thời hạn quy định, Ban hội thẩm sẽ nghiên cứu vấn đề
và lập báo cáo trình Hội đồng giải quyết tranh chấp.
+ Sau một thời gian đủ để các bên xem xét báo cáo của Ban hội thẩm,
Hội đồng giải quyết tranh chấp sẽ họp để thông qua báo cáo này. Báo cáo sẽ
được thông qua nếu không có nước thành viên nào phản đối.
19
+ Nếu có nước thành viên phản đối thì Hội đồng giải quyết tranh chấp
sẽ giao vụ việc cho Cơ quan phúc thẩm xem xét lại. Cơ quan này có quyền
thông qua hoặc sửa đổi báo cáo của Ban hội thẩm.
+ Dựa trên các báo cáo của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan phúc thẩm,
Hội đồng giải quyết tranh chấp sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng.
Một cơ quan phúc thẩm cũng được thể chế hoá với những thành viên
luân phiên đại diện cho các thành viên - đó là Uỷ ban Kháng nghị (Appelate).
Nếu kết quả giải quyết tranh chấp không được thi hành nghiêm túc, bên có
quyền lợi bị vi phạm được quyền áp dụng những biện pháp trả đũa, thậm chí
trả đũa chéo nếu những biện pháp trả đũa áp dụng với cùng một lĩnh vực
(thuộc phạm vi điều chỉnh của cùng một hiệp định) không được coi là đạt kết
quả mong muốn.
Thoả thuận về Giải quyết tranh chấp của WTO rất chú trọng giai đoạn
tham vấn, nhằm tạo một cơ hội để các bên liên quan tới vấn đề đang tranh
chấp có thể tìm kiếm được một giải pháp thoả đáng. Tham vấn là thủ tục đầu
tiên nhằm tránh khả năng phải đi đến thủ tục bắt buộc. Ngoài ra còn có những
bước đi có thể mang tính chất tự nguyện như yêu cầu Tổng Giám đốc WTO
làm trung gian hoà giải hay thống nhất đưa ra trọng tài.
5. Các qui định của WTO trong một số lĩnh vực cụ thể
a/ Lĩnh vực nông nghiệp
Hiệp định Nông nghiệp (AoA) đánh dấu bước phát triển đáng kể,
hướng tới lập lại trật tự và cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp.
Hàng nông sản, do tính chất đặc biệt nhạy cảm, từ trước đến nay vẫn được
hưởng nhiều ngoại lệ. Mặc dù chỉ chiếm không quá 10% thương mại thế giới
và không quá 5% GDP của rất nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển,
nhưng thương mại nông sản luôn là đối tượng đàm phán rất nhạy cảm trong
các cuộc đàm phán, thương mại quốc tế.
Thương mại nông sản là lĩnh vực được bảo hộ cao nhất trong chính
sách thương mại của các nước thành viên. Trong kỷ nguyên của GATT,
thương mại nông nghiệp hầu như vẫn chịu những quy chế riêng và chưa được
20
đưa vào khuôn khổ của hệ thống đa biên. Nông nghiệp thường là lĩnh vực
tranh chấp và thách thức giữa các nước thành viên.
Nhằm tạo ra một khuôn khổ cho thương mại hàng nông sản thế giới và
tăng cường trao đổi mặt hàng này, cuối vòng đàm phán Uruguay, các nước đã
cùng nhau ký Hiệp định Nông nghiệp. Hiệp định Nông nghiệp đã đạt được
những thoả thuận về mở cửa thị trường nông sản, thuế hoá các biện pháp phi
thuế, giảm trợ cấp và các mức hỗ trợ trong nước của các nước thành viên. Nội
dung chính của Hiệp định nông nghiệp thể hiện trên 3 mặt: (1) Tiếp cận thị
(cid:31)- Tiếp cận thị trường: Bao gồm các biện pháp loại bỏ hàng rào phi thuế
trường; (2) Hỗ trợ trong nước và (3) Trợ cấp xuất khẩu.
bằng thuế hoá. Hiệp định yêu cầu các nước phát triển phải giảm bình quân
36% mức thuế nhập khẩu trong 6 năm (1995-2000), các nước đang phát triển
phải giảm 24% trong vòng 10 năm (1995-2004), các nước chậm phát triển
được miễn trừ nhưng phải thuế hoá các biện pháp phi thuế và xây dựng mức
trần để đảm bảo trong tương lai, các quốc gia này không tăng thuế quá mức
(cid:31)Nguyên tắc của hiệp định là chỉ bảo hộ bằng thuế quan để đảm bảo tính
trần cam kết.
minh bạch, dễ dự đoán. Yêu cầu các nước thuế hoá các biện pháp phi thuế
100% số dòng thuế hàng nông sản. Hiệp định cũng cung cấp 2 biện pháp quan
trọng nhằm hỗ trợ các quốc gia trong quá trình thuế hoá, đó là quyền tự vệ
đặc biệt và hạn ngạch thuế quan. Quyền tự vệ đặc biệt (SSG) là quyền được
tạm thời áp dụng mức thuế cao hơn mức cam kết đối với một sản phẩm nào
đó khi lượng nhập khẩu tăng đột ngột làm tổn hại đến sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, chỉ một số mặt hàng được áp dụng biện pháp này, đó là những sản
phẩm đã thuế hoá các biện pháp phi thuế và đạt được thoả thuận với các nước
khác trong quá trình đàm phán. Hạn ngạch thuế quan (TRQ) nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các nước xuất khẩu để đảm bảo việc xuất khẩu không bị gián
đoạn khi tiến hành thuế hoá các biện pháp phi thuế. Cũng như SSG, chỉ có số
ít các mặt hàng được áp dụng TRQ do phải đàm phán với các nước thành viên
trên nhiều lĩnh vực như số mặt hàng áp dụng, mức hạn ngạch ban đầu…
- Hỗ trợ trong nước: Là những hỗ trợ của Chính phủ giành cho các đối
tượng không trực tiếp gắn với hoạt động hay kết quả xuất khẩu của chính đối
21
tượng đó. Hỗ trợ trong nước được phân nhóm thành 3 nhóm: Nhóm không
hoặc rất ít bóp méo thương mại nông sản; nhóm có thể bóp méo các quan hệ
thương mại nông sản và nhóm hỗ trợ bóp méo thương mại. Trong hai nhóm
đầu, các qui định cho phép các Chính phủ tiến hành hỗ trợ với những điều
kiện nhất định. Riêng nhóm hỗ trợ bóp méo thương mại (còn gọi là tổng hỗ
trợ gộp - AMS), Hiệp định qui định sẽ cắt giảm trong các giai đoạn khác nhau
(cid:31)- Trợ cấp xuất khẩu: Là những lợi ích gắn với hoạt động hoặc kết quả
với tỷ lệ với thời gian theo nhóm nước.
xuất khẩu. Hiệp định AoA qui định các nước phát triển sẽ cắt giảm 36%
nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm trong vòng 6 năm
tính từ 1995; khối lượng hàng hoá được hưởng trợ cấp giảm 21% cũng trong
thời gian trên. Trong giai đoạn thực thi 6 năm đó, các nước phát triển được
phép sử dụng trợ cấp để giảm giá tiếp thị và vận chuyển hàng hoá xuất khẩu
trong những trường hợp nhất định. Các nước đang phát triển sẽ cắt giảm 24%
nguồn ngân sách để trợ cấp dành cho xuất khẩu nông phẩm, khối lượng hàng
hoá được hưởng trợ cấp sẽ được giảm 14% trong vòng 10 năm tính từ năm
1995. Tỷ lệ trên được tính trên mức trung bình hàng năm của thời kỳ cơ sở
1986-1990 và bắt đầu từ năm 1995. Các nước không được phép áp dụng thêm
bất kỳ biện pháp trợ cấp xuất khẩu nào trước đây chưa tồn tại. Riêng đối với
các nước chậm phát triển, các cam kết cắt giảm được miễn trừ.
Ngoài ra, AoA còn qui định các nước được phép tự mình đặt ra tiêu
chuẩn vệ sinh nhưng chúng phải dựa trên cơ sở khoa học (khuyến khích sử
dụng những tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi trên thế giới).Tuy nhiên, các
nước đang phát triển cho rằng trên thực tế, quyền lợi của họ không được đảm
bảo vì AoA còn nhiều bất bình đẳng và nhiều nước đã không tuân thủ đầy đủ
hiệp định này.
b/Lĩnh vực công nghiệp
Hiệp định chủ chốt điều chỉnh lĩnh vực thương mại hàng công nghiệp
của WTO là GATT 1994. GATT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để tiến hành
hoạt động thương mại hàng hoá giữa các nước thành viên như MFN, NT,
không hạn chế số lượng, hiệp định khu vực, ưu đãi giành cho các nước chậm
22
phát triển …
Nội dung chủ yếu của GATT là cắt giảm và ràng buộc thuế quan hàng
công nghiệp. Ngoài việc xây dựng danh mục ràng buộc thuế quan, GATT còn
tạo những cơ sở cho việc đàm phán giảm thuế trong tương lai. Bên cạnh đó,
GATT cũng qui định những thủ tục cần thiết như tham vấn, bồi thường khi
một quốc gia rút khỏi các ràng buộc thuế quan của mình. GATT cũng có
những qui định về các vấn đề như định giá tính thuế, hạn chế số lượng, tự vệ
khẩn cấp, trợ cấp … nhưng các nội dung này chưa thật chi tiết và chưa bám
sát tình hình thương mại quốc tế. Một số điều khoản về chống bán phá giá,
định giá hải quan, tự vệ khẩn cấp … trong GATT chưa đầy đủ và chi tiết, sau
này chúng đã được cụ thể hoá bằng các hiệp định riêng biệt.
c/ Hàng dệt và may
Hầu hết các nước có trình độ công nghệ phát triển cao đều không chú
trọng phát triển ngành này và trở thành những nước nhập khẩu lớn. Hầu hết
các nước đang phát triển đều lựa chọn ngành dệt và may để đầu tư phát triển
vì đòi hỏi công nghệ không cao, giải quyết được nhiều lao động. Với những
lý do đó, trong khi các quốc gia phát triển kêu gọi tự do hoá thương mại thông
qua dỡ bỏ rào cản đối với hầu hết các sản phẩm thì họ lại dựng lên các rào cản
đối với hàng dệt may nhằm hạn chế nhập khẩu mặt hàng này. Vì vậy, giống
như nông sản, hàng dệt may cũng là một vấn đề hóc búa trong WTO. Trước
Vòng đàm phán Uruguay, thương mại hàng dệt may được điều chỉnh bởi Hiệp
định Đa sợi (MFA). Hiệp định này cho phép các nước được ký kết các hiệp
định song phương hoặc tiến hành các hành động đơn phương để đặt ra hạn
ngạch nhập khẩu hàng dệt may. Hệ thống này rất bất lợi cho các nước đang
phát triển, vốn rất có tiềm năng về mặt hàng này.
Tại Vòng đàm phán Uruguay, Hiệp định về hàng Dệt - May (ATC) đã
được ký kết. Hiệp định cũng quy định rõ chương trình nhất thể hoá các sản
phẩm dệt và may vào hệ thống thương mại đa biên. Tuy nhiên, hiệp định ATC
không xoá bỏ hạn chế đối với hàng dệt may ngay lập tức mà được chuyển tiếp
trong vòng 10 năm (1995-2005), chia làm 4 giai đoạn. Tỷ lệ tối thiểu các sản
phẩm được nhất thể hoá của từng giai đoạn sẽ là 16, 17 và 18% và trước ngày
1/12005, toàn bộ sản phẩm hàng dệt và may sẽ hoàn toàn được hoà nhập vào
23
hệ thống chính sách thương mại đa phương của WTO.
(cid:31)- Đưa những sản phẩm vào chịu sự điều chỉnh của cơ chế thương mại
Việc thực thi Hiệp định Dệt - May được thực hiện thành hai tuyến:
đa biên và một khi những sản phẩm đó được nhất thể hoá (integrated) thì
(cid:31)- Nới lỏng các hạn chế số lượng với các sản phẩm còn lại, từ hạn mức
không được áp dụng hạn chế số lượng nữa.
cơ sở được xác định (với mức tối thiểu quy định) và áp dụng cơ chế linh hoạt
cho nước xuất khẩu sử dụng hạn chế đó. Nước áp dụng hạn ngạch cần thông
báo rõ các tiêu thức trên. Trong thời gian chuyển tiếp, dần dần tự do hoá
thương mại đối với những mặt hàng trước đây thuộc diện áp dụng hạn ngạch.
Hiệp định cũng cho phép trong thời kỳ chuyển tiếp được áp dụng những
biện pháp tự vệ. Chỉ những thành viên đã tiến hành những chương trình “nhất
thể hoá” được áp dụng những biện pháp này. Việc áp dụng chỉ có thể được tiến
hành trên cơ sở đã thực hiện hai bước liên tiếp: (1) chứng minh được có sự tổn
hại hay đe doạ gây tổn hại do nhập khẩu tăng lên đột ngột và (2) có mối liên hệ
trực tiếp giữa sự tổn hại đó với sự tăng vọt số lượng nhập khẩu.
d/ Lĩnh vực đầu tư
Trước đây, khi bắt đầu Vòng đàm phán Uruguay, các bên có tham vọng
đi dến một hiệp định đầu tư đa phương tương đối toàn diện, đề cập đến cả các
vấn đề chính sách có tác động tới lưu chuyển đầu tư trực tiếp nước ngoài, vấn
đề áp dụng các nguyên tắc của GATT là NT (cho các công ty nước ngoài
được hưởng các quyền lợi tương tự như các công ty trong nước về đầu tư,
thành lập và hoạt động trong nội địa) và nguyên tắc MFN (không cho phép
các nước phân biệt đối xử giữa các nguồn đầu tư khác nhau) trong đầu tư. Tuy
nhiên, những đề xuất, mặc dù được các nước phát triển rất ủng hộ, đã vấp
phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía các nước đang phát triển, với lý do là
khuôn khổ GATT không cho phép đàm phán các vấn đề đầu tư và nếu tiến
hành đàm phán thì phải đưa cả vấn đề buôn bán giữa các công ty xuyên quốc
gia như giá chuyển nhượng, các biện pháp hạn chế kinh doanh và các hành vi
khác vào phạm vi đàm phán. Kết quả là trong vòng đàm phán này, các nước
chỉ đề cập đến đầu tư trong một phạm vi hẹp - các biện pháp đầu tư liên quan
24
đến thương mại.
Hiệp định Đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) điều chỉnh các
biện pháp được áp dụng trong lĩnh vực đầu tư nhưng đồng thời liên quan đến
thương mại hàng hoá (không điều chỉnh các lĩnh vực nằm ngoài thương mại
hàng hoá). Trong số rất nhiều các biện pháp đầu tư có tác động bóp méo
thương mại, Hiệp định TRIMs không cho phép các nước thành viên áp dụng 5
biện pháp được coi là vi phạm nguyên tắc NT và không hạn chế số lượng sau
đây:
- Yêu cầu các doanh nghiệp phải mua hoặc sử dụng các sản phẩm có
xuất xứ trong nước hoặc từ một nguồn cung cấp trong nước, hoặc
- Yêu cầu doanh nghiệp chỉ được mua hoặc sử dụng các sản phẩm nhập
khẩu được giới hạn trong một tổng số tính theo số lượng hoặc giá trị sản
phẩm nội địa mà doanh nghiệp này xuất khẩu.
- Hạn chế việc doanh nghiệp nhập khẩu dưới hình thức hạn chế chung
hoặc hạn chế trong một tổng số liên quan đến số lượng hoặc giá trị sản xuất
trong nước mà doanh nghiệp đó xuất khẩu;
- Yêu cầu doanh nghiệp thu ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng
nhhu cầu nhập khẩu của mình;
- Yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu hoặc bán một mặt hàng nhất
định, hoặc chỉ được xuất khẩu hàng hoá tương ứng với số lượng và giá trị
hàng hoá sản xuất trong nước của doanh nghiệp.
Có 3 điều khoản trong Hiệp định TRIMs qui định sự đối xử đặc biệt và
khác biệt giành cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Những điều
khoản này bao gồm 2 loại: (1) Sự linh hoạt trong cam kết, thực hiện và sử
dụng các công cụ chính sách; (2) Thời gian ân hạn.
6. Các hoạt động đặc biệt
Chức năng chủ yếu của WTO là tạo một khuôn khổ quy định cho các
cuộc đàm phán thương mại và bắt buộc các nước thành viên phải tôn trọng
luật chơi thương mại đa phương đã được chính những quốc gia này thống
nhất (ngay cả trong quá trình giải quyết tranh chấp). Trong việc thực thi
những chức năng trên, WTO đặc biệt chú trọng bốn hoạt động: (1) Hỗ trợ các
25
nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi; (2) Trợ
giúp đặc biệt cho việc thúc đẩy xuất khẩu; (3) Hợp tác để soạn thảo các chính
sách kinh tế trên quy mô toàn cầu; (4) Thường xuyên thông báo những biện
pháp thương mại mới được các quốc gia thành viên thông qua và những thay
đổi liên quan đến những biện pháp hiện hành.
Thứ nhất: Hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước đang trong
quá trình chuyển đổi
Các nước đang phát triển chiếm tới 3/4 số lượng thành viên của WTO.
Cùng với các nước đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, các nước đang phát triển có thể sẽ đóng một vai trò ngày càng quan
trọng tại WTO một khi số lượng thành viên thuộc hai nhóm nước này càng
ngày càng tăng.
Chính vì vậy, WTO dành một sự quan tâm lớn đối với những nhu cầu
cũng như những vấn đề riêng của các nước đang phát triển và các nước đang
trong quá trình chuyển đổi. Viện đào tạo và hợp tác kỹ thuật trực thuộc Ban
thư ký của WTO tổ chức một số chương trình hỗ trợ để giải thích quá trình
hoạt động của WTO và đào tạo các chuyên gia và các nhà thương thuyết cho
các quốc gia. Một số hoạt động này diễn ra ở Geneva, đa số còn lại được tổ
chức tại các quốc gia có liên quan. Nhiều chương trình hỗ trợ, tổ chức dưới
hình thức các khoá đào tạo, được phối hợp chuẩn bị cùng với các tổ chức
quốc tế khác. Một chương trình hỗ trợ khác là các chương trình của riêng
WTO dành cho các quốc gia có liên quan.
Các hình thức hỗ trợ hết sức đa dạng, WTO có thể giúp các ứng viên
tiến hành các hoạt động thương lượng để gia nhập tổ chức và thực thi những
cam kết được đưa ra trong khuôn khổ WTO, hoặc WTO đưa ra những lời tư
vấn cần thiết cho phép các nước thành viên tham gia một cách thiết thực hơn
vào các cuộc thương lượng đa phương. Ngoài ra, các nước đang phát triển,
đặc biệt các nước chậm phát triển nhất trong số này nhận được những thông
tin thương mại và thuế quan liên quan đến lợi ích của họ trong lĩnh vực xuất
khẩu đến cũng như sự tham gia của họ trong các hoạt động của các cơ quan
trực thuộc WTO.
26
Thứ hai: Trợ giúp đặc biệt cho việc tăng cường xuất khẩu
Trung tâm thương mại quốc tế được GATT thành lập vào năm 1964
theo yêu cầu của các nước đang phát triển để hỗ trợ các nước này tăng cường
xuất khẩu. Hiện nay, trung tâm được đặt đưới sự đồng quản lý của WTO và
Liên hợp quốc, tổ chức này thực thi nhiệm vụ quản lý thông qua Hội nghị
Liên hợp quốc về thương mại và phát triển - UNCTAD.
Trung tâm đáp ứng những yêu cầu trợ giúp kỹ thuật do các nước đang
phát triển đệ trình. Các nước này mong muốn thực thi những chương trình tăng
trưởng xuất khẩu cũng như những hoạt động và phương thức nhập khẩu. Trung
tâm cung cấp những thông tin và ý kiến tư vấn về những thị trường xuất khẩu
và những kỹ thuật thương mại hoá. Trung tâm hỗ trợ việc thành lập những cơ
quan xúc tiến xuất khẩu, thương mại hoá và đào tạo nhân lực cần thiết. Đối với
những nước kém phát triển nhất, trợ giúp của Trung tâm là miễn phí.
Thứ ba: Soạn thảo các chính sách kinh tế trên quy mô toàn cầu
Một khía cạnh quan trọng trong trọng trách của WTO là tổ chức này
phải phối kết hợp với Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới và các thể chế
đa phương khác để có được một sự đồng nhất cao trong việc soạn thảo các
chính sách kinh tế trên quy mô toàn cầu. Một tuyên bố riêng được Hội nghị
Bộ trưởng ở Marrakech đưa ra vào tháng 4 năm 1994, nhằm nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của mục tiêu này.
Tuyên bố trên tính đến vai trò đóng góp ngày càng tăng của WTO vào
việc đạt được một sự đồng nhất cao trong việc soạn thảo các chính sách kinh
tế trên quy mô toàn cầu. Tuyên bố cũng thừa nhận là các khía cạnh khác nhau
của chính sách kinh tế có liên quan với nhau và khuyến khích WTO thúc đẩy
sự hợp tác với các thể chế quốc tế có thẩm quyền trong lĩnh vực tiền tệ và tài
chính như WB và IMF.
Tuyên bố này cũng thừa nhận rằng việc tự do thương mại tạo điều kiện
thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển của các nền kinh tế. Việc tự do hoá
này là một nhân tố càng ngày càng quan trọng để đảm bảo sự thành công của
các chương trình điều chỉnh kinh tế được nhiều nước tiến hành. Những
chương trình điều chỉnh này, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế có thể đặt
27
ra nhiều thách thức lớn về mặt xã hội.
Thứ tư: Thực hiện minh bạch
Minh bạch 1: thường xuyên thông tin cho WTO. Thông thường, cách
thức duy nhất để xem xét các cam kết có được thực hiện đầy đủ hay không là
đề nghị các nước có liên quan thông báo sớm nhất bằng văn bản cho WTO về
những biện pháp hữu hiệu mà các nước này đã đưa ra. Một số lớn các thoả
thuận tại WTO quy định nghĩa vụ của các chính phủ thành viên là phải thông
báo cho Ban thư ký WTO những biện pháp thương mại mới mà họ đã thông
qua hoặc những thay đổi mà họ thực hiện đối với những biện pháp hiện hành.
Chính vì thế, một số thông tin chi tiết đã được gửi tới các cơ quan có thẩm
quyền của WTO liên quan đến những sắc luật mới trong lĩnh vực chống bán
phá giá hoặc thuế đối kháng, đến những quy chuẩn kỹ thuật mới áp dụng
trong thương mại, hoặc đến những thay đổi trong quy định điều chỉnh hoạt
động thương mại dịch vụ, và các luật hay quy định liên quan đến hiệp định về
quyền sở hữu trí tuệ. Nhiều nhóm công tác đặc biệt cũng đã được thành lập để
xem xét những thoả thuận mới về tự do thương mại và các chính sách thương
mại của các nước đang trong quá trình gia nhập WTO.
Minh bạch 2: thường xuyên thông tin cho công chúng. Kênh thông tin
công cộng quan trọng nhất của WTO là trang Web của tổ chức này. Những
thông tin liên quan đến những hoạt động của tổ chức được cập nhật hàng
ngày. Những thông tin có sẵn trên mạng chủ yếu là những thông tin và khái
niệm giải thích mang tính chất chung, liên quan đến một loạt những câu hỏi
dạng như "Tìm hiểu về WTO". Những người nào muốn theo dõi các hoạt
động cụ thể của WTO có thể tham khảo và tải từ trên mạng một số lượng
ngày càng nhiều tài liệu mang tính chính thức, hiện nay con số này là hơn
150.000 đầu tài liệu.
Ngày 14 tháng 5 năm 2002, Đại hội đồng của WTO đã quyết định tạo
điều kiện cho công chúng dễ dàng tiếp cận số lượng tài liệu nhiều hơn nữa
ngay từ khi những tài liệu này được phát hành. Đại hội đồng cũng quyết định
rằng một số tài liệu hiện chiếm một tỷ lệ nhỏ và không được lưu hành rộng rãi
sẽ được công bố công khai sớm hơn, khoảng hai tháng sau khi được lưu hành,
thay vì sáu tháng như trước đây. Đây là một quyết định quan trọng thứ hai
28
liên quan đến tính minh bạch. Ngày 18 tháng 7 năm 1996, Đại hội đồng cũng
đã nhất trí rằng WTO sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn nữa về những hoạt
động của mình cho công chúng và cơ quan này quyết định rằng những tài liệu
phổ biến cho công chúng kể cả những tài liệu được phân phát chung trong tổ
chức này có thể được truy cập trực tiếp trên mạng máy tính.
Mục đích của những quyết định trên là để phổ biến thông tin rộng rãi
cho công chúng. Các phương tiện nghe nhìn là một kênh thông tin quan trọng
và những cuộc họp báo về tất cả những cuộc họp lớn của WTO cũng được tổ
chức tại Geneva để phục vụ các nhà báo - và càng ngày càng nhiều thông tin
được chuyển tải qua thư điện tử hoặc các kênh thông tin khác cho các nhà báo
trên toàn thế giới.
Song song với kênh thông tin trên, theo dòng thời gian, Ban thư ký của
WTO đã tăng cường đối thoại với xã hội dân sự - các Tổ chức phi chính phủ
(NGO) mà WTO quan tâm, các nghị sĩ quốc hội, sinh viên, giáo sư đại học và
các nhóm nghề nghiệp khác.
Trong thời gian trước khi Hội nghị cấp Bộ trưởng WTO diễn ra ở Doha
năm 2001, các thành viên của WTO đã đề xuất và thông qua nhiều hoạt động
mới liên quan đến NGO. Năm 2002, Ban thư ký WTO đã tăng cường các cuộc
họp báo cung cấp thông tin cho NGO về tất cả các kỳ họp quan trọng của Tổ
chức và Ban thư ký đã bắt đầu công bố lịch trình của những buổi họp báo này
tại địa chỉ của mình trên mạng Internet. Các NGO cũng thường xuyên được
mời đến trụ sở WTO để trực tiếp giới thiệu cho đại diện của các chính phủ
thành viên WTO những kết quả nghiên cứu và phân tích mới nhất của mình.
Một danh sách cập nhật hàng tháng về những bản thông tin xuất phát
mà Ban thư ký nhận được từ các NGO cũng được thiết lập và phân phát cho
các chính phủ thành viên để tham khảo. Một tập san thông tin điện tử ra hàng
tháng cũng được cung cấp cho các NGO, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
29
việc tiếp cận với các thông tin được WTO công bố.
NHỮNG HỆ QUẢ BẤT LỢI TỪ WTO
ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
TS. Trịnh Thị Ái Hoa
WTO ra đời ngày 1/1/1995, trên cơ sở tổ chức tiền thân của nó là
GATT, đã có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển thương mại toàn
cầu, bảo đảm nguòn lực thế giới được sử dụng hiểu quả hơn. Các nước phát
triển và đang phát triển đều được hưởng những lợi ích to lớn khi tham gia tổ
chức thương mại toàn cầu này. Tuy nhiên, lợi ích mà các quốc gia được
hưởng từ việc tham gia tổ chức này là không như nhau, thậm chí là không
công bằng. Bài viết này sẽ đi vào phântích những hệ quả bất lợi từ WTO đối
với các nước đang phát triển.
1. Những bất lợi của các nước đang phát triển trong WTO
WTO là một tổ chức nên mỗi thành viên có quyền một phiếu bầu. Các
nước đang phát triển chiếm số lượng lớn trong WTO. Về nguyên tắc, quyền
lợi của các nước đang phát triển được phản ánh đúng trong tổ chức này do họ
có lợi thế về số lượng. Trên thực tế, các nước đang phát triển lại lâm vào thế
thua thiệt trên nhiều lĩnh vực ở trong tổ chức này.
Các hiệp định WTO thường chứa đựng những diễn đạt không tường
minh. Để hiểu rõ những vấn đề đó đòi hỏi phải bàn bạc trao đổi, đấu tranh
trong các ủy ban, các nhóm công tác giữa các thành viên. Trong những cuộc
đàm phán, đấu tranh đó, lợi thế thường thuộc về các nước phát triển. Bởi lẽ,
họ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc đưa ra các luận cứ pháp lí phức tạp,
họ có khả năng thuê đội ngũ chuyên gia pháp luật mạnh để biện hộ cho họ.
Mặt khác, các hiệp định WTO rất phức tạp về kĩ thuật. Đại diện của các
nước thành viên, nhất là đối với các nước đang phát triển, phải nắm rất vững
chuyên môn kỹ thuật thì mới hiểu được các hệ quả của những hiệp định đó.
Nhiều nước đang phát triển đã không có khả năng kỹ thuật đó. Nhiều người
cho rằng, nhiều nước đang phát triển đã ký các hiệp định của GATT, WTO
mà không hoàn toàn hiểu hết được những hệ quả của những hiệp định đó đối
30
với các nước đang phát triển.
Hơn nữa, các nước đang phát triển còn gặp khó khăn trong vấn đề đại
diện của mình. Vì WTO có quá nhiều hiệp định bao quát rất nhiều lĩnh vực
liên quan đến thương mại. Do vậy, bình quân mỗi ngày có đến gần 10 cuộc
họp tại WTO. Các nước phát triển có thể cử người đến dự ngay hoặc họ có thể
có một đội ngũ đông đảo các đại diện tại chỗ để tham gia các cuộc họp. Trong
khi đó, các nước đang phát triểm đã không có khả năng đó. Phần lớn các nước
đang phát triển chỉ có một hoặc hai đại diện tại Geneva. Những người này còn
kiêm nhiệm nhiều công việc khác như đại diện cho quốc gia ở các cơ quan
của Liên Hợp Quốc. Một số nước còn không có đại diện hoặc sử dụng chung
một đại diện. Theo Greenpeace (1998), tại Geneva, có tới 2340 cuộc họp
chính thức của WTO.
Như vậy, các nước đang phát triển không thể có mặt đầy đủ tại các
cuộc họp của WTO để có tiếng nói bảo vệ cho quyền lợi của mình, do không
đủ người đại diện (đó là chưa nói tới trình độ, khả năng bao quát nhiều lĩnh
vực của những đại diện quốc gia).
Một bất lợi nữa của các nước đang phát triển tại WTO, đó là vấn đề
giải quyết tranh chấp. Một số nhà nghiên cứu cho rằng quy trình giải quyết
tranh chấp tại WTO, về cơ bản là quy trình pháp lý. Tuy nhiên, các nước đang
phát triền thường không có những quyền lực pháp lý hoặc kinh nghiệm
chuyên môn để sử dụng cơ quan giải quyết tranh chấp một cách có hiệu quả.
Họ cũng không đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện các biện pháp trả đũa về
thương mại. Do vậy, so với các nước phát triển, các nước đang phát triển lại
rơi vào thế bất lợi trong vấn đề giải quyết tranh chấp trong WTO.
Bên cạnh đó, do có nhiều lợi ích khác nhau, các nước đang phát triển
chưa có cớ chế phối hợp có hiệu quả để phát huy lợi thế số đông trong WTO.
Chính vì vậy, các nước phát triển, đặc biệt là Hoa Kì và các nước EU, đã có
điều kiện thao túng chương trình nghị sự của WTO.
2. Những bất lợi từ Hiệp định Nông nghiệp
Các điều khoản của Hiệp định Nông nghiệp được quy định trên bốn
31
vấn đề chủ yếu, bao gồm: tiếp cận thị trường, trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ sản
xuất trong nước; các tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn.
C¸c quy ®Þnh ®−îc ¸p dông kh¸c nhau ®èi víi c¸c n−íc kh¸c
nhau. C¸c n−íc thµnh viªn kÐm ph¸t triÓn ®−îc −u ®·i ®Æc biÖt
th«ng qua lÞch tr×nh thùc hiÖn gi¶m thuÕ quan vµ trî cÊp kÐo dµi.
Cßn ®èi víi c¸c n−íc kh¸c, HiÖp ®Þnh N«ng nghiÖp quy ®Þnh nh−
sau:
VÒ tiÕp cËn thÞ tr−êng, c¸c n−íc ph¶i thùc hiÖn thuÕ quan
ho¸ t−¬ng ®−¬ng c¸c biÖn ph¸p h¹n ng¹ch vµ phi thuÕ quan. Møc
thuÕ quan t−¬ng ®−¬ng cña c¸c biÖn ph¸p phi thuÕ quan ®−îc lÊy
møc c¬ së lµ n¨m 1986 -1988. C¸c n−íc ph¸t triÓn sÏ ph¶i c¾t
gi¶m 36% thuÕ trong 6 n¨m, c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn c¾t gi¶m
24% trong 10 n¨m (1995 - 2004) (tÝnh møc tæng sè c¾t gi¶m chø
kh«ng ph¶i tÝnh trung b×nh cho mäi mÆt hµng). Møc c¾t gi¶m tèi
thiÓu cho mét mÆt hµng lµ 15% ®èi víi c¸c n−íc ph¸t triÓn vµ 10%
®èi víi c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn vµ tiÕn tr×nh c¾t gi¶m ph¶i ®−îc
tiÕn hµnh ®Òu ®Æn theo tõng n¨m. HiÖp ®Þnh còng quy ®Þnh hai
ngo¹i lÖ ®èi víi qu¸ tr×nh thuÕ ho¸, ®ã lµ: 1) Trong nh÷ng hoµn
c¶nh nhÊt ®Þnh, c¸c n−íc ®−îc sö dông quyÒn tù vÖ; 2) C¸c n−íc
®−îc h−ëng c¸c −u ®·i ®Æc biÖt trong mét sè mÆt hµng n«ng s¶n
nhÊt ®Þnh [1, tr 403].
VÒ hç trî s¶n xuÊt trong n−íc vµ vÒ trî cÊp xuÊt khÈu, HiÖp
®Þnh N«ng nghiÖp ph©n lo¹i c¸c hç trî trong n−íc ®èi víi n«ng
nghiÖp thµnh nh÷ng nhãm kh¸c nhau c¨n cø trªn møc ®é ¶nh
h−ëng cña c¸c biÖn ph¸p nµy ®èi víi th−¬ng m¹i trong n«ng
nghiÖp, bao gåm:
- C¸c biÖn ph¸p “hép xanh” (green box) ¶nh h−ëng tíi
th−¬ng m¹i Ýt nhÊt nªn ®−îc chÊp nhËn. §ã lµ c¸c biÖn ph¸p cøu
trî khi cã thiªn tai, nghiªn cøu, kiÓm so¸t dÞch bÖnh, c¬ së h¹
tÇng, b¶o vÖ m«i tr−êng vµ an toµn l−¬ng thùc.
- C¸c biÖn ph¸p “hép xanh da trêi” (blue box) nh− c¸c thanh
32
to¸n trùc tiÕp cho ng−êi s¶n xuÊt trong c¸c ch−¬ng tr×nh h¹n chÕ
s¶n xuÊt ®Æc biÖt cña c¸c n−íc EU (ch−¬ng tr×nh båi th−êng cho
n«ng d©n) vµ MÜ (ch−¬ng tr×nh thanh to¸n chªnh lÖch), kh«ng cam
kÕt c¾t gi¶m.
- C¸c biÖn ph¸p trong “hép vµng” (amber box) gåm trî gi¸;
c¸c thanh to¸n trùc tiÕp kh«ng ph¶i lµ ngo¹i lÖ; nh÷ng biÖn ph¸p
cã ¶nh h−ëng tíi th−¬ng m¹i trong n«ng nghiÖp vµ ph¶i c¾t gi¶m.
C¸c n−íc ph¸t triÓn ph¶i c¾t gi¶m ®Òu 20% møc ®é trî cÊp so víi
l−îng hç trî tæng céng (AMS) cña giai ®o¹n c¬ së 1986 – 1988,
trong vßng 6 n¨m vµ c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn lµ 13,3% trong vßng
10 n¨m.
- Giíi h¹n c¸c biÖn ph¸p hç trî cho phÐp c¸c n−íc duy tr× ë
møc ®é nhÊt ®Þnh l−îng hç trî hµng n¨m tÝnh b»ng tiÒn cña c¸c
biÖn ph¸p hç trî trong n−íc (l−îng hç trî tæng céng AMS). C¸c
n−íc ph¸t triÓn ®−îc phÐp duy tr× cao nhÊt lµ 5% møc hç trî s¶n
xuÊt ®èi víi c¸c s¶n phÈm cô thÓ còng nh− ®èi víi tæng l−îng hç
trî s¶n xuÊt n«ng nghiÖp trong n−íc. C¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn
®−îc duy tr× tèi ®a lµ 10%.
- C¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn ®−îc sö dông c¸c trî cÊp ®Çu t−
vµ ®Çu vµo kh¸c ®Ó thóc ®Èy s¶n xuÊt n«ng nghiÖp.
§èi víi trî cÊp xuÊt khÈu, HiÖp ®Þnh N«ng nghiÖp quy ®Þnh
c¸c n−íc ph¸t triÓn ph¶i gi¶m 21 % trî cÊp (tÝnh theo l−îng trî
cÊp), 36% (tÝnh theo tiÒn) trong vßng 6 n¨m, c¸c n−íc ®ang ph¸t
triÓn lµ 14% (theo l−îng) vµ 24% (theo tiÒn) trong vßng 9 n¨m.
Thêi kú c¬ së cña c¾t gi¶m trî cÊp xuÊt khÈu ®−îc tÝnh tõ 1986 -
1990.
Trong qu¸ tr×nh c¾t gi¶m, c¸c n−íc cã thÓ linh ho¹t tuú theo
sù biÕn ®éng cña thÞ tr−êng vµo thêi ®iÓm tõ 2 ®Õn 5 n¨m ®Çu, cho
phÐp c¸c n−íc cã thÓ tiÕp tôc trî cÊp xuÊt khÈu. Tuy nhiªn, nÕu
®iÒu nµy x¶y ra th× møc trî cÊp trong n¨m tiÕp theo ph¶i bÞ c¾t
gi¶m tiÕp ®Ó b¶o ®¶m møc c¾t gi¶m tæng céng trong toµn bé quy
33
tr×nh kh«ng bÞ ¶nh h−ëng.
C¸c cam kÕt c¾t gi¶m ®−îc thùc hiÖn theo nhãm s¶n phÈm
chø kh«ng theo tõng s¶n phÈm cô thÓ. C¸c n−íc kh«ng ®−îc phÐp
bæ sung thªm c¸c h×nh thøc trî cÊp míi còng nh− kh«ng ®−îc t¨ng
thªm trî cÊp so víi c¸c lo¹i h×nh vµ sè l−îng trî cÊp trong thêi kú
c¬ së, trõ nh÷ng trî cÊp ®−îc miÔn trõ c«ng bè trong lÞch tr×nh c¾t
gi¶m cña n−íc ®ã [1, tr 406].
VÒ c¸c tiªu chuÈn vÖ sinh vµ søc khoÎ, HiÖp ®Þnh vÒ biÖn
ph¸p vÖ sinh dÞch tÔ SPS cña WTO cã x¸c ®Þnh c¸c nguyªn t¾c vµ
quy ®Þnh vÒ vÖ sinh còng nh− tiªu chuÈn s¶n xuÊt kh¸c ®èi víi
n«ng s¶n xuÊt khÈu. HiÖp ®Þnh nµy yªu cÇu c¸c n−íc ph¶i:
- Sö dông nh÷ng tiªu chuÈn, h−íng dÉn hoÆc khuyÕn nghÞ
quèc tÕ lµm c¬ së cho c¸c quy ®Þnh vÒ SPS cña hä.
Tham gia tích cùc ho¹t ®éng cña c¸c tæ chøc quèc tÕ, ®Æc
biÖt lµ §¹o luËt vÒ Thùc phÈm ¨n uèng, HiÖp ®Þnh vÒ B¶o vÖ thùc
vËt quèc tÕ nh»m ®Èy m¹nh viÖc hoµ hîp ho¸ c¸c quy ®Þnh SPS
trªn thÕ giíi. T¹o ®iÒu kiÖn cho c¸c ®èi t¸c ë nh÷ng n−íc kh¸c cã
c¬ héi ®Ó ®ãng gãp ý kiÕn vµo dù th¶o c¸c tiªu chuÈn nµy nÕu
chóng kh«ng cã c¨n cø trªn c¸c quy ®Þnh tiªu chuÈn quèc tÕ hoÆc
khi c¸c tiªu chuÈn quèc tÕ ®−îc coi lµ kh«ng phï hîp.
- ChÊp nhËn nh÷ng biÖn ph¸p SPS cña c¸c n−íc xuÊt khÈu
nÕu nh÷ng tiªu chuÈn nµy ®¹t møc ®é t−¬ng tù nh− møc ®é cña c¸c
n−íc nhËp khÈu.
- WTO còng cho phÐp mét n−íc cã thÓ duy tr× biÖn ph¸p SPS
cã møc ®é b¶o hé cao h¬n møc ®é b¶o hé cña c¸c tiªu chuÈn quèc
tÕ nÕu ®−a ra ®−îc nh÷ng b»ng chøng khoa häc, nÕu n−íc ®ã cho
r»ng møc ®é b¶o hé cao h¬n ®ã lµ phï hîp. HiÖp ®Þnh nµy còng
®−a ra nh÷ng h−íng dÉn nhÊt ®Þnh vµ chØ râ r»ng møc ®é b¶o hé
phï hîp. HiÖp ®Þnh còng ®−a ra nh÷ng h−íng dÉn nhÊt ®Þnh vµ chØ
râ r»ng møc ®é b¶o hé phï hîp ph¶i dùa trªn viÖc ®¸nh gi¸ rñi ro
34
trong hoµn c¶nh nhÊt ®Þnh, nh÷ng b»ng chøng vÒ khoa häc râ rµng,
c¸c ph−¬ng ph¸p vµ quy tr×nh s¶n xuÊt vµ sù hoµnh hµnh cña s©u
bÖnh hoÆc dÞch bÖnh.
§èi víi c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn, HiÖp ®Þnh SPS quy ®Þnh c¸c n−íc kÐm
ph¸t triÓn nhÊt cã thÓ ho·n viÖc thùc hiÖn c¸c ®iÒu kho¶n vÒ nhËp khÈu trong
vßng 5 n¨m, c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn kh¸c cã thÓ ho·n thùc hiÖn c¸c ®iÒu
kho¶n nµy, trõ phÇn liªn quan tíi ®¸nh gi¸ rñi ro vµ minh b¹ch ho¸ ®Õn cuèi
n¨m 1996. HiÖp ®Þnh còng quy ®Þnh viÖc hç trî kü thuËt gi÷a c¸c thµnh viªn,
®Æc biÖt lµ ®èi víi c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn, ®Ó cñng cè hÖ thèng an toµn thùc
phÈm, vÖ sinh ®éng thùc vËt. HiÖp ®Þnh khuyÕn khÝch c¸c n−íc cã sù linh
ho¹t, nÕu cã thÓ, trong viÖc ¸p dông c¸c quy ®Þnh vÖ sinh dÞch tÔ cã ¶nh h−ëng
tíi c¸c s¶n phÈm thuéc lîi Ých cña c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn. HiÖp ®ịnh còng
cho phÐp Uû ban, trong mét sè tr−êng hîp cô thÓ, ®−a ra c¸c ngo¹i lÖ ®Æc biÖt,
gia h¹n vÒ thêi gian, ®èi víi c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn trong viÖc thùc hiÖn
nghÜa vô cña m×nh [1, tr 132].
ë ®©y, d−êng nh− trong c¸c ®iÒu kho¶n cña HiÖp ®Þnh N«ng nghiÖp ®·
cã nhiÒu −u ®Éi ®èi víi c¸c n−íc §PT. Tuy nhiên, xem xét kĩ chúng ta có thể
thấy thực tế không hoàn toàn như vậy.
Thứ nhất, việc lựa chọn năm cơ sở để cắt giảm thuế và trợ cấp (1986-
1988), trong đó, Mỹ và EU là người chi phối việc ấn định lựa chọn đó, là có
lợi cho họ. Bởi lẽ, bất cứ cắt giảm trợ cấp nào từ năm cơ sở đến năm kí hiệp
định đều được tính là một phần nghĩa vụ cắt giảm theo qui định của Hiệp định
Nông Nghiệp.
Mặt khác khái niệm trợ cấp trong Hiệp định cũng được định nghĩa lại.
Theo đó, các khoản cấp cho nông sản khi thu hoach vẫn tính là trợ cấp, nhưng
các khoản trợ cấp tính trên diện tích canh tác hoặc trên đầu gia súc không bị
xếp vào mục trợ cấp nữa. Định nghĩa trợ cấp như vậy, EU và Mỹ lập luận
rằng những khoản trợ cấp đó không gây ra bóp méo thương mại vì chúng
không khuyến khích nông dân sản xuất quá mức, mặc dù trên thực tế, những
nông dân được hưởng trợ cấp đó vẫn xuất khẩu phần lớn nông sản của họ đã
35
sản xuất ra.
Với cách định nghĩa những trợ cấp như vậy, các nước phát triển vẫn có
thể tiếp tục duy trì mức độ trợ cấp như trước thông qua trợ cấp cho nông dân
theo diện tích canh tác và số đầu gia súc được chăn nuôi. Do vậy, sau khi kí
hiệp định Nông nghiệp, Mỹ và EU có thể tuyên bố ngay rằng họ đã hoàn
thành nghĩa vụ cắt giảm trợ cấp. Trong khi đó, các nước đang phát triển
không thể trực tiếp trợ cấp cho nông dân như Mỹ và EU. Bởi lẽ, số nông dân
ở các nước đang phát triển chiếm tỷ lệ quá cao, trong khi khả năng tài chính
của chính phủ lại hạn hẹp. Hơn nữa, nhiều nước ĐPT chưa có và chưa đủ điều
kiện để có được các số liệu thống kê về diện tích canh tác của các trang trại
hay số đầu gia súc được nuôi.
Thứ hai, về việc thực hiện thuế quan hóa các rào cản phi thuế quan,
trước khi tiến hành giảm thuế quan, Mỹ và các nước EU đã chủ tâm ước tính
giá trị các rào cản phi thuế quan của họ quá cao để thực hiện thuế quan hóa
tương đương rồi mới đi tới bước cắt giảm thuế quan. Làm như vậy, Mỹ và EU
vẫn duy trì được mức bảo hộ thị trường của họ ít nhất cũng bằng mức cũ.
“Một nghiên cứu mới đây về hiệu quả của việc thuế quan hóa lập luận rằng
thực tế nó đã làm tăng sự bảo hộ thị trường của EU và Hoa Kỳ ở các mức
đáng kể” [3,trang 92].
Thứ ba, Hiệp định quy định các nước không phải giảm thuế cùng một
mức cho mọi sản phẩm mà phải giảm bình quân 36% và đối với một sản
phẩm, mức sản phẩm thấp nhất là 15%. Như vậy, chính phủ các nước có thể
giảm rất nhiều, thậm chí xóa bỏ hoàn toàn thuế đối với sản phẩm không ảnh
hưởng đối với nền kinh tế của mình (đã được áp dụng mức thuế rất thấp) và
được coi là giảm 100% thuế. Đối với rất nhiều sản phẩm khác, cớ mức thuế
rất cao, sẽ được cắt giảm 15%, và tính tổng lại họ vẫn thực hiện giảm bình
quân 36%.
Trong khi đó, mức trợ cấp nông nghiệp tại các nước đang phát triển rất
thấp so với các nước phát triển, song họ vẫn phải giảm 2/3 mức trợ cấp. Mặc
dù có một số ưu tiên cho các nước đang phát triển, nhưng do thiếu chuyên
môn kỹ thuật nên các nước đang phát triển không thể khai thác sử dụng được
36
các ưu tiên đó cũng như nhiều điều khoản khác trong hiệp định.
Thứ tư, Quyết định Marrakesh trong Hiệp định Nông nghiệp nhằm giải
quyết trường hợp giá lương thực sẽ cao hơn và không ổn định, hay việc giảm
bớt viện trợ lương thực trên qui mô thế giới sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế của
những nước nhập khẩu lương thực. Những biện pháp đó bao gồm:
- Hỗ trợ tài chính đề bù đắp cho giá lương thực thế giới cao hơn.
- Giữ mức viện trợ lương thực thích hợp.
- Hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để tăng năng suất nông nghiệp.
Tuy nhiên, các nước phát triển đã không thực hiện cam kết đó khi giá
lương thực tăng gấp đôi vào năm 1995 – 1996. Vì theo họ, giá lương thực
tăng không phải do Hiệp định gây nên.
Thứ năm, các nước đang phát triển là thành viên WTO đang gặp khó
khăn trong việc thực hiện Hiệp định SPS. Các nước thành viên WTO còn có
sự khác việt lớn trong việc áp dụng cấ tiêu chuẩn tương đương và sự hài hoà
các tiêu chuẩn trong Hiệp định SPS. Các nước dang phát triển rất khó có các
tiêu chuẩn để được các nước phát triển chấp nhận là tương đương. Sự hài hoà
các tiêu chuẩn khó thực hiện được giữa các nước, nhất là giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển. do điều kiện hạn chế về nguồn lực ở các
nước đang phát triển ngăn cản các nước này tiếp cận thông tin, công nghệ
thích hợp để thoả mãn các tiêu chuẩn SPS, tham gia vào các hoạt động thiết
lập các tiêu chuẩn quốc tế [2, trang 18].
Đánh giá tác động của Hiệp định Nông nghiệp, đã có nhiều ý kiến khác
nhau. Hiệp định Nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với thương mại quốc
tế và an ninh lương thực. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng đối với các nước
đang phát triển, Hiệp định chỉ nên được xem như một trong những hiệp định
và công ước quốc tế nhằm tự do hóa thương mại thế giới về lương thực. Đối
với các nước, ảnh hưởng của Hiệp định Nông nghiệp là khác nhau, một số
nghiên cứu cho rằng, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước Nam
Sahara châu Phi, tình hình sẽ xấu đi ở giai đoạn đầu.
Dưới đây là những phân tích về tác động của Hiệp định Nông nghiệp
37
theo nghiên cứu của Tỗ chức nông lương thế giới (FAO).
- Những điều khỏan về tiếp cận thị trường trong Hiệp định Nông
nghiệp nhằm mở cửa thị trường cho các nhà xuất khẩu, tăng khối lượng
thương mại lương thực thế giới. Nhưng trên thực tế, việc tiếp cận thị trường ít
được cải thiện. Theo đánh già của FAO, khối lượng thương mại thế giới ít
được tăng lên nếu không muốn nói là không tăng.
- Giá cả các mặt hàng được trợ cấp trước đây có xu hướng tăng lên.
Điều đó có lợi cho nhà xuất khẩu nhưng gây bất lợi cho nước xuất khẩu.
Giá cả các mặt hàng trước đây không được trợ cấp sẽ không bị ảnh
hưởng. Nhiều nước đang phát triển sẽ không có lợi gì từ xuất khẩu vì các mặt
hàng nông sản xuất khẩu của họ trước đây đã không được trợ cấp, nhưng họ
phải chịu giá nhập khẩu mặt hàng trước đây đã được trợ cấp, nay đã tăng lên.
Do đó, kết cục là họ bị thiệt khi có Hiệp định Nông nghiệp.
- Về ảnh hưởng của Hiệp định Nông nghiệp đối với việc ổn định giá cả
thị trường thế giới, FAO cho rằng còn quá sớm để đưa ra đánh giả đối với vấn
đề này.
3. Những bất lợi từ Hiệp định về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan
đến thương mại (TRIPs)
Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm bản quyền, thương hiệu, bằng sáng chế.
Hiệp định TRIPs quy định các tiêu chuẩn và qui định chung về bảo vệ sản
phẩm trí tuệ mà mọi thành viên của WTO phải tuân thủ.
Theo Hiệp định này, các tiêu chuẩn bảo vệ sản phẩm trí tuệ của các
nước phát triển phải được áp dụng tại các nước đang phát triển; nhiều nước
đang phát triển sẽ phải thực hiện bảo vệ một số loại sản phẩm như thuốc chữa
bệnh, giống loài cây, các loại lương thực, thực phẩm… một việc chưa từng
được làm trước đó tại các nước này; việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ sẽ được
gắn với hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO.
Hiệp định TRIPs đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải có luật pháp trên
toàn quốc đối với một sản phẩm hay một quy trình sản xuất cụ thể. Nếu hệ
thống luật của quốc gia không đảm bảo ngăn chặn được các hành vi vi phạm
38
bản quyền thì nước đó sẽ bị trựng phạt về thương mại theo các qui định về
giải quyết tranh chấp của WTO. Điều đó có nghĩa là dù muốn hay không, một
nước tham qia WTO, bắt buộc phải xây dựng hệ thống luật quốc gia về quyền
sở hữu trí tuệ hoặc tham gia Công ước UPOV (công ước của Liên minh bảo
vệ các giống loài cây mới).
Trong những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của Hiệp định
TRIPs, việc áp dụng các điều khoản của Hiệp định đối với cây trồng, vật nuôi
là vấn đề gây tranh cãi nhất.
Nhiều giống cây trồng của nông dân các nước đang phát triển được lai
tạo qua nhiều thế hệ, đem lại giá trị xuất khẩu rất cao cho những nước này.
Tuy nhiên, các giống cây này không được cấp bằng sáng chế, nông dân không
có quyền gì theo Luật Bằng sáng chế. Bởi lẽ, Hiệp định TRIPs không coi sinh
sản tự nhiên là khoa học hoặc phát minh. Chỉ có những giống cây trồng được
lai tạo bằng công nghệ sinh học mới được coi là phát minh, cho dù các giống
cây trồng đó được lai tạo trên cơ sở các giống cây trồng đã được lai tạo qua
nhiều thế hệ của nông dân các nước đang phát triển. Khi đó, nông dân các
nước ĐPT phải trả tiền cho những cây trồng lai tạo từ nguồn cây lai tạo tự
nhiên của họ, nếu họ sử dụng những cây trồng đó.
Nhiều người cho rằng việc cấp bằng sáng chế cho các giống cây trồng
được lai tạo từ giống cây trồng địa phương ở các nước đang phát triển được
coi là “cướp sinh học”. Trường hợp cây Quinoa, một loại ngũ cốc có hàm
lượng protein cao của Bolivia, được xuất khẩu sang Mỹ và Châu Âu;
brazzein là một lại protein tìm thấy trong một loài quả mọng không hạt ở Tây
Phi; giống lúa Basmati nổi tiếng của Pakistan và Ấn Độ là những thí dụ sinh
động về “cướp sinh học”. Nông dân các nước đang phát triển đứng trước nguy
cơ sẽ mất hàng loạt giống cây truyền thống của mình.
Mặt khác, nông dân các nước đang phát triển đang phải trồng các giống
cây trồng có năng suất cao để xuất khẩu. Điều đó khiên nông dân các nước
này ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào giống, phân bón và các vật tư kĩ thuật
canh tác khác từ nước ngoài, chủ yếu từ các nước đang phát triển. Bởi lẽ, khi
họ sử dụng giống lai tạo của các nước phát triển, được cấp bằng sáng chế, họ
39
không những phải trả tiền mà còn không được phép giữ giống để gieo trồng
vụ sau. Họ phải mua giống cho vụ mới hoặc phải trả tiền bản quyền cho số
giống họ giữ lại sau thu hoạch.
Trên đây là một số phân tích về những bất lợi mà các nước đang phát
triển gặp phải khi tham gia WTO. Các nước đang phát triển cần có chính sách
khôn ngoan để giảm thiểu những bất lợi đó đồng thời cần có cơ chế phối hợp
hiệu quả nhằm khai thác ưu thế số đông tại WTO, bảo vệ lợi ích của mình,
bảo đảm sự công bằng giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển
40
trong WTO.
Suy nghÜ vÒ nh÷ng th¸ch thøc vÒ chÝnh s¸ch, thÓ chÕ qu¶n lý cña ViÖt Nam thêi kú hËu héi nhËp WTO
PGS, TS. Kim V¨n ChÝnh
ViÖt Nam chÝnh thøc trë thµnh thµnh viªn thø 150 cña WTO vµ b¾t ®Çu
chÝnh thøc thùc hiÖn c¸c nghÜa vô vµ ®−îc h−ëng c¸c quyÒn lîi thµnh viªn tõ
ngày 11 th¸ng 1 n¨m 2007. Kh«ng nh÷ng Nhµ n−íc, doanh nghiÖp vµ nh©n
d©n ViÖt Nam coi sù kiÖn nµy lµ mèc ®¸nh dÊu quan träng cña tiÕn tr×nh ®æi
míi, mµ d− luËn cña toµn thÕ giíi nãi chung còng coi ®©y thùc sù lµ kÕt qu¶
nç lùc to lín cña ViÖt Nam. Ngµy 11/1/2007 kh«ng ph¶i lµ mét mèc thêi gian
cã tÝnh b−íc ngoÆt gièng nh− kiÓu ngày thµnh c«ng cña c¸ch m¹ng hay gi¶i
phãng ®Êt n−íc, giµnh l¹i chÝnh quyÒn, mµ nã gièng nh− mét sù kiÖn ghi nhËn
rÊt nhiÒu c¸c nç lùc cña ViÖt Nam trong tiÕn tr×nh thÓ hiÖn thiÖn chÝ héi nhËp
ngày cµng s©u réng cña m×nh vµo nÒn kinh tÕ thÕ giíi. Mèc gia nhËp còng
kh«ng cã nghÜa lµ tõ nay ViÖt Nam sÏ chØ cã gÆp thuËn lîi vµ th¸ch thøc cña
mét thµnh viªn WTO chÝnh thøc. Nã cã nghÜa nh− mét b−íc chÝnh thøc hãa t−
c¸ch thµnh viªn, t¹o ra thêi c¬, ®ång thêi ®Æt ra mét lo¹t th¸ch thøc míi, ®ßi
hái ViÖt Nam ph¶i tr¶i nghiÖm vµ nç lùc v−ît qua. NhiÒu quèc gia ®· lµ thµnh
viªn WTO tr−íc ViÖt Nam (vÝ dô Cu Ba), kh«ng nh÷ng ®· kh«ng khai th¸c
®−îc c¸c quyÒn lîi mµ cßn liªn tôc bÞ c« lËp trong quan hÖ kinh tÕ vµ chÝnh trÞ
quèc tÕ.
Bµi viÕt nµy tËp trung ph©n tÝch vÒ nh÷ng th¸ch thøc tiÕp tôc ®æi míi
chÝnh s¸ch vµ thÓ chÕ qu¶n lý cña ViÖt Nam thêi kú hËu héi nhËp WTO.
1. Cam kÕt vµ −u ®·i rµng buéc c¬ b¶n cña ViÖt Nam khi gia
nhËp WTO
§· cã rÊt nhiÒu tµi liÖu viÕt vÒ vÊn ®Ò nµy, tõ gãc ®é chung ®Õn c¸c cam
kÕt kü thuËt chi tiÕt. ë ®©y sÏ m« t¶ ë gãc ®é tæng thÓ c¸c cam kÕt ®Ó lµm râ th¸ch thøc vÒ thÓ chÕ, chÝnh s¸ch.
41
Khi gia nhËp WTO, ViÖt Nam ®ßi hái ph¶i ®µm ph¸n, ký kÕt c¸c hiÖp ®Þnh gia nhËp WTO song ph−¬ng (víi nhãm quèc gia chØ ®Þnh) vµ ®a ph−¬ng víi chÝnh WTO. Do vËy, c¸c cam kÕt ®· ký trong c¸c hiÖp ®Þnh ®ã cã gi¸ trÞ
ph¸p lý quèc tÕ trong suèt qu¸ tr×nh thùc hiÖn t− c¸ch thµnh viªn, tøc lµ tõ 11/1/2007 trë ®i. C¸c cam kÕt nµy cã thÓ tãm gän nh− sau:
- Tu©n thñ toµn bé c¸c quy ®Þnh cña c¸c hiÖp ®Þnh, c¸c nguyªn t¾c cña WTO. Danh môc vµ néi dung c¸c hiÖp ®Þnh nµy kh¸ dµi vµ phøc t¹p; nhiÒu néi dung rÊt míi ®èi víi ViÖt Nam xÐt vÒ mÆt chÝnh s¸ch. VÝ dô, vÒ hiÖp ®Þnh, chØ nãi riªng HiÖp ®Þnh TRIPS vÒ quyÒn së h÷u trÝ tuÖ ®ßi hái c¸c n−íc thµnh viªn ph¶i c«ng nhËn, b¶o hé lÉn nhau c¸c quyÒn vÒ së h÷u trÝ tuÖ víi néi hµm cña quyÒn nµy ®−îc hiÓu rÊt réng r·i, tõ ph¸t minh, s¸ng chÕ ®Õn quyÒn t¸c gi¶, tõ s¶n phÈm phÇn mÒm ®Õn s¶n phÈm trÝ tuÖ nh− thiÕt kÕ, kiÓu d¸ng, m¹ch tÝch hîp... HoÆc vÒ nguyªn t¾c, chØ riªng nguyªn t¾c kh«ng ph©n biÖt ®èi xö - ®èi xö quèc gia (National Treatment), ®ßi hái rÊt nhiÒu ngâ ng¸ch, chi tiÕt trong viÖc hiÓu vµ thùc hiÖn c¸c quyÒn cña nhµ ®Çu t−, cña doanh nghiÖp, trong ®ã cã quyÒn ®−îc tham gia kinh doanh b×nh ®¼ng trªn l·nh thæ ViÖt Nam...
- Cam kÕt gi¶m thuÕ nhËp khÈu hµng hãa tõ c¸c n−íc thµnh viªn WTO tõ møc b×nh qu©n hiÖn nay 17,4%, víi lé tr×nh 7 n¨m, tõ lóc gia nhËp, xuèng cßn 13,4%. Lé tr×nh gi¶m thuÕ nµy cã ph©n biÖt hai nhãm hµng c«ng nghiÖp vµ n«ng nghiÖp vµ trong tõng nhãm hµng cã ph©n biÖt chi tiÕt h¬n theo nhãm hµng hãa. Hµng c«ng nghiÖp sÏ gi¶m xuèng ®Õn møc 5 - 10%; hµng n«ng nghiÖp - 20%.
- Cam kÕt më cöa thÞ tr−êng dÞch vô: v× lµ n−íc chËm ph¸t triÓn, ViÖt Nam cã quyÒn cam kÕt cho phÐp c¸c nhµ cung cÊp dÞch vô n−íc ngoµi ®−îc cung cÊp dÞch vô trªn thÞ tr−êng ViÖt Nam víi mét lé tr×nh më cöa nhÊt ®Þnh. Cam kÕt vÒ dÞch vô cña ViÖt Nam bao gåm 11 ngµnh (110 ph©n ngµnh) dÞch vô, trong ®ã cã nh÷ng ph©n ngµnh tõ tr−íc ®Õn nay vÉn ®−îc coi lµ nh¹y c¶m nh− viÔn th«ng, tµi chÝnh, ng©n hµng, kinh doanh chøng kho¸n, b¸n lÎ...
42
Cam kÕt vÒ dÞch vô kh¸ cô thÓ vµ cã lé tr×nh héi nhËp cho tõng ngµnh. VÝ dô, ®èi víi c¸c ngµnh tµi chÝnh, ng©n hµng, chøng kho¸n, trong thêi gian ®Çu, sù tham gia cña c¸c chi nh¸nh ng©n hµng, c«ng ty tµi chÝnh n−íc ngoµi ë ViÖt Nam ph¶i ®−îc xem xÐt cÊp phÐp tõng doanh nghiÖp. C¸c chi nh¸nh ®−îc më t¹i ViÖt Nam ph¶i sö dông Ýt nhÊt 20% nh©n lùc ng−êi ViÖt; viÖc mua cæ phÇn cña c¸c doanh nghiÖp ViÖt Nam (®Çu t− gi¸n tiÕp FPI), chØ ®−îc phÐp ë møc thÊp h¬n mét tû lÖ nhÊt ®Þnh quy ®Þnh cho tõng lo¹i doanh nghiÖp, riªng ®èi víi ®Çu t− gi¸n tiÕp vµo c¸c ng©n hµng ViÖt Nam, tû lÖ së h÷u cña nhµ ®Çu t− n−íc ngoµi kh«ng qu¸ 30%.
- VÒ −u ®·i, ViÖt Nam ®−îc phÐp trong mét sè n¨m chuyÓn ®æi kinh tÕ (tõ kÕ ho¹ch hãa tËp trung sang c¬ chÕ thÞ tr−êng), ®−îc phÐp ¸p dông mét sè biÖn ph¸p trî cÊp, b¶o hé th«ng qua c¸c c«ng cô nh− thuÕ tiªu thô ®Æc biÖt, trî cÊp n«ng nghiÖp, quyÒn kinh doanh víi lé tr×nh 7 - 9 n¨m.
- §ång thêi víi c¸c cam kÕt cña ViÖt Nam, mét sè quèc gia (Mü, EU) cßn ®Æt ra nh÷ng ®iÒu kiÖn rµng buéc qu¸ tr×nh thùc hiÖn t− c¸ch thµnh viªn cña ViÖt Nam. VÝ dô, Mü ®· ghi nhËn ViÖt Nam lµ mét nÒn kinh tÕ phi thÞ tr−êng (non-market economy) víi thêi h¹n 12 n¨m tÝnh tõ thêi ®iÓm gia nhËp. EU còng coi ViÖt Nam lµ nÒn kinh tÕ phi thÞ tr−êng mÆc dï kh«ng cã giíi h¹n thêi gian cô thÓ.
Nh− vËy, mÆc dï ViÖt Nam ®· lµ thµnh viªn chÝnh thøc cña WTO, nh−ng quyÒn vµ nghÜa vô cña ViÖt Nam kh«ng ph¶i lµ ngang b»ng víi c¸c quèc gia ®· héi nhËp tr−íc, ®Æc biÖt lµ so s¸nh víi c¸c n−íc cã nÒn kinh tÕ ph¸t triÓn vµ c¬ chÕ thÞ tr−êng ph¸t triÓn.
VÒ c¬ b¶n, ViÖt Nam cã ®Çy ®ñ quyÒn h¹n nh− c¸c n−íc thµnh viªn, cã
nghÜa vô c¬ b¶n gÇn nh− c¸c n−íc kh¸c, nh−ng cã hai sù kh¸c biÖt chÝnh:
- Lé tr×nh héi nhËp më cöa thÞ tr−êng hµng hãa vµ thÞ tr−êng dÞch vô kh¸ dµi (5 - 9 n¨m) vµ ®−îc phÐp ¸p dông mét sè biÖn ph¸p b¶o hé, trî cÊp cã giíi h¹n.
- Trong quan hÖ th−¬ng m¹i víi c¸c n−íc nh− Mü, EU (vµ nhiÒu quèc
gia kh¸c ¸p dông theo), ViÖt Nam ®−îc coi lµ nÒn kinh tÕ phi thÞ tr−êng.
Lé tr×nh x©y dùng sau gia nhËp vµ nh÷ng kh¸c biÖt (−u ®·i vµ rµng buéc cña ViÖt Nam, ®· ®Æt ra th¸ch thøc rÊt lín cho Nhµ n−íc ViÖt Nam vÒ thÓ chÕ, chÝnh s¸ch.
2. Nh÷ng thøc thøc vÒ thÓ chÕ, chÝnh s¸ch vµ ®Þnh h−íng ®æi míi
§· cã rÊt nhiÒu ng−êi ph©n tÝch vÒ c¸c c¬ héi vµ th¸ch thøc khi héi
nhËp WTO. ë ®©y sÏ chØ ph©n tÝch nh÷ng th¸ch thøc vÒ thÓ chÕ, chÝnh s¸ch liªn quan ®Õn chñ thÓ Nhµ n−íc.
Cã thÓ nªu mét sè th¸ch thøc ®iÓn h×nh sau:
43
- Do c¹nh tranh gay g¾t thªm ë c¶ 3 cÊp ®é s¶n phÈm, doanh nghiÖp vµ quèc gia, nhiÒu doanh nghiÖp sÏ ph¶i thu hÑp s¶n xuÊt, ®æi míi s¶n phÈm hoÆc ph¸ s¶n, do vËy nhiÒu ng−êi lao ®éng sÏ mÊt viÖc lµm. Song song víi th¸ch
thøc nµy còng cã c¬ héi doanh nghiÖp ViÖt Nam ®Èy m¹nh ®−îc tiªu thô hµng hãa, ph¸t triÓn s¶n xuÊt, t¹o thªm viÖc lµm. Dï t×nh huèng diÔn ra theo kiÓu g× th× ch¾c ch¾n sÏ cã mét sè bé phËn nh©n lùc mÊt viÖc lµm (®iÒu nµy cã thÓ tÝnh to¸n ph©n tÝch ®Þnh l−îng ®−îc qua c¸c m« h×nh to¸n kinh tÕ). Do vËy, th¸ch thøc vÒ thÓ chÕ, chÝnh s¸ch lµ ph¶i cã biÖn ph¸p x· héi ®èi víi nhãm d©n c− mÊt viÖc lµm.
- Héi nhËp sÏ cã t¸c ®éng râ rÖt vÒ ph©n hãa ngµnh nghÒ, ph©n hãa thu nhËp vµ ph©n hãa x· héi. KÕt luËn cña nhiÒu n−íc khi héi nhËp WTO vµ cña b¶n th©n ViÖt Nam trong qu¸ tr×nh héi nhËp võa qua còng cho thÊy t¸c ®éng nµy kh¸ râ nÐt. Nh÷ng ngµnh nµo ph¸t triÓn ®−îc thÞ tr−êng tiªu thô s¶n phÈm trªn thÕ giíi, chi phèi c¹nh tranh sÏ cã søc ph¸t triÓn m¹nh, thu nhËp cña nh÷ng ng−êi h−ëng lîi tõ ngµnh nµy t¨ng m¹nh. Ng−îc l¹i, nh÷ng ngµnh bÞ c¹nh tranh, cã chi phÝ s¶n xuÊt kÐm c¹nh tranh sÏ bÞ k×m h·m, thËm chÝ ph¸ s¶n vµ nh÷ng ng−êi lao ®éng vµ chñ cña c¸c doanh nghiÖp ngµnh nµy sÏ bÞ gi¶m m¹nh thu nhËp. Sù ph©n hãa thu nhËp diÔn ra theo xu h−íng t¨ng m¹nh h¬n vÒ møc ®é ph©n hãa hai ®Çu, sù c¸ch biÖt gi÷a khu vùc thµnh thÞ vµ vïng s©u, vïng xa ngày cµng gi·n réng... §iÒu nµy ®Æt ra th¸ch thøc rÊt lín vÒ chÝnh s¸ch x· héi.
- T¸c ®éng cña c¸c biÕn ®éng trªn thÞ tr−êng thÕ giíi (vÒ gi¸ c¶, tµi chÝnh, s¶n xuÊt, chiÕn tranh, thêi tiÕt, thiªn tai...) vµo nÒn kinh tÕ ViÖt Nam sÏ m¹nh h¬n, nhanh h¬n. §iÒu ®ã ®ßi hái Nhµ n−íc ph¶i cã n¨ng lùc qu¶n trÞ c¸c t×nh huèng biÕn ®éng (khñng ho¶ng) - mét n¨ng lùc hoµn toµn míi mÎ v× tõ tr−íc ®Õn nay theo m« h×nh gÇn nh− khÐp kÝn kh«ng cã c¸c t×nh huèng nµy x¶y ra.
- Lé tr×nh gi¶m thuÕ nhËp khÈu lµm gi¶m m¹nh nguån thu ng©n s¸ch
nhµ n−íc. §©y lµ th¸ch thøc vÒ tµi chÝnh c«ng ®èi víi ViÖt Nam.
44
- ViÖt Nam ph¶i chÞu t− c¸ch nÒn kinh tÕ phi thÞ tr−êng 12 n¨m (tõ 2007 ®Õn 2019). MÆc dï gÇn ®©y, EU cã ®−a ra th«ng ®iÖp lµ cã thÓ sÏ sím xem xÐt l¹i t− c¸ch nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng cho ViÖt Nam, hoÆc c¸c n−íc ASEAN còng ®· tuyªn bè lµ c«ng nhËn ViÖt Nam cã nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng nh−ng Mü vÉn gi÷ nguyªn lËp tr−êng cña hä. ViÖc Mü, EU vµ nhiÒu n−íc kh¸c coi ViÖt Nam lµ nÒn kinh tÕ, thÞ tr−êng ®Æt ra th¸ch thøc rÊt lín cho c¸c doanh nghiÖp ViÖt Nam khi tham gia c¸c ho¹t ®éng th−¬ng m¹i, ®Æc biÖt lµ trong xuÊt khÈu hµng hãa. T¸c ®éng chñ yÕu cña quy chÕ phi thÞ tr−êng thÓ hiÖn ë c¸c t×nh huèng cã tranh chÊp th−¬ng m¹i, ch¼ng h¹n nh− bÞ kiÖn ph¸ gi¸. Khi doanh nghiÖp ViÖt Nam bÞ kiÖn ph¸ gi¸, Tßa ¸n ë n−íc khëi kiÖn kh«ng cÇn ¸p dông c¸c thñ tôc
vµ quy tr×nh b×nh th−êng nh− lµ ®èi víi c¸c n−íc b×nh th−êng mµ sÏ ¸p dông quy chÕ ®Æc biÖt cho c¸c n−íc cã nÒn kinh tÕ phi thÞ tr−êng. Sù kh¸c nhau ë hai quy tr×nh nµy thÓ hiÖn ë s¬ ®å so s¸nh sau:
S¬ ®å xö lý tranh chÊp ph¸ gi¸ do c¸c doanh nghiÖp míi ngoµi khëi kiÖn
B−íc 1: Doanh nghiÖp chñ nhµ khëi kiÖn
B−íc 2: Tßa ¸n xem xÐt hå s¬
Doanh nghiÖp bÞ kiÖn thuéc nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng: ph¶i ®iÒu tra, xem xÐt gi¸ thµnh s¶n xuÊt, chÝnh s¸ch trî cÊp cña ChÝnh phñ ®Ó kÕt luËn cã ph¸ gi¸ hay kh«ng theo ®Þnh nghÜa vÒ ph¸ gi¸
Doanh nghiÖp bÞ kiÖn thuéc nÒn kinh tÕ phi thÞ tr−êng: kh«ng cÇn ®iÒu tra, chØ viÖc so s¸nh gi¸ b¸n cña doanh nghiÖp sang thÞ tr−êng n−íc chñ nhµ víi gi¸ b¸n cña c¸c doanh nghiÖp thuéc c¸c n−íc cã ®iÒu kiÖn ®−îc coi lµ t−¬ng tù, ®· cã nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng)
NÕu gi¸ b¸n (xuÊt khÈu) thÊp h¬n gi¸ thµnh s¶n xuÊt th× kÕt luËn lµ cã ph¸ gi¸ NÕu gi¸ b¸n thÊp h¬n gi¸ cña doanh nghiÖp thuéc n−íc thø ba (t−¬ng tù) th× kÕt luËn lµ ph¸ gi¸
- Ra quyÕt ®Þnh chÕ tµi (¸p dông thuÕ chèng ph¸ gi¸)
45
- Thùc hiÖn chÕ tµi
Qua so s¸nh nªu trªn vµ qua thùc tiÔn xö lý cña Mü, EU vµ nhiÒu n−íc
kh¸c trong c¸c vô kiÖn ph¸ gi¸ ®èi víi c¸c doanh nghiÖp ViÖt Nam (t«m, c¸,
xe ®¹p, giµy dÐp...), ta thÊy, c¸c doanh nghiÖp cña ViÖt Nam, nÕu theo quy chÕ
phi thÞ tr−êng ph¶i chÞu rñi ro rÊt cao trong th−¬ng m¹i quèc tÕ. Doanh nghiÖp
ViÖt Nam rÊt dÔ bÞ thua thiÖt khi bÞ kiÖn ph¸ gi¸ vµ møc thuÕ chèng ph¸ gi¸ hä
¸p dông sau khi xö kiÖn lu«n cao h¬n so víi c¸c doanh nghiÖp cïng ngµnh cña
c¸c n−íc cã quy chÕ thÞ tr−êng.
Chóng t«i cho r»ng, th¸ch thøc vÒ quy chÕ phi thÞ tr−êng ®ßi hái Nhµ
n−íc ViÖt Nam, c¸c hiÖp héi ph¶i t×m biÖn ph¸p h¹n chÕ t¸c ®éng cña quy chÕ
nµy vµ cã c¸c biÖn ph¸p sao cho sím b·i bá quy chÕ nµy.
§©y l¹i lµ mét c«ng viÖc rÊt phøc t¹p, ®ßi hái thêi gian vµ liªn quan ®Õn
toµn bé tiÕn tr×nh ®æi míi, héi nhËp thêi gian tíi. PhÇn sau sÏ tr×nh bµy kü néi
dung nµy.
3. C¸c ®Þnh h−íng gi¶i ph¸p vÒ thÓ chÕ, chÝnh s¸ch trong thêi gian
tíi theo h−íng héi nhËp WTO
Héi nhËp WTO kh«ng t¸ch rêi víi c¸c h×nh thøc héi nhËp kh¸c nh−
ASEAN, APEC, ASEM, ASEAN+1... Tuy nhiªn, héi nhËp WTO lµ c¬ b¶n,
toµn diÖn vµ s©u s¾c nhÊt, t¹o nÒn mãng ®Ó c¸c h×nh thøc héi nhËp kh¸c thùc
hiÖn.
C¸c chÝnh s¸ch, thÓ chÕ cña ViÖt Nam khi cã c¸c t¸c ®éng cña héi nhËp
WTO cÇn ph¶i ®−îc ®æi míi m¹nh mÏ. ThÓ chÕ, chÝnh s¸ch ph¶i thÓ hiÖn cho
c¸c n−íc thµnh viªn WTO thÊy r»ng, ViÖt Nam t«n träng vµ thùc hiÖn triÖt ®Ó
c¸c cam kÕt ®· ký.
MÆt kh¸c, thÓ chÕ, chÝnh s¸ch ph¶i ®−îc thùc hiÖn trong cuéc sèng, t¹o
®iÒu kiÖn ®Ó ViÖt Nam dÔ dµng h¬n trong viÖc ®µm ph¸n c¸c giai ®o¹n tiÕp
theo (vÝ dô ®Ó Mü, EU b·i bá quy chÕ phi thÞ tr−êng). Cuèi cïng, thÓ chÕ,
chÝnh s¸ch ph¶i lµm sao ®Ó nÒn kinh tÕ ViÖt Nam khai th¸c tèt nhÊt c¸c c¬ héi,
kh¾c phôc hoÆc v−ît qua c¸c th¸ch thøc cña héi nhËp WTO.
Theo tinh thÇn ®ã, thÓ chÕ, chÝnh s¸ch cña ViÖt Nam trong thêi gian tíi
46
cÇn ph¶i ®−îc hoµn thiÖn c¶ ë nhãm kinh tÕ lÉn nhãm v¨n hãa - x· héi.
* §èi víi thÓ chÕ, chÝnh s¸ch kinh tÕ:
Trong HiÖp ®Þnh gia nhËp WTO ký víi Mü vµ WTO nãi chung, ChÝnh
phñ ViÖt Nam ®· cã 9 cam kÕt chÝnh vÒ thÓ chÕ, chÝnh s¸ch sau ®©y:
- C¾t gi¶m thuÕ nhËp khÈu (nh− ®· nªu ë trªn).
- Thùc hiÖn c¸c nguyªn t¾c MFN, NT.
- Bá h¼n trî cÊp n«ng s¶n, chØ ®−îc trî cÊp gi¸n tiÕp trong giíi h¹n 15%
thuÕ néi ®Þa.
- Gi¶m, tíi tíi xãa bá (lé tr×nh 5 n¨m) trî cÊp c«ng nghiÖp.
- Kh«ng can thiÖp hµnh chÝnh vµo c¸c quyÕt ®Þnh cña doanh nghiÖp
nhµ n−íc.
- Thùc hiÖn quyÒn kinh doanh cña doanh nghiÖp: doanh nghiÖp tù do
lµm g× ph¸p luËt kh«ng cÊm.
- Thùc hiÖn minh b¹ch chÝnh s¸ch: mét biÖn ph¸p lµ tr−íc khi ban hµnh
60 ngày ph¶i lÊy ý kiÕn cña doanh nghiÖp vµ nh©n d©n.
- T«n träng quyÒn së h÷u trÝ tuÖ.
- T«n träng c¸c quy ®Þnh cña WTO vÒ vÖ sinh dÞch tÔ.
Nh− vËy, thÓ chÕ, chÝnh s¸ch cña ViÖt Nam trong thêi kú hËu gia nhËp
WTO ph¶i thùc hiÖn ®æi míi m¹nh mÏ theo c¸c h−íng sau:
- TÝch cùc hoµn thiÖn khung khæ ph¸p luËt, chñ yÕu lµ ph¸p luËt v× kinh
tÕ theo h−íng thèng nhÊt hÖ thèng ph¸p luËt vµ thùc hiÖn c¸c cam kÕt.
§Þnh h−íng nµy ®· ®−îc nãi nhiÒu, Ýt cã tranh luËn, nh−ng th¸ch thøc
trªn thùc tÕ lµ rÊt lín. Sè l−îng c¸c v¨n b¶n luËt cÇn hoµn thiÖn lªn ®Õn trªn
300, ch−a kÓ c¸c luËt míi cÇn ®−îc ban hµnh vµ thùc hiÖn. H¬n n÷a, ë ViÖt
Nam, viÖc ®−a c¸c luËt nµy vµo cuéc sèng míi khã kh¨n gÊp béi, ®ßi hái
Nhµ n−íc ph¶i cã nç lùc rÊt lín.
- TiÕp tôc ®æi míi c¸c chÝnh s¸ch qu¶n lý kinh tÕ vÜ m«. §ã lµ:
+ ChÝnh s¸ch, c¬ chÕ qu¶n lý gi¸ ®−îc ®iÒu chØnh theo h−íng tù do hãa
(trõ mét sè mÆt hµng ®Æc biÖt). Ngay ®Çu n¨m 2007, c¬ chÕ h×nh thµnh gi¸
47
x¨ng dÇu ®· cã b−íc chuyÓn c¬ b¶n tõ c¬ chÕ cøng nh¾c do Nhµ n−íc ®Þnh
sang c¬ chÕ thÞ tr−êng do doanh nghiÖp x¸c ®Þnh (Nhµ n−íc chØ kiÓm so¸t vµ
cã chÝnh s¸ch). TiÕp theo gi¸ x¨ng dÇu sÏ lµ mét lo¹t s¶n phÈm kh¸c n÷a nh−
vËn t¶i néi ®Þa, l·i suÊt tÝn dông, ®iÖn, than...
+ ChÝnh s¸ch b¶o hé, trî cÊp ®èi víi mét sè ngµnh sÏ ®−îc c«ng khai vµ
cã lé tr×nh ®æi míi phï hîp víi cam kÕt WTO. Nh÷ng ngµnh hiÖn nay ®ang
b¶o hé (b»ng c¶ thuÕ quan, phi thuÕ quan) vµ ®−îc trî cÊp (b»ng c«ng cô tµi
chÝnh lµ chñ yÕu) nh− ®ãng tµu, m¸y næ, s¶n xuÊt « t«, g¹o, ®−êng... dÇn dÇn
sÏ ph¶i cã chÝnh s¸ch míi theo h−íng tù do hãa.
+ ChÝnh s¸ch tiÒn tÖ ®æi míi theo h−íng tù do hãa thÞ tr−êng tiÒn tÖ,
t¨ng tÝnh ®éc lËp cña hÖ thèng tiÒn tÖ, tµi chÝnh, cho phÐp c¸c tæ chøc n−íc
ngoµi kinh doanh ng©n hµng ë ViÖt Nam, n©ng kh¶ n¨ng chuyÓn ®æi cña ®ång
tiÒn ViÖt Nam. Tuy nhiªn, chÝnh s¸ch tiÒn tÖ vÉn ph¶i b¸m s¸t môc tiªu kiÒm
chÕ l¹m ph¸t, b¶o ®¶m an ninh tiÒn tÖ, tµi chÝnh.
+ ChÝnh s¸ch thuÕ nhanh chãng ®æi míi theo h−íng t¨ng thuÕ trùc thu,
gi¶m thuÕ gi¸n thu; ®ång thêi thùc hiÖn c«ng b»ng, tù nguyÖn vµ kiÓm so¸t
®−îc trong thu thuÕ; t¹o c¸c nguån thu ng©n s¸ch nhµ n−íc thay thÕ c¸c kho¶n
thu thuÕ bÞ c¾t gi¶m (thuÕ nhËp khÈu, thuÕ tiªu thô ®Æc biÖt...).
+ ChÝnh s¸ch ®Çu t− ®æi míi theo h−íng t¹o m«i tr−êng b×nh ®¼ng,
th«ng tho¸ng trong ®Çu t−; t¹o c©n ®èi gi÷a c¸c nguån vèn ®Çu t−: tõ nhµ
n−íc, n−íc ngoµi vµ d©n doanh trong n−íc; thu hót ®−îc nhiÒu ®Çu t− cña c¸c
TNCc lín tõ c¸c n−íc ph¸t triÓn (Mü, NhËt, EU).
- N©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh:
+ Gi÷ v÷ng vµ n©ng cao c¸c chØ tiªu hiÖu qu¶ ®Çu t− ®Ó b¶o ®¶m n¨ng
lùc c¹nh tranh quèc gia.
+ Ph¸t triÓn kÕt cÊu h¹ tÇng (kü thuËt vµ x· héi).
+ KhuyÕn khÝch, n©ng cao chÊt l−îng ®µo t¹o nguån nh©n lùc.
+ ThÓ chÕ vµ thñ tôc hµnh chÝnh cëi më, th«ng tho¸ng.
+ Hç trî n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh doanh nghiÖp.
48
- Gi¶i quyÕt tèt c¸c vÊn ®Ò x· héi - m«i tr−êng:
+ ChÝnh s¸ch an ninh x· héi ph¶i phñ kh¾p mäi tÇng líp d©n c−, b¶o vÖ
®−îc c¸c nhãm d©n c− bÞ thiÖt thßi hoÆc bÞ “g¹t ra bªn lÒ” trong qu¸ tr×nh héi
nhËp vµ ph¸t triÓn.
+ Hç trî gi¶i quyÕt viÖc lµm cho c− d©n ®« thÞ vµ n«ng th«n, ®Æc biÖt lµ
ë c¸c ngµnh, c¸c ®Þa bµn bÞ mÊt viÖc lµm do t¸c ®éng cña héi nhËp.
+ ChÝnh s¸ch b¶o vÖ m«i tr−êng, ph¸t triÓn kinh tÕ bÒn v÷ng ph¶i ®−îc
®æi míi ®Ó thùc hiÖn chøc n¨ng b¶o vÖ m«i tr−êng trong ®iÒu kiÖn c«ng
nghiÖp hãa vµ héi nhËp.
Sau ®©y, sÏ nªu c¸c tiªu chÝ cña Mü, EU vÒ mét nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng.
Hép sè 1: C¸c tiªu chÝ cña EU, Mü vÒ nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng
C¸c tiªu chÝ c«ng nhËn nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng cña EU (nªu trong Quy ®Þnh cña EU vÒ vÊn ®Ò b¸n ph¸ gi¸):
Tiªu chÝ 1: Møc ®é ¶nh h−ëng cña ChÝnh phñ ®èi víi viÖc ph©n bæ c¸c nguån lùc vµ c¸c quyÕt ®Þnh cña doanh nghiÖp bÊt kÓ trùc tiÕp hay gi¸n tiÕp (tøc lµ c¸c c¬ quan c«ng céng), ch¼ng h¹n th«ng qua viÖc ¸p dông gi¸ c¶ do Nhµ n−íc Ên ®Þnh, hoÆc ph©n biÖt ®èi xö trong chÕ ®é thuÕ, th−¬ng m¹i hoÆc tiÒn tÖ. Tiªu chÝ 2: Kh«ng cã hiÖn t−îng Nhµ n−íc can thiÖp bãp mÐo ho¹t ®éng cña c¸c doanh nghiÖp liªn quan ®Õn qu¸ tr×nh t− nh©n hãa (tøc lµ “tµn d−” tõ hÖ thèng cò). Kh«ng sö dông c¬ chÕ th−¬ng m¹i phi thÞ tr−êng hoÆc c¸c hÖ thèng ®Òn bï (vÝ dô th−¬ng m¹i hµng ®æi hµng). Tiªu chÝ 3: Ban hµnh vµ thùc thi luËt c«ng ty minh b¹ch vµ kh«ng ph©n biÖt ®èi xö ®¶m b¶o qu¶n lý doanh nghiÖp mét c¸ch thÝch hîp (¸p dông c¸c tiªu chuÈn kÕ to¸n quèc tÕ, b¶o vÖ cæ ®«ng, c«ng khai c¸c th«ng tin chÝnh x¸c vÒ doanh nghiÖp). Tiªu chÝ 4: Ban hµnh vµ ¸p dông mét hÖ thèng luËt thèng nhÊt, hiÖu qu¶ vµ minh b¹ch ®¶m b¶o t«n träng quyÒn së h÷u tµi s¶n vµ ®¶m b¶o sù vËn hµnh cña quy chÕ ph¸ s¶n doanh nghiÖp. Tiªu chÝ 5: Tån t¹i mét khu vùc tµi chÝnh ®Ých thùc, ho¹t ®éng ®éc lËp víi Nhµ n−íc, vµ vÒ mÆt luËt ph¸p còng nh− trªn thùc tÕ, chÞu sù ®iÒu chØnh cña c¸c quy ®Þnh b¶o l·nh ®Çy ®ñ vµ chÞu sù gi¸m s¸t mét c¸ch tháa ®¸ng.
C¸c tiªu chÝ c«ng nhËn nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng cña Mü (nªu trong §¹o luËt vÒ ThuÕ quan n¨m 1930):
49
Tiªu chÝ 1: Kh¶ n¨ng chuyÓn ®æi cña ®ång tiÒn cña quèc gia ®−îc xem xÐt víi c¸c ngo¹i tÖ kh¸c. Tiªu chÝ 2: Kh¶ n¨ng quyÕt ®Þnh møc tiÒn l−¬ng b»ng c¸ch tháa thuËn gi÷a ng−êi sö dông lao ®éng vµ ng−êi lao ®éng t¹i quèc gia ®ã.
Nguån: B¶n tin kinh tÕ cña Bé Ngo¹i giao, sè 14-7/2005
Tiªu chÝ 3: Kh¶ n¨ng cho phÐp c¸c liªn doanh hoÆc c¸c h×nh thøc ®Çu t− kh¸c ®−îc thùc hiÖn bëi c¸c c«ng ty n−íc ngoµi ho¹t ®éng t¹i quèc gia ®ã. Tiªu chÝ 4: Møc ®é së h÷u hoÆc kiÓm so¸t cña ChÝnh phñ quèc gia ®ã ®èi víi c¸c ph−¬ng tiÖn s¶n xuÊt. Tiªu chÝ 5: Møc ®é kiÓm so¸t cña ChÝnh phñ quèc gia ®ã ®èi víi viÖc ph©n bæ c¸c nguån lùc vµ ®èi víi c¸c quyÕt ®Þnh vÒ s¶n l−îng vµ gi¸ c¶ cña c¸c doanh nghiÖp. Tiªu chÝ 6: Nh÷ng nh©n tè kh¸c mµ c¬ quan chøc n¨ng thÊy phï hîp ®Ó xem xÐt (trong tr−êng hîp cña ViÖt Nam víi vô kiÖn c¸ ba sa, Bé Th−¬ng m¹i Mü ®· xem xÐt thªm mét sè nh©n tè gåm tù do hãa th−¬ng m¹i, hiÖu lùc cña ph¸p luËt vµ tham nhòng).
* VÒ sù vËn ®éng vµ ®¸nh gi¸ cña ViÖt Nam ®Ó ®−îc c«ng nh©n lµ nÒn
kinh tÕ thÞ tr−êng:
Tuy ®−îc nªu lªn c¸ch ®©y kh¸ l©u, nh−ng ph¶i tõ n¨m 2002, thêi ®iÓm
c¸c doanh nghiÖp ViÖt Nam bÞ kiÖn b¸n ph¸ gi¸ c¸ ba sa vµo thÞ tr−êng Mü,
yªu cÇu c«ng nhËn kinh tÕ thÞ tr−êng míi ®−îc ®Æt ra mét c¸ch chÝnh thøc
trong quan hÖ gi÷a ViÖt Nam víi Hoa Kú vµ EU. C¨n cø vµo c¸o buéc cña c¸c
nhµ s¶n xuÊt c¸ da tr¬n Hoa Kú r»ng ViÖt Nam lµ nÒn kinh tÕ phi thÞ tr−êng,
cuèi n¨m 2002 Bé Th−¬ng m¹i Hoa Kú ®· tiÕn hµnh ®iÒu tra vÒ c¸c c¶i c¸ch
kinh tÕ cña ViÖt Nam vµ ®−a ra kÕt luËn: “MÆc dï ViÖt Nam ®· ®¹t ®−îc
nh÷ng tiÕn bé quan träng trªn mét sè lÜnh vùc c¶i c¸ch, ph©n tÝch cña chóng
t«i cho thÊy ViÖt Nam vÉn ch−a chuyÓn ®æi thµnh c«ng sang nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng”6.
§èi víi EU, th¸ng 6/2004, Bé Th−¬ng m¹i ViÖt Nam ®· göi c«ng hµm
®Ò nghÞ trao cho ViÖt Nam quy chÕ nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng (“Market Economy
Status”), gi¶i tr×nh theo 5 tiªu chÝ c«ng nhËn nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng cña EU
(xem Hép 1). Th¸ng 10/2004, ñy ban ch©u ¢u (EU) ®−a ra kÕt luËn ban ®Çu:
“Th«ng tin do ChÝnh phñ ViÖt Nam cung cÊp ®Õn giai ®o¹n nµy cho thÊy ViÖt
Nam ®· ®¹t ®−îc nh÷ng thµnh tùu nhÊt ®Þnh trong qu¸ tr×nh chuyÓn ®æi sang
kinh tÕ thÞ tr−êng, nh−ng vÉn cßn thiÕu nhiÒu th«ng tin quan träng cÇn ®−îc cung cÊp ®Ó xem xÐt trong giai ®o¹n ®¸nh gi¸ tiÕp theo”7. TiÕp theo, Bé
50
6 Tµi liÖu ®iÒu tra A-552-801 cña Bé Th−¬ng m¹i Mü trong Vô kiÖn c¸ ba sa, 10/2002. 7 Tµi liÖu ®¸nh gi¸ B¶n ®Ò nghÞ c«ng nhËn nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng cho ViÖt Nam cña EC, 10/2004.
Th−¬ng m¹i ViÖt Nam ®· cung cÊp cho EU “ý kiÕn cña ChÝnh phñ ViÖt Nam
vÒ t− c¸ch nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng trong c¸c cuéc ®iÒu tra chèng b¸n ph¸ gi¸ ®èi
víi ViÖt Nam”, trong ®ã gi¶i tr×nh cô thÓ, chi tiÕt h¬n theo 5 tiªu chÝ nªu trªn
cña EC.
Trong “ý kiÕn cña ChÝnh phñ ViÖt Nam vÒ t− c¸ch nÒn kinh tÕ thÞ
tr−êng do Bé Th−¬ng m¹i dù th¶o ngày 27/6/2005, c¸c tiªu chÝ cña EU ®−îc
ViÖt Nam tù ®¸nh gi¸ nh− sau:
Hép sè 2: Néi dung tù ®¸nh gi¸ cña ViÖt Nam
vÒ c¸c tiªu chÝ cña EU vÒ nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng
Tiªu chÝ 1: Møc ®é ¶nh h−ëng cña ChÝnh phñ: ThÊp.
Tiªu chÝ 2: Møc ®é can thiÖp cña Nhµ n−íc bãp mÐo ho¹t ®éng cña doanh
nghiÖp liªn quan ®Õn t− nh©n hãa: Kh«ng cã.
Tiªu chÝ 3: LuËt Doanh nghiÖp: §· ®−îc ban hµnh, b¶o ®¶m tÝnh minh b¹ch,
kh«ng ph©n biÖt ®èi xö.
Tiªu chÝ 4: Ban hµnh vµ ¸p dông mét hÖ thèng luËt thèng nhÊt, hiÖu qu¶ vµ
minh b¹ch: §· ban hµnh vµ ¸p dông.
Tiªu chÝ 5:Tån t¹i khu vùc tµi chÝnh ®Ých thùc, ®éc lËp víi Nhµ n−íc vÒ mÆt
Nguån: ViÖn QLKTTW. TiÕp tôc x©y dùng vµ hoµn thiÖn thÓ chÕ kinh tÕ thÞ tr−êng,
Hµ Néi, 2006, Khoa häc vµ kü thuËt, tr.20.
luËt ph¸p còng nh− trªn thùc tÕ: §· tån t¹i.
Qua th«ng tin trªn, cã thÓ thÊy, th¸ch thøc ®Ó ViÖt Nam ®¹t ®−îc c¸c
tiªu chÝ nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng cßn rÊt lín ë phÝa tr−íc. ChØ khi nµo Nhµ n−íc,
ChÝnh phñ ViÖt Nam tù thµnh t©m nhËn thÊy m×nh thùc sù muèn ®¹t tíi mét
nÒn kinh tÕ thÞ tr−êng ®Ých thøc, khi ®ã sÏ tù ®¸nh gi¸ m×nh mét c¸ch kh¸ch
quan, ®ång thêi cã gi¶i ph¸p ®óng, ®ñ m¹nh vµ cã nç lùc ®ñ lín ®Ó thùc hiÖn
trong thùc tÕ.
Qu¸ tr×nh héi nhËp WTO cña n−íc ta míi chØ b¾t ®Çu nh÷ng b−íc ®Çu
tiªn. Sù t¸c ®éng cña WTO lµ t¸c ®éng l©u dµi vµ theo h−íng tiÕn bé. NÕu
51
ViÖt Nam nhËn thøc, l−êng tr−íc ®−îc c¸c t¸c ®éng (c¶ tÝch cùc, tiªu cùc), cã
thÓ chÕ vµ chÝnh s¸ch phï hîp, sÏ cã thÓ tiÕp tôc ph¸t triÓn æn ®Þnh, bÒn v÷ng.
Tuy nhiªn, hÖ thèng thÓ chÕ, chÝnh s¸ch cÇn ®æi míi rÊt nhiÒu, ®ßi hái kh«ng
nh÷ng sù nç lùc to lín cña Nhµ n−íc, c¸c c¬ quan chÝnh phñ mµ cßn ®ßi hái
tinh thÇn thùc sù thµnh t©m, cÇu thÞ trong qu¸ tr×nh héi nhËp vµ thùc hiÖn c¸c
52
cam kÕt ®· ký.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
VỚI KINH TẾ VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO
ThS. Bùi Văn Huyền
1. Cơ hội
Cũng như các nước đang phát triển khác, động lực chính khi gia nhập
WTO nhằm tìm kiếm nhiều cơ hội hơn trong tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư
để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời cũng tạo những áp lực
cải cách bên trong nhằm hướng tới sân chơi thương mại toàn cầu. Có thể khái
quát quyền lợi của Việt Nam khi gia nhập WTO trên các nội dung chính sau:
Thứ nhất: Tiếp cận và mở rộng thị trường. Đây là quyền lợi rất lớn của
các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Quyền lợi của
Việt Nam khi gia nhập WTO trên khía cạnh này được thể hiện trên các nội
dung: (1) Thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Với kim ngạch xuất nhập khẩu
chiếm trên 40% GDP, ngoại thương ngày càng có vị trí quan trọng trong thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế; (2) Đối với các doanh nghiệp, mở rộng thị trường là
điều kiện quan trọng để tìm kiếm nguồn lực đầu vào tối ưu cho sản xuất; (3)
Được hưởng qui chế MFN gắn với qui chế thành viên của WTO. Trong nhiều
trường hợp, các nước không phải là thành viên WTO cũng có thể được các
đối tác thương mại trao MFN một cách tự nguyện nhưng không có gì đảm bảo
rằng những nước này sẽ tiếp tục thực hiện các ưu đãi đó; hoặc các nước trao
MFN thường đi kèm với điều kiện nhất định. Chẳng hạn Mỹ trao MFN cho
Nga và một số quốc gia khác với điều kiện các quốc gia này phải thực hiện
điều khoản Jakson - Vanik về tự do di cư...; (4) Các biện pháp trừng phạt,
nhất là chống bán phá giá được áp dụng “mạnh tay” hơn (cả về điều tra và
những biện pháp cụ thể) đối với các nước không phải là thành viên WTO.
Với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi và chi phí lao động rẻ, Việt Nam
có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt
53
may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra nhiều biện pháp
để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may
của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá
bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này
nếu có mối quan hệ thương mại thuận lợi đối với các nước thành viên WTO.
Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra
nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ
đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam.
Thứ hai: tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với việc tăng cường mối
quan hệ thương mại và từng bước minh bạch hoá hệ thống chính sách, trong
tương lai gần, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư với các hình
thức khác nhau như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, chuyển giao công
nghệ... Thị trường xuất khẩu không bị bó hẹp trong các hiệp định song
phương và khu vực cũng là điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài mở rộng sản xuất, tăng cường năng lực, qui mô. Xét trên bình diện khu
vực và quốc tế và so sánh với các nước thành viên đang phát triển khác, nếu
các điều kiện khác như nhau (môi trường đầu tư, các ưu đãi...), Việt Nam có
lợi thế hơn về nguồn nhân lực và qui mô của thị trường nội địa. Những yếu tố
nêu trên thực sự là những cơ hội to lớn đối với Việt Nam. Thực tế, trong
những năm qua đã chỉ rõ, đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế Việt Nam và xu thế này ổn địn trong tương lai: năm 2006, đầu tư nước
ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu
và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao động trực tiếp làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba: Thương mại dựa trên nguyên tắc công bằng và việc tiếp cận dễ
dàng các cơ chế giải quyết tranh chấp tạo cơ hội cho các nước “yếu” như
Việt Nam. Trong WTO, hệ thống thương mại dựa trên nguyên tắc chứ không
phải trên sức mạnh là cơ hội tốt đối với các hoạt động sản xuất - kinh doanh
của mọi thành viên tổ chức này. Môi trường thương mại quốc tế, sau nhiều nỗ
lực của WTO, đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, tham gia thị trường
54
quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản
thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được
WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… và phần thua thiệt
thường là các doanh nghiệp Việt Nam. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng
được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để
đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả
và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này.
Với nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, các doanh nghiệp
Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm và qui mô nhỏ, các quan hệ thương mại
dựa trên nguyên tắc sẽ là cơ hội để hệ thống doanh nghiệp lớn mạnh theo qui
luật khách quan. Cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính công bằng và bắt
buộc, có khả năng thực thi cao là cơ hội tiềm tàng đối với kinh tế Việt Nam
với qui mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế. Cơ chế này giúp
Việt Nam khẳng định tư cách thành viên trong các tranh chấp, tránh được
những phán quyết bất lợi từ phía các đối tác thương mại lớn như trong vụ kiện
chống bán phá giá cá tra, cá basa trong thời gian qua.
Thứ tư: Áp lực thúc đẩy cải cách kinh tế trong nước. Với những phức
tạp vốn có của các nền kinh tế chuyển đổi, kinh tế Việt Nam gặp không ít khó
khăn khi thiết lập những thể chế cần thiết nhằm thực hiện các cam kết của
WTO. Những qui định mang tính bắt buộc của WTO như sở hữu trí tuệ, hệ
thống tiêu chuẩn, qui định về vệ sinh dịch tễ, vệ sinh động vật, thương mại
nhà nước ... một mặt tạo sức ép rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, mặt
khác, là cơ hội thuận lợi đẩy mạnh quá trình cải cách hướng tới thực hiện cam
kết. Chỉ tính riêng trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã đẩy
nhanh công tác soạn thảo và thông qua luật pháp nhanh gấp nhiều lần những
năm trước đó. Chẳng hạn, từ năm 2001, tức sau khi rà soát chính sách vòng 1
theo yêu cầu của WTO, đến cuối năm 2003 Quốc hội Việt Nam đã thông qua
và sửa đổi bổ sung hơn 25 văn bản luật, pháp lệnh, Hiến pháp... về rất nhiều
lĩnh vực. Trong quá trình cải cách, Việt Nam cũng nhận được sự hỗ trợ kỹ
thuật từ Ban thư ký của WTO và từ các thành viên trong quá trình chuyển đổi,
55
cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng hệ thống pháp luật...
Áp lực cải cách trong nước theo hướng công khai, minh bạch, phù hợp
với các thiết chế quản lý như quy định của WTO đã từng bước hoàn thiện môi
trường kinh doanh của Việt Nam. Đây là tiền đề rất quan trọng để không
những phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu
hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và
công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc
làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thứ năm: Tạo lập vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Gia nhập
WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc
hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết
lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện bảo vệ lợi
ích của đất nước, của doanh nghiệp. Với những thành tựu đạt được sau hơn 20
năm đổi mới, gia nhập WTO không chỉ nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, mà còn tạo những tiền đề cần thiết cho những giai đoạn phát
triển tiếp theo.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO
mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là
trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý
nhà nước còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân
còn nhỏ bé.
2. Thách thức
Song song với những cơ hội có thể khai thác, những thách thức của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với kinh tế nước ta không nhỏ. Ngoài những thách thức mà hầu như các quốc gia đang và chậm phát triển phải đối mặt,
nhiều tài liệu chính thức của Đảng và Nhà nước đã đề cập như áp lực cả về kinh tế, chính trị, xã hội; sự thâm nhập của các trào lưu tư tưởng, chính trị phản động, văn hoá đồi trụy.... thì ở nước ta còn phải đối mặt trực tiếp với nhiều thách thức, bao gồm:
Thứ nhất: Năng lực cạnh tranh thấp. Trên cả ba cấp độ: Quốc gia - doanh nghiệp - sản phẩm, năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn thấp kém,
56
điều này đặt ra những thách thức không nhỏ khi tham gia hoạt động thương
mại toàn cầu. Năng lực cạnh tranh trên góc độ ngành kinh tế cũng không mấy khả quan. Việt Nam là nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp
hoá, lĩnh vực này có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển cũng như cơ cấu thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, những yếu kém nội tại đã làm cho sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp chưa cao. Nông nghiệp còn yếu
cả về cơ sở vật chất, trình độ công nghệ, đặc biệt là việc tuân thủ các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về an toàn thực phẩm trong qui trình sản xuất. Những lô hàng xuất khẩu bị trả về vì dư lượng chất kháng sinh quá cao trong sản phẩm thuỷ sản, dư
lượng chất trừ sâu trong sản phẩm trồng trọt hay liên tiếp những vụ ngộ độc được các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin, không chỉ là thách thức đối với ngành nông nghiệp khi gia nhập WTO mà đã thực sự trở thành mối lo ngại
của toàn xã hội.
Trong công nghiệp, những ngành, sản phẩm được xác định là mũi nhọn,
có năng lực cạnh tranh cao như may mặc, điện tử, giày dép ... lại là những ngành gia công với giá trị gia tăng rất thấp cho công đoạn này. Nói cách khác, chúng ta đang cạnh tranh bằng tình trạng dư thừa lao động (giá nhân công rẻ)
chứ không phải bằng công nghệ mới, sản phẩm đặc trưng, tăng tính năng cho mỗi sản phẩm .... điều mà các ngành công nghiệp ở các nước phát triển thường làm. Ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển tương xứng cũng là một trong những thách thức cần vượt qua nhằm tạo “hậu phương” cho toàn bộ ngành công nghiệp nói chung, những sản phẩm công nghiệp chủ lực nói riêng nâng
cao năng lực cạnh tranh. Các sản phẩm công nghiệp khác với những yếu kém thường được nhắc đến như mẫu mã đơn điệu, giá thành cao, thời gian ra đời sản phẩm mới chậm ... cùng với những hạn chế khác như trình độ công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới, khả năng tiếp thị yếu ... thực sự trở thành những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.
Lĩnh vực dịch vụ với những sản phẩm chủ yếu như ngân hàng, bảo hiểm,
vận tải, viễn thông .... còn một khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực cả về trình độ công nghệ, giá thành, tính ổn định cũng như chất lượng sản phẩm. Với những yếu kém vốn có, các sản phẩm dịch vụ sẽ chịu những áp lực cạnh tranh rất lớn từ các tập đoàn có nhiều kinh nghiệm của nước ngoài. Trên thực tế, ngay từ trước khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, lĩnh vực dịch
57
vụ đã gặp không ít khó khăn và chịu nhiều sức ép từ việc thực hiện các cam kết
mở cửa thị trường này trong khuôn khổ các cuộc đàm phán song phương. Tình trạng các cán bộ có năng lực trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm “chạy” về các
tập đoàn nước ngoài trong thời gian gần đây đã mang tính phổ biến.
Như vậy, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của
Việt Nam với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay
xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát
huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Thách thức trong nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện ở chiến lược phát triển liệu có phát huy được lợi thế so sánh hay không; ở chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch
xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không; ở môi trường kinh doanh có thông thoáng, thuận lợi hay không v.v…
Thứ hai: Cải cách hệ thống pháp luật và thực thi các hiệp định
Mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể trong việc ban hành mới, sửa đổi hệ thống luật pháp nhằm phù hợp với các điều luật của WTO nhưng trên tổng
thể, nhiều bộ luật chuyên ngành còn bộc lộ những bất cập, hệ thống văn bản dưới luật, giấy phép con … còn chồng chéo, mâu thuẫn, thậm chí trái ngược với những qui định của bộ luật chính đã và đang đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam, trước hết là hệ thống luật pháp kinh tế. Là thành viên chính thức, Việt Nam phải tuân theo hệ thống hiệp định
của WTO, điều luật của tổ chức này gồm 28 chương dài hàng ngàn trang cùng với hàng ngàn trang ghi chú và phân loại khác. Do vậy, để hiểu cặn kẽ hệ thống pháp luật của WTO là điều không dễ, xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với các qui định của tổ chức này sẽ càng khó khăn gấp nhiều lần. Mặc dù được hưởng qui chế MFN trong việc hoàn tất chính sách, nghĩa là Việt Nam có thời gian “đệm” cho việc hoàn thiện chính sách theo qui định của WTO,
58
nhưng với khối lượng công việc đồ sộ và trước yêu cầu minh bạch hoá tất cả
các chính sách kinh tế, thương mại, rà soát chương trình xây dựng pháp luật để đảm bảo thực thi các cam kết, đã và đang là những khó khăn, thách thức
đáng kể cho Việt Nam với tư cách thành viên chính thức.
Việc thực hiện hệ thống hiệp định của WTO thực sự là những thách thức. Trong mỗi hiệp định cụ thể, với những nội dung và yêu cầu khác nhau,
ngoài những cơ hội có thể nắm bắt được, những thách thức đi kèm cũng không nhỏ. Chẳng hạn hiệp định bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ: Đây là hiệp định nhằm khuyến khích sự sáng tạo với việc yêu cầu người sử dụng phải trả tiền
đối với những sản phẩm được bảo hộ. Mục tiêu cao đẹp của hiệp định này gây không ít bất lợi cho các nước đang và kém phát triển bởi hầu hết các phát
minh, sáng chế tập trung ở các nước phát triển. Các nước đang phát triển muốn sử dụng những thành tựu này nhưng không muốn phải trả tiền. Đối với Việt Nam, thói quen của người dân và các doanh nghiệp chưa kịp thay đổi để
phù hợp với qui định của hiệp định, và do đó sẽ có thể phải chịu những trừng phạt hay bồi thường, ngay cả trong những trường hợp không cố ý.
Thứ ba: Điều hành nền kinh tế của Chính phủ
Gia nhập WTO trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động
mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được
ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là thách thức không nhỏ.
Gia nhập WTO cũng là gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam không phát huy được lợi thế
so sánh, không tái cơ cấu theo hướng hiện đại sẽ có thể bị phụ thuộc vào các
nền kinh tế lớn, phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài, trở thành địa chỉ gia công
cho các ngành công nghiệp của các nước phát triển. Nguy cơ này xuất phát từ
năng lực nội tại của nền kinh tế Việt Nam do di chứng của kinh tế hiện vật
59
khép kín, trình độ phát triển kinh tế thấp, các quan hệ kinh tế thị trường của
Việt Nam còn phát triển ở mức sơ khai, cơ cấu kinh tế trong nước còn lạc hậu.
Với những đặc điểm bất cập như vậy, nếu Việt Nam không tăng tốc trong giai
đoạn quá độ được WTO cho phép thì nguy cơ giải thể, phá sản hàng loạt
doanh nghiệp có thể xảy ra, gây tác hại xấu cho kinh tế, xã hội, chính trị.
Hệ thống DNNN, nhất là các doanh nghiệp độc quyền, sẽ gặp khó khăn
do WTO buộc chúng phải hoạt động theo nguyên tắc thương mại bình thường,
Nhà nước không được dành cho chúng những khoản ưu đãi tài chính như tín
dụng ưu đãi, khoanh nợ, xoá nợ, nhất là độc quyền. Nếu nước ta không tái cơ
cấu DNNN nhanh chóng để đặt cơ sở nền tảng cho chúng hoạt động hiệu quả
theo nguyên tắc thị trường thì sẽ có nguy cơ DNNN phá sản hàng loạt. Ngoài
ra, Nhà nước cũng sẽ gặp khó khăn trong quản lý sản xuất hàng hoá công cộng
theo nguyên tắc thị trường, bởi vì cơ chế này hiện tại khởi động rất chậm.
Thứ tư: Phúc lợi và an sinh xã hội
Trên thực tế, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi
ít hơn trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế nói chung và gia nhập WTO nói
riêng. Ở mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ
phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực; nguy
cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên,
phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi Chính phủ phải có chính
sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn nhằm thực hiện chủ trương của
Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Người lao động sẽ gặp khó khăn khi tìm kiếm và giữ chỗ làm việc do
những tác động sau: doanh nghiệp có thể sa thải người do phải tái cơ cấu sản xuất
để đủ sức cạnh tranh; vòng đời sản phẩm ngắn lại nên người lao động phải chuyển
nghề liên tục; sức ép cạnh tranh giữa lao động trong nước và lao động nước ngoài
sẽ trực diện và gay gắt hơn; bộ phận dân cư ít kỹ năng thích ứng, nhất là nông dân,
sẽ bị nghèo đói bần cùng hơn làm cho chương trình xoá đói giảm nghèo thêm khó
60
khăn, nhà nước phải chi tiêu nhiều hơn cho an sinh xã hội.
Bất ổn về chính trị và tệ nạn xã hội có cơ hội phát triển nhiều hơn, khả
năng ngăn chặn của Nhà nước và xã hội khó khăn hơn, tốn phí hơn... Khi Việt
Nam thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép các hãng nước ngoài kinh
doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, giải trí, thông tin... thì cơ hội để bọn
phản động trà trộn gây hại sẽ lớn hơn. Trong khi đó, Nhà nước phải giảm các
biện pháp kiểm soát hành chính trực tiếp. Những biện pháp kiểm soát gián
tiếp, một mặt, đòi hỏi chi phí tài chính lớn, nhân lực kiểm soát phải có kỹ
năng chuyên nghiệp cao, mặt khác, không thể kiểm soát triệt để. Do đó, nếu
nhà nước không đổi mới hoạt động kiểm tra giám sát của mình kịp thời thì
nguy cơ bất ổn đi cùng hội nhập WTO là khá cao.
Như vậy, gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn,
vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội là tiềm năng, còn thách
thức hiện hữu hàng ngày. Cơ hội tự nó không biến thành sức mạnh mà tuỳ
thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của Việt Nam. Thách thức tuy là sức ép
trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào “nội lực” của toàn
bộ nền kinh tế.
Cơ hội và thách thức cần đặt trong mối quan hệ tổng thể và nhìn nhận
trong sự vận động, chúng hoà quyện, chuyển hoá lẫn nhau, trong cơ hội chứa
đựng những thách thức và ngược lại. Thách thức đối với ngành này có thể là
cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực
mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại,
không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức
sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Như vậy, nhân tố
chủ quan, nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định đến việc tận dụng cơ
hội, đẩy lùi thách thức, đưa nền kinh tế đến mục tiêu xác định.
Với thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển biến tích
cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh
nghiệm và kết quả của nhiều nước gia nhập WTO có thể khẳng định, kinh tế
Việt Nam có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức và đạt những thành tựu
lớn hơn trong tương lai. Trong từng giai đoạn phát triển, có thể nền kinh tế
Việt Nam sẽ gặp phải những đổ vỡ, một số doanh nghiệp có thể bị phá sản
61
nhưng số còn lại, lớn hơn rất nhiều và sẽ phát triển tốt hơn.
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO TỚI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHỮNG DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP
TS. Đặng Ngọc Lợi
Trước khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam đã được xem xét, đánh giá
và dự báo về nhiều lĩnh vực, trong đó có thương mại. Đến nay, thời gian ngắn
sau khi gia nhập, diễn biến thực tế nói chung và thương mại nói riêng vẫn
chưa có nhiều dữ liệu để đưa ra đánh giá có tính hệ thống.
Do vậy, bài viết này trước hết tổng quan thương mại Việt nam sau một
thời gian gia nhập WTO, mặt khác, căn cứ trên những phân tích về tác động
của các Hiệp định ký kết trong WTO tới các nước đang phát triển nói chung
và tình hình thực tế của Việt Nam nói riêng để đưa ra những đánh giá và giải
pháp mang tính dự báo về tác động của việc gia nhập WTO tới thương mại
Việt Nam thời gian tới.
1. Tổng quan thương mại Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Nền kinh tế Việt Nam trong 6 tháng đầu tiên sau khi gia nhập WTO có
những tiến triển tốt. Tốc độ tăng trưởng FDP quý I năm 2007 đạt 7,7%. Việc
Việt nam chính thức gia nhập WTO đã có những tác động đầu tiên đến một số
lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực xuất, nhập khẩu.
Bảng 1. Xuất nhập khẩu quý I năm 2007
QI-2007/QI-2006 (%) 117,8 124,7 112,9 133,6 139,8 123,8
114,5 111,3
62
Xuất khẩu cả nước - DN 100% vốn trong nước - DN vốn FDI Nhập khẩu cả nước - DN 100% vốn trong nước - DN vốn FDI Cán cân TM cả nước - So với KN xuất khẩu (%) - DN 100% vốn trong nước - DN vốn FDI Xuất khẩu dịch vụ Nhập khẩu dịch vụ Cán cân thương mại dịch vụ - So với KN xuất khẩu (%) QI-2007 (tỷ USD) 10,483 4,646 5,837 11,799 7,556 4,243 - 1,316 12.55 -2,910 1,594 1,260 1,380 -120 9,5
Nguồn: Bộ Thương mại (2007).
Phân tích một cách khái quát tình xuất nhập khẩu của Việt Nam thời
gian qua có thể nhận thấy một số động thái đáng quan tâm, đó là:
Thứ nhất, Về kim ngạch và mặt hàng xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước và của các mặt
hàng khác của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá. Tính đến hết tháng
2/2007, xuất khẩu tăng đến 23,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng
32,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (nếu không kể dầu thô bị giảm
17,6%) vẫn tăng tới 41,4%.
Tuy nhiên tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu còn thấp, so với cùng kỳ
năm ngoái, kết quả xuất khẩu cả quý I năm 2007 chỉ tăng 17.9%, đạt thấp hơn
so với mức tăng 20.3% của quý I năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu chưa đạt
mức kỳ vọng 3,96 tỷ USD/tháng, mức trung bình thấp nhất để đạt mục tiêu
46,75 tỷ USD đề ra cho cả năm 2007. Điều này là do kim ngạch một số mặt
hàng quan trọng như gạo, cao su tăng thấp, thậm chí giảm so cùng kỳ như
khối lượng dầu thô xuất khẩu giảm 5,4% và giá trị xuất khẩu mặt hàng này
giảm hơn 10% so với cùng kỳ năm trước. Bù đắp cho sự sụt giảm xuất khẩu
dầu thô, xuất khẩu nhiều mặt hàng khác đã tăng mạnh như: hàng dệt may tăng
31,8%; sản phẩm nhựa tăng gần 49%; hàng điện tử tăng 27,5%; các sản phẩm
gỗ, dây điện, thủ công mỹ nghệ đều tăng trên 24%; thuỷ sản tăng 20,5%; rau
quả tăng 21%... Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước 4
đầu năm đã tăng vọt, đạt 27%- cao hơn đáng kể mức 14% của cùng kỳ năm
trước. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phi dầu mỏ
vẫn tiếp tục tăng cao, đạt tới 35,2%. Trong 4 tháng đầu năm, đã có 4 mặt hàng
có giá trị xuất khẩu xấp xỉ hoặc vượt ngưỡng 1 tỷ USD (trừ dầu thô), bao
gồm: thuỷ sản (trên 1 tỷ USD); hàng dệt may (xấp xỉ 2,2 tỷ USD); giày dép
(1,2 tỷ USD); và cà phê (947 triệu USD).
Những kết quả nêu trên được đánh giá là tích cực. Việc giảm xuất khẩu
dầu thô sẽ làm giảm sự lệ thuộc vào xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên này.
63
Trong khi đó, sự gia tăng mạnh xuất khẩu những mặt hàng khác, nhất là của
khu vực doanh nghiệp trong nước, là tín hiệu rất đáng mừng. Xuất khẩu của
khu vực doanh nghiệp này sẽ đóng vai trò thay thế xuất khẩu dầu thô. Các thị
trường xuất khẩu truyền thống tiếp tục tăng mạnh và một số thị trường khác
cũng tăng khá. Nhiều chuyên gia cho rằng, đạt được kết quả trên một phần là
do các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng được cơ hội khi Việt Nam gia
nhập WTO, với các rào cản về hạn ngạch bị dỡ bỏ, rào cản về thuế suất thuế
nhập khẩu vào các nước được cắt giảm...
Thứ hai, về kim ngạch và mặt hàng nhập khẩu
Tốc độ tăng của nhập khẩu quý I cao gấp đôi so xuất khẩu, đạt 11.8 tỷ
USD, tăng 33,6% so cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước
còn tăng cao hơn. Nhập siêu trong 4 tháng đầu năm 2007 đạt tới 2,261 tỷ
USD, lớn nhất từ trước đến nay.
Trong số 21 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu, chỉ có hai mặt hàng giảm là
ô tô nguyên chiếc và nguyên phụ liệu dệt may, da, còn các mặt hàng còn lại
đều tăng mạnh như: khối lượng nhập khẩu phân bón các loại tăng 48,6%; thép
các loại tăng 44,4%; máy tính và linh kiện điện tử tăng 36,1%; hoá chất các
loại tăng 38,3%; linh kiện xe máy CKD, IKD tăng 36,5%... Có ý kiến cho
rằng, nhập khẩu nói chung và nhập siêu nói riêng tăng mạnh là do tăng cường
nhập khẩu nhóm hàng máy móc- thiết bị- phụ tùng, với tổng giá trị nhập khẩu
4 tháng khoảng 2,884 tỷ USD, tăng 52,7% so với cùng kỳ năm 2006. Sự gia
tăng nhập khẩu là nhằm gia tăng đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu. Nhập siêu
tăng cũng là một hệ quả tất yếu của việc gia tăng đầu tư sản xuất trong nước
và các doanh nghiệp FDI sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Tuy nhiên, thực tế trên cũng cho thấy rằng nền kinh tế Việt Nam vẫn
phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu nhập ngoại,
bởi vì hầu hết các ngành công nghiệp phụ trợ đến nay vẫn chưa có bước tiến
triển đáng kể, thậm chí phần lớn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài làm hàng
xuất khẩu đều dựa vào nguồn nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu (gia công cho
nước ngoài). Rõ ràng là lộ trình “nội địa hoá” được bàn thảo từ nhiều năm nay
64
cho đến nay chưa mang lại kết quả đáng kể. Trong bối cảnh ấy, với khả năng
ngày càng rộng mở về xuất khẩu do hội nhập WTO, thì việc hạn chế nhập
siêu sẽ trở nên hết sức khó khăn.
Mặt khác, nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước rất cao. Trong khi
quý I năm 2006 xuất siêu 56 triệu USD thì quý I năm 2007 đã nhập siêu 1,315
tỷ USD, trong đó chủ yếu do khu vực kinh tế trong nước. Đây là dấu hiệu
không tốt đối với kinh tế quốc gia và từng doanh nghiệp, chứng tỏ hiệu quả và
sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước thấp, đồng thời, do Việt nam
phải thực hiện cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo cam kết, nên hàng nhập
khẩu vào nước ta tăng lên. Mặt khác, điều này cho thấy việc phát triển công
nghiệp phụ trợ, giảm bớt tính gia công của sản xuất nước ta còn lớn.
Từ những diễn biến trên, một câu hỏi đặt ra là sự gia tăng mạnh nhập
khẩu của phần lớn các mặt hàng trong những tháng đầu năm 2007 có phải do
việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu hơn 3.000 mặt hàng để thực hiện cam
kết gia nhập WTO, khiến hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn và đổ mạnh vào thị
trường trong nước? Và đây có phải là dấu hiệu báo trước xu thế tăng nhập
khẩu sẽ còn tiếp tục mạnh lên trong những năm tới? Giá cả một số mặt hàng
nhập khẩu trong diện cắt giảm thuế suất cũng đã giảm ít nhiều, nhưng chủ yếu
là một số mặt hàng cao cấp, hàng nhập khẩu từ ngoài khu vực ASEAN, người
tiêu dùng trong nước, nhất là người có thu nhập thấp chưa được hưởng lợi
nhiều.
Thứ ba, Về thị trường
Những thị trường xuất khẩu truyền thống tiếp tục tăng mạnh và một số
thị trường khác cũng tăng khá. Những kết quả trên một phần được lý giải bởi
khi nước ta trở thành thành viên WTO, các rào cản về hạn ngạch bị dỡ bỏ, rào
cản về thuế suất thuế nhập khẩu vào các nước được cắt giảm... các doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã ngay lập tức tận dụng cơ hội này.
Bên cạnh đó, những tác động làm tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng lên đến 24,1%, trong đó khu vực có vốn đầu
65
tư nước ngoài tăng cao nhất, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ (2,8%). Điều
này chủ yếu do lượng tiêu dùng tăng, tỷ lệ tiêu dùng thông qua mua bán trên
thị trường tăng, còn giá tiêu dùng tăng thấp hơn cùng kỳ.
2. Dự báo tác động
Gia nhập WTO, thương mại Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và
không ít thách thức, những tác động vừa theo hướng tích cực vừa theo hướng
tiêu cực. Do vậy, việc phân tích và dự báo những tác động trong ngắn hạn và
dài hạn là cần thiết để có thể đưa ra và thực hiện những giải pháp thích hợp.
2.1 Những tác động tích cực
Việc Việt nam tham gia Tổ chức thương mại thế giới đã tạo những tác
động tích cực đến hoạt động thương mại trên những mặt sau:
Thứ nhất là, Tác động tích cực của việc cắt giảm thuế
Sau mçi vßng ®µm ph¸n, thuÕ suÊt mµ c¸c n−íc tho¶ thuËn víi nhau
®−îc ghi vµo b¶n danh môc −u ®·i, hay cßn gäi lµ danh môc thuÕ quan (Tariff
Sche dule). Mçi n−íc cã mét danh môc thuÕ quan riªng. ThuÕ suÊt ghi vµo
danh môc nµy ®−îc gäi lµ ThuÕ suÊt rµng buéc (Binding rate), tøc lµ sau nµy
n−íc ®ã sÏ kh«ng ®−îc phÐp t¨ng thuÕ suÊt cao h¬n møc ®· ghi trong danh
môc thuÕ quan. Nh− vËy, nÕu ®· ®−a vµo danh môc thuÕ quan lµ mÆt hµng ®ã
®· bÞ rµng buéc vÒ thuÕ, cßn nh÷ng mÆt hµng nµo kh«ng ®−a vµo danh môc
thuÕ quan th× ®−îc tù do ®iÒu tiÕt t¨ng gi¶m thuÕ.
Khi tham gia vµo WTO, c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn ph¶i cam kÕt rµng
buéc thuÕ ®èi víi 100% hµng n«ng s¶n vµ 73% s¶n phÈm c«ng nghiÖp, cßn
c¸c n−íc c«ng nghiÖp ph¸t triÓn lµ 100% vµ 97%. Ngoµi ra dùa trªn møc thuÕ
®· rµng buéc, c¸c n−íc thµnh viªn ph¶i tiÕn hµnh c¾t gi¶m thuÕ quan. Trong
lÜnh vùc n«ng nghiÖp, thuÕ suÊt ®èi víi c¸c n«ng s¶n ®−îc c¾t gi¶m trung b×nh
36% ë c¸c n−íc ph¸t triÓn (møc gi¶m tèi thiÓu mçi dßng thuÕ kh«ng Ýt h¬n
15%) vµ 24% ë c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn (møc gi¶m tèi thiÓu ®èi víi mçi dßng
thuÕ kh«ng Ýt h¬n 10%). ViÖc c¾t gi¶m ®−îc tiÕn hµnh lÇn l−ît trong vßng 6
n¨m ®èi víi c¸c n−íc ph¸t triÓn (1995-2000) vµ 10 n¨m ®èi víi c¸c n−íc ®ang
66
ph¸t triÓn (1995-2004). Nh− vËy, viÖc c¾t gi¶m thuÕ cña ViÖt Nam tuy ®−îc
kÐo dµi h¬n so víi c¸c n−íc kh¸c, ®ång thêi cã thÓ linh ho¹t ®−a ra c¸c mèc
thêi gian c¾t gi¶m thuÕ cña m×nh, song lé tr×nh ®ã ®· kÕt thóc.
Bên cạnh đó, với Việt nam, việc cắt giảm thuế theo cam kết WTO sẽ thu
hẹp bảo hộ quá mức đối với các ngành đang có mức thuế MFN cao.
Cùng với giảm thuế suất các mặt hàng thành phẩm (thường có thuế suất
MFN cao) và giảm ở mức độ nhất định đối với nhiều loại sản phẩm trung
gian/nguyên vật liệu, kết quả sẽ thu hẹp bảo hộ quá mức ở một số ngành. Mức
bảo hộ chung sẽ giảm và các ngành sẽ có mức bảo hộ hợp lý hơn, giảm chênh
lệch về bảo hộ giữa các ngành. Hiện nay, bình quân các ngành có mức bảo hộ
thực tế ở mức khoảng 30%, việc cắt giảm thuế theo cam kết WTO sẽ giảm
mức độ bảo hộ chung này xuống chỉ còn khoảng 15%, giảm đi 50%. Mức độ
chênh lệch về bảo hộ giữa các ngành sẽ thu hẹp đáng kể - những ngành hiện
đang được bảo hộ cao sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Giảm bảo hộ sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển xuất khẩu dẫn đến
tổng thể nền kinh tế sẽ hoạt động có hiệu quả hơn.
Các ngành chịu ảnh hưởng nhiều từ cạnh tranh của hàng nhập khẩu do
việc giảm thuế (ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạch nhập khẩu) gồm: các sản
phẩm gỗ, giấy; ô tô, xe máy, hàng chế tạo khác, sản phẩm hóa chất, đồ nhựa,
dệt may, máy móc thiết bị các loại.
Ngoài ra, Theo IMF và Ngân hàng Thế giới thì việc cắt giảm thuế
quan, đã được thực hiện và cũng như đang tiếp tục được đàm phán, sẽ không
tác động đáng kể đến nguồn thu hải quan của các nước đang phát triển. Lý
do là các cuộc đàm phán tập trung vào thuế ràng buộc, chứ không phải là thuế
áp dụng. Hơn thế nữa, việc giảm thuế quan được kết hợp với nhiều hình thức
miễn giảm khác nhau đối với các nước đang phát triển cũng như việc hiện đại
hoá công tác điều hành hải quan có thể có những tác động giúp các nước tăng
thu từ hải quan. Một quan điểm khác cho rằng việc cắt giảm thuế quan thường
làm tăng nhập khẩu. Điều này làm tăng thu từ hải quan và thực tế đã diễn ra ở
các nước như Philippin hay Mexico. Giảm thuế quan cũng làm giảm buôn lậu
và tham nhũng nên có tác động tích cực đến các nguồn tài chính của chính
67
phủ.
Thứ hai là, mở rộng thị trường xuất khẩu
Trước đây, thực hiện chiến lược kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, Việt
Nam đã xây dựng được nhiều ngành hàng có năng lực sản xuất lớn, có sức
cạnh tranh cao và kim ngạch xuất khẩu hàng cao trên thế giới: gạo xuất khẩu
đứng thứ 2, hạt tiêu đứng thứ nhất, điều đứng thứ 2, chè và thuỷ sản đứng thứ
7 trên thế giới. Trong đó, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
rất cao như dệt may năm 2004 tăng hơn 5 lần, giày dép tăng hơn 9 lần so với
năm 1995. Tuy nhiên, do một số thị trường chưa được khai thông, hoặc bị
phân biệt đối xử nên khả năng xuất khẩu còn hạn chế. Tham gia WTO, Việt
Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành
viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các
nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị
phân biệt đối xử. Điều đó tạo điều kiện cho Việt nam mở rộng thị trường xuất
khẩu, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực
hàng nông sản và dệt may, đồng thời mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài
biên giới quốc gia trong dài hạn. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ kéo theo
những ảnh hưởng tích cực tới các ngành kinh tế trong nước, sản xuất sẽ được
mở rộng và tạo ra nhiều công ăn việc làm.Với một nền kinh tế có độ mở lớn
như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì
điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng
Mặt khác, theo một phân tích gần đây thì các thành viên mới là các
nước đang phát triển – trong đó có Việt nam hội nhập sâu hơn vào hệ thống
thương mại toàn cầu và do vậy hưởng lợi nhiều hơn xét về tăng trưởng
thương mại, đơn giản vì các nước này đã buộc phải mở cửa các thị trường của
mình khi đàm phán gia nhập. Việc cơ cấu lại nền kinh tế của các nước này đã
cải thiện khả năng cạnh tranh quốc tế và xuất khẩu đã ít nhiều tăng lên.
Thứ ba là, Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng trên thị trường của tất
cả các thành viên WTO (theo nguyên tắc MFN).
Trước đây khi chưa là thành viên WTO, chúng ta đã thua thiệt trong
các vụ tranh chấp thương mại quốc tế, như về cá ba sa. Hiện nay, để xử lý các
68
tranh chấp tương tự, Việt Nam sẽ có lợi thế hơn do tiếp cận được hệ thống
giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các
nước lớn gây sức ép. Gia nhập WTO cũng tạo điều kiện để Việt Nam không
bị đối xử như một nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ tranh chấp
thương mại như hiện nay.
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO đã nâng cao khả năng để các
nước đang phát triển như Việt nam giám sát việc thực hiện các cam kết
thương mại mà các đối tác đưa ra. Do vậy, khi Việt nam khởi kiện và theo
đuổi các vụ kiện dưới hệ thống WTO sẽ có khả năng thành công cao hơn.
Thứ tư là, Về nhập khẩu
Việt Nam đang trong quá trình CNH, HĐH do đó phải nhập khẩu nhiều
thiết bị công nghệ và nguyên liệu đầu vào của một số ngành công nghiệp có tỷ
trọng lớn trong xuất khẩu như dệt may, điện tử, đồ gỗ. Khi trở thành thành
viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng và giá cả
cạnh tranh. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là khối lượng hàng hoá nhập khẩu có
thể tăng nhưng giá trị kim ngạch nhập khẩu sẽ tăng hoặc tăng không đáng kể.
Và người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình. Việc nhập khẩu
hàng hoá diễn ra dễ dàng làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp phải nhập khẩu công nghệ và nguyên liệu đầu vào thuận lợi
hơn.
Thứ năm là, Lợi ích cho ngành dệt may
Ngành có lợi rõ rệt nhất sẽ là ngành dệt may – ngành xuất khẩu lớn thứ
2 của Việt Nam - bởi thuế quan thấp hơn và hạn ngạch được xoá bỏ ở những
thị trường hiện còn áp dụng hạn ngạch (như Mỹ và EU). Việc xoá bỏ hạn
ngạch dệt may có thể tạo ra 27 triệu việc làm mới tại các nước đang phát triển
(theo Walkenhorst - 2003), trong đó có Việt nam.
MÆt kh¸c, c¹nh tranh gay g¾t vÒ mÆt hµng dÖt may trªn thÕ giíi, dÉn
®Õn ViÖt nam có thể mất thị trường vào tay Trung Quốc nh÷ng l¹i giành được
thị phần từ các nước đang phát triển khác do các nước này không đủ khả năng
69
cạnh tranh khi không có hạn ngạch.
Thứ sáu là, Việt Nam là một nước đang phát triển vµ lµ mét nÒn kinh
tÕ ®ang trong qu¸ tr×nh chuyÓn ®æi. WTO đang cố gắng đáp ứng nhu cầu đặc
biệt của các nước đang phát triển bằng ba phương thức:
+ Các hiệp định của WTO đều có những qui định đặc biệt dành cho các
nước đang phát triển.
+ Uỷ ban về thương mại và phát triển là cơ quan tập trung chính các
công việc của WTO trong lĩnh vực này cùng với một số uỷ ban khác như
thương mại và nợ hoặc chuyển giao công nghệ.
+ Ban thư ký của WTO cung cấp trợ giúp kỹ thuật (chủ yếu dưới nhiều
hình thức đào tạo) cho các nước đang phát triển.
Khi tham gia WTO, Việt nam sẽ nhận được những điều khoản ưu đãi
riêng trong rất nhiều Hiệp định của tổ chức này dành cho các nước đang và
chậm phát triển. Những ưu đãi này thường là mang tính giảm nhẹ so với
những nghĩa vụ, cam kết chung mà WTO đề ra: (1) dành cho các nước đang
phát triển thời hạn dài hơn để thực hiện các cam kết của mình (qui định có
trong rất nhiều hiệp định của WTO) ; (2) những qui định giúp tăng cường khả
năng thương mại của các nước đang phát triển bằng cách nâng cao khả năng
tiếp cận thị trường (ví dụ như các hiệp định về hàng dệt may, về dịch vụ, về
những rào cản kỹ thuật đối với thương mại) ; (3) những qui định buộc các
nước thành viên của WTO phải đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển
khi đưa ra các biện pháp ở cấp độ quốc gia hay quốc tế (ví dụ như hiệp định
chống bán phá giá, hiệp định về các biện pháp tự vệ, hiệp định về những rào
cản kỹ thuật đối với thương mại) ; (4) những điều khoản qui định phương
thức hỗ trợ các nước đang phát triển (chẳng hạn để giúp họ thực hiện các
cam kết đảm bảo các tiêu chuẩn về sức khoẻ động vật và bảo vệ thực vật, đảm
bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật hay để phát triển lĩnh vực viễn thông của họ)
Có thể đưa ra một số điều kiện ưu đãi đặc biệt cụ thể như:
Về các biện pháp phi thuế, WTO cho phép các nước đang phát triển sử
dụng các biện pháp hạn chế định lượng như hạn ngạch, giấy phép có tính định
70
lượng trong một thời gian nhất định.
Về trợ cấp xuất khẩu và các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, theo
nguyên tắc chung của WTO th×: (1) C¸c thµnh viªn ph¶i tiÕn hµnh c¾t gi¶m trî
cÊp xuÊt khÈu vµ dÇn xo¸ bá c¸c biÖn ph¸p trî cÊp xuÊt khÈu ®èi víi hµng
n«ng s¶n. Tuy nhiªn, ®èi víi c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn, møc ®é c¾t gi¶m lµ
24% nguån ng©n s¸ch trî cÊp dµnh cho xuÊt khÈu n«ng phÈm, khèi l−îng
hµng ho¸ ®−îc h−ëng trî cÊp sÏ ®−îc gi¶m 14% trong vßng 10 n¨m kÓ tõ ngµy
HiÖp ®Þnh WTO cã hiÖu lùc; (2) WTO yªu cÇu c¸c thµnh viªn cña m×nh ph¶i
lo¹i bá ngay c¸c h×nh thøc trî cÊp trong lÜnh vùc c«ng nghiÖp, tuy nhiªn, c¸c
n−íc thµnh viªn chËm ph¸t triÓn nhÊt vµ c¸c thµnh viªn ®ang ph¸t triÓn cã thu
nhËp quèc d©n b×nh qu©n trªn ®Çu ng−êi d−íi 1000USD/n¨m ®−îc phÐp duy
tr× trî cÊp xuÊt khÈu ®èi víi c¸c s¶n phÈm c«ng nghiÖp; ®−îc phÐp ¸p dông
lo¹i trî cÊp cho s¶n xuÊt thay thÕ hµng nhËp khÈu trong vßng 5 n¨m kÓ tõ
ngµy hiÖp ®Þnh WTO cã hiÖu lùc. Ngoµi ra, c¸c thµnh viªn chËm ph¸t triÓn
nhÊt vµ nh÷ng thµnh viªn ®ang ph¸t triÓn cã thu nhËp quèc d©n trªn ®Çu ng−êi d−íi 1000USD/n¨m mµ ®· ®¹t ®−îc tÝnh c¹nh tranh* trong xuÊt khÈu mét hoÆc
nhiÒu s¶n phÈm th× trî cÊp xuÊt khÈu ®èi víi nh÷ng s¶n phÈm ®ã sÏ ph¶i xo¸
bá trong vßng 8 n¨m. Ngoµi trî cÊp xuÊt khÈu, c¸c thµnh viªn ®ang ph¸t triÓn
cßn cã thÓ ¸p dông trî cÊp khuyÕn khÝch sö dông hµng néi ®Þa trong vßng 5
n¨m kÓ tõ ngµy HiÖp ®Þnh WTO cã hiÖu lùc. (3) WTO còng cã quy ®Þnh r»ng,
c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn vÉn ®−îc ®èi xö −u ®·i trong th−¬ng m¹i cho dï
hµng xuÊt khÈu cña hä ®ang bÞ ®iÒu tra ®Ó ¸p dông thuÕ ®èi kh¸ng.
Về định giá Hải quan, ®èi víi c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn th× WTO cho
phÐp cã quyÒn duy tr× hÖ thèng gi¸ tÝnh thuÕ tèi thiÓu hiÖn hµnh trong mét thêi
gian qu¸ ®é th«ng qua ®µm ph¸n vÒ mét sè Ýt mÆt hµng. Sau ®ã, tõng b−íc lo¹i
bá dÇn b¶ng gi¸ tèi thiÓu trong thêi gian ©n h¹n vµ më réng dÇn ®èi t−îng ¸p
dông c¸c nguyªn t¾c x¸c ®Þnh trÞ gi¸ h¶i quan theo quy ®Þnh cña WTO
Bªn c¹nh ®ã, c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn cßn ®−îc trî gióp kü thuËt trong
viÖc ®µo t¹o nh©n lùc, so¹n th¶o vµ ¸p dông c¸c biÖn ph¸p míi, tiÕp cËn th«ng
xuÊt khÈu s¶n phÈm nµy chiÕm Ýt nhÊt 3,5% thÞ phÇn cña th−¬ng m¹i thÕ giíi vÒ s¶n phÈm ®ã trong hai n¨m
liªn tôc.
71
* Theo quy ®Þnh cña WTO, mét s¶n phÈm ®−îc coi lµ cã tÝnh c¹nh tranh nÕu thµnh viªn ®ang ph¸t triÓn ®·
tin vÒ c¸c ph−¬ng ph¸p ®Þnh gi¸ h¶i quan, nghiªn cøu t×m gi¶i ph¸p trong
tr−êng hîp c¸c n−íc nµy gÆp trë ng¹i ®Õn møc cã thÓ ¶nh h−ëng ®Õn c¸c nhµ
nhËp khÈu vµ ph©n phèi ®¬n lÎ.
VÒ hµng rµo kü thuËt ®èi víi th−¬ng m¹i, C¸c n−íc ®ang vµ chËm ph¸t
triÓn ®−îc t− vÊn, hç trî trong viÖc so¹n th¶o c¸c quy ®Þnh kü thuËt, thµnh lËp
c¸c c¬ quan tiªu chuÈn quèc gia, tham gia c¸c tæ chøc tiªu chuÈn quèc tÕ, hç
trî c¸c nhµ s¶n xuÊt tiÕp cËn hÖ thèng ®¸nh gi¸ hîp chuÈn trªn l·nh thæ n−íc
m×nh. Trong ®iÒu kiÖn c«ng nghÖ vµ kinh tÕ x· héi ®Æc biÖt cña n−íc m×nh,
c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn cã thÓ kh«ng sö dông c¸c tiªu chuÈn quèc tÕ mµ
®−îc phÐp ¸p dông mét sè tiªu chuÈn, quy ®Þnh kü thuËt cô thÓ nh»m môc
®Ých duy tr× c¸c kü thuËt, quy tr×nh s¶n xuÊt trong n−íc phï hîp víi tr×nh ®é
ph¸t triÓn, nhu cÇu tµi chÝnh vµ th−¬ng m¹i cña n−íc m×nh.
VÒ th−¬ng m¹i liªn quan ®Õn ®Çu t− vµ th−¬ng m¹i dÞch vô, th×: (1)
Theo quy ®Þnh cña WTO, kh«ng mét n−íc thµnh viªn nµo ®−îc ¸p dông c¸c
biÖn ph¸p ®èi xö chèng l¹i ng−êi n−íc ngoµi vµ hµng ho¸ n−íc ngoµi, tøc lµ
kh«ng ®−îc vi ph¹m nguyªn t¾c ®èi xö quèc gia, ®ång thêi WTO còng kh«ng
cho phÐp sö dông c¸c biÖn ph¸p ®Çu t− cã thÓ dÉn tíi h¹n chÕ sè l−îng. C¸c
n−íc thµnh viªn ph¶i th«ng b¸o víi WTO vµ c¸c n−íc thµnh viªn kh¸c tÊt c¶
c¸c biÖn ph¸p ®Çu t− mµ kh«ng tu©n thñ HiÖp ®Þnh. TÊt c¶ c¸c biÖn ph¸p ®ã sÏ
ph¶i bÞ lo¹i bá. Thêi h¹n lo¹i bá tÝnh tõ khi HiÖp ®Þnh WTO cã hiÖu lùc ®èi
víi c¸c n−íc ph¸t triÓn lµ 2 n¨m, ®èi víi c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn lµ 5 n¨m,
cßn ®èi víi c¸c n−íc chËm ph¸t triÓn nhÊt lµ 7 n¨m; (2) WTO chia tÊt c¶ c¸c
ngµnh dÞch vô cña nÒn kinh tÕ thµnh 12 ngµnh vµ bao gåm 155 ph©n ngµnh.
Khi ®µm ph¸n vÒ më cöa thÞ tr−êng dÞch vô, c¸c n−íc c«ng nghiÖp ph¸t triÓn
ph¶i ¸p dông ph−¬ng ph¸p lo¹i trõ (tøc lµ lÜnh vùc dÞch vô nµo kh«ng më cöa
th× liÖt kª, c¸c lÜnh vùc dÞch vô cßn l¹i ®Òu ph¶i më cöa). Riªng ®èi víi c¸c
n−íc ®ang ph¸t triÓn, ®−îc ¸p dông ph−¬ng ph¸p chän - cho, tøc lµ më cöa
lÜnh vùc dÞch vô nµo th× liÖt kª lÜnh vùc ®ã, ngoµi ra, c¸c lÜnh vùc dÞch vô
kh«ng liÖt kª lµ kh«ng cam kÕt. Tuy nhiªn, viÖc chän - cho kh«ng ph¶i ®−îc
thùc hiÖn mét c¸ch tuú ý mµ ph¶i th«ng qua ®µm ph¸n. Trªn thùc tÕ, c¸c thµnh
72
viªn ®Òu g©y ¸p lùc ®Ó c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn ph¶i më cöa nhiÒu nhÊt.
Ngoài ra, WTO thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo về chính sách
thương mại tại Giơ-ne-vơ. Hàng năm, WTO cũng tổ chức khoảng 400 hoạt
động hợp tác kỹ thuật, trong đó có các cuộc hội thảo và họp bàn tròn tại nhiều
nước khác nhau và các khoá học tại Giơ-ne-vơ. Các hoạt động này được dành
cho các nước đang phát triển, các nước đang trong thời kỳ chuyển đổi (các
nước XHCN hoặc CSCN trước đây) và đặc biệt là các nước châu Phi. Một số
hội thảo cũng đã được tổ chức tại châu Á, châu Mỹ latinh, vùng Ca-ri-bê,
vùng Trung Đông và tại khu vực Thái Bình Dương. Các hoạt động hợp tác kỹ
thuật và đào tạo được tài trợ từ ba nguồn: ngân sách thường xuyên của WTO,
đóng góp tự nguyện của các nước thành viên WTO và sự hỗ trợ một phần chi
phí từ những nước tham gia vào các hoạt động của WTO hay từ các tổ chức
quốc tế khác.
Thứ bảy là, gia nhập WTO, xuất khẩu của Việt Nam tăng, FDI chảy
vào nhiều, từ đó sẽ giúp tăng số lượng việc làm. Bên cạnh đó, vị trí là thành
viên đầy đủ của WTO mở ra nhiều vận hội mới cho đa số lao động Việt Nam.
Họ có cơ hội tham gia sâu rộng vào phân công lao động toàn cầu, tiếp cận với
khoa học công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ, tăng thu nhập. Có thể khẳng
định, gia nhập WTO là một cơ hội để nguồn nhân lực mạnh lên, đó là do: (1)
Khi mở cửa, các công ty đa quốc gia và các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục
vào Việt Nam sẽ gián tiếp góp phần làm tăng chất lượng nhân lực nước ta; (2)
Các doanh nghiệp Việt Nam phải tự đào tạo nguồn lực cho mình và ngày càng
có những yêu cầu khắt khe hơn với các tổ chức đào tạo; (3) Chính các công
chức, người lao động phải tự học tập, nâng cao chuyên môn để đáp ứng nhu
cầu của doanh nghiệp, đáp ứng đòi hỏi của cải cách.
2.2. Những tác động tiêu cực
Thứ nhất là, Tranh chấp thương mại sẽ trở nên phổ biến hơn.
Hầu hết các hàng hóa Việt Nam xuất ra thế giới sẽ cạnh tranh với hàng
hóa của nhiều nước, do đó khó tránh khỏi tranh chấp thương mại. Việt Nam
sẽ phải thực hiện sự đối xử bình đẳng (MFN và NT) đối với các nước thành
viên Asean, APEC, WTO (hoặc trong các khuôn khổ liên kết kinh tế quốc tế
73
khác mà Việt Nam tham gia) trong các lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và
sở hữu trí tuệ. Đây không phải là điều dễ dàng. Việc không thực hiện đúng 2
định chế này (nhất là NT) đã là nguyên nhân của rất nhiều các vụ kiện trong
khuôn khổ GATT/WTO. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, sau khi
Trung Quốc gia nhập WTO, Hoa Kỳ đã liên tục kiện Trung Quốc vi phạm
NT.
Mặt khác, các biện pháp trừng phạt trong hệ thống giải quyết tranh
chấp này vẫn chỉ giới hạn trong những đe doạ trừng phạt thương mại – gây
bất lợi cho các nước đang phát triển như Việt nam vì họ không dám đe doạ
hàng nhập khẩu vào nước mình theo cách đó.
Bên cạnh đó, thời gian qua phần lớn các doanh nghiệp bị kiện bán phá
giá là do chưa hiểu biết rõ ràng, cụ thể về luật lệ quốc tế, chưa có cán bộ có
trình độ tham gia giải quyết các tranh chấp này; các doanh nghiệp chưa minh
bạch việc sản xuất kinh doanh, chính sách, điều lệ của mình.
Thứ hai là, Tác động của việc cắt giảm thuế quan
Việc thuế nhập khẩu phải cắt giảm ở mức trung bình 17.4% hiện nay
xuống mức trung bình 13.4% trong vòng 3 đến 5 năm tới sẽ khiến cạnh tranh
gay gắt hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của Việt nam với sản phẩm
các nước, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp các nước không
chỉ trên thị trường thế giới mà cả trên thị trường trong nước. Hơn thế nữa,
cạnh tranh giữa các nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lý và
chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài
cũng rất gay gắt.
Bên cạnh đó, cắt giảm thuế quan dẫn đến nguồn thu từ thuế XNK giảm,
gánh nặng sẽ dồn sang thu nội địa.
Một khía cạnh tác động khác của vấn đề thuế quan là: tuỳ thuộc vào cơ
cấu hàng hoá mà các nước đang phát triển xuất khẩu, các nhà xuất khẩu tại
các nước đang phát triển thường chịu mức thuế quan cao hơn khá nhiều khi
xuất khẩu hàng công nghiệp so với các nhà xuất khẩu cuả các nước phát triển.
Lý do là trên thực tế, các hàng hoá có lợi ích xuất khẩu cao của các nước đang
74
phát triển, như dệt, da thường phải chịu thuế quan cao hơn dưới hình thức của
thuế đỉnh hoặc thuế leo thang. Vấn đề thuế đỉnh và thuế leo thang vốn gây trở
ngại cho các nước đang phát triển như Việt nam trong việc đa dạng hoá sản
phẩm xuất khẩu và cải thiện mức độ tiếp cận thị trường. Do mức thuế quan
cao đối với hàng chế biến, nhiều nước đang phát triển đã không phát triển các
ngành công nghiệp chế biến của mình, mà thay vào đó, hiện họ phụ thuộc vào
các số lượng nhỏ hàng hoá không qua chế biến được bán trên thị trường với
nhu cầu tăng trưởng thấp.
B¶ng 2: Mức thuế quan trung bình đối với sản phẩm công
nghiệp
Khu vực xuất khẩu
Khu vực nhập khẩu
Các nước Các nước Thế giới
phát triển phát
đang triển
Các nước phát triển 0.8% 10.9% 3.8%
Các nước đang phát triển 3.4% 12.8% 7.1%
Nguồn: UBHTQT
Thế giới 1.5% 11.5% 4.7%
Như vậy có thể thấy các nhà xuất khẩu hàng từ các nước đang phát
triển sang các nước phát triển phải chịu mức thuế cao hơn 4 lần (3.4% so với
0.8%) so với các nhà xuất khẩu từ các nước phát triển sang các nước đang
phát triển.
Thứ ba là, Thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu
sẽ tăng nhưng dự kiến sẽ không có đột phá lớn trong ngắn hạn, vì những lý do
sau đây:
Một là, khác với các cuộc đàm phán song phương khác, đàm phán gia
nhập WTO không dẫn đến việc các Thành viên WTO giảm thuế riêng cho ta,
ta chỉ được hưởng mức thuế mà các Thành viên này đã hoặc sẽ cắt giảm theo
lộ trình của họ. Gia nhập WTO cũng không mang lại kết quả là các Thành
viên WTO sẽ giảm "rào cản kỹ thuật" cho hàng hóa xuất khẩu của ta. Những
75
hàng rào được WTO không cấm sẽ vẫn tồn tại.
Hai là, ta sẽ được tiếp cận thị trường của 149 Thành viên WTO khác
trên cơ sở đối xử tối huệ quốc (MFN) nhưng trên thực tế, trừ dệt may và một
số mặt hàng mà các Thành viên WTO áp dụng hạn ngạch và chỉ phân bổ hạn
ngạch cho các Thành viên WTO, với tất cả các bạn hàng quan trọng nhất, ta
đều đã được hưởng đối xử MFN nên việc có được MFN trên cả 149 thị trường
sẽ không mang lại đột phá lớn.
Ba là, trở thành thành viên của WTO, Việt Nam có thể viện luật của
WTO để giải quyết các bất đồng thương mại. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn tiếp
tục bị coi là “nền kinh tế không theo cơ chế thị trường” trong thời hạn 12 năm
sau khi gia nhập WTO. Do vậy, các nước sẽ dễ dàng tìm cách áp đặt luật
chống phá giá đối với Việt Nam. Đây là một khó khăn cho việc sản xuất và
xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam thời gian tới.
Dự báo các mặt hàng có mức tăng trưởng xuất khẩu mạnh vào những
thị trường trọng điểm đều có nguy cơ phải đối đầu với những vụ kiện bán phá
giá. Bên cạnh các mặt hàng chủ lực, một số mặt hàng có số lượng xuất khẩu
còn nhỏ hoặc mới thâm nhập thị trường cũng có thể bị kiện bán phá giá như
xe đạp, đèn huỳnh quang, dây curoa, …
Bốn là, vấn đề của ngành dệt may: Cạnh tranh gay gắt ở cả thị trường
trong nước và nước ngoài.
Trên thị trường trong nước, hàng rào bảo hộ nội địa không còn, trong
khi từ tháng 1-2007, thuế nhập khẩu hàng dệt may đã cắt giảm ở mức tương
đối lớn. Cụ thể, thuế suất thuế nhập khẩu nhóm hàng xơ, sợi giảm từ 20%
xuống còn 5%; nhóm hàng vải giảm từ 40% xuống còn 12% và đặc biệt,
nhóm hàng may sẵn giảm từ 50% xuống còn 20%. Với da giày, thuế suất thời
điểm cam kết còn 40% đối với giày dép và còn 30% tới năm 2012. Điều này
dẫn đến những tổ hợp các công ty nhỏ trong lĩnh vực dệt sẽ rất khó khăn và
việc đóng cửa hàng loạt doanh nghiệp trong ngành là hoàn toàn có thể.
Đặc biệt, với nhóm quần áo và đồ may sẵn, việc cắt giảm thuế suất thuế
nhập khẩu là cơ hội để các thương hiệu quần áo may sẵn đẩy mạnh hoạt động
76
tại thị trường Việt Nam. Vấn đề mấu chốt trong cuộc cạnh tranh này là kênh
phân phối và thương hiệu, trong khi đây vốn là những lĩnh vực yếu của doanh
nghiệp Việt Nam. Việc các thương hiệu may sẵn của Việt Nam phải nhường
chỗ cho các thương hiệu nước ngoài và cũng như sụt giảm lượng khách đáng
kể tại các nhà may do nhu cầu sử dụng hàng hiệu giá rẻ tăng cao là kết quả dễ
tiên đoán được.
Đối thủ cạnh tranh khốc liệt ngay trên thị trường nội địa phải kể đến
như Trung Quốc, Ấn Độ… Vì vậy, nếu ngành dệt may trong nước không tích
cực đầu tư làm chủ khâu nguyên liệu, thiết kế mẫu mã, thì sẽ mất dần lợi thế
cạnh tranh. Với sản phẩm giày dép, đây không chỉ là thế mạnh của riêng Việt
Nam, mà còn là thế mạnh của rất nhiều nước ASEAN, vì thế DN trong nước
không thể không nâng cao sức cạnh tranh từ đổi mới công nghệ đến chất
lượng và giá cả.
Trên thế giới, đặc biệt là sau 2008, ngành dệt may của ta sẽ phải đối
diện với sự cạnh tranh gay gắt với các nước có ngành dệt may phát triển. Từ
năm 2003, Mỹ tuyên bố dự định sử dụng các điều khoản tự vệ đặc biệt lần
đầu tiên với Trung Quốc nhằm ngăn cản việc hàng hoá giá rẻ của nước này –
trong đó có hàng dệt may tràn ngập thị trường. Các điều khoản này cũng được
các nước thành viên khác của WTO sử dụng tới năm 2013. Tuy nhiên những
biện pháp này chỉ hạn chế ở vài loại sản phẩm. Như vậy, sự cạnh tranh trong
lĩnh vực dệt may về lâu dài là khá gay gắt.
Mặt khác, không loại trừ khả năng các nhà sản xuất ở các thị trường
nhập khẩu sẽ tìm mọi cách tạo cớ chống "bán phá giá", chống "trợ cấp" để
bảo hộ ngành dệt may của họ. Hiện nay, chính phủ Mỹ cam kết sẽ áp dụng
chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt nam và áp dụng biện
pháp chống bán phá giá. Tất cả các nhà nhập khẩu Mỹ đều cho rằng điều này
gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của họ. Do vậy, họ có xu hướng tìm
kiếm một đối tác ít rủi ro hơn. Dẫn đến Việt nam có nguy cơ mất nhiều thị
phần tại Mỹ.
Thứ tư là, khi Việt nam gia nhập thương mại toàn cầu, với những cam
77
kết khá mạnh mẽ về mở cửa hệ thống bán lẻ, các tập đoàn, siêu thị lớn thế
giới sẽ có mặt tại Việt Nam. Đây là một thách thức cho hệ thống phân phối,
bán lẻ còn non trẻ trong nước.
Việc thu hút số lượng lớn các khách hàng của các siêu thị và trung tâm
thương mại có thể dẫn đến phá sản dây chuyền của hàng triệu hộ cá thể buôn
bán nhỏ lẻ, đe dọa đời sống của người dân. Sự mở rộng của hệ thống các siêu
thị có thể dẫn tới các vấn đề về môi trường. Sự phụ thuộc vào các Tập đoàn
phân phối nước ngoài cũng có thể đe dọa cuộc sống của người nông dân và
các hộ buôn bán nhỏ. Khi các hãng phân phối nước ngoài sẽ vào thị trường
trong nước mở siêu thị, hay ít nhất là các cửa hàng kinh doanh hiện đại ở khắp
các thị trường đô thị và nông thôn. Với một mạng lưới siêu thị nhỏ của doanh
nghiệp nước ngoài len lỏi đến từng miền quê, với cách quản lý hiện đại,
chuyên nghiệp, hàng hóa phong phú, đa dạng, giá cả hợp lý… họ sẽ thu hút
được người tiêu dùng. Lúc đó, các tiểu thương và giới kinh doanh của Việt
Nam nếu không có biện pháp thích ứng, sẽ mất khách hàng. Điều này đã cho
thấy ở Thái Lan, các chuỗi cửa hàng siêu thị nhỏ rất nhiều ở các địa phương,
và thực tế hoạt động khá hiệu quả.
Với thị trường nước ta, một số mạng lưới phân phối lớn cũng đã và
đang hình thành ở thị trường nội địa. Gần đây nhất là hệ thống cửa hàng của
Tổng công ty Dệt may Việt Nam, hệ thống siêu thị của Liên minh Hợp tác xã
tành phố Hồ Chí Minh, các chuỗi cửa hàng hay đại lý của một số công ty sản
xuất lớn, hay mới đây là Phở 24, Cà phê Trung Nguyên, rồi đơn giản nhưng
hiện đại là các dịch vụ bán hàng qua điện thoại, mạng internet, dịch vụ bán
hàng giao hàng tại nhà, dịch vụ vận tải Kiến Vàng, tắc xi Gia Đình v.v... Tuy
nhiên, nhiều người tiêu dùng còn hài lòng và thích thú hơn khi đến các siêu
thị của doanh nghiệp vốn nước ngoài tại Việt Nam như Big C, Cash and
Carry. Yếu tố hấp dẫn nhất của các siêu thị này là giá rẻ - nói đúng hơn là giá
thấp hơn những nơi khác. ấn tượng đối với người tiêu dùng là sự đa dạng của
hàng hóa, chủng loại, kiểu dáng, màu sắc và có thể bán lẻ với giá bán buôn.
Nhìn chung, những loại hình phân phối hiện đại ( như kinh doanh đại
siêu thị, buôn bán qua mạng, nhượng quyền thương mại, …) hiển nhiên là
78
một thế mạnh của các nhà phân phối nước ngoài. Gần đây, tuy các nhà phân
phối Việt Nam có nhiều động thái củng cố lại hệ thống của mình để chống lại
áp lực cạnh tranh từ các nhà phân phối nước ngoài. Nhưng có thể nhận thấy
đây là cuộc cạnh tranh khốc liệt vì các tập đoàn phân phối nước ngoài có
nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường các nước đang phát triển, có
nguồn vốn rất lớn, tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, tổ chức
kinh doanh, vận động hành lang rất bài bản và đưa ra giá bán buôn thấp hơn
nhiều so với các nhà bán buôn trong nước, các dịch vụ bán hàng thuận tiện và
các chương trình khuyến mại hấp dẫn.
Tuy nhiên, việc tham gia của các tập đoàn phân phối quốc tế lớn trên
thị trường Việt Nam cũng mang lại một số lợi ích. Sự xuất hiện của các đại
siêu thị góp phần vào việc giải quyết tình trạng lao động trình độ trung bình
dư thừa ở các thành phố lớn. Ngành bán lẻ là một ngành tuyển dụng rất nhiều
lao động nên có thể giảm bớt gánh nặng về công ăn việc làm cho chính quyền
địa phương. Ngươi tiêu dùng cũng sẽ được hưởng lợi từ các chương trình
khuyến mại, được sử dụng hàng hóa có chất lượng ổn định, đảm bảo vệ sinh
an toàn, các nhà phân phối trong nước có thể học hỏi được các kinh nghiệm
quản lý điều hành tiên tiến từ nước ngoài.
Thứ năm là, vấn đề Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
- Nhiều nước đang phát triển còn thiếu nguồn lực kinh tế và kỹ thuật
cần thiết để có thể xây dựng và duy trì các hệ thống quản lý ở cấp quốc gia có
hiệu quả và làm cho sản phẩm thích ứng được với thị trường xuất khẩu. Dẫn
đến nguy cơ xuất hiện những rào cản thương mại không cần thiết trên thị
trường các nước đang phát triển, và hậu quả là những sản phẩm cạnh tranh
không thâm nhập được vào thị trường, ảnh hưởng đến người tiêu dùng vì
nguồn cung bị hạn chế và giá tăng cao, đồng thời có thế dẫn đến hàng hoá
chất lượng kém lọt vào thị trường.
- Đối với hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển, hiệp định TBT
tạo ra minh bạch hơn và khả năng dự báo cao hơn, đồng thời giảm bớt nguy
cơ phải đối mặt với các rào cản không cần thiết, góp phần đẩy mạnh cạnh
79
tranh trên những thị trường này.
- Thách thức đặt ra là việc đáp ứng mọi yêu cầu của các nước phát triển
trong tiêu chuẩn và pháp quy kỹ thuật. Điều này đòi hỏi những hỗ trợ kỹ thuật
và tăng cường năng lực.
Thứ sáu là, vấn đề nhân lực nói chung và nhân lực ngành thương mại
nói riêng.
Lao động Việt Nam phải đứng trước sức ép cạnh tranh vô cùng lớn và
thực tế khoảng cách giàu nghèo giữa lao động có kỹ năng và lao động thủ
công ngày càng giãn ra, tần số di chuyển lao động cao hơn gây sức ép cho an
ninh xã hội, tranh chấp lao động xảy ra nhiều hơn.
Việc trở thành thành viên chính thức của WTO tạo ra những đòi hỏi cơ
bản đối với chất lượng nhân lực của Việt nam như: (1) Phải thông thạo luật lệ
quốc tế: Khi tham gia ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giơi, số lượng các
hợp đồng thương mại được ký kết ngày càng nhiều, doanh nghiệp Việt Nam
chắc chắn không thể tránh khỏi tranh chấp quốc tế trong quá trình thực hiện
hợp đồng. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp hiện thiếu hiểu biết về luật lệ
quốc tế và chưa có thói quen tôn trọng những luật lệ đó. (2) Bên cạnh đó,
cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi khi hội nhập. Muốn cạnh tranh, doanh
nghiệp Việt Nam buộc phải có những thay đổi về nguồn nhân lực, cách thức
quản lý, máy móc thiết bị công nghệ, và phải có năng lực nhất định về tiếp
cận, chiếm lĩnh thị trường. Trong các yếu tố trên, yếu tố con người đặc biệt
quan trọng. Thiết bị và công nghệ có hiện đại đến mấy nhưng con người
không đủ mạnh thì sẽ nhanh chóng bị thua trên sân nhà.
Trong khi đó, thực trạng nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nước ta
còn kém cạnh tranh. Đội ngũ quản lý, đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và
cán bộ quản lý doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ
năng quản lý; Số lượng doanh nhân giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực
quản lý tốt chưa nhiều. Đa phần họ chưa được trang bị các kiến thức kinh
doanh như: quản trị doanh nghiệp, phát triển thương hiệu, chiến lược cạnh
tranh, ứng dụng công nghệ thông tin,… Hoạt động quản lý chủ yếu dựa vào
kinh nghiệm thực tiễn, do đó tính hiệu quả chưa cao và dễ gặp rủi ro. Mặt
80
khác, Việt Nam có lượng lao động dồi dào, giá cả rẻ, nhưng hầu hết lao động
không có tay nghề cao, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, cơ cấu đào tạo
chưa hợp lý, chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập.
3. Giải pháp
Nghiên cứu tình hình xuất khẩu khẩu 4 tháng đầu năm 2007 cho thấy
một số dấu hiệu cho thấy tác động của việc thực hiện những cam kết gia nhập
WTO. Tuy những tác động này chưa thực sự rõ rệt nhưng cũng tiềm ẩn cho
thấy một số xu hướng mới rất đáng quan tâm. Cùng với việc phân tích và dự
báo những tác động của WTO tới thương mại Việt Nam thời gian tới, một số
vấn đề cần quan tâm để có biện pháp áp dụng kịp thời như: nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở chính thị trường trong nước và bảo vệ
sản xuất trong nước trong điều kiện hàng rào thuế quan đã, đang và sẽ còn
tiếp tục được cắt giảm? Đẩy mạnh xuất khẩu như thế nào để bù đắp vào khoản
thị trường trong nước bị buộc phải nhường chỗ cho hàng xuất khẩu? Giải
pháp giảm nhập khẩu để từng bước giảm nhập siêu và tiến tới xuất siêu vào
cuối thập kỷ này như chiến lược xuất nhập khẩu đã đề ra?... Bài viết xin nêu
ra một số nhóm giải pháp vừa có tính cấp thiết, vừa có tính lâu dài để có thể
phát huy các tác động tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực của việc
gia nhập WTO đến thương mại Việt Nam thời gian tới.
3.1 TËn dông nh÷ng −u ®·i ®Æc biÖt mµ WTO dµnh cho c¸c n−íc ®ang
ph¸t triÓn vµ cã nÒn kinh tÕ ®ang chuyÓn ®æi.
ViÖt nam vÉn cã thÓ duy tr× nh÷ng biÖn ph¸p b¶o hé ®èi víi mét sè s¶n
phÈm cÇn thiÕt trong mét thêi gian nhÊt ®Þnh th«ng qua ®µm ph¸n víi WTO vµ
c¸c n−íc thµnh viªn. Chính sách bảo hộ nên được cân nhắc kỹ, tập trung theo
một số ngành và chỉ bảo hộ trong thời gian nhất định. Việc lựa chọn phải dựa
trên cơ sở phân tích số liệu các ngành này có tiềm năng trở thành ngành có
hiệu quả và phát triển những lợi thế so sánh năng động hay không. Vấn đề
quan trọng cần được lưu tâm là phải có các biện pháp chuyển đổi một cách
hiệu quả các nhân tố sản xuất (vốn, lao động, kỹ năng quản lý) từ các ngành
81
thay thế nhập khẩu sang khu vực xuất khẩu.
Cần khẩn trương có điều chỉnh thích hợp trong các ngành đang được
bảo hộ cao và sẽ có cắt giảm thuế nhiều như: dệt may, điện - điện tử, thực
phẩm chế biến, thép, ô tô/xe máy, giấy, hàng chế tạo khác...
Một số ngành bị ảnh hưởng bất lợi có thể sẽ phải thu hẹp hoặc chuyển
hướng sản xuất, có thể dẫn đến một số biến động cục bộ về sản xuất, lao động
- làm việc.
Bªn c¹nh ®ã, ®Ó n©ng cao kh¶ n¨ng c¹nh tranh cña hµng ho¸ s¶n xuÊt
trong n−íc, ViÖt nam cã thÓ t¨ng c−êng c¸c biÖn ph¸p trî cÊp xuÊt khÈu nh−:
trî cÊp nh»m gi¶m chi phÝ tiÕp thÞ xuÊt khÈu n«ng s¶n, chi phÝ vËn chuyÓn, chi
phÝ chÕ biÕn hµng n«ng s¶n, ... cïng víi nã lµ c¸c chÝnh s¸ch hç trî trong n−íc
nh−: hç trî ®Çu t− c¬ së h¹ tÇng, ch−¬ng tr×nh ph¸t triÓn gièng c©y trång, vËt
nu«i, khoa häc c«ng nghÖ, ®µo t¹o, trî gióp vïng khã kh¨n, b¶o vÖ m«i tr−êng
sinh th¸i...
Tuy nhiªn, chóng ta kh«ng nªn û l¹i qu¸ nhiÒu vµo c¸c biÖn ph¸p nµy v×
®©y ®Òu lµ c¸c −u ®·i cã thêi h¹n. §iÒu quan träng lµ, trong thêi gian cßn ®−îc
−u ®·i, chóng ta ph¶i cã biÖn ph¸p kh¾c phôc nh÷ng khuyÕt ®iÓm cßn tån t¹i,
n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh ®Ó khi −u ®·i hÕt hiÖu lùc, chóng ta v÷ng vµng
héi nhËp mét c¸ch hoµn toµn vµo nÒn kinh tÕ khu vùc vµ thÕ giíi.
X¸c ®Þnh râ nh÷ng vÊn ®Ò, nh÷ng lÜnh vùc mµ ViÖt nam cÇn cã hç trî
kü thuËt ®Ó ®Ò nghÞ WTO. Tranh thủ và nhanh chóng học hỏi, tận dụng những
trî gióp kü thuËt cña WTO trong viÖc ®µo t¹o nh©n lùc, so¹n th¶o vµ ¸p dông
c¸c biÖn ph¸p míi, tiÕp cËn th«ng tin vÒ c¸c ph−¬ng ph¸p, kü thuËt míi. Qua
®ã, t¨ng c−êng n¨ng lùc cña nÒn kinh tÕ ®Ó b¾t kÞp vµ ®¸p øng ®−îc nh÷ng yªu
cÇu vÒ n¨ng lùc vµ kü thuËt cña ®èi t¸c trong thêi gian tíi.
3.2 Vấn đề tranh chấp thương mại
Trước hết cần xác định tranh chấp thương mại là điều bình thường,
không nên quá lo ngại. Tuy nhiên, cần thường xuyên theo dõi, nghiên cứu thị
82
trường từng nước, từng khu vực và toàn cầu để nhìn nhận vận động của thị
trường quốc tế, những lĩnh vực mà các nước đang đụng chạm nhau, xem hàng
hóa nào của Việt Nam có nguy cơ bị kiện để dự báo vµ tr¸nh bÞ ®éng.
Bên cạnh đó, khi xảy ra tranh chấp thì phải cố gắng xử lý êm, vừa giảm
tối đa tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, vừa cho cả nước tranh chấp. Muốn
vậy, phải mời được luật sư giỏi của các nước có quan hệ tốt, tận dụng số luật
sư là Việt kiều trợ giúp.
Về phía các doanh nghiệp cần phải minh bạch các số liệu, các chính
sách của doanh nghiệp mình. Điều này về lâu dài sẽ đảm bảo an toàn cho
doanh nghiệp mà không sợ bị kiện phá giá hay đưa ra tòa để giải quyết tranh
chấp thương mại.
3.3 Về xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu, Việt Nam cần 'tránh bỏ trứng vào một giỏ'
(như xuất khẩu dệt may vào Mỹ tăng tới 38%, hàng thủy sản vào thị trường
EU tăng 46,5%, thị trường Mỹ tăng 22%...); tránh tranh bán để kéo giá xuống
thấp; kiểm tra gắt gao vệ sinh an toàn thực phẩm (hàng thủy sản vào Nhật Bản
giảm 2%)... để tránh những rào cản kỹ thuật được mọc lên sau WTO.
Về ngành dệt may, để tránh những tác động bất lợi do Mỹ áp dụng chế
độ đặc biệt, cần chủ động tìm kiếm các thị trường khác, đồng thời nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm, đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu ngay tại thị
trường nội địa. Với riêng thị trường Mỹ, cần coi trọng kiểm soát về số - chất
lượng và giá cả của sản phẩm xuất sang, đồng thời, tiếp tục vận động chính
phủ Mỹ sớm chấm dứt áp dụng chế độ đặc biệt và không áp dụng biện pháp
chống bán phá giá với ngành dệt may của Việt nam.
3.4. Về thị trường bán lẻ
Đểt giành lại được thị trường này, doanh nghiệp Việt Nam cần biết
cách phát huy những thế mạnh của mình, có sự nhạy cảm và năng động trước
các sự cạnh tranh, cần phải chuyển ngành nghề theo xu hướng thị trường, tìm
83
kiếm những sản phẩm độc đáo, riêng có dựa trên lợi thế của nước ta.
Trên thực tế, không phải bất cứ hãng phân phối lớn nào của nước ngoài
khi thâm nhập thị trường nước khác đều thắng thế. Gần đây, hãng phân phối
lớn và nổi tiếng thế giới - Wal Mart - của Mỹ đã phải rút khỏi thị trường Hàn
Quốc vì không thể cạnh tranh được với các công ty phân phối nội địa của
nước này. Kinh nghiệm của Hàn Quốc là áp dụng các biện pháp mà WTO
không cấm, ví dụ chỉ cấp phép cho các hãng phân phối nước ngoài ở một số
địa điểm nhất định, trong khi đó, tạo điều kiện cho các đơn vị nhỏ trong nước
có điều kiện lựa ra các ngách của thị trường tiêu thụ để đưa sản phẩm của
mình, mà ngách nhỏ như thế hình thành một mạng lưới dày đặc ở thị trường
nội địa. Tại Hàn Quốc, các siêu thị nước ngoài chỉ được cấp phép ở xa trung
tâm thành phố, muốn đến đó phải đi xe buýt hoặc taxi. Trong khi đó, các siêu
thị của các hãng nước ngoài ở Việt Nam hiện nay phần lớn đều được cấp phép
ở những nơi khá đắc địa. Một trong những siêu thị hoạt động kinh doanh hiệu
quả ở Việt Nam phải kể đến Siêu thị Cash and Carry tại khu vực thành phố
Hồ Chí Minh, sau vài năm có mặt tại thị trường này, đã tạo được hơn 2.000
đầu mối cung ứng nông sản nhỏ lẻ.
Mặt khác, từ thực tế một số hệ thống phân phối sản phẩm đã và đang
thành công cho thấy cần phải tạo được nguồn cung ứng hàng hóa một cách ổn
định, bảo đảm chất lượng. Mỗi doanh nghiệp, tiểu thương phải có cách thức
riêng để xác định vị trí của mình trên thị trường, tuy nhiên, kinh doanh trong
điều kiện hội nhập chung, không thể thiếu sự liên kết. Như vậy hoạt động
kinh doanh nhỏ lẻ của bà con tiểu thương sẽ vẫn tồn tại và phát triển tốt ở thị
trường nội địa bên cạnh các công ty lớn ở trong nước và các hãng phân phối
lớn của nước ngoài
Trên nguyên tắc, trong nền kinh tế hàng hóa, Nhà nước không thể quản
lý hệ thống phân phối bằng các mệnh lệnh hành chính. Trước mắt, các cơ
quan quản lý Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý công bằng, tạo điều
kiện cho các nhà phân phối thuộc mọi thành phần kinh tế (trong đó có tư nhân
và đầu tư nước ngoài) hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tránh tình trạng xuất
hiện những nhà phân phối độc quyền cả trong nước và nước ngoài thao túng,
84
lũng đoạn thị trường. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có một số ưu đãi về cho
thuê đất, thuế ... để hỗ trợ cho các nhà phân phối trong nước, nắm cổ phần chi
phối trong hệ thống phân phối của các mặt hàng thiết yếu với đời sống xã hội
như xi măng, sắt thép, xăng dầu, dược phẩm, ... Các doanh nghiệp vừa nhỏ
vốn chiếm đa số trong số các doanh nghiệp nước ta cần hoạch định chính sách
phân phối tự chủ, không nên chỉ phụ thuộc vào một nhà phân phối nước ngoài
để phân tán rủi ro.
3.5 Giải pháp cho vấn đề nhân lực
Gia nhập WTO, ngoài việc đẩy mạnh xuất khẩu, tăng FDI để tạo việc
làm chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, xây dựng một thị
trường lao động thực sự, hoạt động theo cơ chế thị trường. Đặc biệt, Chính
phủ cần quan tâm phát triển hệ thống thương thảo giải quyết hiệu quả tranh
chấp phát sinh trong quan hệ lao động như tổ chức công đoàn, xây dựng cơ
chế giải quyết tranh chấp từ thương lượng, đến hoà giải, trọng tài, toà án.
Việt Nam cần đặt đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, cung cấp kỹ
năng cho người lao động. Chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học
thuộc các ngành kỹ thuật - công nghệ và dạy nghề để huy động các nguồn lực
nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo gắn liền với việc thực hiện
đầy đủ cơ chế thị trường trong việc trả lương cho người lao động.
Khẩn trương xây dựng chiến lược cải cách giáo dục từ nội dung
chương trình, phương pháp giảng dạy, chế độ thi cử ở tất cả các cấp đào tạo.
Học tập kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục đại học và dạy nghề tiên
tiến để chọn lọc, sử dụng. Nhà nước sẽ đầu tư nhiều hơn cho những ngành
nghề cần thiết nhưng tính cạnh tranh thấp.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục là con đường ngắn nhất
giúp thu hẹp khoảng cách trình độ giáo dục của ta với các nước tiên tiến. Giáo
dục cộng đồng cần được nhấn mạnh. Có như vậy người lao động của ta mới
đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của nhà tuyển dụng, nâng cao sức cạnh
85
tranh của mình trên thị trường lao động thế giới.
Bên cạnh đó, cần quan tâm cả đến lợi ích của người chưa có việc làm,
có cơ chế linh hoạt, khuyến khích chủ doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo
việc làm.
3.6 Về phía doanh nghiệp
Như trên đã phân tích, gia nhập WTO, doanh nghiệp gặp phải sự cạnh
tranh gay gắt từ nhà sản xuất nước ngoài ngay trên thị trường Việt nam. Vì
vậy, nâng cao năng lực là yêu cầu cấp thiết, ngay trong ngắn hạn và liên tục
đối với các doanh nghiệp Việt nam. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt nam đều
chịu sức ép rất lớn do việc phải nâng cao năng lực sản xuất, như nâng cao
trình độ quản lý, tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, … Các
doanh nghiệp cần chủ động cải tiến một cách tích cực, quan tâm đến việc cơ
cấu lại bộ máy tổ chức phù hợp với nền kinh tế thị trường, xây dựng những
chuẩn mực, tiêu chuẩn của sản phẩm, dịch vụ phù hợp với quốc tế, xây dựng
nguồn nhân lực theo định hướng chiến lược cho nhiều năm tiếp theo. Cụ thể,
các doanh nghiệp cần:
- Chuẩn bị các chiến lược sản xuất kinh doanh sao cho có khả năng tận
dụng hiệu quả nhất các cơ hội xuất khẩu nhờ việc gia nhập WTO tạo ra.
- Nghiên cứu đầy đủ các cam kết gia nhập và các thông lệ quốc tế có
liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh để tránh những sai sót không
đáng có trong hội nhập. Doanh nghiệp cần tìm hiểu sâu về những vấn đề liên
quan như môi trường pháp lý, văn hoá kinh doanh, cơ cấu tổ chức, nguồn lực.
Chủ động tìm hiểu các thông tin về các cam kết với WTO từng doanh nghiệp
có cơ sở để thiết lập chương trình, kế hoạch hành động, chiến lược hội nhập
và phát triển của riêng mình. Hiện nay, UNQGHTQT từ cuối năm 2006 đã
tiến hành mở hàng loạt lớp học tại các địa phương nhằm thông tin, tuyên
truyền đến từng doanh nghiệp, cán bộ quản lý địa phương về WTO và các
cam kết của Việt nam.
- Xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh cho từng giai
đoạn và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đối phó trong những
86
tình huống bất lợi. Đồng thời, phải xác lập kế hoạch xúc tiến
thương mại và dự kiến hướng tiếp cận các thị trường xuất khẩu
sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Các doanh nghiệp phải xác định được chiến lược mặt hàng và chiến
lược thị trường đúng đắn. Trên cơ sở lựa chọn đúng chiến lược thị trường,
chiến lược mặt hàng mà đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý; áp
dụng các tiêu chuẩn ISO, hoàn thiện phương thức kinh doanh; tạo ra bản sắc
riêng có, những nét độc đáo riêng có của doanh nghiệp mình thông qua đó mà
thu hút khách hàng, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu. Phải tăng
cường liên kết hợp tác theo chiều dọc và chiều ngang; xác lập quan hệ bạn
hàng và nhanh chóng hình thành hệ thống phân phối. Cần nhận thức rằng
cạnh tranh và hợp tác luôn song hành trong hoạt động của doanh nghiệp trong
cơ chế thị trưởng.
- Các doanh nghiệp cũng cần phải chọn cho được những người quản trị
doanh nghiệp có bản lĩnh và năng lực thực sự. Bên cạnh đó, phải tính đến rủi
ro có thể xảy ra và nếu xảy ra rủi ro thì thiệt hại sẽ được giới hạn và có khả
năng khắc phục. Chấp nhận mạo hiểm trên cơ sở thu thập và xử lý đầy đủ
thông tin, và dự kiến trước những diễn biến của thị trường.
- Trong một thế giới ngày càng liên kết chặt chẽ, các doanh nhiệp Việt
Nam phải trang bị cho mình một vốn kiến thức toàn diện và đặt mình trong
mối liên kết toàn cầu. Các tập đoàn tư bản tuy cạnh tranh với nhau gay gắt
nhưng cũng sẵn sàng hợp tác vì lợi ích của chính họ. Doanh nghiệp của ta quy
mô nhỏ, vốn ít càng cần phải tăng cường liên kết và hợp tác. Các chuỗi liên
kết ở đây gồm cả liên kết bên trong và liên kết bên ngoài. Liên kết bên trong
là liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp và Nhà nước,
doanh nghiệp và người tiêu dùng; liên kết bên ngoài là liên kết trong mạng
toàn cầu là các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức...
Ngoài những giải pháp trên, nhà nước cần tổ chức các hoạt động nghiên
cứu, phân tích và làm rõ thực trạng ngành thương mại của nước ta, phân tích
cụ thể mặt mạnh, mặt yếu, ngành - mặt hàng có lợi thế, ưu thế.
Đồng thời, việc thiết lập một cơ chế theo dõi chung và do một cơ quan
87
đảm nhiệm chuyên theo dõi về những tác động của việc gia nhập WTO là rất
cần thiết nhằm theo dõi kịp, giải quyết những tác động tiêu cực, đồng thời
phát huy những ảnh hưởng tích cực đối với kinh tế - xã hội Việt nam. Đề xuất
có thể nâng cấp Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế để làm nhiệm vụ
kiểm soát. Nó sẽ có nhiệm vụ cố vấn cho chính phủ, cho các ngành, các
doanh nghiệp, các địa phương trong việc xử lý các tác động từ việc gia nhập
WTO.
Tài liệu tham khảo
1. TS. Bïi ThÞ Lý, Tr−êng §¹i häc Ngo¹i th−¬ng - T×m hiÓu quy ®Þnh cña WTO vÒ nh÷ng ®èi xö ®Æc biÖt vµ kh¸c biÖt dµnh cho c¸c n−íc ®ang vµ chËm ph¸t triÓn
2. Uû ban quèc gia vÒ hîp t¸c kinh tÕ quèc tÕ - T¸c ®éng cña c¸c hiÖp ®Þnh WTO víi
c¸c n−íc ®ang ph¸t triÓn, Hµ néi - 2005
3. David H. Feldman - TrÊn an mèi quan ng¹i cña ng−êi lao ®éng vÒ tù do ho¸ th−¬ng
m¹i, Th«ng tin t− liÖu, Häc viÖn CTQG Hå ChÝ Minh, 5/2007
4. Nh÷ng thuËn lîi vµ khã kh¨n cña ViÖt Nam khi gia nhËp WTO – Tµi liÖu tham kh¶o
®Æc biÖt – TTXVN, 15/11/2006
5. §oµn TÊt Th¾ng – Chèng b¸n ph¸ gi¸ “hËu WTO” – T¹p chÝ Th−¬ng m¹i sè 3/ 2007
gia
nhËp WTO: Ng−êi
lao
®éng
sÏ
ra
6. ViÖt Nam
sao,
http://vietnamnet.vn/wto/2004/03/57046/
7. http://www.moi.gov.vn, tháng 1/2006 - Tác động của gia nhập WTO đối với
phát triển kinh tế Việt Nam
8. http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=38660 - Tác động của
các cam kết gia nhập WTO về thuế nhập khẩu
9. Trang web cña Uû ban quèc gia vÒ hîp t¸c kinh tÕ quèc tÕ http://www.nciec.gov.vn
88
Phụ lục 1: Lộ trình giảm thuế và ảnh hưởng đối với một số ngành hàng chính
Các mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế ngay đầu năm 2007: gồm 1.812
dòng thuế, chiếm 17% biểu thuế; mức cắt giảm bình quân 44% so hiện hành.
Đây là các mặt hàng đang có thuế suất cao từ 30% trở lên và chủ yếu là hàng
tiêu dùng nên đa số người dân sẽ được hưởng lợi; Riêng ngành dệt may có
mức cắt giảm thuế tương đối lớn, sẽ có tác động quan trọng tới sản xuất và giá
cả của nhóm dệt may.
-Tính trên cả biểu thuế việc cắt giảm trên diện rộng sẽ được thực hiện trong vòng 2-3 năm đầu, các năm sau có phạm vi ít hơn và đồng đều hơn.
-Mức cắt giảm chung là từ mức bình quân 17,4% xuống 13,4%, giảm 23%. Nếu không tính các mức thuế trần, thì thuế bình quân hiện hành sẽ được cắt giảm xuống chỉ còn 11,6%, giảm khoảng 33%, tương đương mức thuế MFN của một số nước trong khu vực.
89
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 Mức độ cắt giảm so hiện hành Mặt hàng Giảm 25% Hoa, cây cảnh Giảm 40% Một số rau (cà tím, nấm, ớt...) Giảm 20% Chè Giảm 40% Ngô, loại đã rang nở Giảm 20-40% Một số dầu thực vật Giảm 20% Thịt chế biến (hộp Giảm 20-30% Bánh, kẹo các loại Giảm 20% Bia Giảm 20-40% Mỹ phẩm các loại, xà phòng Giảm 20% Sản phẩm nhựa dùng trong gia đình Giảm 12% Giấy in báo Giảm 10-20% Một số loại giấy khác, các-tông Giảm 63% Hàng dệt may Giảm 20% Giày dép, mũ các loại Giảm 17% Gạch ốp Giảm 17-20% Đồ sứ Giảm 10% Thủy tinh, kính Phích nước Giảm 17% Đồ trang sức bằng kim loại quý, đá quý, ngọc trai Giảm 25% Một số sản phẩm kim loại (xích xe, ống kim loại, dụng cụ cầm tay...) Giảm 15-40%
21 22 23 24 25 26 Quạt điện Thiết bị lọc nước Một số loại ắc quy Một số linh kiện chính của xe ô tô Đồng hồ các loại Một số hàng tạp hóa khác
Giảm 20% Giảm 20% Giảm 20% Giảm 10-17% Giảm 25% Giảm 20-25% Phụ lục 2. 20 nhóm hàng hoá nhập khẩu có lượng và giá trị tăng mạnh trong quý I/2007
TT
Nhóm hàng nhập khẩu
Tỷ lệ khối lượng hàng hoá NK tăng QI-2007/QI-2006 (%) 9,4 10,6 13,6 18,8 19,7 20,6 22,1 23,4 29,9 32,1 32,9 34,2 38,5 42,4 45,5 45,6 61,6 62,2 62,8 31,8
1 Xăng dầu 2 Chất dẻo nguyên liệu 3 Cao su 4 Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 5 Dầu mỡ động thực vật 6 Hoá chất nguyên liệu 7 Tân dợc 8 Linh kiện, phụ tùng xe gắn máy 9 Phân bón các loại 10 Phôi thép 11 Điện tử, máy tính và linh kiện 12 Vải 13 Kim loại thường khác 14 Gỗ và nguyên liệu 15 Sợi các loại 16 Thép thành phẩm 17 Thức ăn gia súc và nguyên liệu 18 Bông 19 Máy móc, thiết bị, phụ tùng 20 Hàng hoá khác Tổng số
KNNK tăng do lượng NK tang trong QI/2007 so QI/2006 (triệu USD) 116,6 41,9 9,7 13,9 11,1 48,3 27,8 24,4 34,7 39,5 144,0 200,0 97,3 59,8 46,4 170,5 86,3 26,7 845,2 536,7 2.580,6
Nguồn: Bộ Thương mại (2007).
90
TÁC ĐỘNG GIA NHẬP WTO ĐẾN HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thị Kim Đoan∗
Gia nhập WTO là sự lựa chọn tất yếu trong quá trình hội nhập vào nền
kinh tế thế giới, là một quyết sách lớn được Đảng và Chính phủ thực thi lấy
xây dựng kinh tế làm trọng tâm, thiết lập và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường XHCN, đẩy nhanh công cuộc hiện đại hóa đất nước. Việc gia nhập
WTO đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cải cách mở cửa nền kinh tế, tiến
thêm một bước dài hội nhập quốc tế, tạo ảnh hưởng sâu rộng và to lớn đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Là thành viên thứ 150 của WTO,
bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều
thách thức vô cùng ngay go. Do đó để tham gia một cách chủ động và hiệu
quả thì việc đánh giá tác động gia nhập WTO của Việt Nam đến hoạt động
kinh tế mà cụ thể là hoạt động thương mại Việt Nam trong thời gian đến là
rất cần thiết nhằm qua đó xây dựng nên những giải pháp thích hợp.
1. Ảnh hưởng đến hoạt động thương mại
Thứ nhất, gia nhập WTO giúp Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế
quốc tế thông qua việc thương lượng và ký kết các hiệp định thương mại đa
phương và song phương với các thành viên WTO, tạo cho Việt Nam cơ hội
tiếp cận thị trường thế giới trên cơ sở bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh hơn
với hàng hóa của các nước.
Để được gia nhập WTO, Việt Nam đã phải đàm phán 11 năm với hơn
200 cuộc, trong đó đàm phán 14 phiên đa phương; đàm phán song phương với
28 đối tác. WTO là tổ chức thương mại toàn cầu quyết định hoạt động kinh tế,
thương mại, đầu tư của toàn thế giới, chiếm 85% thương mại hàng hóa, 90%
thương mại dịch vụ toàn cầu. WTO có khoảng 18 hiệp định lớn và 1 bộ quy
tắc gói gọn trong 30 vạn trang, là bộ quy tắc khổng lồ, giúp điều tiết toàn bộ
thương mại toàn cầu. WTO hoạt động dựa trên năm nguyên tắc cơ bản đó là:
91
∗ Giảng viên, Học viện Chính trị khu vực III.
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử tức là một nước không được phân
biệt đối xử giữa các đối tác thương mại của mình dành quy chế tối huệ quốc
(MFN) cho tất cả các thành viên WTO; không được phân biệt đối xử giữa các
sản phẩm, dịch vụ và công dân của nước mình và nước ngoài, tất cả phải được
hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia.
- Thúc đẩy thương mại tự do hơn thông qua thương lượng loại bỏ các
hàng rào cản thuế quan và phi thuế quan.
- Đảm bảo tính ổn định dễ tiên đoán được bằng các cam kết minh bạch
hoá tức các công ty, các nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài phải được đảm
bảo rằng, các rào cản thương mại, kể cả thuế, các rào cản phi quan thuế và các
biện pháp khác, không được nâng lên một cách độc đoán; ngày càng có nhiều
mức thuế và cam kết mở cửa thị trường mang tính ràng buộc tại WTO.
- Thúc đẩy cạnh tranh công bằng bằng cách loại bỏ các hoạt động mang
tính "không công bằng" như trợ cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá
nhằm tranh giành thị phần.
- Khuyến khích cải cách và phát triển kinh tế cho các nước đang phát
triển chiếm 3/4 thành viên của WTO. WTO có các qui định dành cho các
nước này nhiều thời gian hơn, điều kiện linh hoạt hơn và một số ưu đãi đặc
biệt hơn để điều chỉnh nền kinh tế trong quá trình thực hiện các cam kết tự do
hoá của mình.
Như vậy, tham gia vào WTO, Việt Nam sẽ tận dụng được các nguồn
lực về vốn, khoa học công nghệ và thông qua việc mở các thị trường hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư, giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan (những biện
pháp hạn chế về định lượng và hàng rào kỹ thuật), các DN Việt Nam sẽ có co
hội mở rộng thị trường do được tiếp cận với nhiều bạn hàng mới để phát triển
sản xuất kinh doanh. Đặc biệt giảm sự phân biệt đối xử trong WTO, các DN
Việt Nam sẽ không còn bị chèn ép trong thương mại, có thể tăng mạnh khối
lượng hàng xuất khẩu mà mình có lợi như: xuất khẩu dệt may, giày dép, hàng
nông sản sang Châu Âu (trước đây bị hạn chế bằng hạn ngạch và không được
92
hưởng ưu đãi thuế quan); dệt may tại thị trường Hoa Kỳ (bị hạn chế bằng hạn
ngạch),... Đây là vấn đề quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa hướng nội sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảng 1: Thương mại quốc tế Việt Nam giai đoạn 1995-2005 (triệu USD)
Giá trị (triệu USD)
Tỷ trọng trên GDP (%)
Xuất khẩu nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu
1995
5.448,9
8.155,4
25,6
1996
7.255,9
11.143,6
31,5
1997
9.185,0
11.592,3
35,5
1998
9.360,3
11.499,6
35,1
1999
11.541,4
11.742,1
34,0
2000
14.482,7
15.636,5
33,0
2001
15.027,0
16.162,0
37,5
2002
16.705,8
19.733,0
40,0
2003
20.149,3
25.255,8
41,2
2004
26.504,2
31.953,9
42,3
2005
32.233,0
36.881,0
40.5
Nguồn: Kinh tế 2005-2006 Việt Nam và thế giới - Thời báo kinh tế Việt Nam ( trang 69)
Thứ hai, gia nhập WTO giúp Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ
thống luật pháp, chính sách thương mai minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán theo
hướng mở cửa và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tham gia vào sân chơi toàn cầu, chính sách thương mại của mỗi quốc
gia không chỉ xuất phát từ đặc điểm và mục tiêu kinh tế xã hội của quốc gia
đó mà còn phải chị ảnh hưởng và chi phối bởi nền kinh tế thế giới. Vì trong
đàm phán WTO chúng ta có hai loại là đàm phán đa phương và song phương.
Với đa phương yêu cầu đầu tiên là phải minh bạch hóa chính sách và đi
đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô. Việt Nam đã chấp nhận các hiệp
93
định của WTO khi chúng ta bỏ các biện pháp trợ cấp không đúng với quy
định như: trợ cấp liên quan tỷ lệ xuất khẩu; tỷ lệ nội địa hóa,...Việt Nam đã trả
lời hơn 3.000 câu hỏi liên quan chính sách kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân
hàng. Xây dựng các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định, các quy định
của WTO, riêng năm 2005 đã sửa và xây mới 29 luật, năm 2006 sửa và xây
mới 10 luật.
Ðàm phán song phương chúng ta đã kết thúc với 28 đối tác. Theo công
bố, biểu cam kết về hàng hóa của Việt Nam khi vào WTO có tới 3.800 dòng
thuế sẽ phải cắt giảm. Cụ thể, Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ biểu
thuế nhập khẩu hiện hành, gồm 10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối
cùng sẽ giảm còn 13,4% so với mức thuế hiện hành là 17,4%. Thời gian thực
hiện là sau 5 - 7 năm.
Thứ ba, gia nhập WTO, giúp Việt Nam tránh được những tranh chấp
thương mại "không công bằng và bóp méo".
Với chức năng là diễn đàn thương lượng về mậu dịch theo hướng tự do
hoá thương mại thông qua việc loại bỏ các rào cản trong thương mại; đưa ra
các nguyên tắc và cơ sở pháp lý cho thương mại quốc tế do các nước thành
viên thương lượng và ký kết với mục đích đảm bảo thuận lợi hóa thương mại
giữa các thành viên WTO; giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành
viên; giám sát việc thực hiện các hiệp định trong khuôn khổ WTO. Do đó
trong quan hệ thương mại khi xảy ra tranh chấp, xu hướng của các nước là
dùng WTO để giải quyết tranh chấp. Quy trình giải quyết tranh chấp thương
mại của WTO là một trong những điều kiện thiết yếu bảo đảm hiệu lực các
quy định của WTO, được coi là đóng góp lớn nhất của WTO vào sự ổn định
của nền kinh tế toàn cầu, giúp giảm nguy cơ các tranh chấp thương mại leo
thang thành xung đột chính trị hoặc quân sự.
Xuất hiện tranh chấp khi một nước thành viên WTO áp dụng một biện
pháp chính sách thương mại mà một hoặc một số thành viên khác coi là vi
phạm các quyền của họ được quy định trong các hiệp định WTO. Khi một
thành viên đưa tranh chấp ra kiện tại WTO, Hội đồng chung của WTO với vai
94
trò là cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) sẽ bổ nhiệm một đoàn thẩm phán
có quyền độc lập xem xét vụ kiện và đưa ra phán quyết dựa trên các hiệp định
WTO và cam kết của từng nước thành viên.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO là giải pháp công bằng,
nhanh chóng, hiệu quả và các bên đều chấp nhận được. WTO khuyến khích
các bên tranh chấp tự tham khảo ý kiến và dàn xếp với nhau trước khi bắt đầu
và kể cả trong quá trình xét xử. Việc xét xử được tiến hành theo một lộ trình
rõ ràng, gồm nhiều giai đoạn với thời gian cụ thể: từ khi DSB thụ lý vụ kiện
đến khi ra phán quyết ban đầu là 12 tháng; phúc thẩm (nếu các bên kháng
cáo) ba tháng. WTO quy định các phán quyết tự động có hiệu lực trừ khi bị
tất cả các nước bác bỏ, do vậy không thành viên nào có thể cản trở việc thực
hiện phán quyết.
Khi WTO đã phán quyết một nước thành viên vi phạm quy định của tổ
chức, nước đó sẽ phải nhanh chóng sửa sai, nếu tiếp tục vi phạm, nước đó sẽ
phải bồi thường hoặc chịu phạt. Trên nguyên tắc, các biện pháp trừng phạt
được áp đặt đối với cùng nhóm thương mại phát sinh tranh chấp, thí dụ EU
kiện Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép của EU, EU có thể áp
dụng các biện pháp trừng phạt tương tự đối với thép của Mỹ. Nếu biện pháp
trừng phạt thương mại cùng nhóm không thực hiện được hoặc không hiệu
quả, có thể áp đặt trừng phạt đối với nhóm khác của cùng một hiệp định, thí
dụ EU có thể tăng thuế nhập khẩu đối với một số nông sản của Mỹ có giá trị
bằng số thiệt hại do việc Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với thép của
EU.
Thứ tư, gia nhập WTO sẽ làm cho cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt
Nam trong hoạt động thương mại chuyển dịch theo hướng tăng giá trị xuất
khẩu.
Gia nhập WTO đảm bảo cho các nhà sản xuất và đầu tư có cơ hội đáp
ứng tốt nhất nhu cầu mà thị trường đòi hỏi, từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng bán cái thị trường chứ không phải bán cái ta có. Trong
những năm qua thực hiện quá trình hội nhập kinh tế, cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực theo hướng giảm dần tỷ
95
trọng hàng thô và tăng tỷ trọng hàng chế biến.
Bảng 2: Tỷ trọng cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam qua các thời kỳ
ĐVT: (%)
Thời kỳ
1995-2000
2001-2005
Tổng số
100
100
Nông lâm nghiệp thủy sản
26,075
24,096
Công nghiệp nhẹ và TTCN
32,38
39,474
Công nghiệp nặng và khoáng sản
41,545
38,23
Dẫn theo nguồn: Kinh tế 2005-2006 Việt Nam và thế giới - Thời báo kinh tế Việt Nam ( trang 65)
Chính điều này sẽ làm cho thị trường của Việt Nam đa dạng hơn và đặc
biệt là không tập trung quá nhiều vào một thị trường như thị trường châu Á đã
giảm từ 80% KNXNK thời kỳ 1990-1995 xuống còn khoảng chưa đầy 50%
thời kỳ 1996-2006. Năm 2006 xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang hầu hết các
châu lục đều có nhiều thuận lợi và đạt mức tăng trưởng tốt. Xét về tốc độ tăng
trưởng, xuất khẩu sang châu Đại dương có tốc độ tăng trưởng cao nhất tăng
52,%, tiếp đến là châu Âu tăng 33,7%, châu Mỹ tăng 33,3%, châu Á tăng
15,3%.
Thứ năm, Gia nhập WTO giúp Việt Nam khai thác triệt để các tiềm
năng và lợi thế so sánh trong hoạt động thương mại quốc tế thông qua việc
đẩy mạnh xuất khẩu những hàng hóa mà Việt Nam có lợi nhất và nhập khẩu
những hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng là bất lợi nhất.
Lý thuyết về thương mại quốc tế chỉ ra rằng, nguồn gốc của lợi thế so
sánh chính là sự dồi dào của các nguồn lực quốc gia. Đó là các yếu tố đầu vào
của sản xuất, các đầu vào trung gian có thể thay thế hay các đầu vào trung
gian không thể thay thế. Thực tiễn hoạt động thương mại cho thấy các lợi thế
về yếu tố đầu vào của Việt Nam được thể hiện đó là:
- Vể tài nguyên thiên nhiên: Việt Nam được coi là nước có nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, bao gồm đất đai, khí hậu biển, khoáng sản,
dầu mỏ,... với sự sẵn có của nhiều loại tài nguyên thiên nhiên này đã được các
chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đánh giá là một trong những lợi thế
96
của Việt Nam trong phát triển thương mại quốc tế.
- Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở vòng cung châu Á - Thái Bình
Dương và trong dòng giao lưu kinh tế sôi động nhất trên thế giới. Hệ thống
cảng biển là cửa ngõ không chỉ đối với nên kinh tế Việt Nam mà còn nhiều
nền kinh tế trong khu vực.
- Về lao động, với gần 40 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó
hơn 30 triệu là lao động trẻ và hàng năm tăng thêm từ 1-1,2 triệu người trong
độ tuổi lao động, Việt Nam được xem là có lợi thế về nguồn lao động. Ngoài
ra mặt bằng dân trí của Việt Nam cũng được đánh giá cao, theo đánh giá của
tổ chức UNDP, Việt Nam có chỉ số HDI = 0,54 và xếp thứ 121 trong số 171
nước trên thế giới. Đây là một thuận lựoi để lao động Việt Nam học hỏi và
nâng cao trình độ chuyên môn.
Với những lợi thế như vậy, tham gia vào WTO sẽ cho phép chúng ta
đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng cụ thể như:
- Dệt may, giày dép, với lợi thế nguồn nhân công rẻ (hiện nay một giờ
công của công nhân Việt Nam trong ngành dệt may chỉ mất 0,11USD trong
khi ở Mỹ là 30 USD và EU là 25 USD) và đội ngũ tay nghề khéo léo. Việt
Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang những thị trường lớn với
nhu cầu sử dụng cao như Mỹ, EU, Nhật Bản,...dự kiến năm 2006 xuất khẩu
hàng dệt may đạt khoảng 4,46 tỷ USD tăng 27,8% so với năm 2005; hàng
giày dép đạt 2,64 tỷ USD tăng 21,5% so với năm 2005; hàng thủy sản đạt
2,32 tỷ USD, tăng 19,3%.
- Thủy sản, với lợi thế về tài nguyên thiên biển, đặc biệt là nuôi trồng
thủy sản nhờ chuyển dịch cơ cấu trồng cây lúa nước và tái tạo từ những vùng
bị nhiễm phèn sang nuôi trồng thủy sản (dự kiến năm 2006 giá trị kim ngach
xuất khẩu hàng thủy sản đạt 2,32 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm 2005, trong
đó giá trị thủy sản nuôi trồng xuất khẩu chiếm trên 40% kim ngạch xuất
khẩu). Bên cạnh đó còn phải kể đến lợi thế nhân công, nguồn thức ăn dồi dào,
khí hậu, đất đai,... cho phép Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường
97
Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản với nhu cầu ngày càng tăng tại các thị trường này.
- Đối với mặt hàng nông sản bao gồm gạo, cà phê, cao su,... đây là mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với lợi thế về khí hậu nhiệt đới, đất đai
và đặc biệt là truyền thống lâu đời của Việt Nam trong việc sản xuất những
mặt hàng này. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu gạo, cà phê của Việt Nam đứng
thứ hai trên thế giới (với ước lượng năm 2006 kim ngạch xuất khẩu gạo là
1,35 tỷ USD; cà phê xấp xỉ 1tỷ USD) cao su đứng số 1 thế giới (năm 2006
KNXK ước đạt 1,2 tỷ USD) và một số mặt hàng như điều (số 2 thế giới), chè
đứng thứ 8 thế giới,...đều là những lợi thế của Việt Nam.
Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới quá trình gia nhập WTO của
Việt Nam muộn hơn và lại là nước thuộc nhóm các nước có trình độ phát triển
thấp nhất thế giới. Do vậy, việc gia nhập WTO bên cạnh những thuận cũng
đặt ra những thách thức không nhỏ đối với hoạt động thương mại của Việt
Nam và điều này được thể hiện trên các khía cạnh.
Thứ nhất, hoạt động thương mại của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn
do phải cạnh tranh quyết liệt với hàng hóa của các nước là thành viên WTO.
Luật chơi của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế
quan (hạn ngạch, giấy phép xuất nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị
trường, tạo sân chơi bình đẳng cho các DN. Vì vậy các DN Việt Nam sẽ
không còn được ưu đãi như trước mà phải tuân theo quy luật khắc nghiệt của
cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường năng lực cạnh tranh của DN phụ
thuộc vào nhiều yếu tố nhưng nhìn chung sẽ bao gồm các yếu tố cơ bản như:
vốn, máy móc thiết bị công nghệ, nguồn nhân lực, trình độ quản lý, nguyên
vật liệu đầu vào, khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường.
- Xét trên tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm được kết tinh bởi sự dồi dào
của nguồn vốn, trình độ công nghệ, trình độ quản lý, nguồn nhân lực thì các
DN Việt Nam không thể so sánh với các DN nước ngoài do họ có trình độ
phát triển cao hơn, được tranh bị công nghệ hiện đại, vốn đầu tư lớn hơn do
đó giá thành sản xuất sẽ thấp hơn và chất lượng sản phẩm sẽ cao hơn.
- Xét về khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường: có thể nói DN
98
nước ta chưa chú trọng việc xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm và
nghiên cứu thị trường chiến lược. Việc tiếp thị sản phẩm mang tính chất quốc
tế còn hạn chế. Theo số liệu khảo sát của VCCI, chỉ có 10% số DN là thường
xuyên tìm hiểu thị trường nước ngoài và trong số này chủ yếu là DN lớn.
Nhiều mặt hàng hiện nay chúng ta xuất ra nước ngoài nhưng phần lớn vẫn
chưa có tên tuổi, khách nước ngoài mua nhưng không biết đó là sản phẩm của
Việt Nam. Các sản phẩm hiện nay phần lớn chủ yếu là truyền miệng trong
dân gian, chứ chưa được đầu tư quảng bá, đăng ký và bảo hộ thương hiệu có
tính pháp lý trên trường quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp của ta chưa có khả
năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm có quyền sở hữu trí tuệ riêng của
mình phù hợp với thị trường tiêu thụ. Qui mô sản xuất nhỏ. Chất lượng sản
phẩm chưa ổn định. Ví dụ, đối với thủy sản nếu chưa giải quyết được dứt
điểm vấn đề dư lượng kháng sinh bị cấm hoặc quá mức cho phép thì chưa thể
nói đến vấn đề xây dựng thương hiệu. Nếu đầu tư xây dựng thương hiệu sau
đó hàng bị phát hiện vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm bị công bố ra công
chúng hoặc bị cấm nhập thì việc xây dựng thương hiệu sẽ như dã tràng xây
cát biển đông. Đây chính là yếu tố dẫn đến bị thua thiệt khi cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước.
- Xét về yếu tố đầu vào, thời gian qua, giá một loạt nguyên liệu như hạt
nhựa, clinke, dầu mỏ, phôi thép, sợi dệt,... tăng mạnh trên thị trường thế giới
do nhu cầu tăng mạnh của thị trường thế giới mà chủ yếu là Trung Quốc. Với
những quốc gia có các sản phẩm này xuất khẩu thì thu lợi lớn, còn với Việt
Nam thì ngược lại. Hầu hết những nguyên liệu đầu vào đó, chúng ta không tự
sản xuất được mà phải nhập khẩu. Chính sự lệ thuộc này làm cho sản xuất
trong nước bị tác động mạnh. Một số mặt hàng được coi là có khả năng cạnh
tranh như gạo, cà phê, dệt may, giày dép đang có nguy cơ giảm sút về sức
cạnh tranh. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta chưa có nhiều mặt
hàng có hàm lượng công nghệ cao trong khi giá cả cánh kéo giữa hàng thô,
hàng nông nghiệp với hàng tinh, hàng công nghiệp có xu hướng ngày càng
tăng. Với các ngành sản xuất thép, dệt may, xi măng... thời gian qua chi phí
99
đầu vào tăng cao, làm cho nhiều DN bị giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Nhiều
mặt hàng xuất khẩu bị mất thị trường do sức cạnh tranh giảm, hoặc không còn
lợi nhuận khi đầu vào tăng mà đầu ra không tăng được.
Thứ hai, Tham gia vào WTO, nếu Việt Nam không điều chỉnh hợp lý
cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sẽ dẫn đến tình trạng "chảy máu" nguồn tài
nguyên.
Thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế thời gian qua cho thấy có sự
tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền kinh tế là rất lớn. Nhu
cầu tiêu dùng thế giới hiện nay đang đòi hỏi một khối lượng sản phẩm cung
ứng khổng lồ. Từ đó buộc các nền sản xuất thế giới phải đáp ứng dẫn đến sự
phụ thuộc, đan xen giữa các nền kinh tế. Và trong khi chưa tìm ra được các
sản phẩm thay thế cho các tài nguyên sản có. Các nước lớn với ưu thế vượt
trội về sức sản xuất, phân ngạch mậu dịch, về công nghệ, vốn,... họ có quyền
quyết định và khống chế giá cả trên thế giới, luôn tìm mọi cách thâm nhập,
khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn đã cạn kiệt tại nước mình
trong đó phần lớn là tại thị trường các nước đang và kém phát triển. Còn bản
thân các nước phát triển, để thực hiện mục tiên hiện đại hóa đất nước cần phải
đẩy mạnh xuất khẩu. Do đó trong giai đoạn đầu để thực hiện mục tiêu này
buộc các nước phải khai thác các tài nguyên, lợi thế so sánh của nước mình để
có thể đáp ứng được nguồn lực về vốn.
Đối với Việt Nam trong thời gian qua, khi Trung Quốc gia nhập WTO,
để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng, các công xưởng Trung Quốc đã ồ ạt tiến
công vào thị trường Việt Nam dẫn đến hiện tượng chảy máu một só nguồn tài
nguyên như quặng sắt, thiếc, than đá,... Do đó nếu chúng ta không có cơ cấu
đầu tư hợp lý, mà vẫn xuất khẩu thô hoặc khai thác bừa bãi như hiện nay thì
các nguồn lực thiên nhiên dùng để phát triển các ngành công nghiệp trong
tương lai dễ bị cạn kiệt và gây tác động xấu đến môi trường. Nói cách khác,
chúng ta có thể trở thành nơi cung cấp nguồn tài nguyên, khoáng sản để phát
triển công nghiệp cho các nước lớn hay nói cách khác ngành khai thác tài
nguyên của chúng ta sẽ phụ thuộc vào sự thăng trầm của nhu cầu tiêu thụ
100
khoáng sản trên thế giới.
Thứ ba, hoạt động thương mại của Việt Nam sẽ ẩn họa những nguy cơ
bị những "vòi bạch tuôt" của các công ty xuyên quốc gia, các tập đoàn kinh tế
nước ngoài thôn tính.
Gia nhập WTO, kinh tế của Việt Nam sẽ phát, ngoài việc mở rộng được
thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường trong nước cũng hấp dẫn các nhà đầu
tư. Đây là tác nhân thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước về mọi mặt. Tuy
nhiên khi dỡ bỏ dần hàng rào mậu dịch, các DN Việt Nam phải tự bơi trong
đại dương đầy sóng gió mà ở đó, chúng ta bất lợi về vốn, công nghệ, phương
pháp quản lý,...trong khi đó, đối với các thành viên WTO, đặt trong xu thế
toàn cầu hóa đã thúc đẩy các DN, tập đoàn kinh tế sáp nhập lại với nhau hình
thành nên các tổng công ty xuyên quốc gia, có khả năng chi phối các hoạt
động thương mại. Đặc biệt các DNNN hoạt động ở lĩnh vực nông thôn củ yếu
kinh doanh mặt hàng nông sản sẽ là mặt hàng phải chịu sức ép cạnh tranh
nặng nề nhất hiện nay chủ yếu là DNNVV, thậm chí là rất nhỏ. Tính chung,
các DNNNNT có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới trên 80%, trong đó
số DN có vốn dưới 50 triệu chiếm tới hơn 20% và tỷ lệ hoạt động bị lỗ vào
khoảng 12-15%. Vì vậy các DN Việt Nam sẽ khó tồn tại. Mặt khác gia nhập
WTO, nguy cơ các doanh nghiệp phân phối và XNK Việt Nam sẽ bị các công
ty nước ngoài kinh doanh phân phối và xuất nhập khẩu đe dọa.
Thứ tư, hoạt động thương mại quốc tế bị đe dọa bởi chính sách bảo hộ
thương mại do sự áp đặt của các nước lớn.
Mặc dù trên nguyên tắc khi đã là thành viên của WTO, mọi hoạt động
thương mại của các quốc gia đều phải tuân thủ và không ngừng thúc đẩy tự do
hóa thương mại. Tuy nhiên trong thực tế đứng trước sức ép phải bảo hộ hàng
hóa nội địa trước sự cạnh tranh quyết liệt của hàng hóa từ bên ngoài, các quốc
gia thường dựng nên những hàng rào bảo hộ trá hình. Điều đặc biệt hơn ở chỗ
chính những nước lớn lại ngày càng dựng nên những hàng rào bảo hộ ấy
trong khi hô hào các nước khác phải mở cửa tự do cho hàng hóa của mình
thâm nhập.
Gia nhập WTO không có nghĩa các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giảm
101
đi. Việt Nam càng tăng xuất khẩu, thì tranh chấp thương mại sẽ càng tăng.
Chỉ có điều mức độ sẽ được giải quyết công bằng hơn. Nếu trước đây, năm
1990 Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 2,4 tỷ USD, nay chỉ trong một tháng,
chúng ta đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 3 tỷ USD. Khi vào WTO, để đẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, lúc đó chúng ta sẽ đạt đến mức xuất
khẩu 100 tỷ USD. Mỗi tháng đạt kim ngạch xuất khẩu gần 10 tỷ USD. Như
thế, mức độ Việt Nam tham gia thị trường thế giới càng tăng, thì các tranh
chấp quốc tế về thương mại cũng tăng. Trung Quốc khi gia nhập WTO số vụ
kiện chống bán giá đã tăng từ 53 vụ năm 2001 lên 57 vụ năm 2005.
Bên cạnh đó gia nhập WTO cũng dễ tạo nên những tổn thất về thương
mại do bản thân các DN Việt Nam thực hiện không nghiêm hoặc chưa lường
trước được những hậu quả nặng nề khi không tuân thủ đầy đủ các cam kết.
Trong khi đó, bối cảnh hệ thống chính sách pháp luật của ta đang trong giai
đoạn xây dựng và hoàn thiện, đặc biệt là kinh nghiệm trong các vấn đề xử lý
khiếu kiện, các luật chống bán phá giá, đặc biệt là tình trạng vi phạm quyền
sở hữu trí tuệ của các DN Việt Nam. Thực trạng hiện nay đối với sỡ hữu công
nghiệp như nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế,... nếu sản phẩm nào
có uy tín hay bán chạy trên thị trường là người ta sẵn sàng làm nhái, làm gỉa
khi quan hệ thương mại với đối tác nước ngoài. Theo thống kê của Hiệp hội
phần mềm quốc tế, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm máy tính ở Việt Nam
đúng hàng đầu thế giới, năm 2004 là 92%, năm 2005 là 90%.
2. Một số vấn đề cần giải quyết nhằm phát triển hiệu quả hoạt động
thương mại khi Việt Nam gia nhập WTO
* Về phía nhà nước
+ Cần có sự điều chỉnh và đồng bộ về luật pháp, chính sách, bắt kịp sự
thay đổi của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, Trung Quốc
đã có năm năm quá độ và trong ba năm đầu nước này đã đẩy nhanh việc chế
định và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách thương mại phù hợp với
cam kết WTO. Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách
thương mại Trung Quốc luôn hướng đến tính minh bạch và khả năng lường
trước được các văn bản pháp luật, vì đây là một trong những nguyên tắc quan
102
trọng nhất của tổ chức thương mại thế giới WTO. Tương tự như Trung Quốc,
Việt Nam hiện nay đang được hưởng giai đoạn quá độ, là điều kiện thuận lợi
cho việc thực hiện các cam kết của WTO, trong đó có việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, chính sách thương mại. Vì vậy, Việt Nam ngoài việc xây
dựng các văn bản pháp luật còn thiếu thì cũng cần phải rà soát lại các văn bản
đã có để từ đó xây dựng một cơ chế hữu hiệu nhằm kiểm soát, thi hành đầy đủ
thống nhất các quy định của WTO.
Riêng với luật chống bán phá giá, nhà nước phải nghiên cứu luật chống
bán phá giá của các nước thành viên WTO, ban hành luật chống bán phá giá
của nước mình đối với hàng nhập khẩu của nước ngoài. Kinh nghiệm của các
nước cho thấy khi tham gia vào WTO, ngoài viẹc nghiên cứu luật chống bán
phá giá của các thành viên WTO và các nước khác để sữn sàng ứng phó
thương thảo và hầu kiện nếu tranh chấp xảy ra. Thì các quốc gia luôn cố gắng
tận dụng những điều khoản tự vệ của WTO để bảo hộ một cách hợp lý trong
đó có việc ban hành luật chống bán phá giá của nước mình đối với hàng nhập
khẩu nước ngoài. Đối với Việt Nam do cơ cấu mặt hàng sản xuất tiêu dùng
trong nước khá tương đồng đối với các nước trong khu vực nên việc ban hành
cống bán phá giá cũng chính là nhằm bảo vệ thị trường cũng như quyền lợi
của các DN trong hoạt động thương mại.
- Nhà nước cần phải là chỗ dựa đáng tin cậy cho các DN thể hiện vào
sự vững mạnh của thể chế kinh tế vĩ mô và chuyển đổi chức năng của Chính
phủ. Điều này được thể hiện thông qua việc hoạch định chiến lược lâu dài cho
thị trường tiềm năng, định hướng cơ cấu mặt xuất khẩu hợp lý và có những
giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu tránh lệ
thuộc vào một thị trường có nhiều nhà xuất khẩu. Nhà nước cần nâng cấp và
phát triển hơn nữa cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các cơ sở chế biến đồng thời chú
trọng đến vấn đề thông tin nhất là thông tin về thị trường, về hệ thống pháp
luật mà Việt Nam quan hệ thương mại, về nhu cầu, tập quán kinh doanh, thủ
tục hành chính, cơ chế chính sách ở nước đó.
- Nhà nước phải nhanh chóng điều chỉnh chính sách ngành nghề phù
hợp với yêu cầu đặt ra, đặt biệt là ở khu vực nông thôn. Đối với khu vực này
103
trong thời gian đến sẽ không còn tình trạng sản xuất hàng hóa "một nhà",
manh muốn chạy theo lợi nhuận trước mắt, người dân sẽ không còn "thích thì
làm nữa". Các hoạt động sản xuất sẽ bị ràng buộc bởi các hợp đồng thương
mại, hợp đồng kinh tế phức tạp gắn chặt người dân với DN, các tập đoàn kinh
tế. Kinh nghiệm ở Trung Quốc cho thấy khi đã gắn chặt sản xuất của các hộ
nông dân với các cơ sở tiêu thụ nước ngoài bằng các hợp đồng kinh tế thì việc
thực hiện chấp hành phải đảm bảo tuyệt đối nếu không muốn bị kiện lên tòa
án của WTO và khi đó thiệt hại sẽ rất lớn. Vì vậy nhà nước phải hỗ trợ nâng
cao kiến thức về kinh tế cho các hiệp hội, ngành nghề và phải là trung gian,
cầu nối bảo vệ người sản xuất.
* Về phía các doanh nghiệp
- Nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các DN cần
xây dựng cho mình một chiến lược sản phẩm mà DN có thế mạnh, đa dạng
hóa sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng. đổi mới để từng bước thay thế dần công
nghệ củ bằng công nghệ tiên tiến nhằm hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất
lượng hàng hóa. để thực hiện các yêu cầu trê, các DN cần xây dựng các vùng
nguyên liệu của mình, giảm nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, giảm chi
phí đầu vào của sản xuất. Khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh quốc gia
trong việclựa chọn sản phẩm kinh doanh, chú trong đến khâu nghiên cứu và
phát triển sản phẩm mới. Xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa, bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Mặt trái của WTO là những cuộc chiến thương mại. Vì vậy các DN
phải đoàn kết thực hiện những quy định và tiêu chí về chất lượng sản phẩm,
quy trình và điều kiện sản xuất tránh trường hợp kiện tụng. Bêncạnh đó các
doanh nghiệp cần thành lập các tập đoàn kinh doanh xuất nhập khẩu cho từng
cơ cấu mặt hàng. Điều này sẽ tạo ra sự phát triển toàn ngành trong phạm vụ
thành viên, giúp các đơn vị thành viên kết thành sức mạnh tổng hợp nhằm
nâng cao sức cạnh tranh.
- Nâng cao trình độ năng lực, nhất là trang bị kiến thức về hội nhập,
nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ xuất nhập khẩu, am hiểu thị
104
trường, cách thức kinh doanh,…
GIA NHẬP WTO: TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
PGS.TS Ngô Quang Minh
1. Khái quát hiện trạng công nghiệp Việt Nam
1.1. Thành tựu
Nhìn lại thành tựu phát triển công nghiệp sau hơn 20 năm đổi mới có thể thấy vai trò của ngành đang được nâng cao, đóng góp ngày càng lớn tới phát triển kinh tế nói chung. Những đổi mới từ chủ trương, chính sách của Đảng, cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước với sự nỗ lực của các doanh nghiệp đã đưa công nghiệp trở thành ngành quan trọng nhất trong cơ cấu kinh
tế quốc dân. Sản xuất công nghiệp phát triển mạnh cả số lượng ngành nghề, số cơ sở sản xuất, loại hình doanh nghiệp, tổng vốn đầu tư, kim ngạch xuất
khẩu, tỷ trọng và giá trị tổng sản phẩm trong nước.
Hình 1: Công nghiệp Việt Nam 2001-2007 (%)
30
20
10
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
7t/2007
14.6
14.8
16
16
17.1
17
17
Giá trị sản xuất CN
12.7
12.5
12.7
11.2
7.2
9.3
9.7
Khu vực DNNN
21.5
18.3
18.7
21
25.4
23.9
20.4
Ngoài nhà nước
12.6
15.2
18.1
15.7
21.2
18.8
18.9
FDI
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Số lượng, lĩnh vực ngành nghề từng bước được mở rộng, từ những ngành nghề công nghiệp truyền thống như khai thác (dầu khí, than đá), gia
công (dệt may, lắp ráp), trong quá trình phát triển, ngành công nghiệp chuyển dần sang những lĩnh vực mới, mang lại giá trị gia tăng cao, như công nghệ thông tin, hoá dầu, sản xuất linh kiện điện tử... Bên cạnh đó, quá trình đổi
105
mới, nâng cao trình độ công nghệ được đẩy nhanh, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh ngành, sản phẩm; nhiều doanh nghiệp mới với công nghệ hiện
đại được thành lập. Với những kết quả đó, hoạt động sản xuất công nghiệp phát triển mạnh, đưa tổng giá trị sản xuất toàn ngành đạt mức tăng trưởng cao
và liên tục.
Những thành tựu nổi bật trong thời gian qua trên lĩnh vực công nghiệp
có thể kể đến là:
- Duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp ngày càng quan trọng đối với tăng trưởng chung của cả nền kinh tế: Công nghiệp luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, trở thành ngành có vị trí quan trọng hàng đầu, chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân. Trong giai đoạn 1992 - 2006, công nghiệp luôn đạt được tốc độ tăng trưởng GDP trên 10% (trừ năm 1998
và 1999). Đóng góp của công nghiệp trong tăng trưởng chung đạt trung bình trên 50% trong giai đoạn 1986-2006.
Năm 2001, tỷ lệ tăng trưởng GDP của nền kinh tế đạt 6,89%, trong đó
nông, lâm, ngư nghiệp chỉ đóng góp được 10,07% và dịch vụ đóng góp 36,54%,
công nghiệp đóng góp tới 53,39%. Đến năm 2006, tỷ lệ tăng trưởng của cả nền
kinh tế là 8,17%, phần đóng góp của nông, lâm, ngư nghiệp chỉ còn 9,1%, phần
đóng góp của dịch vụ tăng lên 40,1%, công nghiệp vẫn đóng góp tới 50,8%.
Hình 2: Đóng góp của công nghiệp vào GDP theo điểm %
10
8.4
8.17
8
7.79
7.34
GDP
7.08
6.89
6
%
ệ l
4.2
ỷ T
4.15
4
3.92
3.93
3.47
3.68 Công nghiệp
2
0
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Với tốc độ tăng trưởng nhanh, ngành công nghiệp góp phần đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Năm 2001, nông, lâm, ngư nghiệp còn chiếm tới 23,25%
tổng sản phẩm trong nước; dịch vụ chiếm 38,55%; công nghiệp và xây dựng
chiếm 38,46%. Đến năm 2006, các tỷ trọng tương ứng là 20,40%, 38,08% và
41,52%. Từ quốc gia có cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ, Việt Nam
106
đã chuyển thành nước có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Công nghiệp đóng vai trò quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
- Góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu: Công nghiệp có đóng góp
lớn nhất vào tổng kim ngạch xuất khẩu. Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo các
nhóm hàng của Việt Nam đang có những thay đổi hết sức quan trọng phản
ánh đúng xu hướng chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp theo hướng phát triển kinh tế thị trường,
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các sản phẩm công
nghiệp xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng chủng loại và liên tục tăng
với tốc độ cao, cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
- Cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch tích cực: Cùng với những đóng góp
to lớn vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
nền kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế công nghiệp theo ngành, theo vùng lãnh
thổ và theo thành phần kinh tế cũng có những thay đổi quan trọng. Cơ cấu
kinh tế ngành công nghiệp đang có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp chế biến, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác; tăng dần các
ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao; gắn sự phát triển công nghiệp
với nhu cầu thị trường.
Hình 3: Đóng góp vào tăng trưởng GDP theo tỷ lệ % trong cấu trúc tăng trưởng ngành công nghiệp
Khai thác 8%
Xây dựng 26%
Khai thác 5%
Xây dựng 16%
Điện gaz nước 8%
Điện gaz nước 9%
Chế biến 70%
Chế biến 58%
Năm 2001 Năm 2006
Tỷ trọng khu vực nhà nước trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành: Năm
2000 là 41,8% thì đến năm 2006 giảm còn 31,8%. Tốc độ tăng trưởng khu
vực công nghiệp nhà nước chậm hơn so với tốc độ chung (11,1% so với
107
16,3%). Tỷ trọng khu vực ngoài nhà nước trong tổng giá trị sản xuất toàn
ngành công nghiệp tăng mạnh trong giai đoạn 2000 đến 2006 (22,2% năm
2000 tăng lên 30% năm 2006). Tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
cũng tăng từ 35,9% năm 2000 lên 38,2% năm 2006. Như vậy, khu vực ngoài
nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao hơn khu
vực nhà nước, đã và đang trở thành động lực tăng trưởng ngành công nghiệp
trong giai đoạn hậu WTO.
Cơ cấu kinh tế công nghiệp theo vùng lãnh thổ: Công nghiệp đang
được phát triển rộng trên cơ sở phát huy lợi thế về điều kiện tự nhiên và
truyền thống nghề nghiệp từng vùng, thúc đẩy sự giao lưu trao đổi hàng hoá
giữa các vùng. Trong quá trình này, công nghiệp vẫn được phát triển tập trung
hơn ở các vùng kinh tế trọng điểm tạo nên sự phát triển vượt trội của các vùng
này qua mức độ tập trung hoá cao của công nghiệp, mức độ đóng góp vào
tăng trưởng chung và bước đầu phát huy tác động lan toả tới sự phát triển
kinh tế - xã hội ở các vùng kinh tế khác.
1.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, xuất phát từ yêu cầu phát triển và
tiềm năng ngành, công nghiệp bộc lộ một số yếu kém sau:
- Chưa phát huy đầy đủ vai trò trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, trước hết là đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn. Mối
quan hệ giữa công nghiệp - nông nghiệp trong quá trình hiện đại hoá nông
nghiệp - nông thôn còn hạn chế. Công nghiệp chưa trở thành động lực chính
thúc đẩy nông nghiệp phát triển, chưa phải là nhân tố hình thành các khu chế
biến tập trung, các vùng chuyên canh... Công nghiệp chưa đáp ứng đầy đủ các
máy móc thiết bị, vật tư nông nghiệp; quan hệ trao đổi, mua bán sản phẩm
giữa doanh nghiệp công nghiệp với các hộ nông dân chưa bền vững, gắn bó.
Việc phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, từ góc độ nhất định, chưa
đạt mục tiêu kỳ vọng.
- Trình độ kỹ thuật chưa cao, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, năng lực
cạnh tranh ngành còn thấp. Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công
108
nghiệp nhẹ lạc hậu hơn so với trình độ trung bình của thế giới từ 2-3 thế hệ;
đối với công nghiệp nặng, mức độ lạc hậu còn cao hơn. Tốc độ đổi mới công
nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp khá chậm, từ 10-15%/năm. Tỷ lệ
đóng góp của các nhân tố khoa học công nghệ xấp xỉ 25%, trong khi chỉ số
này của các nước khác dao động từ 40 - 60%. Sản phẩm công nghiệp đơn điệu
về kiểu dáng, mẫu mã và chậm đổi mới, chất lượng thấp... do đó, năng lực
cạnh tranh của nhiều sản phẩm công nghiệp thấp. Phát triển công nghiệp còn
lạm dụng khai thác tài nguyên (nhất là những tài nguyên hoá thạch, không thể
tái tạo), công nghệ lạc hậu, xử lý chất thải chưa được chú ý đúng mức ... đã và
đang phá vỡ tính bền vững trong phát triển của ngành nói riêng và của toàn bộ
nền kinh tế nói chung.
- Chất lượng tăng trưởng chưa cao: Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng cao,
liên tục trong thời gian dài, nhưng cơ cấu nội bộ ngành chuyển dịch chậm, tỷ
trọng công nghiệp khai thác còn lớn, nhiều sản phẩm thô (khí đốt, dầu mỏ,
than đá...) vẫn là những sản phẩm xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn trong
kim ngạch xuất khẩu. Phần lớn các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng khoa
học thấp, chủ yếu là gia công. Công nghiệp phụ trợ non yếu, các sản phẩm sản
xuất trong nước còn đơn giản, những chi tiết phức tạp hầu hết phải nhập khẩu.
Trong hai năm trở lại đây, công nghiệp khai thác giảm mạnh, năm 2006
chỉ đạt 0,81%, bằng 19% tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành giai đoạn
2001-2005. Sự giảm sút, nhìn từ chất lượng tăng trưởng có thể thấy sự yếu
kém về công nghệ, kỹ thuật trong ngành và nguy cơ mất cân đối giữa khai
thác và chế biến.
Chất lượng tăng trưởng thấp còn thể hiện ở khoảng cách chênh lệch
giữa tốc độ tăng giá trị sản xuất và tốc độ tăng giá trị gia tăng của ngành: Năm
2001 là 4,24 điểm phần trăm. Con số tương ứng các năm tiếp theo là: 2002 là
5,37; năm 2003 và 2004 là 6,37; năm 2005 là 6,55; năm 2006 là 6,81. Khoảng
cách ngày càng lớn một mặt chứng tỏ sự gia tăng các phân ngành có chi phí
trung gian lớn, mặt khác cho thấy lắp ráp, gia công cho nước ngoài vẫn là lĩnh
vực chủ yếu của công nghiệp Việt Nam. Gia công không chỉ mang lại giá trị
gia tăng thấp, tích luỹ chậm mà còn bị phụ thuộc vào giá nguyên liệu nhập
109
khẩu. Ngành chế biến có mức tăng trưởng cao, nhưng vẫn chủ yếu là sản xuất
thay thế nhập khẩu, thiếu chiến lược phát triển dài hạn và tăng trưởng dựa
trên sự bảo hộ của Nhà nước.
- Lao động trong ngành công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu. Tỷ lệ lao
động trẻ tuy cao, với 60% dân số sinh ra sau 1975 nhưng lao động qua đào tạo
chỉ đạt 27% và tỷ lệ thu hút sinh viên vào các trường đại học và cao đẳng
hằng năm mới chiếm 20% số thí sinh. Điều này đã dẫn đến năng suất lao động
trong công nghiệp thấp. Việc trang bị vốn cho người lao động trong ngành
chưa tốt cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển
công nghiệp. Một số ngành sử dụng nhiều lao động với việc phát huy lợi thế
so sánh về giá nhân công như dệt may, da giầy... khó giúp cho ngành công
nghiệp Việt Nam phát triển mang tính đột phá nếu xét về chất lượng tăng
trưởng vì tỷ suất lợi nhuận đạt thấp (Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu của ngành
dệt may chỉ là1,8%).
- Chính sách phát triển công nghiệp chưa phát huy hết tiềm năng các
nguồn lực. Mặc dù đã có những nỗ lực trong đổi mới chính sách, nhưng sự
ôm đồm của các DNNN ngành công nghiệp đối với cả những lĩnh vực sản
xuất thông thường đã làm giảm hiệu quả hoạt động chung của ngành. Nhiều
chương trình của ngành chưa chuẩn bị kỹ, dẫn đến cách làm theo phong trào
như xi măng lò đứng, mía đường .... và lần lượt thất bại. Hình thành các tập
đoàn kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực công nghiệp trọng yếu là cần
thiết, song nó làm giảm hiệu quả phân bổ nguồn lực, bóp méo cách thức phân
bổ hiệu quả dựa trên nguyên tắc thị trường. Sự bảo hộ nhiều khi thái quá của
Nhà nước đã trở thành những rào cản khó vượt qua đối với các doanh nghiệp
ngoài nhà nước trong nhiều lĩnh vực công nghiệp, kể cả những lĩnh vực Nhà
nước không cần nắm giữ độc quyền hoặc chi phối.
Các doanh nghiệp ngoài nhà nước bước đầu phát tăng trưởng mạnh về
số lượng, góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm, khai thác nguồn lực,
đóng góp vào ngân sách và tốc độ tăng trưởng nhưng nhìn chung, qui mô nhỏ
bé và những phân biệt đối xử trong tiềm thức cũng như thực tiễn quản lý chưa
110
được gỡ bỏ hoàn toàn. Ngoài ra, sự thiếu nhất quán, dễ thay đổi và khó dự
đoán của chính sách cũng là một trong những bất cập trong phát triển công
nghiệp.
- Thiếu chiến lược, qui hoạch bộc lộ bất cập. Trong nhiều ngành hàng
công nghiệp, hầu hết đều đã có chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể
ngành, nhưng chưa được chiến lược và quy hoạch phát triển công nghiệp nói
chung đề cập. Mối quan hệ giữa các quy hoạch ngành và quy hoạch công
nghiệp địa phương có sự chồng chéo, trùng lặp. Chẳng hạn việc xây dựng quy
hoạch công nghiệp dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh có nhiều điểm trùng
lắp hoặc mâu thuẫn với các quy hoạch công nghiệp địa phương mà tuyến
đường này đi qua. Ngoài ra, quy hoạch các ngành công nghiệp thường bị phá
vỡ bởi các chỉ số dự báo không sát với tình hình thực tiễn.
2. Những cam kết chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp
Cam kết trong lĩnh vực công nghiệp tập trung vào nội dung cắt giảm
thuế quan và trợ cấp. Việt Nam cam kết kể từ khi gia nhập WTO sẽ không
cấp bất kỳ trợ cấp bị cấm nào cho các đối tượng hưởng trợ cấp mới theo
chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên
tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những lợi ích
mà các đối tượng hưởng trợ cấp hiện tại đang được nhận theo hai chương
trình này sẽ được xóa dần trong vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO.
Chương trình dành ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước và chương trình dành ưu đãi đầu tư
dựa trên tiêu chí xuất khẩu dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ
hoàn toàn bị xoá bỏ không muộn hơn 5 năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập
WTO. Toàn bộ các trợ cấp bị cấm khác sẽ bị xoá bỏ kể từ ngày gia nhập WTO
và bất kỳ chương trình trợ cấp nào khác còn lại cũng sẽ được điều chỉnh phù
hợp với quy định của Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp chống trợ cấp của
WTO. Việt Nam sẽ thông báo cho WTO về các biện pháp xóa bỏ hai chương
trình trợ cấp nói trên cũng như biện pháp xoá bỏ các trợ cấp bị cấm khác.
Hộp 1: Nội dung cơ bản của cam kết trong lĩnh vực công nghiệp
Cắt giảm thuế quan, phi thuế quan
+ Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành, gồm
111
10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện là sau 5 - 7 năm.
+ Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải.
+ Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may (63%), cá và sản phẩm cá (38%), gỗ và giấy (33%), hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử (24%).
+ Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23,9%.
+ Việt Nam cũng cam kết tham gia vào một số hiệp định tự do hoá theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3 - 5 năm.
+ Trong các hiệp định trên, khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin, các sản phẩm điện tử như máy tính, điện thoại di động; máy ghi hình, máy - ảnh kỹ thuật số… ) sẽ có thuế suất nhập khẩu 0% sau 3 - 5 năm, tối đa là sau 7 năm.
+ Việc tham gia hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo các hiệp định dệt may với EU, Hoa kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%.
+ Cho phép thời gian chuyển tiếp không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ
đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO.
+ Cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ
trình; không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.
Trợ cấp
+ Bãi bỏ trợ cấp thay thế nhập khẩu (như thuế ưu đãi theo tỷ lệ nội địa hóa) và các loại trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nước (như bù lỗ cho hoạt động xuất khẩu, thưởng theo kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất cho hợp đồng xuất khẩu…) kể từ khi gia nhập WTO.
+ Với trợ cấp xuất khẩu gián tiếp (chủ yếu dưới dạng ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu), sẽ không cấp thêm kể từ khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã được hưởng ưu đãi loại này từ trước ngày gia nhập WTO được hưởng một thời gian chuyển tiếp là 5 năm để bãi bỏ hoàn toàn.
+ Việt Nam không cam kết đối với DNNN.
+ Riêng với ngành dệt - may, tất cả các loại trợ cấp bị cấm theo Hiệp định SCM,
dù là trực tiếp hay gián tiếp, đều được bãi bỏ ngay từ khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nguồn: Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
Bình quân chung và theo ngành
Cam kết Mức cắt giảm thuế WTO của chung tại Vòng Uruguay Trung Quốc Nước phát Nước đang
Mức giảm so với thuế MFN hiện hành (%)
Thuế suất cam kết vào cuối lộ trình (%)
Thuế suất cam kết khi gia nhập WTO (%)
Thuế suất MFN hiện hành (%)
112
Bảng 1: Mức thuế bình quân cam kết hàng công nghiệp
triển
phát triển
Hàng công
16,6
16,1
12,6
23,9
9,6
giảm 37% giảm 24%
nghiệp
Ngoài ra, cam kết trong lĩnh vực công nghiệp còn liên quan đến nội
dung về quyền kinh doanh đối với các doanh nghiệp, cá nhân (kể cả các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Theo các nội dung cam kết, Việt
Nam sẽ giành quyền kinh doanh đầy đủ cho các đối tượng nêu trên không
muộn hơn 1/1/2007, ngoại trừ một số sản phẩm do Nhà nước quản lý. Riêng
với quyền nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu, Việt Nam cam kết sau khi hết
thời gian chuyển đổi (tới 1/1/2009), quyền này mới được thực thi. Đối với
xuất khẩu gạo, thời hạn chuyển đổi là 1/1/2011. Quyền kinh doanh đầy đủ bao
gồm quyền được bán sản phẩm nhập khẩu cho mọi cá nhân hoặc doanh
nghiệp có quyền phân phối sản phẩm đó tại Việt Nam. Các cam kết về quyền
kinh doanh sẽ áp dụng cho tất cả các thành viên của WTO trên cơ sở nguyên
tắc đối xử quốc gia.
Về cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu, tuỳ loại hàng hoá mà các cam kết
cắt giảm và thời gian thực hiện khác nhau. Riêng với Dệt may, cam kết của
Việt Nam sẽ thực hiện ngay khi gia nhập. Tuy nhiên, trên thực tế, mức cắt giảm
nêu trên đã được thực hiện trong cam kết song phương với Hoa Kỳ và EU.
3. Tác động gia nhập WTO đến công nghiệp Việt Nam
3.1.Những tác động chung
Xuất phát từ những thành tựu, hạn chế của công nghiệp Việt Nam, trên
cơ sở kết quả ban đầu sau gần một năm gia nhập WTO, những tác động đối
với ngành công nghiệp chưa rõ ràng, chủ yếu mang tính xu hướng. Những số
liệu thống kê chưa cho phép rút ra những kết luận dài hạn, do đó, những đánh
giá ban đầu đối với ngành công nghiệp chủ yếu dựa trên những cam kết gia
nhập và hiện trạng ngành.
Những tác động tích cực
- Tác động tới xuất khẩu hàng công nghiệp: Khả năng tiếp cận thị
113
trường của các sản phẩm công nghiệp sẽ thuận lợi hơn so với trước khi gia
nhập vì các chính sách và ưu đãi được dành cho tất cả các thành viên. Bên
cạnh xu hướng gia tăng tỷ trọng xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng nhằm đáp
ứng nhu cầu đa dạng của các khu vực khác nhau cũng sẽ là một xu hướng đối
với các doanh nghiệp công nghiệp.
- Thu hút đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ: Với những cam
kết mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan, xoá bỏ trợ cấp, các doanh nghiệp
công nghiệp nước ngoài sẽ tìm thấy những tiềm năng và cơ hội tại thị trường
Việt Nam. Do đó, ngành công nghiệp nội địa có điều kiện thu hút vốn đầu tư
vào các lĩnh vực công nghệ cao, từng bước chuyển dịch cơ cấu ngành và tiếp
cận công nghệ mới. Doanh nghiệp công nghiệp sẽ có môi trường và điều kiện
để làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao, đặc biệt là của
các nền kinh tế công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản. Nhờ tiếp cận
những những công nghệ tiên tiến và hiện đại này, các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam có thêm điều kiện đổi mới sản xuất, mở rộng liên doanh,
liên kết, nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí về nhân công và nguyên liệu,
rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, cho ra đời những sản phẩm đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe về chất lượng, mẫu mã của các nước nhập khẩu.
- Việc tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới, tiên tiến của
thế giới góp phần nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp
Việt Nam; có thêm cơ hội nâng cao tay nghề cho công nhân lao động, tiếp thu
và nâng cao kinh nghiệm quản lý điều hành sản xuất công nghiệp.
- Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn bằng các hình thức hợp tác,
liên doanh, hợp đồng thực hiện .... Qua đó, các doanh nghiệp công nghiệp
Việt Nam có thêm cơ hội tiếp cận các nguồn vốn mới, bảo đảm thúc đẩy quá
trình phát triển doanh nghiệp cả về quy mô và chiều sâu.
- Trong giai đoạn đầu, các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao
động sẽ có cơ hội phát triển mạnh. Nhiều dự báo cho rằng, ngành dệt may sẽ
chịu tác động tiêu cực do phải cạnh tranh với các thị trường xuất khẩu lớn như
Trung Quốc. Tuy nhiên, kết quả của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
cho thấy, tăng trưởng của những ngành sử dụng nhiều lao động của Việt Nam
114
vẫn rất cao, mặc dù đó cũng là những ngành có thế mạnh của Trung Quốc.
Sự phát triển mạnh của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động
thể hiện trên cả tỷ lệ tăng trưởng sản lượng của sản phẩm và tỷ lệ lao động
trong ngành. Sau 5 năm thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tỷ
lệ tăng trưởng sản lượng của các sản phẩm sử dụng nhiều lao động từ 15,9%
giai đoạn 2000-2001 lên tới 22,7% giai đoạn 2002-2005. Như vậy, nếu dẫn chiếu thị trường Hoa Kỳ như một trong 150 thành viên WTO8 có thể thấy, kỳ
vọng và xu hướng của công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động sẽ tăng trưởng
nhanh trong thời gian tới.
- Việc làm trong ngành công nghiệp tăng mạnh. Do xu hướng tăng qui
mô và sản lượng của các ngành sử dụng nhiều lao động kéo theo tăng trưởng
việc làm trong ngành này. Đây là xu hướng tích cực trong bối cảnh thất
nghiệp đang chiếm tỷ trọng lớn, đồng thời phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành theo hướng khai thác lợi thế so sánh tương quan9.
- Thúc đẩy thay đổi cấu trúc sở hữu ngành: Số lượng doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia xuất khẩu sản phẩm
công nghiệp tăng nhanh, đồng thời khối DNNN và hộ gia đình giảm mạnh
trong giai đoạn 1995-2005. Số lượng các DNNN giảm mạnh cho thấy những
kết quả của các biện pháp tái cơ cấu khu vực này trong thời gian qua. Sự gia
tăng của các doanh nghiệp tư nhân trong sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu
cho thấy động lực thúc đẩy ban đầu là Luật Doanh nghiệp với việc tạo điều
kiện thuận lợi, giảm chi phí, tạo lập môi trường bình đẳng cho các doanh
nghiệp tư nhân. Sự gia tăng mạnh của các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu
còn cho thấy năng lực cạnh tranh của khối này cao hơn so với khối DNNN và
hộ gia đình.
Kết quả khảo sát, đánh giá sau 5 năm thực hiện Hiệp định thương mại
Việt Nam - Hoa Kỳ cho thấy, khối doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, các DNNN và hộ gia đình giảm đáng kể
115
8 Đây chỉ là trường hợp giả định vì các thành viên WTO không giống nhau về qui mô thị trường, nhu cầu nhập khẩu .... và Hoa Kỳ luôn là thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam. 9 Trong giai đoạn đầu, công nghiệp Việt Nam chuyển mạnh sang các ngành có sử dụng nhiều lao động sẽ phát huy được lợi thế do nguồn lực này dồi dào, giá rẻ trong tương quan so sánh với nguồn vốn và đất đai.
trong danh sách doanh nghiệp xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Loại trừ những yếu tố
như cải cách khu vực DNNN, tạo môi trường thuận lợi như ban hành Luật
Doanh nghiệp ... , điều này cho thấy xu hướng thay đổi cấu trúc sở hữu ngành
theo hướng chuyển động lực tăng trưởng sang khối doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những tác động tiêu cực
- Giảm đáng kể mức độ bảo hộ của Nhà nước và gia tăng sức ép cạnh
tranh đối với sản xuất công nghiệp trong nước. Theo đó, một số doanh nghiệp
công nghệ lạc hậu, qui mô nhỏ, sức cạnh tranh thấp ... sẽ có nguy cơ phá sản
hoặc sáp nhập, trở thành những khâu, mắt xích trong qui trình sản xuất của
các tập đoàn công nghiệp nước ngoài.
- Các quy định nghiêm ngặt của WTO như các quy định về thương mại
hàng hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ. ... đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tuân thủ nghiêm túc, sản phẩm đạt chất lượng đồng đều. Trong
thời gian đầu, các nguy cơ bị kiện hoàn toàn có thể xảy ra nếu một bộ phận
các doanh nghiệp công nghiệp không thay đổi cách thức sản xuất kinh doanh
kiểu cũ.
- Chưa hiểu biết đầy đủ pháp luật và tập quán của quốc tế và của từng
nước đối tác thành viên WTO; thiếu thông tin về các tiêu chuẩn quốc tế, cách
thức tiếp cận thị trường, các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh ở
ngoài nước nên trong cạnh tranh, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều vấp
váp.
Hộp 2: Doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được cơ hội
Bộ Thương mại vừa đưa ra con số khiến những ai quan tâm tới con đường hội nhập quốc tế của doanh nghiệp Việt phải giật mình. Đó là chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) mẫu D, đồng nghĩa với việc chỉ khoảng 8% doanh nghiệp Việt Nam sử dụng những ưu đãi trong thương mại nội vùng.
Việt Nam tham gia ASEAN từ năm 1995, tham gia CEPT/AFTA (Chương trình Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung/Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN) từ năm 1996. ASEAN là tổ chức quốc tế đầu tiên Việt Nam gia nhập, là những bạn hàng quen thuộc và dễ tiếp xúc nhất, với hơn 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới bên ngoài.
Ngoài con số 8% nói trên, các cơ quan nhà nước nghĩ gì về con số 312 triệu USD
116
kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam sang các nước ASEAN hưởng ưu đãi thuế bằng sử dụng C/O mẫu D trong năm 2006 cũng do Bộ Thương mại vừa công bố?
312 triệu USD tương đương khoảng 4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN năm 2006. Hiện nay ở hầu hết các nước ASEAN, mức thuế ưu đãi 0-5% được áp dụng phổ biến tới 98% số dòng thuế, có nước như Singapore còn áp dụng thuế suất 0% đối với 100% hàng hóa có xuất xứ ASEAN.
Vậy mà sau 12 năm tham gia ASEAN, tới nay chúng ta mới chỉ tận dụng được ưu
đãi cho 4% kim ngạch xuất khẩu của mình!
Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn
- Mặc dù tiềm năng và cơ hội thu hút vốn rất lớn đối với doanh nghiệp
công nghiệp, nhưng hiện tại, khối các doanh nghiệp này đang trong tình trạng
thiếu vốn, công nghệ không cao, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp ... sẽ là
những thách thức thực sự. Sự tác động của WTO sẽ thu hẹp thị phần, mất cơ
hội phát triển của các doanh nghiệp này ngay trong giai đoạn chuyển tiếp (5-7
năm đầu tiên sau gia nhập).
- Tác động xấu đến cơ cấu nội bộ ngành: Xuất phát từ cơ cấu ngành với
công nghiệp lắp ráp là chủ yếu, công nghiệp chế tạo chưa phát triển, chưa sản
xuất được các sản phẩm công nghiệp đòi hỏi dây chuyền công nghệ cao với
vốn đầu tư lớn, khi mở cửa thị trường, các doanh nghiệp công nghiệp nước
ngoài sẽ cung ứng hàng hoá, sản phẩm đầu vào và tiếp cận những lĩnh vực có
giá trị gia tăng cao. Do đó, chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành sẽ bị tác động
mạnh theo sức ép gia nhập, theo nhu cầu thị trường và có thể lệch chuẩn đổi
với định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đang được xây dựng trong chiến
lược phát triển công nghiệp.
3.2. Tác động tới một số lĩnh vực công nghiệp chủ yếu
- Dệt may10: Là ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, có một số
lợi thế như nguồn lao động trẻ dồi dào, giá nhân công rẻ, khả năng tiếp thu
nhanh; điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho phát triển nguyên liệu tự nhiên;
hạ tầng kỹ thuật khá hiện đại và được chú trọng đầu tư phát triển; trình độ đạt
yêu cầu quốc tế và đã làm quen với những thị trường khắt khe như Mỹ, EU.
117
10 Những điều kiện, hiện trạng, phương thức xuất khẩu, lợi thế .... của công nghiệp dệt may và công nghiệp da giầy có nhiều nét tương đồng. Do đó đề tài không phân tích ngành da giầy, chỉ phân tích ngành dệt may như một đại diện của ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, kim ngạch lớn và nhiều tiềm năng.
Bên cạnh đó, ngành dệt may bộc lộ một số hạn chế như năng suất lao động
thấp; thực hiện gia công cho các hãng lớn là chính, do đó giá trị gia tăng chưa
cao, chưa xây dựng được thương hiệu cho sản phẩm; công nghiệp phụ trợ
kém phát triển, hầu hết phải nhập; công nghệ ngành dệt lạc hậu. Những khâu
trong ngành dệt may mang lại giá trị gia tăng cao thì của Việt Nam lại kém,
chẳng hạn như khâu thiết kế trong chuỗi giá trị sản phẩm may mặc.
+ Gia nhập WTO tác động đến năng lực và qui mô toàn ngành thông
qua việc khai thác thị trường tiềm năng. Với thị trường rộng lớn, năng lực sản
xuất không phải là điều đáng quan tâm mà vấn đề là ở năng lực cạnh tranh
của sản phẩm. Thị trường rộng với nhiều nhu cầu khác nhau giúp cho các
doanh nghiệp đa dạng hoá sản phẩm, tránh tình trạng nhiều doanh nghiệp
trong nước cùng sản xuất một loại sản phẩm, cùng xuất khẩu vào một thị
trường ... dẫn đến cạnh tranh nội bộ. Việc mở rộng thị trường còn đảm bảo
tính ổn định trong sản xuất và xuất khẩu bởi các doanh nghiệp không phải lệ
thuộc vào một vài thị trường nhất định.
Riêng Hoa Kỳ - thị trường chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may của Việt Nam đã bãi bỏ hạn ngạch tính từ tháng 1/2007. Dù chưa có
số liệu thống kê chính thức, nhưng kỳ vọng tỷ lệ tăng kim ngạch vào thị
trường này đến năm 2010 tăng khoảng 20-30%/năm là hoàn toàn có thể.
Để thấy rõ hơn tác động của WTO đến dệt may, phân tích trường hợp
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ cho thấy: Trước khi hiệp định
được ký kết, tăng trưởng kim ngạch dệt may sang Hoa Kỳ đạt 2%/năm trong
giai đoạn 2000-2001. Ngay sau khi ký kết, tỷ lệ ngày là 1.764%, tăng gấp gần
900 lần. Mức tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đối với thị
trường Hoa Kỳ có thể dự báo được dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia
tương đồng (có năng lực cạnh tranh, năng lực sản xuất, xuất khẩu trong cùng
nhóm với Việt Nam) sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ hạn ngạch vào 1/1/2005.
Hơn nữa, dệt may Việt Nam đã từng bước làm quen trong tiến trình hội
nhập qua AFTA, BTA, trong đó, các qui định của BTA gần giống với các qui
118
định của WTO và kết quả của ngành vẫn rất khả quan. Điều này cho thấy nỗ
lực nội tại của ngành, tiềm năng phát triển cũng như khả năng thích ứng của
ngành dệt may khá tốt trong các điều kiện các nhau.
Tăng trưởng dệt may đều đặn và liên tục trong giai đoạn 2002 - 2007
trong bối cảnh các quốc gia xuất khẩu hàng dệt may có thế mạnh như Trung
Quốc, Ấn Độ, Indonesia ... được xoá bỏ hạn ngạch (từ 1/1/2005) cho thấy
những kỳ vọng lạc quan sau khi gia nhập WTO. Thực tế cho thấy xuất khẩu
hàng dệt may tăng mạnh trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 7,8 tỷ
USD, đứng đầu trong các mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, lợi nhuận ngành
này mang lại vẫn thấp do chủ yếu là gia công và phải nhập nguyên vật liệu.
+ Cam kết bãi bỏ trợ cấp ngay sau khi gia nhập WTO cũng có những
tác động không nhỏ đến ngành dệt may. Theo đó, Việt Nam sẽ xoá bỏ toàn bộ
các trợ cấp bị cấm (tức là các trợ cấp căn cứ vào thành tích xuất khẩu hoặc
khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay thế nhập khẩu) dành cho ngành
dệt may, bao gồm các trợ cấp dưới hình thức ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí
xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nước, ưu
đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, trợ cấp khuyến khích xuất khẩu dựa trên thành tích xuất
khẩu và trợ cấp xúc tiến thương mại dựa trên thành tích xuất khẩu.
Theo đánh giá của chuyên gia Fred Bucker, đại diện hãng Luật Baker
& McKenzie, việc xoá bỏ trợ cấp theo cam kết của WTO chắc chắn sẽ có
nhiều ngành công nghiệp chủ chốt, đặc biệt là dệt may của Việt Nam gặp khó khăn11. Tuy nhiên, nhìn lại những ưu đãi về trợ cấp của Chính phủ đối với dệt
may trong thời gian qua có thể thấy, mỗi năm ngành này chỉ được cấp tín
dụng ưu đãi khoảng 5 triệu USD và bổ sung vốn lưu động khoảng 1 triệu
USD, đáp ứng khoảng gần 4% nhu cầu toàn ngành. Với tỷ trọng như trên, nếu
bãi bỏ các trợ cấp sẽ không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất, kinh
doanh, xuất khẩu ngành dệt may trong thời gian tới.
119
11 Tạp chí Nhịp cầu, 7/2006.
+ Cam kết mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan12 với nguy cơ sản
phẩm dệt may Việt Nam sẽ mất dần thị trường trong nước được một số chuyên gia cảnh báo13 có thể sẽ không xảy ra. Về lý thuyết, cơ hội cho các thị
trường là như nhau và như vậy, sức ép cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam sẽ
gia tăng. Tuy nhiên, đây là ngành có thế mạnh của Việt Nam, các nhà xuất
khẩu nước ngoài sẽ không chuyển hướng xuất khẩu sang một thị trường có
nhiều thế mạnh, năng lực cạnh tranh khá cao và có đông đảo các nhà cung cấp
trong nước. Do vậy, thị trường sẽ phân khúc với nhóm sản phẩm cạnh tranh
cao là những hàng cao cấp của các hãng nổi tiếng, có thương hiệu trên thị
trường quốc tế; đối với các mặt hàng khác, thị trường nội địa sẽ ít chịu ảnh
hưởng của các hãng nước ngoài.
Bức tranh chung đối với công nghiệp dệt may với nhiều gam màu sáng,
những tác động tích cực là chủ đạo.
- Công nghiệp lắp ráp: Công nghiệp lắp ráp thời gian qua tăng trưởng
nhanh, tạo nhiều việc làm mới và đóng góp quan trọng trong tăng trưởng
chung. Tuy vậy, lắp ráp chủ yếu từ các linh kiện, cụm chi tiết nhập khẩu từ
nước ngoài, phần linh kiện sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ rất nhỏ, đơn giản,
giá trị thấp trong cơ cấu sản phẩm. Hầu hết các doanh nghiệp tham gia ngành
này là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (năm 2004, chiếm 91,5% tổng
sản lượng toàn ngành). Thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp lắp ráp chủ yếu
ở nội địa (trừ một số hàng điện tử và xe máy), được hưởng chế độ bảo hộ sản
xuất trong nước.
Trước khi gia nhập WTO, mặt hàng điện gia dụng, điện tử của Việt Nam có sức cạnh tranh yếu hơn hàng Trung Quốc14. Trong thị trường nội địa,
mặt hàng này vẫn chiếm thị phần lớn do chế độ bảo hộ bằng thuế quan (thuế
120
12 Toàn bộ thuế nhập khẩu hiện nay (đối với sản phẩm may mặc là 50%, sản phẩm sợi là 20% và sản phẩm vải là 40%) sẽ phải giảm xuống mức thấp, khoảng từ 10-15%, là mức chung của các thành viên WTO. Như vậy, sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng dệt may nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa. 13 Tài liệu hội nhập kinh tế quốc tế của Hà Nội. 14 Khi Trung Quốc gia nhập WTO, hàng điện gia dụng, điện tử của Việt Nam hầu như không thâm nhập được vào thị trường rộng lớn này. Ngược lại, các sản phẩm của Trung Quốc vẫn tràn vào Việt Nam qua nhiều con đường tiểu ngạch, buôn lậu, thậm chí cả chính thức nhưng vẫn có sức cạnh tranh cao hơn vì giá thấp hơn và mẫu mã đa dạng.
suất nhập khẩu từ 40-50%). Do đó, nếu cắt giảm thuế suất nhập khẩu, mặt
hàng này có nguy cơ mất thị phần ngay tại thị trường trong nước.
Công nghiệp lắp ráp ô tô thời gian qua phát triển mạnh nhưng tiêu
chuẩn chất lượng đang là vấn đề nổi cộm. Theo kết quả kiểm tra của Bộ Công
nghiệp tại 36 doanh nghiệp lắp ráp ô tô cho thấy, chỉ 10 doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn; thiết bị dây chuyền chủ yếu được nhập từ Trung Quốc, chất lượng thấp.
Với hiện trạng trên, ngành công nghiệp ô tô sẽ phải chịu tác động nhiều nhất.
Có thể sẽ chỉ còn lại một số rất ít liên doanh sản xuất ôtô tiếp tục trụ lại và phát
triển được, trong khi hầu hết các doanh nghiệp nội địa sẽ bị phá sản, hoặc phải
chuyển sang sản xuất phụ tùng vì ngành công nghiệp ôtô vẫn cần mua một
phần phụ tùng sản xuất trong nước vì lý do giá thành, thời gian giao nhận. Các
liên doanh lắp ráp cũng sẽ chịu tác động mạnh từ làn sóng nhập khẩu với các
sản phẩm có sức cạnh tranh cao về giá, về mẫu mã và chất lượng.
Khi mà các doanh nghiệp lắp ráp trình độ thấp và trung bình có thể mất
thị phần, các hãng lớn tiếp tục quan tâm và đầu tư vào thị trường Việt Nam bởi riêng thị trường nội địa có sức tiêu thụ rất lớn15. Do đó, công nghiệp ô tô
tiếp tục phát triển mạnh nhưng theo cách thức khác: doanh nghiệp nước
ngoài, các hãng ô tô lớn mở chi nhánh thay vì các doanh nghiệp lắp ráp như
hiện nay. Cùng với nó, công nghiệp phụ trợ có cơ hội phát triển nhằm tận
dụng lợi thế so sánh về nguồn nhân lực và hạ giá thành vận chuyển.
- Công nghiệp chế biến: Nhìn chung, công nghiệp chế biến của Việt
Nam vừa lạc hậu về công nghệ, vừa nhỏ lẻ về quy mô trong tất cả các lĩnh
vực: chế biến nông sản, chế biến thuỷ sản và chế biến khác.
Tác động rõ rệt khi gia nhập WTO là những thay đổi “về chất” trong
ngành công nghiệp chế biến, các sản phẩm sơ chế, mang lại giá trị gia tăng
thấp sẽ dần được thay thế bằng các phương pháp chế biến sâu, hiện đại, đáp
ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường khó tính. Trong phân khúc thị trường,
công nghiệp sơ chế vẫn tồn tại trong ngắn hạn, gắn với vùng nguyên liệu tập
trung và hướng tới một nhóm khách hàng trong nước.
121
15 Các nhà phân tích thị trường tính toán, trong giai đoạn 5 năm tới, riêng nhu cầu ô thay thế cho xe công nông đã chiếm khoảng 75.000 chiếc; thay thế xe bus chiếm 32.000 chiếc.
4. Một số giải pháp
Công nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng cả về qui mô, năng lực
sản xuất, kim ngạch xuất khẩu và giá trị sản lượng sau WTO với những thế
mạnh về gia công và khai thác. Tuy vậy, để công nghiệp mang lại giá trị gia
tăng cao hơn, chuyển dịch từ gia công lắp ráp sang những lĩnh vực có hàm
lượng công nghệ cao, trước hết cần xác định chiến lược phát triển ngành, theo
đó, cần tập trung vào các biện pháp pháp gia tăng giá trị trong ngành có lợi
thế, sử dụng nhiều lao động, đồng thời thúc đẩy phát triển công nghiệp có
trình độ công nghệ cao.
4.1. Điều chỉnh cơ cấu công nghiệp
Đẩy mạnh quá trình đổi mới, sắp xếp hợp lý hoá, xây dựng cơ cấu
ngành công nghiệp linh hoạt, có hiệu quả trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh
và tạo lập lợi thế so sánh mới phù hợp với yêu cầu phát triển. Lựa chọn cơ cấu
ngành công nghiệp theo hướng giảm dần quy mô các ngành công nghiệp khai
thác tài nguyên, nhất là khai thác các loại tài nguyên không thể tái tạo; Phân
bố doanh nghiệp công nghiệp gắn với chiến lược phát triển chung và qui
hoạch ngành. Điều chỉnh trên cả 3 nội dung: cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần,
cơ cấu vùng. Phân loại nhóm ngành tuỳ thuộc vào năng lực cạnh tranh và khả
năng tác động sau gia nhập WTO để lựa chọn giải pháp phù hợp:
- Ngành dệt may:
+ Thực hiện các biện pháp nhằm tăng thêm giá trị gia tăng trong sản
phẩm bằng cách phát triển công nghiệp cung cấp nguyên liệu trong nước, hạn
chế nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào mà Việt Nam có thể cung cấp được
như bông, vải, phụ liệu. Phát triển công nghiệp đầu vào cho dệt may cần chú
ý đến năng lực cạnh tranh và chất lượng sản phẩm khi so sánh với các nguyên
liệu ngoại nhập.
+ Đầu tư phát triển các khâu tạo giá trị gia tăng cho dệt may như thiết
kế, tiếp thị... Khi hình ảnh và thương hiệu của sản phẩm Việt Nam đã định vị
được trên thị trường, giá trị gia tăng mang lại trên mỗi đơn vị sản phẩm sẽ lớn
122
hơn rất nhiều so với việc gia công theo đơn đặt hàng hiện nay.
+ Kết hợp qui hoạch ngành dệt may với qui hoạch vùng và lãnh thổ.
Thực tế cho thấy, giai đoạn vừa qua công nghiệp dệt may tập trung ở các
trung tâm lớn (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai...) và rất thuận lợi trong
thu hút lao động. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một số tỉnh phát triển ngành
công nghiệp này cho thấy lợi thế về giá cả sinh hoạt, chỗ ở, giá nhân công rẻ
... nên có ưu thế. Do đó, các thành phố lớn nên tập trung đầu tư cho các khâu
dịch vụ, quảng cáo, thiết kế ... và các nhà máy nên dịch chuyển đến những
vùng lân cận.
- Công nghiệp chế biến:
+ Có những biện pháp khuyến khích với các nhà đầu tư nước ngoài vào
lĩnh vực này vì chịu nhiều rủi ro của thời tiết, tính mùa vụ của nguyên liệu và
thị trường không ổn định.
+ Hình thành những vùng chuyên canh, ứng dụng thành tựu công nghệ
vào sản xuất nhằm tạo các sản phẩm đầu ra có chất lượng đồng đều. Đây cũng
là những căn cứ để thu hút đầu tư vào công nghiệp chế biến. Ngoài ra, cần tạo
mối liên kết gắn bó trong qui trình sản xuất nguyên liệu - công nghiệp chế
biến - tiêu thụ sản phẩm sau chế biến.
+ Đổi mới công nghệ chế biến đã lạc hậu bằng các công nghệ tiên tiến,
gắn vùng nguyên liệu với qui mô đầu tư vừa phải (dễ thay mới khi công nghệ
thay đổi).
- Công nghiệp lắp ráp:
+ Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là ngành có trình độ công
nghệ cao, do đó thu hút thành công những dự án lớn, công nghệ hiện đại là lựa
chọn phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, đào tạo nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu phát triển sẽ tạo tiền đề để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Tạo điều kiện cho những dự án đã đầu tư ở Việt Nam, nhất là các dự
án lớn, trình độ công nghệ cao như Intel, Microsoft ... qua đó tạo tiền lệ tốt
đối với các tập đoàn lớn thông qua tác động lan toả. Các doanh nghiệp qui mô
lớn, trình độ công nghệ cao quyết định đầu tư sẽ kéo theo chuỗi các nhà cung
123
ứng (công nghiệp phụ trợ) và dịch vụ tương thích đi kèm.
+ Để công nghiệp lắp ráp trong nước dần tiếp cận với công nghệ, trình
độ quản lý hiện đại, trong ngắn hạn, có thể phát triển các liên doanh thay thế
hàng nhập khẩu. Giai đoạn tiếp theo sẽ đẩy mạnh sản xuất theo chiều sâu,
hướng tới các thị trường xuất khẩu.
4.2. Huy động và sử dụng vốn
Nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp và xây dựng tới 2010 và giai
đoạn 2010 - 2020 rất lớn16, đòi hỏi phải có những biện pháp phù hợp:
- Với vốn ngân sách: Điều chỉnh luồng vốn theo hướng ưu tiên đầu tư
cho hạ tầng công nghiệp. Để nguồn vốn này phát huy hiệu quả, các công việc
đi kèm cần chuẩn bị kỹ lưỡng như rà soát qui hoạch, tăng cường công tác
giám sát đầu tư, thanh tra, kiểm tra các công trình, dự án đầu tư.
Xác định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước về vốn đầu tư, tăng cường
phân cấp quản lý và trách nhiệm của người đứng đầu. Gắn trách nhiệm cá
nhân với từng khâu ra quyết định trong quá trình đầu tư theo nguyên tắc mỗi
khâu đều có một cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm đến cùng.
- Với vốn ngân hàng: Giao quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại
nhà nước trong các quyết định cho vay đầu tư và trách nhiệm bảo toàn vốn.
Kiên quyết không để tình trạng nợ xấu phát sinh, vừa “mất điểm” trong lĩnh
vực đầu tư ngân hàng đối với các nhà đầu tư nước ngoài, vừa kém hiệu quả
trong các dự án đầu tư theo “mệnh lệnh”.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Xây dựng chiến lược thu hút đầu tư
nước ngoài, ưu tiên các hướng đầu tư cho công nghiệp phụ trợ, công nghiệp
trình độ cao. Từ bỏ các dự án công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường hoặc tác
động xấu đến phát triển bền vững.
- Huy động vốn từ dân cư: Phát triển và lành mạnh hoá thị trường
chứng khoán theo hướng gắn giá trị cổ phiếu với kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Trước mắt, tiếp tục cổ phần hoá các doanh nghiệp hoạt
124
động hiệu quả, tăng cung trên thị trường và qui định chặt chẽ hơn các điều 16 Theo tính toán của Bộ Công nghiệp, nhu cầu vốn đầu tư cho công nghiệp và xây dựng giai đoạn 2006-2010 khoảng 825-874 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 44% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng khoảng 1,8 lần giai đoạn 2001-2005. Nguồn: Báo cáo của Bộ Công nghiệp.
kiện phát hành cổ phiếu. Ngoài ra, sàn giao dịch chứng khoán cần xây dựng
các điều kiện tối thiểu (qui mô, kết quả hoạt động, khả năng thanh khoản các
giao dịch sơ cấp...) mới cho tham gia lên sàn.
4.3. Nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp
- Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học với hoạt động sản xuất của doanh
nghiệp (bằng hình thức tài trợ, kết hợp giữa doanh nghiệp với tổ chức nghiên
cứu hoặc phối hợp giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước về khoa
học công nghệ các cấp).
- Thay đổi cách đánh giá tiêu chí khoa học theo hướng từ việc kê khai
số lượng công trình sang các kết quả đã được ứng dụng trong thực tiễn, nhất
là với khoa học thực nghiệm.
- Chuyển hướng đầu tư kinh phí cho khoa học công nghệ từ các chương
trình nghiên cứu theo thời gian (theo giai đoạn nhất định) sang nghiên cứu
theo vấn đề: vấn đề tiết kiệm năng lượng, vấn đề giảm thiểu ô nhiễm...
- Phát triển các chợ công nghệ tạo sự liên kết giữa các trung tâm nghiên
cứu với các doanh nghiệp và giữa các trung tâm với nhau.
- Tìm kiếm giải pháp phát triển trong các phân ngành hẹp như dệt may,
giày dép, thiết kế thời trang... bằng cách đặt hàng hoặc phối hợp nghiên cứu.
- Tăng thu hút các dự án trong những ngành, lĩnh vực hiện nay Việt
Nam còn yếu nhằm tranh thủ công nghệ, từng bước chuyển giao, tiếp thu
công nghệ mới.
4.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm
công nghiệp
- Đối với khu vực doanh nghiệp công nghiệp: (1) Kiên quyết thực hiện
các biện pháp cổ phần hoá theo phương án tổng thể đã được Thủ tướng phê
duyệt. Bộ chủ quản cũng cần rà soát lại những DNNN không nằm trong diện
sắp xếp, nhưng hoạt động kém hiệu quả hoặc nhà nước không cần nắm giữ để
lựa chọn các phương án tái cấu trúc; (2) Vận hành hiệu quả các tập đoàn kinh
125
tế ngành công nghiệp như Than - Khoáng sản, Điện lực, Dệt may, Dầu khí
theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi đơn vị thành viên và của
toàn tập đoàn; (3) Thúc đẩy phát triển mô hình công ty mẹ - công ty con trong
các doanh nghiệp ngành công nghiệp; (4) Xây dựng mối liên kết giữa các
doanh nghiệp lớn trong ngành công nghiệp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
tạo những vệ tinh cần thiết trong cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ
sản phẩm.
- Đối với sản phẩm công nghiệp: Bên cạnh những biện pháp nâng cao
chất lượng, hạ giá thành là việc đáp ứng các tiêu chuẩn khác nhau tuỳ thuộc
vào thị trường tiêu thụ. Đối với thị trường trong nước, hàng hoá đáp ứng tiêu
chuẩn Việt Nam (TCVN) nhưng với các thị trường khác, các bộ tiêu chuẩn có
nhiều khác biệt (ISO, SA 8000, HACCP...), do đó, mỗi doanh nghiệp cần lựa
chọn công nghệ sản xuất, qui trình quản lý ... phù hợp với mục tiêu, chiến
lược và thị trường của mình.
4.5. Đào tạo nguồn nhân lực
- Thay đổi cơ chế tài chính đối với các cơ sở đào tạo nghề theo hướng
tự hạch toán. Nguồn thu của các cơ sở đào tạo nghề là tiền đóng học phí và
các chương trình liên kết đào tạo giữa cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp
theo đơn đặt hàng.
- Các hiệp hội ngành nghề cần có qui hoạch nhằm xác định nhu cầu, số
lượng người và nghề cần đào tạo trong từng giai đoạn, trên cơ sở đó xây dựng
kế hoạch và liên kết với các cơ sở đào tạo để cung ứng nguồn nhân lực theo
yêu cầu.
- Gắn đào tạo với các khu công nghiệp tập trung, đồng thời qui hoạch đào tạo nghề cho các vùng nông thôn theo nhóm (nhóm thành lập doanh nghiệp; nhóm làm nghề; nhóm mới gia nhập thị trường lao động; nhóm cần đào tạo lại...).
4.6. Một số giải pháp khác
126
- Đổi mới quản lý nhà nước trong công nghiệp: Giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa Nhà nước với doanh nghiệp và thị trường; Hoạt động quản lý của Nhà nước cần được tiếp tục điều chỉnh theo hướng từ bỏ mọi biểu hiện
của sự tập quyền trong quản lý, xoá bỏ các chính sách bao cấp, sử dụng các quan hệ thị trường trong và ngoài nước để xây dựng phương án phân bố các
nguồn lực cho phát triển công nghiệp; Tôn trọng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh trên cơ sở tôn trọng luật pháp của Nhà nước, nâng cao khả năng thích ứng của doanh
nghiệp với các điều kiện của môi trường kinh doanh và sự biến động của thị trường trong và ngoài nước.
Đổi mới quản lý Nhà nước theo hướng phục vụ doanh nghiệp, thị trường, trong đó tạo môi trường thuận lợi, rõ ràng minh bạch và ổn định cho phát triển công nghiệp phải là chức năng quan trọng hàng đầu.
- Huy động tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp. Thực hiện phân bổ và sử dụng hợp lý nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước vào những chương trình trọng điểm về phát triển kết cấu hạ tầng và đào tạo
nguồn nhân lực trình độ cao. Đồng thời tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi huy động rộng rãi các nguồn đầu tư của toàn xã hội cho phát triển công nghiệp nói riêng, toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Áp dụng rộng rãi những phương pháp quản lý tiên tiến, áp dụng các giải pháp cần thiết để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất,
nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
127
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan tới lĩnh vực công nghiệp, tạo môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, lành mạnh cho các doanh nghiệp công nghiệp. Xây dựng các chính sách theo hướng bảo đảm tính minh bạch, ổn định và phù hợp với yêu cầu của WTO và các thông lệ quốc tế.
NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP
KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
ThS. Nguyễn Xuân Phi∗
1. Những tác động nhìn từ hiện trạng nông nghiệp Việt Nam
Những tác động nhìn từ hiện trạng nông nghiệp nằm trong mối tương
quan với việc thực hiện các cam kết, phụ thuộc vào chính sách của Việt Nam
cũng như nỗ lực phát triển của ngành. Xuất phát từ hiện trạng nông nghiệp
Việt Nam, những tác động mong đợi bao gồm:
* Những tác động tích cực
- Nông nghiệp nước ta sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu với
các hàng rào thương mại ngày càng hạ thấp. Nhiều sản phẩm nông nghiệp có
sức cạnh tranh của Việt Nam như gạo, tôm, hồ tiêu, điều ... sẽ có nhiều cơ hội
thâm nhập các thị trường mới, mở rộng hơn nữa ở các thị trường truyền
thống. Nếu chưa phải là thành viên WTO, một số nước có chính sách phân
biệt đối xử với hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam bằng việc sử dụng
hàng rào thuế và phi thuế nhằm hạn chế nhập khẩu, nhưng chúng ta không thể
khởi kiện lên WTO để đảm bảo quyền lợi của mình.
- Có thể tăng thị phần trong xuất khẩu nông sản thế giới: Sau vòng đàm
phán Uruguay, biên độ giảm thuế nông sản của các nước phát triển đạt trên
37% (một số sản phẩm như rau, hạt có dầu, hoa tươi .... giảm trên 40%), các
nước đang phát triển cơ bản cắt giảm đạt mục tiêu đã ký kết (24%). Bên cạnh
đó, số lượng cho phép nhập vào thị trường các quốc gia thành viên cũng tăng đáng kể17 (gia tăng hạn ngạch) đã làm cho không gian xuất khẩu rộng mở đối
với sản phẩm nông sản Việt Nam. Các hàng hóa nông sản nước ta có ưu thế
như gạo, cà phê, cao su, chè, điều, tiêu... sẽ gia nhập thị trường nông sản thế
giới có kim ngạch 559 tỷ USD/năm, nông dân sẽ có thêm điều kiện tiếp cận
128
nhiều thị trường, nắm bắt tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nông dân cũng dễ ∗ Uỷ ban nhân dân Thành phố Thanh Hoá 17 Gia tăng hạn ngạch sau vòng đàm phán Uruguay: Số lượng hạn ngạch thuế quan về tiểu ngạch tăng 807.000 tấn; gạo tăng 1,076 triệu tấn; Ngô tăng 1,065 triệu tấn; Chế phẩm từ sữa tăng 729.000 tấn; Dầu thực vật tăng 110.000 tấn.
dàng hơn trong việc lựa chọn định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh
về chất lượng và giá cả. Thị trường nông sản rộng mở, nhất là các mặt hàng
tôm, cua, cá; bưởi Năm Roi, Phúc Trạch, Tân Triều, Đoan Hùng, nhãn Hưng
Yên, xoài cát Hòa Lộc, vú sữa Lò Rèn, vải thiều Bắc Giang; nước dứa cô đặc,
nước ổi, nước cam, mơ...; măng chua, nấm rơm; thịt gà ta... có thêm cơ hội
thâm nhập vào thị trường quốc tế.
- Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng trong lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp,
sơ chế hoặc chế biến nông sản, mở mang những vùng đất hoang hóa, sản xuất
những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà họ đang có thị trường. Nhờ đó lao
động Việt Nam, nhất là lao động nông nghiệp sẽ có thêm công ăn việc làm;
người tiêu dùng Việt Nam sẽ mua được những sản phẩm vừa rẻ hơn, chất
lượng cao hơn. Nông dân nghèo canh tác ở các vùng khó khăn sẽ có cơ may
phát triển nhờ những giống mới do các công ty quốc tế chuyên áp dụng công
nghệ sinh học tạo ra.
- Thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu ngành: Tín hiệu từ thị trường và dự báo
của các cơ quan chức năng sẽ giúp người nông dân lựa chọn những giống cây,
con phù hợp, mang lại giá trị kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường.
- Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hoá sẽ đem lại cơ hội cho đổi mới
công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Sức ép của hàng hoá nông sản nhập khẩu đối với sản xuất và chế biến
nông sản trong nước ngày càng gia tăng, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất, người nông dân được tự do
lựa chọn tư liệu sản xuất nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ
thực vật, thức ăn chăn nuôi ...); trong tiêu dùng, người dân (với tư cách người
tiêu dùng) có cơ hội lựa chọn hàng hóa nông sản phong phú và có chất lượng
cao của thế giới.
- Có thể khai thác những ưu đãi của WTO dành cho các thành viên
đang phát triển như chưa phải đưa ra các cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu
hàng nông sản, không phải cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân....
129
* Những tác động tiêu cực
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta sẽ chịu nhiều tác động,
ảnh hưởng tới sự phát triển của nông nghiệp, đến kết cấu ổn định của nông
thôn và an ninh lương thực cho người nông dân, đặc biệt là nông dân nghèo.
- Các nước công nghiệp phát triển bảo hộ rất cao cho nông nghiệp,
trong khi nền nông nghiệp nước ta còn rất lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật
và cơ chế quản lý; chất lượng nông sản hàng hóa chưa cao cả về tiêu chuẩn kỹ
thuật, mỹ thuật và nhất là về vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó, sản
xuất manh mún, chưa có những vùng chuyên canh… dẫn đến lượng cung
hàng hoá không ổn định, khó đáp ứng những đơn đặt hàng khối lượng lớn. Về
lý thuyết, người sản xuất có thể tiếp cận dễ dàng với các giống cây con mới
nhưng trên thực tế, các hộ nghèo khó có thể thụ hưởng những thành tựu công
nghệ mới bởi giá cả đầu vào cao và không thể tùy tiện nhân giống (các công
ty nước ngoài giữ quyền tác giả). Trong khi đó, hàng hóa nông nghiệp Việt
Nam thường không có nhãn hiệu có uy tín quốc tế nên bán không được giá.
- Các sản phẩm hàng hóa như đường, ngô, súc sản của Việt Nam sẽ bị
đe doạ hơn cả bởi các mặt hàng này từ Mỹ và EU nhập khẩu vào Việt Nam và
được các chính phủ trợ cấp rất cao.
Hộp 1: Trợ cấp của một số Chính phủ
Nhiều sản phẩm mà Việt Nam đang cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu (như gạo) hay
sẽ nhập khẩu ngày càng nhiều (như ngô) được Chính phủ các nước giàu trợ cấp ở mức
độ cao cũng như được bảo hộ thông qua hàng rào thuế quan. Chính phủ Mỹ hàng năm
trợ cấp 10 tỷ USD cho các chủ trang trại trồng ngô, hay 3.6 tỷ USD cho trang trại sản xuất
gạo. Hay một con bò EU được trợ cấp 2.62 USD mỗi ngày, nhiều hơn thu nhập của nông
dân nghèo Việt Nam.
Nguồn: Lê Kim Dung (Điều phối viên chương trình Oxfam Anh) Http://www2.vietnamnet.vn/wto/2006/10/624566/+%22n%C3%B4ng+nghi%E1%BB%87p%22+%2 B+ h%E1%BA%ADu+wto&hl=vi&ct=clnk&cd=3&gl=vn
Các mặt hàng nông phẩm cũng bị đe doạ từ các thị trường khu vực như
Thái Lan. Có thể thấy một điều hiện nay giá hầu hết các nông sản Việt Nam
đều đắt hơn hàng nước ngoài mà chất lượng lại không bảo đảm. Giá thành sản
xuất hàng của ta thường cao hơn của người do tốn nhiều chi phí, trả nhiều lệ
phí, trả nhiều công gián tiếp. Trường hợp mặt hàng gạo: Thái Lan trồng lúa
130
mùa địa phương tuy năng suất chỉ đạt dưới 2,5 tấn/ha nhưng chất lượng khá
cao và đồng đều; chi phí sản xuất trên một đơn vị sản lượng thấp do tận dụng
điều kiện thiên, ít tốn phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, diệt cỏ; Việt Nam có
năng suất lúa cao sản ngắn ngày từ 4-6 tấn/ha nhưng chi phí sản xuất cao (tiền
bơm nước, phân, thuốc trừ sâu, làm cỏ, phòng trừ chuột).
- Sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản sẽ phải giải quyết các vấn đề khó khăn
về phế thải, dịch bệnh, thuốc, hoá chất sử dụng; nâng cao dân trí nông thôn ven
biển; giá nhiên liệu tăng cao... Việc thực hiện cam kết về Các biện pháp Vệ
sinh và Kiểm dịch động thực vật (SPS) tác động mạnh đến sản xuất và xuất
khẩu các mặt hàng này. Hiệp định này đòi hỏi sự hài hoà các tiêu chuẩn quốc
gia trong nông nghiệp và thuỷ hải sản, sẽ tác động trực tiếp đến người sản xuất
nghèo, qui mô nhỏ, nhất là vùng sâu, vùng xa trong một thời gian dài. Ngân hàng Thế giới ước tính chi phí thực thi một hiệp định là 100 triệu USD18 trong
khi nguồn lực của Chính phủ còn hạn chế sẽ là những áp lực lớn trong chi ngân
sách . Ngoài ra, ưu thế cạnh tranh bằng chi phí lao động thấp của các sản phẩm
nông nghiệp và thuỷ sản Việt Nam sẽ mất dần trong tương lai.
Hộp 2:Tác động tiêu cực khi gia nhập WTO
Có 3 khó khăn rất lớn mà bà con nông dân sẽ phải đối mặt. Một là, nông dân không phải muốn sản xuất cái gì cũng được, mà phải hướng đến sản xuất cái gì thị trường cần, bán có giá, có hiệu quả kinh tế. Do đó nông dân phải sản xuất theo tiêu chí thị trường chấp nhận. Hai là do tính cạnh tranh quyết liệt, nên chúng ta phải có quy trình chuẩn cho ra sản phẩm giá thành hạ năng suất tăng, chất lượng tăng và đặc biệt là bán được giá cao. Ba là marketing. Hiện nay marketing là khâu yếu nhất của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, làm sao để quảng bá thương hiệu, liên kết nông dân, tổ chức sản xuất ra được sản phẩm có uy tín trên thị trường có số lượng lớn.
Trong tiến trình hội nhập là cơ hội để sản phẩm nông sản Việt Nam tiếp cận nhiều thị trường trên thế giới. Đây cũng là cơ hội để nông dân tiếp cận những công nghệ mới của nhà đầu tư, bên cạnh những sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải liên tục đổi mới và nâng cao về chất lượng cải tiến công nghệ và giá cả cạnh tranh. Như vậy, lợi thế của nông dân là được lựa chọn nhiều mặt hàng giá rẻ, phù hợp với yêu cầu và điều kiện sản xuất làm thế nào nâng cao chất lượng, hạ được giá thành sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Có một thực tế là hiện nay trình độ sản xuất của bà con nông dân còn ở mức độ thấp, bộc lộ nhất là giống cây trồng, vật nuôi vẫn chưa kiểm dịch đầy đủ và cũng chưa kiểm soát nguồn gốc. Thứ hai là chưa kiểm soát tốt phân hóa học, phân bón. Thứ ba là công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hóa thương hiệu vẫn chưa đáp ứng theo chuẩn mực yêu cầu của quốc tế trong quá trình hội nhập. Thứ tư là quy mô sản
131
18 Theo VietnamNet.
xuất bình quân diện tích đất trên một nông hộ còn rất thấp khoảng 0,7- 1ha/hộ, vì vậy muốn sản xuất với quy mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó. Thứ năm là giá thành sản xuất vẫn còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ khi đưa sản phẩm ra thị trường...
Nguồn: Nguyễn Huyền http://vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id= 0da606ba6fa4ce&pageid=1446
2. Những tác động trong thực thi Hiệp định nông nghiệp của WTO
Từ cam kết và thực hiện cam kết trong tiến trình thực hiện Hiệp định
Nông nghiệp trong WTO, có thể nhận thấy một số tác động của việc gia nhập
WTO đối với hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của nước ta như sau:
Thứ nhất: Đảm bảo cho hàng nông sản Việt Nam có thị trường ổn
định. Các nước thành viên tuân theo Hiệp định Nông nghiệp, tức là duy trì
thuế nhập khẩu ưu đãi trong phạm vi hạn ngạch thuế quan, sẽ đảm bảo sự
thâm nhập hàng nông sản nước ta vào 149 thị trường còn lại, tạo đầu ra ổn
định. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là trên thực tế, một số nước phát triển chỉ
thực hiện các cam kết đối với nhóm sản phẩm chất lượng thấp (chủ yếu dùng
làm thức ăn chăn nuôi). Đối với nhóm sản phẩm có giá trị cao, cạnh tranh trực
tiếp với sản phẩm của họ thì các quốc gia đó thường bảo hộ bằng nhiều cách
khác nhau, trong đó phổ biến là hạn ngạch. Tuy nhiên, nhìn từ tiềm năng và
hiện trạng của nông nghiệp Việt Nam, đây chưa phải là vấn đề cấp bách và có
thể giải quyết trong thời gian dài. Tác động trước mắt đối với thị trường nông
sản là việc mở cửa thị trường, Việt Nam phải giảm thuế nhập khẩu và loại bỏ
một số trợ cấp sản xuất như Hiệp định nông nghiệp qui định. Do đó, hàng hoá
nông sản Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng hoá nông sản của các quốc
gia khác ngay trong chính thị trường nội địa: Chăn nuôi bò, lợn, gia cầm, sữa,
công nghiệp chế biến thực phẩm, mía đường là những ngành có sức cạnh
tranh kém, sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn ngay tại thị trường trong nước.
Thứ hai: Hạn chế tình trạng phân biệt đối xử trong thương mại nông
sản. Nguyên tắc mở cửa thị trường công khai trong Hiệp định Nông nghiệp phụ thuộc vào cách thức phân bổ hạn ngạch nhập khẩu tối thiểu19, và do vậy,
đã tạo ra một số các biện pháp điều tiết khối lượng xuất nhập khẩu sản phẩm
132
19 Thực chất việc quản lý những hạn ngạch tối thiểu là nhằm mục đích hợp pháp hóa vai trò của các doanh nghiệp nhà nước. Khi các doanh nghiệp nhà nước có được quyền bán sản phẩm trên thị trường nội địa, cộng với độc quyền xuất khẩu nông sản, họ có thể lựa chọn mức định giá, và có thể thay đổi giá của sản phẩm.
nông nghiệp mang tính phân biệt đối xử, như phân biệt đối xử về khối lượng,
phân biệt đối xử về giá. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu
hàng nông sản buộc chúng ta một mặt phải có hình thức đấu tranh, đàm phán
song phương, mặt khác phải tích cực tham gia trong tiến trình đàm phán đa
phương để loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử này. Gia nhập vào WTO cho
phép nước ta có tiếng nói để chống lại sự phân biệt đối xử đó.
Thứ ba: Tác động thúc đẩy nâng cao giá trị hàng nông phẩm. Hiệp
định chung về thuế quan ưu đãi qui định một số mặt hàng nông sản nhiệt đới
được miễn thuế nhập khẩu. Như vậy, những ưu đãi trong các hiệp định khác
nhau về hàng nông sản nhiệt đới sẽ tác động thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng
này. Hiệp định nông nghiệp cũng đưa ra các yêu cầu các thành viên phải đưa
ra mức thuế trần đối với sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến, và trong
nhiều trường hợp, sản phẩm chế biến có mức thuế suất thấp hơn các sản phẩm thô hoặc sơ chế20. Những cam kết trên tạo cơ hội để Việt Nam phát triển lĩnh
vực chế biến nông sản, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nông
nghiệp nhiệt đới dành cho xuất khẩu và tăng khả năng xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam.
Thứ tư: Tăng giá nông phẩm trên thế giới tác động đến kim ngạch
xuất khẩu nông sản Việt Nam. Mặc dù vòng đàm phán Đôha kết thúc không
như dự kiến và kỳ vọng ban đầu, nhưng nhìn chung, xu thế cắt giảm trợ cấp
(nhất là trợ cấp xuất khẩu) của các nước phát triển đối với nông nghiệp đang
chuyển biến theo hướng tích cực, nghiêm túc hơn. Điều này tác động làm tăng
giá nông sản thế giới, nhất là giá lương thực. Là quốc gia xuất khẩu nông sản
lớn, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ việc tăng giá trên thị trường thế giới, góp
phần tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản. Năm 2006, mặc dù một số sản
phẩm xuất khẩu có sự sụt giảm về lượng, nhưng do giá tăng, kim ngạch xuất
khẩu nông sản Việt Nam vẫn đạt mức cao. So với năm 2005, năm 2006 có
20 Trong trường hợp như cao su, đay, dầu thực vật, các loại gia vị, thuốc lá, gỗ, là một ví dụ điển hình, thuế quan đối với thành phẩm của các mặt hàng nói trên đã được giảm nhiều so với các sản phẩm chưa qua sơ chế hoặc bán thành phẩm.
133
một số mặt hàng nông sản tăng giá như gạo tăng 2,5%; cà phê tăng 49,2%;
cao su tăng 33,4%; hạt tiêu tăng 6,6% ... Tính chung năm 2006, do giá tăng
làm cho tổng kim ngạch tăng 8%, đóng góp khoảng 41,2% vào tổng mức tăng, tương đương gần 3 tỷ USD21.
Thứ năm: Tác động đến an ninh lương thực. Mặc dù Việt Nam là
nước trong nhóm dẫn đầu về xuất khẩu lương thực và các sản phẩm sơ chế
khác, nhưng lại là nước nhỏ, sản xuất manh mún, năng suất lao động thấp, thu
nhập theo đầu người không cao, trong khi đó khả năng nghiên cứu dự báo tình
hình sản xuất, giá cả, xuất khẩu hàng nông sản kém. Vì vậy, khi thực thi hiệp
định mở cửa thị trường, nếu không có chiến lược lâu dài, Việt Nam dễ bị tổn
hại nếu xảy ra những biến động về thị trường từ bên ngoài. Trường hợp xảy ra
sự giảm sút sản xuất lương thực trên thế giới, có thể có tác động mạnh đến dự
trữ lương thực và an ninh lương thực quốc gia.
Như vậy, nhìn từ các cam kết và thực hiện cam kết cho thấy, những tác
động nhiều chiều phụ thuộc vào năng lực của chính các chủ thể tham gia thị
trường và tính nghiêm túc trong thực thi các nội dung của hiệp định. Việt
Nam là nước có lợi thế về nông nghiệp, khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của
một số mặt hàng sẽ được tăng lên nếu như phần lớn trợ cấp cho nông nghiệp
của các nước phát triển bị bãi bỏ và các thành viên phải tuân thủ đúng yêu cầu
của Hiệp định Nông nghiệp.
3. Tác động của gia nhập WTO tới một số mặt hàng chủ yếu
- Gạo: Gạo và các sản phẩm từ gạo sẽ không chịu tác động nhiều từ các
hiệp định của WTO. Việt Nam vẫn giữ mức thuế suất 40% tại thời điểm gia
nhập. Hơn nữa, thế mạnh của gạo Việt Nam với giá rẻ, đa dạng về chủng loại
... sẽ vẫn giữ được thị phần nhất định ở thị trường trong nước. Đối với thị
trường xuất khẩu, với những hạn chế đã phân tích (chất lượng thấp, giá thành
so sánh quốc tế cao, qui trình chế biến chưa đạt chuẩn, chi phí vận chuyển,
bốc xếp ... trong xuất khẩu cao), trong thời gian trước mắt, gạo Việt Nam khó
có khả năng thâm nhập các thị trường khó tính. Tuy vậy, nhu cầu lương thực
thế giới tiếp tục tăng cao, thị trường mở rộng trong khi năng lực sản xuất
134
21 Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2006-2007, tr.16.
nông nghiệp của thế giới không đáp ứng kịp sẽ là cơ hội tốt để gạo nước ta
tiếp tục mở rộng thị phần.
Sự tác động của WTO đối với sản phẩm gạo của Việt Nam trong thời
gian tới chủ yếu từ Thái Lan. Tác động trong tương lai có thể xảy ra là thị
phần gạo của Thái Lan sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thị trường nội
địa Việt Nam do những ưu thế về giá và chất lượng. Sự cạnh tranh của gạo
Thái Lan với gạo Việt Nam chủ yếu diễn ra ở thị trường nội địa và các thị
trường một số nước phát triển, yêu cầu chất lượng cao. Đối với các thị trường
khác, sản lượng gạo của Thái Lan không đủ đáp ứng nhu cầu và cũng không
phải là định hướng chiến lược của quốc gia này. Do đó, đối với thị trường
“cao cấp”, gạo Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn; đối với thị trường “trung
bình và thấp cấp”, gạo Việt Nam sẽ tiếp tục giữ và mở rộng thị phần. Gạo
phẩm cấp cao của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh ngày càng gay gắt, gạo phẩm
cấp thấp, xuất khẩu phục vụ chăn nuôi sẽ cạnh tranh ít gay gắt hơn.
- Cà phê: Xuất khẩu thứ 2 thế giới (sau Braxin), cà phê Việt Nam ít
chịu sức ép cạnh tranh do phân khúc thị trường (cà phê Việt Nam với chất
lượng trung bình, có nhiều thị trường tiêu thụ ngay khi chưa gia nhập WTO).
Đối với cà phê sơ chế, hiện thị trường Việt Nam không nhập khẩu mặt hàng
này mà đang xuất khẩu mạnh. Như vậy, gia nhập WTO, mặt hàng cà phê sơ
chế sẽ không chịu sức ép cạnh tranh tại thị trường nội địa, ngược lại, sẽ có
nhiều cơ hội xuất khẩu sang các thị trường của các quốc gia thành viên. Tiến
trình cắt giảm thuế quan đối với mặt hàng này trong khuôn khổ WTO ngày
càng có lợi cho người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu bởi họ sẽ thu được
lợi nhuận cao hơn.
Đối với cà phê thành phẩm (cả hoà tan và không hoà tan), lịch trình cắt
giảm thuế từ 45% xuống 5% vào năm 2006 sẽ tác động trực tiếp đến các
doanh nghiệp chế biến trong nước, gián tiếp ảnh hưởng đến người trồng loại
hàng hoá này.
- Rau quả: Sản phẩm rau quả bao gồm rau quả tươi và rau quả qua chế
biến. Đối với rau quả tươi đặc trưng vùng nhiệt đới (hành, rau diếp) và một số
135
loại hoa (hoa hồng, phong lan), thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập là 0%
(mở cửa hoàn toàn). Đối với rau quả như su hào, bắp cải, súp lơ ...., mức thuế
suất cam kết tại thời điểm gia nhập từ 20-30%. Đối với rau quả khô và sản
phẩm qua chế biến, mức thuế suất cam kết khá cao (30-40% tại thời điểm gia
nhập) và lịch trình cắt giảm khoảng 50% thuế suất đến sau 2010. Như vậy,
mặt hàng rau quả ít chịu cạnh tranh ở thị trường nội địa (mặc dù một số sản
phẩm có mức thuế bằng 0) do thói quen tiêu dùng và tính đa dạng của các sản
phẩm trong nước. Trong ngắn hạn, rau quả tươi cùng chủng loại của các quốc
gia khó thâm nhập vào thị trường Việt Nam do chi phí cao, khó bảo quản;
trong dài hạn, một số sản phẩm rau quả cao cấp hoặc không sản xuất trong
nước sẽ có nhiều cơ hội ở thị trường trong nước. Đối với rau quả đã qua chế
biến, theo lịch trình cắt giảm thuế quan, sản phẩm của các nước sẽ tràn vào thị
trường Việt Nam vì năng lực cạnh tranh của ngành này khá thấp. Như vậy, cắt
giảm thuế quan sẽ chủ yếu tác động đến các sản phẩm rau quả đã qua chế
biến; đối với các sản phẩm rau quả tươi, tác động đối với sản xuất và tiêu thụ
trong nước không rõ rệt.
Đối với thị trường xuất khẩu: Sản phẩm rau quả tươi sẽ có nhiều cơ hội
tăng kim ngạch, mở rộng thị phần theo các cam kết đa phương. Tuy nhiên,
công nghệ chế biến sau thu hoạch, khả năng bảo quản kém đối với các sản
phẩm theo mùa vụ sẽ là những cản trở trong thời gian trước mắt. Đối với sản
phẩm rau quả qua chế biến, mặc dù nhu cầu thị trường thế giới khá cao nhưng
công nghệ chế biến thấp nên ngoài những mặt hàng thế mạnh (hồ tiêu, điều),
các sản phẩm nông sản Việt Nam khó có những đột biến (cả về số lượng và
kim ngạch xuất khẩu) trong thời gian trước mắt.
- Sản phẩm chăn nuôi: Sẽ chịu tác động mạnh khi gia nhập WTO.
Năng lực cạnh tranh trong chăn nuôi hiện tại rất thấp (thói quen sản xuất
truyền thống, năng suất thấp, giá thành cao, không đảm bảo an toàn vệ sinh
thực phẩm), do đó khi Việt Nam mở cửa thị trường sản phẩm chăn nuôi sẽ tác
động trực tiếp đến giá sản phẩm chăn nuôi trong nước, qua đó ảnh hưởng đến
những người sản xuất mặt hàng này. Thịt trâu, bò tươi, ướp lạnh theo cam kết
gia nhập WTO sẽ có thuế suất 20% tại thời điểm gia nhập và cắt giảm còn
136
14% đến năm 2012; thịt cừu, dê cam kết gia nhập là 10%; gà, vịt và một số
gia cầm khác giữ ở mức 40% (thời điểm gia nhập); thịt lợn tươi và ướp lạnh
sẽ có thuế suất tại thời điểm gia nhập là 30% và cắt giảm còn 25% đến 2012.
Như vậy, đối với thị trường nội địa, sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam sẽ phải
cạnh tranh gay gắt với sản phẩm cùng loại do thuế suất nhập khẩu từng bước được cắt giảm22; đối với thị trường xuất khẩu, các mặt hàng này của Việt Nam
sẽ khó mở rộng thị phần tại các nước đang phát triển, có hàng rào kỹ thuật
khắt khe. Gia nhập WTO, thị trường sản phẩm chăn nuôi Việt Nam sẽ chịu
tác động mạnh, chịu sức ép cạnh tranh lớn ngay trên “sân nhà” và nguy cơ
giảm thị phần ngày càng rõ rệt. Nguy cơ “thua” đối với sản phẩm chăn nuôi
một mặt do sản phẩm của Việt Nam không tạo được niềm tin đối với người
tiêu dùng (sản phẩm không được kiểm dịch, qui trình kiểm dịch không
nghiêm túc, qui trình sản xuất không tuân thủ những qui định kỹ thuật, chất
lượng sản phẩm không đồng đều, năng lực quản lý nhà nước đối với vệ sinh
an toàn thực phẩm còn yếu), mặt khác, các quốc gia phát triển trợ cấp cho chăn nuôi dưới nhiều hình thức23.
- Thuỷ sản: Hai mặt hàng chủ yếu của Việt Nam là cá phi lê đông lạnh
(cá tra và cá basa - catfish) và tôm đông lạnh. Với các cam kết đa phương, thị
trường của các sản phẩm thuỷ sản chủ lực sẽ không ngừng tăng trưởng theo
hướng có lợi cho người sản xuất và kinh doanh mặt hàng này. Hiện tại, các thị
trường nhập khẩu chủ yếu hàng thuỷ sản của Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật bản
đã có những tranh chấp thương mại nhất định trong thời gian qua (hàng Việt
Nam bị kiện bán phá giá), tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng
chủ lực của Việt Nam liên tục tăng trưởng trong giai đoạn 2000 - 2006 chứng
tỏ sự linh hoạt của các nhà sản xuất và năng động của các doanh nghiệp xuất
khẩu. Ngay khi chưa gia nhập WTO, việc hiệp hội của Mỹ kiện các doanh
nghiệp Việt Nam bán phá giá cá phi lê và tôm đông lạnh có tác động không lớn đến kết quả chung của ngành24.
137
22 Ngay trên thị trường nội địa, ở các thành phố lớn, các nhà hàng, khách sạn ... ít thấy xuất hiện sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam. Tại Hà Nội, tìm kiếm thịt bò Kobê, Úc ... tại các khách sạn lớn sẽ dễ hơn nhiều so với các sản phẩm thịt bò Việt Nam. 23 Một con bò của EU được hưởng trợ cấp 2,62 USD/ngày, cao hơn thu nhập trung bình của nông dân nghèo Việt Nam, Thời báo kinh tế Việt Nam, ngày 1/6/2006. 24 Theo Đánh giá 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ: Mặc dù Mỹ là thị trường lớn, có tranh chấp thương mại về vụ việc tôm đông lạnh và cá phi lê đông lạnh nhưng kết quả toàn ngành thuỷ sản
Hộp 3: Tăng trưởng xuất khẩu cá phi lê đông lạnh của Việt Nam trong trường hợp
Mỹ áp dụng thuế bán phá giá
Thuế bán phá giá được áp dụng với cá phi lê đông lạnh trong tháng 1/2003, khi Bộ Thương mại Mỹ đưa ra phán quyết sơ bộ về việc bán phá giá. Phán quyết cuối cùng được đưa ra vào tháng 6/2003, theo đó mức thuế áp dụng từ 31-64%. Mức thuế trên có tác động bất lợi đáng kể đến sản phẩm này ở thị trường Mỹ với mức xuất khẩu hàng tháng giảm từ trên 10 triệu USD xuống dưới 2 triệu USD. Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu sang Mỹ bị đình trệ từ sau năm 2003.
Tuy nhiên, tổng sản lượng xuất khẩu mặt hàng này vẫn tăng trưởng đều đặn và liên tục trong giai đoạn 2000 - 2005 cho thấy, dường như phán quyết của Bộ Thương mại Mỹ có tác động không nhiều đến số lượng và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Điều này được lý giải bằng việc các doanh nghiệp Việt Nam đã đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu (chuyển từ phi lê đông lạnh sang phi lê tươi) và tìm kiếm những thị trường mới.
Xuất khẩu cá tra và cá ba sa của Việt Nam (tấn)
2000
2001
2002
2004
2005
2003
1.129
1.737
27.987
83.844
141.011
Tổng
32.876
610
1.280
17.251
14.438
14.798
Sang Mỹ
8.803
Nguồn: Đánh giá tác động sau 5 năm thực hiện hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ
Gia nhập WTO, các cam kết đa phương sẽ tạo nhiều cơ hội cho ngành
thuỷ sản của Việt Nam phát triển nhanh và bền vững trong tương lai. Tuy
nhiên, nguy cơ bị kiện bán phá giá ở một thị trường nào đó vẫn là những đe
doạ thường trực đối với các sản phẩm thuỷ sản do Việt Nam chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường25. Với 149 thị trường đầy tiềm năng, xuất khẩu
thuỷ sản Việt Nam sẽ không phải lệ thuộc vào một vài thị trường nhất định
(như Mỹ, Nhật) và do đó, đảm bảo tính ổn định trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá này. Như vậy, việc gia nhập WTO sẽ tác động không nhiều đến thị
phần, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản, sự tăng trưởng có
được chủ yếu do năng lực sản xuất và kinh doanh từ phía Việt Nam.
Đánh giá chung: Qua 8 tháng gia nhập WTO, có thể thấy nông nghiệp
Việt Nam chưa có chuyển biến rõ rệt. Sự tăng trưởng xuất khẩu của một số
138
vẫn tăng trưởng đều đặn, kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng trưởng ổn định. Điều đó cho thấy tăng trưởng xuất khẩu được quyết định bởi “bên cung” - tức là sự năng động của người sản xuất (chuyển đổi giống con nuôi phù hợp...) chứ không phải các chế tài thương mại do các đối tác áp đặt. - USAID - CIEM - FIA, tr. 62. 25 Trong trường hợp này, Việt Nam phải sử dụng nước thứ 3 để tính các chi phí “thị trường”.
sản phẩm chủ lực hay chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành cũng không thể vội
vàng kết luận do WTO mang lại. Những kết quả đạt được sau gia nhập WTO
do nhiều yếu tố, trước hết phải kể đến các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đã “mở đường” cho ngành phát huy, khai thác tiềm năng. Bên
cạnh đó là những nỗ lực của bản thân ngành nông nghiệp, của mỗi phân
ngành, của từng đơn vị sản xuất cũng như mỗi doanh nghiệp xuất nhập khẩu;
Thứ hai là quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, ký
kết và thực hiện các hiệp định song phương và đa phương trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế đã tạo những cơ hội cho ngành nông nghiệp, cho mỗi sản
phẩm những cơ hội mới, sản xuất nông nghiệp xuất phát từ tín hiệu thị
trường, từ nhu cầu trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, không thể phủ định
những tác động của WTO đến tăng trưởng sản xuất toàn ngành, tăng kim
ngạch xuất khẩu của sản phẩm, nhưng những tác động mang tính dài hạn
nhiều hơn những đột biến trước mắt.
Gia nhập WTO, dù muốn hay không thì mỗi sản phẩm, mỗi doanh
nghiệp cũng chịu những tác động nhất định về sức ép cạnh tranh từ việc mở
cửa thị trường. Đối với những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, có lợi thế so
sánh, có năng lực cạnh tranh cao sẽ ít chịu sức ép và có cơ hội phát triển,
những sản phẩm không có lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh thấp ... sẽ từng
bước thu hẹp sản xuất, tạo tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành phù
hợp, hiệu quả hơn.
Việc xoá bỏ trợ cấp theo các cam kết cũng không có những xáo trộn lớn
bởi có tới 98% hỗ trợ trong nước nằm trong diện hộp xanh (được WTO cho
phép), những hỗ trợ khác hầu như không được thực hiện do năng lực tài chính
hạn chế. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu sẽ không gặp khó khăn khi thực
hiện các cam kết đa phương về cắt giảm trợ cấp và các qui định ngặt nghèo
khác của WTO. Những tác động của WTO đến nông nghiệp nhìn nhận theo
nhiều chiều cho thấy, những cơ hội, lợi ích nhiều hơn những yếu tố bất lợi. Sự
thành công của nông nghiệp Việt Nam trong WTO chỉ có thể được quyết định
139
bởi chính năng lực nội tại của ngành.
4. Một số giải pháp
Nhìn từ cơ cấu ngành, nông nghiệp bị sức ép cạnh tranh rất mạnh bởi
sức cạnh tranh của lĩnh vực này khá thấp, sản xuất lạc hậu, phân tán, năng
suất thấp, chất lượng không đều… . Để bảo đảm cho nông nghiệp, nông thôn
phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững, đời sống người nông dân ổn định
và từng bước cải thiện khi Việt Nam gia nhập WTO, trước hết cần giải quyết
một số nội dung sau:
Một là, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ
cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp nói riêng. Đối với cơ cấu chung, cần
từng bước giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu ngành cấp 1 bằng các biện
pháp cụ thể như phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ; Chuyên môn hoá
sản xuất nông nghiệp; Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp nhằm tăng năng suất và giảm số lượng lao động; Từng bước
chuyển lao động nông nghiệp sang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và
dịch vụ.
Tăng thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, ưu tiên các
dự án đầu tư ở khu vực nông nghiệp – nông thôn có sử dụng nhiều lao động.
Ngoài ra, cần chú trọng phát triển các làng nghề truyền thống, làng nghề thủ
công nhằm tận dụng lực lượng lao động tại chỗ.
Hai là, tăng ngân sách đầu tư cho nông nghiệp – nông thôn. Nguồn
ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trước mắt cần tập trung xây
dựng kết cấu hạ tầng, kho bãi, phát triển thuỷ lợi, đầu tư vào công nghiệp chế
biến, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, tạo điều kiện lưu thông hàng hoá
nông sản thuận lợi. Phát triển các chợ nông thôn, chợ đầu mối theo khu vực,
hình thành hệ thống thương mại nông sản thuận lợi, hiện đại.
Phát triển các hợp tác xã nông nghiệp chuyên canh, các công ty cổ phần
nông nghiệp, đảm bảo cung ứng vật tư, nguyên liệu đầu vào, giống cây con …
và đảm bảo đầu ra ổn định cho các vùng sản xuất, tạo sự an tâm, ổn định của
người sản xuất, từng bước hình thành những vùng chuyên canh, sản xuất lớn.
140
Khuyến khích người nông dân góp vốn vào các công ty cổ phần nông nghiệp,
để một mặt tăng thu nhập của chính những người nông dân, mặt khác đảm
bảo ổn định trong cung cấp nguyên liệu từ nông nghiệp.
Đẩy mạnh tích tụ ruộng đất theo hướng cho thuê lại, tạo tiền đề cho sản
xuất qui mô lớn, đồng thời rút dần lao động nông nghiệp sang làm việc ở khu
vực công nghiệp và dịch vụ gắn liền với giải quyết tốt những vấn đề an sinh
xã hội ở nông thôn.
Ba là, Nhà nước xây dựng và thực hiện chiến lược tổng thể công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; hướng dẫn nông dân kinh nghiệm
thành công; cung cấp dịch vụ tư vấn; giúp tiếp cận các chương trình vay vốn;
giúp giao dịch hợp đồng; đưa ra và kiểm soát thực hiện các quy định về chất
lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn nông sản hàng hóa. Nhà nước cần đầu tư
gấp rút và ưu tiên cho việc cải tiến các chương trình giáo dục và đào tạo cho
nông dân, công nhân, nhà quản lý những kiến thức và kỹ năng phù hợp với
yêu cầu toàn cầu hóa. Cần sửa đổi Luật hợp tác xã cho phù hợp yêu cầu hội
nhập kinh tế thế giới.
Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển vùng trong phạm vi
cả nước, quan hệ kinh tế giữa các vùng trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so
sánh của từng vùng. Chú trọng phát triển các vùng nông thôn có lợi thế so
sánh, có thế mạnh về tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm và tăng
thu nhập. Quy hoạch phát triển mạnh hệ thống thị trường tiêu thụ các mặt
hàng nông sản, nâng cao sức mua của thị trường trong nước, mà trọng tâm là
khu vực thị trường nông thôn.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô như chính
sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai, hệ thống luật pháp kinh
tế… nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần. Khuyến khích
và tạo điều kiện cho hội nông dân ở cơ sở hoạt động có hiệu quả. Tăng cường
các hoạt động phổ biến, hướng dẫn, sử dụng và chuyển giao quy trình công
nghệ mới với các hình thức thích hợp. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của kinh tế hộ - với tư cách đơn vị sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế
thị trường. Sắp xếp lại và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong khu vực nông
141
nghiệp, thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh; thay đổi cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động công
ích thành những doanh nghiệp mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong việc thực
hiện dịch vụ kỹ thuật, cung ứng giống, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị
phục vụ cho việc lưu thông trao đổi và xuất khẩu hàng hóa nông sản. Thiết
lập và phát triển hệ thống nghiên cứu, phân tích đánh giá, dự báo, cung cấp
thông tin và giao dịch thị trường hiện đại, nhất là hệ thống phân tích, dự báo
thị trường trung và dài hạn, thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ
lực, thị trường mới và thị trường tiềm năng … để phục vụ việc hoạch định
chính sách vĩ mô. Về lâu dài, cần xây dựng chiến lược thị trường, vì thị
trường nông sản đang là yếu tố có tính quyết định khả năng tiêu thụ và do đó
quyết định quy mô sản xuất hàng hóa nông sản ở trong nước. Chấm dứt tình
trạng xuất khẩu nông sản chỉ dựa vào tình hình dư thừa trong nước hoặc do
một cơ cấu đã có sẵn.
Đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển nông nghiệp hàng
hóa trong điều kiện mới. Hoàn chỉnh các chính sách tạo lập đồng bộ khuôn
khổ pháp lý cho việc phát triển và mở rộng thị trường sử dụng và chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp; giao rừng và đất rừng cho hộ nông
dân kinh doanh lâu dài và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tăng cường
kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ quá trình thực hiện các chính sách và
qui định liên quan, xử lý nghiêm những sai phạm trong hoạt động thị trường.
Bốn là, đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp
(giống cây trồng và vật nuôi, kể cả những giống có gen chuyển đổi thích nghi
điều kiện canh tác khắc nghiệt của nông dân vùng sâu, vùng xa; giảm giá
thành sản xuất nông sản; công nghệ sau thu hoạch; phát triển thị trường nông
sản). Các nhà khoa học cần đưa ra được các giống cây trồng vật nuôi có chất
lượng cao, xây dựng căn cứ khoa học lựa chọn hướng phát triển sản xuất,
kinh doanh, hỗ trợ nông dân tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ. Đầu
tư vào phát triển các giống mới có năng suất, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của thị trường trong và ngoài nước. Việc nghiên cứu, phát triển
142
các loại giống cây, con cần sự đầu tư, hỗ trợ của nhà nước phù hợp với những
yêu cầu của WTO. Chú trọng hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu và triển
khai, đầu tư thích đáng vào chuyển giao công nghệ. Đưa công nghệ sinh học,
giống mới, quy trình sản xuất mới, công nghệ mới vào việc bảo quản, chế
biến nông sản.... Khuyến khích mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cung
cấp dịch vụ nông nghiệp như: trợ giúp kỹ thuật, cung cấp thông tin thị trường,
hỗ trợ tài chính và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm...
Năm là, điều chỉnh chính sách trong nước: Khai thác triệt để các qui
định của WTO cho hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu. Xây dựng lộ trình hành động
và các biện pháp hỗ trợ cụ thể, khắc phục tình trạng chính sách hỗ trợ mang
tính tình thế, thiếu chiến lược dài hạn. Hướng chính sách hỗ trợ nông nghiệp
vào sản xuất thay vì vào hoạt động kinh doanh như hiện nay. Trong thời gian
tới, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp cần tuân thủ theo Hiệp định nông
nghiệp của WTO, cụ thể:
+ Hỗ trợ dạng hộp xanh lá cây: Thực hiện hỗ trợ theo các nhóm. (1)
Nhà nước thực hiện cung cấp dịch vụ và phúc lợi cho nông nghiệp dưới các
hình thức như nghiên cứu khoa học, đào tạo (cấp kinh phí cho các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề để đào tạo cán
bộ kỹ thuật, kinh tế, công nhân lành nghề phục vụ sản xuất nông nghiệp),
khuyến nông (cấp kinh phí hoạt động, hỗ trợ cơ sở vật chất cho công tác
khuyến nông). (2) Hỗ trợ lương thực, thực phẩm, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
cho các vùng khó khăn (vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai vv…). (3) Hỗ
trợ chuyển dịch cơ cấu, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương thông qua
các hình thức ưu đãi thuế, đầu tư, tín dụng…
+ Hỗ trợ dạng hộp xanh da trời. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ theo
chương trình phát triển, bao gồm: (1) Trợ cấp đầu tư của Chính phủ dưới hình
thức hỗ trợ tài chính, cho vay với lãi suất ưu đãi để phát triển kinh tế trang
trại. (2) Trợ cấp đầu vào cho người sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp
thông qua hệ thống ngân hàng chính sách xã hội. (3) Trợ cấp dành cho sản
xuất như khuyến khích các hộ nông dân từ bỏ cây thuốc phiện chuyển sang
143
sản phẩm nông nghiệp khác.
Ngoài ra, Chính phủ cần quan tâm bảo hộ hợp lý (bảo hộ trong khuôn
khổ qui định WTO) một số sản phẩm trong nước có giá cao so với hàng nhập
khẩu và chất lượng chưa đồng đều như bông, rau quả, thịt gia súc, gia cầm …,
từng bước nâng cao sức cạnh tranh của mỗi sản phẩm. Xây dựng những hàng
rào kỹ thuật mà WTO cho phép để bảo vệ hàng nông sản trong nước.
Để đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững, Chính phủ cần xây
dựng các chính sách ngăn cấm, hạn chế việc khai thác quá mức các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như đất, nước, không khí, rừng, đất rừng…. Tiếp tục hoàn
thiện về chính sách đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường nhằm
quản lý, sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, hạn chế tiến tới
ngăn chặn tối đa mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo vệ đa
dạng sinh học. Bên cạnh đó, cần coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, kết
hợp với đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm và trình độ
khoa học và kỹ thuật của người dân đối với việc bảo vệ, khai thác cũng như
phát triển tài nguyên và môi trường
Sáu là, hỗ trợ các doanh nghiệp nông nghiệp làm hàng xuất khẩu hiểu
rõ những qui định của từng thị trường về hàng rào phi thuế quan để điều chỉnh
sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng, thỏa mãn những tiêu chuẩn của đối
tác, đảm bảo là đối tác tin cậy, lâu dài, khắc phục tình trạng vì lợi ích trước
mắt làm tổn hại đến uy tín của các doanh nghiệp cùng lĩnh vực, của thương
hiệu nông sản Việt Nam.
Bảy là, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản xuất khẩu: Cần
đánh giá cụ thể sức cạnh tranh của từng loại nông sản xuất khẩu chủ lực để có
giải pháp khắc phục những yếu kém, đảm bảo nông sản Việt Nam chiếm lĩnh
được thị trường trong nước và thế giới. Qui hoạch các vùng sản xuất chuyên
canh, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất các loại nông sản, trước mắt là
những nông sản xuất khẩu chủ lực. Thành lập các Trung tâm kiểm nghiệm và
chứng nhận chất lượng nông sản hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong
nước và nhất là xuất khẩu trên các vùng sản xuất nông nghiệp qui mô tập
144
trung. Bên cạnh đó, cần xây dựng và thực hiện các thương hiệu hàng hóa
nông sản xuất khẩu của Việt Nam như trái cây, gạo, cà phê… , tạo ra những
thương hiệu riêng đối với từng mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Để nâng cao năng lực cạnh tranh, trước hết cần nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, một mặt cần cải tạo các giống cây trồng, vật
nuôi, mặt khác phải tổ chức lại sản xuất để có sức mạnh cung cấp cho thị
trường những lô hàng nông sản lớn. Gắn kết chặt chẽ giữa các vùng sản xuất
145
chuyên canh và chế biến nguyên liệu tại chỗ.
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI
THẾ GIỚI ĐẾN CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Văn Chiến (*)
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng có tính
khách quan, diễn ra với tốc độ ngày càng cao, lôi kéo các nước trên thế giới
tham gia. Thực chất của toàn cầu hóa là các nền kinh tế quốc gia trong quá
trình vận động sẽ gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, nền kinh tế của mỗi nước
ngày càng trở thành một bộ phận khăng khít của kinh tế thế giới. Việt Nam
cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó.
Thực hiện chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt nam coi việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một chủ
trương quan trọng. Việc tham gia các hiệp định, các hiệp ước quốc tế về
thương mại, về kinh tế trong WTO sẽ tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế phát
triển. Nhưng việc tham gia và thực hiện các cam kết của WTO sẽ là một quá
trình đầy cam go, thử thách trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Bài viết này chỉ đề cập đến sự tác động của WTO đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
1. Tác động đến các doanh nghiệp Việt Nam.
Một là, gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận thị
trường hàng hoá, dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập
khẩu được hạ thấp và cắt giảm theo cam kết của các nước này. Doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội tiếp cận với các thị trường lớn và tiềm năng như: Châu
Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản... và các thị trường khác, tạo điều kiện cho chúng ta
mở rộng thị trường xuất khẩu và kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc
gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch
xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là đặc biệt quan trọng, là
yếu tố bảo đảm tăng trưởng kinh tế.
Hai là, khi gia nhập WTO, hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam được đối
146
(*) Cục Thống kê Bắc Ninh
xử bình đẳng như hàng hóa, dịch vụ của các nước thành viên khác của WTO,
không bị chèn ép trong thương mại. Điều này sẽ cải thiện được sức cạnh tranh
của hàng hóa cũng như của doanh nghiệp và quốc gia. Các hoạt động xuất
nhập khẩu được mở rộng, góp phần phát triển sản xuất trong nước, tạo việc
làm, tăng thu nhập quốc dân và nâng cao mức sống của người dân.
Ba là, gia nhập WTO, sức ép cạnh tranh là rất lớn, nhưng nó lại tác động
tích cực đến các doanh nghiệp. Cạnh tranh mang lại cái lợi lớn là doanh
nghiệp Việt Nam sẽ học được cách hợp tác và làm việc cùng với doanh nghiệp
nước ngoài. Như vậy môi trường cạnh tranh thế giới sẽ tác động tích cực đến
hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam.
Bốn là, việc bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa chắc chắn sẽ
tác động tới một số doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức độ tác động không lớn, bởi
hàng vạn doanh nghiệp xuất khẩu của ta, với kim ngạch xuất khẩu trên 30 tỉ đô
la Mỹ/năm, sẽ không "gặp khó khăn nghiêm trọng" khi Nhà nước bãi bỏ hình
thức trợ cấp này. Ngược lại, việc bãi bỏ trợ cấp sẽ làm cho doanh nghiệp xóa bỏ
sự trông chờ, ỷ lại Nhà nước một cách thụ động, mà buộc phải suy nghĩ tìm tòi,
năng động, sáng tạo để ứng phó nhanh nhạy trong cơ chế thị trường. Các doanh
nghiệp sẽ trưởng thành, vững vàng trong môi trường ngày càng gay gắt.
Bên cạnh những tác động tích cực, việc gia nhập WTO cũng đưa đến
cho các doanh nghiệp những thách thức lớn, đó là sức ép, rào cản gây khó
khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Một là, sự cạnh tranh càng khốc liệt và gay gắt, với nhiều “đối thủ”,
trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta
với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các
nước, không chỉ trên thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do
thuế nhập khẩu phải cắt giảm từ mức 17,4% hiện nay xuống mức trung bình
13,4% trong vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Những người sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ của nước ta kể cả
trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp đều phải chấp nhận sự cạnh tranh
147
gay gắt với hàng hóa, dịch vụ của các thành viên WTO không chỉ ở thị trường
thế giới mà ở cả thị trường trong nước. Khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp nước ta hiện nay nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng còn
nhiều yếu kém. Những yếu tố chủ yếu quyết định năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp như: năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, trình độ
khoa học công nghệ, năng lực quản lý, tổ chức thị trường và tiếp thị v.v... còn
hạn chế.
Lợi thế cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam hiện nay chủ
yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn có, song những
lợi thế này đang có xu hướng giảm nhanh. Vì vậy, sự đương đầu với các
doanh nghiệp lớn của các thành viên WTO có sức cạnh tranh mạnh là thách
thức lớn nhất với các doanh nghiệp Việt Nam.
Hai là, gia nhập WTO, tập đoàn các doanh nghiệp Việt Nam cũng như
từng doanh nghiệp riêng lẻ phải đối mặt với chính sách tự do hóa thương mại
đang có xu hướng phát triển mạnh trên thế giới. WTO chỉ cho phép các thành
viên bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan với mức bình quân ngày càng
giảm, thấp hơn nhiều so với mức chúng ta đang thực hiện. Kinh nghiệm của
12 thành viên mới gia nhập WTO cho thấy họ phải cam kết đối với 100% số
dòng thuế công nghiệp với mức thuế trung bình thấp từ 0-5% và không áp
dụng các biện pháp phụ thu đối với hàng nhập khẩu. Các thành viên gia nhập
WTO sau thường phải cam kết thuế suất ở mức thấp hơn các thành viên gia
nhập trước. Như vậy, khả năng bảo hộ của Nhà nước để các doanh nghiệp
Việt Nam đủ sức đối phó hiệu quả với sức ép cạnh tranh sẽ rất hạn chế và
ngày càng bị thu hẹp. Ðiều đó cho thấy các doanh nghiệp của nước ta buộc
phải chấp nhận một cuộc chơi không cân sức và phải nỗ lực cao nhất mới có
thể thắng cuộc trong cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế.
Ba là, gia nhập WTO ngoài việc giảm tỷ lệ thuế đáng kể, chúng ta phải
dỡ bỏ các hàng rào phi thuế như: hạn ngạch giấy phép, thủ tục hải quan, trợ
cấp v.v... trong một thời gian nhất định. Điều này làm cho một số loại sản
phẩm như thép, giấy, hóa chất, phân bón, sợi dệt, một số loại sản phẩm cơ khí
và nông sản... sẽ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt nhất từ phía hàng nhập khẩu.
148
Bốn là, gia nhập vào sân chơi WTO, chúng ta phải thực hiện nguyên tắc
công khai hóa, minh bạch hóa và không phân biệt đối xử. Việc công khai hóa
và minh bạch hóa sẽ đem lại thuận lợi cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, với một
bộ phận công chức chưa quen với minh bạch hóa và công khai hóa, đó sẽ là
thách thức không nhỏ. Nguyên tắc không phân biệt đối xử đặt ra nhiều vấn đề
hơn và có tác động lớn hơn tới hoạt động của các DN. Nguyên tắc này có một
số ngoại lệ nhưng nhìn chung từ khi gia nhập WTO, chúng ta sẽ không thể “ưu
ái” hàng hóa, dịch vụ trong nước hơn là hàng hóa, dịch vụ nước ngoài. Trong
rất nhiều trường hợp, ta cũng sẽ không thể đối xử với DN nước ngoài khác với
DN 100% vốn Việt Nam. Thí dụ, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu “tổng hợp”
sẽ không còn là đặc quyền riêng của DN Việt Nam nữa, bởi mọi DN FDI, kể từ
ngày 1/1/2007, cũng sẽ được quyền đó. Nếu các DN FDI muốn, họ có thể tự
mình xuất khẩu hạt tiêu, thủy sản, cà phê và nhập khẩu phân bón, ximăng, sắt
thép. Điều này sẽ gây khó cho nhiều DN chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu,
đặc biệt là những DN chưa xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với bạn hàng
bên ngoài và hệ thống phân phối/mua gom trong nước. Về thuế và nhiều biện
pháp khác cũng thế. Nhà nước sẽ không thể đưa ra các mức thuế nội địa khác
nhau cho hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu (ôtô chẳng hạn), cũng
không thể quy định tiêu chuẩn thấp cho thực phẩm trong nước và tiêu chuẩn
cao cho thực phẩm nhập khẩu để qua đó tạo nên rào cản vô hình. Điểm này
trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ cũng đã đề cập
nên không còn là chuyện mới với các DN. Chỉ có điều, khi gia nhập WTO, do
diện áp dụng được mở rộng nên tác động sẽ lớn hơn.
Năm là, việc mở cửa 11 ngành và 1100 phân ngành dịch vụ trên tổng
155 phân ngành của WTO làm cho thị trường dịch vụ Việt Nam sôi động lên,
cạnh tranh quyết liệt hơn, tác động trực tiếp và mạnh mẽ vào các DN nhỏ và
vừa. Ngoài ra, sự bảo hộ chính sách cũng bị xóa bỏ sẽ tác động không tốt cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức cạnh tranh thị trường kém, lại bị hạn chế về
tiền vốn, công nghệ và năng lực, xưa nay dựa vào sự ưu đãi và nâng đỡ về
chính sách của Nhà nước. Các ngành tài chính tiền tệ như ngân hàng, bảo
hiểm, cũng lo ngại về tình cảnh của mình, bởi vì họ sẽ không thể cạnh tranh
149
với những doanh nghiệp nước ngoài có thực lực mạnh hơn và kinh nghiệm
thương trường phong phú hơn. Những doanh nghiệp VN này nếu không tích
cực thay đổi và điều chỉnh thì khó tránh khỏi nguy cơ phá sản.
Sáu là, Việt Nam chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường trong
12 năm tới. Các nước phát triển tiếp tục áp đặt điều kiện, hạn ngạch, thưa kiện
nhằm hạn chế doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, trong 12 năm tới, doanh
nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị tinh thần để đối mặt với các vụ tranh chấp
thương mại tốn kém.
2. Một số vấn đề cần giải quyết đối với các doanh nghiệp khi Việt
Nam gia nhập WTO.
Giai đoạn 2006-2010 phải tạo môi trường kinh tế-xã hội, môi trường
pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Đến 2010, cả nước sẽ tăng số lượng doanh nghiệp hoạt
động lên 500.000 vào năm 2010, đồng thời cổ phần hóa khoảng 1000 doanh
nghiệp, trong đó có trên 50% các tổng công ty. Nhà nước cũng sẽ chuyển
khoảng 1.600 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, xây dựng hơn 10 Tập đoàn kinh tế trên cơ sở
18 tổng công ty 91 hiện nay, đẩy mạnh bán phần vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp nhà nước, nhằm thu hút vốn ngoài xã hội cho các doanh nghiệp và tạo
nguồn vốn tái đầu tư.
Để doanh nghiệp Việt Nam đủ sức bước vào sân chơi mới với nhiều
khó khăn thử thách, Nhà nước và doanh nghiệp cần tập trung vào những biện
pháp cụ thể sau:
+ Về phía Nhà nước:
Một là, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phù hợp với thông
lệ của WTO, bao gồm cả bốn nội dung: Luật chơi, người chơi, cách chơi và sân
chơi. Trong đó, “luật chơi” - là hệ thống pháp lý và các chuẩn mực; “người
chơi” - là chủ thể kinh tế thị trường chính, bao gồm cả tập thể, cá nhân, các
thành phần kinh tế; “cách chơi” - chính là cơ chế để thực thi quy tắc; và “sân
chơi” - các thị trường, yếu tố cơ bản phải gấp rút hoàn thành. Xây dựng môi
150
trường pháp lý rõ ràng, nhất quán, ổn định nhằm tạo dựng một môi trường kinh
doanh lành mạnh, bình đẳng, loại bỏ độc quyền và chống các hành vi gian lận
thương mại; tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư, đặc biệt là tính minh bạch
của hệ thống thuế quan và các hàng rào phi thuế quan; tiếp tục cải cách hệ
thống ngân hàng để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.
Hai là, phải chủ động xử lý những tồn tại do lịch sử để lại, không những
là các vấn đề kinh tế, mà cả về tâm lý, quan niệm đối với DN, cả những thói
quen hành xử với DN của bộ máy công quyền, của đội ngũ công chức từ trung
ương đến địa phương, và cả những “lệ làng” tuỳ tiện. Công việc này thành
công hay không phụ thuộc vào kết quả cải cách hệ thống pháp lý và các chuẩn
mực xã hội, bao gồm cả các chuẩn mực chính thức và phi chính thức.
Ba là, hiện nay, các nhà thương thuyết của ngành ngoại giao và thương
mại đang quá mải mê với việc thiết kế lịch trình giảm thuế quan hàng nhập
mà chưa có kế hoạch "lợi dụng cơ hội do mậu dịch tự do đem lại". Cụ thể đối
với ngành nông nghiệp, giá cả của chúng ta hiện nay cao hơn so với Thái Lan,
Trung Quốc do tốn nhiều chi phí, trả nhiều lệ phí, nhiều công gián tiếp lại
không có nhãn hiệu uy tín quốc tế nên bán không được giá. Có ý kiến cho
rằng, nhiệm vụ của Nhà nước phải đầu tư mạnh cho nghiên cứu khoa học
(giống cây trồng và vật nuôi, kể cả những giống có gien chuyển đổi thích nghi
điều kiện canh tác khắc nghiệt của vùng sâu, vùng xa, công nghệ sau thu
hoạch). Bên cạnh đó, phải quyết tâm đổi mới các chính sách, bãi bỏ những
loại lệ phí vô lý để giảm bớt giá thành sản phẩm, bãi bỏ những ưu đãi với một
thành phần kinh tế, cơ cấu lại các doanh nghiệp quốc doanh...
Bốn là, kiện toàn tổ chức và cơ chế hoạt động của các hiệp hội ngành
hàng, bảo đảm hiệp hội thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan
nhà nước, hỗ trợ có hiệu quả cho doanh nghiệp trong việc phát triển thị
trường, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực. Nâng cao trách nhiệm
và đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan xúc tiến thương mại, các
cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc hỗ trợ doanh nghiệp mở
rộng thị trường, thiết lập quan hệ bạn hàng, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển du
lịch và thu hút đầu tư.
151
Năm là, Nhà nước phải nhanh chóng thực hiện việc đào tạo nhân lực
chất lượng cao, phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao hàm lượng nội địa...
để "tạo chất" cho "lợi thế nhân công" mà Việt Nam đang có hiện nay. Một
trong những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam thường được nói đến là nhân
công giá rẻ. Tuy nhiên, giá nhân công rẻ đồng nghĩa với lao động tay nghề
thấp. Như vậy, lợi thế này cũng chính là nhược điểm của lao động Việt Nam.
Trên thực tế, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài than phiền rằng khó tuyển dụng
nhân sự cho ngành công nghệ thông tin, ngân hàng, viễn thông... Do đó khó
có thể thu hút đầu tư vào những khu vực dịch vụ cao cấp mà Việt Nam, đặc
biệt là Thành phố Hồ Chí Minh đang rất cần để chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sáu là, Chính phủ cần quan tâm đến việc nâng cao phẩm chất và có cơ
chế kiểm soát đội ngũ cán bộ làm công tác thuế vụ, hải quan, quản lí thị
trường, cảnh sát giao thông… nghĩa là những đối tượng trực tiếp tác động đến
DN và bị DN ca cẩm nhiều nhất, làm tăng chi phí cho DN nhiều nhất.
+ Về phía doanh nghiệp:
Một là, chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói
chung, hàng hóa và dịch vụ nói riêng. Nước ta đã có một số mặt hàng có sức
cạnh tranh mạnh ở thị trường trên thế giới như: gạo, cà-phê, hải sản, giày dép,
hàng mỹ nghệ thủ công, máy công cụ nhỏ. Song, còn nhiều mặt hàng khác tuy
có thế mạnh sản xuất, song chất lượng kém, mẫu mã đơn điệu,... do đó chưa
cạnh tranh được ở thị trường thế giới, nhất là thị trường các thành viên WTO
có nền công nghiệp tiên tiến, đông dân cư và có sức tiêu thụ lớn.
Ðể hàng hóa và dịch vụ có sức cạnh tranh cao ở thị trường WTO, các
doanh nghiệp phải tập trung vào một số biện pháp như:
- Xác định được chiến lược mặt hàng và chiến lược thị trường đúng đắn,
phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng, lợi thế của doanh nghiệp. Từ đó mà
đổi mới công nghệ và quy mô sản xuất, tăng cường các biện pháp quản lý để đạt
mục tiêu chất lượng cao, giá thành hạ, thương hiệu rõ ràng, hấp dẫn, dễ nhớ để
thu hút được đông đảo người tiêu dùng; áp dụng các tiêu chuẩn ISO, hoàn thiện
phương thức kinh doanh.
152
- Củng cố thị phần trong nước, xác lập quan hệ bạn hàng và nhanh
chóng hình thành hệ thống phân phối cả ở thị trường trong nước, phát triển
các văn phòng, đại lý tại thị trường nước ngoài; nghiên cứu thị trường để đa
dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm. Những thị trường xuất khẩu chính
như: thị trường Mỹ, Nhật, EU, ngoài ra cần chú ý thị trường ASEAN, Trung
Quốc, Campuchia, Lào, Trung Đông…
- Coi trọng phát triển những sản phẩm có thế mạnh và xây dựng được
những thương hiệu mạnh, tổ chức phục vụ thuận tiện, văn minh cho người
tiêu dùng là yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và
dịch vụ trên thị trường. Kinh nghiệm cho thấy, thương hiệu hàng hóa mạnh là
một trong những yếu tố cơ bản thực hiện cạnh tranh lành mạnh, giúp cho
doanh nghiệp giành thắng lợi.
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tổ chức dịch vụ quảng bá thương
hiệu, tạo ra bản sắc riêng có, những nét độc đáo của doanh nghiệp mình thông
qua đó mà thu hút khách hàng, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu.
Hai là, từng doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế so sánh đã có và tạo ra
lợi thế so sánh mới cho mình.
Ngoài những lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý, nước ta
có giá công lao động rẻ so với nhiều nước trong khu vực và với các thành
viên phát triển. Công lao động ở nước ta giá chỉ bằng một nửa của họ, thậm
chí có ngành còn thấp hơn, trước mắt chúng ta có thể tận dụng cao nhất khả
năng này trong cạnh tranh với các doanh nghiệp thành viên WTO khác. Tuy
nhiên, trong những năm tới, lao động kỹ thuật trình độ cao là loại lao động mà
"nền kinh tế tri thức cần đến", vì thế, yếu tố đông và rẻ không còn là lợi thế
cho lực lượng lao động của ta nữa, mỗi doanh nghiệp cần phải tự tạo ra lợi thế
so sánh mới từ chính những nguồn lực của mình.
Ba là, tăng cường liên kết hợp tác theo chiều dọc và chiều ngang.
Cạnh tranh và hợp tác luôn song hành trong hoạt động của doanh nghiệp
trong cơ chế thị trưởng. Các doanh nghiệp cần hiểu rằng để có thể thắng trong
cạnh tranh, để nâng cao năng lực cạnh tranh phải chọn cách cạnh tranh cho
153
mình, thay vì mạnh ai nấy làm. Cạnh tranh để có được sản phẩm tốt nhất và
giá hạ nhất (điều kiện sống còn của doanh nghiệp), hợp tác để hỗ trợ các
doanh nghiệp trong và ngoài hệ thống cùng phát triển.
Cuối cùng, các doanh nghiệp phải dám chấp nhận mạo hiểm. Việc
chấp nhận mạo hiểm không phải là làm liều, mà trên cơ sở thu thập và xử lý
đầy đủ thông tin, và dự kiến trước những diễn biến của thị trường; tính đến rủi
ro có thể xảy ra và nếu xảy ra rủi ro thì thiệt hại sẽ được giới hạn và có khả
năng khắc phục. Làm được như vậy hiệu quả kinh doanh sẽ được bảo đảm,
tăng khả năng tích tụ vốn và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Từ
đó doanh nghiệp sẽ lớn lên, mạnh hơn, đủ sức cạnh tranh với các doanh
154
nghiệp ngay trên thị trường trong nước và nước ngoài./.
KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC TRONG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA SAU KHI GIA NHẬP WTO
TS. Nguyễn Quốc Thái Trung Quốc là nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, nhất là
trong quá trình cải cách kinh tế, mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Trung Quốc có mức tăng trưởng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư nước
ngoài, tăng trưởng kinh tế rất cao sau khi gia nhập WTO. Những thành tựu
nói trên có sự đóng góp tích cực của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có
việc điều chỉnh các khía cạnh của chính sách tài khoá.
Với tư cách là thành viên WTO mới (2001), kinh nghiệm của Trung
Quốc về điều chỉnh một số công cụ của chính sách tài khoá như chính sách
thuế, thuế quan và trợ cấp để hạn chế những tác động tiêu cực, thúc đẩy phát
triển ngành, thúc đẩy xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ những đối tượng
dễ bị tổn thương trong quá trình thực hiện các cam kết gia nhập WTO có ý
nghĩa tham khảo hữu ích cho Việt Nam.
1. Một số kinh nghiệm điều chỉnh chính sách tài khóa của Trung Quốc
1.1. Điều chỉnh một số công cụ của chính sách tài khóa đối với
lĩnh vực nông nghiệp
Theo cam kết, mức ràng buộc cuối cùng của Tổng lượng hỗ trợ tính
gộp (AMS) mà Trung Quốc có quyền thực hiện là 8,5% trị giá tổng sản lượng
nông nghiệp. Trong giới hạn đó, trong giai đoạn 2002-2004 Trung Quốc đã
thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, nhất là trợ giá.
Mức trợ giá năm 2001 là 74 tỷ NDT, năm 2002 giảm xuống còn hơn 64 tỷ
NDT, năm 2004 tăng lên tới gần 80 tỷ NDT (bảng 1) và dự kiến còn tăng
trong năm 2005.
Bảng 1: Tổng trợ giá trong nông nghiệp của Trung Quốc, 1998-2004
Tổng trợ giá (tỷ NDT)
Trợ giá do giá dầu ăn, ngũ cốc và cotton tăng Trợ giá để kiềm chế giá tăng Trợ giá do giá thịt tăng Trợ giá khác
Tổng cộng
Trợ giá do giá dầu ăn, ngũ cốc và cotton tăng
1998 71,2 56,5 2,8 2,6 9,3 100,0 79,3
1999 69,8 49,2 1,4 2,1 17,1 100,0 70,6
2000 104,2 75,9 1,8 1,9 24,6 100,0 72,8
2001 74,2 60,5 1,7 0,5 11,5 100,0 81,6
2002 64,5 53,5 0,5 0,2 10,3 100,0 83,0
2003 61,7 55,0 0,5 0,1 6,1 100,0 89,1
2004 79,6 66,0 0,5 0,1 12,9 100,0 83,0
155
Trợ giá để kiềm chế giá tăng Trợ giá do giá thịt tăng Trợ giá khác
Mức tăng hàng năm (%)
Trợ giá do giá dầu ăn, ngũ cốc và cotton tăng Trợ giá để kiềm chế giá tăng Trợ giá do giá thịt tăng Trợ giá khác
3,9 3,7 13,0 29,0 36,6 -35,0 -7,6 39,0
2,0 2,9 24,4 -2,0 -12,9 -49,3 -21,2 83,6
1,7 1,9 23,6 49,4 54,1 24,3 -5,6 44,5
2,3 0,6 15,5 -28,9 -20,2 -5,5 -76,5 -53,4
0,8 0,2 16,0 -13,0 -11,6 -68,2 -64,8 -10,3
0,8 0,2 9,8 -4,3 2,8 -3,2 -20,0 -41,0
0,7 0,2 16,2 28,9 20,0 1,4 0,0 112,3
Nguồn: WTO Secretariat (2006) trích lại từ National Bureau of Statistics (2005), China
Statistical Yearbook.
Mặc dù mức hỗ trợ hiện tại trong nước đối với nông nghiệp của Trung
Quốc là không đáng kể, nếu dựa vào định nghĩa và phương pháp tính toán của
WTO, thậm chí là số âm, nếu tính tới những dạng phí, lệ phí đánh vào nông
dân (WTO Secretariat 2006), song những trợ giá, trợ cấp này đã có tác dụng
tích cực nhất định tới sản xuất và thu nhập của người nông dân. Chẳng hạn,
các khoản trợ cấp mới (ngũ cốc và hạt giống) đóng góp khoảng 5% đối với
tăng thu nhập của nông dân trong những năm 2003-2004. Một số biện pháp
trợ cấp, trợ giá đáng chú ý là:
Trợ cấp để giảm giá một số đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Chẳng
hạn, để giảm giá phân bón, Trung Quốc đã dành cho các nhà sản xuất phân
bón một số ưu đãi như giảm giá điện lưới và miễn nộp thuế giá trị gia tăng.
Để tăng năng suất và chất lượng hạt đậu nành trong nước, Trung Quốc đã
thực hiện các biện pháp hỗ trợ sử dụng hạt giống tốt đối với loại cây trồng này
từ năm 2002. Trong năm 2004, mô hình này được nhân rộng đối với gạo, ngô và lúa mỳ26. Chính phủ cũng đã trợ cấp cho việc mua máy móc nông nghiệp
đối với một số hộ nông dân để thực hiện cơ giới hóa. Bên cạnh đó, Trung
Quốc còn hỗ trợ để giảm chi phí vận chuyển ngũ cốc (ngô, lúa, lúa mỳ), bông,
vải bông và đậu nành để xuất khẩu và đến các thị trường trong nước bằng
đường sắt thông qua việc tạm thời (từ tháng 4/2002 đến tháng 12/2003) miễn
thu phí xây dựng đường sắt (phí này chiếm tới 20%-50% tổng cước vận tải).
Kinh nghiệm trợ cấp trong ngư nghiệp của Trung Quốc cũng đáng lưu ý.
Mức trợ cấp cho ngư nghiệp trong những năm qua được Trung Quốc duy trì
13 tỉnh đã được cung cấp trợ cấp đặc biệt 2,85 nghìn tỷ NDT để mua hạt giống tốt đối với các loại cây
trồng này.
156
26
tương đối ổn định27. Tuy nhiên, mục tiêu chính sách của trợ cấp trong lĩnh vực
này luôn thay đổi, với diện tương đối rộng, từ trợ cấp cho nghiên cứu và quản
lý ngành cho đến đào tạo lại ngư dân, hiện đại hóa đội thuyền, phát triển công
nghệ đánh bắt thân thiện với môi trường, phát triển vùng và hỗ trợ thu nhập...
1.2. Điều chỉnh một số công cụ của chính sách tài khóa để thúc
đẩy phát triển một số ngành công nghiệp
Trung Quốc rất chú trọng việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để thúc
đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến hướng về xuất khẩu, sử dụng
nhiều vốn và công nghệ cao, công nghệ mới, các ngành có giá trị gia tăng cao
để thúc đẩy xuất khẩu và đẩy mạnh công nghiệp hóa. Đây là chiến lược ưu
tiên hàng đầu của Trung Quốc cả trước và sau khi gia nhập WTO. Và Trung
Quốc cũng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến lược này thông qua
việc dành nhiều dạng ưu đãi như giảm các loại thuế liên quan tới doanh nghiệp28, giá cả, trợ giá về năng lượng, nước, đất... Nhờ đó, khu vực công
nghiệp chế biến, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng
vai trò mấu chốt, hiện đã chiếm hơn 90% tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của
Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ trung
bình và cao của Trung Quốc đã tăng lên rất đáng kể, đưa nước này trở thành
quốc gia hàng đầu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng công nghệ cao. Điều này có
phần quan trọng nhờ chính sách phát triển một số ngành công nghệ cao như
công nghệ phần mềm và mạch tích hợp (Hộp 1), được thực hiện trước và sau
khi gia nhập WTO.
Hộp 1: Các công cụ chính sách thúc đẩy công nghệ phần mềm và mạch tích hợp của Trung Quốc
I. Công nghệ phần mềm
1) Chính sách đầu tư và tài trợ vốn
a. Cơ chế đầu tư mạo hiểm trong ngành công nghiệp phần mềm được xây dựng nhằm khuyến khích đầu tư mạo hiểm trong ngành này. Các quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập, các công ty đầu tư mạo hiểm được Nhà nước hỗ trợ.
b. Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 10 (2001-2005), một phần vốn đầu tư từ ngân sách được phân bổ cho xây dựng kết cấu hạ tầng và cho các dự án công nghiệp phần mềm. Các công viên phần mềm
Mức trợ cấp mà Trung Quốc thông báo chính thức cho APEC năm 1997 là 55 triệu USD.
28
Chẳng hạn, mức thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cho các doanh nghiệp Trung Quốc là 33%, trong khi
đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể được hưởng mức thuế 15% hoặc 24% phụ thuộc vào nơi doanh nghiệp đầu tư.
157
27
được thành lập dưới sự bảo hộ của Nhà nước trong các khu vực nơi tập trung các trường đại học và các viện nghiên cứu khoa học.
c. Các doanh nghiệp sản xuất phần mềm không phụ thuộc hình thức sở hữu được tạo điều kiện
thuận lợi để niêm yết trên thị trường chứng khoán trong và ngoài nước.
2) Chính sách thuế
a. Nhà nước khuyến khích phát triển và sản xuất các sản phẩm phần mềm trên lãnh thổ Trung Quốc. Từ thời điểm luật có hiệu lực đến năm 2020, các doanh nghiệp sản xuất phần mềm và mạch tích hợp được hoàn trả thuế giá trị gia tăng (17%). Các doanh nghiệp phần mềm được miễn thuế thu nhập trong 2 năm đầu, bắt đầu từ năm hoạt động có lãi và được giảm 50% thuế trong 3 năm sau.
b. Trang thiết bị được các công ty phần mềm nhập khẩu cho bản thân công ty và để hỗ trợ công nghệ (kể cả phần mềm), phụ tùng, phụ kiện được nhập khẩu cùng trang thiết bị được miễn thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu.
c. Tiền lương và chi phí đào tạo người lao động của doanh nghiệp phần mềm được tính vào chi phí
của doanh nghiệp và được miễn nộp thuế thu nhập.
3) Chính sách công nghệ
Quỹ công nghệ quốc gia sẽ chủ yếu hỗ trợ việc nghiên cứu và phát triển các dạng công nghệ phần mềm, kể cả hệ điều hành, hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu, hệ thống an ninh thông tin. Các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ phần mềm được Nhà nước hỗ trợ chủ yếu dành cho các doanh nghiệp được lựa chọn thông qua đấu thầu.
4) Chính sách xuất khẩu
a. Việc xuất khẩu phần mềm được Ngân hàng Xuất, nhập khẩu Trung Quốc hỗ trợ tín dụng với lãi
suất ưu đãi.
b. Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm nhận Giấy chứng nhận Bảo đảm chất lượng GB/T19000-ISO9000. Chi phí để nhận giấy chứng nhận này được trợ cấp thông qua Quỹ Phát triển ngoại thương Trung ương
II. Công nghiệp mạch tích hợp
1) Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài. Chính sách thuế ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài trong các ngành năng lượng và truyền thông cũng được áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất mạch tích hợp với lượng vốn đầu tư trên 8 tỷ NDT. Các nguyên liệu đầu vào và hàng hóa nhập khẩu phục vụ cho sản xuất mạch tích hợp với các doanh nghiệp đầu tư trên 8 tỷ NDT sẽ được miễn thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng khi nhập khẩu. Các doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện này được phép gửi lợi nhuận sau thuế của mình vào tài khoản ngoại tệ của mình.
2) Thời gian khấu hao trang thiết bị cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp mạch
tích hợp là 3 năm.
3) Công nghệ và thiết bị sản xuất mạch tích hợp được miễn nộp thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia
tăng khi nhập khẩu.
Như vậy, để tranh thủ nguồn vốn và công nghệ từ nước ngoài, qua đó,
thúc đẩy phát triển ngành, công nghiệp hoá và hiện đại hoá, Trung Quốc đã
thực hiện các biện pháp ưu đãi khác nhau.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã cho thấy việc tạo lập một "sân chơi"
kinh doanh bình đẳng, minh bạch có ý nghĩa hơn trong thu hút đầu tư nước
ngoài một cách thực sự hiệu quả (Balasubramanyam 2001). Vấn đề quyết
158
định chính là năng lực thể chế (đặc biệt là khung khổ pháp lý phù hợp với
kinh tế thị trường và hội nhập cũng như khâu thực thi của bộ máy nhà nước),
môi trường kinh doanh thuận lợi và sự ổn định vĩ mô.
Trung Quốc cũng đã sử dụng các biện pháp hoàn thuế đế thúc đẩy xuất
khẩu hàng có giá trị gia tăng cao và công nghệ cao, đảm bảo không làm cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và cân đối cung - cầu trong nước. Để đạt
được điều này, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã có những điều chỉnh
trong việc sử dụng các biện pháp thuế, thuế quan và các biện pháp khác.
Mức hoàn thuế giá trị gia tăng đối với một số một số mặt hàng xuất
khẩu có nhiều điểm đáng lưu ý. Thứ nhất, mức hoàn thuế khi xuất khẩu trong nhiều trường hợp thấp hơn mức thuế giá trị gia tăng thực trả29, chủ yếu do
những vấn đề liên quan tới ngân sách (bù mức thu ngân sách bị sụt giảm do
trốn/lậu thuế). Mức chênh lệch giữa mức hoàn thuế và thực trả được coi là
thuế đánh vào xuất khẩu và là trợ cấp ẩn cho sản xuất các sản phẩm hạ nguồn.
Thứ hai, mức hoàn thuế giá trị gia tăng đã và đang được sử dụng trong một
thời kỳ dài nhằm đáp ứng các mục tiêu phát triển các ngành công nghiệp.
Chẳng hạn, Trung Quốc đã bãi bỏ việc hoàn thuế đối với xuất khẩu một số
mặt hàng như phôi thép, sắt để hạn chế xuất khẩu các mặt hàng này; hạ thấp
hoàn thuế đối với một số mặt hàng thép thành phẩm (kể từ 4/2005 bắt đầu bãi
bỏ), riêng mức hoàn thuế đối với hàng dệt, may xuất khẩu được hạ thấp hơn
kể từ tháng 1/2004 (vì lý do thu ngân sách – theo giải thích của chính quyền
Trung Quốc). Tuy nhiên, mức hoàn thuế lại tăng đối với một số sản phẩm
công nghệ thông tin (từ 11/2004) nhằm thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng này.
Như vậy, mức hoàn thuế giá trị gia tăng được sử dụng như một công cụ để
khuyến khích, hạn chế hay bảo đảm lượng cung sản xuất trong nước đối với
một số nhóm ngành hàng mục tiêu.
Đáng lưu ý là Trung Quốc cũng đã đánh thuế xuất khẩu vào rất nhiều
mặt hàng dệt may. Từ 1/1/2005, Trung Quốc đã đánh thuế xuất khẩu đối với
148 mặt hàng dệt may xuất khẩu (0,2-0,3 NDT/chiếc hay 0,5 NDT/kg). Theo
Bộ Thương mại Trung Quốc, cách đánh thuế chuyên biệt này có thể khuyến
159
29 Chẳng hạn, đối với các mặt hàng có mức thuế giá trị gia tăng 17% các mức hoàn thuế là 17% và 13%; đối với mức thuế giá trị gia tăng là 13%, các mức hoàn thuế là 11%, 8%, và 5%.
khích xuất khẩu hàng dệt có giá trị gia tăng cao. Số lượng mặt hàng chịu thuế
xuất khẩu thay đổi 3 lần trong năm 2005. Từ 1/1/2006, tất cả các mặt hàng dệt
may đều không chịu thuế xuất khẩu.
Thuế xuất khẩu (và một số hạn chế xuất khẩu khác) được coi là trợ cấp
ẩn cho việc sản xuất tại các ngành hạ nguồn bằng cách cung ứng chúng như
đầu vào với mức giá rẻ hơn giá thế giới, qua đó tạo điều kiện tăng giá trị gia
tăng trong nước. Các loại thuế này có thể góp phần gây nên tình trạng kém
hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực. Tuy vậy, lưu ý rằng, theo Nghị
định thư gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc duy trì quyền đánh thuế xuất
khẩu đối với một số mặt hàng nhằm cân đối cung - cầu trên thị trường trong nước và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp được coi là cần thiết30.
Mua sắm của Chính phủ được coi là một công cụ chính sách mới nhất
mà Chính phủ Trung Quốc sử dụng để thúc đẩy phát triển công nghệ. Do
Trung Quốc không ký kết Hiệp ước (nhiều bên) về Mua sắm của Chính phủ
(GPA) khi nước này gia nhập WTO nên việc sử dụng mua sắm của Chính phủ
như là một công cụ không bị cấm để Trung Quốc thúc đẩy công nghệ nói
chung và theo đuổi những ưu tiên về công nghệ, trong đó có công nghệ phần
mềm nói riêng là rất đáng tham khảo.
Kế hoạch tăng chi tiêu của Chính phủ, bao gồm chi cho xây dựng
Chính phủ điện tử và tin học hóa xã hội mở ra nhiều cơ hội thúc đẩy công
nghệ phần mềm phát triển thông qua mua sắm của Chính phủ. Trong năm
2001, mua sắm phần mềm của Chính phủ đã chiếm tới 14% tổng chi tiêu cho
hệ thống phần mềm vận hành, cơ sở dữ liệu..., hơn 22% chương trình phần
mềm đa kết nối và 13,5% phần mềm ứng dụng. Để thúc đẩy phát triển công
nghệ phần mềm thông qua mua sắm của Chính phủ, năm 2003 Quốc vụ viện
ra nghị quyết quy định tất cả các bộ ngành phải sử dụng phần mềm được sản
xuất trong nước mỗi khi đến thời hạn cần nâng cấp, phấn đấu nâng tỷ trọng sử
dụng phần mềm sản xuất trong nước từ 30% lên 100%. Ngoài mục đích nâng
Trung Quốc cho rằng không có bằng chứng xác đáng về việc thuế xuất khẩu dẫn tới sự chênh lệch về giá cả tại thị trường trong và ngoài nước, và như thế, không có việc trợ cấp ẩn cho sản xuất ở các ngành hạ nguồn.
160
30
cao công nghệ phần mềm Trung Quốc, phá vỡ thế độc quyền của hệ thống
điều hành Microsoft Windows và Microsoft Office, chính sách này còn nhằm
khuyến khích sử dụng hệ thống điều hành Linux và phần mềm ứng dụng văn
phòng Kingsoft’s WPS Office 2003 (cả hai đều của Trung Quốc).
Trong tương lai, một loạt kế hoạch mua sắm của Chính phủ, bao gồm
các sáng kiến đầy tham vọng về Chính phủ điện tử (bắt đầu thực hiện từ
2001), khuyến khích phần mềm giáo dục và chuẩn bị cho Thế vận hội
Olimpic "kỹ thuật số" 2008, sẽ tạo ra mức cầu rất lớn cho công nghệ phần
mềm của Trung Quốc, qua đó thúc đẩy ngành này phát triển mạnh mẽ hơn.
1.3. Điều chỉnh một số công cụ của chính sách tài khóa để phát triển
dịch vụ
Nhận thức được tầm quan trọng của dịch vụ trong thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và dư địa rộng rãi hơn cho các hoạt động trợ cấp trong lĩnh vực này so
với lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp, Trung Quốc đã dành phần đáng kể
trong trợ cấp ngành cho dịch vụ.
Trợ cấp cho lĩnh vực du lịch: Du lịch là lĩnh vực được Trung Quốc coi
là ngành có tiềm năng tăng trưởng lớn và vì thế được Chính phủ dành trợ cấp
để khuyến khích phát triển. Việc trợ cấp được thực hiện thông qua hỗ trợ đầu
tư khách sạn, hỗ trợ phát triển thị trường du lịch, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ
tầng du lịch. Ngoài ra, trợ cấp du lịch sinh thái và bảo tồn văn hoá truyền
thống cũng được chú trọng.
Trợ cấp cho lĩnh vực viễn thông: Trung Quốc coi phổ cập rộng rãi
dịch vụ viễn thông là một mục tiêu của chính sách công. Tuỳ thuộc vào mức
độ cạnh tranh trên thị trường, thời gian vận hành của mạng lưới và sự sẵn có
của các kết cấu hạ tầng, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp khác nhau để
đạt được mục tiêu phổ cập rộng rãi dịch vụ viễn thông như trợ cấp gián tiếp
cho khách hàng thông qua công ty, trợ cấp trực tiếp cho ngành viễn thông...
Gần đây, xu thế trợ cấp phổ cập toàn dân về dịch vụ viễn thông phát
triển rộng rãi toàn cầu (tại 60 nước phát triển và đang phát triển) thông qua
161
các Quỹ Phổ cập dịch vụ (Universal Service Funds - USF). Mô hình này được
khởi phát từ Chilê và Peru, mô hình USF được coi là tốt nhất ở các nước phát
triển và đang phát triển. Hiện nay, Trung Quốc cũng đang triển khai thực hiện
mô hình này. Ý tưởng chính của mô hình Quỹ Phổ cập dịch vụ là từ một quỹ
được hình thành chủ yếu từ nguồn trợ cấp của Chính phủ, từ phí dịch vụ kết
nối..., một tỷ lệ trợ cấp nhất định sẽ được dành cho doanh nghiệp thắng thầu
với mức giá yêu cầu trợ cấp thấp nhất trong cung ứng dịch vụ viễn thông.
Trợ cấp cho lĩnh vực tài chính – ngân hàng: Trợ cấp cho lĩnh vực tài
chính - ngân hàng cũng được Trung Quốc coi trọng. Dạng trợ cấp được sử
dụng phổ biến nhất là trợ giúp các định chế tài chính ốm yếu khỏi bị sa vào
khủng hoảng, trợ cứu các định chế tài chính có tình trạng nợ xấu quá lớn.
Để trợ cấp theo các mục tiêu kể trên, Trung Quốc sử dụng các công cụ
trợ cấp khác nhau, trong đó phổ biến nhất là các khuyến khích về thuế, góp
vốn cổ phần.
1.4. Điều chỉnh một số công cụ của chính sách tài khóa để thúc đẩy
xuất khẩu và khai thác thị trường nước ngoài
Điều chỉnh các khía cạnh tài khoá có liên quan tới thúc đây xuất khẩu
và khai thác thị trường được Trung Quốc quan tâm và nỗ lực thực hiện. Thúc
đẩy xuất khẩu được phép của WTO được thực hiện thông qua việc hỗ trợ xuất
khẩu, hỗ trợ tiếp cận các nguồn tín dụng.
Trung Quốc là một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu rất mạnh sau
khi trở thành thành viên WTO (Hình 1). Ngoài các yếu tố quan trọng tạo nên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất cao31 như chế độ tỷ giá, giá cả, mẫu mã...,
công tác xúc tiến xuất khẩu, hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng đóng vai trò rất quan
trọng cho kỳ tích này.
162
31 Trong giai đoạn 1998-2001, mức tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đạt mức trung bình là 10,31%/năm. Trong giai đoạn hậu WTO (2002-2005), mức tăng trưởng trung bình ước lên tới 30,5%/năm (tính toán dựa trên số liệu của ISEAD, 2006).
Tổng xuất khẩu hàng hoá
Nông sản
Máy móc, thiết bị
40 35 30 25 20 15 10 5 0
Hóa chất
Dệt
Giày dép
Quần áo
1998-2001
2002-2005
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu của ISEAD, 2006
Hình 1: Mức tăng trưởng trung bình của tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Trung Quốc trước và sau khi gia nhập WTO, %
Trung Quốc chính thức từ bỏ trợ cấp xuất khẩu trực tiếp từ ngân sách
nhà nước cho các mặt hàng công nghiệp từ 1/1/1991. Nước này cũng thông
báo chính thức với WTO rằng, từ 2002 trợ cấp xuất khẩu nông sản cũng đã
được xóa bỏ. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc thúc đẩy xuất khẩu thông
qua các biện pháp như tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu; hỗ
trợ dịch vụ thông tin công cộng; hỗ trợ các nhà xuất khẩu trong việc khai thác
thị trường quốc tế; tạo dựng các thể chế thúc đẩy thương mại thông qua phát
triển các mối quan hệ ngoại thương, tài trợ các cuộc triển lãm, hội chợ, cung
ứng thông tin và các dịch vụ tư vấn, trong đó có việc ấn hành thường xuyên
các hướng dẫn về giảm hay ngừng xuất khẩu hàng dệt, may tới các nước đưa
ra các hạn chế nhập khẩu các mặt hàng có liên quan. Việc hỗ trợ xuất khẩu
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng được đặc biệt chú trọng.
Trong năm 2003, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (EXIM
Bank) cung ứng 59 tỷ USD tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất
khẩu, tăng 37,8% so với năm trước; trong đó, 65,9% dành cho xuất khẩu hàng
điện cơ và điện tử, 38,8% dành cho xuất khẩu hàng công nghệ cao và công
163
nghệ mới và 18,3% cho thuê tàu, thuyền.
Chính phủ cũng hỗ trợ xuất khẩu cho một số mặt hàng dệt, may, nhất là
các mặt hàng dệt, may của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu, được bảo hiểm bởi SINOSURE. Ngoài ra, Trung Quốc
không yêu cầu kiểm hóa hàng xuất khẩu trước khi bốc lên tàu (PSI) mà chỉ
làm theo yêu cầu của các đối tác thương mại.
1.5. Điều chỉnh một số công cụ của chính sách tài khóa để thúc đẩy
cải cách cơ cấu
Những nỗ lực cải cách cơ cấu của Trung Quốc là đáng kể. Tuy nhiên,
các điều chỉnh trong cắt giảm trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước vẫn
chưa có tiến bộ rõ nét. Trung Quốc chưa ngừng trợ cấp cho một số doanh
nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ và các ưu đãi dựa trên kết quả hoạt động xuất
khẩu và hàm lượng nội địa hóa. Nước này vẫn chưa thông báo chính thức cho
WTO về các khoản trợ cấp của mình kể từ khi gia nhập WTO. Mặc dù các
khoản trợ cấp cho các khoản thua lỗ trong hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước đã được cắt giảm theo cam kết vào năm 2001, song các khoản lỗ do
kiểm soát giá cả và các chính sách khác của Chính phủ được Chính phủ bù
đắp. Tổng hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước làm
ăn thua lỗ đã giảm từ 30 tỷ NDT năm 2001 xuống còn gần 22 tỷ NDT năm
2004. Tuy nhiên, theo các khoản chi ngân sách hàng năm, dường như chi cho
đầu tư xây dựng cơ bản (tương đương 2,5% GDP năm 2004) và hỗ trợ nông
nghiệp (khoảng 1,7% GDP năm 2004) là những khoản chuyển giao trực tiếp
của Chính phủ trung ương. Trung Quốc cũng chi trợ cấp một khoản tương
đương 1% GDP cho các hoạt động đổi mới và khoa học - công nghệ. Ngoài
ra, năm 2003 Chính phủ trung ương cũng chi vượt dự toán ngân sách 416 tỷ
NDT (gần 3,5% GDP) chủ yếu cho các khoản “chi phí hoạt động và quản lý”
và ”đầu tư xây dựng cơ bản” (bảng 2). Các khoản vay ưu đãi do các ngân
hàng chính sách cho vay các dự án kết cấu hạ tầng, như đã thông báo trong
Nghị định thư gia nhập WTO, cũng được thực hiện.
Bảng 2: Một số khoản chuyển giao và trợ cấp từ NSNN trung ương, 2001-2004
2001
2002
2003
2004
Tổng chi NSNN, tỷ NDT
1. 890,26
2.205,32
2.464,00
2.848,69
30,04
25,96
22,64
21,79
Chuyển giao cho các DNNN làm ăn thua lỗ, tỷ NDT
164
Tỷ trọng trong tổng chi NSNN, %
1,60
1,20
0,90
0,80
Trợ giá, tỷ NDT
74,15 3,90
64,51 2,90
61,73 2,50
79,58 2,80
Tỷ trọng trong tổng chi NSNN, %
Chi đầu tư xây dựng cơ bản, tỷ NDT
251,06 13,30
314,29 14,30
342,93 13,90
343,75 12,10
Tỷ trọng trong tổng chi NSNN, %
2,27 0,12
1,90 0,09
1,20 0,05
1,24 0,04
Chi bổ sung cho chu chuyển vốn của các doanh nghiệpa, tỷ NDT Tỷ trọng trong tổng chi NSNN, %
145,67 7,70
158,08 7,20
175,45 7,10
235,79 8,30
Nông nghiệpb, tỷ NDT Tỷ trọng trong tổng chi NSNN, %
Các quỹ đổi mới, quỹ khoa học và công nghệ, tỷ NDT
99,16 5,20
96,84 4,40
109,30 4,40
124,39 4,40
Tỷ trọng trong tổng chi NSNN, %
Chi hỗ trợ các vùng kém phát triển, tỷ NDT
13,3 0,70
14,9 0,70
16,44 0,70
18,09 0,60
Tỷ trọng trong tổng chi NSNN, %
385,00
383,10
Chi ngoài ngân sách, tỷ NDT
415,64 Không có số liệu
Ghi chú:
a: Không rõ các khoản chi này dùng để làm gì.
b: Chi hỗ trợ sản xuất nông nghiệp và xây dựng cơ bản, các quỹ phát
triển khoa học - công nghệ, quỹ cứu trợ nông thôn và các quỹ khác.
Nguồn: WTO Secretariat (2006)
1.6. Điều chỉnh một số công cụ của chính sách tài khóa để giảm
thiểu các tác động tiêu cực của gia nhập WTO và bảo đảm công bằng xã
hội
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã điều chỉnh các công cụ của
chính sách tài khóa để giảm thiểu chênh lệch phát triển giữa các vùng lãnh
thổ, hỗ trợ những nhóm người dễ bị tổn thương, bao gồm nông dân và những
người lao động trong các khu vực, ngành hàng bị tác động tiêu cực trong quá
trình tự do hóa.
Trung Quốc là quốc gia đã đạt được mức tăng trưởng kinh tế rất
cao trong gần 30 năm qua, song mức tăng trưởng kinh tế lại không đồng đều
giữa các vùng lãnh thổ. Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng,
Trung Quốc đã triển khai một số chương trình phát triển vùng để hỗ trợ các
vùng nghèo hơn, nhất là vùng miền Tây và miền Trung, và gần đây là vùng
Đông Bắc. Các chương trình hỗ trợ ở các vùng nghèo tập trung vào việc nâng
cấp các lĩnh vực/ngành truyền thống, phát triển các ngành chế biến thực phẩm
và dịch vụ, và đa dạng hóa cơ cấu những ngành phát triển dựa vào tài nguyên.
165
Các phương thức khuyến khích và hỗ trợ phát triển bao gồm: miễn thuế giá trị
gia tăng cho việc mua một số mặt hàng máy móc, giảm thuế cho lĩnh vực
năng lượng, miễn thuế nông nghiệp và chuyển giao trợ cấp trực tiếp để phát
triển kết cấu hạ tầng (Hộp 2).
Hộp 2: Các chương trình phát triển vùng của Trung Quốc
Mặc dù Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng kinh tế rất cao trong gần 30 năm qua nhưng vẫn có những khác biệt trong thu nhập giữa các tỉnh, vùng. Người ta ước tính rằng các tỉnh ở miền Tây và miền Trung Trung Quốc có mức thu nhập dưới mức thu nhập của các nước đang phát triển, trong khi đó, thu nhập tại thành phố Thâm Quyến chỉ thấp hơn đôi chút so với thu nhập tại Hồng Kông. Tỷ lệ thất nghiệp tại các tỉnh miền Tây, miền Trung và miền Bắc cũng có xu hướng cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước.
Để giải quyết tình trạng mất cân đối này, Chính phủ Trung Quốc đưa ra Kế hoạch khuyến khích phát triển miền Tây để tăng cường cơ sở hạ tầng và giáo dục tại 12 tỉnh miền Tây. Cho đến nay, ước tính khoảng 600 tỷ NDT đã được chi tiêu vào các dự án cơ sở hạ tầng - một phần của Chương trình khuyến khích phát triển miền Tây.
Cuối năm 2003 Trung Quốc đã triển khai thực hiện Kế hoạch “Tái hồi Vùng Đông bắc và những cơ sở công nghiệp cũ khác”. Vùng Đông Bắc của Trung Quốc là nơi sản xuất ra phần lớn lượng khoáng sản, gỗ và các loại lương thực có hạt, song việc các doanh nghiệp nhà nước cơ cấu lại đáng kể trong những năm gần đây đã dẫn đến tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng. Kế hoạch tái hồi tập trung vào việc nâng cấp các ngành công nghiệp truyền thống, bao gồm các ngành khoáng sản và ngành công nghiệp nặng, phát triển các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và lĩnh vực cung cấp dịch vụ, đa dạng hoá cơ cấu ngành của các thành phố giàu tài nguyên. Tuy nhiên, trong khi Kế hoạch khuyến khích phát triển miền Tây là để tăng cường cơ sở hạ tầng, kế hoạch Tái hồi vùng Đông Bắc dường như chủ yếu nhằm tới giải quyết tình trạng thất nghiệp và hưu trí. Các khuyến khích chính bao gồm: chi tiêu trực tiếp 61 tỷ NDT cho việc phát triển cơ sở hạ tầng (so với 600 tỷ NDT ở miền Tây) và 10,8 tỷ NDT để chi trả lương hưu cho công nhân trước đây làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước; miễn trừ thuế giá trị gia tăng cho các hợp đồng mua hàng hoá vốn (trị giá 1,3 tỷ mỗi năm) đối với thiết bị sản xuất, ngành hoá dầu, ngành luyện kim, ngành đóng tàu, ngành chế tạo tự động, ngành chế biến sản phẩm nông nghiệp, các sản phẩm dành cho quân đội và các ngành công nghệ cao, công nghệ mới; giảm thuế trong lĩnh vực năng lượng và miễn thuế trong ngành nông nghiệp.
Trong năm 2004, Chính phủ đề xuất chiến lược thúc đẩy phát triển miền Đông; tiếp tục thực hiện Kế hoạch khuyến khích phát triển miền Tây nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển với miền Đông; Kế hoạch tái hồi cho miền Đông Bắc và các chính sách mục tiêu để khuyến khích sự “cất cánh” tại miền Trung. Trong những năm gần đây, Chính phủ trung ương cũng tăng chi ngân sách để hỗ trợ các vùng “cách mạng cũ”, những vùng dân tộc thiểu số, biên giới và vùng nghèo.
Nguồn: WTO Secretariat (2006) trích từ Tạp chí Kinh tế Trung Quốc hàng quý (2005), quý 2. Do sự gia tăng khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị, giữa
các vùng nông thôn phát triển và kém phát triển, gần đây Chính phủ Trung
Quốc đã có những điều chỉnh cơ bản theo hướng không đánh thuế nông
nghiệp, đồng thời tăng cường các biện pháp hỗ trợ, nâng cao thu nhập cho
nông dân, tăng sức cạnh tranh của nông sản.
Để khắc phục sự sụt giảm nguồn thu ngân sách từ thuế của các địa
phương và khả năng doãng rộng khoảng cách thu nhập giữa các vùng, Chính
phủ Trung Quốc đã tăng thêm 14 tỷ NDT trong chi chuyển giao năm 2005
phụ thêm cho mức chi 21,6 tỷ NDT năm 2004.
166
2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, việc sử dụng các công cụ chính sách tài khóa để nâng cao năng lực các ngành hàng, nhất là các ngành non trẻ sau khi gia nhập WTO
nhìn chung bị thu hẹp cả về mức độ, phạm vi và loại hình áp dụng, đòi hỏi có sự điều chỉnh linh hoạt, năng động và sáng tạo.
Để bảo hộ và phát triển các ngành hàng non trẻ và có tầm quan trọng
quốc gia, các nước đang phát triển và chuyển đổi vẫn có thể tiếp tục: (1) trợ cấp xuất khẩu trong thời gian chuyển tiếp thông qua việc sử dụng công cụ hỗ trợ xuất khẩu nếu thị phần của nước đó không vượt quá mức cho phép;
khuyến khích xuất khẩu thông qua các chương trình bảo hiểm và tín dụng xuất khẩu với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, ưu đãi thuế và thuế nhập khẩu, phát triển khu chế xuất; (2) trợ cấp phát triển ngành thay thế nhập khẩu
và bảo hộ ngành trong tình thế sản xuất trong nước bị đe dọa do bùng phát về hàng hóa nhập khẩu vẫn có thể được áp dụng song với mức độ hạn chế và khó
sử dụng; (3) dùng các khoản mua sắm của Chính phủ để hỗ trợ mục tiêu phát triển ngành, song phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cạnh tranh, công bằng và hiệu quả.
Việc sử dụng các công cụ bảo hộ, nhất là trợ cấp, ưu đãi thuế, khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... phải tính đến đầy đủ các đặc thù của quốc gia về mức độ cam kết, năng lực ngành hàng trong nước, chi phí và hiệu quả trong trung và dài hạn.
Trước những đòi hỏi của bối cảnh mới, các công cụ của chính sách tài khóa can thiệp phát triển ngành hàng có hiệu quả và được phép phải mang
tính toàn diện hơn là hướng tới một số ngành nhất định. Các trọng tâm chính sách nên chuyển sang cải thiện hiệu quả của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo chính sách tỷ giá thích hợp và tạo ra một môi trường khuyến khích đầu tư và đổi mới công nghệ.
Các nước thành viên có thể dùng trợ cấp, ưu đãi để hỗ trợ thúc đẩy
thương mại, cải cách cơ cấu, hỗ trợ trong nông nghiệp, ngư nghiệp, phát triển vùng theo các cam kết và quy định của WTO.
Thứ hai, dư địa cho hỗ trợ phát triển ngành dịch vụ, nhất là trợ cấp, là
tương đối rộng do các quy định về trợ cấp trong lĩnh vực này còn lỏng lẻo và có thể gây nhiều tranh cãi. Đây là vấn đề quan trọng do sự phát triển của khu vực công nghiệp chế biến phụ thuộc nhiều vào sự phát triển năng động và có
167
hiệu quả của khu vực dịch vụ. Thông thường, có thể sử dụng các biện pháp ưu
đãi thuế, ưu đãi đầu vào sản xuất và trợ cấp trực tiếp để thúc đẩy phát triển ngành du lịch, ngân hàng – tài chính, viễn thông. Trong lĩnh vực du lịch, có
thể thực hiện các biện pháp hỗ trợ đầu tư khách sạn, hỗ trợ phát triển thị trường du lịch, hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng du lịch, trợ cấp du lịch sinh thái và bảo tồn văn hoá truyền thống. Trong lĩnh vực viễn thông, có thể trợ
cấp thông qua hệ thống Quỹ Phổ cập dịch vụ (USF) với cơ chế hình thành quỹ chủ yếu từ nguồn trợ cấp của Chính phủ, từ phí dịch vụ kết nối..., trong đó, một tỷ lệ trợ cấp sẽ dành cho doanh nghiệp thắng thầu với mức giá yêu cầu
trợ cấp thấp nhất. Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, dạng trợ cấp được sử dụng phổ biến nhất là trợ giúp các định chế tài chính ốm yếu khỏi bị sa vào khủng hoảng, trợ cứu các định chế tài chính có tình trạng nợ xấu quá lớn...
Thứ ba, để đảm bảo công bằng xã hội và tạo dựng sự ủng hộ chính trị rộng rãi cho những cải cách tiếp theo, sự hỗ trợ những đối tượng dễ bị và bị
tổn thương trong quá trình tự do hóa là rất cần thiết. Để đảm bảo vấn đề này, chính phủ cần hỗ trợ (trợ cấp và tạo cơ chế khuyến khích) cho người lao động trong việc nâng cao tay nghề, đào tạo nghề mới, tìm kiếm việc làm và tạo
dựng hệ thống an sinh xã hội.
Thứ tư, kinh nghiệm rất thành công của Trung Quốc về tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu (trong khi cải cách thương mại, cắt bỏ trợ cấp còn cầm chừng) cho thấy để đảm bảo tự do hoá thương mại mang lại lợi ích thực sự cho tăng trưởng và xuất khẩu, ngoài việc nâng cao năng lực thể chế, việc đẩy mạnh cải cách cơ cấu, nhất là hỗ trợ và khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân
phát triển và bảo đảm rằng khu vực này được hưởng lợi từ tự do hoá thương mại, là rất cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2006), Cơ sở lí luận và thực tiễn cho việc điều chỉnh chính sách tài khóa Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Đề tài khoa học cấp bộ (chủ nhiệm đề tài: TS Lê Xuân Sang), Hà Nội.
2) Võ Trí Thành, Trịnh Quang Long, Nguyễn Tú Anh và Nguyễn Anh Dương (2006), So sánh việc mở cửa thị trường dịch vụ của Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 6, Hà Nội.
Summaries, April.
168
3) WTO Secretariate (2006), China’s Trade Policy Review, Secretariat And Government